+ Tứ thiền: Kiến thủ kiến (Ngũ lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ kiến): ... Không phải quả chấp là quả. Không phải là quả rốt ráo, họ cho đó là quả rốt ráo. Họ cho Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Xứ là Niết bàn, đó gọi là "không phải quả chấp là quả".
Tứ Thiền: Sơ thiền thiên, Nhị thiền thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên.
- Sơ thiền: Người tọa thiền lên đến cảnh giới Sơ thiền có thể không còn thở nữa, không có sự hô hấp. Ở cảnh giới này tuy không còn hô hấp nhưng vẫn có một niệm động, một khi phát sanh niệm động này thì hô hấp sẽ trở lại. Ðó là Sơ thiền.
- Nhị thiền là mạch ngừng lại, khi hô hấp không còn nữa thì mạch cũng ngừng luôn, giống như người chết. Tuy mạch ngừng đập nhưng không phải chết. Ðó là cảnh giới của Nhị thiền.
- Tam thiền là ngồi cho đến ý niệm cũng ngừng bặt. Ở Sơ thiền, Nhị thiền không còn hô hấp nữa, mạch cũng ngừng đập, nhưng lại còn ý niệm, đến Tam thiền thì ý niệm đó cũng không còn nữa vì thường ở trong định.
- Ðến Tứ thiền thì chỉ còn thức mà thôị. Tam thiền không có ý niệm là không có ý niệm thô, nhưng ý niệm tế vẫn còn; đến Tứ thiền cả ý niệm tế cũng dứt luôn. Cảnh giới này chỉ là con đường cần phải kinh qua của người tu Thiền, chớ không phải là quả chứng. Không chỉ nói Tứ thiền, mà ngay cả Tứ không xứ: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng chẳng qua chỉ là một thứ định, chớ không phải là quả chứng; nếu có chấp lấy (Kiến thủ) thì có thể cho cảnh giới này là Niết bàn và cho là chứng đắc quả A-la-hán thứ tư. Như Vô Văn Tỳ-kheo cho Tứ thiền là Tứ quả, đó là vì y không thông hiểu. Những Kiến hoặc...ở trên là Ngũ lợi sử.
Tư hoặc... là Ngũ độn sử. Ðộn tức là đến chậm chạp. Ngũ độn sử là tham, sân, si, mạn, nghi. Tại sao người ta có phiền não? - Ðó là vì có vô minh. Sau khi Vô minh sanh ra thì có Trần sa hoặc. Trần sa hoặc còn gọi là Vô minh hoặc, tức là không có hiểu biết đứng đắn. Tư hoặc cũng có thể gọi là Vô kiến hoặc, tại vì sau khi Vô minh sanh ra bèn có tham, nghĩ rằng phải có được cái gì đó, bèn sanh ra tâm tham, rồi sanh ra các thứ phiền não; phiền não một khi sanh ra, sẽ sanh ra tâm Sân; tâm Sân một khi sanh ra thì chỉ biết về mình mà chẳng biết có người khác. Vì chỉ biết có mình, cho nên khi tâm sân hận sanh ra thì muốn hạ thấp giá trị của người khác. Có thứ tâm này chính là ngu si, không phân biệt được phải quấy trắng đen, bất kể tất cả. Nguyên do chính là không biết đạo lý, ngay đến ngu si, phải quấy, cong ngay, đen trắng đều không nhận ra. Vì ngu si mới sanh ra tâm kiêu mạn. Vì có tâm kiêu mạn nên lại sanh ra nghi ngờ, không tin đạo lý do bất cứ ai giảng giải. Thiệt cũng không tin, giả càng không tin nữa. Sanh ra mọi thứ hoài nghi, đó chính là Tư hoặc. Do Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc mà thành các thứ Vô minh phiền não. Cho nên các thứ phiền não vô cùng vô tận không có lúc nào hết. Trước tình hình này người tu hành phải nương vào Tứ đế mà phát lời thệ nguyện: "Phiền não vô tận thệ dứt trừ". (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh A Di Đà)
+ Tứ thiền và Tứ không và Diệt thọ tưởng định trong Cửu thứ đệ định - Chín bậc thiền định:
Đức Phật bảo A-nan: Tất cả mọi người tu học trong thế gian, mặc dù nay đã được cửu thứ đệ định, nhưng không hết sạch mê lầm, thành bậc a-la-hán, đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt, lầm cho đó là tính chân thực. Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa thành thánh quả.
Giảng:
Đức Phật bảo A-nan
Đức Phật thấy mọi người trong pháp hội đều bồn chồn lo lắng, hoàn toàn mất khả năng tự chủ. Họ đều như kẻ mất hồn.
Giáo lý Khổng Mạnh nói về tâm như sau:
Tâm đến và đi không có thời gian nhất định
Chẳng biết ở nơi đâu.
Nên được gọi là tâm [60]
Quý vị không thể nào biết được giờ nào thì tâm móng khởi, khi nào thì tâm lặng yên và quý vị không biết được tâm đi đâu. Có lẽ vì vậy nên nó là tâm.
Tuy nhiên cái tâm mà Khổng Tử nói đến ở đây cũng chỉ là tâm vọng tưởng, không phải là chân tâm. Đã là chân tâm thì làm sao lại có ra vào? Nó chẳng có một lối ra hoặc cổng vào nào cả.
Mạnh Tử cũng nói:
"Khi người ta có con gà, con chó bị mất, người ta tìm mọi cách để bắt về lại biết có thể tìm lại được.
Nhưng khi thoạt mất tâm mình rồi thì họ chẳng biết phải tìm kiếm nơi đâu.”[61]
Ở đây cũng vậy, Mạnh Tử đang nói về cái tâm sinh khởi vọng tưởng suốt từ sáng tới tối, cái tâm chạy đông, chạy tây, chạy tới, chạy lui. Mạnh Tử hoàn toàn chưa biết cách chiêm nghiệm kỹ vào tâm của chính mình để có thể bảo tâm ấy đừng có chạy loanh quanh nhiều đường vô ích.
Tôi đã nói với quý vị rằng cái tâm vọng tưởng có thể khiến cho quý vị chỉ trong khoảng một niệm tưởng là quý vị có mặt ngay ở Nữu Ước mà không cần phải có tiền mua vé máy bay hay tàu lửa, quý vị có thể dạo chơi trên cầu Brooklyn mà không cần phải đáp xe buýt đến đó. Thực là một cách đi du lịch mà không tốn tiền, nhưng đó là một nỗ lực rất lớn lao của tâm.
Những lời nói về tâm của Mạnh Tử cũng là đề cập đến tâm thức phân biệt, cái tâm mà đã quá quen thuộc với A-nan. Tâm thức phân biệt thì vô thường, còn chân tâm thì thường hằng.
Tất cả mọi người tu học trong thế gian mặc dù nay đã được cửu thứ đệ định. Tức là Tứ thiền: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền và Tứ không, gồm:
– Không vô biên xứ
– Thức vô biên xứ
– Vô sở hữu xứ
– Phi phi tưởng xứ
cộng thêm Diệt thọ tưởng định, thành tất cả là chín món.
Nhưng không diệt hết sạch mê lầm hay thành bậc a-la-hán, đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt.
Tại sao khi họ tu tập đã đạt được chín bậc thiền định rồi mà không vượt qua, không chuyển hóa hết sạch mọi mê lầm và chứng được a-la-hán? Đó là vì họ dính mắc quá sâu vào vọng tưởng sinh diệt.
Lầm cho đó là tánh chân thực.
Họ phạm phải lỗi lầm cho vọng tưởng là chân thực.
Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa được thành Thánh quả.
Vào thời điểm Đức Phật giảng kinh này, A-nan đã chứng được sơ quả a-la-hán, nhưng tại sao Đức Phật lại nói mặc dù A-nan đã đạt quả vị ấy cùng với học vấn uyên thâm nhưng A-nan vẫn chưa hoàn toàn chứng được quả vị Thánh? Đức Phật có ý muốn nói rằng A-nan chưa chuyển hóa sạch hết được mọi mê lầm, A-nan chưa hết sạch hữu lậu. Đối với Tiểu thừa, sơ quả a-la-hán được xem như là dự vào bậc Thánh rồi nhưng với bồ-tát thừa thì chưa. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q1-Phần Kinh văn)
+ 390. LY ÁC BẤT THIỆN PHÁP - Chứng đắc Tứ thiền
Tôi đã đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, cho đến, chứng đắc Tứ thiền, thành tựu an trụ. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Trí, Phẩm 15, số 187)
+ Xem Quẻ là pháp môn của thế gian.
* Đức Phật không khuyến khích Phật tử học pháp gieo quẻ dịch này. Ai tu hành ăn chay trường giữ ngũ giới hành thập thiện thì nên tu học Pháp Gieo Mộc Luân của ngài Địa Tạng Bồ Tát, pháp này do chính đức Phật bảo ngài Địa Tạng Bồ Tát tuyên thuyết trong pháp hội giảng pháp của ngài.
Danh mục các chuyên mục Hỏi - Đáp gồm:
0.02. Hỏi: Chọn ngày giờ tốt đẹp - Xem để tìm thời điểm để khởi sự công việc quan trọng cho thuận Thiên cơ
0.03. Hỏi: Tìm Cát Tránh Hung - Là xem Quẻ để biết tiến trình công việc để giúp tìm Cát tránh Hung họa
1.01. Học nghiệp chọn đời - Là đánh giá khả năng/ Năng khiếu tiềm ẩn trong bạn theo lĩnh vực nào thuận nhất.
1.02. Nghiên Cứu Kinh Điển - Là đánh giá khả năng/ Năng khiếu tiềm ẩn trong bạn theo lĩnh vực nào thuận nhất
1.03. Mời Thầy dậy học - Là đánh giá năng lực và nhân duyên với quí Thầy bạn dự định học hỏi hay nhờ vả.
1.04. Thi Cử Học Nghiệp - Là đánh giá mức độ thành tựu trong học tập hay học nghề để lượng sức mình. Học tập các cấp học - Thi cử - Kỹ năng - Danh hiệu đạt được.
1.05. Hỏi: Cầu Công Danh - Là xem Thiên cơ về Nhân Duyên con đường Công Danh trong kiếp sống
1.06. Thi Tuyển dụng- Bổ nhiệm - Là xem khả năng đậu xin việc hay việc làm ổn định trong tương lai gần
1.07. Xem Ngày Đăng Quang - Là xem ngày nào thì nhận được văn bản và công bố chính thức
1.08. Hỏi: Thăng Quan – Bổ nhiệm - Là xem Thiên cơ về Nhân Duyên con đường Công Danh trong kiếp sống
1.09. Thuyên chuyển Chức Nghiệp - là xem kế hoặc thuyên chuyển trong thời gian gần
1.10. Tại nhiệm cát hung - Là xem Cát Hung vị trí hiện tại để sửa chữa sai lầm (Nếu có), hoặc an vui chấp nhận
và còn nhiều chuyên mục khác nữa, nếu dùng Quẻ có thể dự đoán. (Mời xem: Các chuyên mục dự đoán quẻ dịch)
+ Pháp tu bố thí hữu ích: Ứng dụng dự đoán quẻ dịch để Xu cát - Tị hung/ Pháp tìm cát tránh hung này nếu thực hành thuần thục với độ chính xác cao thì cũng giúp làm giảm lo lắng sợ hãi và mang lại bình an cho người xem đang gặp Hoạnh nghịch - Nghịch cảnh lo buồn.
* Ví dụ HT Tuyên Hóa bố thí An ủi: Loại bố thí thứ ba là vô úy thí. Bố thí vô úy là gì? Ðó là an ủi, khuyên giải những người đang gặp chuyện không may, tai bay họa gởi, hoặc những việc hoạnh nghịch. Hoạnh nghịch là gì? Ðó là những việc cướp bóc, hỏa tai, hoặc những việc sợ hãi kinh hoàng. Lúc người ta bị kinh hoàng sợ hãi, mình cho người ta sự an ủi giúp đỡ, khuyên giải: “Anh không nên sanh lòng lo lắng, bất cứ việc gì cũng có thể từ từ giải quyết!”; đó chính là vô úy thí vậy.
Hôm nọ có một người đánh mất ví tiền, tôi nhìn thấy vẻ mặt bà ta rất lo lắng, bà hỏi tôi rằng: “Ôi! Con đã làm mất túi tiền, làm sao bây giờ?”
Tôi bảo: “Bà không nên lo lắng, bà sẽ tìm lại được túi tiền.”
Kết quả lời tôi nói quả nhiên ứng nghiệm, bà về lại chỗ cũ và tìm được, vẫn chưa mất. Ðó cũng là vô úy thí - khiến người khác giảm nhẹ nỗi sợ hãi lo âu. Ở đây tôi chỉ đưa ra những vấn đề nhỏ để làm thí dụ, những vấn đề lớn thì rất nhiều; nhưng nếu chúng ta biết được những vấn đề nhỏ, thì những vấn đề lớn cũng dễ dàng hiểu rõ. (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm)
Mời xem thêm trang chuyên đề về xem quẻ dịch dự đoán cát hung
+ Tứ thiền trong Thiền định Ba la mật:
Thứ năm là thiền định Ba La Mật. Thiền định có Tứ thiền Bát định. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói tới “cửu thứ đệ định” (chín bậc thiền định liên tiếp); vậy đợi đến phần chánh văn tôi sẽ giảng cặn kẽ.
Tứ thiền Bát định là gì? Bây giờ tôi sẽ giới thiệu sơ lược về cảnh giới của Tứ thiền.
“Tứ thiền” gồm có sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.
Ở cảnh giới Sơ thiền, mạch tim của quý vị sẽ ngừng đập. (Trong giảng Kinh A Di Đà của HT Tuyên Hóa có ghi: Sơ thiền thì Hơi thở dừng lại - Nhị thiền thì Mạch tim ngừng đập? Vậy nên, dù cái gì dừng trước cũng phản ánh cảnh giới nhập định rất vi diệu mà cũng rất khó đạt).
Ðến trình độ Nhị thiền, hơi thở của quý vị sẽ đình chỉ; mũi không còn hơi thở ra vào. Phải chăng như vậy là chết rồi? Không phải, đó chẳng qua chỉ là một trạng thái, một thứ cảnh giới mà thôi.
Ðến Tam thiền thì thế nào? Bấy giờ, thức sẽ đoạn, niệm cũng đoạn luôn.
Cảnh giới của Sơ thiền là “ly sanh hỷ lạc địa.” Khi quý vị đạt đến cảnh giới hoan hỷ, mạch tim ngừng đập, nhưng tự mình cảm thấy vô cùng hoan hỷ, đó gọi là “ly sanh hỷ lạc địa.” Ở Sơ thiền, định lực vẫn chưa kiên cố.
Ðến Nhị thiền, tức là cảnh giới “sanh hỷ lạc địa,” thì định lực kiên cố hơn ở Sơ thiền nhiều. Bấy giờ, hơi thở đoạn dứt, hô hấp bên ngoài đoạn rồi, hô hấp bên trong sống dậy. Chúng ta đều là hô hấp bên ngoài, không hô hấp bên trong được. Nếu hô hấp bên trong được, thì quý vị sẽ không chết, muốn sống bao nhiêu năm cũng được; nhưng sống lâu rồi thì biến thành “quỷ giữ thây,” cứ lo canh giữ “túi da thúi” này, thì có ích dụng gì đâu!
Tam thiền gọi là “ly hỷ diệu lạc địa.” “Hỷ” cũng lìa bỏ. Người tu hành nếu nói happy, chính là hoan hỷ, rất hoan hỷ. Tam thiền gọi là “ly hỷ diệu lạc địa,” loại an lạc này vô cùng vi diệu. “Ly hỷ,” lìa bỏ cái hỷ, mà đắc được cảnh giới diệu lạc này.
Cảnh giới của Tứ thiền là “xả niệm thanh tịnh địa,” buông bỏ niệm thức. Nhập vào loại định thứ tư này mới là tiến một bước trên đường tu Ðạo. Thế nhưng, quý vị không nên cho rằng chứng được Tứ thiền là việc quá tuyệt vời, bởi đó chỉ là sơ bộ, mới bắt đầu tiến một bước về phía quả vị Phật, chứ vẫn chưa chứng được quả vị A la hán. Ðến lúc đó, tất cả những việc trên trời dưới đất quý vị đều có thể biết được, nhưng biết rồi cũng không nên chấp vào cảnh giới. Ðó là đại khái cảnh giới của Tứ thiền. Bát định nói đến thì rất dông dài, nay tạm thời chưa giảng đến. (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thiền Định: Thứ năm là thiền định Ba La Mật. Thiền định có Tứ thiền Bát định. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói tới “cửu thứ đệ định” (chín bậc thiền định liên tiếp). “Tứ thiền” gồm có sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa)
+ Tọa thiền định: Trong pháp môn nầy không có chỗ nào ngăn, không có sự gì cản. Ngoài đối với tất cả các điều lành dữ các cảnh giới, mà tâm chẳng khởi vọng niệm, gọi là tọa. Trong thấy tánh mình chẳng động, gọi là thiền."
Ngoài lìa tướng tức là thiền, trong không tán loạn tức là định. Ngoài thiền trong định, ấy là thiền định. Kinh Bồ Tát Giới nói: ‘Bổn tánh của mình vốn tự thanh tịnh.’
Chư Thiện tri thức! Trong niệm niệm tự mình thấy Bổn tánh thanh tịnh, tự mình tu, tự mình hành, tự mình thành Phật đạo."
Ngoài lìa tướng là thiền, trong không tán loạn là định. Nếu ngoài dính tướng, thì trong tâm tán loạn. Bằng ngoài lìa tướng, thì trong tâm không tán loạn. Bổn tánh vốn tự định, chỉ vì thấy cảnh rồi nghĩ cảnh, nên mới tán loạn. Nếu thấy các cảnh giới mà tâm chẳng tán loạn, thế mới là thiệt định.
Ngoài lìa tướng tức là thiền, trong không tán loạn tức là định. Ngoài thiền trong định, ấy là thiền định. Kinh Bồ Tát Giới nói: ‘Bổn tánh của mình vốn tự thanh tịnh.’
Chư Thiện tri thức! Trong niệm niệm tự mình thấy Bổn tánh thanh tịnh, tự mình tu, tự mình hành, tự mình thành Phật đạo......
Ngoài có thiền, trong có định, đó mới là thiền định chân chánh. Kinh Duy Ma Cật nói: "Lập tức hoát nhiên quán triệt, hiểu rõ bổn tâm của mình." Kinh Phạm Võng nói: "Tự tánh bổn lai của chúng ta vốn tự thanh tịnh." (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Thiền Định - Pháp tịch tĩnh:
.... Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Ông thường nghe Ta tuyên thuyết ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong Tỳ-nại-da. Đó là: Nhiếp tâm là giới, do Giới sanh Định, do Định phát Huệ. Đó gọi là Tam Vô-Lậu Học.”......
Việt dịch: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm, dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Vì sao? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn!” (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa)
+ Như Lai mở bày pháp tịch tĩnh: ... Vì chúng sinh thường bị ngu si che lấp, không tiếp thọ được sự giáo hóa của Phật, cho nên Phật vốn dùng bốn tâm vô lượng, vì chúng sinh mà thuyết pháp. Bốn tâm vô lượng là
1. Tâm từ vô lượng .
2. Tâm bi vô lượng.
3. Tâm hỷ vô lượng.
4. Tâm xả vô lượng.
Nói pháp gì ? Nói pháp tịch tĩnh - Tức là tu thiền định.
‘’ Là đèn trí huệ chiếu thế gian.’’ Phật dạy chúng sinh tu pháp tịch tĩnh, pháp tịch tĩnh tức là đèn đại trí huệ chiếu sáng khắp thế gian. Thiền tức là định, định khống chế được các vọng tưởng, đến cảnh giới một niệm không sinh thì, trí huệ quang hiện tiền sẽ khai ngộ. Cho nên nói tịch tĩnh là đèn trí huệ.
‘’ Diệu Nhãn biết được phương tiện này.’’ Vị Diệu Nghiêm Nhãn Thiên Vương minh bạch được pháp phương tiện này. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Thiền định: Tiếng Thiền Ba La Mật. "Thiền" là tiếng Phạn, gọi tắt từ chữ "Thiền Na" (Dhyana); Trung Hoa dịch là "tư duy tu," và cũng là "tịnh lự." Về Thiền Ðịnh thì có Tứ Thiền, Bát Ðịnh, và còn có Cửu Thứ Ðệ Ðịnh nữa. Ngoài ra, Thiền lại được phân làm Thế Gian Thiền, Xuất Thế Gian Thiền, và Xuất Thế Thượng Thượng Thiền.
Phàm phu chúng ta thì tu Thế Gian Thiền; trong đó bao gồm Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Vô Sắc Ðịnh. Về những cảnh giới này, tôi không giải thích cặn kẽ, bởi chỉ cần quý vị dụng công tu hành và tọa Thiền thì tự nhiên sẽ thấu rõ được tất cả. Còn Xuất Thế Thiền thì gồm có Tứ Thiền Bát Ðịnh, Bát Thắng Xứ, Bát Bội Xả.
Bây giờ tôi có giảng rõ những danh tướng này thì cũng chỉ làm cho quý vị thấy rối thêm mà thôi! Bởi vì ví dụ nói rằng món này ngon, nhưng nếu không ăn thử thì rốt cuộc quý vị cũng không biết được mùi vị của nó là ngon lành ra sao cả! Cho nên, bây giờ quý vị biết là có nhiều thứ khác nhau như Thế Gian Thiền, Xuất Thế Gian Thiền, Xuất Thế Gian Thượng Thượng Thiền, Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền... rồi; chỉ cần quý vị chịu siêng năng dụng công tu hành, sau này chắc chắn quý vị sẽ biết được "hương vị" của các thứ đó. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Học và hành - Hiểu biết và hành trì phải đi đôi với nhau
Giáo pháp mà tôi đương giảng đây vô cùng vi diệu; thế nhưng, pháp tuy vi diệu, vẫn cần phải có “diệu nhân” (người vi diệu) đến thỉnh mới được. Vị “diệu nhân” này chính là ông Ron Epstein, pháp danh Quả Dung.....
Bởi Pháp hội Lăng Nghiêm lần này là một Pháp hội gian khổ nhất, và cũng là một Pháp hội khó khăn nhất—mỗi ngày đều phải học từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối. Có người nói: “Ngay trong trường cũng không phải học nhiều như vậy!”
Nhưng trường học hiện nay của chúng ta là trường học “thoát ly sanh tử,” trường học “hành giải tương ứng.”() Giảng Kinh Lăng Nghiêm là “giải,” tọa thiền là “hành”— giải hành cùng tiến, sự hiểu biết và hành trì phải đi đôi với nhau; đó mới gọi là “chân đạp thực địa, thân hành thực tiễn,” một chút cũng không được cẩu thả dễ dãi, một chút cũng không được lừa dối chính mình. Nếu quý vị dối người thì cũng chính là dối mình. Nay tôi nói quý vị bị gạt rồi, thật ra đó không phải là lừa gạt. Ðó chẳng qua là để giúp quý vị giải quyết vấn đề sanh tử của chính mình, và đem lại lợi ích lớn lao nhất cho quý vị trong tương lai, cho nên quý vị nhất định phải “giải, hành” đồng thời tu tập.
Giảng về “giải hành cùng tiến,” nay tôi đưa ra một ví dụ: Có một người bị mù và một người bị liệt nọ sống chung với nhau, và trong nhà còn có vài người khác nữa để giúp đỡ họ. Một hôm, mọi người đều đi vắng - không phải họ đến Phật Giáo Giảng Ðường để học Kinh Lăng Nghiêm đâu, mà là đi câu cá, đi tắm biển, đi shopping, mua sắm…, nói chung là đi làm những việc mà người thế gian ưa thích - chỉ còn người mù và người liệt ở nhà. Ví như nếu nhà bị cháy, và nếu 2 ông liệt và mù kết hợp với nhau thì mọi việc an lành, họ có thể cõng nhau chạy ra khỏi nhà đang bị cháy ... => Một ví dụ ẩn dụ về Sự cát tường của việc Học và Hành cùng tiến sẽ rất tuyệt. Người sáng mắt/ Có trí tuệ chỉ đường, còn người ngu si mê muội thì hành động theo sự hiểu biết chánh đạo đã học được ... (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Trì giới / giữ giới:
– Chìa khóa (bí quyết) giữ Hài Hòa (Harmony) trong lời nói và hành động, bí quyết lập thăng bằng giữa nhân với quả, không để thêm cơ hội cho tác động của nghiệp.(TNVT, 177)
– Hạnh thứ nhì trong mười (có khi là sáu – ND) Ba–la–mật. Hài hòa hoàn toàn trong lời nói và hành động. (NGMTTL, 297)
+ Giữ giới - Trì giới với nghiệp chướng: ... Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám.
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng.
3. Tiêu trừ nghiệp chướng: Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. ... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối)
+ Thọ Giới - Giữ Giới - Nghiêm Trì Giới Luật: Lại nữa, còn có vấn đề thọ giới. Trong Pháp hội giảng giải và tu tập Kinh Thủ Lăng Nghiêm, còn có nhiều người phát nguyện thọ Năm giới, Tám giới của người cư sĩ tại gia, và thọ giới Bồ-tát. Những người thọ Năm giới, Tám giới của người cư sĩ tại gia được gọi là Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di, tức là Nam cư sĩ và Nữ cư sĩ đã thọ giới. Những ai đã thọ giới Bồ-tát rồi được gọi là một vị Bồ-tát. Vốn người xuất gia mới được thọ Bồ-tát giới, nhưng do ý nghĩa của Bồ-tát là những ai làm lợi cho mình và lợi cho người, nên cư sĩ tại gia cũng được thọ Bồ-tát giới. Thọ giới là điều cực kỳ quan trọng trong đạo Phật. Tất cả quý vị muốn thọ giới đừng nên bỏ lỡ dịp may. Quý vị có thể thọ một giới, hai giới, ba giới, bốn giới, năm giới, tám giới, mười giới trọng và 48 giới khinh. Cư sĩ không được thọ 10 giới vì đó là giới của Sa-di. Thọ nhận và giữ một giới điều được gọi là thọ bán tiểu giới. Nhận hai giới được gọi là thọ bán giới. Nhận ba giới được gọi là thọ quá bán giới. Nhận năm giới được gọi là thọ toàn giới.
Giới thứ nhất là không sát sinh; nhưng, nếu quý vị chưa thể dừng hẳn việc giết hại được, thì quý vị có thể thọ nhận giới thứ hai, là không được trộm cắp. Nếu quý vị vẫn còn thích uống rượu, như tôi có một vị đệ tử uống rượu; và nếu quý vị chưa muốn thọ giới thứ năm, là không được dùng rượu và những chất gây nghiện, thì quý vị có thể thọ nhận giới thứ nhất là không sát hại, giới thứ hai là không trộm cắp và giới thứ ba là không tà dâm. Giới thứ tư là không nói dối. Nếu quý vị thấy rằng, "Tôi còn thích nói đối, tôi chưa thể thọ giới không được nói dối," thì quý vị có thể nhận 4 giới: không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm và không uống rượu. Có khi quý vị nói rằng mình không thể ngừng sự giết hại được – đôi khi vô ý giết phải kiến, muỗi– nếu đã thọ giới rồi mà phạm phải thì về sau mang tội rất nặng. Thì quý vị có thể quyết định chưa thọ nhận riêng giới sát. Điều ấy tuỳ thuộc vào quý vị, nhưng đừng bỏ lỡ cơ hội thọ giới.
Tôi không ngại khi nói cho quý vị biết rằng ở Trung Hoa, nếu muốn thọ giới, quý vị phải trả 200 đô-la. Sao vậy? Vì ở đó có người xem việc ấy như là một dịch vụ buôn bán. Quý vị phải trả tiền. Tiền mà tôi nói đó không phải là để may giới y mà quý vị thấy các Phật tử đã thọ giới sử dụng. Hai trăm đô-la là chi phí phải trả cho pháp sư và chùa. Tuy vậy, tôi chẳng để ý đến chuyện đó. Quý vị có tiền hay không chẳng thành vấn đề. Thực vậy, với mọi người tham dự Pháp hội giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy, tôi đều tặng mỗi người một đôi giày la-hán. Nhưng đôi giày la-hán nầy không phải là để khuyến khích quý vị tu tập thành A-la-hán–chỉ lợi mình mà không lợi cho người–Nó có ý nghĩa nhắc nhở quý vị nhớ rằng pháp tu thành A-la-hán là con đường của hàng Tiểu thừa, và nhắc quý vị nên đi theo con đường Đại thừa. Quý vị nên mang đôi giày của A-la-hán và tu tập theo Bồ-tát hạnh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ Thọ giới và quyền truyền giới: Người tại gia học Phật sau khi quy y Tam Bảo, nếu muốn tiến thêm một bước, thì cần phải thọ Năm giới (Ngũ giới). Sau khi thọ Ngũ giới rồi, nếu muốn tiến tu thêm một bước, thì người tại gia có thể thọ Tám giới (Bát giới). Xa hơn nữa thì có Mười giới (Thập giới), tức là giới Sa di. Sau khi xuất gia và thọ Sa di giới, lại phải thọ 250 giới nếu là Tỳ kheo, hoặc 348 giới nếu là Tỳ kheo ni. Bồ tát cũng có giới của Bồ tát. Bồ tát giới gồm có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Mười giới trọng nếu phạm thì mang tội rất nặng, một khi đã phạm rồi thì không thể sám hối; phạm các giới khinh thì có thể sám hối, sửa đổi lỗi lầm.
Khi Phật sắp nhập Niết bàn, Tôn giả A Nan thỉnh Phật chỉ dạy bốn việc; một trong bốn việc đó là: “Khi Phật còn tại thế, chúng con lấy Phật làm Thầy, Phật là Sư phụ của chúng con. Thế sau khi Phật nhập Niết bàn, ai sẽ là Sư phụ của chúng con?”
Ðức Phật bèn nói với ngài A Nan rằng: “Sau khi ta nhập Niết bàn, các ông phải lấy Giới làm Thầy.”
Ðó là bảo người xuất gia, tất cả Tỳ kheo, Tỳ kheo ni phải “dĩ Giới vi Sư” (lấy Giới làm Thầy). Vì vậy, người tại gia nếu muốn cầu thọ giới, nhất định phải đến gặp vị xuất gia để cầu giới. Và, vị xuất gia truyền trao giới thể này nhất định phải là Tỳ kheo, bởi vì Tỳ kheo ni không được phép truyền giới. (Trong giới luật của Phật, không cho phép Tỳ kheo ni truyền giới.) Vậy, giới có rất nhiều loại như giới Sa di, giới Tỳ kheo, giới Bồ tát.
Chúng ta muốn tu Ðạo thì nhất định phải thọ giới. Nếu quý vị có thể giữ gìn giới thể thanh tịnh thì sẽ được xinh đẹp, ngời sáng như ngọc lưu ly, vô cùng trân quý. (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mai Hoa Dịch Số ghi: Khang Tiết Tiên sinh bảo: "Không động, không chiêm, không có cớ thì không toán; (Tổng hợp từ trang 1-20; Đã tóm lược sách đến trang 78 - Động tịnh luận)
- Dùng số mà biến thành Quái - Tiên thiên dịch số: Ví như thấy 2 con chim tranh đậu cành Mai ...; Bức Hoành phi chùa Mẫu Đơn ....; Phàm những cách toán biết như trên, gọi là Tiên Thiên dịch số, vì rằng trước biết được số mà chưa biết được quái, dùng số theo Tiên Thiên mà toán ra Quái gọi là Tiên Thiên (trang 1). Hoặc giải thích, lập Quẻ trước tiên dùng Số, từ số lập ra Quái -> Tiên thiên (tr, 21)
- Dùng Quái mà biến thành số - Hậu thiên dịch số: Quái cũng lấy số theo số Tiên Thiên để quy nạp ra. Ví như thấy ông già sắc mặt buồn (Ông già là Càn, ứng tiên thiên là số 1; Từ phương Tốn đến/ Tốn là số 5 tiên thiên; Kết hợp với giờ tính Hào động) => đoán biết ...; Thanh niên sắc mặt vui đoán biết ...
* Nguyên lý lấy Quẻ và hào động: Quẻ thượng lấy tổng chia 8; Quẻ Hạ lấy tổng cộng giờ chia 8; Hào động lấy tổng cả giờ chia 6;
* Nguyên lý lấy Quẻ Thể Dụng: Gieo theo thời gian luôn có Hào động. Cho lên lấy Quẻ có Hào động là Dụng (Dù là Quẻ thượng hay hạ). Ví như Quẻ đôi chim tranh đậu cành Mai, lấy Quẻ ngoại tĩnh là thể, Quẻ nội có Hào sơ động là Dụng; Quẻ vườn hoa Mẫu đơn thì Quẻ ngoại là Dụng vi có Hào 5 động; Người con hỏi lại Tiên sinh (Tr 16)
+ NGUYÊN LÝ ĐOÁN QUẺ DỊCH: Pháp thuật của Tâm dịch là do nơi Thể và Dụng rất thiết yếu.
- Ta lúc trẻ đọc sách Chu Dịch thường tham khảo Số học để hiểu được Tâm dịch là quái số, trước tiên học khởi quái để biết được cát hung, cũng như dùng gáo để đong lường mước biển, không biết đến chỗ cùng. Sau được Trí nhân truyền trao cho lệ luật Thể Dụng Tâm dịch mới đoán được linh thông. Nhờ sự công hiệu có thể chứng được. Như người Do Cơ bắn tên trăm phát trăm trúng. Được vậy, nên căn cứ vào Thể Dụng xét lý về Ngũ hành sinh khắc, tỵ hòa để giải bày sự cát hung, cùng biến, nguy nan, ấy là pháp thuật kỳ diệu của Dịch số. Đời mà có người có chí kiên thành nắm được cái thâm bí đó ít có lắm vậy.(MHDS, tr 48)
- Tiên Thiên Và Hậu Thiên Luận:
- Đoán quẻ về Tiên Thiên, tốt hay xấu chỉ luận về quái (quẻ) mà thôi, không cần dùng đến Hào từ của Dịch;
- Còn Hậu Thiên lại dùng Hào từ gồm luôn cả Quái từ mà đoán, tại sao thế? Vì Tiên Thiên trước được số chưa được quái (quẻ), như vậy là chưa có Dịch Thư(2) mà đã có dịch lý trước rồi, cho nên không cần dùng đến Dịch thư nữa, mà chỉ chuyên lấy quái (quẻ) mà đoán thôi.
=> Đoán Quẻ Hậu Thiên: Lấy số quẻ gia thêm số giờ (thời) tổng cộng để phân định ứng kỳ của sự việc, và phân ra bằng đi, ngồi, đứng, làm mau, chậm. Số quẻ gia thời đó, ứng được việc gần, mà chẳng có thể xét định việc xa hơn, nên phải hợp số cả Tiên Thiên và Hậu Thiên lại quyết đoán ứng kỳ vậy.
Vả lại phàm toán quẻ để đoán cát hung, mà thấy rõ sự lý, thì chỉ thấy được toàn quái, Thể dụng sinh khắc, với tham khảo luôn cả Dịch từ, vậy mới linh thông. (MHDS, tr 46)
+ ĐOÁN QUẺ CHỦ YẾU XEM THỂ DỤNG VÀ NỘI NGOẠI QUÁI: Thông thường là quan trọng nhất, trừ vài lĩnh vực không xét thể dụng, CHỈ XÉT nhiều ít sinh khắc nhau, VD: Quẻ về thời tiết, Quẻ nào chủ về nắng/ mưa; Ấy là cũng ẩn ý của ngoại quái ứng, cũng như chiêm Mai, thấy thiếu nữ bẻ trộm bông; chi êm Mẫu đơn thấy ngựa dẫm hủy; thấy Địa Phong Thăng có triệu ăn uống. ... nên KHÔNG xét Thể Dụng.
- Nội Quái là Quẻ Thế Ứng - Ngoại Quái là Tam yếu, thập ứng => Hợp lại mà đoán thì chuẩn xác
- Đại để cái thuyết Thể và Dụng là: Đoán Quẻ Thì phe Quẻ Dụng quan trọng nhất (Gồm cả Quẻ hỗ, biến của Quẻ thể nếu cùng phe với Quẻ Dụng). Thể quái làm chủ, Dụng quái làm sự việc, Hổ quái là trung gian của Sự và Thể, khắc ứng và Biến quái là kết quả của sự việc. Quái khí của Ứng thể thì phải khí thịnh, chớ không được khí suy. Nguyên lý Thể Dụng sinh khắc + Cái LÝ SỰ Ở ĐỜI để đoán;
* Sự sinh khắc của Quẻ Thể phải xem trong toàn quái để tìm Quẻ sinh hay khắc để phán đoán cát hung. Quẻ sinh khắc suy ra hướng sinh khắc; Quẻ Thể hay Dụng thì Quẻ hỗ và biến cũng tương ứng ...
- Xem Quẻ Thể vượng suy Cát Hung - Là chủ sự việc, là tĩnh: Thể Là đối tượng bị Quẻ Dụng tương tác mà bị biến động Cát Hung Họa Phúc. Xem Quẻ hỗ của Thể để biết tiến trình biến đổi của Quẻ Thể, rồi từ đó xem sự thành của Thể để biết sự vượng suy/ Sinh Khắc Cát hung với chính Quẻ Thể; Do cuối cùng Quẻ Thể không đổi tên, nên phải dùng suy đoán Sinh Khắc Quẻ Thể của Quẻ Dụng + Biến Quẻ Hỗ của Dụng + Quẻ biến Thành của Hỗ, kết hợp Quẻ Hỗ của Quẻ Thể để biết sinh khắc chế hóa Quẻ Hỗ + Quẻ biến của Quẻ Dụng => Lãnh giữ nhiều ít => Chính Quẻ Thể - Tuy tên Quẻ không đổi, nhưng do sự tương tác sinh khắc của Dụng mà thành ra Cát Hung Họa Phúc => Quẻ biến của Thể ít cần xét đến khi phán Cát Hung;
- Xem Quẻ Dụng vượng suy Cát Hung: Dụng là đối tượng tương tác với Quẻ Thể. Xem Quẻ Dụng, rồi xem Quẻ Hỗ của nó biến ra là gì để biết sự biến so với ban đầu của Quẻ Dụng. Rồi xem kết quả cuối cùng của Quẻ Dụng <=> Xét đoán tổng thể Quẻ Dụng so với Quẻ Dụng ban đầu, xem tiến triển sinh vượng ra sao, rồi xem Quẻ biến của Quẻ Dụng để biết kết quả của sự biến đổi của Quẻ Dụng là vượng hay suy => Suy ra sự Cát Hung với chính Quẻ Dụng;
- Tổng hợp sự Số - Lý để kết luận dự đoán: Thể Dụng của Quẻ chủ sinh khắc + Thể Dụng của Quẻ Hỗ sinh khắc với Thể Dụng gốc, xem lợi hại bên nào. Từ sự tổng hợp vượng suy sinh khắc đó sẽ đoán biết chủ thể vượng suy => Cát Hung, rồi xét Kết Quả cuối cung của Quẻ Thể Dụng ứng nghiệm thế nào, mức độ vượng suy sinh khắc để biết mức nặng nhẹ. Cần nhìn tổng thể 6 Quẻ để mô tả, ví như tượng hình (hình dáng, kích thước ....) để biết vật; Sinh Khắc để biết được mất, thương sát hay an ổn, có cứu; Âm Dương để biết trái phải...;
* TÙY BIẾN: Dịch lý cần biến thông, không cứng nhắc. VD: Quẻ biển tên chùa ở trên, Thể Dung ngang hòa là tốt, nhưng Chùa theo lý là thuần dương, nhưng Quẻ hỗ toàn âm (Khôn) -> Không thuận lẽ đời => Đoán là loạn âm. Như thế cần biến thông, bỏ qua Thể Dụng ngang hòa là Cát, mà đoán biết theo Lý tìm ra sự hung ẩn trong đó tại thời điểm; Hoặc ví như Dụng khắc Thể, nhưng Quẻ Hỗ + Biến đều sinh Thể => Trước Hung sau Cát => Đại để vẫn có thể Cát tường.(MHDS Tr, 47)
- Nguyên lý Đoán số phải gắn với suy Lý sự đời mới chuẩn: "Vì cớ gì cha bảo chắc là mượn búa?" Tiên sinhbèn giảng cho con nghe rằng: "Phàm đoán quẻ, tất phải xét đến lý, theo quẻ đoán cái búa cũng phải, đoán cái cày cũng phải. Còn lấy cái lý mà suy đoán cái búa thì đúng hơn. Vì đêm hôm là giờ nghĩ, ai lại mượn cái cày làm gì? Tất phải mượn búa để chẻ củi thì có lý hơn. Cho nên suy số, tất phải xét đến lý, đó l à thiết yếu nhất trong khoa chiêm bốc vậy. Cứ theo số mà suy lại không xét đến lý tất không có hiệu nghiệm nên chi học Số, phải ghi nhớ lấy đó làm đầu" (tr 17).
+LÝ SỰ Ở ĐỜI: Như xem Hoa thì sớm nở tối tàn - Sự việc nhanh; Việc đêm/ ngày đều có lý ở đó; Thời điểm nhanh chậm có thể xem đi, đứng, nằm, ngồi; Cây xanh tốt, trời không gió mà có cành cây tự nhiên rơi xuống ở hướng Đoài ...
+ VỀ ỨNG KỲ NHANH CHẬM:
- Đại phàm xem quẻ lấy Thể làm chủ, Hổ, Dụng, Biến đều là Ứng quái. Quẻ dụng rất là khẩn thiết, Hổ quái là thứ khẩn, Biến quái là thứ khẩn hơn. Vì cớ ấy mà gọi Dụng quái là ứng tức thời, Hổ quái là trung gian ứng, còn Biến quái là kết cục của sự chiêm quẻ.
- Xem toàn quẻ Chủ - Hỗ - Biến qua sinh khắc để dự chắc ứng nghiệm nhanh chậm. Thể Dụng sinh khắc, mà Hỗ và Biến tương tác hỗ trợ cho sự sinh khắc của Quẻ Thể - Dụng của Quẻ Chủ, theo đó mà biết nhanh chậm. VD: Quẻ Dụng sinh Thể, mà Quẻ Hỗ và Biến lợi cho Quẻ dụng thì sự sinh Thể càng mạnh, ngược lại thì mất lực, suy yếu sự sinh Thể...(MHDS, tr 90)
- Xét tính lực sinh khắc thì cần xem kỹ nguồn gốc của Quẻ sinh khắc, trên cơ sở Quẻ chủ biến ra Hỗ và biến (MHDS, tr 41)
- Xem trên dưới, trong ngoài, khinh trọng mà ước đoán mức sinh khắc xem Cát Hung
- Xem chất liệu, mạnh yếu, hợp lý không. Ví như Thổ ẩm sinh kim, gạch ngói không sinh nổi; Cây cành khô gặp Hỏa thì cháy, cây tươi thì gặp Hỏa có cát có hung.
- Xem Thế Dụng động tĩnh mà quy nạp vạn vật hợp lý. Ví như Càn tĩnh thì ứng vật dụng tĩnh, động thì ứng người và con vật, hay vật do người di chuyển. Quẻ tĩnh thì ứng vật tĩnh, đứng yên, không nên chọn tương ứng là con vật.
- Tọa đoan nghĩa là lấy chỗ ta ngồi là chánh giữa, bát vị bày ra tám phương, xem quẻ quyết đoán , không nên cố chấp ý kiến của mình, mà phải theo cái ứng ngồi làm đích xác.
+ VÍ DỤ ỨNG DỤNG trong sách:
- Xem Bảng tên chùa thấy loạn <=> Sửa Tên Chùa => Bình an trở lại (Tr, 20)
+
+ Siêu thức (the super-conscious): (Xem thêm “Vô thức và Siêu thức”)
Bằng thuật ngữ siêu thức, tôi muốn nói đến các tiềm lực (potency) và tri thức sẵn sàng để dùng nhưng cho đến nay chưa được tiếp xúc (uncontacted) và chưa được nhận ra, và do đó không có công dụng ngay trước mắt. Đó là minh triết, bác ái và chủ nghĩa lý tưởng trừu tượng vốn có sẵn trong bản chất của linh hồn, nhưng chưa và chưa bao giờ là một phần của trang cụ có thể sử dụng được. Sau rốt, tất cả các khả năng này sẽ được con người nhận biết và sử dụng . Trong “Yoga điển tắc”, Patanjali gọi các tiềm lực và các nhận thức này bằng danh xưng lý thú là “đám mây các điều khả tri” (“the raincloud of knowable things”). “Các điều khả tri” này sau rốt sẽ rơi vào trạng thái hữu thức của bản chất con người và trở thành một phần bất khả phân của khí cụ trí tuệ của y. Sau cùng, khi sự tiến hóa tiếp diễn và các kỷ nguyên trôi qua, chúng sẽ rơi vào trạng thái tiềm thức (subconscious aspect) của bản chất con người, khi năng lực để hiểu được siêu thức của con người tăng lên. Tôi có thể minh giải điểm này rõ hơn nếu tôi nêu ra rằng giống như bản chất bản năng ngày nay phần lớn đang nằm trong lĩnh vực tiềm thức, cũng thế, vào đúng lúc, phần trí tuệ của con người (mà hiện nay con người ngày càng biết đến nó) sẽ được sắp vào một vị trí tương tự và sẽ rơi xuống dưới ngưỡng ý thức. Bấy giờ, trực giác sẽ chiếm chỗ của nó. Đối với đa số con người, việc tự do sử dụng trực giác không thể xảy ra, bởi vì điều đó nằm trong lĩnh vực siêu thức.(TLHNM–II, 440–441)
+ Xem thêm Tooltip: Siêu ý thức
A- THEO ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
1. Nhất Nguyên hay Thái Cực: Các Hành hỗn độn, dung hợp
2. Chia Âm Dương: Duyên khởi chia Âm Dương và phân chia mãi vô cùng tận, thiên biến vạn hóa biến thành muôn vật, muôn việc vi diệu
3. Theo Ngũ hành: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. (Câu hỏi đặt ra là Tứ tượng sao thành 5 Hành?)
B- THEO MINH TRIẾT MỚI:
+ Tứ đại (vật chất vi tử, yếu tố): X. Yếu tố, Hợp tố.
+ Tứ đại - Dĩ thái: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ đại: Phong (Air), Hỏa (Fire), Thủy (Water), Địa (Earth). (LVLCK, 43)
+ Ngũ Đại có 5 yếu tố: Dĩ thái (Ether), Không khí/ Phong (Air), Lửa (Fire), Nước (Water), và Đất (Earth) .(ASCLH, 157)
+ Dĩ thái - "Thuộc về Sao": Khi tiếp xúc với thế giới dĩ-thái, ấn tượng đầu tiên được mang lại luôn luôn là một ánh sáng đầy sao, sự sáng chói, sự nhấp nháy (LVHLT, 221)
+ Tattva hay vật chất vi tử của một cõi là kết quả của một vùng xoáy được tạo nên bởi tattva của cõi kế trên trong các tập hợp thô trược nhất của cõi cao kế trên đó, vùng xoáy này được tạo ra bởi một tanmatra mới phát ra từ Isvara, các yếu tố:
1. Cõi Tối Đại Niết Bàn (cõi thứ 7). Do sự phối hợp của vật chất vi tử Cõi này mà 6 phân cảnh thấp của cảnh giới (cõi) cao nhất được tạo thành.
2. Cõi Đại Niết Bàn, vật chất vi tử của cảnh giới Đại Niết Bàn, cõi thứ 6.
3. Tiên thiên khí (Tiên thiên khí đại, tương ứng với Dĩ thái (ether), âm thanh (sound), vật chất vi tử của cõi Niết Bàn (Nirvana), cõi thứ năm.
4. Yếu tố Phong (Phong đại), tương ứng với Không Khí (Air), xúc giác (Touch), vật chất vi tử của cõi thứ tư, cõi Bồ Đề. (Bất cứ sự động nào đều phát sinh gió)
5. Yếu tố Hỏa (Hỏa đại), tương ứng với Lửa, ánh sáng, vật chất vi tử của cõi thứ ba, cõi trí (Manasic plane).
6. Yếu tố Thủy (Thủy đại), tương ứng với Nước, Vị giác (taste), vật chất vi tử của cõi thứ hai, cõi cảm dục
7. Yếu tố Thổ (Thổ đại), tương ứng với Đất, khứu giác (smell), vi tử hồng trần của cõi thứ nhất, cõi trần.(LVLCK, 56, 94)
- Xem thêm Hợp tố, Tattvas hay là các biến phân của lực dưới 7 hình thức của chúng. (ASCLH, 153)
- Xem thêm: Sách Ngũ hành - Minh Triết mới
+ Thứ tự tính vật chất tăng dần thì bảy nguyên tố vũ trụ là (Thư của Chơn sư, 90):
1. Akāsha (đôi khi được gọi là Aether),
2. Thủy (Linh hồn Thế giới hoặc chính xác hơn là phần cao của nó),
3. Dĩ thái (thường được viết là Aether),
4. Tứ Đại: Lửa, Gió, Nước (phần thấp của Linh hồn Thế giới) và Đất.
- Ba nguyên tố đầu tiên tương ứng với ba cõi cao, “vô sắc giới” (aroupa) của vũ trụ,
- Bốn nguyên tố cuối cùng đôi khi được gọi là 4 phương chính (Giáo Lý Bí Truyền I, 359, 501) tương ứng với bốn cõi thấp, “sắc giới” (roupa). Nguồn: Tại đây
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não. (LVHLT, 251)
+ Theo truyền thống Ấn Độ thì 4 đại: Địa, Thủy. Hỏa, Phong là 4 đặc tính của vật chất hay là các nhân tố tạo thành vật chất. Trong đó:
- Địa Đại là nguyên tố rắn chắc có tác dụng giữ gìn tức là tính bền của vật chất.
- Thủy Đại là nguyên tố ướt mềm có tác dụng nhóm họp tức là tính dính ướt của vật chất.
- Hỏa Đại là nguyên tố phóng quang ấm áp có tác dụng thiêu cháy, nấu chín tức là tính ấm áp của vật chất.
- Phong Đại là nguyên tố bốc hơi rung chuyển có tác dụng lay động tức là tính động của vật chất.
Như vậy bất kỳ một thứ nào nếu không có 4 tính năng lớn đó thì không phải là vật chất, nghĩa là mọi thứ vật chất đều phải dựa vào sự tương tác tương tùy của bốn đặc tính này mà tồn tại.
C- THEO PHẬT GIÁO: Trong Phật giáo có các thuyết: Tứ đại, Ngũ đại, Lục đại, Thất đại...
I. Tứ Đại:
1. Tứ Đại Nương Tựa Vào Nhau Để Tồn Tại: Con Người nương tựa vào lúa gạo để tồn tại - Lúa gạo dựa vào Đất - Đất dựa vào Nước - Nước dựa vào Gió - Gió Tựa vào Hư Không - Hư Không không có nương tựa, nhưng Nhân (nhờ Mặt Trời và Mặt Trăng) mà mà có Hư Không - Mặt trời, mặt trăng nương vào Tứ thiên vương mà tồn tại - Tứ Thiên vương nương vào Tam thập tam thiên mà tồn tại .... Nhẫn Nhục dựa vào Niết Bàn tồn tại - Niết Bàn không dựa vào đâu mà tồn Tại - Là Pháp Tối Thắng Của Đức Phật. (Nguồn: mục 777- Xem tại đây)
2. Hiểu đơn giản: Gồm đất (địa đại), nước (thủy đại), gió (phong đại) và lửa (hỏa đại). Bốn đại là bốn yếu tố căn bản tạo thành vật chất:
- Đất tượng trưng cho độ rắn chắc, kết cấu của vật chất;
- Nước tượng trưng cho độ ẩm, sự hiện diện của nước trong vật chất;
- Lửa tượng trưng cho nhiệt năng hay năng lượng, hàm chứa trong mọi vật chất;
- Gió tượng trưng cho sự chuyển động, thay đổi của các phân tử cấu thành vật chất.
Tất cả vật chất trong vũ trụ đều do bốn tính chất này hòa hợp theo những tỷ lệ khác nhau mà tạo thành. Thân thể con người cũng không phải ngoại lệ, nên được gọi là thân tứ đại. Vì thân tứ đại là cội nguồn của mọi sự tham dục, khổ não nên người tu tập nên quán xét nó như là con rắn độc (tứ đại độc xà).(Nguồn: Định nghĩa tứ đại)
+ Đại khái các tông Câu xá, Duy thức... đều áp dụng thuyết Tứ đại, vì tứ đại tạo ra tất cả các sắc pháp nên gọi là Tứ đại chủng hay Năng tạo tứ đại.
3. Hiểu toàn diện: Bốn yếu tố lớn hình thành nên vật chất, gồm:
(1) Địa Đại (Đất), bản chất của nó cứng rắn, có tác dụng bảo trì.
(2) Thủy Đại (Nước), bản chất ẩm ướt, có tác dụng thâu nhiếp, tập trung.
(3) Hỏa Đại (Lửa), bản chất ấm nóng, có tác dụng thành thục.
(4) Phong Đại (Gió), bản chất động, có tác dụng sinh trưởng.
- Khi 4 yếu tố này hợp lại thì có thể hình thành nên vạn vật, và khi chúng tan biến thì vạn vật cũng theo đó mà tiêu diệt; cho nên, không có người sáng tạo ra vạn vật, mà cũng chẳng có vạn vật nào được sáng tạo cả; vì vậy, trong Phật Giáo vẫn thường dùng từ “Tứ Đại giai không, bốn đại đều không thật có).
- Bốn yếu tố lớn cấu tạo nên vạn hữu. Bốn thành phần nầy không tách rời nhau mà liên quan chặt chẽ lẫn nhau. Tuy nhiên, thành phần nầy có thể có ưu thế hơn thành phần kia. Chúng luôn thay đổi chứ không bao giờ đứng yên một chỗ trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Theo Phật giáo thì vật chất chỉ tồn tại được trong khoảng thời gian của 17 chập tư tưởng, trong khi các khoa học gia thì cho rằng vật chất chỉ chịu đựng được 10 phần 27 của một giây. Nói gì thì nói, thân thể của chúng ta chỉ là tạm bợ, chỉ do nơi tứ đại hòa hợp giả tạm lại mà hành, nên một khi chết đi rồi thì thân tan về cát bụi, các chất nước thì từ từ khô cạn để trả về cho thủy đại, hơi nóng tắt mất, và hơi thở hoàn lại cho gió. Chừng đó thì thần thức sẽ phải theo các nghiệp lực đã gây tạo lúc còn sanh tiền mà chuyển vào trong sáu nẻo, cải hình, đổi xác, tiếp tục luân hồi không dứt.
II- Ngũ Đại - Cũng gọi Ngũ đại chủng. Chỉ cho 5 nguyên tố của thể tính rộng lớn, sinh thành ra muôn pháp, tức là: Đất, nước, lửa, gió và không. Tính chất của 5 nguyên tố này theo thứ tự là cứng, ướt, nóng, động và vô ngại; tác dụng là giữ gìn, thu nhiếp, thành thục, tăng trưởng, không ngăn ngại.
+ Mật giáo thì chuyên sử dụng thuyết Ngũ đại, Lục đại (đất, nước, lửa, gió, không, thức), chủ trương tứ đại không lìa tâm đại, cho rằng tâm và sắc tuy khác nhưng thể tính của chúng thì chẳng phải 2; Rằng lục đại sinh ra 4 pháp thân, 3 thế gian, là thể tính của pháp giới, cũng chính là thân Tam ma da của Như lai. Chủng tử của Ngũ đại theo thứ tự là: (a), (va), (ra), (ha) và (kha). Nghĩa của các chữ chủng tử này theo thứ tự là: Vốn chẳng sinh (a), lìa lời nói (va), lìa bụi nhơ (ra), lìa nhân duyên (ha), như hư không (kha).
- Lại đem Ngũ đại phối với ngũ phương(vị), ngũ sắc, ngũ Phật, ngũ môn và ngũ trí.
- Còn nói về hình tướng và màu sắc thì đất là hình vuông màu vàng; nước hình tròn màu trắng; lửa hình tam giác màu đỏ; gió hình bán nguyệt màu đen; không là hình bảo châu màu xanh. Đây chính là tháp Ngũ luân hình Tam muội da của đức Đại nhật Như lai. [Nguồn: X. kinh Vô lượng thọ Q.hạ; phẩm A xà lê chân thực trí trong kinh Đại nhật Q.5....).
2. Ngũ Đại. Chỉ cho 5 đại: Không đại, phong đại, hỏa đại, thủy đại và địa đại do Ngũ duy sinh ra.
- Ngũ duy chỉ cho: Thanh duy, xúc duy, sắc duy, vị duy và hương duy.
Đây là 1 khoa trong 25 đế do học phái Số luận thành lập. Cứ theo Thành duy thức luận thuật kí, thì có thuyết cho rằng từ Ngã mạn sinh ra 10 pháp là ngũ đại và ngũ duy; nhưng cũng có thuyết chủ trương Ngã mạn chỉ sinh ra ngũ duy, còn ngũ duy thì sinh ra ngũ đại, và ngũ đại sinh ra 11 căn.
- Phật giáo thì cho tứ đại và ngũ đại là năng tạo, còn học phái Số luận thì chủ trương ngũ đại là sở tạo. Đây là sự sai khác căn bản giữa 2 bên. [ Nguồn: X. kinh Niết bàn Q.35, 36 (bản Nam)....(Nguồn: Định nghĩa ngũ đại)
III- Các Đại - Đức Phật dậy: Trong không gian vũ trụ này thì chỗ nào cũng có 7 Đại là địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại (nhận thức tư duy, phân biệt). Các Đại ở Thái Cực/ Nhất Nguyên/ Như Lai Tạng thì Tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau, vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến). Khi biến hiện (Lưỡng Nghi/ Âm Dương) thì thành vạn vật.
* Năm Đại: Nếu hư không đó, tánh tròn đầy trùm khắp, vốn không lay động, thì nên biết hiện tiền hư không và bốn thứ đất, nước, lửa, gió đều gọi là năm đại, tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sinh không diệt.
* Sáu Đại: Nếu như các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tính viên mãn cùng khắp, vốn không lay động; thì nên biết kiến đại cùng với hư không vô biên chẳng dao động và bốn thứ vốn lay động là địa, thủy, hỏa, phong, gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng, vốn không sinh không diệt.
* Bảy Đại: Nếu thức ấy chẳng do đâu sinh ra, thì nên biết tác dụng của kiến văn giác tri vốn vắng lặng cùng khắp, tánh chẳng do đâu mà có. Hai đại ấy (thức đại và kiến đại) cùng với hư không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại, tánh thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q3- HT Tuyên Hóa)
IV- Hư Không không ngăn ngại các Đại (Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3, 4)
+ Phú-lâu-na, ông lại hỏi rằng, tánh của đất nước lửa gió vốn là viên dung, trùm khắp pháp giới, ông nghi tại sao tánh lửa và tánh nước lại không xâm đoạt lẫn nhau. Ông lại nêu ra hư không và đất liền trùm khắp pháp giới, lẽ ra nó không dung hợp với nhau.
- Phú-lâu-na, ví như hư không, bản thể của nó không phải là các tướng, nhưng hư không chẳng ngăn ngại các tướng ấy hiện hữu trong nó.
- Vì sao như vậy? Phú-lâu-na, nơi hư không kia khi mặt trời lên thì chiếu sáng, khi mây kéo đến thì u ám, khi gió chuyển thì lay động, khi trời tạnh thì trong xanh, khi khí ngưng tụ thì mờ đục, bụi nổi thì mù, nước lắng trong thì phản chiếu.
- Ý ông nghĩ sao? Các tướng hữu vi ở mỗi nơi khác nhau, nhân các cái kia mà sanh, hay nhân hư không mà có? Phú-lâu-na, nếu như nhân các thứ kia mà sanh ra, thì khi mặt trời lên, mặt trời đã chiếu sáng, mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời. Làm sao giữa hư không còn thấy mặt trời tròn? Nếu là hư không sáng, thì hư không phải tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây mù, lại không sinh ra sáng chói?
Nên biết cái sáng đó, chẳng phải là mặt trời, chẳng phải là hư không, cũng chẳng khác hư không và mặt trời. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q3- HT Tuyên Hóa)
V- GIẢNG VỀ CÁC ĐẠI TRONG KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - HT TUYÊN HÓA
... HT Tuyên Hóa giảng: Bấy giờ Thế tôn bảo A-nan rằng: "Trước đây ông nhàm chán các pháp Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác. Ông đã quyết định từ bỏ hẳn pháp môn của hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, giáo pháp của thời A-hàm, phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Nay ông phát tâm siêng năng cầu đạo giác ngộ Vô thượng, đạo giác ngộ của hàng Bồ-tát. Do vậy, nên nay là lúc Như Lai sẽ chỉ bày cho ông Đệ nhất nghĩa đế. Như Lai sẽ giảng giải pháp môn Thật tướng cho ông. Đệ nhất nghĩa đế chính là Thật tướng.
Có ba loại Thật tướng:
1. Thật tướng vô tướng (vô tướng chi thật tướng): Không còn các tướng hư vọng, tất cả đều là Nhất chân bình đẳng thật tướng. Tức là Không Như Lai tạng.
2. Thật tướng của cái chẳng phải vô tướng (vô bất tướng chi thật tướng): Hoàn toàn đều chẳng phải là vô tướng, chỉ tuỳ duyên mà biến hiện ra tất cả tướng.
3. Thật tướng của chẳng tướng nào không phải là tướng (vô tướng vô bất tướng chi thật tướng): Tức là Không bất không Như Lai tạng. Cũng gọi là diệu hữu chân không, chân không diệu hữu.
Dù kể là ba, nhưng chỉ là một, đó là Thật tướng. Thật tướng là không có tướng, nhưng chẳng có gì là không có tướng cả. Đó là lý chân không diệu hữu, diệu hữu chân không. Nếu cứu xét đến tột cùng, thì vốn chẳng có tướng gì cả. Nhưng trong cái chẳng có tướng gì ấy lại có tất cả. Thế nên chẳng có tướng gì chính là chân không, và có tất cả là diệu hữu.
Đạo lý đang được giảng giải sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới.
+ TÁNH CỦA CÁC ĐẠI
ĐỊA ĐẠI - HẠT Vi Trần: Trích Phật dậy ngài A Nan về Tứ Đại.
...Ông hãy quán sát tính của địa đại, thô làm thành đất liền, tế làm thành vi trần, cho đến lân hư trần;
Giảng:
"Ông hãy quán sát tính của địa đại. A-nan, nay Như Lai sẽ giảng giải về địa đại cho ông, ông phải nên lắng lòng nghe cho kỹ. Đừng có như trước đây, ông chỉ chú tâm học hiểu mà không công phu trau dồi định lực. Nay Như Lai sẽ chỉ cho ông giáo lý nền tảng để công phu trau dồi định lực.
Hãy xem xét đặc tính của đất: Thành phần thô làm thành đất liền." 'Thô' có nghĩa sự cấu thành của đất phần lớn là do sự hợp lại của nhiều hạt bụi. "Tế làm thành vi trần." Phần nhỏ nhất làm thành vi trần, cho đến lân hư trần.
'Lân hư trần' là những phân tử nhỏ nhất, mắt thường không thấy được. Nó là bạn láng giềng với hư không, ít nhiều gì nó chính là hư không, chứ không là gì khác. Có người nói rằng: "Khi ánh sáng mặt trời chiếu qua khe cửa, tôi thấy những hạt vi trần nhảy múa trong hư không."Đó là cái mà quý vị thấy được. Còn lân hư trần thì không thể nhìn thấy được bằng mắt thường.
Nếu chẻ chất cực vi có sắc tướng vô cùng nhỏ ra làm bảy phần. Càng chẻ lân hư trần đó nữa, thì thật là tánh hư không.
Giảng:
"Nếu chẻ chất cực vi có sắc tướng vô cùng nhỏ."
Lân hư trần là vật vô cùng nhỏ, là vật vi tế nhất trong tất cả mọi vật có hình tướng. Chẳng có gì nhỏ hơn nó nữa. Vậy mà, nó vẫn có một sắc tướng để có thể nhận biết được. "Ra làm bảy phần. Nếu quý vị chia chẻ những lân hư trần này ra làm bảy phần, thì nó rất gần với hư không. Càng chẻ lân hư trần đó nữa, thì thật là tánh hư không. Những lân hư trần đã được chia chẻ ra nầy thực sự là hư không." Cơ bản là không có sắc tướng. Đây là giải thích về tánh của địa đại.
HỎA ĐẠI:
A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh.....
Ông vẫn chưa biết trong Như Lai tạng, tánh lửa là chơn không, tánh không là chơn hỏa, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
A-nan, ông không biết rằng người đời cầm kính ở đâu, thì ở đó phát ra lửa. Khắp pháp giới cầm kính, thì cả pháp giới có lửa. Lửa khắp cả thế gian, đâu có nơi chốn.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
VỀ THỦY ĐẠI: A-nan, tánh nước không nhất định (Bất định), khi dừng khi chảy không chừng. Như trong thành Thất-la-phiệt, các vị tiên Ca-tỳ-la, Chước-ca-la và các vị đại huyễn thuật Bát-đầu-ma, Ha-tát-đa v.v... muốn cầu tinh thái âm để pha chế huyễn dược. Các vị ấy vào đêm trăng sáng, tay cầm hạt châu phương chư, hứng nước từ mặt trăng.
Giảng
Vào đêm trăng rằm, tức ngày 15 âm lịch mỗi tháng, họ đem dụng cụ ra–một cái mâm vuông và hạt châu phương chư[Xem 88]–để hứng nước tinh khiết. Khi hạt châu phương chư hướng về mặt trăng đêm rằm, nước sẽ tiết ra và đọng lại trong mâm. Nước nầy sẽ dùng để pha chế huyễn dược. Chắc là không có được nhiều.....
Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh nước là chơn không, tánh không là chơn thủy, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
"Giảng: Chúng ta hoàn toàn có đủ trong tâm chúng ta địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại , và thức đại là bảy đại. Nhưng, mặc dù chúng hiện hữu ở đó, chúng vẫn không lẫn lộn hay ngăn ngại nhau....Trong chơn không là diệu hữu. Nếu ông quán chiếu sâu vào đạo lý nầy, ông sẽ liễu ngộ được. Nói cách khác, khi chính ông có công phu[89]– khi ông tọa thiền, có được định lực và phát khởi trí huệ, thì ông sẽ nhận ra rằng đạo lý được giảng giải trong kinh nầy là chân thật, không hư ngụy. Nhưng, đạo lý nầy không dễ gì hiểu được nếu ông cố dò tìm nó bằng thức tâm."
Một nơi cầm hạt châu thì nơi ấy nước chảy ra, khắp nơi cầm hạt châu thì khắp pháp giới có nước. Thủy đại sinh khắp thế gian, đâu có nơi chốn.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
VỀ PHONG ĐẠI: A-nan, phong đại không có tự thể, động tĩnh không chừng. Như ông thường chỉnh y để vào trong đại chúng, khi chéo y tăng-già-lê chạm vào người bên cạnh, thì có chút gió phất qua mặt người kia....
A-nan, như một mình ông, khẽ động y áo, gió liền phát ra. Khắp pháp giới đều phất thì cả pháp giới đều có gió. Tánh gió đầy khắp thế gian, đâu có nơi chốn.
Ông vẫn chưa biết trong Như Lai tạng, tánh gió là chơn không, tánh không là chơn phong, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
A-nan, như một mình ông, khẽ động y áo, gió liền phát ra. Khắp pháp giới đều phất thì cả pháp giới đều có gió. Tánh gió đầy khắp thế gian, đâu có nơi chốn.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
VỀ KHÔNG ĐẠI - TÁNH HƯ KHÔNG:
A-nan, tánh hư không chẳng có hình, nhân sắc tướng mà hiển bày.
Giảng:
"Trước khi ông đào đất, thì hư không vẫn chẳng ít đi. Hư không vẫn bao hàm trong đất."....
Ông nên suy xét thật kỹ, quán sát thật sâu.....
Nếu hư không đó, tánh tròn đầy trùm khắp, vốn không lay động, thì nên biết hiện tiền hư không và bốn thứ đất, nước, lửa, gió đều gọi là năm đại, tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sinh không diệt.....
Ông hoàn toàn không biết, trong Như Lai tạng, tánh giác là chơn không, tánh không là chơn giác, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới......
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
VỀ KIẾN GIÁC:
A-nan, kiến giác không tự nhận thức được,[98] nhân các thứ sắc không mà hiện hữu. Như ông nay đang ở trong vườn Kỳ-đà, sớm mai thấy sáng, chiều hôm thấy tối, nếu lúc nửa đêm, trăng tròn thì sáng, không trăng thì tối. Những tướng sáng tối ấy, do cái thấy phân tích ra được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ MỤC HỎI ĐÁP VỀ TỨ ĐẠI (Phật dậy trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Đại chủng là bốn giới - Tức đất, nước, lửa, gió - Khả năng và tính chất
- Luận: Đất, nước, gió, lửa có khả năng gìn giữ các tính chất riêng của mình và các sắc pháp được chúng tạo thành (sở tạo sắc) vì thế gọi là giới. Bốn giới này được gọi là đại chủng vì chúng làm chỗ dựa cho tất cả các loại sắc khác và vì thế tính vốn rộng khắp; hoặc vì đại chủng đất, nước, v.v., tập trung với số lượng lớn trong đất, nước, v.v., hoặc vì khởi đủ các loại tác dụng lớn.
- Hoạt động tương tác - Tạo nghiêp: Theo thứ tự trên, chúng có thể trì giữ, kết dính (nhiếp), làm chín và làm tăng trưởng.
* Địa giới có khả năng trì giữ, thủy giới có khả năng kết dính, hỏa giới có khả năng làm chín và phong giới có khả năng làm tăng trưởng. Nói “tăng trưởng” có nghĩa là làm chuyển dịch (prasarpaṇa) và lớn mạnh (vṛddhi).
* Các tính chất bốn Đại: cứng, ướt, nóng, động. Địa giới có tính cứng, thủy giới có tính ướt, hỏa giới có tính nóng, và phong giới có tính động. Nhờ vào tính chất động này mới có thể dẫn dắt đại chủng tạo sắc tương tục sinh khởi đến các chỗ khác; cũng giống như trường hợp của ánh đèn. Phẩm Loại Túc luận (Prakaranas) và Khế kinh (Garbhāvakrantisūtra) nói: Phong giới là gì? - Là tính chất nhẹ nhàng (laghutva). Phẩm Loại Túc luận lại nói: “Tính chất nhẹ nhàng này là một sở tạo sắc.” Vì thế một pháp có tính động (iraṇātmaka) là phong giới; tức ở đây đã dựa vào tác dụng động (iraṇātmakrman) để trình bày thể tính cho nên mới nói là “nhẹ nhàng”.
+ Những khác biệt giữa đại chủng đất, v.v., là gì? Đáp: Đất là hiển và hình; Tùy thế tục đặt tên; Nước, lửa cũng như vậy; Gió là phong giới cũng là hiển sắc và hình sắc.
- Luận: Địa là màu sắc và hình dạng, có sắc xứ làm thể, thế gian gọi như vậy. Bởi vì thế gian khi chỉ cho nhau xem đất đều dựa vào màu sắc và hình dạng của nó. Về nước và lửa cũng vậy.
+ Gió chính là phong giới, vì thế gian căn cứ vào sự chuyển động để gọi tên hoặc giống như trường hợp của đất v.v. Ở đây cũng tùy theo cách gọi của thế gian nên gọi là gió. Gió chính là màu sắc và hình dạng vì thế mới nói là “cũng như vậy” (diệc dĩ). Như thế gian nói “gió đen,” “gió xoáy,” v.v., tức đã dựa vào màu sắc và hình dạng để chỉ cho gió. (Nguồn: (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q3- HT Tuyên Hóa)
Xem thêm: Phần 1: Phân biệt các Giới: Đại chủng bốn giới - Tứ đại: Đất nước Gió Lửa
Xem thêm: Các Đại Dựa Vào Nhau Để Tồn Tại
+ Ý Thức - Hiểu Biết của Tâm Thức: Định đề này xuất phát từ định đề 1 (Trong 4 định đề). Sự sống Duy Nhất, biểu lộ qua vật chất, tạo ra một yếu tố thứ 3 đó là ý thức. Ý thức này, vốn dĩ là kết quả của sự hợp nhất của hai cực tinh thần và vật chất, là linh hồn của vạn vật; nó thấm nhuần mọi chất liệu hay năng lượng biểu lộ ra bên ngoài; nó nằm dưới mọi hình hài, dù cho đó là hình hài của đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là một nguyên tử, hay là hình hài của con người, một hành tinh hay một Thượng Đế. Đây là Tự Định Thuyết (LVHLT, 8–10).
+ Tâm thức và ngã thức: Chính ở trên cõi trần mà tâm thức, trước tiên phải tiến hóa thành Ngã thức. (KCVTT, 93)
+ Ý thức/ tâm thức: nghĩa đen là “những gì giúp cho chúng ta biết”. (TTCNT, 99)
+ Ba cung hoàng đạo (với tâm thức) có liên quan chặt chẽ nhưng lại tách biệt và khác nhau nhiều về hiệu quả (CTHNM, 352).
1. Cancer - Ý thức quần chúng- hiểu biết bản năng
2. Leo - Ý thức tự tri - hiểu biết do sáng suốt
3. Aquarius - Ý thức tập thể - hiểu biết do trực giác
+ Phật giáo dạy ta 3 mức độ của sự hiểu biết:
- Hiểu biết qua sách vở, danh từ
- Hiểu biết qua sự suy nghĩ, luận giải
- Hiểu biết nhờ sự thâm nhập thấu đạt thực trạng của sự vật. Trí tuệ trực giác nầy chỉ có được khi tâm đã được gột rửa mọi bợn nhơ, lậu hoặc (Nguồn)
+ Ý thức (Thức thứ sáu) và độc đầu ý thức "Tu thiền định - Trong định đạt được Cảnh giới “thanh thản lặng lẽ” bên trong ấy chỉ là hoạt dụng của thức thứ sáu (ý thức) và tâm thức. Chữ pháp ở trong chánh văn có nghĩa là đối tượng của tâm ý thức. Đến đây thì năm thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) biến mất. Cái nghe và cái thấy không còn hướng ra bên ngoài nữa, tánh ngửi và tánh nếm không còn tác động đến quý vị nữa và thân xác không còn bị ảnh hưởng bởi sự xúc chạm nữa. Thức thứ sáu (ý thức) lúc này được gọi là “độc đầu ý thức.” Nó chỉ hoạt động khi năm thức trước ngưng hoạt động.) là cái dễ dàng dẫn quý vị đến con đường tẻ và sự sai lầm".
Độc đầu ý thức có bốn loại/ Trạng thái:
Tán vị độc đầu: Tâm tán loạn hàng ngày thường sinh khởi niệm phân biệt.
Cuồng loạn độc đầu: Khi có người phát điên và nói năng cuồng loạn. Thức thứ sáu (ý thức) của họ lúc ấy ở trong sự cuồng loạn, họ không điều khiển ý thức được nữa.
Mộng trung độc đầu: Khi trong mơ, quý vị thấy mọi thứ với đầy đủ sắc màu và những vật kỳ dị là độc đầu ý thức đang tác yêu tác quái.
Định trung độc đầu: Đó là trạng thái “thanh thản lặng lẽ” mà Kinh văn đang nói đến (Trong định đạt được). Trong đó cái thấy, nghe, hiểu, biết hoàn toàn vắng bặt, nhưng định trung độc đầu ý thức vẫn đang còn hoạt dụng. (Nguồn: mục 95 HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Mỗi sinh vật là 1 với Tâm thức Vũ trụ: Ví như 1 sóng biển là một với đại dương (nguồn)
Xem: TH về Tâm Thức và trình độ khác nhau
Xem: Tổng hợp chi tiết về tâm thức
+ Ý Thức - Ý hay biết - Tánh giác tri - Thức thứ sáu:
A-nan, như ông đã rõ, ý căn và pháp trần làm duyên, sinh ra ý thức.
Thức nầy lại nhân ý căn sinh ra, lấy ý căn làm giới; hay nhân pháp trần sinh ra, lấy pháp trần làm giới?
A-nan, nếu nhân ý căn sinh ra, thì trong ý ông, chắc phải có chỗ suy nghĩ mới phát ra được ý ông. Nếu không có các pháp trần, thì ý căn không sinh ra cái gì cả. Rời các pháp trần, ý căn sẽ không có hình tướng, lấy ý thức dùng vào việc gì?
Giảng:
".... Nếu không có các pháp trần– 'pháp trần' ở đây có nghĩa là các niệm tưởng hiện tiền của ông. Nếu ông không suy nghĩ, nếu ông không khởi một niệm tưởng nào, thì ý căn không sinh ra cái gì cả. Trong ý căn của ông, sẽ không có pháp trần–không có những niệm tưởng. Không có pháp sinh khởi. "Rời các pháp trần, ý căn sẽ không có hình tướng." vì pháp trần do duyên với ý căn mà có.
Lại nữa, thức tâm của ông với các thứ suy nghĩ, cùng tánh rõ biết phân biệt, là đồng hay khác? Nếu đồng với ý căn thì nó tức là ý căn. Sao lại do ý căn sinh ra? Nếu khác, không đồng như ý căn, thì lẽ ra sẽ không biết gì. Nếu không biết gì, thì làm sao mà do ý căn sinh ra? Còn nếu có biết, thì làm sao lại phân ra ý thức và ý căn? Chỉ hai tính đồng và khác mà không thành, thì làm sao lập giới?
Nếu nhân pháp trần sinh ra, thì các pháp trong thế gian, không ngoài năm trần. Ông hãy xem các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng trạng rõ ràng đối với năm căn, đều không thuộc về phần thu nhiếp của ý căn.
Nếu ý thức của ông thực là nương nơi pháp trần mà sinh ra, thì nay ông xét kỹ từng pháp xem nó có hình trạng như thế nào.
Nếu rời hẳn các tướng sắc không, động tĩnh, thông tắc, hợp ly, sinh diệt thì rốt ráo không có một pháp nào cả.
Nếu sinh thì các pháp sắc không cũng đều sinh ra, nếu diệt thì các pháp sắc không cũng đều diệt. Các nguyên nhân đã không thành thì cái thức do nó sinh ra sẽ có hình tướng gì? Tướng trạng đã không có thì giới do đâu mà sinh?
Vậy nên biết rằng ý căn, pháp trần làm duyên, sinh ra giới ý thức. Cả ba chỗ đều không. Cả ba giới của ý căn, pháp trần, và ý thức đều vốn không phải tính nhân duyên, cũng không phải tính tự nhiên.
Giảng: Thế thì chúng là gì? Ý căn, pháp trần, và ý thức được sinh ra khi ý căn và pháp trần tiếp xúc nhau đều là lưu xuất từ tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng.
* Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết bên trong. Thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược vào trong. Dòng nầy đi vào nơi không cùng tận, gọi là cái ý hay biết.
Giảng giải: Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và ý thức, thức thứ 6, chính là tính giác tri của ý căn. “Trước khi dòng nầy đến được nơi chốn,” đây cũng gọi là dòng nghịch lưu. Dòng nghịch lưu là gì? Khi tâm phan duyên khởi niệm, như thể có một dòng chảy ngược lại vào tâm thức. Trước khi dòng chảy ngược nầy đến nhập vào thức thứ 8 (cập địa), thì có phát sinh một cái ý hay biết (tánh giác tri) ở trong thức thứ 6.
Cái ý hay biết nầy rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia thì rốt ráo không có tự thể.
Thật vậy, A-nan nên biết cái ý căn hay biết như thế, không phải do từ nơi thức, nơi ngủ mà đến; không phải do nơi sinh, nơi diệt mà có; không phải từ nơi ý căn mà ra, cũng không phải từ nơi hư không mà phát sinh.
Vì cớ sao? Nếu (cái ý căn hay biết) từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ? Nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hoá như không có rồi, thì lấy cái gì mà biết là diệt? Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh sẽ không có cái diệt, lấy cái gì mà biết là sinh?
Nếu do ý căn[9] mà ra, thì hai tướng thức ngủ thay đổi lẫn nhau nơi thân thể, nếu rời hai tướng ấy ra, thì cái ý hay biết ấy cũng đồng như hoa đốm giữa hư không, rốt ráo không có tự tánh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Thức thứ sáu - Ý thức: Niệm tưởng của tâm chính là thức thứ sáu, đúng thật là ‘ly khai pháp trần thì sẽ không hiện hữu, không có tự thể.’ Sao lại đem cái tâm hoàn toàn đoạn diệt ấy làm nhân tu hành, mà mong đạt được bảy quả vị thường trụ của Như Lai? Làm sao có thể dùng nó để tu chứng bảy quả vị thường trú, Bồ-đề, Niết-bàn, Chân như Phật tính, Am-ma-la thức, Không Như Lai tạng, Đại viên cảnh trí được ?
* Sáu căn đi với sáu trần, giữa hai cái nầy phát sinh ra sáu thức. Thức được định nghĩa như là tạo nên sự phân biệt, Căn (các giác quan) được xem là nơi các chức năng tri giác ấy phát xuất, nó có gốc là thân thể của chúng ta. Trần (cảnh, đối tượng) được định nghĩa như vậy là do phẩm tính của nó là nhiễm ô. Nó không thanh tịnh, nên nó làm nhiễm ô bản tính của sáu căn. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì các thức sinh khởi.
Ý căn đi chung với pháp trần. Năm trần vừa mới đề cập ở trên– sắc, thanh, hương, vị, xúc– tất cả đều có sắc tướng biểu hiện.[43] Chỉ có pháp trần là không được biểu hiện qua sắc tướng.[44] Chúng không có một biểu tượng nào. Tuy nhiên, khi ý căn tiếp xúc với pháp trần, tâm ý liền khởi phân biệt, thế nên trong tâm cũng có ý thức phân biệt. Đó là cách mà sáu căn tiếp xúc với sáu trần khiến sinh khởi sáu thức và cùng lập nên 18 giới. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương V)
+ Nguồn gốc Thức thứ 6: Trích Đức Phật dạy ngài A Nan:... Để bắt đầu, tánh Như Lai tạng vốn chẳng phải là đối tượng của sinh diệt. Nhưng tối tăm mê muội làm thành hư không (hối muội vi không). Ngay tại đó mà vô minh sinh khởi. Thế nên, mặc dù tánh Như Lai tạng là bất sinh bất diệt, nhưng nương nơi chân mà khởi vọng, theo đó là tâm đối tượng của sinh diệt phát sinh – đó là thức. Thức nầy phân thành thức thứ sáu, thức thứ 7 , và thức thứ 8. Nhưng cội nguồn của thức thứ 8 vốn phát khởi từ vô minh, tạo ra các thứ sinh diệt, lại là tánh của Như Lai tạng, tánh Như Lai tạng nầy lại chẳng phải là đối tượng của sinh diệt. Căn nguyên của nó chính là chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Trần Lao: Đức Phật bảo ngài A Nan: ... Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần lao.
“Trần” có nghĩa là dơ bẩn, “lao” có nghĩa là nhiễu loạn, xáo trộn. Sự dơ bẩn, ô uế, làm nhiễu loạn tâm quý vị, nó quấy rối tự tánh của quý vị. Thế nên quý vị không thể nào chuyển hóa vọng tưởng thành chân tâm được. Nó giống như khi hai đạo quân giao chiến với nhau, sẽ có một bên thắng trận. Quý vị sẽ chiến thắng nếu quý vị hàng phục được trần lao, nghĩa là khi quý vị cắt đứt được vòng sinh tử.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Trần lao: ... Rối loạn như vậy, đối đãi nhau sinh ra mệt mỏi. Mệt mỏi lâu dài phát ra trần tướng, tự làm vẩn đục lẫn nhau. Do đó đưa đến khởi phát trần lao phiền não.
Giảng giải: Nay sẽ nói đến lục thô. Phần nầy sẽ giải thích năm món thô đầu tiên.
Lục thô là:
1. Trí tướng: thuộc về câu sanh pháp chấp, tức là từ khi sinh ra đã có sẵn năng lực phân biệt. Đây không phải là trí tuệ cứu cánh, mà chỉ là tướng của trí có được do năng lực phân biệt.
2. Tương tục tướng: tức phân biệt pháp chấp, lúc nào cũng suy nghĩ, liên tục không gián đoạn
3. Chấp thủ tướng: thuộc về câu sanh ngã chấp, suy lường cùng khắp, chấp ngã, ngã sở.
4. Kế danh tự tướng: thuộc về phân biệt ngã chấp, chủ yếu là lập nên vọng tưởng giả danh, theo sự chấp trước giả danh mà duy trì vọng tưởng.
5. Khởi nghiệp tướng: Do kế danh tự tướng mà sinh khởi nên nghiệp tướng, tạo vô số nghiệp.
6. Nghiệp hệ khổ tướng: Do tạo nghiệp nên thọ lãnh quả báo, do vì trói buộc vào nghiệp mà thọ khổ.
Ban đầu khi nghe những điều nầy có lẽ quý vị không thể nào hiểu được, nhưng sau khi tham cứu một thời gian, quý vị dần dần sẽ hiểu. Còn bây giờ, hãy để cho nó lọt qua tai quý vị, và trong thức thứ tám của quý vị sẽ có ấn tượng. Nếu quý vị tham cứu Phật pháp một thời gian dài, chắc chắn quý vị sẽ đến thực tế là mọi thứ đều liên quan với nhau và quý vị bỗng nhiên hiểu ra.
Rối loạn như vậy: ở trong cái không đồng và cái không dị như đã nói ở trên, thế giới và hư không, “đồng dị phát sinh,” và tạo ra sự hỗn loạn, không có trật tự. Sự hỗn loạn nầy cuối cùng dẫn đến sự mệt mỏi. Trong cái đồng dị bỗng dưng được lập nầy, cuối cùng sinh ra sự mỏi mệt. Cái mỏi mệt là tướng trạng đầu tiên trong lục thô, đó là trí tướng. Mệt mỏi kéo dài sinh ra phiền não. Tiếp theo cái mệt mỏi là tướng trạng thứ nhì của lục thô, đó là tương tục tướng. Nhiễm ô là tướng trạng thứ ba của lục thô, đó là chấp thủ tướng. Những tướng trạng nầy kết hợp nhau trong một mớ hỗn độn u ám. Nó kết dính nhau và không có cách nào để tách rời chúng ra một cách rạch ròi. Đây là tướng trạng thứ tư của lục thô, đó là kế danh tự tướng. Sự hỗn loạn nầy tạo nên phiền não với sự tập nhiễm của trần lao. Trần lao là chính là phiền não. Phiền não chính là trần lao. Tám vạn bốn ngàn trần lao chính là tám vạn bốn ngàn phiền não. Từ những điều kiện khác nhau vừa bàn đến, phiền não sinh khởi. Cùng với phiền não là sự sinh khởi của núi sông đất liền. (Nguồn: HT Tuyên Hóa - Kinh Thủ LN-Q4-Chương 1)
+ Sinh Trần lao và các tướng thế gian: ... đức Phật bảo: Thế nên trong ấy, gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Chúng sinh mê lầm, trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian.
Giảng giải: Nguyên nhân là do chúng sinh mê lầm. Ở trong chỗ vô số hiện tượng ấy, chúng sinh trở nên mê lầm. Họ không nhận ra được đạo lý về chân tâm, nên họ bị mê muội. Do vậy, nên trong chân tâm (phần chân) của tánh Như Lai tạng đã sinh khởi nên tam tế lục thô.
Nhất niệm bất giác sinh tam tế. 一念不覺生三細
Cảnh giới vi duyên trưởng lục thô. 景界為緣長六粗
Như tôi đã giải thích ở trên, tam tế là nghiệp tướng, chuyển tướng và hiện tướng. Lục thô là trí tướng, tương tục tướng, chấp thủ tướng, kế danh tự tướng, khởi nghiệp tướng và khổ hệ nghiệp tướng. Một khi chúng sinh đã phát khởi lên những tướng nầy, họ liền bị mê mờ. Một khi đã mê mờ, thì họ trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Họ quay lưng lại với giác tánh và thích dính mắc với sáu trần. Đây là vì họ nghĩ rằng, trong tánh Như Lai tạng có sự xung đột lẫn nhau. Do vậy nên họ quay lưng lại với tánh giác và hợp với cảnh trần. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian. Núi sông đất liền và sự tương tục của thế giới trở thành hiện hữu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q4-Chương 2)
+ Có Tướng (Của các Trần): Nhân nguyên của "Có Tướng" trong Phật giáo Đại thừa:
Đức Phật bảo: A-nan, nhân nơi trần mà phát ra cái biết (của căn), nhân các căn mà có tướng (của trần). Tướng (phần sở kiến) và kiến (phần năng kiến) đều không có tự tính, như bó lau gác vào nhau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa - Kinh Thủ LN - Q.5)
+ Nếu cái thấy nghe nầy, rời các tướng sắc không, tối sáng, động tĩnh, thông bít, đậm nhạt, hợp ly, sinh diệt, thì rốt ráo nó không có tự thể. Cũng như tâm niệm, nếu rời khỏi tiền trần, là vốn không thật có. Sao lại đem cái tâm hoàn toàn đoạn diệt ấy làm nhân tu hành, mà mong đạt được bảy quả vị thường trụ của Như Lai? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q1)
+ Các tướng sắc không, tối sáng, động tĩnh, thông bít, đậm nhạt, hợp ly, sinh diệt (Kinh Thủ LN - Q3: Nếu rời hẳn các tướng sắc không, động tĩnh, thông tắc, hợp ly, sinh diệt thì rốt ráo không có một pháp nào cả.)
Hư không kia làm sao vì ông mà thành đồng hay khác? Huống chi lại gọi là một hay chẳng phải một. Thế ông đã biết, sáu căn thọ dụng cũng giống như vậy.
Do hai thứ tối sáng hiển bày lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái thấy. Cái thấy ánh hiện ra thành sắc, kết sắc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhãn căn’ như trái bồ đào. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo sắc.
Do hai tướng động tỉnh đối chọi lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái nghe. Cái nghe ánh hiện ra thành tiếng, cuộn cái tiếng lại thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhĩ căn’ là lá sen non. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo âm thanh.
Do hai tướng thông và bít phát hiện lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính ngửi. Tính ngửi ánh hiện ra thành hương, thu nạp các hương thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘tỉ căn’ như hai móng tay duỗi xuống. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo hương.
Do vị nhạt và vị khác xen lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính nếm. Tính nếm ánh hiện ra thành vị, thu nạp các vị thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘thiệt căn’ như mặt trăng lưỡi liềm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo vị.
Do hai tướng ly và hợp cọ xát lẫn nhau, kết dính sự yên lặng trong tánh diệu viên mà phát ra cái biết xúc chạm. Tính biết xúc chạm ánh hiện thành xúc, thu nạp các xúc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi thể của ‘thân căn’ như cái trống cơm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo xúc.
Do hai thứ sinh diệt tương tục lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái biết. Tính biết ánh hiện thành các pháp, thu nạp các pháp thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi là ‘ý tư,’ như cái thấy trong nhà tối. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo pháp.(Đoạn kinh nầy nói đến ý căn, tức thức thứ sáu, là đối tượng của sinh diệt. Khi niệm trước vừa đình chỉ, niệm sau liền sinh khởi. Năng lực của tánh biết là thu nạp các pháp, chính là trần cảnh. Ý căn bị thu hút bởi pháp trần_HT Tuyên Hóa)
A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng. (chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà tánh giác ấy biến thành vọng giác và vọng minh–kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám_HT Tuyên Hóa)
Vậy nên nay ông rời tối rời sáng, thì không có cái thể của thấy. Rời động rời tỉnh, thì không có cái nghe. Không có thông không bít, thì tính ngửi không phát sinh. Không có mùi vị, không lạt, thì tính nếm không có. Không rời xa, không kết hợp thì tánh xúc chẳng có. Không sanh không diệt, thì cái biết gá chỗ nào?
Ông chỉ cần không theo động tĩnh hợp li, điềm biến thông tắc, sanh diệt ám minh, mười hai tướng như vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4)
Ý thức cảm dục- trực giác : X. Cảm huệ thức.
+ Các Thức Chân Vọng:
Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Giảng:
"Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt." Tánh của thức là trong sáng, chính là giác ngộ. "Tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới." Thể tánh bất khả tư nghì của giác ngộ là thanh tịnh vắng lặng và cùng khắp pháp giới."
Kinh văn:
含 吐十虛, 寧有方所?
Hàm thổ thập hư, ninh hữu phương sở?
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Giảng:
"Thức ấy bao gồm[116] và hiển bày trong khắp mười phương hư không."
'Bao gồm' có nghĩa là thức chứa đựng trọn cả hư không; 'hiển bày' có nghĩa là lưu hiện ra trong hư không. Chứa đựng và lưu hiện ra khắp trong mười phương hư không, thức ấy hiện hữu khắp mọi nơi. "Đâu có phương hướng xứ sở?" Làm sao mà thức ấy lại ở một chỗ nhất định hoặc có một phương hướng nhất định được?
Kinh văn:
循業發現, 世間無知。惑為因緣, 及自然性。皆是識心, 分別計度。但有言說, 都無實義。
Tuần nghiệp phát hiện, thế gian vô tri, hoặc vi nhân duyên cập tự nhiên tánh. Giai thị thức tâm phân biệt kế đạt. Đãn hữu ngôn thuyết, đô vô thật nghĩa.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Giảng:
"Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu." Tùy theo nghiệp cảm của chúng sinh đã tạo mà những quả báo nầy hiện ra. "Thế gian không biết"– môn đệ của ngoại đạo, những người theo giáo lý quyền thừa, và hàng Tiểu thừa, những kẻ phàm phu, những người thiếu trí huệ, 'lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên." Họ không rõ có phải đạo lý nầy xuất phát từ lý nhân duyên hay không. Họ mê mờ và nghi hoặc, không nhận ra được rõ ràng. Hoặc là họ cho đó là tánh tự nhiên, đó là lý thuyết tự nhiên luận của hàng ngoại đạo.
"Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường." – Đó là hoàn toàn do thức tâm khởi lên phân biệt và suy lường–hoạt dụng đến mức độ đó– Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật."
*Có người hỏi:
Ban đầu kinh này phá trừ thức tâm, cho rằng nó chỉ là danh nghĩa hư vọng, rốt ráo không có tự thể, cho đến chỉ bày trong kiến văn giác tri cũng gồm cả sắc tướng để phá. Cho đến 18 giới, đều nói là lưu xuất từ tánh Như Lai tạng. Đến khi nói về thất đại, lại nói là trùm khắp pháp giới, hàm biến cả mười phương hư không, tức là tánh toàn thể rộng lớn trùm khắp. Tại sao trước đã nói thức là cực vọng, sau lại nói nó toàn chơn?
Đáp: Ban đầu mới tu đạo, cần phải nhờ vào phương tiện để quyết trạch chân vọng mà xả bỏ đi căn bản sinh tử để đạt được niết-bàn diệu tâm. Sở dĩ ban đầu cần phải phá trừ thức là để dứt khoát không dùng nó nữa. Khi đã nhận ra được thức vốn là hư vọng rồi, từ đó mới nói rõ nghĩa rốt ráo viên dung, để chỉ rõ chẳng pháp nào mà không chân, pháp nào mà chẳng như. Cho đến ức kiếp cõi nước như vi trần, cũng chẳng ngoài nhất chân pháp giới cả.[117] (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q3- HT Tuyên Hóa)
+ Pháp Ngoại Đạo - Pháp Thế Gian - Giáo Lý Quyền Thừa - Pháp Nhân Duyên Và Tự Nhiên:
... Trước đây ông đã được nghe Đức Phật giảng giải về lý nhân duyên và tự nhiên. Cơ bản đó là giáo lý quyền thừa, pháp phương tiện, là phương tiện thiện xảo; pháp ấy chưa phải là pháp chân thật. Bây giờ Đức Phật mới giảng giải pháp môn chân thật (Đang giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm), mà A-nan lại chẳng dám tin. A-nan đã tin chắc vào pháp môn phương tiện Đức Phật đã giảng trước đây, đến nỗi bây giờ A-nan phải nghi ngờ cả pháp chân thật.(Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Nhân Duyên Hòa Hợp biến hóa từ Tứ đại mà phát sinh muôn thứ
... A-nan bạch Phật: Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về nhân duyên hòa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh.
Giảng:
"A-nan bạch Phật: Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói– Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về các pháp nhân duyên và các pháp hòa hợp rằng. Thế tôn nói rằng Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian–'thế gian' ở đây là chỉ cho hữu tình thế gian và khí thế gian–tất cả mọi thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh."
Tứ đại là đất, nước, lửa, gió. Thân thể con người là hợp thể của tứ đại.
- Những phần cứng và chắc trong thân thể là thuộc về địa đại (đất),
- Hơi nóng trong cơ thể thuộc về hoả đại (lửa).
- Nước dãi, đàm dịch, nước mắt thuộc về thuỷ đại (nước).
- Hơi thở thuộc về phong đại (gió).
Khi chúng ta còn sống, thân thể chịu sự điều khiển của mình, nhưng sau khi chết thì tứ đại tan rã. Hơi ấm trong thân trở về với lửa. Các chất dịch trở về với nước. Các chất rắn trở về với đất. Hơi thở trở về với gió....
Nhưng người ta không biết là họ phải nhận ra Phật tánh của mình,... Cái thân vốn không có gì để bám víu lấy cả. Đừng xem nó quá quan trọng.... Đến khi quý vị chết và tứ đại tan rã, thì quý vị sẽ nhìn thấu suốt được những gì mà quý vị chưa từng nhìn được.
Vì sao Như Lai bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên tự nhiên? Nay con không biết nghĩa đó như thế nào?
Giảng:
.. Sự cố chấp của A-nan thật là sâu nặng. Trước đây ông đã được nghe Đức Phật giảng giải về lý nhân duyên và tự nhiên. Cơ bản đó là giáo lý quyền thừa, pháp phương tiện, là phương tiện thiện xảo; pháp ấy chưa phải là pháp chân thật. Bây giờ Đức Phật mới giảng giải pháp môn chân thật, mà A-nan lại chẳng dám tin. A-nan đã tin chắc vào pháp môn phương tiện Đức Phật đã giảng trước đây, đến nỗi bây giờ A-nan phải nghi ngờ cả pháp chân thật. Nên A-nan hỏi, "Vì sao Như Lai bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên tự nhiên? Bạch Thế tôn, ngài vừa phê phán lý nhân duyên và tự nhiên, và tuyên bố rằng thuyết ấy sai lầm. Vậy có mâu thuẫn với chính lời của Như Lai chăng? Ngài đang phá hủy đạo lý do chính ngài đã lập ra. Ngài đang bác bỏ tiền đề do chính ngài đã nêu ra. Nay con không biết nghĩa đó như thế nào? Bây giờ con không hiểu nghĩa nầy như thế nào. Nghĩa ấy thuộc về pháp môn gì? Con thật chưa hiểu ra."
Xin Thế tôn rủ lòng thường xót, chỉ bày cho chúng sinh nghĩa rốt ráo Trung đạo, không còn các điều hí luận.
HT Tuyên Hóa giảng: Bấy giờ Thế tôn bảo A-nan rằng: "Trước đây ông nhàm chán các pháp Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác. Ông đã quyết định từ bỏ hẳn pháp môn của hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, giáo pháp của thời A-hàm, phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Nay ông phát tâm siêng năng cầu đạo giác ngộ Vô thượng, đạo giác ngộ của hàng Bồ-tát.
Do vậy, nên nay là lúc Như Lai sẽ chỉ bày cho ông Đệ nhất nghĩa đế.
Như Lai sẽ giảng giải pháp môn Thật tướng cho ông. Đệ nhất nghĩa đế chính là Thật tướng. Có ba loại Thật tướng:
1. Thật tướng vô tướng (vô tướng chi thật tướng): Không còn các tướng hư vọng, tất cả đều là Nhất chân bình đẳng thật tướng. Tức là Không Như Lai tạng.
2. Thật tướng của cái chẳng phải vô tướng (vô bất tướng chi thật tướng): Hoàn toàn đều chẳng phải là vô tướng, chỉ tuỳ duyên mà biến hiện ra tất cả tướng.
3. Thật tướng của chẳng tướng nào không phải là tướng (vô tướng vô bất tướng chi thật tướng): Tức là Không bất không Như Lai tạng. Cũng gọi là diệu hữu chân không, chân không diệu hữu.
Dù kể là ba, nhưng chỉ là một, đó là Thật tướng. Thật tướng là không có tướng, nhưng chẳng có gì là không có tướng cả. Đó là lý chân không diệu hữu, diệu hữu chân không. Nếu cứu xét đến tột cùng, thì vốn chẳng có tướng gì cả. Nhưng trong cái chẳng có tướng gì ấy lại có tất cả. Thế nên chẳng có tướng gì chính là chân không, và có tất cả là diệu hữu.
Đạo lý đang được giảng giải sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới.
Sao ông lại còn đem những nhân duyên vọng tưởng hí luận thế gian mà tự ràng buộc mình?
.... Như Lai sẽ chỉ bày cho ông đạo lý Thật tướng.
Ông tuy nghe nhiều, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà không phân biệt được thuốc thật ở trước mắt. Như Lai cho là rất đáng thương xót.
Nay ông hãy nghe kỹ, Như Lai sẽ vì ông mà chỉ bày tường tận. Và cũng để cho những người tu Đại thừa sau nầy thông đạt thật tướng. A-nan yên lặng, chờ nghe thánh chỉ của Đức Phật.
A-nan, như ông đã nói, tứ đại hòa hợp phát ra các thứ biến hoá trong thế gian.
A-nan, nếu tánh của các đại kia không hòa hợp nhau, thì không thể lẫn lộn với các đại khác. Cũng như hư không, không thể hòa hợp với các sắc tướng.
Nếu tính của tứ đại là hòa hợp, thì cũng đồng như các thứ biến hoá, trước sau biến thành nhau, sinh diệt nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ.
A-nan, như nước thành băng, băng tan thành nước.
Giảng:
A-nan, ông nên biết rằng chân như tự tánh tuỳ duyên nhưng bất biến, bất biến nhưng tuỳ duyên. Điều ấy được giải thích như thế nào? Chân như tự tánh cũng chính là tánh Như Lai tạng, cũng là Thật tướng, và cũng là chân tâm, như nước thành băng, băng tan thành nước.
Cũng như nước đóng thành băng: nghĩa là tuỳ duyên. Nhưng băng cũng có thể tan thành nước. Tôi đã từng giải thích đạo lý nầy rồi. Phật tánh của mọi người chính là chân tánh. Tâm bồ-đề giác ngộ chính là nước; phiền não là băng. Tâm bồ-đề của ông được ví như nước, hữu ích, lợi lạc cho mọi người, nó không hề làm hại ai. Mọi người đều cần nước. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Pháp Phương Tiên - Nhân Duyên Hòa Hợp: Ngài A Nan: Lại thương khóc, đảnh lễ sát dưới chân Phật. Quỳ gối chắp tay mà bạch Phật rằng, “Đức Vô Thượng Đại Bi Thanh tịnh Bảo Vương khéo dùng phương tiện khai mở tâm chúng con. Ngài hay dùng các phương tiện nhân duyên như thế để khuyến khích, dẫn dắt các chúng sinh mê mờ ra khỏi biển khổ.”
Giảng giải:
... Đức Phật đã khéo dùng phương tiện khai mở tâm chúng con. Ngài hay dùng các phương tiện nhân duyên như thế để khuyến khích – Ngài đã dùng tất cả pháp phương tiện, mọi loại thí dụ, các phương tiện thiện xảo. Pháp phương tiện là pháp chưa thật rốt ráo, chẳng hạn, giáo lý ngài giảng dạy trong thời gian đầu là nói về nhân duyên để phá trừ thuyết tự nhiên do ngoại đạo chủ trương. Đến bây giờ thì ngài lại phá bỏ giáo lý nhân duyên, vì đó thực sự là một phương tiện, như đã được giải thích, chưa thật sự rốt ráo. Đề tưởng 提獎, có nghĩa là khuyến khích, khích lệ, như khi thầy giáo nói với học trò, “Con viết chữ rất đẹp, có nhiều tiến bộ. Con sẽ rất thành công trong môn chữ Hán.” Hoặc thầy nói, “Mấy ngày hôm nay, con ngồi thiền tiến bộ hơn nhiều. Con thường có nhiều vọng tưởng, nhưng nay chúng đã bị hàng phục khá nhiều. Con đã có được chút ít định lực từ công phu thiền định.” Tất cả chúng ta đều khờ dại không biết phải tìm được hướng đi. Nhưng bây giờ chúng ta đã ra khỏi được biển khổ sinh tử, có nghĩa là, ra khỏi tình cảm tham ái.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Pháp Phương tiện: Là các pháp hữu vi, giành cho người mới tu, căn trí cạn, họ nghĩ:
.... Đức Phật nói pháp đại thừa, ý chúng ta không hiểu được, phải chi đức Phật phương tiện chỉ dạy những chỗ cạn thấp dễ dàng, chúng ta nhờ đó được tỏ ngộ tri kiến của Phật và chứng đạo quả. Ý muốn thưa hỏi mà chẳng dám lại gần. Bấy giờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi biết những tâm niệm của bốn chúng, nên phương tiện từ chỗ ngồi đứng dậy; đến trước đức Phật mà bạch rằng: Xin đức Thế Tôn mở lòng đại từ, lập những pháp phương tiện chỉ dạy cho những chúng sanh sơ cơ thấy tánh thành Phật, lại vì đời sau những chúng sanh mới bước vào nhà Phật, tìm học mối đạo đặng chánh tri kiến, không bị tà giáo phỉnh hoặc, không dụng công nhiều mà đặng thành đạo quả. Đức Phật nói: Hay lắm! Hay lắm! Nầy Văn Thù Sư Lợi, ông có phương tiện lớn lao, thỉnh hỏi Như Lai chỉ dạy ba căn và con đường tu hành ngay thẳng cho chúng sanh đời sau mới vào cửa đạo, theo lời ông hỏi ta sẽ nói rõ... (Nguồn: Mở đầu Kinh Kim Cang)
+ Có Hư Không: Đức Phật bảo A Nan. ... Do ông vọng tưởng, mê lầm chân lý, si và ái phát sanh gây ra mê lầm cùng khắp, nên có hư không. Cái mê biến hóa không dừng, nên có thế giới. Do vậy các cõi nước không phải vô lậu, nhiều như số vi trần trong mười phương, đều dựng lập từ mê, ngoan và vọng tưởng.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Mục 50 Ấm ma)
+ HƯ KHÔNG thành SẮC: Hư không vốn linh minh trở thành Hư không tối tăm mông muội mê lầm)
Do sự mê muội (Vô minh, hắc ám) thành ra có hư không (Hư không vốn linh minh bỗng trở thành Hư không tối tăm mông muội -> là Ngoan không, trong ngoan không tối tăm + Lực vô minh nên chuyển cái trí sáng suốt vốn thường có thành vọng kiến của trí năng. Đây là nghiệp tướng, tướng thứ 1 trong Tam tế), trong hư không mê muội ấy, kết cái tối tăm thành sắc - Dạng kết tinh từ hôn hám => Khởi đầu của Pháp thập nhị nhân duyên, là do Ngoan không nương vào Vô minh mà chuyển trí sáng bản hữu thành cái thấy sai lầm từ Năng giác. Đây là chuyển tướng, tướng thứ 2 trong Tam tế.
Do khởi đầu Nghiệp tướng không thể thấy nên Năng kiến - CÁI THẤY nhìn lâu khiến vọng kiến sinh khởi thành sắc chất mà nó ánh hiện ra. Đây gọi là NHÌN LÂU HÓA RA MỎI MỆT, như trong mơ thấy người và cảnh, ảo ảnh như núi sông đất liền. Đây là hiện tướng, thứ 3 trong Tam tế.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q2)
+ Giảng về Hư không và các căn: Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Quyển 3 tiếp Q 2)
+ Hư Không:
- Trích đoạn Đức Phật giảng về Hư Không cho Đại chúng và A Nan
Nhưng hoàn toàn không nghe hư không hoại diệt. Sao vậy? Vì hư không chẳng phải là pháp có thể tạo tác. Do đó trước sau trọn không hoại diệt.
HT Tuyên Hóa giảng giải:
Hư không là cái không thể tạo tác hoặc do người làm ra được. Hư không vốn là trong đó không có một thứ gì cả; nên gọi là hư không. Bất cứ thứ gì nếu được tạo tác thì không phải là hư không. Và, do vì trong đó không có một thứ gì, nên nó không hoại diệt. Hư không luôn luôn là như thế. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN- Q4 - Chương IV)
+ Hư không - Trần cảnh: Trích ...Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không, lay động là trần. Do lay động mà có nghĩa là trầ̀n.
HT Tuyên Hóa giảng: Vô minh, phiền não nhiều vô số như những hạt bụi trần đang lay động. Nhưng hư không thì không lay động. Hư không biểu thị cho tánh thấy của ta, vốn luôn luôn không lay động. Tánh thấy đó là người chủ chân thực, là chân tâm thường trụ của chúng ta, vốn chẳng đến, chẳng đi.
Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không, trong suốt và lặng lẽ, không lay động, đó được gọi là hư không.
Lay động là trần, do lay động mà có tên gọi là trần.
Quý vị hãy nhìn đám bụi trong dải tia sáng mặt trời đang nhảy múa lăng xăng không ngừng ấy. Cái gì là bụi? Bụi ấy biểu tượng cho phiền não, vô minh, phiền não chướng, sở tri chướng. Khi một ai bị chấp dính vào những thứ này được gọi là vướng “bụi trần.” (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần chánh văn - Mục 119)
+ Giới tức là một thế giới riêng biệt cho căn, trần và sắc:
- Thí dụ nói về cái thấy chúng ta có 3 giới là:
1. Căn là Nhãn giới - Căn mắt
2. Trần là Sắc giới - Là các vật, đối tượng như nhà cửa, xe cộ
3. Thức là Nhãn thức giới - Là cái biết của sự thấy.
=> Mà Con người chỉ có 18 giới
- 6 giới của căn: Nhãn giới, Nhĩ giới, Tỷ giới, Thiệt giới, Thân giới, Ý giới.
- 6 giới của trần: Sắc giới, Thanh giới, Hương giới, Vị giới, Xúc giới, Pháp giới.
- 6 giới của thức: Nhãn thức giới, Nhĩ thức giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới và Ý thức giới.
Tổng cộng: 18 giới mà thường được gọi là thập bát giới.
+ Nội Ngoại của 18 Giới:
- 6 Nội giới: 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) trong cơ thể, gọi là nội giới;
- 6 Ngoại giới: 6 trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm, các pháp) bên ngoài, gọi là ngoại giới;
- 6 Trung giới - Ở giữa: 6 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) ở giữa giúp 6 căn nhận biết 6 trần, gọi là trung giới. (Xem nguồn.)
+ Mười Tám Giới - HT Tuyên Hóa giảng về Các Thức Phát Sinh Phân biệt:
" Lại nữa, A-nan, như ông thường biết được rằng, như ông đã rõ, ông đã được nghe giáo lý quyền thừa trước đây. Giáo lý quyền thừa đề cập đến năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Ông đã hiểu được toàn bộ giáo lý nầy. Nhưng, giáo lý về mười tám giới chỉ được diễn bày như là một pháp môn phương tiện cho hàng Nhị thừa và ngoại đạo để dẫn dắt họ. Nay Như Lai sẽ giảng giải giáo lý ấy thật chi tiết. Đừng trở nên chấp trước với những pháp trần nầy. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Mười Tám Giới: Trích đoạn Đức Phật dậy..... Lại nữa, A-nan, thế nào mà 18 giới vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?
Giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo A-nan, "Thế nào mà 18 giới vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?"
Mười tám giới là những gì? Là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý–cùng với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; cộng thêm sáu thức nữa: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Cả ba nhóm gộp lại thành 18. Sáu căn đi với sáu trần, giữa hai cái nầy phát sinh ra sáu thức. Thức được định nghĩa như là tạo nên sự phân biệt, Căn (các giác quan) được xem là nơi các chức năng tri giác ấy phát xuất, nó có gốc là thân thể của chúng ta. Trần (cảnh, đối tượng) được định nghĩa như vậy là do phẩm tính của nó là nhiễm ô. Nó không thanh tịnh, nên nó làm nhiễm ô bản tính của sáu căn. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì các thức sinh khởi. Mắt thấy sắc liền sinh khởi phân biệt như đẹp hoặc là xấu xí. Khởi tâm thích hoặc không thích hình sắc ấy, nên có sự phân biệt. Ở tai cũng như vậy: nghe tiếng êm dịu hoặc không êm dịu, hoặc thích nghe hoặc không thích nghe âm thanh ấy. Khi sinh khởi tâm phân biệt như vậy được gọi là nhĩ thức. Mũi ngửi được mùi thơm và mùi thối. Hai hương trần thơm và thối cũng được phân biệt như trên vậy. Quý vị có thể thích hương thơm và không thích những mùi hương khác, như vậy là trong quý vị đã sinh khởi tị thức. Lưỡi phân biệt được mùi vị. Khi lưỡi (thiệt căn) đi chung với mùi vị (vị trần[41]) liền có sự phân biệt về mùi vị, hoặc là dễ chịu hoặc là ghê tởm–mình có thể thích hoặc không thích, Thân căn đi chung với xúc trần–trơn láng hoặc xù xì, thô ráp hoặc mịn màng, có nhiều dạng cảm giác khác nhau, hoặc ưa thích hoặc không ưa thích. Thân căn đi chung với xúc trần sẽ làm phát sinh thân thức để phân biệt những cảm giác nầy.
Ý căn đi chung với pháp trần. Năm trần vừa mới đề cập ở trên– sắc, thanh, hương, vị, xúc– tất cả đều có sắc tướng biểu hiện.[43] Chỉ có pháp trần là không được biểu hiện qua sắc tướng.[44] Chúng không có một biểu tượng nào. Tuy nhiên, khi ý căn tiếp xúc với pháp trần, tâm ý liền khởi phân biệt, thế nên trong tâm cũng có ý thức phân biệt. Đó là cách mà sáu căn tiếp xúc với sáu trần khiến sinh khởi sáu thức và cùng lập nên 18 giới.
Tất cả chúng đều chứa trọn trong tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Quyển 3)
+ 768. TỲ KHEO BIẾT GIỚI
Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về mười tám giới: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới.
1) Sáu giới: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
2) Sáu giới: dục giới, nhuế giới, hại giới, vô dục giới, vô nhuế giới, vô hại giới.
3) Sáu giới: lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh giới.
4) Bốn giới: thọ giới, tưởng giới, hành giới, thức giới.
5) Ba giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
6) Ba giới: sắc giới, vô sắc giới, diệt giới.
7) Ba giới: quá khứ giới, vị lai giới, hiện tại giới.
8) Ba giới: diệu giới, bất diệu giới, trung giới
9) Ba giới: thiện giới, bất thiện giới, vô ký giới.
10) Ba giới: học giới, vô học giới, phi học vô học giới.
11) Hai giới: hữu lậu giới, vô lậu giới.
12) Hai giới: hữu vi giới, vô vi giới.
Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu mươi hai giới này. (Nguồn: mục 768- (Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
+ Các giới: Tôi xin nói thêm một câu nữa, như thân làm Phật tử, mức độ thấp nhất là phải nghiêm giữ năm đại giới cơ bản nầy và thực hành theo một cách triệt để, như vậy chúng ta mới được an lạc và tự tại. Giả như năm giới nầy mà không giữ được, thế thời 250 giới của Tỳ Kheo, 348 giới của Tỳ Kheo Ni lại càng khó giữ hơn. Cho nên tại rừng Ta-la song thọ, lúc Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni sắp nhập Niết Bàn, Ngài đã nói với Tôn giả A Nan rằng: “Lấy giới luật làm thầy.” Do đó, chúng ta biết rằng giới luật thật là trọng yếu biết bao! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ 69. GIỮ GIỚI CÓ NĂM CÔNG ĐỨC
1. Cầu gì đều được như nguyện.
2. Tài sản đã có thì thêm mãi không hao sút.
3. Ở đâu cũng được mọi người kính mến.
4. Tiếng tốt đồn khắp thiên hạ.
5. Thân hoại mệnh chung được sanh lên cõi trời. Nguồn: mục 69- (Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
+ Phương pháp Tu cải mệnh toàn diện - Triệt để và nhiệm mầu
- Năng lượng chi phối sống chết:
Đức Phật dậy, có 84.000 ác tinh chi phối vận mệnh con người, trong đó có 28 đại ác tinh và 8 chủ ác tinh. Ở Trung Quốc phân ra gồm 4 chòm sao bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc gồm Thanh long - Bạch hổ - Chu tước - Huyền vũ, mỗi chòm 7 ác tinh.
Tám ác chủ tinh gồm Mộc tinh - Hỏa tinh - Thổ tinh - Kim tinh - Thủy tinh và La hầu - Kế đô với Sao chổi.
Bảy ngôi sao phương Bắc giữ quyền sinh sát các chúng sanh gọi là Bắc đẩu Thất tinh.
- Cách Hóa giải - Tiêu trừ hoàn toàn mọi năng lượng xấu ác của 8.4000 ác tinh là thọ trì đọc tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm hoặc Thần Chú Đại Bi, hoặc các Đại Thần Chú trong Phật giáo mà đức Phật tuyên thuyết. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q7 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Cách tu: Trong Kinh, đức Phật dậy trình tự sau đây không thể đảo nghịch với ai muốn Tu hành bất kể trình độ nào:
a/ Học hiểu và tin sâu Nhân quả - Luân hồi: Kiếp sống hiện tại sướng khổ đều do Nghiệp báo của chính Ta tạo tác, chính Ta là người phải chịu trách nhiệm, không ai khác. Theo đó, khi quả báo đến đều an nhiên đón nhận mà không than trời, trách người ..., cũng cần thực hành buôn xả vạn duyên xấu ác khi nó đã sảy đến, xem như Quả báo đã trả xong, Nợ đã hết không dữ trong Tâm nữa để tránh tạo nghiệp đời vị lai lại phải trả.
b/ Thường nghe giảng Kinh Pháp cả các bậc Thiện tri thức xuất gia tu đạo hạnh như đức Đại Lai Lạt Ma; Thiền sư Thích Nhất hạnh; Hòa thượng Tịnh Không; Hòa thượng Tuyên Hóa; thầy Thích Trúc Thái Minh ....
c/ Tu làm người thiện lành - Thiện tri thức: Ai cũng phải tu giữ nghiêm ngũ giới - Hành thập thiện hàng ngày. Thường ngày cần thực hành bố tài - Bố thí Pháp - Bố thí Vô úy thí theo khả năng. Nói tu đạo làm người theo giáo lý Đông phương/ Đạo Nho là tu giữ Ngũ Luân và Ngũ thường để trở thành bậc Người quân tử trong nhân gian. Không tu thành tựu Đạo Làm Người Thiện lành này thì chẳng thể tu trì bất cứ Pháp môn nào, vì như trong Kinh đức Phật thường nói THIỆN NAM TỬ - THIỆN NỮ NHÂN hay TÍN NỮ là vậy. Không thiện lành, không thành kính Lễ Lạy Đọc Tụng, không tin tưởng tuyệt đối vào Nhân quả Phật Pháp và thường ngày tu tinh tấn thì chẳng có cách gì để Cải tạo số phận. Như thế chẳng khác nào tự mình đầu hàng số phận, chấp nhận SỐ PHẬN AN BÀI, đây chính là tư tưởng SAI LẦM KHỦNG KHIẾP, là vì Nghiệp đã tạo KHÔNG BAO GIỜ MẤT - CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT, kiếp này chửa trả xong, kiếp sau phải trả tiếp lối từ điểm chết trong tiền kiếp là vậy. Ví dụ, kiếp này phải chết trong sự đói nghèo cùng cực thì kiếp sau tái sinh trong gia đình cũng đói nghèo cùng cực, cái ăn chẳng đủ, tã lót chẳng có mà mặc. Hoặc giả sử khi chết gia đình lục đục tranh chấp chia ly thì khi tái sanh cũng lại phải rơi vào hoàn cảnh gia đình cha mẹ, người thân tranh chấp, lục đục, chia ly, thậm chí mồ côi cha mẹ ngay từ lúc sinh ra. Vạn sự tương tự cứ thế mà suy ra => Quả báo không thể sai chạy dù chỉ một chút, ai ai cũng vậy cả. Đức Phật dậy GIEO NHÂN GÌ THÌ GẶP QUẢ ĐÓ: TRỒNG DƯA ĐƯỢC DƯA - TRỒNG ĐẬU ĐƯỢC ĐẬU. Chỉ có tu hành đúng NHƯ PHÁP THỌ TRÌ để sửa đổi Cải số phận tốt lành lên ngay kiếp sống này và cho nhiều kiếp sau được sống sung sướng trong giầu có, thông minh trí tuệ, gia đình hành phúc, ít bệnh nạn, tuổi thọ cao ...
d/ Chọn tu niệm Hồng danh: Tùy theo duyên mà quý vị trọn tu niệm Nam Mô A Di Đà Phật - Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát - Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát - Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lại - Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ....
e/ Chọn Kinh Chú tu hành: Thọ trì đọc tụng Kinh Sám hối nghiệp chướng như Lương Hoàng Sám; Thủy Sám, Mục Liên Sám ..... Trong các Pháp sám hối, có Kinh Sám Hối Chiêm Sát Thiện Ác của Địa Tạng Bồ Tát có thể gieo Mộc Luân để biết thành tựu trong tu hành tiêu trừ nghiệp chướng.
Trên đây là Nhân Trắc Học tổng hợp kiến thức từ trong Kinh Phật dạy. Căn bản từ các Kinh:
- Các Kinh: Kinh Nhân Quả Ba Đời - Kinh Thiện Ác Nghiệp Báo Sai Biệt - Kinh Hiền Nhân - Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo - Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng ...Ngoài ra theo đạo Nho, đạo Khổng Tử để tu đạo làm người thiện lành đều là bước tu khởi đầu tốt đẹp.
- Thần Chú Lăng Nghiêm: Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật dậy Thần Chú Lăng Nghiêm phá trừ 84.000 ác tinh chi phối đời sống muôn loài. Người tu thọ trì Thần chú này thì hoàn toàn vượt thoát ngoài các năng lượng xấu ác tri phối bởi các ác tinh này. (Quyển 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Thần Chú Đại Bi: Trong Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngài Đại Bi Tâm Đà La Ni, đức Phật tuyết thuyết Thần Chú Đại Bi thông thiên địa.
=> Tùy theo Căn tánh - Tùy duyên - Tùy trình độ năng lực mà có thể tu hành các mức khác nhau, nhưng chắc chắn có tu là có thành tựu tương ứng.
+ Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật
Tôn giả A – Nan kể: Đúng như thế này, chính tôi được nghe. Một thời Phật ở tỉnh cư Thiên Cung, tập họp chủ Thiên : Phạm Vương Đế Thích, Bát bộ tử chúng đàm luận pháp yếu. Khi thấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ tòa đứng dậy, tiến đến trước Phật mà bạch rằng:
Thưa Đức Thế Tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu Âm Dương, Ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà 7 sao Bắc Đẩu ở giữa trời có uy quyền uy đức tối tôn như vậy? Cúi xin Thế Tôn vì chúng con tuyên thuyết, tất cả nhân Thiên và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng rằng:
Quý hóa lắm thay! Ta nay sẽ vì ông và chúng sinh ở đời vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều cùng hiểu biết, công đức lớn lao của 7 sao ấy, phúc thì quyền sinh, ân thí muôn cõi.
Vị Bắc Đẩu thứ nhất: ” Đại Khôi Dương Minh Tham Lang Thái Tinh Quân ” là vị Cổ Phật ở thế giới Tối Thắng Phương Đông hiệu là Vận Ý Thông Chúng Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ hai:” Đại Phước Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh Quân ” là vị Cổ Phật ở thế giới Diệu Bảo Phương Đông, hiệu là Quán Âm Tự Tại Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ ba:” Đại Quyền Chân Thân Lộc Tồn Chính Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Viên Châu Phương Đông hiệu là Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ tư: ” Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc Hữu Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Vô Ưu Phương Đông hiệu là Tối Thắng Cát Tường Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ năm: ” Đại Tất Đán Nguyên Liêm Trinh Cường Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Tĩnh Trụ Phương Đông, hiệu là Quảng Đạt Trí Hiện Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ sáu: ” Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Pháp Ý Phương Đông, hiệu là Pháp Hải Du Hỉ Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ bảy : ” Phiêu Thiên Quan Phá Quân Quan Tĩnh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Mãn Nguyện Phương Đông hiệu là Dược Sư Lưu Lý Quang Như Lai.
Ngoài ra còn có vị thứ tám ( Đông – Minh Ngoại Phu Tinh Quân ) là Bồ Tát ở thế giới Diệu Hỉ Phương Tây, hiệu là Hoa tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
Vị thứ chín ( Ấn Quan Nội Bật Tinh Quân ) là Bồ Tát ở thế giới Diệu Viên Phương Tây, hiệu là An Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Khi ấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và các đại chúng nghe Phật khai diễn các sao Bắc Đẩu đều là Cổ Phật Như Lai, ứng cúng, chính biến trì, minh hành túc, Thiên thệ Thế gian giải, Vô thượng sĩ , Điều – Ngự – trượng – phu – Thiên – Nhân, sư, Phật , Thế tôn khắp vĩ chúng sinh, hóa thân thị hiện.
Nghe như thế rồi, tất cả đều sung sướng vui mừng, được sự chưa từng có, cúi đầu chắp tay đọc kệ khen rằng:
Các Đức Đại Thiện Thệ!
Vô thượng cát tường Tôn!
Ở đời quá khứ kia
Các ngài đã tu chứng
Ly dục xuất thế gian
Rủ lòng đại từ bi
Thương xót các chúng sinh
Hai nhăm hữu đời sau
Mà hóa thân thị hiện
Ở giữa vòm trời
Làm Thất Bắc Đẩu Tinh Quân
Gồm Ngoại – phụ, Nội – bật.
Chúa tể cả muôn cõi
Quý thay ! Quý hóa thay !
Thích Ca, Văn đại sư
Đã vì đại chúng đây
Khai diễn cho được biết
Thất Bắc Đẩu Tinh Quân
Đều là các Cổ Phật
Đời quá khứ thị hiện
Chúng con nay được nghe
Nguyện xin vì hậu thế
Mà diễn nói rộng rãi
Bài kinh công đức này.
Khi ấy Phật bảo tất cả đại chúng rằng:
- Có thiện nam hay tín nữ nào mà hàng năm cứ ngày 8 tháng Giêng, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và hàng tháng cứ ngày 7, ngày 9 với ngày sinh mình mặc y phục sạch đối trước tinh tượng chí tâm xưng niệm Danh hiệu 7 vị Phật và 2 vị Bồ Tát thời tùy tâm nguyện cầu gì cũng thấy cảm ứng ngay.
- Lại nếu có thể thắp 7 ngọn đèn bày theo tinh vị rồi lúc nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa tinh thủy dốc lòng khẩn cầu ắt được như ý.
- Ông Văn Thù này! Khắp cõi tể – quan, cư sĩ, tăng – ni, đạo – tục dù sang dù hèn cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh.
- Khi đã được nghe diễn nói kinh này mà biết thắp đèn bầy theo tinh vị của các sao Bắc Đẩu rồi cung khính đem các thứ hương hoa tinh thủy cúng đàn thời những người ấy lộc vị cao sang, thọ mệnh kiêm trường, hưởng phúc vô lượng vô biên.
- Hoặc có cha mẹ quyến thuộc tiên vong đã lâu hay mới, hoặc chưa được siêu độ mà lòng những lo cho họ chìm đắm trong u đồ mà lại biết vì họ tụng kinh này, xin biết lễ làm theo kinh dâng sao giải hạn thì rất tốt nhưng phải trung thành khấn Phật, thời các vong hồn của những người ấy được sinh Thiên thượng, thụ hưởng Thiên phúc.
- Nếu có người nam hay người nữ nào bị ma quỷ làm, bị tà thần hại, ác mộng sợ hãi, tâm thành hôn mê mà biết bảo họ thụ trì đọc tụng kinh này, giữ gìn trái giới liền được tiêu tai giải ách hết bệnh.
- Nếu có người nam hay người nữ nào mệnh ngộ tai ách, vận phùng hung tinh làm mắt đỏ ngầu, màng che đồng tử hoặc bị kiện tụng, giam cầm tử ngục, năm canh thao thức ác mộng kinh hoàng, sau khắc bâng khuâng biếng ăn khổ não mà biết thắp đèn bầy theo tinh vị của sao Bắc Đẩu hương hoa tinh thủy, cung kính cúng Dàng đặt thành thời khóa đọc tụng kinh này, 7 biến cho chí 49 biến tâm liền tự tại, thân được an khang.
- Nếu có người nam hay người nữ nào cầu tự, cầu thị nên vào tịnh thất đối trước tinh vị của sao Bắc Đẩu bái tụng kinh này 7 biến tới 100 biến. Cầu tự sẽ được sinh nam trí tuệ, cầu thị sẽ được tên gi bảng vàng.
- Hoặc giả ruộng vườn cày cấy trồng trọt thường bị thất thu, chăn nuôi lục súc hao tán bất lợi, cũng nên đối trước tinh vị Bắc Đẩu, hương hoa tinh thủy cung kính cúng Dàng, bái tụng kinh này tức thời được gieo trồng bội thu, chăn nuôi phát triển.
- Có người nữ nào mang thai sầu não đến lúc sinh nở, trong tâm lo ngại, cũng nên thành tâm vì người nữ kia, hương hoa tinh thủy, cung kính cúng Dàng Bắc Đẩu Thất Tinh, bái tụng kinh này tức thời sẽ được lâm sản an toàn, sinh nam trí tuệ, sinh nữ đoan trang.
- Ông Văn Thù này ! Bắc Đẩu Cổ Phật quảng đại từ bi, thị hiện giữa bầu trời, chủ trương niên – mệnh , thống lãnh Càn Khôn. Trên từ vua- chúa, dưới đến nhân dân, trời đất núi sông, chim muông cây cỏ, tất cả đều do Thất Tinh Bắc Đẩu cai quản soi chiếu.
- Nếu có tai ương suy biến nguy cấp thời nên lập tức thắp đèn bầy theo Bắc Đẩu tinh vị, thành tâm khấn cầu, đọc tụng kinh này tức thời sẽ được gia hộ tốt lành như ý sở cầu.
- Nếu đất nước nào có sự chiến tranh mà có thể bầy đèn theo tinh vị hương hoa tinh thủy, cung kính cúng Dàng, đọc tụng kinh này, tâm không gián đoạn tức thì sẽ được Đẩu Khí gia uy, Thất Tinh thuận chiếu khiến được thiên thời -địa lợi- nhân hòa, tướng hùng binh dũng, thế mạnh như gió, tiến đến phương nào phương ấy bình phục yên vui.
Đức Phật Thế Tôn tuyên thuyết 7 Đức Cổ Phật Như Lai cảm ứng vô lượng cùng kiếp khó hết rồi Đức Thế Tôn đọc thần chú rằng:
Úm, hạt na, đàn na
Cha cha đế, ma ha đế
Sắt cha, sắt cha đế
Hạt bát ma duệ sa bà ha ( 3 lần ).
Khi Đức Thế Tôn nói kinh này xong, Bồ Tát Văn Thù cùng các đại chúng , Thiên – Long bát bộ, quần tinh, quỷ thần thẩy đều cung kính tin theo phụng hành. Phật Thế Tôn khai diễn Bắc Đẩu Nguyên tinh thị hiện ở Thiên – Trung tiêu tai diên thọ trường chiếu khắp cả bốn phương có uy lực quyền hành, Ngoại – phù và Nội – bật rất rực rỡ huy hoàng khê thủ tán dương được phúc lộc thọ diên trường (Danh hiệu Bảy Đức Cổ Phật được trích từ KINH BẮC ĐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG) (Xem Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật)
Trang web có hình Cổ Phật tại đây
+ PHẬT NÓI KINH BẮC ĐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG
Nam Mô Tham Lang tinh, Thị Đông phương Tối Thắng thế giới Vận Ý Thông Chứng Như Lai Phật.
Nam Mô Cự Môn tinh, thị Đông phương Diệu Bảo thế giới Quan Âm Tự Tại Như Lai Phật.
Nam Mô Lộc Tồn tinh, Thị Đông phương Viên Mãn thế giới Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật.
Nam Mô Văn Khúc tinh, Thị Đông phương Vô Ưu thế giới Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật.
Nam Mô Liêm Trinh tinh, Thị Đông phương Tịnh Trụ thế giới Quảng Đạt Trí Biện Như Lai Phật.
Nam Mô Vũ Khúc tinh, Thị Đông phương Pháp Ý thế giới Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật.
Nam Mô Phá Quân tinh, Thị Đông phương Lưu Ly thế giới Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật.
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả chúng sanh.
Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu soi.
Nếu nghe kinh này thọ trì, cúng dường, chuyển đọc, khuyên bạn hữu, thân tộc, cốt nhục của mình thọ trì, thì hiện đời được phước, đời sau sanh lên chư Thiên.
Nếu kẻ Thiện nam và người Thiện nữ nào có kẻ tiên vong đã qua đời mà bị đọa vào địa ngục, hoặc chịu các thứ khổ sở. Nếu nghe kinh này tin kính cúng dường thì kẻ tiên vong kia liền xa lìa khỏi chốn địa ngục, được vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới.
Nếu có kẻ thiện nam và người thiện nữ nào, hoặc bị loài quỷ mị xâm hại, hay tà ma quấy nhiễu, ác mộng quái lạ, hồn phách kinh sợ, nếu nghe kinh này thọ trì cúng dường hồn phách liền được yên ổn, không còn lo sợ.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nào, hoặc có sĩ quan sắp bổ chấp chánh. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì vị quan ấy liền được mời sang địa vị cao cấp, được đại kiết tường.
Nếu có trai lành và người gái tín, thân bị tật bịnh triền miên, muốn cầu nhẹ nhàng, nên vào tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, thì tật bịnh ấy liền được lành hẳn.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín muốn được tấn đạt, ra đi may mắn, cầu tài vừa ý, buôn bán phát đạt. Nếu gặp kinh này, tin kính cúng dường liền được tiền tài giàu có, vào ra an lành.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nuôi tằm hư hao, lục súc chẳng yên, liền ở tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, ruộng tằm vừa ý, lục súc sum vầy, không còn tổn thất cũng chẳng tai chướng.
Nếu có người nữ suốt tháng mang thai, khó khăn nặng nề, nếu gặp kinh này tín kính cúng dường, mẹ con liền được phân giải nhẹ nhàng, ách nạn tiêu trừ, sanh con trai gái, thân hình đẹp đẽ, quả báo sống lâu.
Nếu kẻ trai lành và người gái tín biết được Bắc Đẩu Thất Tinh, rọi chiếu đời sống nhơn sinh của mình thì trong một đời, hễ có tai ách quan sự miệng tiếng đồn đãi, trăm điều quái lạ. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì không còn một việc gì mà phải phòng hại.
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói lời ấy rồi, hết thảy thiện nam tín nữ cung kính tín thọ làm lễ mà trở về.
Kinh này: Vị Tăng tên Bà la môn, từ Thiên Trúc truyền đến đời triều vua Đường ở Trung Hoa thọ trì.
Sa Môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn. (Nguồn: Phật Nói Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng)
+ PHẬT NÓI THẤT TINH CHƠN NGÔN THẦN CHÚ
1. Tham Lang tinh (sao Tham Lang). Người sanh giờ Tý hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu gặp nguy nạn, nên dùng món ăn gạo, lúa mạch cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
2. Cự Môn tinh (sao Cự Môn). Người sanh giờ Sửu, giờ Hợi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp nguy nạn, nên dùng món ăn lúa, nếp cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
3. Lộc tồn tinh (sao Lộc Tồn). Người sanh giờ Dần, giờ Tuất đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nếu dùng món ăn lúa tẻ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
4. Văn Khúc tinh sao (sao Văn Khúc). Người sanh giờ Mẹo, giờ Dậu đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
5. Liêm Trinh tinh (sao Liêm Trinh). Người sanh giờ Thìn, giờ Thân đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt mè cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
6. Vũ Khúc tinh (sao Vũ Khúc). Người sanh giờ Tỵ, giờ Mùi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt đậu lớn cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
7. Phá Quân tinh (sao Phá Quân). Người sanh giờ Ngọ hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
Tụng trì Thần chú dưới đây:
Úm, Táp Đá Nhi Nẵng Giả, Bán Nhá Mật Nhá Giả, Nhiễm Phổ Tha, Ma Ta Phạ, Nhị Nẵng Ra Khất Sơn Bà Phạ Đô Xóa Ha (108 lần).
Nếu có người mỗi ngày tụng Thần chú này quyết định tội nghiệp thảy đều tiêu trừ và tất cả sở nguyện cầu đều được thành tựu. Nếu mỗi ngày tụng Thần chú này 108 biến, thân mình và tất cả quyến thuộc đều được phò hộ. Nếu tụng 500 biến được sức đại oai thần trong 500 do tuần, tất cả ma vương, các ma chúng, kẻ chướng ngại và vô lượng ác quỷ không dám gần gũi, thường được ủng hộ. (Nguồn: 9- Phật Nói Thất Tinh Chơn Ngôn Thần Chú)
+ Các Ác tinh - Các hung tinh. Hai tám ác tinh - Bảy ác tinh chính.
A Nan, cõi ta bà này có tám mươi bốn nghìn ác tinh tai biến, hai mươi tám đại ác tinh làm thượng thủ, lại có tám đại ác tinh làm chủ, xuất hiện trên đời với nhiều hình dạng, có thể sinh ra các tai nạn kỳ dị cho chúng sinh.
Giảng giải:
A Nan, cõi ta bà này có tám mươi bốn nghìn ác tinh tai biến. Có vô số ác tinh liên hệ với thế giới chúng ta đang sống, hai mươi tám đại ác tinh làm thượng thủ, lại có tám đại ác tinh làm chủ. Mặc dù có hai mươi tám loại ác, nhưng chúng có thể cũng là thiện. Ở Trung Quốc, hai mươi tám chòm sao phân chia thành bốn hướng mỗi hướng có bảy sao. Theo thiên văn Trung Quốc, các chòm sao được đặt định tương ứng với thời gian ngày, giờ.
Mỗi chu kỳ là hai mươi tám ngày – theo tháng Âm lịch. Nếu một người thiện, các sao dữ sẽ biến thành thiện. Nếu như người ở nơi dữ thì các thiện
tinh cũng sẽ biến thành hung tinh. Do đó, không có vì sao nào nhất định là hung, là cát – điều đó còn tùy thuộc ở nghiệp quả và các hành vi thiện – ác. Ở đây nói đến các ác tinh, và chú lăng Nghiêm có công năng hóa giải. Theo bản kinh, những ác tinh đó là điềm xấu, chỉ mang lại bất hạnh. Đối với các ác tinh – biểu hiện cho điềm dữ, nếu một người thiếu đi thiện căn, hoặc kém phúc đức, dĩ nhiên, người đó sẽ gặp nhiều điều bất lợi. Nhưng nếu anh ta trì tụng chú Lăng Nghiêm, những bất lợi kia sẽ biến thành lợi lạc cho người đó.
Thứ 5
|
Thứ 6
|
Thứ 7
|
C.nhật
|
Thứ hai
|
Thứ ba
|
Thứ tư
|
Giác
Đầu
Khuê
Tỉnh
|
Cang
Ngưu
Lâu
Quỹ
|
Đề
Nữ
Vị
Liễu
|
Phòng
Hư
Mão
Tinh
|
Tâm
Nguy
Tất
Trương
|
Vỹ
Thất
Chủng
Dực
|
Cơ
Bích
Sâm
Chẩn
|
Lại có tám đại ác tinh làm chủ.
1. Mộc tinh – Jupiter
2. Hỏa tinh – Mars
3. Thổ tinh – Saturn
4. Kim tinh – Venus
5. Thủy tinh – Mercury
6. La Hầu – (North Node)
7. Kế đô – (South node)
8. Tuệ tinh (Sao Trổi).
Có vài thiên thể rất đáng sợ, một số khác tốt đẹp hơn. Trong suốt các vương triều ở Trung Quốc, có sao chổi từng xuất hiện. Thực sự, sao chổi (Tuệ tinh) ấy là gì? Đấy là một đứa bé mặc áo ngủ màu đỏ, nó đi dạy các trẻ khác hát. Khi mọi trẻ con cùng hát thì xứ ấy đã đến hồi kết thúc. Điều ấy ám chỉ, khi có sao chổi xuất hiện thì chính quyền thay đổi, tân Hoàng đế sẽ đứng lên trị vì đất nước. Những biến cố của vận mệnh, thường không thấy biết được. Có những trường hợp đặc biệt nảy sinh bất thường và luôn luôn là điềm không hay. Các biến cố, các tình huống bất thường ấy báo hiệu sự việc có chiều thay đổi và mất cân bằng, không chính xác./.
Nơi nào có chú này thì tất cả đều tiêu diệt, lấy mười hai do tuần làm vòng kết giới, các tai biến hung hiểm hẳn không vào được.
Vậy nên Như Lai tuyên dạy chú này, bảo hộ cho những người tu hành sơ học, trong đời
Không còn các ma, quỷ thần và những oan khiên đời trước, nghiệp cũ nợ xưa, từ vô thủy tới nay đến khuấy hại.
Lược kê hai mươi tám sao.
* Đức Phật đang giảng về Thần chú Thủ Lăng Nghiêm này cũng gọi tên là “Như Lai Đảnh”.
Nơi nào có chú này thì tất cả đều tiêu diệt, lấy mười hai do tuần làm vòng kết giới, các tai biến hung hiểm hẳn không vào được.
Vậy nên Như Lai tuyên dạy chú này, bảo hộ cho những người tu hành sơ học, trong đời
Không còn các ma, quỷ thần và những oan khiên đời trước, nghiệp cũ nợ xưa, từ vô thủy tới nay đến khuấy hại.
Lại nữa, A Nan, nếu có người đàn bà chưa sinh con trai, con gái mong cầu có thai, nếu bết chí tâm nhớ niệm chú, hoặc trên người đeo chú Tát-đát-đa bát-đát-la này, thì liền sinh được con trai, con gái có phúc đức trí tuệ.
Người cầu sống lâu sẽ được sống lâu, người cầu quả báo mau được viên mãn, sẽ mau chóng được viên mãn; cả đến về thân mệnh, sắc lực, cũng được trọn vẹn như vậy.
Lại có thể trấn được tất cả các ác tinh, chúng tùy nơi mà biến ra nhiều điều quái dị, tai chướng không khởi lên, người không chết bất ngờ, chết yểu, gông cùm, xiềng xích không mang vào thân, ngày đêm ngủ yên, thường không ác mộng. ....
Nơi nào có chú này thì tất cả đều tiêu diệt, lấy mười hai do tuần làm vòng kết giới, các tai biến hung hiểm hẳn không vào được.
Vậy nên Như Lai tuyên dạy chú này, bảo hộ cho những người tu hành sơ học, trong đời
Không còn các ma, quỷ thần và những oan khiên đời trước, nghiệp cũ nợ xưa, từ vô thủy tới nay đến khuấy hại. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q7 - HT Tuyên Hóa giảng)
A- LUÂN HỒI (Incarnation, đầu thai, lâm phàm): X. Định luật luân hồi:
+ Chân Ngã - Linh Hồn - Thức Thứ tám Luân hồi hay incarnating - Reincarnating ego Luân hồi hay Tái sanh.
+ Chân Ngã luân hồi tức là hồn thiêng (divine soul).
- Sutratma theo nghĩa đen là Thread Soul (Hồn Dây), đồng nghĩa với Chân Ngã luân hồi (tức là Manas liên kết với Buddhi). (CKMTTL,120,125)
I- LUÂN HỒI THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Trong 1 kiếp sống: (i) - Con người lại có được một thể xác tiến hoá hơn,(ii)- có tính chất ứng đáp nhiều hơn, (iii)- được điều hợp với một khoá cao hơn, với sự tinh vi và thích hợp hơn, rung động với một mức độ khác hơn. Ba ý tưởng này cần nghiên cứu cẩn thận và quảng diễn một cách hợp lý (LVLCK, 169)
+ Giai đoạn chuẩn bị Luân hồi: Nhân hồn được tái hấp thu vào đại hồn trước khi lại tái luân hồi.… Có ba chủng tử liên quan một cách đặc biệt với các vi tử thường tồn thể xác và thể cảm dục, như thế tạo ra mãnh lực ngũ phân vốn dĩ sẽ tạo ra các sắc tướng
+ Luân hồi, thời gian tạm ngưng: Không hề có sự cố định về thời gian tạm ngưng, đó chỉ là vấn đề nhu cầu của linh hồn mà thôi; (VLH, 199)
+ Người ta cho rằng bí nhiệm ẩn tàng trong 777 lần luân hồi. Con số này đem lại cơ hội cho nhiều suy gẫm. Cần nói rõ rằng đó không phải là con số chu kỳ luân hồi mà con người phải vượt qua nhưng nó nắm giữ chìa khóa cho 3 chu kỳ chính đã nói trước (chu kỳ của Chân Thần, chu kỳ của Chân Ngã, và chu kỳ của Phàm ngã –ND). Trước tiên, con số này áp dụng cho Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống hành tinh chúng ta chứ không phải cho các hành tinh hệ khác. Mỗi Đức Hành Tinh Thượng Đế có con số của Ngài, còn con số của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta ẩn giấu trong 3 con số nói trên, cũng như 666 và 888 nắm giữ cái huyền bí được che giấu của hai Đức Hành Tinh Thượng Đế khác. Số 777 này cũng là số chuyển hóa, vốn là công việc căn bản của tất cả các Hành.
+ Luân hồi, thời gian tạm ngưng: Không hề có sự cố định về thời gian tạm ngưng, đó chỉ là vấn đề nhu cầu của linh hồn mà thôi; (VLH, 199)
+ Con Người đầu thai luân hồi: Làm sao mà con người trở thành con người? Khi con người được hình thành, thức thứ tám có mặt trước tiên; và khi chết, thì thức thứ tám ra đi sau cùng.
+ THỨC THỨ TÁM Luân hồi: Xem chi tiết tại trang: Tổng hợp về Luân hồi - Chết và Tái sinh
+ HÌNH THÀNH THẾ GIỚI CHÚNG SINH VÀ SÔNG NÚI BIỂN CẢ CÂY CỎ ... TƯƠNG TỤNG
Bạch Thế tôn, nếu hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới v.v... trong thế gian đều là tánh Như Lai tạng, thanh tịnh bổn nhiên, thì làm sao lại bỗng dưng nổi lên các tướng hữu vi, núi sông đất liền, liên tục trước sau, theo nhau dời đổi?
Lại nữa, Như Lai thường nói bản tính của đất, nước, lửa, gió vốn là viên dung, bao trùm khắp pháp giới, vắng lặng, thường trú.
Bạch Thế tôn, nếu tánh của đất đầy khắp, thì làm sao còn chứa được nước? Nếu tánh của nước đầy khắp, thì lửa ắt là không sanh ra được. Lại nữa, Như Lai giải thích làm sao tánh của nước và tánh của lửa đều đầy khắp hư không mà không lấn hại lẫn nhau? Bạch Thế tôn, tánh của đất là cứng, tánh của hư không là thông suốt; làm sao cả hai tánh nầy đều cùng lúc trùm khắp pháp giới được? Con không biết nghĩa nầy sẽ dẫn đến đâu?...
Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”....
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mê muội, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Nên có phong luân nắm giữ thế giới.
Giảng giải:
Thế giới có bốn yếu tố: đất, nước, lửa, gió. Trước hết chúng ta đề cập đến phong luân. Khi muốn đem thêm cái sáng vào cho bản giác diệu minh thì vô minh liền sinh khởi và cái sáng bị trói buộc trong tính nhị nguyên, tức là cái tối. Hư không thì mê muội, hư không có khi rất tối tăm mờ mịt. Khi cái sáng của giác và cái tối tăm của hư không giao xen nhau, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Hư không và thể của giác minh, có nghĩa là vô minh do kết quả của việc đưa thêm cái sáng vào cho bản giác diệu minh–đối đãi nhau, cuối cùng tạo nên sự lay động. Ngay khi có sự lay động, liền có phong luân. Với sự lay động đó, yếu tố gió sinh khởi. Bên dưới thế giới là phong luân để nâng đỡ, duy trì thế giới. Ngày nay chúng ta nói về không gian nơi không có bầu khí quyển, nhưng vượt ra ngoài không gian lại còn có những nơi khác có gió. Chữ luân 輪 ở đây trong tiếng Hán có nghĩa là bánh xe, nhưng dịch nghĩa như thế không hợp, vì nghĩa rộng của từ nầy là trùm khắp, rộng khắp. Gió có năng lực nâng đỡ, duy trì thế giới. Điều nầy sẽ được giảng giải chi tiết trong đoạn kinh sau.
Nhân hư không mà có sự lay động, phát minh ra tánh cứng, thành ra có ngăn ngại. Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng. Thế nên có kim luân để bảo trì quốc độ.
Giảng giải:
"Nhân hư không mà có sự lay động, phát minh ra tánh cứng", nhân nơi hư không mê muội, mờ tối, và cái sáng muốn chiếu soi lại tánh giác; cái tối và cái sáng ấy xâm đoạt lẫn nhau, khiến sanh ra sự lay động và tạo thành gió. "Thành ra có ngăn ngại". Do cố giữ lấy cái vọng minh, tức muốn đem cái sáng vào trong tánh giác, muốn soi sáng cái mê muội, mờ tối của thể hư không, liền kết cái tối ấy thành sắc, nên thành ra tướng cứng chắc ngăn ngại của địa đại (yếu tố đất). Đây tức là lấy cái mê muội làm hư không, và trong thể hư không mê muội ấy, kết cái u tối hỗn trược thành sắc.
"Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng". Tất cả các loại vàng bạc và các khoáng chất quý giá đều là tinh tuý trong lòng đất (địa đại), mà tánh chất của đất thì cứng chắc và ngăn ngại còn hơn cả kim loại. Nương nơi cái biết hư vọng của vô minh mà có ra tướng cứng chắc và ngăn ngại, như trong thế gian có người si tình mà hoá thành đá vậy.
"Thế nên có kim luân để bảo trì quốc độ." Do tâm vọng chấp kiên cố mà thành tướng cứng chắc và ngăn ngại, lại kiên cố vọng chấp không dừng nghỉ, nên tích chứa thành kim luân để bảo trì quốc độ, nên tất cả các quốc gia trên thế giới, đều nương nơi kim cương luân mà được an trụ. [9]
Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ biết cái lay động thì khiến cho phong đại phát ra. Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, nên có ánh sáng của lửa (hoả đại) làm tính biến hoá.
Giảng giải:
"Biết cái cứng thì thành có kim bảo". Kim loại thì cứng và đất cũng có tính chất như vậy. Cái cứng nầy được tích chứa lâu ngày. Nhân chấp cứng cái biết sai lầm hư vọng mà thành có kim bảo.
"Rõ biết cái lay động thì khiến cho phong đại phát ra". Kim bảo tạo nên trạng thái diêu động, và từ đó phong đại sanh khởi. Trong trường hợp nầy, phong luân và kim bảo giao xen nhau. "Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, nên có ánh sáng của lửa (hoả đại) làm tính biến hoá".
Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt. Nên có thủy luân trùm khắp mười phương cõi giới.
Giảng giải:
"Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt". Khi kim loại bị nung lên, nó sẽ mềm ra và sinh ẩm ướt, nước sẽ tiết ra thành giọt trên bề mặt. Do lửa nên có sự ẩm ướt sinh ra nơi kim loại. Sự ẩm ướt nầy là tính chất của nước. Và do ánh sáng của lửa phát ra, từ sự ẩm ướt nơi kim loại, thành ra những giọt nước. Khi lửa từ phía dưới xông lên, thì kim loại tiết ra hơi nước. "Nên có thủy luân trùm khắp mười phương cõi giới". Do có hiện tượng ngưng tụ và bay hơi khi kim loại gặp lửa, nên có thủy luân tràn khắp mặt đất trong mười phương cõi giới.
Lửa thì bốc lên, nước thì sa xuống; giao xen nhau, phát ra thành tánh cứng. Chỗ ướt thành biển lớn, chỗ khô thành gò nổi.
Giảng giải:
Sau khi giải thích về thủy luân, Đức Phật giảng giải vì sao mà biển cả và núi non được hình thành. Lửa thì bốc lên, nước thì sa xuống. "Lửa thì bốc lên cao, nước thì rơi xuống". Trong đoạn kinh trước, Đức Phật đã nói rằng kim loại bốc hơi và lửa phát ra, thế nên sự ẩm ướt đã tạo nên thủy luân. Thế nên lửa thì bốc lên còn nước thì sa xuống, và sự kết hợp hai tính chất nầy làm thành tánh cứng. "Giao xen nhau, phát ra thành tánh cứng". Điều nầy tạo nên đất cứng. Chỗ ướt thành biển lớn, chỗ khô thành gò nổi. Nước rơi xuống và đọng lại trở thành sông biển. Chỗ khô thành đất liền, gò đống, núi non.
Do nghĩa ấy, nên trong biển lớn kia, thường phát ra ánh lửa; trong đất liền kia, sông ngòi thường chảy.
Thế nước kém thế lửa thì kết thành núi cao. Thế nên khi đập đá núi thì nháng tia lửa, khi nấu thì chảy ra nước.
Thế đất kém thế nước, vươn ra thành cỏ cây. Thế nên rừng cây bị đốt thì thành đất, vắt đất ra thì thành nước.
Giảng giải:
Thế đất kém thế nước, vươn ra thành cỏ cây. Khi thế của đất yếu hơn thế của nước, thì thành ra thảo mộc, cây cối. Thế nên rừng cây bị đốt thì thành đất, vắt ra thì thành nước. Tro vốn chỉ là đất. Nếu quý vị vắt cỏ lá hay thân cây thì nước liền rỉ ra.
Vọng tưởng giao xen phát sinh, lần lượt làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên đó mà thế giới tương tục.
Giảng giải:
"Vọng tưởng giao xen phát sinh, lần lượt làm chủng tử cho nhau".
Giao tức giao xen với nhau. Vọng tức là tâm hư vọng và cảnh hư vọng. Ban đâu là do sai lầm muốn soi lại tánh giác (vọng minh) mà thành có u tối, hỗn trược của hư không. Cái sáng, cái tối ấy xâm đoạt nhau thành ra diêu động nên sanh ra phong đại. Chấp cứng cái vọng minh mà thành ra có địa đại. Phong đại và kim luân cọ xát nhau mà thành hoả đại. Kim loại và hỏa đại thiêu đốt nhau mà thành thủy đại. Nên tứ đại chính là do vọng tưởng giao xen phát sinh.
Chỉ một niệm vọng tưởng sinh khởi, lửa và nước liền thành chủng tử của núi sông do sự giao xen lẫn nhau. "Do nhân duyên đó mà thế giới tương tục". Từ sự giao xen lẫn nhau nầy mà tạo nên chủng tử, thế giới hoại diệt rồi lại sinh khởi, bắt đầu rối kết thúc. Thành, trụ, hoại, không cùng vô số tướng trạng, sự tương tục của thế giới là vô cùng vô tận, tiếp diễn không bao giờ dừng nghỉ.
Lại nữa Phú-lâu-na, vọng tưởng chẳng phải là cái gì khác, chính do giác minh mà hoá ra lầm lỗi.
Giảng giải:
Lại nữa Phú-lâu-na, Như Lai sẽ giải thích cho ông rõ hơn. "Vọng tưởng chẳng phải là cái gì khác, chính do giác minh mà hoá ra lầm lỗi". Chẳng có cái gì khác lừa bẫy ông đâu; đơn giản chỉ là do ông muốn soi lại tánh giác (vọng minh). Đó là lý do khiến mọi chuyện phát sinh. Muốn soi lại tánh giác (vọng minh) chẳng khác gì trên đầu mọc thêm một cái đầu nữa.[10]
Cái sở minh hư vọng đã lập, thì phạm vi của năng minh cũng không thể vượt qua được. Do nhân duyên ấy, cái nghe không ra ngoài tiếng, cái thấy không vượt khỏi sắc.
Sáu cái vọng sắc hương vị xúc v.v... đã thành lập. Do đó chia ra có thấy nghe hay biết.
Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp, mà tách rời, mà thành, mà chuyển hoá.
Cái thấy phát minh thì sắc phát ra (Làm sao mà con người trở thành con người? Khi con người được hình thành, thức thứ tám có mặt trước tiên; và khi chết, thì thức thứ tám ra đi sau cùng_HT Tuyên Hóa giảng), soi rõ sự thấy thì có cái tưởng. Ý kiến khác nhau thành có cái ghét, cái tưởng đồng nhau thành có luyến ái. Lưu giữ tính ái thành có chủng tử, thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai. Phát sanh sự giao cấu làm hấp dẫn đồng nghiệp. Nên có nhân duyên sanh ra yết-la-lam, át-bồ-đàm[11] v.v...
Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hoá sanh, tuỳ theo nghiệp tương ứng. Thai sanh do ái tình mà có. Thấp sanh là do cơ cảm mà hợp lại, hoá sanh do phân ly mà ứng hiện.
Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau. Các loài thọ nghiệp báo cũng theo nhau lên xuống. Do nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục.
Phú-lâu-na, tư tưởng thương yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời. Thế nên cha mẹ con cháu trong thế gian sanh nhau không dứt. Loại nầy thì lấy tham dục làm gốc.
Lòng tham ái cùng giúp nhau tăng trưởng, tham mãi không dứt. Thế nên các loài noãn sanh, thai sanh thấp sanh, hoá sanh trong thế gian, tuỳ sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Loại chúng sinh nầy lấy sát và tham làm gốc.
Do người ăn dê, dê chết hoá làm người, người chết hoá làm dê. Như thế cho đến mười loại chúng sinh, sống chết xoay vần, ăn nuốt lẫn nhau. Ác nghiệp cùng tạo ra cho đến vị lai. Loại chúng sinh nầy lấy trộm đạo và tham lam làm gốc.
Ông nợ mạng tôi, tôi trả nợ thân mạng cho ông. Do nhân duyên ấy, trải qua trăm ngàn kiếp thường ở trong sinh tử.
Ông yêu cái tâm tôi, tôi yêu hình sắc của ông. Do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng buộc.
Phú-lâu-na, ba thứ tương tục điên đảo ấy, đều là do tánh sáng hư vọng muốn soi rõ tánh giác. Nhân cái liễu tri mà phát ra cảnh tướng, theo vọng tưởng mà kiến chấp phát sinh. Các tướng núi sông đất liền thứ lớp dời đổi. Do hư vọng nầy mà xoay vần không cùng tận.
Nếu cái diệu giác dó, vốn bản tính là diệu minh, cùng với tâm Như Lai không tăng không diệt. Không có cớ gì bỗng nhiên phát sanh các tướng hữu vi, núi sông đất liền. Như Lai nay đã chứng được bản giác diệu không, thế thì núi sông đất liền, các tập khí hữu lậu hữu vi, có còn sanh khởi trở lại hay không?
Đức Phật bảo Phú-lâu-na, ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm hướng nam thành hướng bắc, thì cái mê nầy do mê mà có, hay do ngộ mà ra? Phú-lâu-na bạch: “Người mê như vậy, cũng không do nơi mê, cũng chẳng do nơi ngộ. Sao vậy? Mê vốn không có gốc, làm sao do nơi mê được? Ngộ chẳng sinh ra mê, làm sao lại do nơi ngộ?”
Đức Phật dạy, “Nếu người mê kia, chính lúc đang mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ sao? Người ấy qua được cái mê, đối với xóm làng đó, có còn sanh mê nữa không?” Bạch Thế tôn, không.
Phú-lâu-na, các Đức Như Lai trong cả mười phương cũng đều như vậy. Cái mê ấy không có gốc, tánh nó rốt ráo là không. Xưa vốn chẳng có mê, tựa như có mê có giác. Giác ngộ được cái mê rồi thì cái mê ấy không còn nữa, cái giác ấy không sinh ra cái mê.
Cũng như người bị nhặm mắt thấy hoa đốm giữa hư không. Nếu bệnh nhặm được trừ, hoa đốm giữa hư không biến mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hoa đốm hư không kia đã diệt rồi, mong đợi hoa đốm kia sanh lại. Ông xem người ấy là người ngu hay người có trí huệ?
Phú-lâu-na thưa, “Vốn trong hư không không có hoa đốm, vì hư vọng mà thấy có sanh diệt. Thấy hoa đốm diệt giữa hư không, đã là người điên đảo rồi. Còn muốn nó sanh ra lại. Đó thật là người cuồng si. Sao còn phải hỏi những người cuồng như thế là ngu si hay trí huệ?”
Cũng như khoáng chất kim loại lẫn trong vàng, khi đã luyện thành vàng ròng rồi thì vàng không trở thành tạp chất kim loại nữa. Như cây cháy đã thành tro, tro ấy không trở lại thành cây được nữa.
Bồ-đề niết-bàn của chư Phật và các Đức Như Lai cũng đều như vậy. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q4 - Chương I) và xem tiếp: Kinh Thủ LN - Q4 - Chương II)
+ CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH
+ Đức Phật dậy: Để chỉ cho công đức của 6 căn con người tương quan trong thế giới. Tuy nhiên xét chỗ hơn kém thì công đức của sáu căn không nhất thiết đồng nhau, như sau:
1- Xét về nhãn căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về mắt chỉ được 800 công đức.
2- Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có 1200 công đức.
3- Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có thở ra và hít vào. Điểm giao tiếp giữa hít và thở gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.
4- Xét về thiệt căn thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gian và xuất thế gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.
5- Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.
6- Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian mười phương ba đời, thành phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức. (Nguồn: Chỉ rõ sự ràng buộc hay siêu thoát của thế giới chúng sinh, ở nửa cuối trang)
+ Đức Phật dậy về Thế giới chúng sinh
... Như hiện nay sáu thứ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà.
Do đây mà chúng sinh trong thế giới từ vô thủy phát sinh sự ràng buộc, không thể thoát khỏi các hiện tượng thế gian.
Do đây mà chúng sinh trong thế giới từ vô thủy phát sinh sự ràng buộc, không thể thoát khỏi các hiện tượng thế gian.
Giảng giải:
"Do đây mà chúng sinh trong thế giới từ vô thủy phát sinh sự ràng buộc". Sáu căn, sáu trấn, sáu thức giao thiệp lui tới với nhau, cái nầy nương vào cái kia. Giống như hai con thú lang và bái.[5] Con lang dùng hai chân trước, con bái dùng hai chân sau. Nên con lang và bái cùng dựa vào nhau để đi. Nếu chúng không hòa hợp nhau, thì con lang không thể đi được và con bái cũng không thể tự mình đi được. Một dạng tương thuộc lẫn nhau tương tự là cần phải có giữa sáu căn, sáu trần, sáu thức. Nó giữ cùng một kiểu cách như vậy. Từ vô thủy đã có sự tương tục của thế giới và tương tục của chúng sinh. Cả hai kết hợp chặt chẽ với nhau đến mức chúng sinh không thể không cần thế giới, và thế giới không thể hiện hữu mà không có chúng sinh. Hai thứ kết dính với nhau, thế nên không thể thoát khỏi các hiện tượng thế gian. Hiện tượng thế gian ở đây là chỉ cho toàn thể núi sông đất liền, các công trình tạo tác, và các thứ do con người làm ra. ‘Chúng sinh’ là chỉ cho cõi giới của các loài hữu tình. Rốt ráo các các loài hữu tình không thể tách rời ra khỏi các hiện tượng thế gian, và các hiện tượng thế gian không thể thoát ta ngoài cõi giới của các loài hữu tình. Các hiện tượng thế gian thu hút các loài hữu tình vào, hấp dẫn chúng cho đến khi cả hai cài chặt vào nhau và không cái nào thoát khỏi ra cái nào được cả. Thế nên có một sự phụ thuộc lẫn nhau trong sự tương tục của thế giới và tương tục của chúng sinh cùng sự tương tục của nghiệp quả. Không có chúng sinh, sẽ không có thế giới, sẽ không có nghiệp quả. Để có thế giới thì ắt phải có nghiệp quả và có chúng sinh. Nếu một thứ không hiện hữu, thì các thứ kia cũng không. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Chương IV)
+ Pháp hữu vi là gì? ... Tất cả pháp hữu vi như chiêm bao, bóng nước. Pháp hữu vi là gì? Tất cả những gì có hình tướng, có thể nhìn thấy, đều là pháp hữu vi. Nó giống như chiêm bao, bọt nước. Bọt nước trong biển cả, quý vị cho là thật hay giả? Nói là thật, thì sao nó lại hóa ra không có? Nói là giả, thì sao lại có cái bọt nước? Tuy có bọt nước, nhưng không phải thật tại, không có thể tánh chơn thật. Bóng, cũng là hư ảo. Lại giống như mù sương; sáng sớm có mù sương, nhưng khi mặt trời mọc lên nó lại tan biến hết. Ðiện, cũng là có; nhưng lửa điện, lửa đá chớp mắt tan đi, cũng không phải là chơn thật. Nếu có thể quán tưởng tất cả sự vật như thế thì còn có gì phải chấp trước? Không có chấp trước mới là thật hiểu rõ. Bấy giờ, quý vị sẽ không tưởng Ðông tưởng Tây, càng không tưởng Nam tưởng Bắc, tất cả vọng tưởng trần lao đều bị vất bỏ. Bỏ hết những vọng tưởng trần lao rồi, lúc ấy quý vị không muốn thành Phật cũng không được, muốn không có trí huệ cũng không được, sẽ tự nhiên có thôi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Phẩm Phổ Môn)
+ Nổi lên thì thành thế giới, lắng đọng thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương I)
+ Pháp hữu vi: ... Nhưng bây giờ Đức Phật bảo họ phải dứt khoát và từ bỏ các tướng hữu vi. Các pháp nhân duyên vốn thuộc Tiểu thừa. ‘Hưũ vi’ là chỉ cho tất cả các pháp được tạo tác. Mọi thứ có hình tướng đều là pháp hữu vi. Các pháp nhân duyên, mọi pháp có sắc tướng, rốt ráo đều phải hoại diệt. Pháp vô vi không có sắc tướng thế nên không bao giờ bị hoại diệt. Trong kinh văn phần trước Đức Phật có đưa ra ví dụ về hư không, ngài có hỏi rằng có khi nào hư không bị hoại diệt chăng? Câu trả lời là chẳng bao giờ hư không bị hoại diệt, vì nó không có hình tướng. Đó là cách khác mà Đức Phật dùng hư không để biểu tượng cho tánh Như Lai tạng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương IV)
+ PHẬT DẬY CHỈ RA HƯ VỌNG KHÔNG THẬT. PHÁT MINH CHÂN TÁNH THÌ VIÊN THOÁT
- A Nan! Sáu căn của ông bị hạn chế là bởi “tánh giác minh” bị trở thành “minh giác”. Do vậy, tánh giác minh mất phẩm chất trong sáng bản nhiên, tác dụng với các vọng mà phát ra hay biết. Hiện nay ông rời tối, rời sáng thì không có cái thấy. Rời động và rời tĩnh thì không có tánh nghe. Rời thông và bít thì không có tánh ngửi. Không vị không nhạt thì không có cái nếm. Không hợp, không ly thì không có tánh xúc. Không diệt không sanh thì cái nhận thức không có điều kiện sanh.
- Pháp Hữu Vi: Động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, bít, sanh, diệt, tối, sáng đó là 12 tướng hữu vi.
Ông đừng chạy theo sự chi phối, lôi cuốn của chúng. Tùy nghị lực của ông, nhận xét tìm ưu thế của một căn, chặt nhổ gốc rễ vô minh phiền não, xoay tánh giác minh trở về vị trí bản nguyên minh diệu của nó. Phát huy thế mạnh trừ khử mê mờ, làm chủ được một căn thì năm căn còn lại sẽ được thanh tịnh giải thoát hết. (Nguồn: xem mục Chỉ rõ chỗ hư vọng của sáu căn)
+ Các Pháp Hữu vi - Hàng Thanh văn tu gồm Động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, bít, sanh, diệt, tối, sáng đó là 12 tướng hữu vi.
+ Các tướng sắc không, tối sáng, động tĩnh, thông bít, đậm nhạt, hợp ly, sinh diệt
Hư không kia làm sao vì ông mà thành đồng hay khác? Huống chi lại gọi là một hay chẳng phải một. Thế ông đã biết, sáu căn thọ dụng cũng giống như vậy.
Do hai thứ tối sáng hiển bày lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái thấy. Cái thấy ánh hiện ra thành sắc, kết sắc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhãn căn’ như trái bồ đào. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo sắc.
Do hai tướng động tỉnh đối chọi lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái nghe. Cái nghe ánh hiện ra thành tiếng, cuộn cái tiếng lại thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhĩ căn’ là lá sen non. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo âm thanh.
Do hai tướng thông và bít phát hiện lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính ngửi. Tính ngửi ánh hiện ra thành hương, thu nạp các hương thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘tỉ căn’ như hai móng tay duỗi xuống. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo hương.
Do vị nhạt và vị khác xen lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính nếm. Tính nếm ánh hiện ra thành vị, thu nạp các vị thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘thiệt căn’ như mặt trăng lưỡi liềm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo vị.
Do hai tướng ly và hợp cọ xát lẫn nhau, kết dính sự yên lặng trong tánh diệu viên mà phát ra cái biết xúc chạm. Tính biết xúc chạm ánh hiện thành xúc, thu nạp các xúc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi thể của ‘thân căn’ như cái trống cơm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo xúc.
Do hai thứ sinh diệt tương tục lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái biết. Tính biết ánh hiện thành các pháp, thu nạp các pháp thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi là ‘ý tư,’ như cái thấy trong nhà tối. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo pháp.(Đoạn kinh nầy nói đến ý căn, tức thức thứ sáu, là đối tượng của sinh diệt. Khi niệm trước vừa đình chỉ, niệm sau liền sinh khởi. Năng lực của tánh biết là thu nạp các pháp, chính là trần cảnh. Ý căn bị thu hút bởi pháp trần_HT Tuyên Hóa)
A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng. (chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà tánh giác ấy biến thành vọng giác và vọng minh–kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám_HT Tuyên Hóa)
Vậy nên nay ông rời tối rời sáng, thì không có cái thể của thấy. Rời động rời tỉnh, thì không có cái nghe. Không có thông không bít, thì tính ngửi không phát sinh. Không có mùi vị, không lạt, thì tính nếm không có. Không rời xa, không kết hợp thì tánh xúc chẳng có. Không sanh không diệt, thì cái biết gá chỗ nào?
Ông chỉ cần không theo động tĩnh hợp li, điềm biến thông tắc, sanh diệt ám minh, mười hai tướng như vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4)
+ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn sanh trở lại nữa không
.... Nổi lên/ Sanh vô minh thì thành thế giới, lắng đọng/ Diệt vô minh thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi.
Phú-lâu-na hỏi, “Như Lai nay đã chứng được bản giác diệu không, thế thì núi sông đất liền, các tập khí hữu lậu hữu vi, có còn sanh khởi trở lại hay không?
Đức Phật bảo Phú-lâu-na, ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm hướng nam thành hướng bắc, thì cái mê nầy do mê mà có, hay do ngộ mà ra? Phú-lâu-na bạch: “Người mê như vậy, cũng không do nơi mê, cũng chẳng do nơi ngộ. Sao vậy? Mê vốn không có gốc, làm sao do nơi mê được? Ngộ chẳng sinh ra mê, làm sao lại do nơi ngộ?”....
Phú-lâu-na hỏi, “Như Lai nay đã chứng được bản giác diệu không, thế thì núi sông đất liền, các tập khí hữu lậu hữu vi, có còn sanh khởi trở lại hay không?
Đức Phật bảo Phú-lâu-na, ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm hướng nam thành hướng bắc, thì cái mê nầy do mê mà có, hay do ngộ mà ra? Phú-lâu-na bạch: “Người mê như vậy, cũng không do nơi mê, cũng chẳng do nơi ngộ. Sao vậy? Mê vốn không có gốc, làm sao do nơi mê được? Ngộ chẳng sinh ra mê, làm sao lại do nơi ngộ?”
Đức Phật dạy, “Nếu người mê kia, chính lúc đang mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ sao? Người ấy qua được cái mê, đối với xóm làng đó, có còn sanh mê nữa không?” Bạch Thế tôn, không.
Phú-lâu-na, các Đức Như Lai trong cả mười phương cũng đều như vậy. Cái mê ấy không có gốc, tánh nó rốt ráo là không. Xưa vốn chẳng có mê, tựa như có mê có giác. Giác ngộ được cái mê rồi thì cái mê ấy không còn nữa, cái giác ấy không sinh ra cái mê.....
Cũng như khoáng chất kim loại lẫn trong vàng, khi đã luyện thành vàng ròng rồi thì vàng không trở thành tạp chất kim loại nữa. Như cây cháy đã thành tro, tro ấy không trở lại thành cây được nữa. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q4 - Chương 1)
+ Giảng về các Bảy Đại: ... A-nan bạch Phật: Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về nhân duyên hòa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q3)
+ Âm Dương Dị Đồng: Phật dậy A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện thành thế giới hữu vi. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; Những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
- Bản thể của hiện tượng là Như Lai Tạng thì bao trùm khắp 10 phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắp mà biến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong tiến trình bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Nói cách khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến hiện thành ra thế giới hữu vi.
- Phẩm Tính Âm Dương Đối Chọi: Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có 3 trường hợp về tánh đồng và dị:
1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì việc kéo rất dễ dàng.
- Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội - Làm giảm bớt, hao tổn sức mạnh. Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn.
2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống thì khắc nhau (Tương khắc, đẩy nhau) và Dị tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau (Tương hợp, hút nhau). Thí dụ hai người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương thì nó sẽ hút lại.
3) Đồng chủng tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại thì phụ cho nhau nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay.
- Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật củ mất đi để hình thành sự vật mới nối tiếp.
- Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện chớp, có đó rồi mất đó. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q4 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các Tướng: Hợp ly - Ly hợp là Các tướng - Cảnh trần - Trần lao - Trần tướng. Các pháp hữu vi
... Các tướng sắc không, tối sáng, động tĩnh, thông bít, đậm nhạt, hợp ly, sinh diệt
Hư không kia làm sao vì ông mà thành đồng hay khác? Huống chi lại gọi là một hay chẳng phải một. Thế ông đã biết, sáu căn thọ dụng cũng giống như vậy.
Do hai thứ tối sáng hiển bày lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái thấy. Cái thấy ánh hiện ra thành sắc, kết sắc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhãn căn’ như trái bồ đào. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo sắc.
Do hai tướng động tỉnh đối chọi lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái nghe. Cái nghe ánh hiện ra thành tiếng, cuộn cái tiếng lại thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhĩ căn’ là lá sen non. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo âm thanh.
Do hai tướng thông và bít phát hiện lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính ngửi. Tính ngửi ánh hiện ra thành hương, thu nạp các hương thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘tỉ căn’ như hai móng tay duỗi xuống. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo hương.
Do vị nhạt và vị khác xen lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính nếm. Tính nếm ánh hiện ra thành vị, thu nạp các vị thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘thiệt căn’ như mặt trăng lưỡi liềm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo vị.
Do hai tướng ly và hợp cọ xát lẫn nhau, kết dính sự yên lặng trong tánh diệu viên mà phát ra cái biết xúc chạm. Tính biết xúc chạm ánh hiện thành xúc, thu nạp các xúc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi thể của ‘thân căn’ như cái trống cơm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo xúc.
Do hai thứ sinh diệt tương tục lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái biết. Tính biết ánh hiện thành các pháp, thu nạp các pháp thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi là ‘ý tư,’ như cái thấy trong nhà tối. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo pháp.(Đoạn kinh nầy nói đến ý căn, tức thức thứ sáu, là đối tượng của sinh diệt. Khi niệm trước vừa đình chỉ, niệm sau liền sinh khởi. Năng lực của tánh biết là thu nạp các pháp, chính là trần cảnh. Ý căn bị thu hút bởi pháp trần_HT Tuyên Hóa)
A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng. (chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà tánh giác ấy biến thành vọng giác và vọng minh–kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám_HT Tuyên Hóa)
Vậy nên nay ông rời tối rời sáng, thì không có cái thể của thấy. Rời động rời tỉnh, thì không có cái nghe. Không có thông không bít, thì tính ngửi không phát sinh. Không có mùi vị, không lạt, thì tính nếm không có. Không rời xa, không kết hợp thì tánh xúc chẳng có. Không sanh không diệt, thì cái biết gá chỗ nào?
Ông chỉ cần không theo động tĩnh hợp li, điềm biến thông tắc, sanh diệt ám minh, mười hai tướng như vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4)
+ NHÂN DUYÊN SANH LÀM NGƯỜI VÀ MUÔN LOÀI CHÚNG SINH
Đức Phật giảng cho ngài Phú Lâu na:
Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp, mà tách rời, mà thành, mà chuyển hoá.
Giảng giải:
Đồng nghiệp là chỉ cho nghiệp mình đã tạo nên và chỉ cho người cha và mẹ của mình–những nhân duyên nầy giống nhau. “Đồng nghiệp” cũng chỉ cho những niệm tưởng ái luyến sinh khởi ràng buộc lẫn nhau. Đồng nghiệp phát sinh cảm xúc luyến ái và sợ phải xa lìa. Đàn ông đàn bà dính chặt với nhau như keo sơn. Sự ràng buộc lẫn nhau nầy tạo nên dạng thai sanh và noãn sanh.
Kinh văn:
Cái thấy phát minh thì sắc phát ra, soi rõ sự thấy thì có cái tưởng. Ý kiến khác nhau thành có cái ghét, cái tưởng đồng nhau thành có luyến ái. Lưu giữ tính ái thành có chủng tử, thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai. Phát sanh sự giao cấu làm hấp dẫn đồng nghiệp. Nên có nhân duyên sanh ra yết-la-lam, át-bồ-đàm[11] v.v...
Giảng giải:
Cái thấy phát minh thì sắc phát ra. Làm sao mà con người trở thành con người? Khi con người được hình thành, thức thứ tám có mặt trước tiên; và khi chết, thì thức thứ tám ra đi sau cùng. Nên có bài kệ:
Khứ hậu lai tiên tác chủ ông.[12]
去 後 來 先 作 主 翁
Trước khi thức thứ tám ra đi, thân thể con người vẫn còn hơi ấm. Khi thức thứ tám đi rồi, thân xác trở nên lạnh. Khi thức thứ tám ra đi đầu thai, nó trở thành thân trung ấm.[13] Nếu đầu thai làm người, thì thân trung ấm có hình tướng người; nếu đầu thai làm súc sinh, thì thân trung ấm có hình tướng súc sinh. Giống như được mô phỏng từ một cái khuôn. Bất luận có ở nơi xa với cha mẹ trong tiềm thức bao nhiêu, thức thứ tám nầy cũng tìm đến được nếu nó có nhân duyên với họ. Đối với thân trung ấm, mọi thứ đều là một màu đen tuyền. Chúng ta có được ánh sáng đèn điện, ánh sáng mặt trời, mặt trăng; nhưng thân trung ấm thì không thấy được các thứ ánh sáng ấy. Nó chỉ thấy được một màu đen như mực. Thế nên khi cha mẹ trong tiềm thức của nó giao cấu nhau, nó sẽ thấy được một chút ánh sáng nhỏ như đầu kim loé lên, bởi vì nó có mối tương quan với họ. Soi rõ sự thấy thì có cái tưởng. Ngay lúc thấy ánh sáng loé lên, thì cái tưởng liền hiện hữu. Tưởng điều gì? Suy nghĩ, phân biệt. Ý kiến khác nhau thành có cái ghét. Khi người ta không đồng quan điểm với mình, thì mình ghét họ. Cái tưởng đồng nhau thành có luyến ái. Khi có người dù có những sai lầm giống như mình, mình cũng yêu thích họ.
Nếu thân trung ấm là nam, nó sẽ yêu mẹ mà ghét cha. Nó sẽ có ý muốn đánh đuổi cha nó đi để lấy mẹ nó. Nó muốn giao hợp với mẹ nó. Thế nên cội nguồn xuất phát của con người rất là tồi tệ. Yêu mẹ nó và ghét cha nó, bằng một niệm vô minh như vậy, nó liền nhập vào thai mẹ. Lưu giữ tính ái thành có chủng tử, thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai.
Nếu thân trung ấm là nữ, nó sẽ yêu cha và ghét mẹ. Đó là cách hình thành niệm tưởng.
Những ai thích nói về yêu đương thường khó chấm dứt luân hồi sinh tử. Vì yêu đương là cội gốc của sinh tử luân hồi. Những người thích nói về yêu đương cũng có thể chấm dứt luân hồi sinh tử rất nhanh chóng. Tại sao tôi lại mâu thuẫn với chính mình qua hai câu nói trái ngược nhau, trong lúc hai ý trong đó hoàn toàn đúng? Điều kỳ diệu là nằm ở đó. Quý vị phó mặc mình cho tình yêu đương luyến ái, nhưng yêu đương lại kéo người ta vào nẻo được luân hồi sinh tử. Tại sao vậy? Vì con người sinh ra từ tham ái và chết trong tham ái. Đây là chuyện thường tình phải xảy ra. Mọi người ai cũng đi trên con đường luân hồi sinh tử nầy cả.
Thế nên tôi nói nếu quý vị chiêm nghiệm thật kỹ về chuyện tình ái thì quý vị có thể nhanh chóng chấm dứt luân hồi sinh tử, nếu quý vị dốc lòng quán chiếu thật kỹ, quý vị sẽ thấy rất tường tận và sẽ chuyển hoá được chúng.
Biển khổ mênh mông, Quay đầu là bờ.
Khổ hải mang mang, Hồi đầu thị ngạn.
苦 海 芒 芒 迴 頭 是 岸.
Nếu quý vị thấy xuyên suốt được vấn đề luyến ái, thì quý vị có thể chấm dứt luân hồi sinh tử. Con người cũng giống như loài sâu trong bắp cải, nó sinh ra, sống trong bắp cải và chết trong bắp cải. Con người sinh ra do tham ái và chết trong tham ái.
“Lưu giữ tính ái thành có chủng tử.” Nam nữ bày tỏ tình yêu của họ và cố lưu giữ cho đến khi có một dấu tích hữu hình của tình yêu ấy. Một khi tình yêu trở thành dấu tích hữu hình, nghĩa là có một hạt giống vừa được sinh ra.
“Tưởng” ở đây là chỉ cho thức thứ tám– tức là thân trung ấm.
Nên có nhân duyên sanh ra yết-la-lam, át-bồ-đàm v.v...
Yết-la-lam là chỉ cho bào thai vừa mới trưởng thành trong tuần đầu tiên. Yết-la-lam dịch là ngưng hoạt 凝滑, tức là do tinh cha huyết mẹ ngưng kết lại mà thành chất nầy.
Tuần thứ hai chất nầy được gọi là át-bồ-đàm, dịch nghĩa là bào, bắt đầu có thể trạng của bào thai.[14]
Tuần thứ ba gọi là bế-thi, ý dịch là khối thịt mềm (nhuyễn nhục),
Tuần thứ tư gọi là yết-nam 羯南, ý dịch là khối thịt cứng (ngạnh nhục 硬肉),
Tuần thứ năm gọi là thể-la-tra-khư (praśākhā), ý dịch là hình vị, cũng gọi là chi tiết, tứ chi và các phần khác đều đầy đủ.
Chúng ta hãy xem xét kỹ về chuỗi mười hai nhân duyên. Nguyên nhân để nam nữ phải lòng nhau – Phát sinh niệm tưởng tình ái, chính là do vô minh, tức một niệm vô minh sinh khởi trước tiên.
“Vô minh duyên hành.” Hành ở đây chính là sự giao cấu.
“Hành duyên thức.” Tức là thức thứ tám được đề cập ở đoạn kinh trên, “thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai.” Thức chính là thân trung ấm nhập vào bào thai.
“Thức duyên danh sắc.” Danh là sự phát triển của bào thai từ tuần thứ nhất đến tuần thứ tư. Sắc là sự phát triển của bào thai từ tuần thứ năm đến tuần thứ sáu .
“Danh sắc duyên lục nhập.” Từ tuần thứ bảy trở đi, bào thai đã được hình thành đầy đủ các bộ phận: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm ý.
“Lục nhập duyên xúc.” Khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý được hình thành, thì liền có cái biết của sự xúc chạm. Bào thai trong bụng người mẹ cảm nhận được sự xúc chạm nầy.
“Xúc duyên thọ.” Bào thai là nơi nhận biết sự xúc chạm nầy.
“Thọ duyên ái.” Khi có sự xúc chạm, liền phát khởi lòng ham thích. Đây chính là điểm khởi đầu của tình yêu. Và cũng trả lời cho câu hỏi tại sao nam nữ yêu nhau: ngay cả khi trong giai đoạn bào thai, nguyên nhân nầy đã được gieo trồng–đã có niệm tưởng luyến ái rồi.
“Ái duyên thủ.” Khi đã có niệm tưởng về ái, người ta muốn có một đối tượng tình yêu của riêng mình–mình muốn đối tượng tình yêu thành vật sở hữu của chính mình.
“Thủ duyên hữu, hữu duyên sinh.” Một khi mình đã có nó, nghĩa là mình liền được sinh ra.
“Sinh duyên lão tử.” Khi có sinh ra thì liền có sự chết. Thế nên các vị Duyên giác[15] quán chiếu mười hai nhân duyên nầy và biết đâu là hạt giống, nhân và duyên đều là bất tịnh. Tinh cha và huyêt mẹ đều là những thứ không thanh tịnh.
Nếu quý vị muốn chấm dứt luân hồi sinh tử, điều trước hết phải làm là quý vị đừng sinh khởi vô minh. Làm thế nào để được như vậy? Đừng khởi niệm tưởng tình ái! Không có vô minh thì không có hành. Nam nữ quan hệ với nhau hoàn toàn do vì một niệm vô minh ban đầu. Cái gì là vô minh? Đó là ‘Tôi không biết...’
Chẳng hạn, khi người nam thấy một người nữ, có thể cô ta đẹp, nhưng rốt ráo, tại sao anh ta động lòng? Đó chính là khi tâm động, và đó cũng là lúc vô minh sinh khởi. Khi người phụ nữ có cảm tình với người đàn ông, thì cũng tương tự như vậy. Vô minh, do vậy, chính là cội gốc của luân hồi sinh tử. Và đó chính là nơi mà mọi việc đều bắt đầu.
Khi quý vị đã hiểu mười hai nhân duyên và không bị xoay chuyển bởi chúng thì:
Khi vô minh diệt thì,
Hành diệt. Khi Hành diệt thì,
Thức diệt. Khi Thức diệt thì,
Danh sắc diệt. Khi Danh sắc diệt thì,
Lục nhập diệt. Khi Lục nhập diệt thì,
Xúc diệt. Khi Xúc diệt thì,
Thọ diệt. Khi Thọ diệt thì,
Ái diệt. Khi Ái diệt thì,
Thủ diệt. Khi Thủ diệt thì,
Hữu diệt. Khi Hữu diệt thì,
Sinh diệt. Khi Sinh diệt thì,
Lão tử diệt.
Đây là phương pháp của chiều hoàn diệt. Nếu quý vị chọn con đường theo chiều lưu chuyển, thì quý vị làm người. Nếu quý vị đi theo con đường hoàn diệt, thì quý vị thành Phật. Thế nên các vị Duyên giác quán sát mười hai nhân duyên và suy nghĩ, “Tại sao con người được sanh ra? À! Nguồn gốc nơi họ sinh ra cực kỳ bất tỉnh. Đó là hỗn hợp của tinh cha huyết mẹ, tạo nên thành bào thai nên hoàn toàn bất tỉnh.” Thế nên họ đoạn trừ vô minh và chấm dứt luân hồi sinh tử. Vào thời Lương Vũ Đế, Phật pháp hưng thịnh. Khi nào có đám cưới, các Pháp sư đều được thỉnh đến để tụng kinh thuyết pháp. Vào ngày sinh của trẻ con, các Pháp sư cũng được thỉnh đến để thuyết pháp và chúc mừng. Các Pháp sư thường có một bài pháp ngắn tán thán những điều tốt lành–chúc những điều tốt đẹp. Lúc ấy có một người giàu có tổ chức đám cưới cho con trai. Ông ta thỉnh Thiền sư Chí Công đến thuyết pháp và chúc mừng. Khi Thiền sư Chí Công đến nhà, ngài nhìn chung quanh rồi nói:
Lạ thay! Lạ thay!
Cháu cưới bà nội.
Con gái ăn thịt mẹ.
Con đánh cha.
Heo dê ngồi trên ghế.
Lục thân nồi da xáo thịt.
Người đến chúc mừng nhau.
Đúng thật là cảnh khổ.
Tại sao lại có chuyện cháu cưới bà nội? Là vì khi đứa cháu trai mới lên hai thì bà nội qua đời. Khi đang hấp hối, bà ta nắm chặt tay đứa cháu trai và nói, “Đã đến lúc bà phải đi đầu thai, nhưng bà không thể nào quên được cháu. Không biết có ai sẽ chăm sóc cháu sau nầy?” Bà chết khi tay vẫn nắm chặt tay đứa cháu trai.
Sau khi chết bà ta được đưa đến gặp vua Diêm La. Vua nói, “Ồ! Bà thương cháu mình nhiều vậy sao? Được rồi, bà hãy trở về lại cõi nhân gian rồi đầu thai làm vợ nó.” Thế nên bà ta được đầu thai làm người, khi đứa cháu trai đến tuổi thành hôn, nó liền chọn bà cưới làm vợ. Tại sao Thiền sư Chí Công biết được điều nầy? Vì ngài chứng được tha tâm thông và túc mạng thông. Ngài đã khai mở được Phật nhãn.
Khi nhìn ra trước nhà, ngài nói, “Con gái ăn thịt mẹ.” vì ngài thấy đứa bé gái đang ăn một đùi thịt heo. Mẹ nó đã chết và đầu thai làm heo trong nhà nầy. Con heo nay bị làm thịt để đãi khách đến dự đám cưới, và đứa con gái thật là đang ăn thịt mẹ mình vậy!
Khi ngài thấy các nhạc công đang ngồi bên cửa ra vào, ngài nói: “Cái trống mà đứa con trai đang đánh là được bọc bằng da của cha nó.” Người đánh trống đang sử dụng cái trống bọc bằng da dê. Cha của anh ta đã chết và đầu thai làm dê. Con dê đã bị làm thịt, thuộc da, và người đánh trống chẳng khác nào con đang đánh cha mình cả!
Rồi Thiền sư Chí Công lưu ý mọi người rằng, “Heo dê ngồi trên bàn.” Ngài thấy heo dê đang ngồi như những người khách trên những bộ ván ngựa giữa nhà. Đời nầy họ là người, nhưng trong những đời trước, họ đã từng là heo dê. Trong những đời trước họ là heo dê đã bị người ăn thịt, thế nên bây giờ khi họ được mang thân người, họ lại ăn thịt những người bị đoạ làm heo dê để đòi nợ.
Khi Thiền sư Chí Công nhìn thấy nồi thịt đang sôi, ngài kêu kên, “Lục thân nồi da xáo thịt.” Lục thân gồm họ hàng bên cha và bên mẹ, họ hàng của anh rể chị dâu, và họ hàng bên nội, bên ngoại của vợ (chồng) mình. Họ đều là những người bà con rất gần gũi, nhưng bây giờ đều đã đầu thai làm heo dê, lại bị giết thịt, đang bị nấu trong nồi.
Thiền sư Chí Công kết luận: “Người đến chúc mừng nhau.” Ai cũng đến nói lời chúc tụng. Nhưng Thiền sư lưu ý, “Tôi thấy đây toàn là cảnh khổ.” Những gì tôi thấy được chỉ toàn là chuyện khổ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương I)
+ Đồng Dị:
Nổi lên thì thành thế giới, lắng đọng thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi.
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mê muội, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Nên có phong luân nắm giữ thế giới. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương I)
+ Đồng Dị phát sinh:
Phú Lâu Na - Giác chẳng phải là cái gì cần phải tác động vào mới sáng (sở minh), nhân có minh mà lập ra sở, Đã hư vọng lập ra sở rồi, mới lập nên cái năng hư vọng nơi ông. Thế nên trong cái không giống, không khác, bỗng dưng thành ra có khác.
Khác với cái khác kia, nhân cái khác đó mà lập cái đồng. Đã phát minh cái đồng cái khác rồi, nhân đó lại lập cái không đồng không khác.
Giảng giải:
Dị bỉ sở dị: Chữ dị trước là hoạt tự, mang tính linh động, có nghĩa là bất đồng, không giống. Chữ dị sau là thật tự, mang nghĩa thật, tức là cảnh giới của dị tướng. Có nghĩa là đối với cái khác bất đồng thì tức thời thành ra tướng của cảnh giới.
Nhân dị lập đồng: Nhân đối với cảnh giới của dị tướng, lại lập nên tướng đồng của hư không, tức là nương nơi năng kiến mà vọng sinh có hư không và thế giới.
Đồng dị phát minh: Hư không là tướng đồng, thế giới là tướng dị, một đồng một dị cùng nhau phát minh, thành ra có chúng sinh giới.
Nhân thử phục lập vô đồng vô dị: Cảnh giới của chúng sinh vốn không giống nhau, hình mạo của chúng sinh đều khác nhau nên gọi bất đồng.
Sai lầm hư vọng khiến lập nên nghiệp tướng rồi phát sinh luôn chuyển tướng. Một khi chuyển tướng đã sinh khởi rồi thì trong cái nầy khác với cái khác kia, nhân cái khác đó mà lập cái đồng.
Trong thể không, nơi chẳng có gì là đồng, chẳng có gì là khác; cái khác trở nên hiện hữu, nóng bỏng và sáng láng như món trang sức trên đầu. Vốn trong chân không, không có cái đồng cái khác, nhưng đột nhiên hai thứ nầy hình thành và tạo nên thế giới.
Theo đó là sự hình thành những gì vốn chẳng đồng như cái khác (dị) đã được lưu xuất từ hư không. Tiếp theo chuyển tưởng là sự sinh khởi của hiện tướng; thế nên trong hư không mà thế giới biểu hiện.
Phú-lâu-na hỏi tại sao trong Như Lai tạng mà bỗng nhiên phát sinh núi sông đất liền. Nay Đức Phật đang trả lời vấn đề đó.
Rối loạn như vậy, đối đãi nhau sinh ra mệt mỏi. Mệt mỏi lâu dài phát ra trần tướng, tự làm vẩn đục lẫn nhau. Do đó đưa đến khởi phát trần lao phiền não. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương IV)
+ Tự Nhiên và Hòa Hợp
Phải không sanh diệt, mới gọi là tự nhiên. Như trong thế gian, các tướng hòa hợp với nhau thành một thể. Đó gọi là tánh hòa hợp.
Giảng giải:
Phải không sanh diệt, mới gọi là tự nhiên. Như trong thế gian, các tướng hòa hợp với nhau thành một thể. Đó gọi là tánh hòa hợp.
Nói rằng tự nhiên là đối nghịch với sanh diệt cũng như thể nói rằng tự nhiên là đối nghịch với các tướng hòa hợp trong thế gian thành một thể. Giống như nói rằng không hòa hợp là tự nhiên. Trong những thuật ngữ nầy, ‘tự nhiên’ là vẫn còn trong phạm trù nhị nguyên.
Cái chẳng phải hòa hợp thì gọi là tánh bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải là bản nhiên, hòa hợp chẳng phải là hòa hợp. Hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ, ngay cả cái rời bỏ đều chẳng phải. Câu nói nầy mới được gọi là pháp không hí luận.
Cái chẳng phải hòa hợp thì gọi là tánh bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải là bản nhiên, hòa hợp chẳng phải là hòa hợp. Hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ, ngay cả cái rời bỏ đều chẳng phải. Câu nói nầy mới được gọi là pháp không hí luận.
Giảng giải:
Cái chẳng phải hòa hợp thì gọi là tánh bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải là bản nhiên, hòa hợp chẳng phải là hòa hợp.
“Hòa hợp” là chỉ cho nhân duyên. Khi tự nhiên chẳng phải là tự nhiên và hòa hợp không có nhân duyên của hòa hợp, thế là hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ. Hai thuyết tự nhiên và hòa hợp đều được khiển trừ. Ngay cả cái rời bỏ đều chẳng phải. Khi tách rời hẳn nhân duyên và tự nhiên, thì còn nhân duyên và tự nhiên, cả hai pháp đều phải khiển trừ. Câu nói nầy mới được gọi là pháp không hí luận. Chẳng phải nhân duyên cũng chẳng phải tự nhiên. Đó mới là lời giải thích chân thực vì đó không phải là hí luận–đó không phải là lời nói để đánh đố. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương III)
+ Vài điều về Thuật Dưỡng Sinh:
81. Con người chỉ khi ngộ ra được cái gì là “tự nhiên”, mới được coi là đắc đạo. Biết được tự nhiên, sau đó mới có thể tùy kỳ tự nhiên. người này chính là Thần nhân. Hiểu được âm dương, hiểu được tùy kỳ tự nhiên, bạn nhất định sẽ trở thành lương y đại đức.
82. Cái gì là tự nhiên, tự nhiên chính là bất kỳ sự vật gì đều có hai mặt âm dương, bất kỳ sự vật nào đều cần trải qua quá trình Sinh (sinh sản), Trưởng (tăng trưởng), Thu (thu hoạch), Tàng (tàng trữ). Bạn thuận theo quá trình này, sử dụng nguyên lý tương sinh tương khắc của ngũ hành để điều tiết sự cân bằng của bệnh nhân, làm sao mà không trị được khỏi bệnh chứ.
86. Đạo về âm dương chính là sự tương hỗ dựa vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau của hai phương diện mâu thuẫn đối lập. Bất kỳ một cặp mâu thuẫn nào, nếu một bên thoát ly khỏi bên kia, không còn chịu sự ức chế của đối phương nữa, thì thời điểm mà nó bị diệt vong cũng không còn xa. Bạn thử nhìn xem, xã hội ngày nay, các lãnh đạo đều không thích bị khống chế, thích được độc lập tự do, thích làm theo ý mình, tham ô hối lộ, thế thì kết quả là gì đều có thể tưởng tượng ra được. Âm và dương chính là như thế. Trong đại tự nhiên, khi một sự vật xuất hiện, đều có mang theo nhân tố do nó sinh ra, nhưng đồng thời cũng sẽ xuất hiện một nhân tố để khắc chế nó. Đó chính là đạo lý ngũ hành tương sinh tương khắc, cũng là đạo lý dựa vào nhau, ức chế lẫn nhau của âm dương. Cho nên đạo lý dưỡng sinh cũng vậy, khi bạn bị bệnh, luôn tồn tại một nhân tố khiến bạn sinh bệnh, đồng thời cũng sẽ có một nhân tố ức chế nó, có thể giúp bạn tiêu trừ nhân tố gây bệnh. Tương tự như thế trong thế giới tự nhiên, tại chỗ có tồn tại rắn độc, chắc chắn khu vực xung quanh sẽ có tồn tại loại thảo dược có thể giải độc. Cụ thể, xem các Danh Y cổ đã để lại các lời dậy: Tổng hợp các Lời dậy Danh Y Cổ
+ Hòa hợp (coalesce): Các Chân Ngã ở cùng một cung thì sẵn sàng hòa hợp và hòa nhịp với nhau hơn là các Chân Ngã ở trên các cung khác nhau, và chỉ khi nào trạng thái thứ hai hay trạng thái minh triết được phát triển thì mới có được sự tổng hợp. (TVTTHL, 38)
+ Các Tương Tác: Động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, bít, sanh, diệt, tối, sáng đó là 12 tướng hữu vi
- Đức Phật dậy A Nan! Sáu căn của ông bị hạn chế là bởi “tánh giác minh” bị trở thành “minh giác”. Do vậy, tánh giác minh mất phẩm chất trong sáng bản nhiên, tác dụng với các vọng mà phát ra hay biết. Hiện nay
1-2. Với cái thấy: Ông rời tối, rời sáng thì không có cái thấy.
3-4. Với Tánh nghe: Rời động và rời tĩnh thì không có tánh nghe.
5-6. Với Mũi ngửi: Rời thông và bít thì không có tánh ngửi.
7-8. Với Lưỡi nếm: Không vị không nhạt thì không có cái nếm.
9-10. Với Xúc chạm: Không hợp, không ly thì không có tánh xúc.
11-12. Với Ý - Nhận thức: Không diệt không sanh thì cái nhận thức không có điều kiện sanh.
- Ông đừng chạy theo sự chi phối, lôi cuốn của 12 tướng hữu vi của chúng. Tùy nghị lực của ông, nhận xét tìm ưu thế của một căn, chặt nhổ gốc rễ vô minh phiền não, xoay tánh giác minh trở về vị trí bản nguyên minh diệu của nó. Phát huy thế mạnh trừ khử mê mờ, làm chủ được một căn thì năm căn còn lại sẽ được thanh tịnh giải thoát hết (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q4 - HT Tuyên Hóa giảng)
I- THEO DỊCH HỌC ĐÔNG PHƯƠNG - ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH BÁT QUÁI
1- Âm Dương tương tác:
2- Ngũ Hành tương tác:
3- Bát Quái tương tác:
II- THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Định Đề 1 - Nhị Nguyên hay Âm Dương (LVHLT, 21):
- Tinh Thần ....... Vật Chất Sự Sống
- Sắc Tướng Cha ...... Mẹ
- Dương/ Tích Cực .... Âm/ Tiêu Cực
- Bóng Tối ..... Ánh Sáng
+ Ion âm và dương: Các ion âm và dương mà nhà khoa học nói tới, có bản chất là dĩ thái, và do đó, thuộc về cõi trần. Các hạt nhỏ không thấy được này của vật chất chỉ có thể được dò ra nhờ các hiệu quả của chúng và nhờ sự can thiệp vào các hoạt động của chúng, vốn là các hạt chuyển động nhanh, có liên quan với nhau và đồng thời, chính bản thân chúng bị tác động bởi một yếu tố kềm chế quan trọng hơn đang giữ cho chúng chuyển động như thế. (CTNM, 369–370)
+ Các Đại tương tác:
III - THEO PHẬT GIÁO
+ Ở THIÊN LÀ THỂ KHÍ - Các Đại Ở Hư Không Có Thể Hòa đồng: Phật bảo - Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau... Mặt trời soi sáng, Cái Sáng không phải mặt trời, cũng không phải hư không nhưng không nằm ngoài Mặt trời và Hư không; - Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng: Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn: “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong…cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.
- Phật dậy: Trong bản tánh minh diệu của Như Lai Tạng, ông cần phát minh hư không thì có hư không hiện ra. Ví như một dòng nước in bóng mặt trăng. Hai người cùng trông thấy bóng mặt trăng in đáy nước. Rồi người đi về Đông, người đi về Tây cả hai đều thấy có mặt trăng theo mình mà không có chuẩn đích cho mặt trăng cố định. Trước sự kiện đó không nên gạn hỏi : Mặt trăng là một, sao có thể đi theo hai hướng khác nhau? Cũng không được hỏi : Mặt trăng đã thành hai, sao trước kia hiện ra có một? => Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậy mà Như Lai dạy : ”Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh không chơn sắc…” Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình. Nguồn: Xem mục Giác không sinh mê ...
+ Ở ĐẤT THÀNH HÌNH - Âm Dương Dị Đồng: Phật dậy A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện thành thế giới hữu vi. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; Những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
- Bản thể của hiện tượng là Như Lai Tạng thì bao trùm khắp 10 phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắp mà biến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong tiến trình bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Nói cách khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến hiện thành ra thế giới hữu vi.
- Phẩm Tính Âm Dương Đối Chọi: Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có 3 trường hợp về tánh đồng và dị:
1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì việc kéo rất dễ dàng.
- Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội - Làm giảm bớt, hao tổn sức mạnh. Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn.
2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống thì khắc nhau (Tương khắc, đẩy nhau) và Dị tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau (Tương hợp, hút nhau). Thí dụ hai người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương thì nó sẽ hút lại.
3) Đồng chủng tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại thì phụ cho nhau nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay.
- Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật củ mất đi để hình thành sự vật mới nối tiếp.
- Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện chớp, có đó rồi mất đó.
PHẬT DẠY VỀ TƯỚNG TƯƠNG TỤC
I- Thế Giới Tương Tục - Phật bảo rằng:
-Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động. Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì. Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn. Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó, trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau. Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào.
II- Chúng Sinh Tương Tục:
Lại nữa, Phú Lâu Na! “Vọng minh” không phải là cái khác lạ. Do vì chúng sinh dùng cái kiến minh tri để minh tánh giác mà có sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh, tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sáu vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”. Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì hấp dẫn lúc hợp lúc ly, khi tình khi tưởng. Tánh thấy “năng minh” có thì đương nhiên có sắc sở minh hiển hiện. Chủ thế đối tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy.
Do tư duy có sự tưởng tượng nhận thức : Hễ ý kiến bị phủ nhận, sanh tâm lý ghen ghét. Tư tưởng được đồng tình, sanh tâm lý yêu thương. Dòng nước yêu thương kết thành chủng tử, thu nạp tưởng tượng hấp dẫn nghiệp đồng, tác hợp với “yết la lam” thành trạng thái của phôi trong thời gian gọi là “ngưng hoạt” (tinh trùng và noãn sào mới hợp nhau trong ba bốn tuần đầu). Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh, tuỳ nghiệp đồng và thích ứng của mỗi loài mà cảm ứng. Thai nhơn tình mà có. Noãn do tưởng mà sinh. Thấp bởi hợp mà cảm. Hóa vì ly mà ứng. Tình, tưởng, hợp, ly luôn luôn vận động đổi thay theo nghiệp sở hành mà cảm thọ : Khi đi lên, lúc đi xuống xoay vần trong sáu nẻo. Đó là nguồn gốc làm chúng sinh tương tục không dừng.
Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sinh, nhưng vì do vọng niệm từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần dần biến thành căn nguyên sinh ra chúng sinh. Do vậy vọng minh chính là vô minh và cũng từ cái vô minh này mà dần theo thời gian hình thành sở tướng của tứ đại và hấp thụ tứ đại để làm thân. Vọng tưởng sai lầm đã biến con người thành “vọng năng” và dĩ nhiên chấp nhận có “sở năng” bên ngoài. Một khi chấp có “năng sở” nghĩa là chấp có chủ thể và đối tượng tức là chấp có sự đối đãi phân biệt. Năng minh là lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở bên trong của con người và sở minh chính là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là ngoại trần. Vì thế tuy thế giới vạn pháp có bao la vô cùng vô tận, nhưng cũng không ra ngoài căn, trần cả.
Thật vậy, khi lục căn tiếp xúc với lục trần nghĩa là năng minh hòa nhập với sở minh thì ý thức vọng niệm được phát khởi. Vì nhân duyên đó mà con người chỉ nghe khi có tiếng, có âm thanh và chỉ thấy khi có sắc tướng chớ không thể thấy, nghe xa được. Nói cách khác lúc ấy kiến, văn, giác, tri nghĩa là thấy, nghe, hay, biết được hình thành. Tuy thế giới thay đổi tùy theo sở minh, nhưng tựu trung tất cả cũng nằm trong quy luật thành, trụ, hoại, không nghĩa là có đó rồi mất đó. Khi năng minh, sở minh hòa hợp thì tư tưởng phát sinh. Nếu chúng sinh đồng một tư tưởng thì thương yêu nhau, ngược lại, nếu ý bất đồng thì ghét nhau. Dòng nước ân ái yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Ba món “Căn, Trần, Thức” hòa hợp làm nhân tạo nghiệp cho nên quả khổ tứ sinh cũng bám theo. Nếu đồng nghiệp ràng buộc nhau thì hình thành vào thai sinh hay noãn sinh. Còn ly nghiệp thì hình thành vào loài thấp sinh hay hóa sinh.
Thí dụ thai sinh là con người sinh ra con người hay con bò cũng sinh ra con bò…Noãn sinh là con vật được sinh ra bằng trứng. Chẳng hạn như con gà, con vịt, con chim, con cá sấu đẻ trứng rồi trứng mới nở thành con gà..Thấp sinh là do những cơ cảm, biến đổi của thiên nhiên tạo thành. Thí dụ như con đom đóm là do hợp với khí ẩm ướt của những cây rơm, cây lúa và mưa. Do đó con đom đóm là loài thấp sinh. Còn hóa sinh là hóa hiện để sinh về một cõi tốt lành hơn mà không cần đầu thai vào người mẹ. Thí dụ, ngày xưa trưởng giả Cấp Cô Độc Tu Đạt Đa đã cúng dường tịnh xá Kỳ Viên cho Phật và chư đệ tử nên khi chết được hóa thân vào cung trời Đầu Suất (Tushita) để hưởng phước lợi.
Nhưng nguyên nhân của sự đầu thai như thế nào?
Thật ra chúng sinh trong loài tứ sinh cũng đều do một niệm vô minh mà hình thành. Chúng sinh vì tạo vọng nghiệp nên sau khi chết đi vào thân trung ấm, sắc thân không còn mà chỉ còn ngũ thông nên mắt nhìn thấy rất xa. Do tập khí ái nhiễm nên thần thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu, cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi chiêu cảm cảnh ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình thành.
Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. Bây giờ “tưởng” bám vào tinh cha huyết mẹ mà lập thành chấp ngã. Do “nghiệp ái làm nhân, cảnh ái làm duyên” mà ở trong thai bảy ngày nên gọi là yết-ma-lam. Được hai tuần thì bào thai gọi là Át-bồ-đàm. Ba tuần thì gọi là Tế-thi. Kiện nam là bốn tuần và Bát-la-xa là hình thể khoảng 35 ngày. Sau 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ.
Nói tóm lại, tùy theo nghiệp đã tạo mà cảm ứng sinh vào một trong bốn loài : thai, noãn, thấp và hóa. Đó là theo nghiệp mà lưu chuyển và do dòng nước ái ân yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Nếu hấp dẫn đồng nghiệp thì tác hợp với phôi. Phôi lớn thành thai rồi dần theo thời gian mà lục nhập, xúc, thọ, ái…được phát triển. Vì vậy thai sinh là do nhân tình mà có. Noãn sinh là do tưởng (niệm) mà sinh nghĩa là loài thú không có lòng yêu thương như con người mà chỉ có tưởng niệm về dục vọng. Thấp sinh nhờ hợp mà thành và Hóa sinh bởi phân ly mà ứng hiện. Tưởng thì nhẹ nhàng còn tình thì nặng nề. Bởi nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục.
III- Nghiệp Quả Tương Tục - Phật bảo :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na! Sở dĩ có ba thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm : Rằng phải nhờ lấy cái minh để minh tánh giác; Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu, đại địa san hà vũ trụ vạn hữu là hiện tượng hữu vi, có sinh có diệt là do kiến chấp vọng tưởng của con người. Sự thật, thể tánh của các hiện tượng vốn thanh tịnh bản nhiên là diệu dụng của Như Lai Tạng biểu hiện. Khi tư tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau thì con người trôi nổi trong sinh tử trầm luân. Lúc thì tái sinh làm cha, làm mẹ. Khi thì đầu thai làm con làm cháu, lên xuống không cùng không tận. Tưởng ái đồng kết lại thì lòng yêu thương không thể rời cho nên cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em…sanh nhau trong thế gian không bao giờ dứt. Cái khổ quả sinh tử này chung quy cũng tại vì lòng tham dục.
Tham và ái hổ tương cho nhau thì lòng tham không bao giờ ngừng dứt. Con người vì bị vô minh che lấp nên chạy theo ái dục mà phải chịu luân hồi. Thí dụ, bà vì quá thương cháu mà tái sinh làm con của cháu mình. Vì thế mà thế giới này mới là dục giới. Một khi tâm dục nghĩa là lòng mình muốn chiếm hữu hay đoạt lấy vật gì thì lòng tham bắt đầu phát khởi. Một khi lòng tham phát khởi thì tất cả các loài như thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh tùy theo sức mạnh của nó mà ăn nuốt những loài khác để tạo thành sát nghiệp. Thí dụ, con cọp ăn thịt con nai yếu đuối. Loài người săn bắn giết hại vô số súc vật. Ở biển cả sông ngòi, cá lớn nuốt cá bé…Bởi cũng vì sát nghiệp mà loài người, loài vật thay nhau tái sinh để chịu quả báo luân hồi. Thí dụ con người đi săn giết hại con nai. Con nai chết tức tưởi nên một kiếp nào đó nó tái sinh làm người và cũng đi săn để giết chết con nai khác chính là người thợ săn quả báo làm nai.
Nói cách khác vì nghiệp sát sinh mà bốn loài sát hại giết chết nhau, ăn nuốt nhau và sau cùng phải thọ báo để bị thảm hại, ăn nuốt trở lại. Đời này qua, đời khác đến vô cùng vô tận biết đến chừng nào mới chấm dứt. Do đó tư tưởng Phật giáo khuyên chúng sinh nên phát triển lòng từ bi để thương yêu tất cả mọi loài và chấm dứt nghiệp sát hại thì quả báo luân hồi mới có thể chấm dứt được. Con người vì sống với lòng tham dục nên phải chạy theo sinh tử luân hồi. Cũng vì tham dục mà con người giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Chủ nhân, phú hộ muốn giàu thêm nên chèn ép người nghèo khó, thế cô. Kiếp này mình ỷ thế chèn ép người tức là cướp không của người, là nợ người vì thế sang đến đời sau phải đầu thai trả nợ cho người.
Nói chung con người có chìm đắm trong sinh tử khổ đau cũng chỉ vì chạy theo tham, sân, si. Từ đó Sát, Dâm, Đạo hình thành, sai sử khiến con người càng ngày càng lún sâu trong vòng tội nghiệp. Trong Phật giáo nghiệp sát hại là đại nghiệp vì thế người Phật tử vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, thương người như thương mình và thấy nỗi đau của chúng sinh chính là nỗi đau của mình nên không giết hại. Con người ăn thịt chúng sinh thì ngày sau chúng sinh đổi kiếp ăn thịt con người trở lại. Nếu cưỡng giết mạng chúng sinh để lấy thịt ăn thì gọi là Đạo. Mà có nợ thân mạng thì cũng là do sát tham mà ra. Do đó, nếu đền nợ cũ cho người thì gọi là đạo tham vậy. Ngày xưa tôn giả Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông, có tài thiên biến vạn hóa, thế mà trong tiền kiếp làm nghề chài lưới giết hại quá nhiều chúng sinh nên vào thời Đức Phật tuy đã tu thành Thánh mà những chúng sinh đã bị Ngài sát hại bây giờ tái sinh làm bọn ngoại đạo để sát hại Ngài.
Do đó, ngày nay ta sát hại chúng sinh thì ngày mai chúng sinh quay trở lại sát hại lại chúng ta. Vì thế nếu muốn tiêu diệt nghiệp sát sinh thì ngay bây giờ phải chấm dứt sát hại làm đau thương đến muôn loài và bồi dưỡng cũng như phát huy tình thương, lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Tuy không còn tâm sát hại, nhưng nếu vẫn còn tâm dâm thì con người vẫn bị tái sinh luân hồi vì thần thức trong thân trung ấm còn cảm nhận dục tình khi thấy cảnh ái ân của nam nữ mà lưu vào thai mẹ để trở thành chủng tử thọ hình. Muốn thoát khỏi luân hồi thì tâm dâm phải dứt cho nên thần thức lúc nào cũng như như bất động cho dù đứng trước cảnh dục tình. Lấy của người làm người đau khổ tức là nợ của người đó rồi nên kiếp sau phải đầu thai để trả cho hết những mối nợ này. Vì thế không tham, không dâm, không sát hại, không đạo thì sẽ không còn sinh tử và dĩ nhiên chặt đứt dây luân hồi.
GIÁC KHÔNG SINH MÊ THẤT ĐẠI DUNG ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ TRỞ NGẠI
I- Giác không sinh mê:
- Phú Lâu Na! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng rồng. Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại cũng như gỗ đã đốt thành tro, tro không thể hoàn nguyên thành gỗ được.
- Phú Lâu Na! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp mắc các hiện tượng hữu vi.
=> Và cũng không có việc Như Lai sanh lậu hoặc trở lại.
II- Chỉ Các Đại Có Thể Dung Nhau
- Phật bảo: Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau.
- Phú Lâu Na! Ví như hư không, không thể của nó vốn không phải hình tướng, nhưng nó không chống đối các tướng phát huy trong nó. Phú Lâu Na! Bầu hư không vô cực kia, hễ mặt trời soi thì sáng, mây ùn thì tối, gió lay thì động, trời tạnh thì trong, hơi đọng thì đục, bụi nổi thì mù, nước lặng thì lóng lánh. Phú Lâu Na! Ông hiểu thế nào? Các tướng hữu vi sai khác dường ấy. Vậy nó nhân những cái đã có kia mà tự sinh hay nhân hư không mà có? Phú Lâu Na! Nếu bảo rằng do những cái kia tự sanh, vậy khi mặt trời soi, mặt trời sáng thì mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không lại còn thấy mặt trời tròn? Nếu bảo rằng hư không sáng thì hư không tự soi lấy, cớ sao giữa lúc đêm mây mù không có ánh sáng soi? Vậy nên biết rằng : Cái sáng không phải mặt trời, không phải hư không, nhưng không ngoài hư không và mặt trời.
=> - Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng : Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn : “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong…cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.
=> Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậy mà Như Lai dạy : ”Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh không chơn sắc…” Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình.
=> Tất cả vạn pháp trong thế gian hay tứ đại nói riêng đều là pháp giới tánh, đều là bản tánh chân như trong Như Lai Tạng. Mà đã là pháp giới tánh thì bao trùm khắp cả thì làm sao lại không dung được nhau.
=>>>Thật tánh của tất cả sắc, thủy, hỏa, phong là không nên trong chơn không các đại dung nạp nhau rất tự tại. Nhưng một khi nhân duyên xuất hiện thì từ trong chơn không mà diệu hữu một cách nhiệm mầu để biến thành sắc, thủy, hỏa, phong. Chơn không, pháp giới tánh thì lúc nào cũng bản nhiên thanh tịnh, nhưng pháp giới tánh duyên khởi trùng trùng vô cùng vô tận. Mỗi khi có tâm niệm thì pháp giới tánh cũng duyên theo tâm niệm ấy mà thay đổi. Nếu chúng sinh tâm niệm nước thì pháp giới tánh duyên ra thành nước. Nếu bây giờ chúng sinh tâm niệm về gió thì pháp giới tánh duyên ra thành gió. Nếu tâm niệm tất cả thì pháp giới tánh duyên ra tất cả đầy đủ đất, nước, gió, lửa. Trong hư không thì không thấy gì cả, mà thật ra cũng chính cái hư không này ngầm chứa đầy đủ các đại.
- Thí dụ như trong cái bầu trời này, nơi nào cũng có lửa, nơi nào cũng có gió, nơi nào cũng có nước, nơi nào cũng có sắc. Chúng dung nạp, nương tựa vào nhau và chỉ xuất hiện khi nào chúng sinh có tâm niệm cần đến nó mà thôi. Hiện tượng này là bất biến tùy duyên. Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới xuất hiện. Các đại cũng thế, nếu chúng sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì các đại này sẽ dần dần xuất hiện.
CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” (KHÔNG LÀ) VÀ “TỨC” (TỨC LÀ) CHỈ VỀ TRÁI VỚI GIÁC TÁNH, HỢP VỚI TRẦN TƯỚNG
- Phật bảo: Phú Lâu Na! Do nhận thức đánh giá của ông về Sắc Không của Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng theo cái nhận thức của ông mà có Sắc Không khắp cùng pháp giới. Vậy nên ông thấy gió thì động, hư không thì tịnh, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Ông và tất cả chúng sinh mê lầm, sống trái với giác tánh mình mà hợp với trần tướng cho nên sanh khởi cái nhận thức trần lao. Do đó có các tướng thế gian đối tượng.
CHỈ TÁNH GIÁC DIỆU MINH HỢP VỚI NHƯ LAI TẠNG
- Phật bảo: Phú Lâu Na! Như Lai sử dụng tánh giác diệu minh không sai lầm nhận thức, không đánh giá điên đảo. Như Lai Tạng là tánh giác diệu minh khắp trùm pháp giới. Vậy nên đối với Như Lai: Một là tất cả, tất cả là một. Trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, ngồi tại đạo tràng bất động mà như ở khắp mười phương. Một thân mà trùm cả hư không vô tận, đầu một mảy lông mà hiển hiện ra vô vàn cõi Phật. Ngồi trong vi trần bé bỏng mà vận chuyển đại pháp luân, diệt hết nhận thức sai lầm trần tướng, sống hợp với giác tánh cho nên Như Lai nhìn đâu cũng là tánh chơn như sáng suốt nhiệm mầu.
CHỈ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” (KHÔNG LÀ) TẤT CẢ
- Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.
CHỈ NHƯ LAI TẠNG “TỨC” (LÀ) TẤT CẢ
Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh cho đến là lão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.
THỂ VÀ DỤNG - TÙY DUYÊN BẤT BIẾN - BẤT BIẾN TÙY DUYÊN
Khi ra biển ngắm những làn sóng lặn hụp lên xuống thì “sóng “là” nước hay sóng “không là” nước? Nếu nói sóng và nước thì chắc chắn sóng và nước là hai tức là sóng “không là” nước. Còn nếu nói rằng nếu sóng mà không có nước thì làm gì có sóng do đó sóng “là” nước và nước “là” sóng. Như vậy sóng là hiện tượng của nước và nước là bản thể của sóng, tuy hai nhưng mà một bất khả phân ly. Khi động (có gió) thì nước nổi thành sóng, nhưng khi tịnh (gió tan) thì sóng trở về với thể tánh yên tịnh của nước vậy thôi. Như Lai Tạng cũng vậy, là bất tức bất ly bởi vì Tạng là tổng thể trùm chứa tất cả mọi nguyên nhân và kết quả của sự vật hiện tượng. Còn Như Lai là thường hằng bất biến, nhưng trong cái thường hằng bất biến này lại tùy duyên mà phát sinh ra muôn sinh vạn vật. Đó là bất biến mà tùy duyên. Thí dụ, trong thế gian này nơi nào cũng đều có đất tức là dạng của địa đại, nhưng cũng từ đất này mà tùy duyên tạo thành nhà cửa, chén đĩa, lâu đài, thành quách….nhưng một ngày nào đó thì những sự tướng kia cũng theo thời gian mà biến đổi và cuối cùng cũng trở về lại với đất. Đây là tùy duyên mà bất biến vậy. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng.)
+ MỤC HỎI ĐÁP VỀ TỨ ĐẠI
+ Đại chủng là bốn giới - Tức đất, nước, lửa, gió - Khả năng và tính chất
- Luận: Đất, nước, gió, lửa có khả năng gìn giữ các tính chất riêng của mình và các sắc pháp được chúng tạo thành (sở tạo sắc) vì thế gọi là giới. Bốn giới này được gọi là đại chủng vì chúng làm chỗ dựa cho tất cả các loại sắc khác và vì thế tính vốn rộng khắp; hoặc vì đại chủng đất, nước, v.v., tập trung với số lượng lớn trong đất, nước, v.v., hoặc vì khởi đủ các loại tác dụng lớn.
- Hoạt động tương tác - Tạo nghiêp: Theo thứ tự trên, chúng có thể trì giữ, kết dính (nhiếp), làm chín và làm tăng trưởng.
* Địa giới có khả năng trì giữ, thủy giới có khả năng kết dính, hỏa giới có khả năng làm chín và phong giới có khả năng làm tăng trưởng. Nói “tăng trưởng” có nghĩa là làm chuyển dịch (prasarpaṇa) và lớn mạnh (vṛddhi).
* Các tính chất bốn Đại: cứng, ướt, nóng, động. Địa giới có tính cứng, thủy giới có tính ướt, hỏa giới có tính nóng, và phong giới có tính động. Nhờ vào tính chất động này mới có thể dẫn dắt đại chủng tạo sắc tương tục sinh khởi đến các chỗ khác; cũng giống như trường hợp của ánh đèn. Phẩm Loại Túc luận (Prakaranas) và Khế kinh (Garbhāvakrantisūtra) nói: Phong giới là gì? - Là tính chất nhẹ nhàng (laghutva). Phẩm Loại Túc luận lại nói: “Tính chất nhẹ nhàng này là một sở tạo sắc.” Vì thế một pháp có tính động (iraṇātmaka) là phong giới; tức ở đây đã dựa vào tác dụng động (iraṇātmakrman) để trình bày thể tính cho nên mới nói là “nhẹ nhàng”.
+ Những khác biệt giữa đại chủng đất, v.v., là gì? Đáp: Đất là hiển và hình; Tùy thế tục đặt tên; Nước, lửa cũng như vậy; Gió là phong giới cũng là hiển sắc và hình sắc.
- Luận: Địa là màu sắc và hình dạng, có sắc xứ làm thể, thế gian gọi như vậy. Bởi vì thế gian khi chỉ cho nhau xem đất đều dựa vào màu sắc và hình dạng của nó. Về nước và lửa cũng vậy.
+ Gió chính là phong giới, vì thế gian căn cứ vào sự chuyển động để gọi tên hoặc giống như trường hợp của đất v.v. Ở đây cũng tùy theo cách gọi của thế gian nên gọi là gió. Gió chính là màu sắc và hình dạng vì thế mới nói là “cũng như vậy” (diệc dĩ). Như thế gian nói “gió đen,” “gió xoáy,” v.v., tức đã dựa vào màu sắc và hình dạng để chỉ cho gió.
+ CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH. Nguồn gốc con Số 12 = 3 x 4
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q4 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các Tướng: Diệt sanh - Sanh diệt - Diệt sinh - Sinh diệt là Các tướng - Cảnh trần - Trần lao - Trần tướng = > Các pháp hữu vi
... Các tướng sắc không, tối sáng, động tĩnh, thông bít, đậm nhạt, hợp ly, sinh diệt
Hư không kia làm sao vì ông mà thành đồng hay khác? Huống chi lại gọi là một hay chẳng phải một. Thế ông đã biết, sáu căn thọ dụng cũng giống như vậy.
Do hai thứ tối sáng hiển bày lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái thấy. Cái thấy ánh hiện ra thành sắc, kết sắc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhãn căn’ như trái bồ đào. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo sắc.
Do hai tướng động tỉnh đối chọi lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái nghe. Cái nghe ánh hiện ra thành tiếng, cuộn cái tiếng lại thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhĩ căn’ là lá sen non. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo âm thanh.
Do hai tướng thông và bít phát hiện lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính ngửi. Tính ngửi ánh hiện ra thành hương, thu nạp các hương thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘tỉ căn’ như hai móng tay duỗi xuống. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo hương.
Do vị nhạt và vị khác xen lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính nếm. Tính nếm ánh hiện ra thành vị, thu nạp các vị thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘thiệt căn’ như mặt trăng lưỡi liềm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo vị.
Do hai tướng ly và hợp cọ xát lẫn nhau, kết dính sự yên lặng trong tánh diệu viên mà phát ra cái biết xúc chạm. Tính biết xúc chạm ánh hiện thành xúc, thu nạp các xúc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi thể của ‘thân căn’ như cái trống cơm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo xúc.
Do hai thứ sinh diệt tương tục lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái biết. Tính biết ánh hiện thành các pháp, thu nạp các pháp thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi là ‘ý tư,’ như cái thấy trong nhà tối. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo pháp. (Đoạn kinh nầy nói đến ý căn, tức thức thứ sáu, là đối tượng của sinh diệt. Khi niệm trước vừa đình chỉ, niệm sau liền sinh khởi. Năng lực của tánh biết là thu nạp các pháp, chính là trần cảnh. Ý căn bị thu hút bởi pháp trần_HT Tuyên Hóa)
A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng. (chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà tánh giác ấy biến thành vọng giác và vọng minh–kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám_HT Tuyên Hóa)
Vậy nên nay ông rời tối rời sáng, thì không có cái thể của thấy. Rời động rời tỉnh, thì không có cái nghe. Không có thông không bít, thì tính ngửi không phát sinh. Không có mùi vị, không lạt, thì tính nếm không có. Không rời xa, không kết hợp thì tánh xúc chẳng có. Không sanh không diệt, thì cái biết gá chỗ nào?
Ông chỉ cần không theo động tĩnh hợp li, điềm biến thông tắc, sanh diệt ám minh, mười hai tướng như vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4)
+ 2. Sanh diệt
+ Pháp Sanh diệt: Đức Phật bảo ngài A Nan. ... Không theo cái thường, chỉ đuổi theo sanh diệt. Do vậy phải sanh mãi và chịu tạp nhiễm khi lưu chuyển.
Giảng giải:
Không theo cái thường. Họ không theo đạo lý lưu xuất từ bản tánh vi diệu thường trú trong chính mình; lại nữa, họ đi ngược lại với đạo lý nầy, và họ chỉ đuổi theo sanh diệt. Có thứ gì trên thế gian nầy không là đối tượng của sinh diệt? Mọi thứ có hình tướng đều là pháp sinh diệt. Pháp không sanh diệt không có sắc tướng. Nhưng phần nhiều chúng sinh trở nên dính mắc với sắc tướng và quên đi đạo lý thanh tịnh vi diệu chân thường. Do vậy phải sanh mãi. Đời nầy kế tiếp đời sau, đời sau kế tiếp đời sau nữa. Điều gì khiến cho đời nầy kế tiếp đời sau? Vì chúng sinh phải chịu tạp nhiễm khi lưu chuyển. Chữ ‘tạp nhiễm’ hàm ý rằng chúng sinh không duy trì được tinh thanh tịnh mà bị nhiễm phải cấu uế dơ bẩn, càng làm ô nhiễm thêm. Chúng sinh nhiễm phải những thứ gì? Nhiễm những gì trong cảnh giới mà họ lưu chuyển? chúng sinh đầu thai qua các cảnh giới tùy theo Nghiệp nhiễm ô từng cảnh giới họ đã sống.. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương V)
+ Pháp Thiền hữu tướng của thế gian - Sự nghiệp thiền thế gian:
Lại cũng nên biết, tu học theo môn Thiền hữu tướng của thế gian, gồm có ba thứ. Thế nào là ba?
– Một là: không có phương tiện và sức tin hiểu, cho nên tham nhận công đức của các thiền định rồi sinh kiêu mạn, bị sự hệ phược của thiền, làm cho thoái tâm, chỉ cầu mối lợi thế gian.
– Hai là: không có phương tiện và sức tin hiểu, cho nên nương vào thiền mà phát khởi hạnh chán lìa một bên khiếp sợ sinh tử, thoái đọa vào hàng Nhị thừa.
– Ba là: có phương tiện và sức tin hiểu. Nghĩa là, nương tựa cảnh giới Nhất Thật Tướng, tu tập gần với đường lối hai Pháp quán Xa Ma Tha/ Duy tâm duy thức/ Thiền chỉ/ Pháp tu Chỉ; Tỳ Bát Xá Na/ Pháp Thật Tướng Chân Như/ Thiền quán/ Pháp tu quán, nên có thể tin hiểu tất cả các Pháp, duy tâm tưởng sinh, đồng như mộng như huyễn. Dầu được công đức của thiền định thế gian, mà chẳng đắm trước kiên cố, chẳng còn thoái tâm, cầu quả báo trong ba cõi. Lại tin và biết sinh tử cũng chính là Niết Bàn, nên cũng chẳng sợ sệt, khiếp nhược, chẳng thoái cầu quả Nhị thừa. Người tu học tất cả Thiền định Tam muội như đây, nên biết có mười môn tướng thứ lớp, nhiếp lấy đầy đủ sự nghiệp thiền định, có thể làm cho người học thành tựu sự tương ưng mà không lầm, không lộn.
– Một là: Tướng phương tiện nhiếp niệm.
– Hai là: Tướng muốn trụ cảnh giới.
– Ba là: Tướng biết sự xuất nhập một cách tỏ rõ cảnh giới vừa mới trụ tâm.
– Bốn là: khéo trụ cảnh giới được vững vàng.
– Năm là: Tướng mống khởi tư duy phương tiện dõng mãnh, càng cầu sự tiến thủ hơn nữa.
– Sáu là: Tướng lần lần được điều độ, xứng với hỷ lạc của tâm, trừ mối nghi ngờ, thêm sự tin hiểu và tự an ủi mình.
– Bảy là: Tướng chắc được sự thắng tiến, bởi ý chuyên nhất, tương ưng ít phần với khả năng nhận thức.
– Tám là: Tướng công tu, thêm sáng suốt, công phu thêm vững vàng, được công đức thù thắng, thành tựu sự đối trị vọng tâm.
– Chín là: Tướng tùy tâm hành giả khởi niệm làm những gì, muốn thị hiện công đức ra ngoài, đều tương ưng với ý mà không sai lầm.
– Mười là: Tướng nếu muốn tu thêm Pháp khác, nương nơi sở đắc có trước mà khởi phương tiện, sẽ lần lượt thành tựu, xuất nhập tùy tâm, siêu việt một cách tự tại.
Đó gọi là mười môn tướng thứ lớp, nhiếp hết sự nghiệp của người tu tập Thiền định....
(30) Xa ma tha: Dịch là chỉ. Đó là Pháp tu chỉ, là sự tu nhiếp tâm trụ vào một duyên, xa lìa mọi tán loạn, chỉ là tên gọi khác của định, có nghĩa là tịch tỉnh. Đối với phép nhiễm tịnh, tâm không bị vọng duyên.
(31) Tỳ bát xá na: Dịch là quán, là kiến, là chủng chủng quán sát. Dùng trí tuệ quan sát giản trạch các Pháp. Quán là tên khác của huệ, ở quả gọi là huệ. Cũng như: Chỉ là nhân, Định là quả. Hai pháp Chỉ Quán này người tu Phật phải vận dụng cả hai trong khi tu tập thiền định, vận dụng cùng một lúc, không phải trước sau gì cả. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Nhẫn nhục (Kshnti): Kiên nhẫn, dịu dàng, sao cho không điều gì có thể làm mất bình tĩnh.(TNVT, 178)
+ Nhẫn nhục: Là Kiên nhẫn, một trong các Ba–la–mật (Ba–la–mật thứ ba –ND).(NGMTTL, 181)
+ Nhẫn nhục trong Lục độ: Trong sáu Ðộ (Lục Ba La Mật), Ðộ thứ ba là "Sằn Ðề"; đây cũng là tiếng Phạn (Ksanti); Trung Hoa dịch là "nhẫn nhục."
"Nhẫn nhục" thì gồm có Sanh Nhẫn, Pháp Nhẫn và Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn là một cảnh giới vô cùng thâm áo, vi diệu, luôn tràn ngập một niềm Pháp hỷ. Phải chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, thì quý vị mới thực sự nếm được mùi vị của Phật Pháp, thực sự hiểu rõ được sự áo diệu và không thể nghĩ bàn của Phật Pháp.
Quý vị phải có thể nhẫn nhục thì mới mong đạt được "Ba La Mật"; không nhẫn nhục được thì không thể nào đạt được "Ba La Mật" - không đến được "bờ bên kia" vậy! (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Giảng về nhẫn nhục: ... Chúng ta phải thấy rằng, những đau khổ, khó khăn trong cuộc sống thật vô cùng quý giá. Nếu sống một cuộc đời yên ả, dễ chịu, chúng ta sẽ mất hết ý chí, nghị lực, sẽ không có cơ hội rèn luyện sức chịu đựng. Bởi vậy, nhẫn nhục là một hạnh rất quan trọng để làm tăng đạo lực của người tu hành. Đó là lý do vì sao trong cuộc đời tu hành của Đức Phật luôn có ông Đề Bà Đạt Đa đi theo quấy phá. Đức Phật bị quấy phá từ bao nhiêu kiếp. Cho đến khi thành Phật, Ngài cũng không thoát khỏi sự quấy phá ấy. Sở dĩ như vậy vì trong mọi công phu tu tập, để có được Đạo lực, Đạo hạnh, nhẫn nhục và tinh tấn đóng một vai trò rất quan trọng. Để có hạnh nhẫn nhục, chúng ta rất cần nghịch cảnh để rèn luyện. Nhắc đến điều này, chúng ta nhớ lại câu thơ của một nhà sư:
Không đau khổ lấy chi làm chất liệu
Không buồn thương sao biết chuyện con người
Quả thật, không đau khổ chúng ta sẽ không có điều kiện rèn luyện bản thân mình. Liên hệ đến đời sống của những người lính trong quân ngũ, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn giá trị của những gian khổ, khó khăn. Nếu không chịu đựng những tháng ngày huấn luyện nhọc nhằn, dầm mưa dãi nắng; nếu không chịu những hình phạt nặng nề, làm sao họ có thể đương đầu với hy sinh gian khổ, quyết sống mái với kẻ thù? (Nguồn: Trích trong bộ "Tâm lý đạo đức" bài giảng, Nhẫn Nhục. SP TT. Thích Chân Quang)
+ Nhẫn nhục là mạnh nhất - Tâm không nhiễm ô/ Cấu nhiễm là sáng nhất:
... Có vị Sa môn hỏi Ðức Phật: "Ðiều gì là mạnh nhất? Ðiều gì là sáng nhất?"
Ðức Phật dạy: Nhẫn nhục là mạnh nhất vì không chứa ác tâm nên tăng sự an ổn. Nhẫn nhục là không ác, tất được mọi người tôn kính.
Tâm ô nhiễm đã được đoạn tận, không còn dấu vết gọi là sáng nhất, nghĩa là tất cả sự vật trong 10 phương, từ vô thỉ thuở chưa có trời đất cho đến ngày nay không vật gì là không thấy, không vật gì là không biết, không vật gì là không nghe, đạt được Nhất thiết trí, như vậy được gọi là sáng nhất". (Nguồn: 15. Nhẫn nhục - Kinh 42 Chương)
+ Nhẫn nhục: Chúng ta nói rằng mình đang tu học Phật pháp, và không đến nỗi khó khăn lắm khi giữ giới. Điều khó là thực hành các điều giới ấy. Nhiều người tập hạnh nhẫn nhục bằng cách bảo người khác hãy nhẫn nhục đối với chính họ, và chẳng cần nhẫn nhục đối với người khác. Thế nên họ nói vớí những người không nhẫn nhục đối với họ rằng, “Anh phải học Phật pháp thật nhiều, lẽ ra anh phải nhẫn nhục hơn. Tại sao anh nổi nóng khi tôi chỉ mới nói đến anh?” Họ quở trách người khác không nhẫn nhục, nhưng chính họ lại không thể nhẫn nhục. Và tại sao họ lại duy lý như vậy? Họ tự cho rằng, “Tôi đã hiểu Phật pháp, tôi hầu như đã đạt đến vô ngã. Thế nên tôi không cần phải nhẫn. Tôi không có quan niệm về ngã, không có ngã tướng, thế nên khi nào cần phải nhẫn, đó là anh cần phải nhẫn chớ không phải tôi.” Nhưng khi đến giờ ăn, họ không nghĩ là mình có quan niệm về sự hiện hữu của con người, không có nhân tướng, thế nên họ cho rằng không cần phải có gì đó cho người khác ăn. Khi có việc cần làm, hoặc khi gặp khó khăn, họ nhớ lại rằng mình không có quan niệm có một bản ngã, thế nên họ nói rằng chẳng cần để ý đến những việc ấy. Và, nếu họ giết người, họ sẽ biện minh, “Chẳng hề gì, vì chẳng có chỗ khởi đầu của chúng sinh. Thế nên thực sự tôi chẳng giết họ.” Hoặc là vô cớ họ đánh người, khi hỏi tại sao lại làm vậy?, họ đáp, “Chẳng có cái gì gọi là chúng sinh tướng, và anh thuộc về dạng đó, thế nên tôi thực sự chẳng đánh ai cả!” Đó là loại tà tư tà kiến nơi họ. Khi ăn thịt, họ nói, “ Không sao, các ông chẳng nghe nói chúng sinh có đặc tính là không có thọ giả tướng [15] đó sao? Vì nó không có thọ giả tướng, nên nó có thể chết bất kỳ lúc nào, thế nên tôi tha hồ ăn thịt nó. Lại nữa, một khi nó chết rồi, thịt nó cũng thối rữa, nếu tôi không ăn thịt nó.” Đó là luận điệu của đệ tử ngoại đạo. Họ cho rằng gia súc được nuôi chủ yếu là để cho người ăn thịt, nếu không ăn, thì chúng sẽ sinh sôi nẩy nở chật cả thế giới. “Nếu người không ăn bò, dê, heo, thì chúng sẽ nhiều vô số kể cho đến khi tràn ngập cả thế giới.” Nhưng hãy nhớ rằng, con người không ăn thịt mèo, nhưng trên thế giới chưa bị tràn ngập bởi loài mèo. Thực vậy, khi con người không ăn thịt động vật, thì không tạo ra nghiệp sát nhiều, và súc vật không sinh sôi nẩy nở nhanh chóng. Thế nên có người giải thích đạo lý sai lạc, như ý nghĩa của nhẫn nhục, và cho rằng mọi người nên nhẫn nhục với họ, nhưng chính họ lại không nhẫn nhục với người khác. (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Nhẫn nhục cao siêu: ... "Đỏa y mông" có nghĩa là “Ngã”/ Cái Ngã của Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví như khi có người đánh quí vị, quí vị không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ, quí vị thấy như thể không có việc gì xảy ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào “đệ nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có một bản ngã để dùng pháp nhẫn và không có một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”. Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy (HT Tuyên hóa giảng Chú Đại Bi câu 10)
+ Chữ Nhẫn trong tu Bồ Tát Đạo: (37) Thuận nhẫn: Một trong năm nhẫn của các giai vị Bồ Tát gồm 42 địa vị trong Kinh Hoa Nghiêm. Năm nhẫn là: Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sinh nhẫn và Tịch diệt nhẫn. Bốn nhẫn trước mỗi nhẫn có thượng, trung, hạ thành ra 12 nhẫn. Nhẫn thứ năm (Tịch diệt nhẫn chia làm hai, là thượng và hạ). 1.Phục nhẫn: các vị Bồ Tát tiền địa (Tam hiền) chưa được trí tuệ vô lậu, phiền não chưa đoạn, chỉ thể hàng phục trụ địa phiền não, làm cho chẳng khởi mà thôi (chưa thể diệt). Trong đó Thập Trụ thuộc về Phục nhẫn bậc hạ. Thập Hạnh thuộc về Phục nhẫn bậc trung. Thập Hồi hướng thuộc Phục nhẫn bậc thượng. 2. Tín Nhẫn: Bồ Tát từ sơ địa trở lên, được Vô lậu tín, tùy thuận không nghi, trong đó Sơ địa là Hạ phẩm, Nhị địa là Trung phẩm, Tam địa là Thượng phẩm tín nhẫn. 3.Thuận nhẫn: Bồ Tát thuận Vô thượng Bồ đề đạo, hướng đến vô sinh quả, trong đó đệ tứ địa là Hạ phẩm Thuận nhẫn, ngũ địa là Trung phẩm, Lục địa là Thượng phẩm của Thuận nhẫn. 4. Vô sinh nhẫn: Bậc Bồ Tát đã hết vọng hoặc, biết rõ tất cả Pháp đều chẳng sinh, trong đó Thất địa là Hạ phẩm, Bát địa là Trung phẩm, Cửu địa là Thượng phẩm của Vô sinh nhẫn. 5. Tịch diệt nhẫn: các hoặc đã hết, thanh tịnh vô vi, lòng trong lặng lẽ, trong đây Thập địa là Hạ phẩm, Phật quả là Thượng phẩm (Kinh Nhân Vương, Kinh Bát Nhã…)
+ Ngoại đạo tu thiền định: Phải biết, các pháp thiền định (tam muội) của ngoại đạo tu tập, đều không rời phiền não hữu lậu vì tâm còn ngã mạn, chấp ngã tham lam danh lợi ở thế gian và cầu người cung kính.
=> Còn tu pháp Chơn như tam muội (thiền định) này thì không có tướng gì để được, lại có công năng làm cho các phiền não lần lần mỏng ít; cho đến khi xuất định hành giả cũng không giãi đãi. Nếu người tu hành mà không tu pháp Chơn như tam muội này, thì không thể nhập được dòng giống của Như Lai.
- Tu các pháp thiền định tam muội của thế gian, cũng như thiền định của ngoại đạo, đều thuộc trong Tam giới, vì còn các phiền não chấp ngã và say đắm nhiễm trước nơi cảnh thiền. Bởi thế nên người tu thiền định, nếu không có Thiện tri thức dẫn dắt, thì quyết định sẽ lạc vào ngoại đạo. (Nguồn: Chi tiết về Ma chướng)
+ Lục Sư Ngoại Đạo
Trích đoạn Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là lục sư ngoại đạo?
Thế Tôn nói: Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ ma Ba tuần xen vào trong pháp ta.
1. Ở chùa cạo đầu mặc áo Phật xưng là đệ tử của Phật, chung lộn với người đời ăn thịt uống rượu làm nhơ bẩn đức Phật, là ngoại đạo thứ nhất.
2. Có người dắt vợ đem con vào trong chùa học theo tà thuật, cho là để truyền lại đệ tử, ăn thịt uống rượu, cũng đi làm chay tụng kinh cho người, không phải người tục, là ngoại đạo thứ hai.
3. Lại có những người trên thời không có thầy truyền, dưới không có thầy chứng, bị ma quỷ ám ảnh mê muội, trí biết bậy bạ cho là thông minh, chẳng có công tu tự xưng thành đạo, bên ngoài làm giống theo Phật, trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật, là ngoại đạo thứ ba.
4. Có người làm theo việc hữu tình, học phép hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đưổi quỷ sai thần, phỉnh gạt người đời, ác kiến càng nhiều thì chánh kiến của Phật càng tiêu diệt, là ngoại đạo thứ tư.
5. Có người y theo việc tốt xấu, học theo chiếm quẻ, bàn luận kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điềm họa phước, dối chúng gạt người, tiêu diệt chánh pháp của Phật, là ngoại đạo thứ năm.
6. Có người sửa soạn hình tướng bụng trống lòng sao, mình không có tài năng mà lòng tự cao cho mình giỏi, chưa có chứng ngộ cho mình chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu muối, trà quả, tương dấm, chấp theo tà tướng dối gạt người không trí, chẳng cần xem kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền, chẳng cần xuất gia thọ giới, chẳng cần tầm sư học đạo. Dám đem cái sắc thân giả dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng vào chỗ hắc ám, dứt đoạn căn lành tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo ngu si, là ngoại đạo thứ sáu.
Sáu hạng ngoại đạo này là ma Ba tuần; đến sau mạt pháp xen vào giáo pháp ta, phá hoại già lam, hủy báng chánh pháp của Phật, chê bai những giáo tướng nghi thức tụng niệm.
Nên Phật dạy những vị Bồ tát đại thừa phải đem nguyện lực, tùy chỗ ứng hiện hoặc làm vị Đế vương, hoặc làm vị Tể quan, hoặc làm vị Trưởng giả, đều ở mọi chỗ làm vị đàn việt đặng diệt trừ tà đạo, ủng hộ chánh pháp, không cho ngoại ma tự tiện khuấy phá, y theo lời Phật dạy đây mới thật là đệ tử của Phật. Còn như thuận theo tà là đồng với ma Ba tuần ngoại đạo, hủy báng pháp đại thừa, sa đọa vào địa ngục A Tỳ như tên bắn, hễ mất thân người rồi, muôn kiếp khó trở lại đặng.(Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
+ Xem giảng về ngoại đạo tu thiền định và định lực và sự nhiễu loạn của các loài Ma trong tu thiền và cả với Đức Phật và Đức Phật hóa giải chúng rất hay tại nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh
+ Chín mươi lăm thứ tà sư ngoại đạo: Nguyên là 96 thứ ngoại đạo, trừ bớt một phái còn 95. Ở Ấn Độ trước và sau Phật xuất hiện, có sáu phái ngoại đạo. Sáu lưu phái này, đạo sư mỗi phái có 15 đệ tử, mỗi đệ tử sau lập ra mỗi lưu phái riêng, tổng cộng là 96 phái. Sáu đạo sư gốc là: 1. Phú Lan Na Ca Diếp. 2. Mạt Già Lê Câu Xa Lê Tử. 3. San Xà Da Tỳ La Chi Tử. 4. A Tỳ Đa Xí Xá Khâm Bà La. 5. Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên. 6. Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử. Trong 96 thứ đạo này, về sau có một phái nhập chung với Phật giáo, đó là phái Độc Tử, còn vào 95 phái bộ. Một thuyết khác nói trong 96 phái ngoại đạo thì giáo nghĩa của phái Ni Kiền Tử ngoại đạo gần với Phật Pháp, cho nên trừ phái này ra, còn lại 95 phái. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
I- Khế Nhập Bồ Đề - Chẳng được tương ứng - Chẳng được khế hợp - Không tương ứng - Không tương ưng - Không khế hợp trong Chiêm Sát Mộc Luân:
- Này thiện nam tử! Nếu như chiêm sát luân tướng lần đầu, thì chỉ mới biết thiện ác sai biệt đã tạo đời trước, nhưng chẳng thể biết tập quán chứa nhóm lâu xa hay gần, cũng như chưa thể biết nghiệp đã tạo là mạnh hay yếu, hoặc lớn hay nhỏ. Thế nên cần phải, chiêm sát luân tướng lần thứ hai nữa (16).
- Nếu như chiêm sát luân tướng lần hai, thì phải căn cứ nghiệp được phát hiện trong luân tướng đầu. Nghĩa là: Nếu thuộc nơi thân thì gieo luân tướng có ghi chữ thân. Nếu thuộc về khẩu, thì gieo luân tướng có ghi chữ khẩu. Nếu thuộc về ý, thì gieo luân tướng có sẵn chữ ý. Chẳng được đem tất cả tướng của ba luân, gieo chung một lần, phải tùy theo nghiệp. Chú ý nên nhớ từng nghiệp thiện ác, căn cứ theo luân thuộc về nghiệp nào thì gieo riêng luân đó, để chiêm cho đúng.
- Lại nữa, nếu trong luân tướng, chiêm lần thứ nhất, chỉ được điều tốt nơi thân, mà trong luân tướng chiêm lần thứ hai, lại được điều xấu nơi thân, như vậy gọi là lòng không chí thành, chẳng được khế hợp, gọi là sai luống.
- Lại nữa, chẳng tương ưng là: trong mười luân tướng xem lần thứ nhất, được nghiệp bất sát (chẳng giết), hay nghiệp thâu đạo (trộm cướp), ý trước chú mục xem nghiệp bất sát, nhưng trong luân tướng chiêm lần thứ hai, được ác nơi thân, đó cũng gọi là chẳng được khế hợp.
- Lại nữa, nếu thấy hiện tại, từ khi sinh ra cho đến bây giờ, chẳng ưa nghiệp sát, không tạo tội giết, chỉ có ý là còn chủ nghiệp sát, nhưng trong luân tướng chiêm lần thứ hai, được thân đại ác, đó cũng gọi là chẳng được khế hợp. Từ đó suy ra, trong nghiệp của khẩu, hay nghiệp của ý, nghĩa chẳng tương ưng lại cũng như vậy, cần phải biết rõ. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác)
+ Sám Hối Chiêm Sát của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Pháp sám hối thanh tịnh thân tâm dùng Mộc Luân kiểm tra
Lời của Đại Sư Ngẫu Ích – Tổ thứ 9 Tịnh Độ Tông: Chư Phật Bồ Tát, thương nhớ quần mê, còn hơn mẹ nhớ con, dùng đủ loại phương tiện, dạy dỗ để thoát khỏi khổ ải luân hồi. Thế nhưng chúng sanh không hiểu rõ nhân duyên nghiệp báo, không biết đoạn ác tu thiện, tín tâm thanh tịnh ngày một suy yếu, năm thứ ô trọc (ngũ trọc) tăng lớn. Bởi do cảm thương trước sự kịch khổ, với lòng từ bi đáp lại duyên cớ đó, mà có một vị Bồ Tát tên là Kiên Tịnh Tín, thưa thỉnh Thế Tôn, thương xót chỉ bày phương tiện cứu giúp. Đức Phật mới ngợi khen rộng lớn công đức của Địa Tạng Bồ Tát, vì chúng sanh mà kiến lập phương tiện dùng Tam Chủng Luân Tướng để xem sai biệt về thiện ác của chúng nó, từ đó tu hai phép quán, quay về nhất thật cảnh giới. Nên với những người nghiệp nặng, trước tiên không nên tu định tuệ, mà chiếu theo Sám pháp để đạt được thanh tịnh, sau đó mới tu tập hai phép quán thì mới tránh được chướng ngại. Thực sự đối với thời mạt pháp thì đây là phương tiện thù thằng trong các loại phương tiện vậy.
Tôi buồn vì chướng tâm sâu nặng, học pháp thì ngày càng loạn, luật giáo thiền tông, tạp loạn cũng chẳng chuyên nhất được, may mắn thay gặp được pháp này, khai phá mê mờ cho tôi, xem xét về nghi thức này thấy cả lý quán, lại có thể thực hành ngay, bèn đem các sám pháp, chắt lọc lựa chọn để vào bản sám nghi này, lập thành Thập khoa hành pháp, mỗi mỗi đều được lấy bày ra trước mắt, từ đầu đến cuối xem xét từng chi tiết nhỏ một để quyết định. Nay thuật lại duyên khởi về pháp hành này cho chư vị.
KHUYẾN TU
Nếu là đệ tử Phật, như là muốn tu xuất thế chánh pháp, hoặc muốn hiện tại không gặp các chướng duyên, hoặc là muốn diệt trừ các nghiệp nặng vô gián như ngũ nghịch thập ác, hoặc muốn cầu hiện tại cuộc sống sung túc, hoặc muốn cho các tội trọng nạn khinh giá đều được tiêu diệt, hoặc muốn đắc thanh tịnh luật nghi ưu-bà-tắc, sa-di, tỳ-kheo, hoặc muốn đắc tam tụ tịnh giới Bồ tát, hoặc muốn được các loại thiền tam muội, hoặc muốn được vô tướng trí huệ, hoặc cầu hiện chứng tam thừa quả vị, hoặc tuỳ ý vãng sanh Phật quốc Tịnh độ, hoặc muốn ngộ vô sanh pháp nhẫn viên mãn chứng nhập nhất thật cảnh giới, đều nên tiếp nhận thọ trì tu hành pháp sám hối này. Tại sao vậy? Đây là do Thích Ca Như Lai có lòng từ bi quảng đại, mới nói các nguyện từ bi rộng lớn của Ngài Địa Tạng Bồ Tát, không khổ nào mà chẳng diệt, không vui nào mà chẳng sanh.
Cứ nương theo đó mà tu hành thì Tịnh tín kiên cố, như ánh sáng quảng đại của Kinh, vì thế nên tin vào bản sám nghi này.
TÓM TẮT CÙNG THỰC HÀNH
Trong Kinh không nói về số người nhiều ít cùng thực hành pháp này, nhưng theo tôi thì tối đa chỉ nên 10 người. Tuy nhiên, nên tuyển chọn kỹ càng những người thực sự đều là pháp khí, đều có đạo tâm, nếu không cùng chí hướng, tốt nhất nên hành một mình. Có thể là những người chân thật vì sanh tử, đồng hành với nhau, nội trong 10 người là đủ, nhiều ít không vấn đề gì.
Lại nữa, nhất định trước tiên phải xem xét sở cầu, hoặc cầu luật nghi, hoặc cầu định tuệ, hoặc cầu chứng quả, hoặc cầu vãng sanh, sở cầu phải tương hợp thì mới có thể cùng tu. Trong 10 người đó, bầu ra một người túc đức (có hiểu biết, có tu hành, biết Phật pháp) để làm giáo thọ sư, từ sự đến lý, việc lớn việc nhỏ đều phải vâng theo. Chớ có cẩu thả khinh xuất mà phải chịu khó khăn trong việc hành.
CHIÊM SÁT LUÂN TƯỚNG
Đối với pháp sám hối, tuy rằng quy tắc phổ biến là vì chúng sanh mà phát lồ sám hối tội lỗi, song người thời nay từ vô thuỷ huân tập nghiệp lực, nhiều thứ thiên cường, do đó ở trong Kinh nói, trước hết phải chiêm luân tướng ban đầu, sau đó mới sáng tỏ được phương pháp sám hối. Nay muốn tu sám hối thì phải nghiêm tịnh đạo tràng, chiếu theo nghi thức mà thực hiện chiêm sát luân tướng. Theo đó mà xem xét quán sát thiện ác của mình, xem tội nặng nhẹ như thế nào, từ đó đối với từng tội, trong các thời khoá tu sám hối, nói ra cho rõ ràng.
Trên đây là nói phần phụ của Chiêm Sát Sám pháp. (Nguồn: Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh hành Pháp)
Xem bản: Sám Hối Chiêm Sát bản Rút gọn/ Thuần thục
Xem thêm: Sám Hối Chiêm Sát bản đầy đủ
+ Tướng Mộc Luân - Kinh Chiêm Sát
Này thiện nam tử! Muốn học cách làm Tướng Mộc Luân thì, trước phải khắc gỗ, cỡ như ngón út, dài dưới một tấc (11) chính giữa mảnh gỗ, bốn mặt bằng nhau, đầu hai mảnh gỗ, nhọn lần lần ra, ngửa tay gieo qua chỗ sạch bên cạnh, khiến cho chuyển đổi, nhân vì nghĩa này mệnh danh là Luân. Lại nương tướng này, có thể phá hỏng lưới nghi chấp tà trong tâm chúng sinh, chuyển sang đường chính, đến chốn an ổn, nên gọi là Luân (12).
Về Tướng Mộc Luân, thì có tất cả ba thứ khác nhau. Thế nào là ba?
– Một là Luân tướng biểu thị nghiệp chủng thiện ác sai biệt đã tạo đời trước. Luân này có mười.
– Hai là Luân tướng biểu thị nghiệp chủng chứa nhóm trong những đời trước, hoặc xa hoặc gần, tạo nghiệp mạnh yếu, lớn nhỏ khác nhau, Luân này có ba.
– Ba là Luân tướng biểu thị thọ báo, sai biệt cả trong ba đời, Luân này có sáu.
Như muốn xem xét những nghiệp ác sai biệt đã tạo đời trước, thì phải khắc gỗ ra làm mười Luân, y mười Luân này viết ghi danh từ của mười thiện nghiệp, cứ mỗi thiện nghiệp, chủ ở một luân, ghi ở một mặt. Kế lấy mười ác nghiệp, viết đối diện lại với mười thiện nghiệp, khiến cho cân đối, mỗi luân cũng ghi ở tại một mặt.
Về mười thiện nghiệp chính là cội rễ tất cả điều thiện, có thể tóm nhiếp tất cả thiện Pháp khác.....
– Thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát nghiệp được chứa nhóm xa gần, trong đời quá khứ về trước, những nghiệp đã tạo, mạnh yếu, lớn nhỏ sai khác thế nào, lại nên khắc gỗ ra làm ba luân, biểu thị ba nơi: Thân, Khẩu, Ý. Mỗi luân chủ một nơi, viết chữ vào đó. Lại nơi mỗi luân, chính giữa một mặt, viết vào đường gạch, hơi lớn và dài, cho đến chí mí. Kế mặt thứ ba, rạch một nét khác, hơi to và sâu. Đến mặt thứ tư cũng khắc một nét cho lớn và cạn.
Cần nên biết rằng, nghiệp thiện trang nghiêm, cũng tương tự như vẽ vời tô điểm. Nghiệp ác suy hại, giống như gạch bỏ.
Gạch nào dài lớn, tượng trưng cho sự chứa thiện vốn đã từ lâu trở lại, thiện nghiệp đã làm, mạnh mẽ bén nhạy, việc làm tăng thêm.
Gạch nào nhỏ ngắn, tượng trưng cho sự chứa thiện trở lại, vốn còn gần, cạn, chỉ mới tập tành, nền tảng chậm chạp, việc làm mỏng manh.
Nét khắc nào mà, vừa to vừa sâu, tượng trưng cho những tập quán xấu ác, từ lâu trở lại, việc làm tăng thêm, dư họa cũng dày.
Nét khắc nào mà, vừa to vừa cạn, tượng trưng cho sự thoái tu thiện Pháp, trở lại đây gần, mà mới tập tành theo những ác pháp, những nghiệp đã tạo, cũng chưa đến nỗi tăng thượng lên lắm. Hoặc là dù có khởi nghiệp ác nặng, nhưng từng hối cải, đó được gọi là những điều ác nhỏ.
– Này thiện nam tử! Nếu như chiêm sát luân tướng lần đầu, thì chỉ mới biết thiện ác sai biệt đã tạo đời trước, nhưng chẳng thể biết tập quán chứa nhóm lâu xa hay gần, cũng như chưa thể biết nghiệp đã tạo là mạnh hay yếu, hoặc lớn hay nhỏ. Thế nên cần phải, chiêm sát luân tướng lần thứ hai nữa (16).
– Thiện nam tử! Nếu muốn biết được tướng thanh tịnh thì: Bắt đầu từ khi tu hành sám Pháp, qua sau bảy ngày, phải nên mỗi bữa, vào lúc sáng sớm, lấy tướng mộc luân thuộc lớp thứ hai (18) để đủ trong tay, gieo luôn ba lần. Nếu thân, khẩu, ý đều là thuần thiện, người ấy được gọi là thanh tịnh lại.
(10) Tướng Mộc Luân: Nguyên chữ Luân nghĩa đen là bánh xe, (là vòng là vừng. Chúng tôi dịch là mảnh gỗ) đó là căn cứ theo hình dáng của miếng gỗ được khắc chạm theo sự chỉ dẫn trong Kinh. Đoạn dưới đức Địa Tạng đã cắt nghĩa chữ Luân, người đọc nhân đây mà nhận rõ hơn. Không dùng chữ “mảnh gỗ” thì khó tìm chữ nào khác để diễn dịch chữ “Luân” này.
(11) Dài dưới một tấc: Một tấc đây là một tấc Tàu. Đơn vị chiều dài một thước Tàu phỏng độ 6m40, một tấc Tàu bằng một phần mười bốn tấc Tây, tức 4cm. Theo hình gỗ được khắc, bề dài cũng là 4cm.
(14) Tay cầm mộc luân: Mộc luân tất cả gồm 19 cái, chia làm 3 nhóm, nhóm thứ nhất có 10 cái, nhóm thứ hai có 3 cái và nhóm thứ ba có 6 cái. Đây là cách nói gieo lần thứ nhất, đem 10 cái đó ghi 10 thiện, 10 ác mà gieo.
(16) Chiêm sát luân tướng lần thứ hai: Đây là gieo nhóm mộc luân thứ hai, gồm 3 cái, có ghi 3 chữ: thân, khẩu, ý. Lời dạy đoạn văn này rất tế nhị. Dịch giả xin góp lời giúp cho người chiêm sát khỏi bị sai lạc, thiếu sót.
Sau khi gieo nhóm mộc luân thứ nhứt gồm 10 cái, mà hiện trên mặt gỗ, gồm 10 nghiệp thiện, ác lẫn lộn, ví dụ như: Sát sinh, thâu đạo, bất tà dâm (3 nghiệp của thân) Bất vọng ngữ, bất lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ (4 nghiệp của miệng) Tham ái, bất sân nhuế, ngu si. (3 nghiệp của ý)
Người gieo muốn biết tính chất các nghiệp bất thiện nói trên là nặng hay nhẹ, phải tiến gieo thêm từng mảnh gỗ trong 3 luân của nhóm 2. Ví dụ, nghiệp phát hiện nơi thân là Sát sinh, thâu đạo,trọng tâm là hai nghiệp này thuộc nơi thân, thì lấy mộc luân có chữ thân gieo xuống. Nếu mộc luân chữ thân hiện ở mặt trước là nét khắc sâu và dài, đó là biểu hiện hai nghiệp ác này rất nhiều, sâu dày. Nhưng nếu hiện ra nét bạc dài, đó là điều không tương ưng cần phải sám hối gieo lại. Tiếp theo đó, xem hai luân được phát hiện của khẩu nghiệp là ác khẩu, ỷ ngữ, muốn biết sự sâu cạn của hai nghiệp này, thì gieo mộc luân có chữ khẩu. Nếu mộc luân hiện ra nét khắc ngắn cạn, đó là nghiệp ác khẩu, ỷ ngữ nhẹ. Nhưng nếu hiện ra nét bạc dài, hoặc ngắn (biểu hiện thiện nghiệp dày hoặc mỏng) thì không tương ưng, phải sám hối phát nguyện gieo lại. Đến như Luân của ý cũng như vậy. Nếu thấy ý nghiệp được phát hiện là tham ái, ngu si, thì lấy riêng mộc luân có chữ ý mà gieo.
(18) Mộc luân thuộc lớp thứ hai: Lối gieo lần này không phải như lần trước. Gieo nhóm thứ hai như lần trước, thì gieo từng cái. Đến đây sau khi đã sám hối một thời gian nào đó, muốn biết ba nghiệp thanh tịnh lại chưa, cho nên phải gieo 3 luân một lúc.(Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Tu lòng tin và sự hiểu biết về Cảnh giới Nhất Thật Tướng của Tâm
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Này thiện nam tử! Trên đây là lược nói ý nghĩa cảnh giới của Nhất Thật Tướng, nếu muốn nương vào cảnh giới Nhất Thật Tướng, để tu lòng tin và sự hiểu biết (28), thì hãy nên học tập hai đường lối quán chiếu. Thế nào là hai?
– Một là quán các Pháp đều Duy tâm Duy thức.
– Hai là quán Thật tướng Chân như.
Về cách học quán Duy tâm Duy thức thì: Trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, tùy thân, khẩu, ý có sự móng niệm, đều phải quán xét, biết những niệm khởi chỉ là do tâm, cho đến bất cứ cảnh giới gì, nếu tâm trú vào sự nhớ nghĩ, thì phải xét biết và buông
xả, chớ để cho tâm rơi vào tình trạng vô ký (29), hoặc vin theo duyên mà không tự kiểm soát. Trong mỗi mỗi niệm đều nên quán sát, tùy ý niệm nào mà tâm duyên đến, lập tức thâu nhiếp trở lại, không để cho tâm theo đuổi những ý niệm đó. Làm sao cho tâm tự biết, nội tâm của mình tự sinh tưởng niệm, chẳng phải tất cả cảnh giới có tưởng niệm, có phân biệt. Nghĩa là nội tâm tự sinh các quan niệm như: hay dở, tốt xấu, phải quấy, được mất, suy lợi, có không v.v…tóm lại là vô lượng ý tưởng. Song, tất cả cảnh giới chưa từng có tưởng, chưa từng có khởi phân biệt, nên biết tất cả cảnh giới, tự nó không có tư tưởng phân biệt, tức là tự nó chẳng phải hay dở, chẳng phải tốt xấu, cho đến chẳng phải có, chẳng phải không, lìa tất cả tướng. Cứ như vậy quán sát, biết tất cả Pháp chỉ duy tâm tưởng mà sinh. Nếu như lìa tâm, thì không có tướng bất cứ một Pháp nào có thể tự thấy có sự sai biệt. Thường nên như vậy mà khắc ghi và giữ gìn nội tâm, biết rằng chỉ có vọng niệm, không có cảnh giới chân thật. Sự quán sát này cần phải đều đặn, chớ cho bỏ dở. Đây gọi là sự tu học duy tâm, duy thức quán.
Nếu tâm bị vô ký, chẳng biết tự tâm đang nghĩ gì, đó chính là có cảnh giới ở trước, chẳng gọi là duy tâm thức quán.
Vả lại, gìn giữ và khắc ghi nội tâm, ắt biết được, tưởng tham, tưởng sân, tưởng si, tưởng tà kiến. Biết thiện, biết bất thiện, biết vô ký, biết tâm lao lư nghĩ đến các sự khổ v.v… Nếu khi tịnh tọa, tùy đối tượng bị duyên của tâm mà mỗi niệm xét biết sự sinh diệt của duy tâm, ví như dòng nước trôi chảy, hay ánh lửa tiếp nối của ngọn đèn, không lúc nào tạm thời dừng lại. Từ đó sẽ được chính định vắng lặng các sắc. Được tam muội này rồi, kế đến học tập đức tin về quán tâm của Pháp Xa Ma Tha (30) và đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na (31).
Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Xa Ma Tha nghĩa là: Tư duy về tướng chẳng thể thấy của nội tâm. Tướng này tròn đầy, bất động, không đến, không đi, bản tính chẳng sinh, chẳng diệt, vì lìa phân biệt vậy. Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na nghĩa là: Xét biết những tư tưởng, nhận biết các sắc bên trong bên ngoài, đều theo tâm mà sinh, theo tâm mà diệt, cả đến tư tưởng nhận thức về sắc thân Phật cũng vậy, đều tùy tâm sinh, tùy tâm mà diệt, như huyễn như hóa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, chúng chẳng phải tâm, cũng chẳng lìa tâm, không phải đến, không phải chẳng đến, không phải đi, không phải chẳng đi, không phải sinh, không phải bất sinh, không phải tác động, không phải chẳng tác động.
Đại Bồ Tát Địa Tạng, bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Này thiện nam tử! Nếu luôn luôn dùng đức tin, tu tập hai Pháp quán tâm như vậy, mau được ngộ ra đạo lý nhất thừa. Nên biết, quán Pháp duy tâm duy thức như vậy, gọi là ngưỡng cửa trí tuệ cao tột hơn hết. Ngưỡng cửa này có thể khiến cho tâm của hành giả mạnh mẽ bén nhạy và thêm lớn sức tin hiểu, nhanh chóng vào nghĩa không của Đại thừa, và phát được tâm Vô thượng Đại Bồ Đề.
Trên đây là nói về Pháp quán Duy tâm Duy thức.
Nếu muốn học tập Pháp quán Thật tướng Chân như thì: Hành giả tư duy về tính của tâm vốn không sinh, không diệt, không trụ vào cái thấy nghe hiểu biết, lìa hẳn tất cả những tưởng phân biệt, lần lần có thể vượt qua tướng cảnh giới của các định không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Được tương tự với không tam muội, thì tướng phân biệt thô của Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng hiện ra trước từ đó mà tiến tu thêm, sẽ làm bậc thiện tri thức, với lòng từ bi quảng đại. Vì khéo bảo nhiệm và trưởng dưỡng, cho nên lìa các chướng ngại, siêng tu chẳng bỏ phế lần lượt có thể vào tam muội vắng lặng của tâm. Được Tam muội đó rồi, lại liền có thể nhập Nhất hạnh Tam muội, nhập Nhất hạnh Tam muội rồi, thấy vô số đức Phật và phát những tâm hạnh sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn, trụ vào bậc Kiên Tín (32).
Trên đây là đường lối của hai Pháp quán Xa Ma Tha và Tỳ Bát Xá Na, chắc chắn được sự tin hiểu, có thể quyết định thú hướng Bồ Đề, tùy chỗ tu học các Tam muội Thiền định và sự nghiệp thế gian, nhưng không bị đắm trước, cho đến có thể tu khắp tất cả thiện căn của Pháp phần Bồ Đề, đối với sự sống chết không bị khiếp sợ, không thích Nhị thừa. Bởi nương vào phương tiện hay khéo, vô cùng vi diệu và khả năng tu tập bằng hai đường lối quán tâm này, có thể làm chỗ sở y cho các thứ trí tuệ và các hạnh căn bản vậy.
Lại nữa, tu học sự tin hiểu như trên gồm có hai hạng người. Thế nào là hai? Một là hạng căn tính lanh lợi. Hai là hạng căn tính chậm lụt.
Hạng căn tính lanh lợi: Người này trước đó đã biết: Tất cả các cảnh giới bên ngoài, duy tâm tạo ra, hư dối chẳng thật, như mộng, như huyễn, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa, năm món cái nhẹ mỏng, tâm tán loạn cũng ít. Hạng người nói trên, nên học tập ngay Pháp quán Thật tướng Chân như.
Hạng người căn tính chậm lụt: Hạng này trước đó chưa thể biết tất cả các cảnh giới bên ngoài, đều chỉ là tâm, vì hư dối không thật. Tình thức nhiễm mắc của họ dày đặc, năm món cái nhiều phen nổi lên, tâm khó điều phục, thì trước hết phải nên học Pháp quán duy tâm thức. Nếu người nào, tuy học sự tin hiểu như vậy, nhưng chủng tử thiện căn còn mỏng, chưa thể tiến lên, các phiền não xấu ác chẳng bị bẻ dẹp lần lần, và tâm những người ấy nghi ngờ khiếp nhược, sợ đọa vào ba đường ác, hoặc sinh vào chỗ tám nạn (33), sợ chẳng thường được gặp đức Phật, chư vị Bồ Tát, các bậc Thánh nhân, chẳng được cúng dường nghe nhận chính Pháp, sợ hạnh Bồ Đề khó thể thành tựu… Có các thứ nghi sợ và những chướng ngại như thế v.v…thì nên trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, thường xuyên tụng niệm danh hiệu của Ta, Địa Tạng Bồ Tát. Nếu được nhất tâm thì căn lành sẽ thêm lớn và ý chí người ấy dõng mãnh lanh lợi. Lại thêm quán Pháp thân của Ta, và Pháp thân của tất cả các đức Phật, với tự thân của mình thể tính đều bình đẳng, không hai không khác, chẳng sinh chẳng diệt, có đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, công đức tràn đầy. Đó là điều đáng nên nương tựa. ....(Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Cảnh giới của Nhất Thật Tướng là gì?
– Nghĩa là bản thể nơi tâm của tất cả chúng sinh, từ trước đến giờ chẳng sinh chẳng diệt, tự tính nó thanh tịnh, không chướng không ngại, dường như hư không vì lìa phân biệt, bình đẳng khắp giáp, nơi nào cũng có, tràn đầy khắp mười phương, rốt ráo một tướng, không hai không khác, chẳng biến, chẳng đổi, không thêm, không bớt. Do vì bản thể nơi tâm của tất cả chúng sinh, nơi tâm của tất cả Thanh Văn, Độc Giác, nơi tâm của tất cả Bồ Tát và nơi tâm của tất cả chư Phật, đều cùng chẳng sinh chẳng diệt, không nhiễm, không tịnh, đồng là một tướng chân như. Tại sao vậy? Vì tất cả những tâm có khởi phân biệt, đều như huyễn hóa, không hề chân thật. Nghĩa là: Những Pháp số của tâm như: ức niệm, lo lắng, xét biết v.v…thuộc bốn uẩn là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đều chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải tạp sắc, chẳng có dài ngắn, vuông tròn, lớn, nhỏ…cho đến cùng tận mười phương hư không, tất cả thế giới, tìm về hình trạng tâm này, không một chút phần, có thể nắm bắt. Chỉ vì chúng sinh bị vô minh si tối làm nhân làm duyên huân tập, hiện ra cảnh giới hư vọng, khiến sinh nhớ nghĩ vướng mắc.
Tâm này nó chẳng thể tự biết, vọng tự bảo có, khởi tưởng xét nét, so đo về ngã, sở hữu của ngã, nhưng thật ra không có cái tướng của giác tri. Bởi vọng tâm này rốt ráo không có thật thể, vì chẳng thể tìm thấy cái thật thể của vọng tâm. Nếu không có cái năng phân biệt của giác tri, thì không có cái tướng của tất cả cảnh giới sai biệt thuộc mười phương ba đời, bởi tất cả Pháp đều chẳng thể tự có, chỉ nương sự phân biệt của vọng tâm mà có. Nghĩa là tất cả cảnh giới, mỗi mỗi chẳng tự nghĩ mình là có, chẳng biết đây là tự, kia là tha. Thế nên tất cả Pháp chẳng thể tự có, ắt không đổi khác. Chỉ nương vọng tâm, chẳng biết chẳng rõ, vì bên trong tự không. Tức là: Có cái bị biết bên ngoài, rồi vọng sinh các thứ tưởng Pháp, cho là có, cho là không, bảo kia, bảo đây, bảo phải, bảo trái, bảo tốt, bảo xấu…cho đến vọng sinh vô lượng vô biên tư tưởng về Pháp. Nên biết tất cả các Pháp như thế, đều từ vọng tưởng sinh ra, nương vọng tâm làm gốc. Nhưng vì vọng tâm không tự tướng, cũng chỉ nương cảnh giới mà có. Nghĩa là nó duyên niệm xét biết theo cảnh giới đằng trước, cho nên gọi là tâm. Vả lại, vọng tâm này với cảnh giới mé trước, mặc dù đều nương vào nhau, nhưng sự phát khởi của nó không trước sau gì cả và vọng tâm này luôn luôn là nguồn gốc, là chủ tể của tất cả cảnh giới. Tại sao vậy? Bởi vì, nương vào vọng tâm mà vọng tâm này chẳng rõ một tướng Pháp giới, vì thế nói rằng tâm có vô minh. Nương vào sức mạnh vô minh làm nhân, cho nên hiện ra cảnh giới hư vọng. Lại cũng do vô minh diệt, cho nên tất cả cảnh giới cũng diệt theo. Chẳng phải do tất cả cảnh giới tự chẳng sáng tỏ mà nói cảnh giới có vô minh, cũng chẳng phải nương nơi cảnh giới mà sinh vô minh. Tất cả các đức Phật đối với tất cả cảnh giới chẳng sinh vô minh.
Lại nữa, chẳng do cảnh giới diệt mà tâm vô minh diệt. Bởi tất cả cảnh giới, từ trước đến giờ thể tính tự vắng lặng, vì chưa từng có bất cứ thứ gì. Do nghĩa như thế, cho nên chỉ nói, tất cả các Pháp nương nơi tâm làm gốc. Nên biết, tất cả các Pháp, Pháp nào cũng gọi là tâm, vì nghĩa của thể không thay đổi, và được nhiếp vào tâm vậy.
Lại nữa, tất cả các Pháp, được khởi từ tâm, với tâm mà tạo ra tướng, hòa hợp mà có, cùng sinh cùng diệt, đồng không dừng trụ. Bởi tất cả cảnh giới chỉ bị duyên của tâm, niệm niệm tiếp nối mà được duy trì, tạm thời được có.
Về nghĩa của tâm được nói trên đây, có hai thứ tướng. Thế nào là hai?
Một là tướng bên trong tâm. Hai là tướng bên ngoài tâm.
– Tướng bên trong tâm lại có hai thứ.
Một là chân, hai là vọng.
Chân là gì? Đó là cái tướng sẵn có nơi thể của tâm, tướng này như như chẳng đổi, thanh tịnh tròn đầy không chướng, không ngại, kín nhiệm khó thấy. Bởi nó khắp giáp tất cả chỗ, thường hằng không hoại, nên có thể kiến lập, sinh trưởng tất cả Pháp.
Vọng là gì? Tức là luôn luôn khởi niệm, phân biệt, xét nét, duyên lự, nhớ tưởng các việc. Mặc dù liên tục hay sinh tất cả cảnh giới, nhưng thể bên trong của nó là hư ngụy, không hề chân thật, và cũng không thể tìm thấy nó.
– Tướng bên ngoài tâm, tức là tất cả các Pháp và các thứ cảnh giới v.v…Tùy có cái bị niệm mà cảnh giới hiện ra trước, vì vậy mà biết, có sự sai biệt giữa tâm bên trong và tâm bên ngoài. Thế thì nên biết, tướng vọng bên trong, là nhân, là thể, tướng vọng bên ngoài, là quả là dụng.
Do những nghĩa như vậy, thế nên ta nói: Tất cả các Pháp, đều gọi là tâm.
Lại nữa, nên biết cái tướng bên ngoài của tâm. Tướng này cũng như các thứ cảnh giới bị thấy trong mộng, duy tâm hiện ra, không có việc thật bên ngoài. Tất cả cảnh giới đều cũng như vậy, bởi đều nương vào giấc mộng vô minh của nghiệp thức mà được thấy, vọng tưởng mà thành.
Lại nữa, nên biết mỗi niệm, mỗi niệm trong nội tâm đều chẳng có dừng trụ, cho nên tất cả cảnh giới bị thấy, bị duyên, cũng tùy theo tâm mà niệm niệm chẳng dừng. Nghĩa là: Tâm sinh, nên các Pháp sinh, tâm diệt, nên các Pháp diệt. Tướng sinh diệt này chỉ có tên gọi, thật bất khả đắc. Bởi vì tâm chẳng qua đến cảnh giới, cảnh giới chẳng về đến tâm, như tướng trong gương, không đến không đi, thế nên tất cả Pháp, tìm tướng sinh diệt nhất định trọn chẳng thể được. Nghĩa là tất cả Pháp rốt ráo không có thật thể, từ trước đến giờ luôn luôn rỗng rang, vì thật sự chẳng sinh chẳng diệt vậy.
Tất cả các Pháp thật không có sinh diệt như thế, thì không có tướng cảnh giới sai khác, mà là vắng lặng nhất vị. Như thế gọi là Chân Như, gọi là Đệ nhất Nghĩa đế, gọi là Tự tính Thanh tịnh Tâm. Tự tính Thanh tịnh Tâm ấy long trọng, tròn đầy, vì không có cái tướng phân biệt. Tướng không phân biệt tức là, đối với tất cả chỗ, không đâu mà chẳng hiện hữu. Vì nó hiện hữu ở khắp giáp, do đó có thể nương vào sự hiện hữu này mà duy trì và dụng lập tất cả Pháp.
Lại nữa, tâm đó gọi là Như Lai Tạng, Như Lai Tạng nghĩa là: Tâm này gồm chứa đầy đủ vô lượng vô biên bất khả tư nghì chủng tử vô lậu và công đức thanh tịnh, vì Pháp thân của chư Phật, từ ngằn mé vô thỉ đến nay, không chướng, không ngại, tự tại chẳng diệt. Tất cả mọi sự hóa hiện và những công đức nghiệp hằng thường lẫy lừng, chưa bao giờ dứt. Nghĩa là chư Phật đều thị hiện Phật ở trong tất cả thế giới, ứng hóa đủ cách làm lợi ích chúng sinh. Do đó thân một đức Phật, chính là thân của tất cả chư Phật, thân của tất cả chư Phật cũng chính là thân một đức Phật, và bao nhiêu việc làm cũng đồng là một, tức là không tướng phân biệt, không niệm kia đây, bình đẳng không hai. Bởi nương vào một Pháp tính mà có sự tác nghiệp, đồng ứng hóa một cách tự nhiên, vì thể không đổi khác vậy.
Như trên đã nói, Pháp thân của các đức Phật khắp tất cả chỗ và tròn đầy bất động, tùy các chúng sinh, chết đây sinh kia mà luôn luôn làm chỗ nương tựa cho các chúng sinh. Ví như hư không đều có thể dung nạp tất cả sắc tướng và các thứ hình trạng. Tất cả sắc tướng và các thứ hình trạng đều nương nơi không mà có sự dựng lập và sinh trưởng ở trong hư không, bị nhiếp vào nơi hư không, lấy hư không làm thể, không có vật gì có thể ra ngoài ranh giới của hư không. Nên biết, trong mọi sắc tướng biên giới hư không chẳng bị hủy diệt, khi sắc tướng hoại bèn trở về với hư không và biên giới hư không sẵn có không thêm, không bớt, chẳng động, chẳng biến đổi.
Pháp thân của các đức Phật cũng lại như vậy, đều có thể dung nạp các thứ quả báo của tất cả chúng sinh, đều nương vào Pháp thân của các đức Phật, mà có sự dựng lập và sinh trưởng, ở trong Pháp thân, bị nhiếp nơi Pháp thân, lấy Pháp thân làm thể, không một vật gì có thể ra ngoài ranh giới của Pháp thân. Nên biết trong thân của tất cả chúng sinh, Pháp thân của chư Phật cũng chẳng thể hủy diệt, nếu khi phiền não bị đoạn trừ, sẽ trở về với Pháp thân, về biên giới Pháp thân sẵn có không thêm không bớt, chẳng động, chẳng biến đổi.
Chỉ vì từ đời vô thỉ trở lại đây, tâm tương ưng với vô minh, do năng lực nhân duyên huân tập si ám, cho nên hiện ra cảnh giới hư vọng, rồi do nương vào cảnh giới hư vọng, làm nhân làm duyên huân tập mà khởi vọng tưởng, tương ưng với tâm, chấp ngã, sở hữu của ngã, tạo chứa các nghiệp, để rồi chịu khổ sống chết không ngừng, thay vì gọi Pháp thân, lại gọi là chúng sinh.
Nếu trong số các chúng sinh, người nào có được năng lực huân tập của Pháp thân, thì phiền não của chúng sinh ấy lần lần cạn mỏng, có thể nhàm chán sự khổ thế gian và cầu đạo quả Niết Bàn, tin tưởng quay về với Nhất Thật Tướng, tu sáu Pháp ba la mật và tất cả Pháp phần Bồ Đề, đó mệnh danh là Bồ Tát. Trong số những Bồ Tát như thế, vị nào tu hành tất cả thiện Pháp một cách đầy đủ hoàn toàn, rốt ráo được lìa giấc ngủ vô minh, sẽ được mệnh danh là Phật. Lại nên biết rằng, danh từ chúng sinh, Bồ Tát, Phật v.v… chỉ nương lời lẽ giả gọi của thế gian để nói mà thôi, về thể của Pháp thân, thì không có gì sai khác, rốt ráo bình đẳng, không có tướng biến đổi.
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Này thiện nam tử! Trên đây là lược nói ý nghĩa cảnh giới của Nhất Thật Tướng, nếu muốn nương vào cảnh giới Nhất Thật Tướng, để tu lòng tin và sự hiểu biết (28), thì hãy nên học tập hai đường lối quán chiếu. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Hành giả thường nên quán xét thân và tướng của tâm:
....... Lại thêm quán Pháp thân của Ta (Địa Tạng Vương Bồ Tát), và Pháp thân của tất cả các đức Phật, với tự thân của mình thể tính đều bình đẳng, không hai không khác, chẳng sinh chẳng diệt, có đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, công đức tràn đầy. Đó là điều đáng nên nương tựa.
– Lại nữa, hành giả thường nên quán sát thân mình và cái tướng của tâm đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, như huyễn, như hóa, đáng chán, đáng lìa.
Nếu luôn luôn tu học Pháp quán như vậy, hành giả mau được tăng trưởng đức tin thanh tịnh, bao nhiêu chướng ngại lần lần giảm bớt. Tại sao vậy ?
– Vì những người này được gọi là học tập theo sự nghe danh hiệu của ta, cũng có thể nói, học tập sự nghe danh hiệu của các đức Phật trong mười phương. Được gọi là sự học tập chí tâm lễ lạy và cúng dường ta, và hay học sự chí tâm lễ lạy cúng dường đức Phật trong mười phương. Được gọi là học sự nghe những Kinh điển thâm sâu đại thừa. Được gọi là sự giữ gìn biên chép, cúng dường cung kính Kinh điển Đại thừa sâu thẳm. Được gọi là học sự xa lìa những chấp trước tà vạy, đối với nghĩa lý sâu xa của chính Pháp, chẳng bị rơi vào sự phỉ báng chê bai. Được gọi là đối với đệ nhất nghĩa, rốt ráo sâu xa của thật tướng, học sự tin hiểu. Được gọi là hay trừ các thứ tội chướng. Được gọi là sẽ được sự chứa nhóm vô lượng công đức.
Những người nói trên, khi bỏ thân này, trọn chẳng đọa vào ác đạo và tám chỗ nạn. Khi sinh trở lại được nghe chính Pháp và tin tưởng học tập tu hành. Cũng có thể tùy nguyện sinh về Tịnh Độ của các đức Phật ở các phương khác.
– Lại nữa, nếu như người nào muốn sinh Tịnh Độ hiện tại ở phương khác, thì phải theo danh hiệu vị Phật ở thế giới đó (34) mà chuyên ý niệm tụng, một lòng chẳng loạn và quán sát Pháp thân như đã nói trên, người ấy quyết định được sinh Tịnh Độ của đức Phật ấy. Chừng đó căn lành sẽ thêm lớn và mau được bất thoái. Nên biết, sự nhất tâm buộc niệm tư duy Pháp thân bình đẳng của các đức Phật được nói trên đây, đối trọng tất cả căn lành, nó là tịnh nghiệp trỗi vượt trên hết. Do đó, người nào siêng năng tu tập, lần lần có thể hướng đến Nhất hạnh Tam muội. Một khi được vào Nhất hạnh Tam muội, là thành tựu tâm hạnh rộng lớn nhiệm mầu, mệnh danh là được tương tự với Vô sinh Pháp nhẫn.
Nếu tu hành với tâm tạp loạn cấu uế, thì dầu có xưng tụng danh hiệu của Ta, đó chẳng được gọi là nghe danh hiệu, vì chẳng hay sinh sự tin hiểu quyết định, chỉ gặt hái quả báo lành nhỏ mọn của thế gian mà thôi, chẳng được lợi ích rộng lớn sâu diệu. Hành giả nào tu với tâm tạp loạn cấu uế như vậy, tùy tu bất cứ thiện Pháp nào, đều chẳng thể được lợi ích sâu rộng.
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Thiện nam tử: nên biết, sự siêng lòng tu học môn Thiền vô tướng trên đây (Niệm Bồ Tát Địa Tạng đến Ba la mật, cũng tức là niệm tất cả chư Phật), không lâu sẽ được lợi ích rộng lớn sâu xa, lần hồi thành Phật.
Sự lợi ích rộng lớn sâu xa là: được vào Pháp vị Kiên Tín, vì thành tựu Tín nhẫn (35). Vào địa vị Kiên tu (36), vì thành tựu Thuận nhẫn (37), vào Chính nhân vị (38) vì thành tựu Vô sinh nhẫn (39). (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Bậc khéo nói pháp sâu xa - Bậc khéo nói an ủi
Bấy giờ Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín hỏi Đại Bồ Tát Địa Tạng:
– Ngài vì sao mà khéo nói Pháp sâu xa, có thể khiến chúng sinh lìa sự khiếp nhược?
Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng đáp:
– Này thiện nam tử! Nên biết, người mới phát ý cầu về Đại thừa mà chưa được tín tâm, đối với giáo Pháp sâu xa của đạo Vô Thượng, họ ưa sinh nghi ngờ khiếp nhược, cho nên Ta dùng phương tiện hay khéo, tuyên rõ nghĩa thật để an ủi họ, khiến lìa khiếp nhược. Do đó hiệu của Ta là “Bậc khéo nói an ủi”. An ủi như thế nào? Nghĩa là những chúng sinh căn tính chậm lụt, tâm lượng nhỏ hẹp, nghe sự tối thắng, tối mầu của đạo Vô Thượng, mặc dù ý họ ham thích, phát tâm hướng về, nhưng lại suy nghĩ rằng: Sự cầu đạo Vô Thượng, cần phải chứa công để đức rất rộng, tu những hạnh khổ khó làm, phải tự độ, độ tha, trải qua kiếp số dài xa, ở trong sinh tử lâu chịu siêng khổ, mới có thể thành. Vì lý do đó họ sinh khiếp nhược. Ta liền vì họ nói nghĩa lý chân thật. Nghĩa là nói tất cả các Pháp bản tính tự rỗng rang, rốt ráo vô ngã, không có người làm, không có người thọ, không tự không tha, không đi, không đến, không có phương sở, cũng không quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến vì họ nói mười tám món không. Tất cả các Pháp không có tướng sinh tử Niết Bàn, cũng không có tướng chắc thật có thể nắm bắt. Lại vì họ nói: Tất cả các Pháp như huyễn, như hóa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, như thành Càn Thát Bà, như tiếng dội trong hang trống, như quán nắng, như bọt nước, như sương mốc, như đèn lòa, như mắt bị nhặm, như mộng, như chớp, như mây nổi đầu non, những phiền não sinh tử tính nó rất yếu ớt, có thể dễ làm cho diệt mất… Lại dạy họ rằng: phiền não sinh tử, rốt ráo không có tự thể, tìm nó chẳng thể được, xưa nay chẳng sinh, thật cũng chẳng diệt, tự nó vắng lặng, chính là Niết Bàn…
Những lời nói như vậy, nhằm phá tất cả mọi sự nhận thức sai lầm, bớt đi sự chấp đắm nơi tự thân tâm, để chúng sinh được lìa khiếp nhược.
Lại có chúng sinh, vì chẳng hiểu ý chỉ nơi lời nói của đức Như Lai mà sinh khiếp nhược. Ý chỉ nơi lời nói của đức Như Lai như thế nào? Đó là: Đức Như Lai đã luôn luôn nhìn thấy cảnh giới Nhất Thật Tướng, rốt ráo lìa khỏi các pháp ác thuộc sinh, lão, bệnh, tử, chứng được Pháp thân của Ngài, Pháp thân này thường hằng không mất, không biến đổi v.v…có sự chứa nhóm vô lượng công đức. Như Lai lại có thể thấy tỏ rõ trong thân của tất cả chúng sinh, đều có sẵn những công đức chân thật, thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng vì bóng tối nhiễm ô của vô minh che chướng, cho nên từ trước tới giờ luôn luôn chịu vô lượng thứ khổ sinh, già, bệnh, chết. Như Lai ngay đó khởi tâm đại bi, muốn khiến cho tất cả chúng sinh lìa các thứ khổ, đồng gặt hái sự vui đệ nhất của Pháp thân và Pháp thân ấy là Pháp vô phân biệt, lìa tất cả ý niệm. Chỉ có bậc hay diệt tư tưởng hư vọng của thức, chẳng khởi niệm phân biệt, mới có thể chứng nhập.
Chỉ vì tất cả chúng sinh, thường ưa phân biệt, chấp đắm các Pháp, bởi điên đảo vọng tưởng cho nên chịu sống chết triền miên, do đó đức Như Lai muốn cho họ lìa ý tưởng phân biệt chấp trước, cho nên Ngài nói: Tất cả pháp thế gian rốt ráo của nó rỗng rang, không là gì cả, cho đến tất cả những Pháp xuất thế gian, bản thể của nó cũng rốt ráo, rỗng không, không thuộc vào đâu…” Nếu nói rộng ra thì như mười tám Pháp không (44). Sự hiển bày tất cả các Pháp như vậy, đều chẳng lìa thể của Bồ Đề. Thể của Bồ Đề chẳng thể có, chẳng phải không, chẳng phải chẳng có, chẳng phải chẳng không, chẳng phải cả có lẫn không, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải chẳng một, chẳng phải chẳng khác, chẳng phải một lẫn khác, cho đến rốt ráo không một tướng nào có thể nắm bắt, vì nó lìa hết tất cả tướng. Thế nào là lìa hết tất cả tướng? Nghĩa là chẳng thể nương vào lời lẽ để giữ lấy, vì trong Pháp của Bồ Đề, không có sự lĩnh nhận bằng lời lẽ nói năng, và sự nói năng không thể đến được, lại cũng chẳng thể nương vào cái tâm có nghĩ ngợi mà biết được. Trong Pháp Bồ Đề không có “người hay giữ lấy và Pháp để giữ lấy”. Không ta, không người vì lìa tướng phân biệt. Nếu còn có sự phân biệt, chính là hư ngụy, chẳng gọi là khế hợp với Bồ Đề…
Những lời dạy như thế của đức Như Lai, các chúng sinh căn tính chậm lụt, không thể hiểu nổi, cho rằng Vô thượng Bồ Đề và Pháp thân của Như Lai chỉ là Pháp trống không, rốt ráo một mực, không có gì hết, do đó mà tâm của họ khiếp nhược, sợ sệt vào chỗ “không được gì cả”. Hoặc họ sinh ra tư tưởng đoạn diệt, khởi nhận thức có tăng có giảm, chuyển sang phỉ báng, khinh mình, khinh người v.v… Để đối trị hạng này, ta liền vì họ nói: Pháp thân Như Lai, tự tính nó chẳng phải ngoan không, mà là có Tự thể chân thật, Thể này đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh, từ vô thỉ đến giờ, nó tự nhiên tròn đầy, chẳng phải nhờ tu mới có, chẳng phải nhờ tạo mới thành. Cả đến trong thân tất cả chúng sinh cũng đều sẵn đủ, không biến, không đổi, không thêm, không bớt. Những lời nói như vậy, có thể trừ sự khiếp nhược của chúng sinh, đó mệnh danh là “An ủi”.
– Lại nữa, những chúng sinh ngu si chấp chặt, nghe những lời nói như thế, cũng sinh khiếp nhược nữa, vì không hiểu nổi nghĩa này, họ lại chấp rằng Pháp thân của Như Lai từ xưa đến nay đã đầy đủ, chẳng phải là tướng tu tạo, thì đâu có tướng chứng đắc gì, do đó mà họ sinh khiếp nhược, rơi vào hạng tín tà đảo kiến, theo lối của tự nhiên ngoại đạo.
Đối với hạng này, ta liền vì họ nói đến sự tu hành tất cả thiện Pháp, để tăng trưởng sự đầy đủ, mới sinh ra sắc thân Như Lai, được quả báo vô lượng công đức thanh tịnh. Những lời nói như thế, nhằm khiến chúng sinh lìa sự khiếp nhược, đó được mệnh danh là “An ủi”. Những nghĩa sâu thẳm được ta nói ra, khế hợp với lý chân thật, không có các lỗi, bởi lìa lời nói mâu thuẫn của thế gian, làm sao biết tướng lìa lời nói mâu thuẫn?
Bởi vì Pháp thân của Như Lai, mặc dầu không có cảnh giới của lời lẽ, và lìa cả cái tâm tưởng niệm, chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho đến không có tất cả các tướng, chẳng thể căn cứ vào lời lẽ để chỉ bày, nhưng căn cứ vào Pháp giả gọi đối đãi nhau bởi nhân duyên huyễn hóa của thế đế, thì có thể dùng phương tiện chỉ bày để nói. Vì tính của Pháp thân này không phân biệt, lìa cả tướng tự, tướng tha, chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho đến lìa hết tất cả các tướng, cho nên nói rằng, bản thể của Pháp thân là rốt ráo rỗng rang, không thuộc vào cái có. Vì khi đã lìa tâm phân biệt rồi, thì tưởng niệm hết sạch, bèn không còn một tướng nào cả, nhưng có thể tự thấy, tự biết và tự có tất cả. Thế nên nghĩa không quyết định khế hợp với thật tướng chân như, không hề sai lầm.
– Lại nữa, chính trong nghĩa không đó, do lìa tâm vọng tưởng phân biệt, thì sự rốt ráo tận cùng của nó, không một tướng nào có thể nói rằng không. Vì chỉ còn lại một sự chân thật, chính đó gọi là bất không vậy. Lìa tưởng niệm của thức, cho nên không có bất cứ một tướng hư ngụy nào, mà là rốt ráo thường hằng chẳng biến, chẳng đổi. Bởi không còn một tướng nào có thể hoại, có thể diệt, cho nên cũng lìa mọi sự tăng giảm.
– Lại nữa, chỗ vô phân biệt của Thật thể Chân như này, từ đời vô thỉ đến nay, đủ vô lượng chủng tử công đức vô lậu, tự nhiên sẵn có, lúc nào cũng tương ưng, vì nó không lìa, không rời, cho nên nói là bất không. Những công đức chứa nhóm nơi Thật thể Chân như như thế, tất cả chúng sinh đều có sẵn, chỉ vì chúng sinh bị vô minh che lòa, cho nên chẳng biết, chẳng thấy, chẳng thể nào đạt được công đức lợi ích của Pháp thân, đâu khác gì hoàn toàn không có. Nói chưa có là nói những chúng sinh chẳng biết, chẳng thấy về thể của Pháp thân, cho nên bao nhiêu lợi ích của công đức nghiệp, chẳng phải là chỗ những chúng sinh ấy có thể thọ dụng, vì vậy chẳng gọi là thuộc về của họ. Chỉ có nhờ vào sự tu khắp tất cả thiện Pháp, đối trị các thứ nghiệp chướng, nhận ra Pháp thân kia, sau đó mới được những công đức lợi ích. Thế nên nói rằng tu tất cả thiện Pháp, sinh ra sắc thân Như Lai. ... (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Thấy Nghe hoặc niệm Danh Phật, Bồ Tát: Địa Tạng Bồ Tát đều được lợi ích thù thắng:
Vậy, lúc bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ trên đảnh môn phóng ra những luồng hào quang rực rỡ chiếu sáng như thế xong, lại thốt ra thứ tiếng rất vi diệu mà bảo đại chúng, Thiên Long Bát Bộ, nhân cùng phi nhân v.v... hiện đang có mặt tại Đao Lợi thiên cung rằng: “Hãy lắng nghe hôm nay Ta, tại cung trời Đao Lợi, tuyên bày ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng về những sự lợi ích trong hàng trời, người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự siêu vượt nhân Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không thối chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”
Nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát hiệu là Quán Thế Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay mà bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây đầy đủ đức đại từ bi, thương xót chúng sanh mắc tội khổ. Bồ Tát ở trong ngàn vạn ức thế giới hóa hiện ra ngàn vạn ức thân, tất cả công đức cùng sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn.
Con được nghe Đức Thế Tôn cùng vô lượng chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng lời ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng rằng dầu cho chư Phật trong thuở quá khứ, hiện tại và vị lai đều tuyên nói về công đức đó, vẫn chẳng thể nói hết được.
Vừa rồi lại được Đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng rằng muốn tuyên nói các sự lợi ích của Bồ Tát Địa Tạng. Cúi mong Đức Thế Tôn, vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai, mà tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng, khiến cho Thiên Long Bát Bộ chiêm lễ được phước.”.....
“Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại và vị lai, nếu những chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa.
Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phục v. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài.
Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.”
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ nam người nữ nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, năm tuổi, mười tuổi trở xuống mà chết mất cha mẹ, cho đến chết mất anh em chị em, người đó khi khôn lớn thường nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng quyến thuộc, song không rõ họ lạc vào chốn nào, sanh về thế giới nào, hoặc sanh trong cõi trời nào.
Người đó như có thể đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, thậm chí nghe danh hiệu, một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, trong từ một ngày cho đến bảy ngày đừng thối thất tâm nguyện ban đầu mà nghe danh hiệu, ngắm hình tượng, chiêm lễ, cúng dường; thì quyến thuộc của người đó nếu do ác nghiệp mà bị đọa vào đường ác lẽ ra phải chịu đến nhiều số kiếp, nay nhờ công đức đắp vẽ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng và chiêm lễ của con cái, anh em chị em, nên liền được giải thoát, sanh trong cõi trời cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Còn như quyến thuộc của người đó có phước lực, đã được sanh vào cõi trời, cõi người và hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu rồi, thì sẽ nhờ công đức này mà nhân Thánh tăng trưởng, hưởng vô lượng sự vui.”
“Như người đó lại có thể trong hai mươi mốt ngày nhất tâm chiêm lễ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng và niệm danh hiệu của Ngài đủ một vạn biến, thì sẽ được Bồ Tát hiện thân vô biên, mách bảo người đó cõi giới mà hàng quyến thuộc đã sanh về; hoặc trong giấc mộng, Bồ Tát hiện đại thần lực, đích thân dắt người đó đến các thế giới để thấy hàng quyến thuộc của mình.
Nếu người đó lại có thể mỗi ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát một ngàn biến, luôn đến một ngàn ngày, thì người đó sẽ được Bồ Tát sai các quỷ thần và thổ địa sở tại hộ vệ trọn đời, hiện đời y phục thức ăn dư dật, không có các thứ bệnh khổ, cho đến các hoạnh sự còn không hề vào đến cửa, huống nữa là đến nơi thân! Người đó rốt ráo sẽ được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu Đạo Bồ Đề Vô Thượng, muốn ra khỏi Tam Giới; những người đó thấy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe danh hiệu, rồi chí tâm quy y, hoặc đem hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn thức uống để cúng dường chiêm lễ, thì điều nguyện cầu của các thiện nam thiện nữ đó sẽ chóng được thành tựu, vĩnh viễn không bị chướng ngại.”
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức điều nguyện, trăm ngàn vạn ức sự việc về hiện tại cùng vị lai, thì nên chỉ quy y, chiêm lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; thì các điều sở nguyện sở cầu như thế tất đều thành tựu cả.
Nếu lại cầu mong Bồ Tát Địa Tạng, đấng đầy đủ lòng đại từ bi, mãi mãi ủng hộ cho mình, thì người đó trong giấc chiêm bao liền được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng, dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được; những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng.”
“Những hạng người này, khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thì nên đem hết bổn tâm mà cung kính bày tỏ; rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, cùng tất cả đồ chơi cúng dường Bồ Tát. Lại đem một chén nước trong đặt trước Bồ Tát một ngày một đêm, sau đó chắp tay thỉnh để uống, mặt day về hướng Nam; khi nước sắp vào miệng phải chí tâm trịnh trọng. Uống nước xong, phải kiêng cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày. Những người thiện nam thiện nữ này, trong giấc chiêm bao sẽ thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên đến chỗ họ ở mà rưới nước quán đảnh cho. Những người này thức dậy liền được thông minh, các kinh điển một phen lọt vào nhĩ căn thì liền nhớ mãi, không còn quên một câu kinh hay một bài kệ nữa!”
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có những người nào ăn mặc không đủ, cầu gì cũng trái nguyện, hoặc nhiều bệnh tật, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc bị phân tán, hoặc các hoạnh sự cứ xảy đến làm thiệt thân, khi ngủ thường mộng thấy điều kinh sợ; những người như thế, khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, mà chí tâm cung kính niệm đủ một vạn biến, thì những sự không như ý sẽ tiêu sạch lần lần, liền được an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an vui.”
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì việc công chuyện tư, hoặc vì sự sanh sự tử, hoặc vì việc khẩn cấp, mà phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn hoặc đi ngang hiểm đạo; người đó trước tiên nên niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến, thì đi qua nơi nào cũng có các vị quỷ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi mãi mãi được an lạc, cho đến dẫu gặp cọp, sói, sư tử... cùng tất cả mọi thứ độc hại, cũng đều không thể làm thương tổn đến được.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Bồ Tát Địa Tạng có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Đề. Nếu nói về những việc lợi ích nhờ được thấy, được nghe của chư chúng sanh, thì trong cả trăm ngàn kiếp cũng không thể nói hết được.
Vì thế, này Quán Thế Âm! Ông hãy dùng thần lực mà lưu bố kinh này, làm cho chúng sanh ở thế giới Ta Bà trong trăm ngàn vạn kiếp luôn được hưởng sự an lạc.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Lợi ích tu niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát: "Này Văn Thù Sư Lợi! Oai thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được. Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào nghe thấy danh tự của Bồ Tát đó rồi hoặc tán thán, hoặc chiêm lễ, hoặc xưng niệm danh hiệu, hoặc cúng dường, cho đến tô vẽ, chạm khắc, tạc đúc, sơn thếp hình tượng, thì người ấy sẽ được một trăm lần sanh lên cõi trời Tam Thập Tam, vĩnh viễn chẳng còn bị đọa vào ác đạo.
Này Văn Thù Sư Lợi! Không thể nói hết không thể nói hết số kiếp lâu xa về trước, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát là con trai của một vị đại Trưởng Giả. Thuở đó, trong đời có đức Phật hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai."..... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Chúng sinh ngu si bị chướng che nên phải luân hồi sinh tử khổ đau
Chúng sinh ngu si bị chướng che
Mù tối thường ở trong sinh tử
Như Lai mở bày đạo thanh tịnh
Giải thoát này của Tu Di Âm.
‘’ Chúng sinh ngu si bị chuớng che.’’ Chúng sinh là do chúng duyên giả hợp mà sinh. Chúng sinh thông minh thì đi trên con đường chánh, chúng sinh ngu si thì đi theo con đường tà. Người ngu si, vì họ mà nói chánh pháp thì họ không tin. Tại sao ? Vì họ ngu si ! Tại sao ngu si ? Vì không tin Phật pháp, cho nên càng ngày càng ngu si. Phải học Phật pháp thì càng ngày càng thông minh. Người thông minh thì chẳng có nghiệp chướng che đậy, kẻ ngu si thì có nghiệp chướng che đậy.
Che đậy là gì ? Tức là bị một vật che đậy, chẳng được giải thoát. Giống như La Hầu La con của Đức Phật. La Hầu La dịch là "che đậy". Vì nghiệp chướng quá nặng, ở trong thai mẹ sáu năm mới sinh ra, tại sao ? Vì trong quá khứ, La Hầu La là một đứa trẻ nghịch ngợm. Một ngày nọ, thấy một con chuột chạy vào hang động, La Hầu La lấy đá lấp hang động sáu ngày, tạo ra ác nghiệp này, do đó mới thọ quả báo che đậy ở trong thai mẹ sáu năm.
Có thuyết nói rằng : Đức Phật Thích Ca lúc mười bảy tuổi, thì kết hôn với Gia Du Đà La. Kết hôn rồi, Gia Du Đà La muốn có con, đức Phật dùng tay chỉ vào bụng thì phu nhân thọ thai. Đức Phật xuất gia rồi, tu hành ở trong núi Tuyết sáu năm, La Hầu La mới sinh ra. Lúc đó hoàng tộc Thích Ca nói Gia Du Đà La không giữ đạo làm vợ. Không có chồng mà sinh con ? Bèn dùng lửa để thiêu sống Gia Du Đà La, để bảo tồn danh dự dòng họ Thích Ca, Gia Du Đà La vì muốn chứng minh sự thanh bạch của mình mới phát thệ rằng :’’ Nếu tôi giữ đạo làm vợ, thì lửa đỏ biến thành hoa sen, nếu tôi không giữ đạo làm vợ thì lửa sẽ thiêu hủy thân của tôi, không một lời oán trách.’’ Nói xong bồng con là La Hầu La, nhảy vào trong đống lửa cháy dữ dội, quả nhiên lửa biến thành hoa sen màu đỏ, do đó ‘’ Hoa sen trong lửa,’’ là để chứng minh quyết thực không phải là không giữ quy cụ.
‘’ Mù tối thường ở trong sinh tử.’’ Người mù tối thì vừa điếc vừa câm. Nghĩa là sinh thì hồ đồ mà đến, chết thì hồ đồ mà đi, luôn luôn ở trong biển sinh tử, vĩnh viễn không được giải thoát.
‘’ Như Lai mở bày đạo thanh tịnh.’’ Vì người mù tối, không biết đạo lý sinh tử, luôn luôn sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Cho nên Phật từ bi thương xót chúng sinh, hướng dẫn chỉ dạy họ tu đạo thanh tịnh. Đạo thanh tịnh là gì ? Tức là chẳng có tư tưởng ô nhiễm. Tóm lại, tức là chẳng có quan hệ tình dục nam nữ. Ai ai cũng đoạn dục khử ái, thì thức thứ tám tuy nhiên có hạt giống, nhưng chẳng có duyên với cha mẹ thì cũng chẳng sinh ra. Cho nên đoạn dục khử ái, là phương pháp cơ bản giải quyết vấn đề sinh tử, chẳng có gì là huyền diệu. Ai ai cũng biết nhưng chẳng làm được. Tại sao ? Vì ngu si che đậy. Vua Đường Thái Tông có nói câu này : ‘’ Xuất gia mới là việc đại trượng phu.’’ Xuất gia thật là như thế, ném vứt năm dục lên chín từng mây, thứ nhất là không tham tài, thứ hai là không cưới vợ, thứ ba là không cầu danh, thứ tư là không ăn thịt, thứ năm là không ngủ nhiều. Tại sao phải khổ như thế ? Là vì muốn chấm dứt sinh tử, cầu tự tại, cầu giải thoát.
‘’ Giải thoát này của Tu Di Âm.’’ Vị Tu Di Âm Thiên Vương đắc được cảnh giới môn giải thoát này. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1)
+ Chúng sinh ‘’ Ngu si kiến trược rất đáng sợ.’’ Ngu si tức là mạng trược. Vì sao ? Vì vận mạng người ngu si là ô trược, sinh ra thì chẳng thông minh, đều có mối quan hệ với nhau.
Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
1. Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
2. Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Đều rơi vào hai bên.
3. Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
4. Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
5. Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành. Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1)
+ Nhận diện kẻ Ngu Si và người Trí_Ðức Phật dạy:
- Kẻ ngu có thể được nhận biết qua ba điều, bằng cách cư xử của nó trong hành động, lời nói và tư tưởng;
- Cũng vậy người trí cũng được biết qua ba điều, qua cách ứng xử của người đó trong hành động, lời nói và tư tưởng (Tăng Chi Bộ Kinh_đoạn 3)
* Trên đời nầy có ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật (Tăng Chi Bộ Kinh_đoạn 28)
+ Kệ về người ngu si:
Hoa đẹp sáng sáng đều xinh tươi,
Trăng sáng ngại gì mỗi đêm tròn,
Ðại địa có suối đều thành rượu,
Rừng già không cây chẳng lay tiền.
Người ham thích hoa sanh tâm ngu si nói: “Tôi muốn đóa hoa này mãi mãi xinh tươi, chẳng tàn phai; sáng sáng đều đẹp như thế này.”
Người tham trăng tròn thì nói: Tối hôm qua trăng tròn thật đẹp, nếu trăng mỗi đêm đều tròn như thế cả thì tốt biết bao!
Như thế không phải là ngu si sao? Trăng có tròn có khuyết, hoa có nở có tàn. Hoa nở thì phải có lúc hoa tàn, trăng tròn thì phải có lúc trăng khuyết, đó là luật tuần hoàn của trời đất.
Người thích uống rượu lại nghĩ: “Mỗi ngày tôi đều đi mua rượu, mà whisky hoặc brandy thì rất đắt. Nếu tất cả ao nước trên trái đất này đều biến thành ao rượu, để khi nào tôi thèm rượu thì chỉ việc đến ao múc lên uống, thật tiện lợi biết bao!”
Còn kẻ tham tiền thì mơ mộng: “Mình bây giờ phải đi làm kiếm tiền, thật là quá sức vất vả. Ước gì tất cả cây cối đều biến thành ‘cây tiền,’ trên cây kết toàn những đĩnh vàng đĩnh bạc và tiền đô-la, để khi mình cần tiền thì chỉ việc hái xuống tiêu xài, thật tiện lợi biết bao!”
Những ước muốn không thể thực hiện được ấy đều là những ảo tưởng ngu si.
Như có người không có đi học, thậm chí cũng chưa học tiểu học-trung học thì khỏi nói rồi-nhưng lại muốn được một học vị Tiến sĩ ở đại học.
Lại còn có những người, không làm ruộng bao giờ, song đến vụ mùa lại muốn thu hoạch như thiên hạ! Ðó đều là ngu si!
Thậm chí có người không mua vé số mà lại mong trúng lô độc đắc, quả là một ý tưởng quá ngu si!
Thế nhưng, đa số người đời đều mắc phải chứng bịnh vọng tưởng “không làm mà muốn có ăn.”
Vậy thì phải làm sao? Có thứ bịnh này thì cần phải sửa đổi đi mới được.
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai điều mong cầu, đó là đại bi. Ngài lại làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh, khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui, đó là Ðại từ. Vì nhân duyên đại từ đại bi, nên Ngài nói phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn này. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa)
+ Phẩm Người Ngu - Chương hai pháp. Đức Phật dậy:
1. Có hai loại người:
Người ngu: Người có phạm tội nhưng không thấy có phạm tội, và người không chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình.
Người có trí: Người có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình.
2. Có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai: Người độc ác với tâm đầy sân hận, và người có lòng tin với tà kiến.
3. Có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết.
4. Có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai có nói, có thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai không nói, không thuyết.
5. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh đã được giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩ là kinh cần phải giải nghĩa.
6. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh cần phải giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩ là kinh đã được giải nghĩa.
7. Với người có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: địa ngục hay bàng sanh.
Với người không có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: chư Thiên hay loài Người.
8. Với người có tà kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: địa ngục hay loại bàng sanh.
Với người có chánh kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: chư Thiên hay loài Người.
Người theo ác giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: địa ngục hay loài bàng sanh.
Người đầy đủ thiện giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: chư Thiên và loài Người.
9. Do quán thấy hai lợi ích: Thấy tự mình hiện tại lạc trú, và có lòng thương tưởng đến những chúng sanh về sau. Do quán thấy hai lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nên Ta đi đến các ngôi rừng hẻo lánh, các trú xứ xa vắng.
10. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, thuộc thành phần minh: Chỉ và Quán.
+ Chỉ được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận.
+ Quán được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận.
Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát.
Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập.
=> Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Người ngu - Chương ba pháp. Đức Phật dậy
...1.- Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi, người ngu có nguy hiểm, người trí không có nguy hiểm: người ngu có tai họa, người trí không có tai họa. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi đến với người trí, không có nguy hiểm đến với người trí, không có tai họa đến với người trí.
3.- Đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ẩn tích của người ngu: Kẻ ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác => Nên các người hiền trí biết được: “Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân”.
Đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người hiền trí: Người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện => Nên các người hiền trí biết được: “Người này là người hiền trí, là bậc chân nhân”. (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ 62 Tà kiến ngoại đạo - Kinh Phạm Võng:
Các Tỳ kheo hỏi đức Phật:
– Sao gọi là kẻ biết ít, chỉ biết theo lời răn dạy không đa văn mới chê trách đức Phật?
Đức Phật dạy:
- Người đó nói rằng: Đức Phật không sát sanh, không kết oán, không cầm dao gậy, dạy người làm thiện, thương yêu tất cả mọi người cho đến loài côn trùng nhỏ bé; cũng không lấy tài vật của kẻ khác, chỉ muốn bố thí, tâm niệm bố thí, thấy người bị kẻ khác cướp đoạt thì thương xót; thân tự làm thanh tịnh, không kết tội kẻ khác, tu phạm hạnh thanh tịnh, thích hạnh thanh tịnh, không thích pháp ái dục xấu ác; cũng không nói dối, lời nói chí thành, thích sự thành thật không hư dối, người thế gianđều tin lời nói của vị ấy, không có ý khác, cũng không vọng niệm, không nói hai lưỡi, rao truyền để hai bên đánh nhau, nếu có tranh tụng thì hòa giải, khiến hai bên được an ổn, không chửi mắng, cũng không nói lời ác, nói ra điều gì cũng khiến cho mọi người hoan hỷ, chỉ nói điều thiện, không nói lời lừa dối, nói lời rất thành thật đúng lúc, hành chánh pháp có nghĩa lý, nói lời dịu dàng; không ngồi giường cao chạm trổ đẹp đẽ, cũng không trang sức hương hoa, không nghe ca hát múa xướng, không uống rượu; cũng không đeo vàng bạc châu báu, thường đúng pháp khất thực, không ăn sai giờ, không nhận nô tỳ trai gái, không hủy diệt mầm lúa, cũng không nuôi gà, dê, heo, không có nhà cửa; cũng không mua bán ở chợ búa, không dùng cân, đấu thước, tấc để lừa đảo, xâm đoạt của người; đối với việc dùng dao gậy, đánh đập khủng bố người đều xa lìa.
Thí như người ngoại đạo tham đắm việc ăn uống, lấy đó để so sánh với đức Phật, họ cất chứa nhiều lúa thóc để ăn, uống rượu, nuôi súc vật, y phục, thuốc men. Sa môn Cù Đàm đều không có những việc ấy.
Thí như ngoại đạo, thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn thường làm những nghiệp si mê, mặc sức ra vào, bài báng ganh tị, chỉ muốn tự mình được cung kính. Còn đức Phật thường xa lìa nghiệp si mê này.
Thí như ngoại đạo, đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn ở trong làng xóm, tích chứa nhà cửa, lúa thóc, cây cối, hoa quả, vườn rau cải, tự giữ lấy để ăn dùng. Đức Phật thì xa lìa những việc ấy.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn ngồi nằm giường cao rộng trải tơ, lấy vàng bạc tốt đẹp khảm lên trên, rồi lấy nệm làm bằng các loại lông voi, ngựa, súc sanh, các loài chim bay trải lên tòa ngồi. Còn đức Phật thì đều xa lìacác việc này.
Thí như có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn cùng nhau hỏi rằng:
– Vua là thế nào? Giặc là thế nào? Binh đội là thế nào? Đánh nhau là thế nào? Đại thần là thế nào? Quận, nước, huyện, ấp là thế nào? Nữ nhân là thế nào? Dâm dật là thế nào? Nói toàn chuyện thế gian, nói cả về việc biển khơi ...
Còn đức Phật thì đều xa lìa các việc ấy.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn hành động hư dối, giả làm như thật, ứng hiện trong ngoài không ăn khớp nhau, tỏ vẻ xuất sắc để cầu tài lợi, thường tham đắm chuyện ăn uống. Còn đức Phật thì đều xa lìa kiến chấp si mênày.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn cùng nhau tranh cãi cho rằng:
– Ta biết pháp luật, ngươi chẳng biết pháp luật ngươi là tà kiến há có thể biết pháp sao? Ta là chánh kiến còn ngươi thì ngôn ngữ trước sau điên đảo, ta là chánh kiến, ngươi là tà kiến, ngươi bị thua, ta được thắng, ngươi là xấu, ngươi là biên kiến, đến độ không còn thọ nhận lời nói của ta, ngươi nên học hành, có gì để bảo chứng?
Đức Phật thì xa lìa quả báo của hàng súc sanh ấy.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn thường chơi cờ xu bồ, bài bạc, còn nói:
– Ta được ném thả vào túi, leo lên trụ, chơi cờ vua, đấu nghé, ném chén.
Còn đức Phật thì đều xa lìa các việc này.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn khi tắm rửa, thì dùng tạp hương xoa vào mình, tự làm đẹp, lấy gương tự soi, cầm dù lọng cao, mang giày da, búi tóc, dùng châu ngọc. Còn đức Phật thì đều xa lìa các việc như thế.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn thường làm việc ác, lấy tay đánh chân, dùng đầu mặt xúc chạm nhau, đấu voi, ngựa, trâu, dê, đấu người nam, người nữ và trẻ em, đấu gà, heo, vịt. Còn đức Phật thì đều xa lìa những tà kiến ác kiến này.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống, biết phân biệt về dao, mâu, cung tên, phân biệt tướng nam, tướng nữ, người lớn, trẻ nhỏ, biết phân biệt tướng voi, ngựa, trâu, dê. Còn đức Phật thì đều xa lìa các việc ấy.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống, làm thầy thuốc cho đàn ông, đàn bà, con nít, làm thầy thuốc cho voi, ngựa, trâu, dê. Còn đức Phật thì đều xa lìa các việc như vậy.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống. Làm các việc về quỷ thần, tạo ra các thứ áo quần, làm thầy thuốc chữa mắt, làm thuốc cho phụ nữ mới sanh, làm chú cho người bị nhiễu loạn. Khi người nữ lui tới thì cầm cây cỏ hóa thành đồ ăn ngon cho họ ăn, bèn dối trá bảo là đi tìm vật tốt để hóa ra y phụccho người mặc vào có thể bay được. Còn đức Phật thì đều xa lìa những việc ấy.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống: cho người uống thuốc để nôn mửa. Còn đức Phật thì đều xa lìa các việc như thế.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn dùng nghiệp súc sanh để tự mưu sống, bảo người đi tới chỗ này chỗ nọ, dùng chú thuật khiến cho gây lộn, kiện cáo, cùng đánh đập người, vật ngã xuống đất, dùng chú khiến phụ nữ bị hư thai, dùng cây lau chú thuật khiến bám vào tay người. Còn đức Phật thì đều xa lìa những việc này.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn dùng nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống, cầm củi đốt lửa, chú vào hơi độc của vỏ cây á phiện, hạt bồ đào để tạo ra khói, chú vào con chuột để cắn giết người, học chú thuật để biết người lúc nào sống lúc nào chết. Còn đức Phật thì đều xa lìa các việc như thế.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống: Một người nói: “Sẽ có mưa lớn”; một người nói: “Sẽ có mưa nhỏ”; một người nói: “Lúa thóc sẽ chín”; một người nói: “Lúa thóc sẽ không chín”; một người nói: “Lúa thóc sẽ tốt”; một người nói: “Lúa thóc sẽ không tốt”; một người nói: “Sẽ có bệnh dịch lớn”; một người nói: “Không có”; một người nói: “Sẽ có giặc đến phá hoại nước này”; một người nói: “Sẽ có chết chóc lớn”; một người nói: “Sẽ có vua băng hà”; một người nói: “Sẽ có lập vua mới”; một người nói: “Sẽ có động đất lớn”; một người nói: “Không có động đất”; một người nói: “Sẽ có nguyệt thực”; một người nói: “Không có nguyệt thực”; một người nói: “Sẽ có nhật thực”; một người nói: “Không có nhật thực”; một người nói: “Mặt trời từ đông qua tây”; một người nói: “Từ tây qua đông”; một người nói: “Mặt trăng tinh tú từ đông qua tây”; một người nói: “Từ tây qua đông, do đó mà có việc tốt xấu”; một người nói: “Do đó cho nên mặt trời, mặt trăng từ đông qua tây”; một người nói: “Do đó cho nên mặt trời, mặt trăng, tinh tú xuất hiện”; một người nói: “Do đó cho nên mặt trời, mặt trăng, tinh tú lặn”; một người nói: “Mây sẽ che mặt trời”; một người nói: “Mặt trời sẽ ra khỏi mây”; một người nói: “Mặt trời sẽ trong, không có mây”. Còn đức Phật thì đều xa lìa những việc ấy.
Có người ngoại đạo đã thọ nhận đồ ăn của tín thí rồi mà còn làm nghiệp của hàng súc sanh để tự mưu sống. Một người nói: “Vua nước này sẽ qua tàn phá nước kia, vua nước kia sẽ lại tàn phá nước này”, một người nói: Xe, ngựa, sáu thứ súc vậtcủa nước này ít, giải mộng cho người, dùng chú thuật khiến người không nói được, khiến cho người cấm khẩu; vì người mà viết sách nói lên giá trị của họ, vì người mà lấy áo quần để so sánh phẩm giá của họ, phân biệt màu sắc tốt xấu để đánh giáhọ. Còn đức Phật thì đều xa lìa những việc như vậy.
Đức Phật dạy:
- Sa môn ngày ăn một bữa, chiều không ăn, ăn đúng giờ, xa lìa việc ăn phi thời, đối với y bát, thực hành hạnh biết vừa đủ, ăn uống vừa no thì thôi, có đi đâu cũng đều mang theo y bát bên mình, thí như con chim bay đi đâu cũng có hai cánh bên thân. Tỳ kheo cũng như vậy, đối với áo quần, việc ăn uống, bình bát đều vừa đủ thì thôi, dù đi đến đâu cũng mang theo y bát bên mình; Tỳ kheo cũng như vậy, thọ trì, phụng hành lời răn dạy của hiền giả, tự quán thân mình, không có tranh cãi, luôn suy nghĩ về đạo, làm việc hợp với sự thật, thấy sắc không khởi tưởng, cũng không xem người cùng đánh nhau, giữ sự tịch tĩnhliên tục, không có si mê loạn động; Các pháp ác bất thiện, không vừa lòng, không nên để chúng làm loạn tâm mình, phải giữ gìn con mắt. Đó gọi là Tỳ kheo phụng hành giới phẩm của bậc hiền giả.
Hiền giả như vậy, các căn tịch tĩnh, đối với bên trong không nghĩ về sự tranh giành gây loạn, ăn uống chỉ nhằm vừa đủ, không ăn nhiều cũng không ăn ít, thấy thích ứng là được, thường ăn một bữa, không thêm không bớt, nhằm nuôi mạng sống chứ không phải để cho mập béo, chỉ để cho thân được an ổn, không thọ khổ, có khí lực để tu tập hành hóa.
Nếu có Tỳ kheo ở thời đương lai, nên tôn thờ và hành trì giới của bậc hiền thiện này, đối với bậc hiền thiện nên ăn uống đủ no, phải suy tư về đạo, đầu đêm, cuối đêm phải hành đạo, thực hành đạo niệm vi diệu, không lay động, ban ngày hoặc ngồi, hoặc đi kinh hành, không nghĩ đến pháp ác, đầu đêm hoặc đi kinh hành, hoặc ngồi, nửa đêm nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, ý tưởng luôn thức tỉnh, thường nhớ nghĩ về ánh sáng, cuối đêm lại ngồi suy tư về đạo. Lúc kinh hànhthì không nghĩ đến pháp ác. Nếu đi vào quận, huyện, làng ấp để khất thực, thì sáng sớm ngủ dậy, đắp y mang bát đi vàonhững nơi chốn ấy để khất thực phải luôn gìn giữ các căn, thường nghĩ đến việc khất thực cho xong, dùng cơm xong, rửa tay, rửa chân, cất bát, liền vào chỗ vắng vẻ một mình, ban đêm ngồi thiền, hoặc ở bên gốc cây vắng vẻ, hoặc chỗ đất trống, hoặc giữa núi, trong hang động, hoặc trong nhà cỏ, hay bên ao đầm, ngồi ngay thẳng, không ngó bên này, không liếc bên kia, lìa bỏ sự si mê của thế gian, ý nhớ nghĩ về sự hành hóa, không có ý ác, lấy tâm từ bi thương xót tất cả mọi người kể cả các loại côn trùng nhỏ bé, ý cũng không nghĩ ác, trừ bỏ ái dục, xa lìa sự ham ngủ nghỉ, thường nghĩ đến việc mau đạt được tâm ý hành định, mà không nghĩ đến việc ngủ nghỉ, từ bỏ các tưởng còn do dự, không nói điều ác, cũng không nghĩ tưởng về điều ác, giữ lòng tịch định, xa lìa sự nghi ngờ bên ngoài, xả bỏ các tưởng về việc hành chẳng hành các pháp ác, ý cũng chẳng nhớ nghĩ về các tưởng ấy, trừ bỏ năm thứ ngăn che và những ý tưởng về phiền não.
Thí như có người mang tiền đi buôn, mong được như ý, khi trở về quê, lợi tức thường được dư dã, sinh sống đầy đủ, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng.
Thí như có người từ lâu đã làm tôi tớ cho người ta, nay được thoát khỏi thân nô tỳ, ra vào tự tại, tự nghĩ: “Ta vốn làm nô tỳ, nay được giải thoát để làm dân”, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng.
Thí như có người bị nhốt trong lao ngục, được ân xá mà ra khỏi ngục, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng.
Thí như có người bị bệnh nặng, năm này qua năm nọ không lành, bỗng gặp được lương y chữa cho lành bệnh, có khí lực, đi đứng ra vào, ăn uống tự nhiên. Người đó suy nghĩ: “Lúc xưa bị bệnh quanh năm, nay được lành bệnh, lại có khí lực ăn uống, ra vào”, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng.
Thí như có người đem tài vật quý báu đi qua đường hiểm, tài vật được giữ gìn hoàn toàn an ổn, đến được con đường tốt, người đó tự nghĩ, trong lòng vui mừng.
Tỳ kheo cũng như vậy, xa lìa năm thứ ngăn che tâm ý. Thí như người mắc nợ đã trả được nợ; người bị cầm tù nay được thả ra; người bệnh lâu ngày được lành; người làm tôi tớ nay được về làm dân, như người qua đường hiểm nay được an lành, trong lòng hoan hỷ.
Đức Phật bảo:
– Kẻ thiếu trí hoặc không đa văn mới hủy báng Phật.
Đức Phật dạy:
– Pháp mà ta hiểu thì thâm diệu, điều mà ta biết thì rốt ráo. Hiền giả đệ tử nghe như vậy liền khen ngợi đức Như Lai.
Đức Phật nói:
– Sao gọi đó là pháp thâm diệu mà ta hiểu rõ, hiền giả đệ tử nghe pháp ấy liền tán thán đức Như Lai?
Đức Phật dạy:
- Nếu có ngoại đạo, ở trong kiếp quá khứ, thấy sự việc quá khứ, đối với vô số học thuyết, mỗi mỗi đều học hỏi các sự việc biết các sự việc ấy, đều ở trong mười tám thứ kiến giải này.
Nếu có ngoại đạo, ở trong kiếp vị lai, thấy việc vị lai, học hỏi nơi sự việc vị lai trong vô số học thuyết, mỗi mỗi rõ biết từng việc, thảy đều ở trong bốn mươi bốn thứ kiến giải.
Nói về mười tám thứ kiến giải thuộc về kiếp quá khứ:
Có ngoại đạo, hành theo “Thường kiến” luôn tự cho “Thế gian là hữu thường”, ở trong bốn kiến giải.
Đức Phật dạy:
- Người ngoại đạo kia vì sao trong bốn kiến giải đều thấy là thường, tự thuyết giảng cho người thế gian về “Hữu thường”? Nếu có ngoại đạo, đoạn trừ ái dục, hành thiền định, liền ở trong tam muội chánh thọ Như Kỳ Tượng, có thể nhớ sự việc trong hai mươi kiếp ở quá khứ. Người đó nói: “Ngã và thế gian là hữu thường”, vì sao như vậy? Ta biết lúc thành lúc bại ở kiếp quá khứ, nhưng không biết lúc thành lúc bại ở kiếp vị lai. Người đó liền nghĩ: “Biết việc quá khứ, bỏ việc vị lai”. Đó là kiến giải thứ nhất.
Thứ hai, nếu có ngoại đạo, đoạn trừ ái dục, ở trong tam muội chánh thọ Như Kỳ Tượng, có thể nhớ được sự việc trong bốn mươi kiếp ở vị lai. Người đó nói: “Ngã và thế giới là hữu thường”. Vì sao vậy ? Vì ta không biết sự việc thành bại ở kiếp quá khứ, chỉ biết lúc thành bại ở kiếp vị lai. Người đó bèn bỏ việc quá khứ không biết đến, chỉ nghĩ đến việc vị lai. Đó là kiến giảithứ hai.
Thứ ba là nếu có ngoại đạo, đoạn trừ ái dục, tinh tấn hành thiền, nhờ định ý tam muội Như Kỳ Tượng, nhớ sự việc trong tám mươi kiếp ở quá khứ và vị lai. Người đó bèn nói: “Ngã và thế giới là hữu thường”. Vì sao vậy ? Vì ta biết lúc thành lúc bại ở kiếp vị lai và quá khứ. Người đó bèn nhớ nghĩ đến trí tuệ của quá khứ và vị lai. Đó là kiến giải thứ ba.
Thứ tư là nếu có ngoại đạo, tinh tấn tịch tĩnh, nhất tâm đoạn trừ hạnh ác, liền được định ý tam muội Như Kỳ Tượng, nhớ đến căn tịch tĩnh, trụ nơi niệm si. Người ấy tự cho: “Thế gian là hữu thường”. Vì sao vậy ? Vì ta không biết lúc thành lúc bại ở kiếp quá khứ, cũng không biết lúc thành lúc bại ở kiếp vị lai. Đó là kiến giải thứ tư.
Chỗ có thể gọi ngoại đạo là “nói thường, thấy thường, tự vì người thế gian thuyết giảng hữu thường”, đều ở trong bốn kiến giải này không thể vượt lên trên. Như Lai đều biết rõ, biết một cách vi diệu vượt hơn thế nữa, cho nên Ngài không chấptrước, nhờ không chấp trước nên được giải thoát, đức Như Lai biết sự thọ nhận (thống dương) do xúc sanh ra đã diệt tận, biết nó từ đâu sanh khởi, đức Phật thấy vậy nên không chấp nhận, ý hiểu rất rõ.
Đức Phật dạy: “Pháp mà ta hiểu hết sức thâm diệu, vô cùng sâu xa sáng tỏ, nếu có hiền giả đệ tử nghe được pháp đó liền tán thán Phật”.
Có ngoại đạo trong kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, nhớ đến việc quá khứ, đối với vô số học thuyết, đều thích nói là biết những việc trong quá khứ, tất cả đều ở trong mười tám kiến giải. Ngoại đạo này sao gọi là ở trong kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, nhớ đến việc quá khứ, đối với vô số học thuyết, đều thích nói là biết những việc trong đó? Nếu có ngoại đạo đều “nói thường, thấy thường” họ đều vì người thế gian thuyết “hữu thường” đều ở trong bốn kiến giải. Vị ngoại đạo ấy sao gọi là “thuyết thường, thấy thường”, vì người thế gian nói “thường”? Khi kiếp hoại, thì chúng sinh nơi hạ giới được sanh lên trời A Vệ Hóa La thứ mười hai. Lúc kiếp hoại thì vị thiên đó phước đức cạn mỏng, mạng chung liền sanh xuống hạ giới. Có vị Phạm thiên sanh trong cõi hư không, bèn đối với vị đó tự xưng là: “Đại Tôn phạm”, tự cho “ta làm ra tất cả mọi sự, ta là thượng tôn, là cha của tất cả, giải nghĩa cho ngàn người ta là bậc Tôn thượng”. Vị Phạm thiên ấy tự nghĩ: “Làm thế nào để có được người sanh ở đây?”. Vị ấy vừa nghĩ như vậy, những người ở hạ giới khác liền được sanh lên trên trời. Bấy giờ vị Phạm thiênkia nhân điều mới thấy đó, nên nói: “Ta hóa sanh ra các người này”. Các người đó cũng tự sanh kiến giải cho rằng: “Vị Phạm thiên đã hóa sanh ra chúng ta. Vì sao vậy? Vì Phạm thiên sanh trước, chúng ta sanh sau, cho nên hóa sanh ra chúng ta là vị Phạm thiên sanh trước”. Ngài hết sức đoan chánh đẹp đẽ và thanh khiết, oai thần vòi vọi. Còn chư thiên khác thì tùy theophước đức cạn mỏng mà mạng hết dần dần sanh xuống nhân gian. Các vị ấy tu hành tinh tấn, xa lìa ái dục, hành nhất tâmliền được định ý tam muội Như Kỳ Tượng, nên nhớ lại chỗ sanh khi xưa, người đó nói: “Vị Phạm thiên sanh ra ở trên trờitrước tiên đó thì được thường tại, không di chuyển, cũng không chết; Vị Phạm thiên trên trời luôn tồn tại, hóa sanh ra chúng ta là những người phi thường (vô thường), bị di chuyển và bị chết”, đó là chủ thuyết thường và vô thường, gọi là kiến chấpthứ nhất.
Hai là nếu có ngoại đạo, vị đó đối với Phạm thiên nêu bày kiến giải như thế này: “Nếu có các pháp sắc, thống dương (thọ), tư tưởng, hành, thức, pháp ấy là thường, cũng không di chuyển, không chết. Còn các đại như địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng và không chủng, những thứ này là vô thường, không bền chắc”. Vị Phạm thiên ấy, lộc tướng phước đứccạn mỏng, mạng chung lại sanh xuống nhân gian, vị đó tinh tấn, xa lìa ái dục, nhất tâm định ý theo pháp tam muội Như Kỳ Tượng, nhớ lại Phạm thiên lúc trước, bèn nói: “Các pháp như sắc, thọ (thống dương), tư tưởng (tưởng), hành, thức kia là pháp thường còn bền chắc. Còn các đại như địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng và không chủng ở nhân giannày là pháp vô thường, không bền chắc, có diệt vong”. Đó là kiến giải thứ hai.
Thứ ba nếu có ngoại đạo, chủ trương: “Có vị trời tên là Kỷ Đà Ba Đồ, ở trên cõi trời cùng nhau vui chơi, vì vui chơi nên sau đó thường không nhớ lại lúc thân thể bị bệnh nằm liệt giường, vị đó thân tướng, pháp lộc, phước đức cạn mỏng, mạng chungsanh xuống nhân gian, vị đó thực hành hạnh tinh tấn, xa lìa ái dục, nhất tâm nên được định ý tam muội Như Kỳ Tượng, nhớ lại chỗ sanh đời trước, liền nói: “Sự vui sướng an lạc của vị trời kia luôn tồn tại, chẳng dời đổi, chẳng diệt vong. Còn sự vui sướng của nhân gian là vô thường không bền chắc, bị tử vong. Vị thiên kia là hữu thường, còn người nhân gian này là vô thường”. Đó là kiến giải thứ ba.
Thứ tư nếu có ngoại đạo chủ trương: “Có vị trời tên là Tán Đề, vị đó ở trên trời cùng với vị trời tên là Đốn Bình, hai bên nhìn nhau sanh ra sân hận nên phải xa lìa tòa ngồi của mình, vị thiên nhân ấy lộc tướng phước đức cạn mỏng, mạng chung sanh xuống nhân gian, tu hành tinh tấn, xa lìa ái dục, nhất tâm liền được định ý tam muội Như Kỳ Tượng, nhớ lại thuở xưa đã sanh ở thiên thượng, vị đó nói: “Chư thiên kia cùng nhau vui chơi thỏa thích là thường trụ, bền chắc không có tử vong. Còn ta ở nhân gian thì chẳng thường, không bền chắc, bị tử vong. Vị chư thiên kia là thường còn, ta ở nhân gian là vô thường”. Đó là kiến giải thứ tư.
Đức Phật dạy:
-Các ngoại đạo, mỗi mỗi đều chủ trương “hữu thường”, mỗi mỗi đều vì người thế gian nói “hữu thường” đều ở trong bốn kiến giải này, không thể vượt hơn bốn kiến giải ấy. Đức Phật đều biết rõ, còn hiểu biết vượt hơn thế nữa bằng sự hiểu biết tuyệt diệu. Do đó Ngài không chấp trước cũng không hủy báng nên được vô vi (Niết bàn), Ngài biết sự thọ nhận do xúc sanh ra, biết phương tiện để thoát khỏi kiến giải, nhờ không có thọ nên được giải thoát. Pháp mà đức Phật biết thì thâm diệu, sáng tỏ, Ngài đều biết rõ tất cả. Nếu có hiền giả đệ tử nghe biết pháp ấy đều tán thán đức Như Lai.
Nếu có ngoại đạo, ở trong kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, nhớ lại việc trong thời quá khứ, đối với vô số học thuyết, mỗi mỗi đều thích nói, hiểu rõ những việc đó, đều ở trong mười tám kiến giải, là đối tượng nhận thức của đạo nhân. Sao gọi là có ngoại đạo nói: “Ta tự nhiên sanh ở đây, không phải từ nơi khác sanh đến”, nghĩ: “Không có từ đâu sanh đến”, thấy rằng: “Vốn không có thế gian, nay có thế gian”. Đều ở trong hai kiến giải ấy.
Sao gọi là những điều ngoại đạo đã biết, nói rằng: “Ta tự nhiên sanh ở đây, không phải từ phương khác sanh đến, nhớ là không có thế gian, nay lại có thế gian”: “Có một vị trời tên là Vô tưởng, nhập vào vô tưởng, không có thọ nhận, vị thiên nhânấy nếu nghĩ đến tư tưởng, lộc phước đức liền cạn mỏng, mạng chung sanh xuống nhân gian, người đó tu hành tinh tấn, xa lìaái dục, nhất tâm định ý, liền nhập vào tam muội Như Kỳ Tượng, không thể nhớ lại thuở xưa từ đâu sanh đến, người đó liền nói: “Vốn không có thế gian, nay mới có thế gian, thuở xưa ta vốn không có, nay bỗng tự nhiên sanh”. Đó là kiến giải thứ nhất.
Thứ hai nếu có ngoại đạo ý niệm si mê, người si mê ấy nghĩ rằng: “Vốn không có thế gian, nay bỗng nhiên có thế gian, ta vốn không có, nay tự nhiên sanh ra có”. Vì sao như vậy? Vì ta vốn không có, nay tự nhiên sanh ra có. Gọi là “Vốn không có thế gian”. Đó là kiến giải thứ hai.
Các ngoại đạo kia chủ trương: “Ta vốn không từ đâu sanh”, nghĩ là “không từ đâu sanh”. Kiến giải này gọi là “Bổn pháp thế gian, nay bỗng có thế gian”, đều ở trong hai kiến giải này. Đó là hai kiến giải không thể vượt lên trên. Đức Phật biết rõ, còn vượt lên trên bằng sự hiểu biết tuyệt diệu nữa. Do đó Ngài không chấp trước, cũng không hủy báng nên được vô vi (Niết bàn). Đức Phật biết sự thọ nhận do xúc sanh ra, Ngài còn biết phương tiện từ đâu phát sanh kiến giải này, nên ý hiểu rất rõ.
Đức Phật dạy:
–Pháp mà ta biết thì thâm diệu, hết sức sáng tỏ, ta biết tất cả. Nếu có hiền giả đệ tử nghe biết như vậy liền tán thán Phật.
Nếu có ngoại đạo, ở trong kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, nhớ nghĩ hành động lúc quá khứ, đối với một số chủ trương đều thích nói là hiểu rõ việc quá khứ đều ở trong mười tám kiến giải này.
Có ngoại đạo, một người nói: “Những điều tôi thấy là có giới hạn”, một người cho: “Những điều tôi thấy là không có giới hạn”, một người nêu: “Những điều tôi thấy là có giới hạn, không có giới hạn”, một người cho là: “Những điều tôi thấy là không có giới hạn, cũng không có giới hạn”, tất cả đều ở trong bốn kiến giải này. Ngoại đạo đó đối tượng nhận thức của họ là những gì ?
Nếu có ngoại đạo hành như vầy: Tự vì người thế gian giảng nói về “hữu hạn”. Chỉ có lời nói ta là chơn thật, ngoài ra đều là lời nói hư vọng si cuồng. Tự vì người thế gian giảng nói về “vô hạn”, nói rằng: “Ngã và thế gian là hữu hạn, vô hạn, ngã và thế gian cũng không hữu hạn, cũng không vô hạn”, sau đó cũng là lời nói hư vọng. Nói như vậy là lời nói điên cuồng. Vì sao? Vì ta thấy thế gian là “hữu hạn”. Đó là kiến giải thứ nhất.
Thứ hai nếu có ngoại đạo chủ trương: “Điều ta làm và thấy là vô hạn”, nghĩa là “ngã và thế gian là vô hạn”. Ngoại đạo ấy làm như vậy, thấy như vậy, gọi là “ngã và thế gian là vô hạn”. Người ấy nói rằng: “ngã và thế gian là vô hạn”, chỉ có lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Có người nói ngược lại: “ngã và thế gian vừa hữu hạn, vừa vô hạn, ngã và thế gian cũng không hữu hạn, cũng không vô hạn”. Ai nói lời nói đó là nói cuồng si. Vì sao như vậy? Vì “Ngã và thế gian là vô hạn”. Đó là kiến giải thứ hai.
Thứ ba có ngoại đạo chủ trương: thấy như vậy hành như vậy, cho: “ngã và thế gian vừa hữu hạn, vừa vô hạn”. Chỉ có lời nóicủa ta là chơn thật, ngoài ra đều là lời vọng ngữ, si cuồng. Kẻ khác thì nói ngược lại: “ngã và thế gian vừa hữu hạn, vừa vô hạn; ngã và thế gian cũng không hữu hạn, cũng không vô hạn”. Ai nói như vậy là nói lời si cuồng. Vì sao như vậy? Vì “ngã và thế gian vừa hữu hạn, vừa vô hạn”. Đó là kiến giải thứ ba.
Thứ tư có ngoại đạo chủ trương: “Ta nhớ như vậy, làm theo kiến giải như vậy. Nghĩa là “ngã và thế gian cũng không hữu hạn, cũng không vô hạn”. Chỉ có lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra đều là lời hư vọng si cuồng. Ngược lại có người nói: “Ngã và thế gian là hữu hạn, ngã và thế gian là vô hạn, ngã và thế gian vừa hữu hạn, vừa vô hạn”, nói như vậy là nói lời si cuồng. Vì sao? “Ngã và thế gian cũng không hữu hạn, cũng không vô hạn”. Đó là kiến giải thứ tư.
Đức Phật dạy:
- Các ngoại đạo có người nói: “Ngã và thế gian hữu hạn”, có người bảo “vô hạn”, có người cho “vừa hữu hạn vừa vô hạn”, đều ở trong bốn kiến giải này, không thể vượt lên trên bốn kiến giải ấy. Đức Phật đều biết những điều đó, lại còn vượt lên trên bằng sự hiểu biết một cách tuyệt diệu hơn nữa, cho nên Ngài không chấp trước, không hủy báng mà được vô vi (Niết bàn). Ngài biết sự thọ nhận là do xúc sanh ra, biết phương tiện để thoát ra khỏi nó, không chấp vào các thọ, nên Ngài được hoàn toàn giải thoát.
Đức Phật dạy:
–Pháp mà ta biết thì thâm diệu, hết sức sáng tỏ, nếu có hiền giả đệ tử nghe biết pháp ấy liền tán thán đức Phật.
Nếu có ngoại đạo đối với kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, nhớ nghĩ đến chỗ đã sanh thuở trước, đối với vô số học thuyếtđều ưa thích thuyết giải những việc ấy, đều ở trong mười tám kiến giải. Các ngoại đạo ấy cùng nhau tranh luận mỗi người mỗi cách. Nếu có người hỏi sự việc liền cùng nhau đau tranh lời nói, ngôn giáo khác nhau: “Ta sẽ dạy đạo như vậy, người kia sẽ dạy như vậy, người khác sẽ dạy như vậy, ngươi nên như vậy, không nên như vậy”, đều ở trong bốn kiến giải ấy.
Các ngoại đạo ấy cùng nhau tranh thuyết, sao gọi là chủ thuyết mỗi người khác nhau? Có các ngoại đạo thấy như vậy, hành như vậy, nói rằng: “Ta không biết cũng không thấy có đời sau hay không có đời sau, ta không biết cũng không thấy là nhất thiết không có đời sau. Ta vốn không thấy không biết, không nhớ việc này, như ta đã nói không phải như người khác đã nói”. Người ấy tự dùng lời nói riêng của mình: “Sự thấy của ta là chơn thật, ngoài ra đều si mê”.
Đức Phật dạy:
–Người chấp thủ tà kiến si mê ấy, khi thân chết đọa vào cõi ác Nê Lê.
Nếu có Sa môn, bà la môn, biết được nhiều nghề, trí tuệ thông tỏ, nhận xét đúng đắn về ý nghĩa, lời nói không khác, danh tiếng đồn xa, trừ bỏ kiến chấp của kẻ khác, có ai đến chỗ vị ấy để hỏi, vị ấy cũng chẳng thể bắt buộc theo ý kiến của mình, như cho ngoại đạo kia chết bị đọa vào nẻo ác. Đó là kiến giải thứ nhất.
Thứ hai, có ngoại đạo chủ trương: vị ngoại đạo ấy thấy như vậy, nói như vậy: “Ta không biết có sự tai ương hay phước đứccủa việc thiện ác? Cũng không biết đến là không có sự tai ương và phước đức của việc thiện, ác. Tôi cũng không biết cũng không thấy. Nếu nói như thế, có tai ương hay phước đức của sự thiện ác, thì tôi chấp nhận; hoặc không có tai ương, phước đức của việc thiện, ác, thì tôi không chấp nhận; nếu tôi không chấp nhận nó sẽ cảm thọ trở lại.
Nếu Sa môn, Bà la môn việc làm có nhiều hiểu biết, giải thuyết một cách trí tuệ, nghĩa lý chắc thật, lời lẽ không thay đổi, tiếng tăm đồn xa, hủy bỏ kiến chấp của kẻ khác, đi đến chỗ nào, nếu có ai hỏi thì không bắt buộc họ theo ý mình. Ngoại đạo ấy, nghi ngờ sợ sệt có người đến hỏi, nếu có người đến hỏi liền cùng nhau tranh thuyết rằng: “Bảo người này phải như thế này, người khác phải như thế khác, nên như vậy, không nên như vậy, cũng nên như vậy, không nên như vậy. Đó là kiến giải thứ hai.
Thứ ba có ngoại đạo chủ trương: ngoại đạo ấy thấy như vậy, nói như vầy: “Nếu không có ngã thì sao gọi là thiện, sao gọi là ác, nên làm những gì và không nên làm những gì, đâu là nẻo thiện, đâu là nẻo ác, đâu là sự thật đời này, đâu là sự thật đời sau, thường nên làm những gì thì bị khổ, thường nên làm những gì thì được vui?” Nếu có Sa môn, Bà la môn việc làm có nhiều hiểu biết, nghĩa lý xác thực, lời lẽ không thay đổi, tiếng tăm đồn xa, hủy bỏ kiến giải của kẻ khác, có ai đến hỏi: “Thiện ác ở chỗ nào? Những gì nên làm và những gì không nên làm? Đâu là con đường của thiện ác? Sự thật của đời này và đời sau ở chỗ nào? Thường phải làm những gì đưa đến khổ vui?”. Họ đến hỏi như vậy, không nêu bày xử lý, sợ rơi vào nẻo ác. Nếu có người đến hỏi việc như vậy, liền cùng nhau tranh cãi, lời nói khác nhau: “Dạy người này nên làm như vầy, dạy người khác nên làm như kia, dạy người này nên như vậy, cũng nên như vậy, không nên như vậy”. Đó là kiến giải thứ ba.
Thứ tư có ngoại đạo chủ trương: ngoại đạo ấy ý nghĩ si mê, nếu có người đến hỏi việc, liền cùng nhau tranh cãi, lời nói khác nhau: “Dạy người này nên như vầy, dạy người khác nên như kia, nên như vậy, không nên như vậy, cũng nên như vậy, cũng không nên như vậy, không như vậy, cũng nên như vậy, cũng không như vậy”. Đó là kiến giải thứ tư.
Yù nghĩa mà các ngoại đạo cùng nhau tranh luận, cũng nói lời lẽ khác nhau, nếu có người đến hỏi, liền cùng nhau tranh luận: “Dạy người này nên làm như vầy, dạy người khác nên làm như kia, nên như vậy, không nên như vậy, cũng nên như vậy, cũng không nên như vậy”, đều ở trong bốn kiến giải ấy, không thể vượt lên trên bốn kiến giải ấy. Phật đều biết rõ, Ngài còn biết hơn thế nữa bằng sự hiểu biết tuyệt diệu, do đó Ngài không chấp trước cũng không hủy báng, nên được vô vi (Niết bàn). Ngài biết sự thọ nhận do xúc sanh ra, biết theo phương tiện để thoát ra khỏi thọ hiện tại mà ý được giải thoát hoàn toàn.
Đức Phật dạy:
–Pháp mà ta biết thì thâm diệu, chói sáng vô cùng, ta biết rõ hết. Nếu có hiền giả đệ tử nghe biết pháp ấy liền tán thán Phật.
Nếu có ngoại đạo, đối với kiếp quá khứ, biết việc quá khứ, nhớ việc làm lúc quá khứ, đối với vô số học thuyết, ưa giải thíchnhững việc ấy, đều ở trong mười tám kiến giải này, đó là mười tám kiến giải không thể vượt lên trên được. Đức Phật đã biết như vậy, còn vượt lên bằng sự hiểu biết tuyệt diệu, do đó Ngài không chấp trước, cũng không hủy báng, hiện tại không còn chấp thọ nên được giải thoát hoàn toàn.
Đức Phật dạy:
–Pháp mà ta biết được rất thâm diệu, sáng tỏ vô cùng, ta biết rõ tất cả. Nếu có hiền giả đệ tử nghe biết pháp ấy liền tán thánPhật.
Nếu có ngoại đạo, đối với kiếp đương lai, nhớ nghĩ việc đương lai, hành theo vô số học thuyết, ưa thích giảng nói những việc ấy, đều ở trong bốn mươi bốn kiến giải. Các ngoại đạo ấy đã biết những gì mà đối với kiếp đương lai, biết việc đương lai, hành theo vô số học thuyết, ưa giải thích những việc ấy. Nếu có ngoại đạo hành theo tưởng nhận thức theo tưởng, tự vì người thế gian mà thuyết tưởng, ở trong mười sáu kiến giải. Ngoại đạo ấy đã biết những gì mà hành theo tưởng nhận thứctheo tưởng, vì người thế gian nói về tưởng, ở trong mười sáu kiến giải này? Ngoại đạo ấy đã thấy như vầy, làm như vầy: “Có ngã sắc là có tưởng về đời sau”, chỉ có lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ nhất.
Nếu có ngoại đạo nói rằng: “Vô sắc là hữu ngã, không có đời sau”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giảithứ hai.
Nếu có ngoại đạo, hành theo tưởng nhận thức theo tưởng, tự vì người thế gian nói về tưởng rằng: “Có sắc, không sắc, có ngã”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ ba.
Nếu có ngoại đạo nói: “Cũng không có sắc, cũng không vô sắc là hữu ngã”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ tư.
Thứ năm, nếu có ngoại đạo nói: “Ngã là hữu hạn”, lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ năm.
Thứ sáu, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là vô hạn”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ sáu.
Thứ bảy, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là hữu hạn, vô hạn”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ bảy.
Thứ tám, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã cũng không hữu hạn, cũng không vô hạn”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ tám.
Thứ chín, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là nhất tưởng”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ chín.
Thứ mười, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là ít tư tưởng”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ mười.
Thứ mười một, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là lớp lớp các tư tưởng”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ mười một.
Thứ mười hai, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là vô số tư tưởng”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giảithứ mười hai.
Thứ mười ba, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là nhất lạc (hoàn toàn vui)”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ mười ba.
Thứ mười bốn, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là khổ”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ mười bốn.
Thứ mười lăm, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là vừa khổ vừa vui”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giảithứ mười lăm.
Thứ mười sáu, nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã cũng không khổ không vui”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ mười sáu.
Đức Phật dạy:
-Ngoại đạo mà “hành theo tưởng nhận thức theo tưởng”, tự vì thế gian nói về tưởng, đều ở trong mười sáu kiến giải này, không thể vượt lên trên được. Đức Phật đều biết những việc ấy, Ngài còn hiểu biết hơn thế nữa, sự hiểu biết của Phật là tuyệt diệu, cho nên Ngài không chấp trước cũng không hủy báng mà được vô vi; Ngài biết sự thọ nhận do xúc sanh ra, biết phương tiện để thoát ra khỏi nó; Ngài hiện tại không chấp các thọ nên ý được giải thoát hoàn toàn.
Đức Phật dạy:
–Pháp mà ta biết thì thâm diệu, hết sức sáng tỏ, ta biết tất cả. Nếu có hiền giả đệ tử nghe biết như vậy liền tán thán Phật.
Nếu có ngoại đạo đối với kiếp đương lai, thấy việc đương lai, nhớ nghĩ việc làm quá khứ, đối với vô số học thuyết, ưa thíchgiải thuyết những việc làm ấy đều ở trong bốn mươi bốn kiến giải. Những ngoại đạo ấy đã nói những gì ?
1. Nếu có ngoại đạo “hành vô thường, nhận thức vô thường”, tự vì người thế gian nói “vô thường” đều ở trong tám kiến giải. Ngoại đạo ấy đã làm những gì mà gọi là “hành vô tưởng, nhận thức vô tưởng”, tự vì người thế gian nói “vô tưởng”?
Ngoại đạo ấy thấy như vầy, hành như vầy: “Hữu ngã vô tưởng là hữu sắc, chết rồi không có đời sau”, chỉ có lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ nhất.
2. Nếu có ngoại đạo đã biết những gì mà gọi: “hành vô tưởng, nhận thức vô tưởng”, tự vì người thế gian nói “vô tưởng”? Đó là “Hữu ngã vô tưởng là vô sắc, chết rồi không có đời sau”, chỉ có lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giảithứ hai.
3. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã vô tưởng là hữu sắc vô sắc, chết rồi không có đời sau”, chỉ có lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ ba.
4. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã và thế gian là cũng không có sắc cũng không vô sắc, chết rồi không có đời sau”, chỉ có lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ tư.
5. Nếu có ngoại đạo nói: “Ngã và thế gian là hữu hạn”, chết rồi không có đời sau”, chỉ có lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ năm.
6. Nếu có ngoại đạo nói: “Ngã và thế gian là vô hạn, chết rồi không có đời sau”, lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ sáu.
7. Nếu có ngoại đạo nói: “Vừa hữu hạn vừa vô hạn”, lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ bảy.
8. Nếu có ngoại đạo nói: “Cũng không hữu hạn, cũng không vô hạn”, lời nói của ta là chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ tám.
Đức Phật dạy:
-Nếu có ngoại đạo đối với kiếp đương lai, thấy việc đương lai, sự hiểu biết và lời nói khác nhau, đều ở trong bốn mươi bốn kiến giải. Ngoại đạo ấy đã biết những gì mà nói “nhận thức vô tưởng, hành vô tưởng, cũng không nhận thức vô tưởng” gọi là biết: “Ngã và thế gian là không có tưởng”, đều ở trong tám kiến giải này.
1. Kiến giải thứ nhất là nếu có ngoại đạo thấy như vầy, hành như vầy: “Hữu ngã là hữu sắc, cũng không có tưởng, cũng không vô tưởng, chết rồi có đời sau”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ nhất.
2. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là hữu sắc, vô sắc, cũng không có tưởng, cũng không vô tưởng, chết rồi có đời sau”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ hai.
3. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là hữu sắc, vô sắc, cũng không có tưởng, cũng không vô tưởng đối với đời sau”, lời nóicủa ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ ba.
4. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã cũng không có sắc, cũng không vô sắc, cũng không hữu tưởng cũng không vô tưởng nơi đời sau”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ tư.
5. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là hữu hạn, cũng không hữu tưởng cũng không vô tưởng nơi đời sau”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ năm.
6. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã là vô hạn, cũng không hữu tưởng cũng không có vô tưởng nơi đời sau”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ sáu.
7. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã vừa hữu hạn vừa vô hạn, cũng không hữu tưởng cũng không vô tưởng nơi đời sau”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ bảy.
8. Nếu có ngoại đạo nói: “Hữu ngã cũng không hữu hạn cũng không vô hạn, cũng không hữu tưởng cũng không vô tưởng nơi đời sau”, lời nói của ta chơn thật, ngoài ra là si mê. Đó là kiến giải thứ tám.
Đức Phật dạy:
-Nếu có ngoại đạo nói: “Cũng không hữu tưởng, cũng không vô tưởng hành, cũng không có tưởng, cũng không thấy vô tưởng, cũng không có hành hữu tưởng, cũng không thấy hữu tưởng, cũng không thấy vô tưởng, cũng không có hành hữutưởng, cũng không thấy hữu tưởng”, đều ở trong tám kiến giải này, không thể vượt lên trên tám kiến giải này. Đức Phật đều biết những điều ấy, Ngài còn biết hơn thế nữa bằng sự hiểu biết tuyệt diệu, cho nên Ngài không chấp trước cũng không hủy báng mà được vô vi (Niết bàn). Ngài biết sự thọ nhận do xúc sanh ra, Ngài biết phương tiện thoát ra khỏi nó, hiện tại Ngài không có chấp trước nên ý hoàn toàn giải thoát”.
Đức Phật dạy:
–Pháp mà ta biết thì thâm diệu, vô cùng sáng tỏ, ta biết tất cả. Nếu có hiền giả đệ tử nghe biết pháp ấy liền tán thán Phật.
Đức Phật dạy:
-Nếu có ngoại đạo, ở kiếp đương lai, thấy việc đương lai, đối với vô số học thuyết có sự hiểu biết và lời nói khác nhau, đều ở trong bốn mươi bốn kiến giải này. Ngoại đạo ấy biết những gì mà nói như vậy? Nếu có ngoại đạo nói “không hành, không có nhận thức, không có người nghĩ biết về không” đều ở trong bảy kiến giải. Ngoại đạo ấy nói: “Không hành, không có nhận thức, không có người nghĩ về cái “không”, họ biết như thế nào mà nói như vậy?
1. Nếu có ngoại đạo thấy như vầy: “Các sắc tứ đại của ta, do cha mẹ sanh ra, do ăn uống trường tồn, tắm rửa mặc y phục, nhưng nó là vật vô thường, thân chết trở về đất, xương cốt các thứ nơi thân rơi rớt mỗi thứ một nơi, gió thổi vào thân, tan nát hư hoại, đến đời sau không còn sống chết nữa, như vậy liền tiêu diệt hết. Đó là kiến giải thứ nhất.
2. Lại có ngoại đạo nói: “Chết rồi không phải như vậy, tuy tan hoại nhưng còn có cái ngã vượt hơn thế nữa. Đâu là chỗ ngã này vượt lên trên? Cái ngã ấy là ở cõi Sắc và cõi Dục hành. Còn ngã kia nếu chết thì hủy hoại, đời sau không còn sanh tửnữa”. Đó là kiến giải thứ hai.
3. Nếu có ngoại đạo nói: “Ngã là cái mà chết rồi không có hủy hoại như vậy, lại có cái ngã khác còn vượt hơn nó, cái ngã ấy là sắc vô ý, còn ngã kia nếu chết hủy hoại, đời sau không còn sanh tử trở lại nữa”. Đó là kiến giải thứ ba.
4. Lại có ngoại đạo nói: “Ngã không như cái chết hủy hoại này, lại có cái ngã còn vượt lên trên nữa. Sao gọi cái ngã ấy như vậy? Vì ngã ấy vượt qua các cõi trời Sắc tưởng, vượt qua cõi trời Tưởng giận dữ, nhớ vô số các thứ hư không tri hành, ngã ấy nếu chết thì hủy hoại, đời sau không còn sanh tử nữa”. Đó là kiến giải thứ tư.
5. Lại có ngoại đạo nói: “Ngã này không phải như cái chết hủy hoại, còn có cái ngã vượt lên trên nó. Sao gọi cái ngã ấy như vậy? Vì ngã ấy vượt qua cõi trời Nhất Thiết hư không tri, cõi trời Vô ương số danh thức tri, cõi trời Sở niệm hành kỳ, nếu chúng không hủy hoại, đời sau không còn sanh tử nữa”. Đó là kiến giải thứ Lại có ngoại đạo nói: “hủy hoại, đời sau không còn sanh tử trở lại nữa”. Đó là kiến giải thứ năm.
6. Lại có ngoại đạo nói: “Ngã ấy không giống như cái chết hủy hoại này, lại có cái ngã còn vượt lên trên nó nữa. Sao gọi cái ngã ấy như vậy? Vì ngã ấy vượt qua cõi trời Nhất Thiết thức tri, không còn chấp trước danh, vượt qua cõi trời Vô thức tri niệm hành kỳ. Ngã ấy chết rồi thì hủy hoại, đời sau không còn sanh tử trở lại nữa”. Đó là kiến giải thứ sáu.
7. Lại có ngoại đạo nói: “Ngã ấy không giống như cái chết hủy hoại này, lại có cái ngã còn vượt lên trên nó nữa. Sao gọi cái ngã ấy như vậy? Vì ngã ấy vượt qua cõi trời Nhất thiết vô thức tri, vị thiên nhân ấy là thuộc cõi trời Vô tưởng hữu tưởngniệm hành. Ngã này khi chết thì hủy hoại, đời sau không còn sanh tử trở lại nữa”. Đó là kiến giải thứ bảy.
Đức Phật dạy:
-Cái có thể gọi là ngoại đạo chủ trương: “Hành, nhận thức về diệt hoại, không hành, không có tưởng, không người niệm không”, đều ở trong bảy kiến giải này. Ở trong bảy kiến giải này, không thể vượt lên trên được. Đức Phật đều biết những sự kiện ấy, còn vượt lên nó bằng sự hiểu biết tuyệt diệu, cho nên Ngài không chấp trước, cũng không hủy báng mà được vô vi, Ngài biết sự thọ nhận do xúc sanh ra, Ngài biết cách thoát ra khỏi nó, hiện tại Ngài không còn chấp trước nên ý được giải thoát hoàn toàn. Pháp mà Ngài biết thì thâm diệu, vô cùng sáng tỏ, biết một cách trọn vẹn. Nếu có hiền giả đệ tử nghe biết pháp ấy liền tán thán công đức của Phật.
Đức Phật dạy:
-Nếu có ngoại đạo đối với kiếp đương lai, thấy việc đương lai, đối với vô số học thuyết, chủ trương khác nhau, đều ở trong bốn mươi bốn kiến giải này. Lại có ngoại đạo tự chủ trương: “Hiện nay nhớ nghĩ về hành theo vô vi, hiện tại nhận biết về vô vi(Niết bàn), đều ở trong năm kiến giải này.
1. Có ngoại đạo thấy như vầy, nói hành cũng như vậy rằng: “Ở trong cung điện để tự hoan lạc, dùng năm thứ dục lạc để tự vui thích. Người đó nói: “Ngã hiện tại đạt được vô vi (Niết bàn)”. Đó là kiến giải thứ nhất.
2. Lại có ngoại đạo nói không giống như những người khác rằng: “Có ngã hiện tại được vô vi, lại có cái hiện tại được vô vi”. Sao gọi là “hiện tại, vô vi”? Nếu Tỳ kheo lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, ý niệm hành thiện an lạc, được đệ nhất thiền, người ấy diệt tận cái ngã, đời sau không còn sanh tử trở lại nữa. Ngã này hiện tại được Vô vi. Đó là kiến giải thứ hai.
3. Lại có Sa môn, đạo nhân nói: “Không như những người khác đã nói, không cho là ngã này hiện tại được vô vi”, lại còn có cái hiện tại vô vi cao hơn nữa. Sao gọi là “Hiện tại vô vi?”. Đó là Tỳ kheo diệt ý, bên trong được định tịch tĩnh, giữ ý chíchuyên nhất, không nghĩ cũng không hành, tam muội sanh hỷ lạc, liền được Đệ Nhị Thiền. Người đó hoàn toàn vắng lặng hiện tại được vô vi. Đó là kiến giải thứ ba.
4. Lại có Sa môn, đạo nhân nói: “Không như những người khác đã nói, không cho là ngã này hiện tại được vô vi”, lại còn có cái hiện tại vô vi vượt lên trên nữa. Sao gọi là “Hiện tại vô vi?”. Đó là Tỳ kheo an vui, xa lìa dâm dật, ưa thích hành quán, thân hành được tịch tĩnh, an vui. Như sự hành quán của hiền giả thường được an ổn, liền được Đệ Tam Thiền. Đó là kiến giải thứ tư.
5. Lại có Sa môn đạo nhân nói: “Không như những người khác đã nói, không dùng điều này hiện tại được vô vi”, lại có cái hiện tại vô vi còn vượt lên trên nữa. Sao gọi là “Hiện tại vô vi?”. Đó là có vị Tỳ kheo đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, trước đó không có cái thích hợp ý và cái không thích hợp ý, cũng không khổ, cũng không vui, thường tôn thờ sự thanh tịnh, liền được Đệ Tứ Thiền. Người đó hiện tại được diệt tận vô vi, do đó đời sau không còn sanh tử trở lại nữa. Đó là kiến giải thứ năm.
Đức Phật dạy:
-Ý nghĩa gọi là có Sa môn đạo nhân chủ trương: “Hiện tại vô vi, người thấy hiện tại vô vi, người nhớ hiện tại vô vi”, đều ở trong năm kiến giải này, không thể vượt lên trên năm kiến giải ấy. Đức Phật đều biết chỗ kiến giải ấy, Ngài còn hiểu biết hơn thế nữa bằng sự hiểu biết tuyệt diệu, do đó Ngài không chấp trước, cũng không hủy báng nên được vô vi, Ngài biết sự thọ nhận do xúc sanh ra, Ngài biết nỗ lực để thoát khỏi nó, hiện tại Ngài không còn chấp trước nên ý được hoàn toàn giải thoát. Pháp mà Ngài biết thì thâm diệu, vô cùng sáng tỏ, biết một cách trọn vẹn. Nếu có hiền giả đệ tử nghe biết pháp ấy liền tán thán công đức của Phật.
Đức Phật dạy:
-Ngoại đạo kia “Nhớ nghĩ về thường, nhận thức về thường” giảng nói cho người nghe rằng: “Ngã và thế gian là thường tại”, đó là ở trong bốn kiến giải này, vì dùng “bất tri” để chỉ bày, cho nên không được “đạo hạnh tinh tấn”. Vì biết “Đây là sự tập khởinơi nhân duyên, không tập khởi nơi nhân duyên, dùng cái này thì nhân duyên thành, dùng cái này thì nhân duyên không thành, không được chỗ này”.
Đức Phật dạy:
-Ngoại đạo ấy nói: bậc trên và giữa, các sự kiện biểu hiện, tự mình giảng thuyết rõ “thế gian thường còn” ở trong hai kiến giảinày, dùng cái không biết, không thấy, không được đạo hạnh tinh tấn mới biết: “Đây là sự tập khởi nơi nhân duyên, không tập khởi từ nhân duyên, dùng cái này thì nhân duyên thành, dùng cái này thì nhân duyên không thành, không được chỗ này”.
Đức Phật dạy:
-Nếu có ngoại đạo đều “Nhớ nghĩ về thường, nhận thức về thường” rồi nói cho người: “Ngã và thế gian là hữu thường”, ở trong bốn kiến giải này, vì dùng cái không tri, không kiến nên không đắc đạo, tập khởi từ nhân duyên, không tập khởi từ nhân duyên, dùng cái này thì nhân duyên thành, dùng cái này thì nhân duyên không thành, không đạt được chỗ này.
Đức Phật dạy:
-Các ngoại đạo kia, có người nói: “Ngã và thế gian là hữu hạn”, có người bảo “Vô hạn”, có người cho: “Vừa hữu hạn vừa vô hạn, có người nêu cũng không hữu hạn, cũng không vô hạn” đều ở trong bốn kiến giải này, dùng cái không tri, không kiến, không được đạo hạnh tinh tấn nên biết đó là “tập khởi từ nhân duyên, không tập khởi từ nhân duyên, dùng cái đó thì nhân duyên thành, dùng cái này thì nhân duyên không thành, không đạt được chỗ ấy”.
Đức Phật dạy:
-Các ngoại đạo ấy, cùng nhau tranh luận chủ thuyết không giống nhau, đều ở trong bốn kiến giải này, dùng cái không biết, không thấy nên không tu tập đạo hạnh tinh tấn, mới biết : “Đây là tập khởi từ nhân duyên, không tập khởi từ nhân duyên, dùng cái này thì nhân duyên thành, dùng cái này thì nhân duyên không thành, không đạt được chỗ này”.
Đức Phật dạy:
-Các ngoại đạo kia vì người “thuyết giảng về tưởng, hành tưởng” rằng: “Ngã và thế gian là hữu tưởng”, đều ở trong mười sáu kiến giải này, dùng cái không biết, không thấy nên được đạo hạnh tinh tấn, mới biết “Đây là tập khởi từ nhân duyên, không tập khởi từ nhân duyên, dùng cái này nhân duyên thành, dùng cái này nhân duyên không thành, không đạt được chỗ này”.
Đức Phật dạy: -
Các ngoại đạo kia, cũng không niệm tưởng, cũng không vô tưởng, vì người nói “Ngã và thế gian là vô tưởng” ở trong tám kiến giải này, vì không trí, không kiến nên không được đạo hạnh tinh tấn, để biết: “Đây là tập khởi từ nhân duyên, không tập khởi từ nhân duyên, dùng cái này nhân duyên thành, dùng cái này nhân duyên không thành, không đạt được chỗ này”.
Đức Phật dạy:
-Các ngoại đạo kia chủ trương “hoại diệt”, thường nói cho mọi người: “Ngã và thế gian là hoại diệt”, ở trong bảy kiến giải. Do không tri, không kiến nên không được đạo hạnh tinh tấn, để biết: “Đây là tập khởi từ nhân duyên, không tập khởi nhân duyên, dùng cái này thì nhân duyên thành, dùng cái này thì nhân duyên không thành, không đạt được chỗ này”.
Đức Phật dạy:
-Các ngoại đạo kia, chủ trương “hiện tại là vô vi (Niết bàn), nhưng thấy hiện tại là vô thường, vì người giảng nói “hiện tại vô vi”, ở trong năm kiến giải vì không tri, không kiến nên không được đạo hạnh tinh tấn để biết: “Đây là tập khởi từ nhân duyên, không tập khởi từ nhân duyên, dùng cái này nhân duyên thành, dùng cái này nhân duyên không thành, không đạt được chỗ này”.
Đức Phật dạy:
-Nếu có ngoại đạo nói, đối với kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, đối với vô số học thuyết, mỗi mỗi chủ trương khác nhau, đều ở trong mười tám kiến giải này. Các ngoại đạo kia đối với kiếp đương lai, thấy việc đương lai, đối với vô số học thuyết, chủ trương khác nhau, đều ở trong bốn mươi bốn kiến giải này.
Hiệp lại tất cả đều ở trong sáu mươi hai kiến giải này, qua lại trong sáu mươi hai kiến giải ấy, nằm gọn trong đó, chết nghẹt trong cái lưới kiến giải mà không thể thoát ra ngoài.
Đức Phật dạy:
-Thí như người đánh cá lành nghề hay học trò của ông ta, dùng cái lưới có lỗ nhỏ, bao phủ trên cái ao nhỏ, khi thả lưới xong, người đánh cá hoặc đứng phía trước ao, hoặc ngồi, suy nghĩ rằng: “Các con cá bơi lội trong cái ao nhỏ đều bị mắc trong lưới, vùng vẫy trong lưới không thể thoát ra được”.
Đức Phật dạy:
-Các ngoại đạo cũng như vậy, đối với trong kiếp quá khứ, thấy việc quá khứ, đối với vô số học thuyết, chủ trương khác nhau, đều ở trong mười tám kiến giải này. Nếu có ngoại đạo đối với kiếp đương lai, thấy việc đương lai, đối với vô số học thuyếtkhác nhau, đều ở trong bốn mươi bốn kiến giải này. Đều qua lại trong sáu mươi hai kiến giải này, sống chết, an trụ ở trong đó, cùng nhau gặp gỡ hợp thành trong cái lưới ấy mà không thoát ra được. (Nguồn: 62 tà kiến của Ngoại đạo - Kinh Phạm Võng)
320. KHÔNG CÓ NIỆM - Không có dục - Không bỏn xẻn ganh tị ...
- Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không có niệm thì không có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và không yêu. Nếu không có yêu và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị. Nếu không có bỏn sẻn và ganh tị thì không có dao gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt. Nguồn 320- (Trung A Hàm, Kinh Thích Vấn, Phẩm 11, số 134)
831. YÊU VÀ KHÔNG YÊU
Bỏn sẻn và ganh tị nhân nơi yêu và không yêu, duyên nơi yêu và không yêu; từ nơi yêu và không yêu sanh ra; do yêu và không yêu mà có. Nếu không có yêu, và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị vậy. (Trung A Hàm, Kinh Thích Vấn, Phẩm 11, số 134)
20. ẨN CƯ SAU KHI NGHE PHÁP THOẠI
Được nghe pháp Đức Thế Tôn dạy, con sẽ sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần để đạt đến cứu cánh mà một thiện nam tử đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo là để đạt được vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời này tự tri tự giác, tự thân tác chứng, thành tựu an trú, biết một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. (Trung A Hàm, Kinh Úc-già-chi-la, Phẩm 7, số 76)
824. XUẤT GIA CẠO BỎ RÂU TÓC
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói: Đại vương, thế cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng: ‘Thế gian này, tất cả đều đi đến chỗ già nua’. Tôi muốn tiếp nhận điều đó, tôi thấy, nghe, hiểu biết điều đó nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín từ bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo. (Trung A Hàm, Kinh Lại-Tra-Hòa-La, Phẩm 11, số 132)
825. XUẤT GIA HỌC ĐẠO
Các ngươi lúc còn nhỏ, là những đồng tử ấu thơ, trong trắng, tóc đen, thân thể thạnh trắng, vui thích trong du hý, vui thích trong tắm gội, săn sóc nâng niu thân thể. Về sau, bà con thân thích và cha mẹ đều cùng lưu luyến, thương yêu, khóc lóc thảm thiết, không muốn cho các ngươi xuất gia học đạo.
Các ngươi đã quyết chí cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, không phải vì sợ giặc cướp, không phải vì sợ nợ nần, không phải vì sợ khủng bố, không phải vì sợ bần cùng, cũng không phải vì sợ không sống được mà phải xuất gia học đạo, mà chỉ vì nhờm tởm sự sanh, sự già, bệnh tật, sự chết, khóc lóc, sầu khổ, hoặc vì muốn đạt đến tận cùng của khối khổ đau vĩ đại này nên xuất gia học đạo. (Trung A Hàm, Kinh Sa-kê-đế Tam Tộc Tánh Tử, Phẩm 7, số 77)
702. TỊNH TU PHẠM HẠNH
Thuở xưa, khi tôi chưa xuất gia học đạo đã nhàm tởm sự sanh, già, bệnh, chết, khóc than, khốn khổ, sầu muộn, bi ai; tôi muốn đoạn trừ khối khổ đau to lớn này.
Sau khi đã nhàm tởm ghê sợ, tôi quán sát, tại gia là đời sống hẹp hòi, là chốn trần lao bụi bặm. Xuất gia học đạo là đời sống rộng rãi bao la. Nay ta sống đời tại gia bị xiềng xích quấn chặt, không thể trọn đời tịnh tu phạm hạnh.
Vậy ta hãy vứt bỏ các tài sản nhỏ và lớn, từ giã thân tộc ít hay nhiều rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. Sau đó, tôi vứt bỏ tài sản nhỏ và lớn, từ giã thân tộc ít hay nhiều, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Trí, Phẩm 15, số 187)
699. TỊNH TĨNH
Thế Tôn nhập định quán tâm các Tỳ-kheo. Lúc đó Thế Tôn thấy chúng Tỳ-kheo tĩnh tọa im lặng, rất im lặng, không có thụy miên vì đã dứt trừ ấm cái. Chúng Tỳ-kheo ngồi thậm thâm, rất thậm thâm; tịch tĩnh, rất tịch tĩnh; vi diệu, rất vi diệu. (Trung A Hàm, Kinh Tam Thập Dụ, Phẩm 6, số 69)
700. TĨNH TỌA
Tỳ-kheo ưa thích sự tĩnh tọa, nội hành tĩnh chỉ vắng lặng, cũng không rời tư sát, thành tựu quán hạnh, tăng trưởng không hành. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất ưa thích sự tĩnh tọa, thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy. (Trung A Hàm, Kinh Toán Số Mục-Kiền-Liên, Phẩm 12, số 144)
704. TỌA THIỀN
Tôn giả Xá-lê Tử hỏi rằng: ‘Khả ái thay, rừng Ngưu giác sa-la này, ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát, ví như hoa trời’. Hiền giả Ly-việt-đa, những Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la?’
Hiền giả Ly-việt-đa đáp rằng, ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo ưa yên tọa, bên trong tu hành nội tâm tĩnh chỉ, không bỏ tọa thiền, thành tựu quán tưởng, thường thích nhàn cư, ưa chỗ yên tĩnh. Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la’.
Thế Tôn khen rằng: Lành thay! Xá-lê Tử, đúng như lời Tỳ-kheo Ly-việt-đa đã nói. Vì sao? Vì Tỳ-kheo Ly-việt-đa ưa Tọa thiền. (Trung A Hàm, Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm, Phẩm 15, số 184)
701. TĨNH TỌA NƠI RỪNG VẮNG
Này Đại Mục-kiền-liên, ở nơi rừng vắng kia, Ta nói pháp này có thể cùng hợp hội: núi rừng, dưới cây, chỗ an tĩnh không nhàn, núi cao, hang đá, vắng bặt âm thanh, viễn ly, không ác, không người, có thể tùy thuận mà tĩnh tọa. (Trung A Hàm, Kinh Trưởng Lão Thượng Tôn Thụy Miên, Phẩm 7, số 83)
+ Giảng về người Bất trung - Bất hiếu - Bất nhân - Bất nghĩa:
Quán xét người đời mạt thế, những bọn người ác bất trung bất hiếu, không có nhân nghĩa, không hợp nhân đạo.
LỜI GIẢI:
Cách sau Phật Niết bàn hai ngàn năm gọi là bước vào thời mạt thế. Mạt thế là thời kỳ thế gian vật dục phúng túng hưng thạnh, phong hóa lễ luật pháp tắc biến thái băng hoại, nhơn tâm đạo đức suy vi. Đồng thời thế gian văn hóa đồi trụy, Phật pháp biến thể hiển bày trạng thái phân hóa suy tàn, con người tâm trí gian xảo buông lung tạo nhiều tội ác.
Trong thời mạt thế, người ác dãy đầy, đại để có bốn loại:
1/- Bất trung: Quốc gia lấy dân làm gốc, lấy nguyên thủ làm tôn, lấy tận trung làm trước. Đối với quốc gia, nguyên thủ tài đức, chức vụ mình đang có mà không tận trung là đại ác.
2/- Bất hiếu: Gia đình lấy cha mẹ làm tôn, nên trước phải hiếu kính. Trong giới kinh Phật nói: Nếu có người suốt trăm năm vai phải mang cha, vai trái cõng mẹ, cha mẹ đại tiểu tiện trên thân, một lòng cung dưỡng cha mẹ đầy đủ các thức ăn ngon mặc ấm quý nhất trên đời, cũng chưa báo đền được ơn cha mẹ trong giây lát.
Kinh Bồ Tát Giới nói: “Hiếu là pháp chí đạo, cũng gọi là giới”. Thế nên làm con bất hiếu cha mẹ là đại tội. Người cộng sản tự mình khinh thường hiếu nghĩa nên đấu tố cha mẹ, lại còn giáo dưỡng tuổi trẻ, xúi xử người khác đấu tố, ấy là tâm địa hùm beo lang sói, tội ác biết dường nào! Cha mẹ mà còn đem tố khổ không chút tiếc thương thì thử hỏi trên đời nầy họ còn biết kính thương ai nữa? Bảo sao họ trị dân không thống khổ, trị nước không đổ nát đói nghèo lạc hậu!
3/- Không nhân nghĩa: Đối với mọi người trong xã hội không nhân không nghĩa, trái ngược với luân thường đạo lý, thiếu mất nhân tánh lương tâm, tiêu hủy tình người. Nhân là từ bi đối với tất cả. Nghĩa là xử sự hợp tình hợp lý. Nếu xử sự bất nhân bất nghĩa là đại ác. Như người cộng sản đấu tố cha mẹ, giết người như phác cỏ cây. Đấy là hiện thân của quỷ Dọa Xoa La Sát.
4/- Chẳng thuận nhân đạo: Đạo Nho dạy ngũ luân thập nghĩa: Phụ từ, tử hiếu, huynh lương, đệ để, phu nghĩa, phụ thích, trưởng huệ, ấu thuận, quân nhân, thần trung. Đạo Phật dạy ngũ giới, thập thiện đều là những phương thức thực tế xây dựng đạo làm người, là đạo lý xây dựng con người lương tri thánh thiện để thực hiện xã hội tiến bộ an lành hạnh phúc.
Sách Tả Truyện nói: “Người mà bỏ cái đạo làm người thì yêu quái hưng thạnh”.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phá căn bản giới thì tà ma yêu quỷ hưng thạnh trong đời”. Thế nên, lìa bỏ ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và phá căn bổn giới, tức là phá bỏ nhân đạo, hủy hoại nhân luân, thì xã hội hổn loạn băng hoại, cực kỳ đại ác vậy. Trong đời mạt pháp nầy không ít người phạm phải bốn tội đại ác nêu trên. Trong chốn thiền môn, kẻ xuất gia bê tha giới luật, tu nhảy bậc, chẳng thọ giới trì trai, mà lại còn manh tâm sửa kinh chế luật, tham vọng quyền danh lợi dưỡng, mê chấp ngã mạn cống cao tự đại, hãm hại bậc bậc chân Tăng tôn trưởng, khinh thường hòa hợp tăng, hạnh nầy cũng không ít trong cửa Phật, tội ác hơn hẳn bốn hạng trên kia. Đấy là hiện tượng bất hạnh của thời mạt pháp. (Nguồn: Kinh A Nan vấn về Phật sự)
706. TỘI BẤT HIẾU
Nếu chúng sinh nào sinh ở nhân gian, không hiếu thảo với cha mẹ, không biết kính trọng Sa-môn, Phạm chí, không làm đúng như thật, không tạo phước nghiệp, không sợ tội đời sau, thì do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh ấy sanh vào cảnh giới của Diêm vương. Người của Diêm vương bắt đưa đến chỗ vua và thưa rằng:
Tâu Thiên vương, chúng sinh này lúc còn làm người, không hiếu thảo cha mẹ, không biết kính trọng Sa-môn, Phạm chí, không làm đúng như thật, không tạo phước nghiệp, không sợ tội đời sau. Mong Thiên vương trừng phạt đúng theo tội trạng của nó. (Trung A Hàm, Kinh Thiên Sứ, Phẩm 6, số 64)
821. XA NGƯỜI THƯƠNG LÀ KHỔ
Nói ái biệt ly khổ; nói thế là vì lẽ gì? Ái biệt ly khổ, đó là chúng sanh thật có sáu xứ bên trong: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý xứ vốn khả ái, nhưng chúng phân tán thành khác biệt, không tương ứng, biệt ly không tụ hội, không gắn bó, không tập hợp, không hòa hợp, đó là khổ. Cũng vậy, các ngoại xứ: xúc, thọ, tưởng, hành, ái, cũng lại như vậy.
Chúng sanh quả thực có sáu giới: đất, nước, lửa, gió, hư không và thức giới vốn nhưng chúng phân tán thành khác biệt, không tương ứng, không gắn bó, không hòa hợp, không tập hợp, đó là khổ. Như vậy gọi là ái biệt ly.
Ái biệt ly là khổ nghĩa là chúng sanh khi xa cách nhau, thân cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Vì lẽ ấy mà nói ái biệt ly khổ là khổ. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31)
Phật bảo: "Trên đời có 4 hạng người (Thập Thiện Nghiệp - HT. Thích Giác Thiện):
- NGƯỜI TỪ TỐI ĐI VÀO TỐI?: Nghĩa là người này sanh ra đời chịu nhiều sự khổ, thế mà lại chẳng lo tu thiện để chuyển nghiệp xấu, lại làm việc ác, chẳng khác nào từ chỗ tối đi vào chỗ tối tăm, khổ sở hơn.
- NGƯỜI TỪ CHỖ TỐI ĐI ĐẾN CHỖ SÁNG: Là người sanh ra đời từ thân mạng cho đến vật chất không bằng ai, nhưng họ ý thức đó là nghiệp xấu đời trước nên ăn năn sám hối phát tâm cúng dường, bố thí làm lành, lánh dữ... Người như thế là biết tiến tới ánh sáng tốt đẹp cho hiện tại và tương lai.
- NGƯỜI TỪ CHỖ SÁNG ĐI ĐẾN CHỖ TỐI: Tức là người này sanh ra đời hưởng cảnh giàu sang, nhưng không biết tại thêm phước lành, lại còn tham lam, keo kiệt, kiêu căng, hống hách, tạo nhiều ác nghiệp. Người như thế chẳng khác nào từ chỗ sáng đi vào bóng tối nghèo đói, thấp hèn, khổ đau...
- NGƯỜI TỪ CHỖ SÁNG ĐI ĐẾN CHỖ SÁNG: Là người có căn lành đời trước nên sanh vào nhà tôn quý, hưởng cảnh giàu sang lại tiếp tục bổ thí, cúng dường làm nhiều việc thiện, trên kính dưới nhường... người như thế là từ chỗ sáng tiến đến ánh sáng tốt đẹp thanh cao hơn."
+ Năm hạng người hiện hữu ở đời
1. Cho là khinh: Người sau khi cho người khác các đồ nhu yếu như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Vị ấy nghĩ: “Ta là người cho, người này là người nhận” - Vị ấy khinh rẻ người nhận.
2. Sống cùng khinh rẻ: Có hạng người cùng sống với người, hai hay ba năm. Do sống với người ấy, vị ấy khinh rẻ người ấy.
3. Người nuốt tất cả: Có người khi nghe người ta tán thán hay chỉ trích người khác, liền mau mắn thích thú.
4. Người không vững chắc: Người có lòng tin nhỏ bé, có lòng tín ngưỡng nhỏ bé, có lòng ái mộ nhỏ bé, có tịnh tín nhỏ bé.
5. Người ám độn ngu si: Có người không biết các pháp thiện, bất thiện, không biết các pháp tội, không tội, không biết các pháp hạ liệt, thù thắng, không biết các pháp dự phần đen trắng. (Xem nguồn)
+ 410. MƯỜI HẠNG NGƯỜI HÀNH DỤC
1) Có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời sống lâu.
2) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
3) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
4) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
5) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợï con, dầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
6) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Nhưng khi có của cải rồi lại bị đắm nhiễm, hệ lụy. Khi đã bị hệ lụy, đắm nhiễm, không thấy được tai hoạn, không biết đến sự xuất yếu mà tiêu dùng
7) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết được sự xuất yếu mà tiêu dùng.
8) Hành dục một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là thấp hèn nhất.
9) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối thượng.
10) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết sự xuất yếu khi tiêu dùng, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu.
* Cũng như con bò có sữa, do sữa có lạc, do lạc có sanh tô, do sanh tô có thục tô, do thục tô có tô tinh. Tô tinh là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu. Này Cư sĩ, cũng như vậy, so với các người hành dục khác, kẻ hành dục này là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu. (Nguồn: mục 410- Trung A Hàm, Kinh Hành Dục, Phẩm 11, số 126)
+ Bốn người nầy được tìm thấy trong đời:
1. Người đi thuận dòng: Người nào đắm say dục lạc và phạm ác nghiệp là người là người đi thuận dòn.
2. Người thì đi ngược dòng: Người không đắm say dục lạc hay không phạm ác nghiệp, mà sống đời trong sạch trinh tiết, phấn đấu rất vất vả và khó khăn để làm được vậy, là người đi ngược dòng.
3. Người đứng vững vàng: Là người đã tận diệt năm hạ phần kiết sử sẽ được hoá sanh vào cõi Phạm thiên, từ đó vị ấy chứng ngộ Niết Bàn mà không từng trở lại dục giới.
4. Người đã vượt qua bờ kia và đứng trên đất khô ráo: Người đã đến bờ kia đứng trên đất khô là người đã tận diệt mọi lậu hoặc trong tâm, và, ai đã tự thân chứng ngộ, ngay trong kiếp sống nầy, tâm giải thoát và tuệ giải thoát. (TĂNG CHI BỘ KINH _ đoạn 5)
+ 772. TỲ KHEO BIẾT SỰ HƠN KÉM CỦA NGƯỜI
Thế nào là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người?
1) Đó là Tỳ-kheo biết có hai hạng người: có tín và có bất tín, người có tín là hơn, người bất tín là kém.
2) Người có tín lại có hai hạng: Thường đến gặp Tỳ-kheo và không thường đến gặp Tỳ-kheo. Người đến gặp thấy Tỳ-kheo là hơn, người không thường đến gặp Tỳ-kheo là kém.
3) Người thường đến gặp Tỳ-kheo lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính.
4) Người có lễ kính là hơn; người không lễ kính là kém.
5) Người có lễ kính lại có hai hạng: có hỏi kinh và không hỏi kinh. Người có hỏi kinh là hơn, người không hỏi kinh là kém.
6) Người có hỏi kinh lại có hai hạng: nhất tâm nghe kinh và không nhất tâm nghe kinh.
7) Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm nghe kinh là kém. Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp.
8) Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
9) Người nghe rồi thọ trì pháp lại có hai hạng: nghe pháp có quán sát nghĩa và nghe pháp không quán sát nghĩa.
10) Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp không quán sát nghĩa là kém. Hạng nghe pháp quán sát nghĩa lại có hai: biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp và thực hành đúng như pháp.
11) Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp là hơn; người không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp là thấp kém.
12) Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người.
Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người. Người ấy là bậc nhất là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.
Ví như từ bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sinh tô, từ sinh tô có thục tô, từ thục tô có tô tinh. Tô tinh là thứ bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu đối với những loại kia.
Nếu người nào tự làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời người, thì trong hai hạng người như trên đã nói, đã phân biệt, đã thi thiết, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu. Ấy là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người. (Trung A Hàm, Kinh Thiện Pháp, Phẩm 1, số 1)
Xem: Tổng hợp các Hạng - Nhóm - Loại người
560. SANH LÀ KHỔ
Nói sanh là khổ; nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, sanh là chúng sanh kia, với chủng loại sai biệt của chúng sanh kia, sanh thì sanh, xuất hiện thì xuất hiện, thành hình thì thành hình, hiện khởi năm uẩn rồi liền có mạng căn. Như vậy gọi là sanh.
Sanh là khổ, đó là chúng sanh khi sanh thân cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác toàn diện.
Tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện.
Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện.
Tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện.
Thân tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện.
Tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện.
Thân tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Này chư Hiền, vì lẽ ấy mà nói sanh là khổ.
(Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31)
(Trung A Hàm, Kinh Niệm, Phẩm 9, số 102)
555. SÂN CHI PHỐI KHÔNG NGỦ ĐƯỢC
Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thì người ấy tuy nằm trên giường vua, trải bằng thảm lông chim, phủ bằng gấm vóc lụa là, có nệm mềm, hai đầu kê gối, được phủ bằng thảm quý, bằng da sơn dương, nhưng giấc ngủ vẫn âu lo, đau khổ. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. (Trung A Hàm, Kinh Oán Gia, Phẩm 11, số 129)
556. SÂN HẬN HẠI MÌNH VÀ NGƯỜI
Nếu lại sanh niệm nhuế, niệm hại, Ta liền biết là đang sanh niệm nhuế, niệm hại, hại mình, hại người, hại cả hai, diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc, không chứng đắc Niết-bàn.
Biết rằng, hại mình, hại người, hại cả hai, diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc, không chứng đắc Niết-bàn, nó liền được tiêu diệt nhanh chóng.
557. SÂN KHIẾN BẤT LỢI
Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thì người ấy đáng lẽ được lợi, hai điều ấy không trái nhau, thật là bất lợi lớn. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. (Trung A Hàm, Kinh Oán Gia, Phẩm 11, số 129)
+ Tự nguy - Tự hại mình:
- Ðức Phật dạy có 4 điều: Một là gánh vác việc nhà người; hai là làm chứng việc nhà người; ba là mai mối vợ chồng người; bốn là tin theo lời tà siểm. Ấy là bốn điều tự nguy. Vậy nên trong kinh dạy rằng: "Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy sự tai họa vào thân. Đời nay vui lòng, lung ý, đời sau mang tội rất nặng." (KINH HIỀN NHÂN)
- Tự Hoại - Ðức Phật dạy có 4 điều: Một là cây có nhiều hoa trái thì nặng sẽ gẫy nhánh; hai là rắn độc ngậm nọc độc, nọc sẽ trở lại hại nó; ba là người làm tôi không hiền thì sẽ hại nước nhà; bốn là người làm việc bất thiện thì khi chết sẽ đọa vào địa ngục; ấy là bốn điều tự hoại. Vậy nên trong kinh dạy rằng: "Sự độc ác do tâm sinh ra và sẽ trở lại tự hại tâm mình, cũng như sắt sinh ra chất sét, chất sét ấy sẽ trở lại tiêu hình của sắt."; (Nguồn: KINH HIỀN NHÂN)
+ Sống Vô minh điên đảo là Đời sống phải Luân hồi trong Vòng luân hồi sinh tử.
Trích đoạn Đức Phật bảo ngài A Nan. ... Do từ vô thuỷ, tâm ông điên loạn. Tri kiến vọng phát mãi mãi không dừng, làm cho tri kiến sinh mệt nhọc.
Giảng giải:
Do từ vô thuỷ, tâm ông điên loạn. Từ vô thuỷ kiếp đến nay, chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể – Chân tánh của ông đã bị điên đảo. ‘Điên đảo’ ở đây là chỉ cho ‘sinh tướng vô minh, đó là từ câu sinh. Từ sinh tướng vô minh phát khởi lên tri thức phân biệt các hiện tượng, vốn cũng là tự câu sinh. ‘Điên đảo’ chỉ cho vô minh. Còn ‘loạn’ chỉ cho Tam tế đã đề cập ở trước. Đó là:
1. Nghiệp tướng
2. Năng kiến tướng .
3. Cảnh giới tướng .
Nghiệp tướng khiến cho phát sinh Năng kiến tướng, Năng kiến tướng lại làm sinh khởi Cảnh giới tướng . Điều nầy rất vi tế, tuy vậy, đó không phải là điều mà hàng phàm phu biện biệt được.
Một niệm bất giác sinh ra tam tế. Khi tam tế này đã phát khởi, thì liền có nút thứ nhất. Thời điểm mà Tri kiến vọng phát mãi mãi không dừng, là khi cảnh giới tướng làm duyên để tăng trưởng thành lục thô. Điều nầy cũng đã được giảng giải ở đoạn trước. Lục thô là:
Trí tướng: Trí nầy chỉ cho trí thế gian, tức thế trí biện thông. Nó bao gồm cả hiếu biết về lính vực khao học, kỹ thuật, các loại nghề nghiệp. Vì quý vị ‘phát khởi vọng kiến,’ nên sinh khởi nên Trí tướng, và phát sinh ra cái thứ hai trong Lục thô.
Tương tục tướng: Nó không bao giờ dừng. Trí tướng chính là nút thứ hai, và Tương tục tướng chính là nút thứ ba.
Chấp thủ tướng: Sinh khởi tính chấp trước.
Kế danh tự tướng .
Khởi nghiệp tướng (production of karma).
Nghiệp hệ khổ tướng ( karmic-bound suffering). (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ 547. RA KHỎI VỎ TRỨNG VÔ MINH
Ta ở trong chúng sanh này đến từ vô minh, say đắm vô minh, bị vô minh che lấp, bị phủ kín trong vỏ trứng vô minh, thì Ta là người trước tiên quán pháp; đối với chúng sanh ấy, Ta là bậc nhất.
Cũng như gà mái sanh trứng, mười hoặc mười hai trứng, luôn luôn nghĩ, luôn luôn ấp ủ, luôn luôn sưởi ấm, luôn luôn bảo bọc. Một thời gian sau, giả sử gà mái buông trôi; gà con ở bên trong, hoặc dùng mỏ mổ, hoặc dùng móng chân mà chọi, phá vỡ trứng chui ra an ổn, đối với các gà con khác, nó là bậc nhất. Ta cũng như thế, Ta ở trong chúng sanh này, đến từ vô minh, say đắm vô minh, bị vô minh che lấp, bị bọc kín trong vỏ trứng vô minh. Ta là người trước tiên quán pháp; đối với chúng sanh ấy Ta là bậc nhất. (Trung A Hàm, Kinh Hoàng Vô Liên, Phẩm 12, số 157)
+ Quán Nội Tâm - Kinh Niệm Xứ: Ái dục - sân hận - hôm trầm - trạo hối - Nghi ngờ - Sống quán pháp - Pháp Tuệ tri - Bốn Niệm xứ.
Quán tâm: Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: "Tâm có tham"; hay với tâm không tham, tuệ tri: "Tâm không tham". Hay với tâm có sân, tuệ tri: "Tâm có sân"; hay với tâm không sân, tuệ tri: "Tâm không sân". Hay với tâm có si, tuệ tri: "Tâm có si"; hay với tâm không si, tuệ tri: "Tâm không si". Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: "Tâm được thâu nhiếp". Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: "Tâm bị tán loạn". Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: "Tâm được quảng đại"; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: "Tâm không được quảng đại". Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: "Tâm hữu hạn". Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: "Tâm vô thượng". Hay với tâm có định, tuệ tri: "Tâm có định"; hay với tâm không định, tuệ tri: "Tâm không định". Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: "Tâm có giải thoát"; hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: "Tâm không giải thoát".
Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời.
Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.
Quán Pháp: Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái. Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có ái dục"; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ái dục". Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có sân hận". Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có nghi". Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư: "Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng tập; đây là tưởng diệt. Ðây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Ðây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt". Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Tỷ-kheo tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... tuệ tri lưỡi... và tuệ tri các vị... tuệ tri thân và tuệ tri các xúc, tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có niệm giác chi"; hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ý niệm giác chi". Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay Tỷ-kheo nội tâm có trạch pháp giác chi... (như trên)... hay nội tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có hỷ giác chi... (như trên)... hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)... hay nội tâm có định giác chi... (như trên)... hay nội tâm có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có xả giác chi"; hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có xả giác chi". Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ kheo như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ"; như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ tập"; như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt".
Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế.
* Còn nhiều nội dung quán tưởng, mời xem Kinh Niệm Xứ
(Kết luận)
Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn. (Nguồn: Kinh Niệm Xứ)
+ 544. QUÁN TÂM NHƯ TÂM
Tỳ-kheo có tâm tham dục thì biết đúng như thật có tâm tham dục, có tâm vô dục thì biết đúng như thật là có tâm vô dục. Khi có sân hay không sân, có si hay không si, có ô uế hay không ô uế, có hợp hay có tan, có thấp hay có cao, có nhỏ hay có lớn; tụ hay không tụ, định hay không định, giải thoát hay không giải thoát. Cũng như vậy, có tâm giải thoát thì biết đúng như thật có tâm giải thoát; có tâm không giải thoát thì biết đúng như thật là có tâm không giải thoát. Tỳ-kheo như vậy, quán nội tâm như tâm, lập niệm tại tâm, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy là Tỳ-kheo quán tâm như tâm.
Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán tâm như tâm như vậy, đó gọi là niệm xứ quán tâm như tâm. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Xứ, Phẩm 9, số 98)
545. QUÁN THỌ NHƯ THỌ
Tỳ-kheo khi thọ nhận cảm giác lạc liền biết đang thọ nhận cảm giác lạc, khi thọ nhận cảm giác khổ liền biết đang thọ nhận cảm giác khổ, khi thọ nhận cảm giác không lạc không khổ liền biết đang thọ nhận cảm giác không lạc không khổ. Khi thân thọ nhận cảm giác lạc, thân thọ nhận cảm giác khổ, thân thọ nhận cảm giác không lạc không khổ; khi tâm thọ nhận cảm giác lạc, tâm thọ nhận cảm giác khổ, tâm thọ nhận cảm giác không lạc không khổ; cảm giác lạc khi ăn, cảm giác khổ khi ăn, cảm giác không lạc không khổ khi ăn; cảm giác lạc khi không ăn, cảm giác khổ khi không ăn, cảm giác không lạc không khổ khi không ăn; cảm giác lạc khi có dục, cảm giác khổ khi có dục, cảm giác không khổ không lạc khi có dục; cảm giác lạc khi không có dục, cảm giác khổ khi không có dục, cảm giác không lạc không khổ khi không có dục. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thọ như thọ, quán ngoại thọ như thọ, lập niệm tại thọ, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán thọ như thọ như vậy, gọi là niệm xứ quán thọ như thọ. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Xứ, Phẩm 9, số 98)
543. QUÁN SÁU GIỚI
Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau. Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như gã đồ tể mổ bò, lột hết bộ da, trải lên mặt đất, phân thành sáu đoạn. Cũng vậy, Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng: ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như vậy, Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết trên như thật. Tỳ-kheo như thế, sống cô độc, viễn ly, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ các tai hoạn của tâm và được định tâm. Được định tâm rồi thì biết trên như thật. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Thân, Phẩm 7, số 81)
+ Dĩ thái - Tứ đại: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là phong, hỏa, thủy, địa. (LVLCK, 43)
+ Dương ..... Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
+ Hành Khí: Tập trung năng lượng vào các ý tưởng chưa được thực hiện; Có thể là người mơ mộng không thực tế; Khả năng buông xả; Thân thiện nhất trong tất cả các yếu tố; Có thể đánh giá quá cao các khả năng trí tuệ; Cần phải có khoảng cách và tính khách quan để khám phá chính mình
+ Các Dấu hiệu Không khí: Song Tử, Thiên Bình, và Bảo Bình; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Giao tiếp. Thông minh. Thích làm việc về mặt tinh thần. Nắm bắt ý tưởng nhanh chóng. Có thể nói hoặc viết hiệu quả. Có quan điểm hợp lý. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ Không khí (Air): Không khí chỉ là chất dĩ thái phức tạp và đã biến phân. (GLBN II, 258)
+ Phong (Air; không khí): Là biến phân (differentiation) của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi trực giác, cõi Bồ Đề. (LVLCK, 43)
+ Không Khí hay Không Gian: Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ 522. PHONG GIỚI - Thế nào là phong giới? nội phong giới và ngoại phong giới - Đức Phật dậy
Nội phong giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Đó là gió đi lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang, gió co thắt lại, gió như dao cắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, được chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội phong giới.
Ngoại phong giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Nguồn: mục 522- (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
===> Phong khí tức là Gió, là Không khí, là Hành Khí, Không gian, là Phong đại, Phong giới.
513. PHÁP LẤY GÌ LÀM GỐC
Nếu có dị đạo đến hỏi các ông ‘Tất cả các pháp lấy gì làm gốc?’ thì các ông nên trả lời họ như thế này: ‘Tất cả các pháp lấy dục làm gốc’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm hòa hiệp?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy xúc làm hòa hiệp’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm dẫn khởi?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy thọ làm dẫn khởi’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm hữu?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy tư tưởng làm hữu.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm thượng thủ?’ thì nên đáp như vầy: Lấy niệm làm thượng thủ’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm tiền đạo?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy định làm tiền đạo.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm tối thượng?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy tuệ làm tối thượng.’
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm chắc thật?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy giải thoát làm chắc thật’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm ý nghĩa?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy Niết-bàn làm ý nghĩa’. (Trung A Hàm, Kinh Chư Pháp Bổn, Phẩm 10, số 113)
514. PHÁP NGU SI
Như thuốc A-ma-ni-dược, một phần có sắc, có hương, có vị, nhưng có trộn chất độc; hoặc có người bị bệnh nên uống, khi uống thì sắc, hương và vị ngon miệng mà không tổn hại cổ họng, nhưng khi uống xong, vào trong bụng rồi lại chẳng thành thuốc.
Cũng vậy, thọ pháp này hiện tại lạc mà tương lai phải chịu lấy quả báo khổ. Người kia ngu si không biết như thật rằng pháp thọ này hiện tại lạc mà tương lai phải chịu quả báo khổ. Khi đã không biết như thật liền tập hành không đoạn trừ. Sau khi tập hành không đoạn trừ, pháp không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý lại sanh; pháp đáng thích, đáng yêu, đáng vừa ý lại diệt. Đó gọi là pháp ngu si. (Trung A Hàm, Kinh Thọ Pháp II, Phẩm 14, số 175)
516. PHÁP SUY THOÁI
A-nan, ví như từ lúc xế trưa cho đến khi mặt trời lặn, ánh sáng diệt, bóng tối sanh; A-nan, ý ông nghĩ sao, sau khi mặt trời lặn, phải chăng ánh sáng đã diệt, bóng tối đã sanh?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Cũng vậy, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện; người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc chắn rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp suy thoái. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
517. PHÁP THANH TỊNH
Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện.
Ví như sáng sớm, mặt trời vừa xuất hiện, bóng tối diệt, ánh sáng sanh. A-nan, ý ông nghĩ sao, mặt trời lên dần cho đến giờ ăn trưa, phải chăng bóng tối đã diệt, ánh sáng đã sanh?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Cũng vậy, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, nhưng thiện căn còn sót lại, chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó sẽ lại phát sanh pháp thiện. Như vậy, người này đạt được pháp thanh tịnh. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
518. PHÁP TUỆ
Như đại tiểu tiện có hòa với nhiều thứ thuốc, hoặc có người bị bệnh uống; khi uống, sắc xấu, hôi thối, không mùi vị, không ngon miệng mà hại đau cuống họng, nhưng uống vào trong bụng lại thành thuốc.
Cũng vậy, thọ pháp này hiện tại khổ mà tương lai thọ quả báo lạc, người trí tuệ biết như thật rằng thọ pháp này hiện tại khổ mà tương lai thọ quả báo lạc. Do biết như thật, vị ấy tập hành nó mà không đoạn trừ. Do tập hành mà không đoạn trừ, pháp không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý diệt, mà pháp đáng thích đáng yêu, đáng vừa ý sanh. Đó gọi là pháp tuệ. (Trung A Hàm, Kinh Thọ Pháp II, Phẩm 14, số 175)
519. PHẬT PHÁP THẬM THÂM
Pháp của Ta rất sâu sắc, rất kỳ diệu, rất hy hữu, khó hiểu, khó biết, khó thấy, khó chứng đắc, mà Ta dạy bảo cho đệ tử và đệ tử sau khi vâng lãnh sự dạy bảo rồi liền được an ổn, trọn đời tịnh tu phạm hạnh và đem dạy lại cho người khác nữa. (Trung A Hàm, Kinh Ưu-đàm-bà-la, Phẩm 9, số 104)
+ Người xuất gia phạm giới mà nhận của bố thí
498. PHẠM GIỚI KHÔNG THỂ LÊN LẦU CHÁNH PHÁP
Nếu Tỳ-kheo nào phạm giới, giới bị vỡ, giới bị khuyết, giới bị thủng, giới tạp uế, giới đen, mà muốn nương tựa nơi giới, an lập nơi giới, lấy giới làm thang leo lên tòa nhà vô thượng tuệ, lên lầu gác chánh pháp, nhất định không có điều đó.
Ví như cách thôn không xa, nhà lớn, nhà nhỏ, lầu cao, lầu thấp, trong đó có một cái thang, nếu người nào đến cầu xin, leo lên nhà gác đó, nhưng nếu không leo lên nấc thang thứ nhất mà muốn leo lên nấc thang thứ hai thì không thể được. Nếu không leo lên nấc thang thứ hai, thứ ba, thứ tư mà lên đến nhà gác cũng không thể được. (Trung A Hàm, Kinh Ca-hi-na, Phẩm 7, số 80)
499. PHẠM GIỚI MÀ NHẬN CỦA CẢI CÚNG DƯỜNG
Các ngươi nghĩ sao, nếu có lực sĩ đem cái nồi lớn bằng sắt hay đồng đốt cháy hừng hực, rồi túm lấy người kia ném ngược vào trong đó; hoặc là từ các người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền để thọ lãnh sự tín thí, nhà cửa được tô trét đất bùn, cửa sổ và cửa lớn kín và chặt; có lò sưởi ấm áp. Đằng nào vui sướng hơn?
Các Tỳ-kheo bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, nếu có lực sĩ đem cái nồi lớn bằng sắt hay đồng đốt cháy hừng hực, rồi túm lấy người kia ném ngược vào trong đó; thế thì rất khổ. Bạch Thế Tôn, nếu từ các người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền để thọ lãnh sự tín thí, nhà cửa được tô trét đất bùn, cửa sổ và cửa lớn kín và chặt; có lò sưởi ấm áp; thế thì rất vui sướng.
Thế Tôn bảo rằng: Ta sẽ nói cho các ngươi biết, không để cho các ngươi học Sa-môn mà mất đạo Sa-môn. Các ngươi nếu muốn thành tựu phạm hạnh vô thượng thì thà để cho lực sĩ đem nồi lớn bằng đồng hay sắt đốt cháy hừng hực rồi tóm giở ngược lên quăng vào trong nồi, mặc dù vì như thế mà chịu đau khổ hoặc chết, nhưng không vì vậy mà khi thân hoại mạng chung thẳng đến ác xứ hay sanh vào địa ngục.
Nếu người ngu si phạm giới, không tinh tấn, sanh ra ác pháp bất thiện, chẳng có phạm hạnh xưng là phạm hạnh, chẳng phải Sa-môn xưng là Sa-môn, rồi từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ thợ thuyền để nhận lãnh sự tín thí, nhà cửa được tô trét đất bùn, cửa sổ và cửa lớn kín và chặt; có lò sưởi ấm áp của người. Người ngu si đó vì thế mà vĩnh viễn không thiện, không nghĩa, thọ quả báo ác, sau khi thân hoại mạng chung, thẳng đến ác xứ, hay sanh vào địa ngục.
Vì thế các ngươi nên quán sát nghĩa này, quán sát nghĩa kia, quán sát cả hai nghĩa. Nên nghĩ thế này: Ta xuất gia học đạo không phải vô ích, không phải luống không mà có quả có báo, có sự an lạc cùng cực, sinh đến thiện xứ, được trường thọ, nhận lãnh sự tín thí, áo mền, đồ ẩm thực, giường nệm, thuốc thang của người, là làm cho các thí chủ được phước đức lớn, được quả báo lớn, được quang minh lớn. Nên học như thế. (Trung A Hàm, Kinh Mộc Tích Dụ, Phẩm 1, số 5)
500. PHẠM GIỚI MÀ NHẬN GIƯỜNG TÒA CÚNG DƯỜNG
Các ngươi nghĩ sao, nếu có lực sĩ đem giường sắt hay đồng đốt cháy hừng hực, rồi cưỡng bức người kia phải nằm ngồi trong đó hoặc là từ các người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền để thọ lãnh sự tín thí, giường chõng hay ngọa cụ của người; việc nào vui sướng hơn?
Các Tỳ-kheo bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, nếu có lực sĩ đem giường sắt hay đồng đốt cháy hừng hực rồi cưỡng bức người kia phải nằm ngồi trên đó thì rất khổ. Bạch Thế Tôn, nếu theo các người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền để thọ lãnh sự tín thí, giường chõng, ngọa cụ của người; thì rất vui sướng.
Thế Tôn bảo rằng: Ta sẽ nói cho các ngươi biết, không để các ngươi học Sa-môn mà mất đạo Sa-môn. Nếu các ngươi muốn thành tựu phạm hạnh vô thượng, thì thà để cho lực sĩ đem giường đồng hay sắt đốt cháy hừng hực rồi cưỡng bức phải nằm ngồi trên đó, việc đó vì thế mà chịu sự khổ sở hoặc chết. Nhưng không vì thế mà khi thân hoại mạng chung thẳng đến ác xứ hay sanh vào địa ngục.
Nếu người ngu si phạm giới, không tinh tấn, sanh ra ác pháp bất thiện, chẳng phải phạm hạnh xưng là phạm hạnh, chẳng phải Sa-môn xưng làm Sa-môn, rồi từ những người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền để thọ lãnh sự tín thí, ngọa cụ, giường chõng của người; người ngu si đó vì thế vĩnh viễn không thiện, không nghĩa, thọ quả báo ác, sau khi thân hoại mạng chung thẳng đến ác xứ, sanh vào địa ngục.
Vì thế các ngươi nên quán sát nghĩa này, quán sát nghĩa kia, quán sát cả hai nghĩa. Nên nghĩ thế này: Ta xuất gia học đạo không phải vô ích, không phải luống không, mà có quả báo, có sự an lạc vô cùng, sanh đến các thiện xứ để được trường thọ. Nhận lãnh sự tín thí, áo mền, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc thang của người là làm cho các thí chủ được phước đức lớn, được quả báo lớn, được quang minh lớn. Nên học như vậy. (Trung A Hàm, Kinh Mộc Tích Dụ, Phẩm 1, số 5)
501. PHẠM GIỚI MÀ NHẬN SỰ LỄ BÁI
Các ngươi nghĩ sao, nếu có lực sĩ đem con dao đã mài giũa sắc bén chặt đứt ngang đùi; hay là từ nơi người dòng Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền, để thọ nhận sự tín thí, lễ bái, cung kính, đón rước; điều nào sung sướng hơn?
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch rằng: Bạch Thế Tôn, nếu có lực sĩ đem con dao đã mài giũa sắc bén chặt đứt ngang đùi, thì rất khổ. Thế Tôn, còn từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, hay thợ thuyền để thọ nhận sự tín thí, lễ bái, cung kính, đón rước thì rất vui sướng.
Thế Tôn bảo rằng: Ta sẽ nói cho các ngươi biết, không để cho các ngươi học Sa-môn mà mất đạo Sa-môn. Các ngươi nếu muốn thành tựu phạm hạnh vô thượng thì thà để cho lực sĩ đem dao bén đã mài giũa chặt đứt ngang đùi. Việc ấy dù do đó mà chịu sự đau khổ, hoặc chết, nhưng không vì vậy mà khi thân hoại mạng chung đi thẳng đến ác xứ, sanh vào địa ngục.
Nếu người ngu si phạm giới không tinh tấn, sanh ra ác pháp bất thiện, chẳng phải phạm hạnh xưng là phạm hạnh, chẳng phải Sa-môn xưng là Sa-môn; rồi từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ hay thợ thuyền, mà thọ nhận sự tín thí, lễ bái, cung kính, tiếp đón. Người ngu si kia vì thế vĩnh viễn không được thiện, không được nghĩa, thọ quả báo ác pháp, sau khi thân hoại mạng chung thẳng đến ác xứ, sanh vào địa ngục.
Do đó, các ngươi nên quán sát nghĩa này, quán sát nghĩa kia, quán sát cả hai nghĩa. Nên nghĩ thế này: Ta xuất gia học đạo không phải vô ích, không luống không, mà có quả, có báo, có sự an lạc cùng cực, sanh đến các thiện xứ, để được trường thọ, tiếp nhận áo chăn, thực phẩm, giường chiếu của người tín thí, làm cho các thí chủ được phước đức lớn, được quả báo lớn, được quang vinh lớn, nên học như vậy. (Trung A Hàm, Kinh Mộc Tích Dụ, Phẩm 1, số 5)
502. PHẠM GIỚI MÀ NHẬN THỰC PHẨM CÚNG DƯỜNG
Các ngươi nghĩ sao, hoặc có lực sĩ đem kềm sắt nóng, kéo cho hả miệng ra rồi lấy viên sắt đốt cháy hừng hực quăng vào trong miệng. Viên sắt nóng đó đốt môi; đốt cháy môi rồi đốt cháy lưỡi; đốt lưỡi rồi đốt lợi; đốt lợi rồi đốt cổ; đốt cổ rồi đốt tim; đốt tim rồi đốt bao tử và ruột; đốt bao tử và ruột rồi rơi xuống dưới. Hoặc từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền, thọ nhận sự tín thí, đồ ăn, vô lượng mùi vị. Việc nào vui sướng hơn?
Các Tỳ-kheo bạch rằng: Bạch Thế Tôn, nếu có lực sĩ đem kềm sắt nóng kéo cho hả miệng, rồi lấy viên sắt đã cháy hừng hực bỏ vào miệng. Viên sắt nóng ấy đốt môi, đốt môi rồi đốt lưỡi, đốt lưỡi rồi đốt lợi, đốt lợi rồi đốt cổ, đốt cổ rồi đốt tim, đốt tim rồi đốt bao tử và ruột, đốt bao tử và ruột rồi rơi xuống dưới. Việc ấy rất khổ, bạch Thế Tôn, nếu từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền để lãnh thọ sự tín thí, đồ ăn, vô lượng mùi vị; việc ấy rất vui sướng.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: Ta sẽ nói cho các ngươi biết, không để các ngươi học Sa-môn mà để mất đạo Sa-môn. Các ngươi nếu muốn thành tựu phạm hạnh vô thượng thà để lực sĩ đem kềm sắt nóng kéo cho hả miệng ra rồi đem viên sắt đã đốt cháy hừng hực quăng vào trong miệng, viên sắt nóng ấy đốt môi, đốt môi rồi đốt lưỡi, đốt lưỡi rồi đốt lợi, đốt lợi rồi đốt cổ, đốt cổ rồi đốt tim, đốt tim rồi đốt bao tử và ruột, đốt bao tử và ruột rồi rơi xuống đất. Điều ấy dù do vậy mà phải chịu đau khổ, hoặc chết, nhưng không vì thế mà khi thân hoại mạng chung thẳng đến ác xứ hay sanh vào địa ngục.
Nếu người ngu si phạm giới, không tinh tấn, sanh ra ác pháp bất thiện, chẳng có phạm hạnh xưng là phạm hạnh, chẳng phải Sa-môn xưng là Sa-môn. Từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền để nhận lãnh sự tín thí, đồ ăn, vô lượng mùi vị. Người ngu si đó vì thế mà vĩnh viễn không thiện, không nghĩa, chịu quả báo ác pháp, sau khi thân hoại mạng chung thẳng đến ác xứ, sanh vào địa ngục.
Vì thế các ngươi nên quán sát nghĩa này, quán sát nghĩa kia, quán sát cả hai nghĩa. Nên nghĩ thế này: Ta xuất gia học đạo không phải vô ích, không luống không, mà có quả có báo, có sự an lạc cùng cực, sanh đến các thiện xứ để được trường thọ. Nhận lãnh sự tín thí, y phục, chăn mền, đồ ẩm thực, giường chiếu, thuốc thang của người là làm cho các thí chủ được phước đức lớn, được quả báo lớn, được quang minh lớn. Nên học như vậy. (Trung A Hàm, Kinh Mộc Tích Dụ, Phẩm 1, số 5)
503. PHẠM GIỚI MÀ NHẬN Y PHỤC CÚNG DƯỜNG
Các ngươi nghĩ sao? Hoặc có lực sĩ đem lá đồng sắt đốt cháy hừng hực, rồi quấn quanh thân thể; hoặc từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền, để nhận sự tín thí y phục của người; cái nào vui sướng hơn?
Các Tỳ-kheo bạch rằng: Bạch Thế Tôn, nếu có lực sĩ đem lá đồng sắt đốt cháy hừng hực rồi quấn quanh thân thể thì rất khổ. Nếu từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền để thọ lãnh tín thí, y phục của người, thì rất vui sướng.
Thế Tôn bảo rằng: Ta sẽ nói các ngươi biết, không để các ngươi học Sa-môn mà mất đạo Sa-môn. Các ngươi nếu muốn thành tựu phạm hạnh vô thượng thì thà để cho lực sĩ đem lá đồng sắt đốt cháy hừng hực rồi quấn quanh thân thể. Dù việc đó vì thế sẽ chịu sự khổ, nhưng không do vậy mà khi thân hoại mạng chung phải thẳng đến ác xứ, sanh trong địa ngục.
Nếu người ngu si, phạm giới, không tinh tấn, sanh ra pháp ác bất thiện, chẳng phải phạm hạnh xưng là phạm hạnh, chẳng phải Sa-môn xưng là Sa-môn; rồi từ người Sát-lợi, Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền thọ lãnh sự tín thí, y phục của người. Người ngu si kia, vì thế vĩnh viễn không thiện, không nghĩa, thọ quả báo ác pháp. Sau khi thân hoại mạng chung thẳng đến ác xứ, sanh vào địa ngục.
Do đó, các ngươi quán sát nghĩa này, quán sát nghĩa kia, quán sát cả hai nghĩa. Nên nghĩ thế này: Ta xuất gia học đạo không phải vô ích, không luống không, mà có quả có báo, có sự an lạc cùng cực, sanh đến các thiện xứ để được trường thọ. Nhận lãnh y phục, chăn mền, đồ ẩm thực, giường chiếu, thuốc thang của người tín thí là làm cho các thí chủ được phước đức lớn, được quả báo lớn, được quang minh lớn. Nên học như vậy.
Nguồn: Xem các mục từ 498-503 - (Trung A Hàm, Kinh Mộc Tích Dụ, Phẩm 1, số 5)
+ Đại Oai nghi - Tác phong trong giới luật của đức Phật dậy
Giới Luật thì chuyên nói về giới tướng, giới pháp và oai nghi - ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Ba ngàn oai nghi này từ đâu mà có? Từ Tứ Ðại Oai Nghi - đi, đứng, nằm, ngồi - đi cũng phải có oai nghi, ngồi cũng phải có oai nghi, đứng cũng phải có oai nghi, và nằm cũng phải có oai nghi:
Hành như phong,
Lập như tùng,
Tọa như chung,
Ngọa như cung.
(Đi như gió
Đứng như tùng
Ngồi như chuông
Nằm như cung .)
"Hành như phong" - Đi như gió - tức là đi như làn gió. Gió này hoàn toàn không phải là gió lốc, cũng chẳng phải là cuồng phong. Ði mà hấp tấp như chạy, tất không là gió lốc thì cũng thành cuồng phong. Người xuất gia khi cất bước phải khoan thai như làn gió nhẹ, chỉ dịu dàng thổi lướt qua, không làm xao động mặt nước; tuy rằng có gió song không làm dậy sóng.
"Lập như tùng" - Đứng như tùng - tức là đứng thì thân phải thẳng như cây tùng, không nên ngoẹo đầu ngoẹo cổ, dáng vẻ ủ rủ chẳng có chút tinh thần, giống như chưa tỉnh ngủ vậy. Phải đứng cho ngay, thẳng người lên; khi đi thì đừng lúi húi khom lưng còng cổ, cũng đừng gằm đầu cúi mặt! Tuy nhiên, không nên cúi đầu tức là phải ngẩng đầu, nhưng ngẩng lên quá cũng không đúng, mà phải ngẩng một cách tự nhiên. Ðây là nói về cách đứng, một trong bốn đại oai nghi.
Ngoài ra, khi đi thì không nên nhìn đông nhìn tây, cũng đừng dáo dác trông trước trông sau! Quý vị lơ láo nhìn ngó như thế mà cảnh sát trông thấy thì sẽ nghĩ: " A! Tên này khả nghi quá, hắn định dở trò trộm cướp gì đây. Hắn rình xem có ai ở nhà không để đột nhập đấy mà!" và liền chú ý đến quý vị. Cho nên, đừng nhìn ngang liếc dọc, chớ dáo dác dòm ngó!
"Tọa như chung" - Ngồi như chuông - tức là ngồi ngay ngắn, vững chãi như cái chuông úp vậy.
"Ngọa như cung" - Nằm như cung - tức là nằm như cái cung. Ðó là tư thế "thác tai đáp khác," còn gọi là dáng nằm kiết tường. "Thác tai" là nằm nghiêng về bên tay phải, bàn tay lật ngửa ra kê dưới má phải; "đáp khác" là tay trái duỗi ra và bàn tay úp lại để trên bắp đùi trái; hai chân hơi co lên một chút, tư thế tựa như cây cung.
Về bốn đại oai nghi đi đứng nằm ngồi, thì mỗi oai nghi có hai trăm năm mươi điều lệ - hai trăm năm mươi điều về đi, hai trăm năm mươi điều về ngồi, hai trăm năm mươi điều về đứng, hai trăm năm mươi điều về nằm. Ði sâu vào chi tiết thì mỗi một oai nghi đều có tới hai trăm năm mươi điều lệ, chứ chẳng phải là chuyện đơn giản! Như thế, bốn đại oai nghi thì tổng cộng là một ngàn điều lệ. Một ngàn điều lệ cho mỗi thời - quá khứ một ngàn, hiện tại một ngàn và vị lai một ngàn - nên tổng cộng là ba ngàn oai nghi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
495. OAI NGHI NGHIÊM TÚC
Tôi đã thành tựu Thánh giới thân này và cực tri túc, Thánh thủ hộ các căn, lại biết rõ chân chánh sự ra vào, khéo quán sát phân biệt sự co, duỗi, cúi, ngước, nghi dung chững chạc, khéo đắp Tăng-già-lê và mang các y bát; đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, nghỉ, nói năng thảy đều biết rõ chân chánh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Trí, Phẩm 15, số 187)
494. OAI ĐỨC
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có oai đức lớn? Nếu có kẻ nam hay người nữ không ôm lòng tật đố, người ấy thấy kẻ khác được cung kính cúng dường không sanh lòng tật đố. Nếu thấy kẻ khác có của, không có lòng ham muốn của ấy được về ta. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời rồi, lại sanh vào nhân gian, có oai đức lớn. Nguồn: mục 494- (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
488. NÔNG NỔI, KHÔNG SÁNG SUỐT
Một người Phạm chí có người vợ trẻ, vừa mới mang thai, người vợ cả đã có một đứa con trai. Trong thời gian ấy, Phạm chí kia bỗng nhiên mạng chung.
Sau khi mạng chung, con của bà vợ cả nói với bà mẹ kế như thế này: ‘Tiểu mẫu nên biết, nay của cải trong gia đình này hoàn toàn phải thuộc về tôi, không ai được dự phần vào’. Bà mẹ kế đáp: ‘Ta nay đang có thai, nếu sanh con trai thì nó phải được phần. Nếu sanh con gái thì của cải ấy mới hoàn toàn của cậu’. Con của bà vợ cả nói với bà mẹ kế ba lần như thế này: Tiểu mẫu nên biết, nay của cải trong gia đình này hoàn toàn thuộc về tôi, không ai được dự phần vào’. Bà mẹ kế cũng trả lời ba lần như thế này: ‘Nay ta đang có thai, nếu sanh con trai thì phải được chia phần. Nếu sanh con gái thì của cải ấy mới hoàn toàn thuộc về cậu’.
Bấy giờ bà mẹ kế ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ ràng, không có trí tuệ, muốn bảo toàn sự sống mà trở lại hại mình. Bà vào trong phòng lấy dao bén mổ bụng xem là trai hay gái. Bà ấy ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ, không có trí tuệ, muốn bảo vệ sự sống mà lại tự hại mình và đứa con trong bụng.
Này vua Bệ-tứ, nhà vua cũng lại như vậy, ngu si không thông suốt, không hiểu rõ ràng, không có trí tuệ, muốn bảo tồn sự sống mà lại nghĩ như thế này: ‘Này Ca-diếp, nếu biết tôi, biết người thân thích của tôi có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn sẻn, tham lam, có đại lượng, có thi ân, cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, khiến họ được an lạc, bố thí, không đắm trước của cải. Do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời, thì tôi, ngay bây giờ, sau khi thực hành bố thí, tu các thiện nghiệp, phụng trì trai giới, tôi dùng dao tự sát, hoặc uống thuốc độc, hoặc nhảy xuống giếng, hoặc thắt cổ mà chết. (Trung A Hàm, Kinh Bệ Tứ, Phẩm 6, số 71)
479. NỔI KHỔ CỦA TẠI GIA & XUẤT GIA
Nếu người tại gia mà tiền tài không tăng trưởng, kim ngân, chơn châu, lưu ly, thủy tinh thảy đều không tăng trưởng; súc mục, lúa, gạo cùng nô tỳ, sai dịch cũng không tăng trưởng; lúc bấy giờ người tại gia ưu sầu, khổ não. Do sự kiện này mà người tại gia có nhiều ưu tư khổ nhọc, trong lòng mang nhiều sầu bi.
Nếu người xuất gia học đạo mà sống theo dục vọng, theo sân nhuế, ngu si, lúc bấy giờ xuất gia học đạo có nhiều ưu sầu khổ não. Do sự kiện này mà có người xuất gia có nhiều ưu tư khổ nhọc, trong lòng chất nhiều sầu bi.
Như vậy người tại gia vì không được tự do mà khổ, và người xuất gia học đạo vì tự do mà khổ. (Trung A Hàm, Kinh Văn Đức, Phẩm 12, số 147)
485. NỖI THỐNG KHỔ
Vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang khôi giáp, khoác trường bào, cầm giáo mác, cung tên, hoặc cầm dao thuẫn, đi vào quân trận. Hoặc đánh nhau bằng voi, hoặc ngựa, hoặc xe, hoặc dùng bộ binh đánh nhau, hoặc cho trai gái đánh nhau. Trong khi giao đấu, hoặc chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trọng khổ. Đó là những nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc. (Trung A Hàm, Kinh Khổ Ấm, Phẩm 9, số 100)
486. NỔI THỐNG KHỔ TRONG ĐỜI NÀY
Vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, mặc trường bào, cầm giáo mác, cung tên, hoặc cầm dao thuẫn vào xóm, vào ấp, vào quốc gia, vào thành thị, đục vách phá kho, cướp đoạt tài vật, chận đường giao thông, hoặc đến ngõ khác phá xóm phá làng, phá thành diệt nước. Trong đó, hoặc người của vua bắt được, đem khảo đủ cách; chặt tay, chặt chân, hoặc chặt hết cả tay chân; cắt tai, cắt mũi, hoặc cắt cả tai mũi; hoặc lóc từng miếng thịt; bứt râu bứt tóc, hoặc bứt cả râu tóc; hoặc nhốt vào trong cũi, quấn vải hỏa thiêu, hoặc lấp trong cát, lấy cỏ quấn lại rồi đốt; hoặc bỏ vô bụng lừa sắt, hoặc bỏ vô miệng heo sắt, hoặc đặt vào miệng cọp sắt rồi đốt, hoặc bỏ vô vạc đồng, hoặc bỏ vô vạc sắt rồi nấu; hoặc chặt ra từng khúc, hoặc dùng xoa bén đâm, hoặc lấy móc sắt móc, hoặc bắt nằm trên giường sắt rồi lấy dầu sôi rót, hoặc bắt ngồi trong cối sắt rồi lấy chày sắt giã, hoặc cho rắn rít mổ cắn, hoặc dùng roi quất, hoặc dùng gậy thọt, hoặc dùng dùi đánh, hoặc buộc sống treo trên nêu cao, hoặc chém đầu rồi bêu.
Trong các trường hợp đó, kẻ ấy hoặc chết, hoặc sợ hãi, thọ cực trọng khổ. Ma-ha-nam, đó là những nỗi thống khổ ở đời này nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc. (Trung A Hàm, Kinh Khổ Ấm, Phẩm 9, số 100)
+ 481. NÓI LÁO
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Ai nói láo tất phải chịu ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta nói láo ấy là tự hại mà cũng xuyên tạc phỉ báng người khác. Chư Thiên và các vị phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta, khi thân hoại mạng chung tất sẽ phải đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Ai nói láo tất phải chịu ác báo này đời này và đời sau như vậy. Nay ta nên y cứ trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo chăng?’ Rồi vị ấy y cứ trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo. Như vậy Đa văn Thánh đệ tử y trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
+ Giới Khẩu nghiệp: Không có lời Vọng ngữ/ Nói Dối - Nói Sai Sự Thật - Nói Láo - Nói A Dua - Nói Nịnh Hót. Cổ nhân thường nói: “Nhân vô tín tắc bất lập”. Trong xã hội cổ đại Trung Quốc đối với chữ tín vô cùng coi trọng. “Ngũ thường”, “thường” là thường hằng, là nhất định không thể mất đi, cho nên “ngũ thường” còn gọi là thường đạo, cũng chính là đạo lý cơ bản làm người: “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. Phật nói rõ: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”. Ý nghĩa của lời nói này là “Tín là căn nguyên vào đạo, có thể sinh công đức”, cho nên “tín” gọi là công đức mẫu. Ý nghĩa của mẫu là năng sinh. Ngũ thường “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” thì bạn ở đâu cũng có thể nhìn thấy xã hội này, thời đại này là có phước, nhà Phật gọi là phước địa, phước thành. “Nhân” là nhân từ, “nghĩa” là đạo nghĩa, “lễ” là lễ tiết, trí tuệ, lòng tin thì xã hội này có phước. Cổ nhân thường nói: “Tu hành bắt đầu từ không vọng ngữ”. Phật pháp nói là: “Thường sinh tâm hoan hỷ” => Nếu như từ trên tướng mà nói, liền được tướng lưỡi rộng dài của Như Lai, đó là nói từ trên tướng.... Các nghiệp đều từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sinh ra. Lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bạn mới nhìn thấy chân tướng của vũ trụ nhân sinh (Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Phật dậy không được nói sai sự thật - Dối trá
a) Nói dối - Nói láo: là không nói thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạc; hay là khi ưa thì nói dịu ngọt thơm tho, khi ghét lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ lời nói việc làm trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài bất nhất, đều thuộc về nói dối cả.
b) Nói thêu dệt: Là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận; là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe, làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù phiếm, bóng bẩy làm cho kẻ nghe phải loạn tâm, sanh phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ Phật dậy Không Nói dối (Nguồn: Chánh ngữ):
1. Không nói dối hay Nói láo hay Vọng ngữ : Chân chính trung thực, nói sự thật, không dối trá lừa gạt, chuyện có nói không, không nói có, vu oan giá họa vì bất cứ lợi ích gì để tránh bị đọa đường ác.
- Ví như: “Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy; Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; Biết nói không biết, không biết nói biết; Biết trái nói phải, biết phải nói trái.”
+ Điều 2/14 điều răn Đức Phật dậy: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.”
+ Nói A dua - Nịnh hót: 7. Các đệ tử, tâm lý dua nịnh trái ngược hoàn toàn với đạo giải thoát. Nên biết: Dua nịnh là điều dối trá mà người xuất gia không nên có. Phải làm cho tâm ý đoan chánh, phát huy đức tánh trung trực. Đó là con đường vào đạo. Đức Phật dậy (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
+ Vọng ngữ: “Ly hư cuồng ngữ” chính là không vọng ngữ. Dùng tâm chân thành đối nhân, xử thế, tiếp vật. Thành thật, hai chữ này xưa nay, trong ngoài nước thật sự là không phân quốc gia, không phân chủng tộc, không phân tôn giáo đều tán thán, đều hoan hỷ. Vọng ngữ, lưỡng thiệt là đại giới ở trong Phật pháp. Xưa nay biết bao người tu hành, tu tích công đức nhưng không thể thành tựu, vì sao vậy? Vì từ trong vọng ngữ, lưỡng thiệt đã sơ xuất rồi. Phiền não (trong kinh Phật gọi là “hữu lậu”) khiến pháp tài công đức của bạn chảy hết, công đức mà bạn tu không còn nữa, chảy hết rồi. Lỗ chảy rất nhiều, lỗ chảy của vọng ngữ, lưỡng thiệt là lớn nhất. Lưỡng thiệt là xúi giục thị phi.(PS Tịnh Không - Tập 41 - Kinh TTNĐ)
+ I- Kinh Thập thiện, khẩu nghiệp gồm:
1. Nói Dối trá: Không Chân thật/ Thật Thà - Nói Ỷ ngữ - Nói A dua nịnh hót - Nói Thêu dệt - Nói Thêm Bớt
2. Nói Ác khẩu: Độc Ác - Nói Quát tháo - Nói Hung Ác - Nói Nhục mạ, Phỉ báng mang đến khổ đau cho người.
3. Nói lưỡng thiệt: Nói Hai Lưỡi - Đôi Chiều - Đòn Sóc 2 đầu gây hiểu lầm, chia rẽ, hận thù.
4. Nói Ỷ ngữ: Lời Vô Nghĩa - Nhảm Nhí - Phù Phiếm
+ Chất Lượng Lời Nói_Đức Phật dậy
- Nói đúng lúc,
- Nói chân thật,
- Nói đúng pháp,
- Nói đúng nghĩa,
- Nói về tịch tĩnh,
- Ưa nói về tịch tĩnh,
- Hợp thời,
- Hợp lý,
- Khéo dạy, khéo la mắng. Nguồn: mục 483- Tại đây
+ Lời Phật dậy khác cho Tu Sỹ, Thánh Hiền:
+ Các thầy phải: “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như chánh pháp”
+ Tránh lời nhuc mạ, phỉ báng: “Chớ nên phỉ báng một ai; Đừng gây tổn hại cho người xung quanh.
Lời nói phải chân thật, đúng lúc (phù hợp với hoàn cảnh (khế cơ)", hợp Chánh pháp, ích lợi cho mình và cho người.
=> Phải biết đối tượng và hoàn cảnh, trình độ nhận thức ở mức độ nào? Nếu không, dù lời nói đúng sự thật cũng trở thành phi pháp;
+ Sinh vào cảnh trời: Có hạnh “chân thật, nhẫn nại và bố thí”. Đức Phật giải thích là các hạnh đó tuy nhỏ vẫn có thể dẫn đến các cõi Trời. (Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo)
+ Lời Nói Thận Trọng: ... "Thận trọng lời nói" có nghĩa là đừng mặc tình nói những gì mà mình thích nói. "Giữ gìn tâm ý" có nghĩa là giữ cho tâm ý mình đừng lang thang, giữ cho tâm không sinh vọng tưởng. Đừng truy cầu sự thuận lợi. "Hành vi chớ thô tháo." Giữ cho thân không phạm những nghiệp xấu.
"Đừng gây xúc não cho hết thảy mọi loài chúng sinh." Có nghĩa là đối với hết thảy mọi người cũng như mọi loài chúng sinh nào tiếp xúc với mình, đừng khiến cho họ sinh khởi phiền não. Đừng gây não loạn cho mọi loài chúng sinh. Ngay cả những người đồng tu với mình, cũng đừng gây phiền nhiễu cho họ. Đôi khi mình vô tình gây ra những lỗi lầm khiến cho sinh hoạt của họ phải bị xáo trộn; trong trường hợp như vậy, quý vị nên tìm cơ hội thuận tiện để giải thích và đừng để tình trạng đó tiếp diễn nữa.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Lời Nói - Trên đời nầy có ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật (Tăng Chi Bộ_đoạn 28)
+ Vọng Ngữ: Người học Phật hiện tại lắm kẻ tự thị ta đã khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đã đắc thần thông đến nỗi làm lắm kẻ khác bị lầm theo. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc lâm chung, cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, khó tránh khỏi địa ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm cái thói ham cao, ưa thắng, dối mình, lừa người ấy; nếu trót dính vào thì phải sửa ngay. Còn ai không vướng phải thói ấy thì càng phải cố tránh. Thật rất mong mỏi vậy.
Sát, trộm, dâm… đều là trọng tội; nhưng vẫn còn có người biết những hành vi ấy chẳng tốt, không phải ai cũng mắc phải nên những tội ấy còn ít. Nếu chẳng tự lượng, phạm tội đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng đã nói chứng để lãnh đạo những hạng vô tri thì tội ấy càng nặng nề lắm. Hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, mê lầm, tội ấy chẳng thể hình dung được nổi!
Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng hư trương thanh thế, bôi mặt, bày trò thì dù có tu hành cũng bị cái tâm kiêu hư ấy phá hoại quá nửa. Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữ là Căn Bản Giới, nhằm để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu chơn tu, thực chứng.
Thế nên, người tu hành chẳng được hướng về người khác khoe khoang công phu của chính mình. Nếu như vì chẳng hiểu rành rẽ, muốn cầu thiện tri [thức] khai thị, ấn chứng thì có thể tự trần thuật đúng ngay sự thực, chứ chẳng thể tự kiêu nói quá lên, cũng bất tất phải tự khiêm nói giảm đi, cứ nói đúng theo tình huống chân thật thì mới là đệ tử Phật chơn chánh, mới có thể ngày một tiến bộ hơn.(ẤN QUANG ĐẠI SƯ_Facebook Sơn Nguyên))
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Lời thù ghét (word of hate), lời nói độc ác, vốn hủy hoại những người cảm nhận ảnh hưởng mạnh của nó, là câu chuyện phiếm độc hại, được truyền đi vì nó gây ra một sự chấn động – những lời này giết chết những sự thôi thúc mong manh của linh hồn, cắt tận gốc rễ của sự sống, và vì thế đưa đến cái chết.
Nếu được nói dưới ánh sáng ban ngày, chúng sẽ mang lại sự trừng phạt xứng đáng; khi được thốt ra và được ghi nhận là những lời dối trá, chúng củng cố cho thế giới ảo tưởng mà người nói đang sống trong đó, và ngăn giữ y thoát ra.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó.(LVHLT, 474)
+ Ngũ Giới:
+ Nói lời hung ác: Là nói những tiếng thô tục cộc cằn chửi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ 2. Không mắng nhiếc, mạ lỵ, phỉ báng, nhục mạ - Gây đau lòng, tổn thương: Không xúc phạm = lời nói hung ác, xiên xỏ, nguyền rủa, phỉ báng, nhục mạ, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời, lời nói cộc cằn, thô lỗ. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa. Nên nói lời hoà nhã, dịu dàng, hiền hậu, đạo đức, từ bi, lợi lạc ai nghe cũng hân hoan, kính trọng. Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo
+ Phỉ báng hay Hủy báng Tam Bảo, bất luận bạn cố ý, vô ý đều là tội nặng, trong các ác nghiệp chẳng có thứ nào nặng hơn chuyện này. Bạn giết hại một người, giết hại sanh mạng, trong Kinh nói 49 ngày thì người đó đi đầu thai trở lại (Nếu họ còn phước báo ở nhân gian), do đó tội sát sanh nhỏ, tội đoạn dứt huệ mạng của chúng sanh mới lớn (Gặp Phật Pháp rất khó). (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Tất Cả Đức Phật đều khuyên tránh lời nhuc mạ, phỉ báng:
“Chớ nên phỉ báng một ai
Đừng gây tổn hại cho người xung quanh
Giữ gìn giới luật nghiêm minh
Uống ăn chừng mực cho thành thói quen
Lánh riêng sống chỗ tịnh yên
Chuyên tu thiền định, hướng miền thanh cao
Lời chư Phật dạy lành sao!”
Xem: Chánh ngữ trong Phật Giáo
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Các loại Khổ đau: Trích Kinh Đức Phật giảng cho ngài Phú Lâu Na.
Không phải là khổ là tập; chẳng phải là diệt là đạo. Không phải là trí là đắc.
HT Tuyên Hóa giảng giải:
BA THỨ KHỔ: Trên đời nầy có nhiều loại khổ. Trước tiên có ba thứ khổ, rồi lại có tám thứ khổ.
Ba thứ khổ là: Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
- Khổ khổ là tâm trạng của người nghèo cùng. Chẳng hạn, nghèo tự nó đã là khổ, và nó trở thành khổ khổ khi người nghèo mắc bệnh, mà không có tiền để đi bác sĩ. Hoặc là người nghèo cùng ấy sống trong ngôi nhà dột nát, thình lình mùa mưa gió đến. Sống trong ngôi nhà dột nát đã khổ rồi, bị mưa dột khắp nơi trong nhà lại càng khổ hơn, chẳng có khác gì như ở ngoài trời cả.
Khổ khổ xảy ra khi người ta phải chịu đựng cảnh nghèo, thêm vào đó là không một đồng xu dính túi, không có tiền mua thức ăn, quần áo. Hoặc là có người đã không có tiền, đột nhiên nghe tin cha mình mất và không có tiền để mua quan tài.
- Hoại khổ xảy đến đối với người giàu có. Bình thường họ giàu có, rồi đến khi của cải bị tiêu tan. Chẳng hạn, có người làm ra rất nhiều tiền nhưng cất kỹ tiền trong nhà mình chứ không gởi vào ngân hàng. Đến khi nhà họ bị cháy, toàn bộ của cải bị thiêu sạch. Hoặc là vàng bạc của cải bị kẻ cắp lấy mất. Hoặc là, quý vị giữ kỹ tiền bạc của mình đến mức đi đâu cũng mang theo bên mình, không bao giờ rời, cho đến khi mình sơ ý và bị mất sạch.
- Hành khổ là cái khổ trong tiến trình sinh trưởng. Dù quý vị không trải qua khổ khổ như những người nghèo, không trải qua hoại khổ như những người giàu, nhưng quý vị vẫn có nỗi khổ khi trải qua thời thơ ấu cho đến trưởng thành, đến trung niên và đến lúc già chết. Tiến trình nầy diễn ra từ từ không dứt, và đó cũng là cái khổ. Đó là ba thứ khổ.
BÁT KHỔ ĐỜI NGƯỜI
1- Đầu tiên trong tám thứ khổ (bát khổ) là sinh khổ. Khi đứa trẻ vừa mới chào đơi, điều đầu tiên chỉ biết khóc.[8] Đứa bé không thể tự diễn đạt điều gì rõ ràng, nhưng khóc biểu hiện sự khổ. Cái đau lúc sinh ra giống như cái đau của con rùa đang còn sống mà bị bóc cái mai ra khỏi thân. Khi đứa trẻ vừa được sinh ra, mới tiếp xúc với không khí lần đầu, cái đau của nó cũng như vậy.
2- Cái khổ thứ hai là già khổ. Khi về già, người ta không điều khiển được tai mắt và tay chân. Họ không thể đi đây đó và thức ăn trở nên vô vị. Khi tuổi già đến, toàn cơ phận trong thân thể bắt đầu xuống cấp. Đó là lý do tại sao tuổi già trở nên kỳ quặc và hay cáu gắt. Họ chẳng khác gì đứa trẻ con, thế nên quý vị đừng trách móc tính tình họ làm gì.
3- Cái khổ thứ ba là bệnh khổ. Mọi sự trên thế gian nầy dường như là không công bằng cho lắm, nhưng bệnh tật thì hoàn toàn không thiên vị đối với một ai. Bất luận quý vị là giàu hay nghèo, sinh trong giòng dõi sang trọng hay nghèo hèn, ai cũng cảm thấy lo lắng bực dọc khi bệnh đến.
4- Cái khổ thứ tư là chết khổ. Cũng như vậy, đối với tất cả mọi người. Đến lúc mọi người ai cũng phải chết, bất luận người ấy là ai.
5- Cái khổ thứ năm là ái biệt ly khổ. Cái khổ phải xa lìa người thân yêu. Ai cũng biết yêu là gì, nhưng không ai nhận ra được có cái khổ trong sự yêu đương ấy–đó là nỗi khổ phải tách rời người mình yêu. Bất luận quý vị quý mến người mình thương bao nhiêu, cũng có lúc mình phải rời xa họ. Có những hoàn cảnh phát sinh khiến phải xa lìa, đó là nỗi khổ.
6- Cái khổ thứ sáu là oán tắng hội khổ. Cái khổ phải kết hợp với người mình không thích. Quý vị thực sự không thích một hạng người nào đó, nhưng quý vị cứ gặp hạng người ấy bất kỳ mình đi đâu.
7- Cái khổ thứ bảy là cầu bất đắc khổ. Cái khổ khi mong muốn những điều mà không thể đạt được.
8- Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Do sắc - thọ - tưởng - hành - thức dữ dội lừng lẫy. Do vô minh mà tạo ra vô lượng nghiệp xấu ác, đến khi đời sống phải thọ quả báo khổ nạn nhiều.
Trong đoạn văn này, do dạy rằng trong Như Lai tạng là không có tứ đế–chẳng có khổ, tập, diệt, đạo đế. Tập chỉ cho phiền não và diệt chỉ cho đạo lý để chứng đắc niết-bàn. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Các loại khổ
... Hơn nữa, bốn hoằng thệ nguyện cũng là chiếu theo ba khổ: Khổ khổ, Hành khổ, Hoại khổ của chúng sanh mà phát ra.
Khổ khổ chính là những nghèo cùng khốn khổ của chúng sanh.
Hoại khổ chính là chúng sanh dù được giàu sang, nhưng sự giàu sang đó hư hoại đi.
Hành khổ chính là đã không phải bị khổ sở vì nghèo thiếu, cũng không phải là giàu sang bị hư hoại, mà là hành khổ của vô thường biến đổi. Từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, suốt cả một đời niệm niệm đổi dời, cho nên có ba khổ.
Tám khổ: Sanh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh. Sanh là khổ, già là khổ, có bệnh là khổ, lúc chết lại càng khổ, sanh già bệnh chết đều là khổ; Ái biệt ly khổ là nỗi khổ đối với người mình yêu thích mà vì hoàn cảnh nào phải xa lìa. Yêu mà phải xa lìa là một thứ khổ, mà không yêu lại thường hội tụ ở một chỗ cũng là một thứ khổ, đó gọi là Oán Tắng hội khổ. Ví dụ: Mình không thích người ấy, ở một nơi nào đó lại chạm mặt với người ấy và cùng làm việc chung với họ, nỗi ấy gọi là Oán tắng hội khổ. Lại có một thứ gọi là Cầu bất đắc khổ, nghĩa là không toại lòng mong muốn, mong muốn được mà không thể được. Khi chưa được thì lo lắng cho được, khi đã được rồi thì sợ mất mát. Nhưng cái thứ khổ lo được lo mất không kể gì lợi hại, chính là Ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm thứ này giống như là ngọn lửa cháy bừng bừng. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, năm ấm này giờ giờ khắc khắc đều đi theo trên thân thể chúng ta gây nên vô vàn sự thống khổ.
Ngoài tám khổ ra còn có vô lượng vô biên khổ nữa. Tại sao có quá nhiều khổ như vậy? Ðó là vì chúng ta trong đời quá khứ gieo trồng quá nhiều nhơn khổ, cùng làm bạn bè với chúng mà không muốn xa lìa, vì thế gieo trồng nhơn duyên của khổ này mà nhận lấy khổ quả. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
474. NỢ TIỀN
Có người tạo nghiệp bất thiện, tất phải thọ khổ là quả báo trong địa ngục. Nghĩa là, có một người không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, thọ mạng rất ngắn. Đó là có người tạo nghiệp bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả báo trong địa ngục. Cũng như có người nợ kẻ khác năm tiền, bị chủ bắt trói; cho đến chỉ nợ một tiền cũng như bị chủ nợ bắt trói. (Trung A Hàm, Kinh Diệm Dụ, Phẩm 2, số 11)
+ PHÁP NIỆM:
465. NIỆM BẤT THIỆN
Thế nào gọi là niệm bất thiện? Suy niệm về niệm dục, niệm nhuế, niệm hại. Đó gọi là niệm bất thiện.
Niệm bất thiện này phát sanh từ đâu? Ta nói chỗ phát sanh của chúng, nên biết là phát sanh từ tưởng. Thế nào gọi là tưởng? Ta nói hành trạng của tưởng có nhiều loại, đa chủng, vô lượng chủng, hoặc dục tưởng, nhuế tưởng, hại tưởng.
Chúng sanh do tưởng dục giới mà sanh niệm bất thiện tương ưng với dục giới. Nếu có tưởng thì vì nhân nơi tưởng đó cho nên sanh niệm bất thiện tương ưng với dục giới.
Chúng sanh do tưởng nhuế giới, hại giới cho nên sanh niệm bất thiện tương ưng với nhuế và hại giới. Nếu có tưởng thì vì nhân nơi tưởng đó cho nên sanh niệm bất thiện tương ưng với nhuế, hại giới. Đó là niệm bất thiện phát sanh từ tưởng này.
Niệm bất thiện bị diệt trừ không còn dư tàn ở chỗ nào, bị bại hoại không còn dư tàn ở chỗ nào? Nếu Đa văn Thánh đệ tử ly dục, ly pháp ác bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền, thành tựu và an trụ, đây là niệm bất thiện bị diệt trừ không còn dư tàn, bị bại hoại không còn dư tàn.
Hiền thánh đệ tử làm thế nào để diệt trừ niệm bất thiện? Nếu Đa văn Thánh đệ tử quán nội thân như thân, cho đến quán thọ, tâm, pháp như pháp; như vậy là Hiền thánh đệ tử đã diệt trừ niệm bất thiện. (Trung A Hàm, Kinh Ngũ Chi Vật Chủ, Phẩm 14, số 179)
466. NIỆM DỤC HẠI MÌNH VÀ NGƯỜI
Ta thực hành như vầy. Sống viễn ly, cô độc, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nếu sanh niệm dục, Ta liền biết là đang sanh niệm dục, hại mình, hại người, hại cả hai, diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc, không chứng đắc Niết-bàn. Biết rằng, hại mình, hại người, hại cả hai, diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc, không chứng đắc Niết-bàn, nó liền tiêu diệt nhanh chóng. (Trung A Hàm, Kinh Niệm, Phẩm 9, số 102)
467. NIỆM NHƯ LAI
Đó là bạch y Thánh đệ tử niệm tưởng Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Nhớ nghĩ Như Lai như vậy rồi, nếu có những ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử nương vào Như Lai, tâm tịnh được hỷ, nếu có những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt.
Như vậy, bạch y Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ nhất, hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không phải khó được. (Trung A Hàm, Kinh Ưu-bà-tắc, Phẩm 11, số 128)
469. NIỆM THÂN
Tỳ-kheo khi đi thì biết mình đang đi, đứng thì biết mình đang đứng, ngồi thì biết mình đang ngồi, nằm thì biết mình đang nằm, ngủ thì biết mình đang ngủ. Như vậy, Tỳ-kheo tùy thân hành mà biết đúng như thật như vậy. Tỳ-kheo như thế, sống cô độc, viễn ly, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ các tai hoạn của tâm và được định tâm. Được định tâm rồi thì biết trên như thật. Ấy là Tỳ-kheo tu tập niệm thân. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Thân, Phẩm 7, số 81)
470. NIỆM THIỆN
Thế nào gọi là niệm thiện? Suy niệm về niệm vô dục, niệm vô nhuế, niệm vô hại. Đó gọi là niệm thiện.
Niệm này phát sanh từ đâu? Ta nói chỗ phát sanh của chúng, nên biết là phát sanh từ tưởng. Thế nào gọi là tưởng? Ta nói hành trạng của tưởng có nhiều loại, đa chủng, vô lượng chủng, hoặc vô dục tưởng, vô nhuế tưởng, vô hại tưởng.
Chúng sanh do tưởng trong vô dục giới cho nên sanh niệm thiện tương ưng với vô dục giới. Nếu có tưởng thì vì nhân nơi tưởng đó cho nên sanh niệm thiện, tương ưng với vô dục giới.
Chúng sanh do tưởng trong vô nhuế, vô hại giới cho nên sanh niệm thiện tương ưng với vô nhuế, vô hại giới. Nếu có tưởng thì vì nhân nơi tưởng đó cho nên sanh niệm thiện tương ưng với vô nhuế, vô hại giới. Đó là niệm thiện phát sanh từ tưởng này. (Trung A Hàm, Kinh Ngũ Chi Vật Chủ, Phẩm 14, số 179)
471. NIỆM THIỆN ĐỐI TRỊ BẤT THIỆN
Tỳ-kheo khi sanh niệm ác bất thiện, liền niệm điều thiện để đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như người thợ mộc hoặc học trò thợ mộc, kéo thẳng dây mực, búng lên thân cây rồi dùng búa bén mà đẽo cho thẳng. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Xứ, Phẩm 9, số 98)
472. NIỆM XỨ QUÁN THÂN NHƯ THÂN
Tỳ-kheo khi đi thì biết mình đi, đứng thì biết mình đứng, ngồi thì biết mình ngồi, nằm thì biết mình nằm, ngủ thì biết mình ngủ, thức thì biết mình thức, ngủ say thì biết mình ngủ say. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Xứ, Phẩm 9, số 98)
+ Hoan hỷ (Joy): Là một tính chất của linh hồn và được nhận thức trong thể trí, khi sự chỉnh hợp xảy ra. (LVHLT, 369)
+ 468. NIỀM HỶ LẠC CỦA XUẤT GIA VÀ TẠI GIA
Này Phạm chí, nếu người tại gia mà được tiền tài tăng trưởng, kim ngân, chơn châu, lưu ly, thủy tinh đều được tăng trưởng; súc mục, lúa gạo và nô tỳ, sai dịch cũng đều được tăng trưởng. Lúc bấy giờ tại gia là khoái lạc, hoan hỷ. Do sự kiện này mà người tại gia có nhiều khoái lạc hoan hỷ.
Người xuất gia học đạo sống không tùy theo dục vọng, không tùy theo sân nhuế, lúc bấy giờ xuất gia học đạo là khoái lạc hoan hỷ. Do sự kiện này mà người xuất gia học đạo có nhiều khoái lạc hoan hỷ.
Như vậy người tại gia vì tự do mà được hoan lạc, người xuất gia vì không tự do mà được hoan lạc. (Trung A Hàm, Kinh Văn Đức, Phẩm 12, số 147)
+ BÍ QUYẾT NIỆM PHẬT LÀ: Ý NIỆM VỪA MỚI KHỞI LÊN THIỆN NIỆM CŨNG ĐƯỢC, ÁC NIỆM CŨNG ĐƯỢC, NHẤT ĐỊNH CHẲNG ĐOÁI HOÀI, NGAY LẬP TỨC ĐỔI NÓ THÀNH A DI ĐÀ PHẬT. ĐỔI CHO NHANH, CÀNG NHANH CÀNG HAY, CHỚ ĐỂ CHO Ý NIỆM ẤY TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG; (Ps Tịnh Không giảng)
+ PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT CHẤN ĐỘNG HƯ KHÔNG PHÁP GIỚI: Nếu người niệm Phật không có tư tâm, không có vọng tưởng, phân biệt và chấp trước, "Tâm bao thái hư, Lượng chu sa giới", mỗi tiếng Phật hiệu mà niệm, đều có thể chấn động hư không pháp giới. Người niệm Phật này còn thù thắng hơn, so với mười ngàn người ở niệm Phật đường; Hòa Thượng Tịnh Không (Xem bài)
+ Niệm Phật - Bồ tát không được nghi ngờ:
Niệm niệm chớ sanh nghi
Bậc Tịnh thánh Quán Âm
Trong khổ não tử ách
Giúp đỡ, làm chỗ nương.
Niệm niệm chớ sanh nghi: Lúc chúng ta niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì đừng bao giờ sanh lòng nghi ngờ. Chớ nên nghĩ như thế này: "Niệm có ích gì không? Niệm Bồ-tát Quán Thế Âm há chẳng phải là không có ý nghĩa gì?" Mỗi ngày đều niệm Bồ Tát Quán Thế Âm và cần nhất là không nên có tâm hoài nghi. Dù chỉ trong một niệm cũng không nên sanh tâm hoài nghi, mà phải nên sanh lòng tin vững chắc. (Nguồn: Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Âm tuyệt định nhân gian trong Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa)
+ Niệm Phật đúng như Pháp vài tiếng Niệm - Quỷ liền lui. Mời xem (Xem bài viết)
+ Niệm Phật Với Người Bận Rộn: Nếu như công việc chân thật rất bận rộn cũng có thể rút ra chút thời gian để tu hành, đó chính là khi tôi ở Singapore đề ra phương pháp mười niệm, có hiệu nghiệm, phù hợp với nguyên tắc mà tịnh tông đưa ra. Tôi đưa ra phương pháp tập niệm này là 1 ngày 9 lần, 1 lần đại khái chỉ có 1 đến 2 phút, chính là niệm 10 câu Phật hiệu, niệm 10 câu A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật…trong 10 câu Phật hiệu này không có hoài nghi, không có xen tạp, đó gọi là tịnh niệm. 10 câu dễ niệm, nếu khi nhiều thì vọng niệm khởi lên, 10 câu vọng niệm không dễ xen tạp vào. Sáng sớm khi thức dậy niệm 10 câu, sau khi rửa mặt xong, có tượng Phật thì đối mặt với tượng Phật, không có tượng Phật thì mặt quay về hướng tây, niệm 10 niệm chỉ 1-2 phút, không có việc gì có thể chướng ngại, trước khi đi ngủ, khi xúc miệng xong cũng niệm 10 câu, sớm tối 2 lần. Trong 3 bữa cơm, trước khi ăn cơm, mọi người niệm chú cúng dường, ta niệm 10 câu A Di Đà Phật, bạn xem như vậy là được 5 lần rồi. Còn lại 4 lần, sáng sớm khi đi làm chưa vào ca, trước tiên niệm mười câu Phật hiệu, rồi xử lí công việc, tan ca cũng là như vậy, sau khi tan ca thâu gọn sạch sẽ, niệm 10 câu Phật hiệu, rồi mới rời khỏi vị trí của mình, buổi sáng 2 lần, buổi chiều 2 lần, 1 ngày 9 lần, bạn chỉ cả đời như vậy, không gián đoạn ngày nào, khẳng định có hiệu quả. Việc này dễ làm, khi làm bất cứ nghề nghiệp gì cũng không bị chướng ngại.(PS Tịnh Không giảng)
+ Pháp môn niệm Phật có bốn cách: 1/ Quán tưởng niệm Phật, 2/ Quán tượng niệm Phật, 3/ Thật tướng niệm Phật, 4/ Trì danh niệm Phật.
1. Quán tưởng niệm Phật: Chính là quán tưởng toàn thân sắc vàng của Phật A Di Ðà tướng hảo quang minh không sánh ví, toàn thân của Phật A Di Ðà phóng ra ánh sáng sắc vàng. Tướng hảo là thành tựu công đức viên mãn, đầy đủ ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng của Ngài không sánh ví. Xem thấy tướng sáng lông trắng giữa chặn mày của Phật A Di Ðà to lớn xoay quanh như năm hòn núi Tu Di. Mắt của Ngài to như bốn biển lớn, cho nên quý vị làm sao thấy được thân to lớn của Phật A Di Ðà?
Ở trong ánh sáng của Phật A Di Ðà hóa hiện ra rất nhiều Phật. Chẳng những hóa ra hình tượng của Phật mà còn hóa hiện ra hình tượng của Bồ-tát nữa. Phật A Di Ðà có bốn mươi tám lời nguyện cứu độ tất cả chúng sanh khiến cho đều lên chín phẩm sen vàng được giải thoát.
Chín phẩm có Thượng phẩm, Thượng trung phẩm, Thượng hạ phẩm, Trung thượng phẩm, Trung trung phẩm, Trung hạ phẩm, Hạ thượng phẩm, Hạ trung phẩm, Hạ hạ phẩm. Hoa sen ở mỗi phẩm lại chia làm chín phẩm, thành ra 9 x 9=81 phẩm. Có được tám mươi mốt phẩm, tất cả chúng sanh sẽ đến bờ bên kia, tức là Niết-bàn.
2. Quán tượng niệm Phật: Ðó là cúng dường một tôn tượng Phật A Di Ðà. Niệm Phật cách này chính là quán nhìn tượng Phật A Di Ðà, càng lâu càng kỹ mới được thành công.
3. Thật tướng niệm Phật: Chính là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm. Bạn muốn không niệm cũng không được. Nó giống như giòng nước, tự mình ở trong đó thì niệm ra Phật; niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, miên miên mật mật, đạt đến cảnh giới ấy chính là Niệm Phật Tam-muội, cũng chính là thật tướng niệm Phật.
4. Trì danh niệm Phật: Tức là chuyên niệm Phật A Di Ðà, mở miệng ngậm miệng, đi, đứng đều niệm A Di Ðà. Niệm cần phải niệm cho rõ ràng, lỗ tai phải nghe cho rõ ràng, tâm cũng phải nhớ cho rõ ràng; ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh niệm Phật, tâm không vọng tưởng. Miệng không có bốn nghiệp ác: Mắng chửi, nói thêm, nói láo, nói đâm thọc. Thân không có ba nghiệp ác: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm. ý không tham, sân, si. Ðó là dùng ba nghiệp thanh tịnh để niệm Phật. Thân, khẩu, ý thanh tịnh mà niệm Phật thì niệm niệm thanh tịnh, niệm niệm Phật như vậy. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà Phật)
+ Bí quyết thời khóa Tu đều đặn: Tu Hành, cần định khóa sớm tối, bạn duy trì đều chỉ 5 phút mỗi thời khóa, không có gián đoạn, sẽ thành tựu hơn nhiều là mỗi thời 30 phút nhưng ngày có ngày không, là giải đãi, chẳng thể thành tựu (PS Tịnh Không)
+ Niệm Phật: Trong kinh Đại Tập, đức Phật dạy: “Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu", tức Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ (Nguồn)
+ Pháp Niệm Phật: Ðức Phật dạy, có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. (Tăng Chi Bộ Kinh).
+ Trì danh - Trì niệm Phật - Bồ Tát - Thánh hiền
Nếu có người trì danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ-tát này đặng như vậy. Nếu có người bị nước xiết cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền gặp chỗ cạn.
Ðoạn văn kinh này nói về Bồ Tát Quán Thế Âm cứu độ chúng sanh thoát khỏi nạn lửa và nạn nước, hai nạn đầu trong bảy nạn. Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm này. “Nếu có,” là bây giờ chưa có, tương lai có thể có. Giả sử có một người ở tình huống ấy mà trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. “Trì” là nắm chắc, nghĩa là không quên, cũng tức là tâm tâm niệm niệm đều chấp trì câu: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Thì dầu vào trong đám lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng. Song, đây ý là nói người ấy bình thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, mà không phải là nói đợi đến khi bị vây hãm trong đám lửa lớn mới niệm danh hiệu Ngài, không phải là bảo bây giờ mới đốt hương, bây giờ mới niệm Phật, cũng không phải là nói hôm nay có tai nạn, hôm nay mới niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Có câu là: “Bình thường chẳng đốt hương, gặp việc ôm chân Phật.” Lúc rảnh, một cây hương cũng không đốt, gặp việc gấp mới chạy ôm chân Phật cầu xin cứu nạn cho. Lúc ấy dù cho quý vị ôm bắp vế của Phật, nhưng Phật cũng không có để mắt tới đâu. Tại sao thế? Vì lúc bình thường quý vị không chịu tu hành, đến chừng gặp nạn mới cầu cứu với Phật, đó gọi là “bây giờ mới đốt hương, bây giờ mới niệm Phật.”
Lại còn có một hạng người, lúc bình thường cũng chưa đốt hương chưa niệm Phật, nhưng lúc có nạn gấp, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng cứu giúp họ, khiến họ lìa khổ đượĩc vui. Thế nghĩa là sao? Quý vị biết rằng, mỗi người chúng ta đều có nhân trước quả sau. Ở đời trước, có thể người ấy đã từng dũng mãnh tinh tiến tu hành, gắng sức dụng công niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thậm chí đã từng tạo ra các thứ công đức, đời này dù không có niệm mà nhờ đời trước đã trì niệm, đã từng gieo trồng căn lành, nên ở đời này dù người ấy không niệm mà Quán Thế Âm Bồ Tát vẫn đến cứu giúp cho. Ấy là nhờ có nhân xa mà được. Về nhân, có nhân xa mà cũng có nhân gần. Nhân xa là nhân gieo trồng từ đời trước, nhân gần là nhân gieo trồng ở đời này.
Có người nói: “Ðời trước có thể tôi đã gieo nhân rồi, bây giờ không cần phải niệm nữa. Tương lai tôi có mắc nạn, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng sẽ đến cứu tôi.” Ðiều đó không lấy gì chắc lắm. Quý vị yêu cầu tôi bảo đảm, tôi cũng không dám! Nếu như quý vị ngay từ bây giờ bắt đầu thành tâm thành ý niệm đi, thì tôi có thể bảo đảm với quý vị, chắc chắn có thể được cảm ứng, tương lai nếu quý vị có tai nạn chi, Bồ Tát Quán Thế Âm nhất định sẽ đến cứu quý vị. Vì bởi quý vị không phải là “bây giờ đốt hương, bây giờ cảm ứng” thì tuyệt đối sẽ có cảm ứng.
Trước kia có một người nhất tâm mong muốn đi Phổ Ðà Sơn ở Nam Hải để triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng mà trong thiên hạ lại có lắm chuyện trớ trêu! Ngày ông ta lên thuyền để đi Phổ Ðà Sơn triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm thì nhà kế bên phát hỏa, bốc cháy. Người nhà ông ta chạy đến báo tin: “Không xong rồi! Anh phải về mau! Ðừng đi Phổ Ðà Sơn nữa. Nhà kế bên chúng ta bị cháy rồi, anh phải về lo thu xếp mới được.”
Người ấy nói: “Tôi vì muốn triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm nên đã trường chay ba năm rồi, bây giờ đã lên thuyền sắp đi. Nhà nếu phải cháy, thì dầu tôi có rời thuyền thì nhà cũng vẫn cháy. Nếu không đáng cháy, nhờ sức bảo hộ của Bồ-tát, dầu tôi không xuống thuyền nhà cũng không cháy được. Với thành tâm này, tôi đâu có thể vì nhà cháy mà không đi lễ Bồ-tát Quán Thế Âm!”
Ðối với ông ta lúc đó, việc nhà cháy cũng mặc kệ, chỉ quyết định nhất tâm đi lễ Bồ Tát Quán Thế Âm mà thôi. Sau khi ông ta đi triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm ở Phổ Ðà Sơn trở về, nhìn thấy làng xóm hai bên đều trống không vì bị lửa ngốn, chỉ còn độc ngôi nhà mình nguyên vẹn. Vì thế có người hỏi: “Tại sao mấy nhà xung quanh bị cháy hết mà nhà anh không bị cháy?” Anh ta đáp: “Nhờ tôi thành tâm đi lễ Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi đi, thứ gì tôi cũng buông xả hết, cái gì cháy cứ cháy, tôi cho cháy tuốt, đều không màng đến. Ðó là nhờ Bồ Tát Quán Thế Âm bảo hộ cho đấy! Nhờ oai lực của Ngài cứu giúp nên nhà của tôi mới được nguyên vẹn như thế!”
Ðó là bằng chứng: “Giả sử vào trong đám lửa lớn, lửa không thể cháy được.”
Do nhờ sức oai thần của Bồ-tát này. Tại sao lửa không thể cháy được? Vì Bồ Tát Quán Thế Âm có oai thần lực lớn nên lửa không thể cháy được.
Nếu bị nước xiết cuốn trôi. Nếu bình thường quý vị niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, hoặc là vô ý – chớ không phải muốn thử nghiệm Bồ Tát Quán Thế Âm mà nhảy xuống biển xem có linh nghiệm chẳng bị chìm hay không? Nếu quý vị có ý muốn thử, không phải thật lòng tin thì tuyệt đối không linh nghiệm đâu. Quý vị nhảy xuống biển chắc chắn sẽ chìm ngay. Tại sao? Tại quý vị có tâm muốn thử Bồ-tát. Bồ Tát Quán Thế Âm đâu phải học trò, quý vị cũng không phải là thầy giáo, tại sao quý vị lại muốn thử nghiệm Bồ Tát Quán Thế Âm? Tại vì quý vị không tin Bồ Tát Quán Thế Âm có những thần thông như thế nên mới thử nghiệm xem. Sự thử nghiệm đó không sao, nhưng lại là đem sinh mạng của mình làm vật hy sinh đấy! Không nên đem sinh mạng làm trò cười, để đánh cuộc như vậy!
Xưng danh hiệu Bồ-tát này liền gặp chỗ cạn. Quý vị xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm thì bất ngờ gặp được chỗ cạn. Ở trong biển lớn thì làm sao đến được bờ kia? Ðó là nhờ oai lực của Bồ Tát Quán Thế Âm mới có sự cảm ứng như thế. Bất cứ là người nào, nếu muốn giải trừ các khổ não của bảy nạn, thì trước phải thường thường cung kính xưng niệm danh hiệu Ngài. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa)
+ Thấy Nghe hoặc niệm Địa Tạng Bồ Tát đều được lợi ích thù thắng:
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Ông có đại nhân duyên với thế giới Ta Bà. Nếu hàng trời hoặc rồng, hoặc kẻ nam người nữ, hoặc thần hoặc quỷ, cho đến các chúng sanh tội khổ trong Lục Đạo nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, mến tưởng đến ông, khen ngợi ông, thì những chúng sanh ấy đều ở nơi Đạo Vô Thượng quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng đủ sự vui vi diệu; khi nhân quả sắp thành thục liền được gặp Phật thọ ký cho.
Thiện nam, tín nữ thấy được hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng hoặc nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, .. mà bố thí cúng dường, thì công đức phước lợi có được sẽ vô lượng vô biên.”
Hoặc lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa.
Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phục v. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài.
Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.”
.... Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Bồ Tát Địa Tạng có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Đề. Nếu nói về những việc lợi ích nhờ được thấy, được nghe của chư chúng sanh, thì trong cả trăm ngàn kiếp cũng không thể nói hết được. Mời xem chi tiết HT Tuyên Hóa giảng giải Kinh. (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát - Phẩm 12)
+ Bồ Tát Quan Âm khuyên người niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ; Trích Đường Về Cực Lạc - Hòa thượng Thích Trí Tịnh (Xem bài viết)
Xem thêm: Tổng hợp các bài hướng dẫn Niệm Phật Ba La Mật
Xem: Phật dậy Pháp Niệm Phật cho Người sơ cơ
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạo - Điểm đạo
Xem: TH Tương Ứng Của Thuật Ngữ Minh Triết - Tâm Linh Tu Hành
+ 467. NIỆM NHƯ LAI
Đó là bạch y Thánh đệ tử (Thiện nam, Tín nữ) niệm tưởng Như Lai / Phật, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Nhớ nghĩ Như Lai như vậy rồi, nếu có những ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử nương vào Như Lai, tâm tịnh được hỷ, nếu có những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt.
Như vậy, bạch y Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ nhất, hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không phải khó được. (Trung A Hàm, Kinh Ưu-bà-tắc, Phẩm 11, số 128)
+ Nhớ Phật - Bồ Tát nhiệm mầu: ... Đức Đại Thế Chí Pháp Vương Tử, có năm mươi hai vị Bồ Tát đồng hàng với Ngài, liền từ tòa ngồi đứng dậy, lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: Con nhớ về hằng hà sa kiếp xưa kia, có đức Phật ra đời, hiệu là Vô Lượng Quang, trong một kiếp mười hai đức Như Lai nối nhau ra đời. Đức Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Ngài dạy con pháp niệm Phật Tam muội.
Ví như có người: một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế, dù có gặp nhau, cũng như không gặp, hoặc có thấy nhau, cũng như không thấy. Hai người nhớ nhau, thời hai nhớ in sâu, cứ như thế mãi, từ kiếp này qua kiếp khác, như bóng in hình, chẳng xa trái nhau.
Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh, như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh, mẹ nhớ ích gì? Con nhớ mẹ, như khi mẹ nhớ con, mẹ con trải qua nhiều kiếp chẳng xa trái nhau.
Nếu tâm chúng sinh, nhớ Phật niệm Phật, đời này đời sau, quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng phải nhờ phép phương tiện, mà tự mở ngộ tâm mình. Ví như người nhiễm mùi hương, mình có hơi hương, như thế gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Nhân địa con xưa, nhờ tâm niệm Phật, được vào pháp Nhẫn Vô Sinh. Nay ở cõi này, tiếp người niệm Phật về cõi tịnh.
Đức Phật hỏi pháp Viên Thông, con không hề lựa chọn, mà chỉ thu nhiếp sáu căn, nối liền tịnh niệm, được vào nơi chính định, đó là bậc nhất. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiệm - Chương Niệm Phật của Đại Thế Chí Bồ Tát)
+ Nhớ Phật Niệm Phật hay Bồ Tát tương lai nhất định thấy Phật, Bồ Tát hay Thánh Nhân:
Bồ Tát Đại Thế Chí nói : ‘’ Lúc nào bạn nghĩ nhớ Phật thì sẽ thấy Phật, trừ khi quên nghĩ nhớ thì không thấy Phật.’’ Pháp môn niệm Phật ví như mẹ con hai người, người niệm Phật là con, sở niệm Phật là người mẹ. Mẹ con sinh sống với nhau rất sung sướng, nhưng người con không giữ quy cụ, thích chơi đùa, chạy ra bên ngoài, không ở với người mẹ, lang thang phiêu bạt bên ngoài, chẳng có nghề nghiệp chính đáng. Lúc này, người mẹ luôn luôn tưởng nhớ con, có câu rằng : ‘’ Con đi ngàn dặm mẹ âu lo,’’ hôm nay nghĩ, ngày mai nghĩ, nghĩ không ngừng, nhưng người con không nghĩ đến người mẹ, lang thang bên ngoài không nhớ trở về. Trải qua nhiều năm sau đó, người con hốt nhiên nghĩ nhớ người mẹ, sinh ra hồi tưởng nhớ lại. Con nghĩ tưởng mẹ, mẹ nghĩ tưởng con, cùng nhau nghĩ tưởng, khởi lên tâm điện tác dụng tương thông, do đó :‘’ tâm điện cảm ứng ‘’, người con bèn trở về nhà cố hương của mình. Do đó : "Nhớ Phật niệm Phật, Hiện tiền tương lai, Nhất định thấy Phật".
Chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thì Phật tiếp dẫn chúng ta trở về cõi Phật. Chúng ta phiêu bạt lang thang bên ngoài làm người lưu lãng, không biết trở về nhà gặp mẹ. Vị Thiên Vương này nói : ‘’ Bất cứ lúc nào, bạn nhớ Phật niệm Phật, hoặc hiện tại thấy được Phật, hoặc là vị lai sẽ thấy được Phật.’’ Bạn niệm Phật không thấy Phật, bèn sinh tâm hoài nghi, cho rằng Kinh Phật nói không linh nghiệm. Phật thì không nói dối, pháp của Phật nói đều viên dung vô ngại. Bây giờ không thấy Phật, tương lai sẽ thấy Phật, hoặc là đời sau sẽ thấy Phật, nếu tâm thật niệm Phật thì hiện tại sẽ thấy Phật, tương lai sẽ thành Phật. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
458. NHỊ THIỀN LÀ CHƯA RỐT RÁO
Lại nữa, hoặc có một người được đệ Nhị thiền; được đệ Nhị thiền rồi, người ấy liền an trụ chứ không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện, rồi thì sanh tâm tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi liền xả giới bỏ đạo.
Như lúc mưa to, đất bụi ở nơi ngã tư đường đều thành bùn. Này chư Hiền, nếu có người nói như thế này: ‘Bùn ở nơi ngã tư đường này nhất định không khô ráo, không thể trở lại thành bụi đất được nữa’. Người ấy nói như vậy có đúng chăng?
Không đúng. Vì sao? Vì ngã tư đường này hoặc voi đi, ngựa đi, lạc đà, bò, lừa, heo, nai, trâu và người đi, gió thổi, mặt trời rọi, thì con đường kia bùn sẽ khô và khô rồi sẽ trở thành đất bụi trở lại.
Cũng như vậy, hoặc có người được đệ Nhị thiền; được đệ Nhị thiền rồi, người ấy liền an trụ không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ đạo. Này chư Hiền, đó gọi là có một người. (Trung A Hàm, Kinh Chi-ly-di-lê, Phẩm 7, số 82)
+ Lo âu phiền muội - Lo sợ ưu phiền - Lo lắng sợ hãi
Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
-- Có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu phiền muộn?
Thế Tôn đáp: Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có người nghĩ như sau: "Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy". Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này Tỷ-kheo, như vậy, có cái không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu, phiền muộn.
-- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể không gây lo âu phiền muộn?
Thế Tôn đáp: Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo, có người không nghĩ như sau: "Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy". Người đó không sầu muộn, than vãn, khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Như vậy, này Tỷ-kheo, có cái không thực có ở ngoài, không gây lo âu phiền muộn.
-- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn?
Thế Tôn đáp: Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo, có người có (tà) kiến như sau: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú không biến chuyển. Tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi". Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Người đó có thể nghĩ như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại". Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn.
-- Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn?
Thế Tôn đáp: Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có người không có (tà) kiến như sau: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi". Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chi mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Vị ấy không nghĩ như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại". Vị ấy không sầu muộn, than vãn, khóc lóc; vị ấy không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn.(Nguồn: 22.Kinh Ví Dụ Con Rắn)
455. NHẪN SỰ SỢ HÃI
Đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại sự sợ hãi. Khi sự sợ hãi phát sanh, trong tâm không hề bị vướng bận. (Trung A Hàm, Kinh Văn Đức, Phẩm 12, số 147)
+ Nhân nào quả đấy
Này bốn ông Thiên Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng nếu gặp kẻ sát sanh, thì dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải chết yểu.
Nếu gặp kẻ trộm cắp, thì dạy rõ quả báo bần cùng khổ sở.
Nếu gặp kẻ tà dâm, thì dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.
Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.
Nếu gặp kẻ hay hủy báng, thì dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.
Nếu gặp kẻ nóng giận, thì dạy rõ quả báo xấu xí, bệnh hoạn, tàn tật.
Nếu gặp kẻ bỏn xẻn, thì dạy rõ quả báo sở cầu không toại nguyện.
Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ, thì dạy rõ quả báo đói, khát, cổ họng đau đớn.
Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung, thì dạy rõ quả báo kinh cuồng, mất mạng.
Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ, thì dạy rõ quả báo trời đất đánh chết.
Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cối, thì dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.
Nếu gặp kẻ làm cha mẹ trước hoặc cha mẹ sau mà độc ác, thì dạy rõ quả báo sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.
Nếu gặp kẻ đặt lưới, giăng bẫy để bắt các sinh vật còn non yếu, thì dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.
Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thì dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.
Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.
Nếu gặp kẻ phá hoại của Thường Trụ, thì dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.
Nếu gặp kẻ ô nhục phạm hạnh và vu báng Tăng Già, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.
Nếu gặp kẻ làm bỏng, đốt, chém, chặt, hoặc đả thương sinh vật, thì dạy rõ quả báo phải luân hồi đền trả lẫn nhau.
Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thì dạy rõ quả báo làm thân cầm thú đói khát.
Nếu gặp kẻ phá hủy vật dụng một cách phi lý, thì dạy rõ quả báo mọi sở cầu đều thiếu hụt.
Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao, thì dạy rõ quả báo làm nô dịch hèn hạ.
Nếu gặp kẻ nói hai lưỡi gây xích mích, thì dạy rõ quả báo không lưỡi hoặc trăm lưỡi.
Nếu gặp kẻ tà kiến, thì dạy rõ quả báo thọ sanh ở vùng biên địa.
+ 439. NGHIỆP HIỆN TẠI LÀ DO CHÍNH MÌNH TẠO
Ma Mạp nên biết,
Tạo tác nghiệp tương xứng với đoản thọ, tất chịu đoản thọ.
1) Tạo nghiệp tương xứng với trường thọ, tất được trường thọ.
2) Tạo tác nghiệp tương xứng với nhiều tật bệnh, tất phải chịu nhiều tật bệnh.
3) Tạo tác nghiệp tương xứng với ít tật bệnh, tất được ít tật bệnh.
4) Tạo tác nghiệp tương xứng với sự không đoan chánh, tất phải thọ sự không đoan chánh.
5) Tạo tác nghiệp tương xứng với đoan chánh, tất được đoan chánh.
6) Tạo tác nghiệp tương xứng với không oai đức, tất phải chịu không oai đức.
7) Tạo tác nghiệp tương xứng với oai đức, tất được oai đức.
8) Tạo tác nghiệp tương xứng với dòng dõi ti tiện, tất phải sanh nhằm dòng dõi ti tiện.
9) Tạo tác nghiệp tương xứng với dòng dõi tôn quý, tất được sanh vào dòng dõi tôn quý.
10) Tạo tác nghiệp tương xứng với không của cải, tất bị không của cải.
11) Tạo tác nghiệp tương xứng với nhiều của cải, tất được nhiều của cải.
12) Tạo tác nghiệp tương xứng với trí tuệ kém cỏi, tất bị trí tuệ kém cỏi.
13) Tạo tác nghiệp tương xứng với trí tuệ tốt đẹp, tất được trí tuệ tốt đẹp.
Chúng sanh do hành nghiệp của chính mình, do nghiệp mà thọ báo, duyên nơi nghiệp, tùy theo nghiệp xứ cao thấp mà chúng sanh có tốt đẹp hay không tốt đẹp.
(Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
* Mời xem kỹ giảng giải khi tại: Kinh Địa Tạng - P4- HT Tuyên Hóa giảng
+ Xem thêm: Tổng hợp Nhân nào quả đấy theo Phật dậy
+ 7 hành Vi mang đến ĐẠI BẤT HẠNH- NGHÈO CHÁNH PHÁP
1) Người có tham dục lại bần cùng là đại bất hạnh.
2) Người có tham dục vay nợ tài vật của người khác là đại bất hạnh.
3) Người có tham dục vay nợ tài vật của người khác mà khất mãi là đại bất hạnh.
4) Người có tham dục bị chủ nợ đòi nợ là đại bất hạnh.
5) Người có tham dục bị chủ nợ đòi mãi là đại bất hạnh.
6) Người có tham dục bị chủ nợ bắt trói là đại bất hạnh.
Cũng vậy, nếu ai đối với Thánh pháp mà không tin ở thiện pháp, không giữ cấm giới, không nghe nhiều, không bố thí, không trí tuệ; đối với thiện pháp, dù có nhiều kim ngân, lưu ly, thủy tinh, ma ni, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đại môi xa cừ, bích ngọc, xích thạch, tuyền châu, nhưng người ấy vẫn là kẻ nghèo nàn cô thế.
Như vậy, trong Thánh pháp của Ta, gọi là sự bần cùng, bất thiện. (Nguồn: mục 435- (Trung A Hàm, Kinh Bát Nạn, Phẩm 11, số 124)
61. BẢY LỰC - Người niên thiếu tu
Trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy lực, tín, tinh tấn, tàm, quý, niệm, định, tuệ lực. A-nan, bảy lực này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy lực này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ Giảng về bảy lực:
- Tàm, quý đều là tâm hổ thẹn với các điều tội lỗi, xấu xa mà mình đã tạo ra. Tự hổ thẹn với chính mình gọi là tàm, đối với người sinh tâm hổ thẹn gọi là quý. Có những tội lỗi chỉ một mình mình biết, ngược lại có những tội lỗi mọi người đều biết.
- Tín: Tín ở đây là lòng tin, trước tiên là phải tin sâu nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu đau khổ. Chính ta là chủ nhân của bao điều họa phúc, chứ không có một đấng thần linh, thượng đế nào có quyền ban phước giáng họa. Tin có Phật, có Tam Bảo, có Bồ Tát, Thánh hiền ở đời....
- Niệm: Chánh niệm, tức tu tập giữ chú tâm vào chánh đạo, không để tâm suy nghĩ điên đảo vào các Pháp bất thiện như Tham Sân Si Kiêu Mạn Nghi ngờ và nghiện ngập ...
- Định: Là định lực, người có định lực thì Tâm luôn an tịnh - Không nghĩ tán loạn, không có lo lắng sợ hãi, không u sầu buồn bực, không rễ nóng nảy giận giữ, thương thương yêu tha thứ, thường hành bố thí cúng giường người nghèo khó và người tu hành chánh đạo.
- Tuệ lực: Là học tập đa văn, có trí tuệ phân biện pháp lành dữ, học hiểu Nhân quả Nghiệp báo, hiểu biết chân thật sự việc thông thường của đời sống nhân sinh, không mê tín dị đoan theo tà đạo.
+ Ví dụ dùng Trí phân biện để chọn Đạo nào tu hành:
Một hôm Phật đến làng nọ để giáo hóa thì mọi người ở đây mới thưa hỏi rằng: “Chúng con là người dân chưa đủ niềm tin vững chắc đối với các tôn giáo, ai đến đây cũng tuyên truyền đạo của mình đều tốt và khuyên mọi người nên tin theo. Chúng con làm thế nào để biết rõ đạo nào tốt, đạo nào xấu, đạo nào đúng, đạo nào sai?”
Phật không trả lời mà hỏi lại:
- Này các thiện nam tín nữ, giết hại có lòng từ bi không? Dạ không ạ!
- Gian tham trộm cướp có từ bi không? Dạ không ạ!
- Uống rượu say sưa có lòng từ bi không? Dạ không ạ!
Tôn giáo nào khuyên nhủ không làm các điều trên thì nên tin theo. Thật ra đức Phật của chúng ta quá khôn khéo, vì ngài lúc nào cũng khuyên giữ các giới điều đó để thể hiện lòng từ bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.
Thế cho nên đạo Phật là đạo của từ bi, là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, là đạo của con người, vì con người mà thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Khi được nghe Phật giải thích rành rẽ từng chi tiết cụ thể, tất cả người dân ở đây đều xin quy y với Phật và phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức và tu mười điều lành....
Gia tài tâm linh đó là bảy gia tài bậc Thánh: Tín, giới, tàm, quý, văn, thí, huệ - bảy thứ này nếu chúng ta biết cách tiếp nhận thì sẽ làm chủ bản thân mà sống đời an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ. (Nguồn: Thích Đạt ma Phổ Giác giảng)
+ 419. NĂM CĂN
A-nan, Ta đã nói cho ông nghe về năm căn, tín, tinh tấn, niệm, định và tuệ căn. A-nan, năm căn này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm căn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 420. NĂM CĂN VÀ NĂM TRIỀN CÁI - Pháp Đoạn Trừ Vô Minh:
Nếu khi Như Lai xuất thế, Đẳng Chánh Giác, Thiên Nhân Sư, Phật....., vị ấy đoạn trừ cho đến năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tu tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn. Đó là nếu muốn đoạn trừ vô minh nên tu Năm căn.
Như vậy, số đoạn, giải thoát, quá độ, bạt tuyệt, diệt, chỉ, tổng tri và biệt tri.
572. SÁU NGOẠI XỨ
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu ngoại xứ: sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. A-nan, sáu ngoại xứ này ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu ngoại xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
573. SÁU NỘI XỨ
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu nội xứ: nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. A-nan, sáu nội xứ này ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu nội xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
574. SÁU THÂN THỨC
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu thức thân: nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. A-nan, sáu thức thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu thức thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
575. SÁU THỌ THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu thọ thân: nhãn thọ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thọ. A-nan, sáu thọ thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu thọ thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
576. SÁU TRỤ XỨ THIỆN
Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, được sáu trú xứ thiện.
Đa văn Thánh đệ tử khi mắt thấy sắc, không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm, chánh trí. Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, được nói là đạt được trụ xứ thiện thứ nhất.
Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý biết pháp mà không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm, chánh trí.
Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy được nói là đạt được trụ xứ thiện thứ sáu. (Trung A Hàm, Kinh Hòa Pháp, Phẩm 2, số 12)
577. SÁU TƯ THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu tư thân: nhãn tư, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tư. A-nan, sáu tư thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu tư thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
578. SÁU TƯỞNG THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu tưởng thân: nhãn tưởng, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tưởng. A-nan, sáu tưởng thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu tưởng thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
579. SÁU XỨ
Tỳ-kheo biết như thật về sáu xứ, biết như thật về tập của sáu xứ, diệt của sáu xứ và diệt đạo của sáu xứ.
Thế nào là biết như thật về sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ.
Thế nào là biết như thật về tập của sáu xứ? Do danh sắc mà có sáu xứ.
Thế nào là biết như thật về diệt của sáu xứ? Danh sắc diệt tức sáu xứ diệt.
Thế nào là biết như thật về diệt đạo của sáu xứ? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp. (Trung A Hàm, Kinh Đại Câu-hi-la, Phẩm 3, số 29)
580. SÁU XÚC THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu xúc thân: nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. A-nan, sáu xúc thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu xúc thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
Nguồn: (Lời Phật dậy - Trung A Hàm)
+ Các pháp giành cho Thanh Thiếu Niên tu tập - Tại gia hay xuất gia:
+ 388. LỢI ÍCH CỦA TỨ THIỀN
* Đức Phật dậy: Về Tứ thiền, Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện cho đến được đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Tứ thiền này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về Tứ thiền này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
423. NĂM HẠ PHẦN KIẾT SỬ (Phiền lão do bị trói buộc hay theo đuổi ác duyên tham đắm của Thân Tâm)
1) A-nan, ở đây có một hạng người bị dục vọng quấn chặt. Dục tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly; do không biết như thật về sự xả ly, nên tham dục càng tăng thạnh, không thể chế trừ.
2) Có một hạng người bị nhuế (Sân giận) quấn chặt. Nhuế tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly. Do không biết như thật xả ly sân nhuế càng tăng thạnh, không thể chế trừ.
3) Có một hạng người bị thân kiến quấn chặt. Thân kiến tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly. Do không biết như thật xả ly, thân kiến càng tăng thạnh, không thể chế trừ.
4) Có một hạng người bị giới thủ quấn chặt. Giới thủ tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly. Do không biết như thật xả ly, giới thủ càng tăng thạnh. Không thể chế trừ.
5) Có một hạng người bị nghi quấn chặt. Nghi tâm sanh rồi mà không biết như thật về sự xả ly, nghi càng tăng thạnh. Không thể chế trừ.
A-nan, cũng như có người muốn tìm một cái gì chắc thật. Vì để tìm cái gì chắc thật nên xách búa vào rừng, và người ấy thấy một gốc cây đã đầy đủ rễ, thân, cành, lá và lõi. Nhưng nếu người ấy không chặt nơi rễ nơi thân mà tìm được cái gì chắc thật mang về, thì trường hợp này không thể có. Cũng vậy, này A-nan, phải y trên đạo, y trên đạo tích để đoạn trừ năm hạ phần kết. Nếu không y trên đạo này, không y trên tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kết, trường hợp này không thể có.
Y trên đạo, y trên đạo tích để đoạn trừ năm hạ phần kết. Nếu ai y trên đạo này, y trên tích này mà đoạn trừ năm hạ phần kết, trường hợp này tất có.
Cũng như một người muốn tìm cái gì chắc thật. Vì để tìm cái gì chắc thật, nên xách búa vào rừng, và người ấy thấy một gốc cây đã đầy đủ rễ, thân, cành, và lá với lõi. Nếu người ấy chặt nơi rễ, nơi thân và được cái chắc thật để mang về, trường hợp này chắc có. Cũng vậy này A-nan, y trên đạo và y trên tích để đoạn trừ năm hạ phần kết. Nếu ai y trên đạo này và y trên tích này mà đoạn trừ được năm hạ phần kết trường hợp này tất có. (Trung A Hàm, Kinh Ngũ Hạ Phần Kết, Phẩm 17, số 205)
422. NĂM GIỚI - TU GIỮ GIỚI LÀM NGƯỜI THIỆN NAM - TÍN NỮ
1) Đó là bạch y Thánh đệ tử xa lìa sát sanh, vứt bỏ dao gậy, có tâm tàm quý, tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến loài côn trùng, người ấy đối với sự sát sanh, tâm đã tịnh trừ.
2) Bạch y Thánh đệ tử xa lìa việc lấy của không cho, dứt trừ việc lấy của không cho. Khi nào cho mới lấy, vui với việc cho mới lấy, thường ưa bố thí, hoan hỷ không keo kiết, không mong đền trả, không tham lam, thấy tài vật của kẻ khác không lấy về mình. Người ấy đối với việc không cho mà lấy tâm đã tịnh trừ.
3) Bạch y Thánh đệ tử xa lìa tà dâm, dứt trừ tà dâm. Người nữ kia hoặc có cha giữ gìn, hoặc có mẹ giữ, hoặc cả cha cả mẹ cùng giữ, hoặc anh em giữ, hoặc chị em giữ, hoặc gia nương giữ, hoặc thân tộc giữ, hoặc người cùng họ giữ, hoặc là vợ của người khác, hoặc có phạt gậy, khủng bố, hoặc đã có ước hẹn bằng tài hóa, cho đến bằng một tràng hoa; đối với tất cả những người nữ ấy, không xâm phạm đến. Người ấy đối với tà dâm, tâm đã tịnh trừ.
4) Bạch y Thánh đệ tử xa lìa nói dối, dứt trừ nói dối; nói lời chân thật, ưa sự chân thật, an trụ nơi sự chân thật, không dời đổi sai chạy. Tất cả những lời nói đều đáng tin, không lừa dối thế gian. Người ấy đối với sự nói dối, tâm đã tịnh trừ.
5) Bạch y Thánh đệ tử lìa rượu, bỏ rượu. Người ấy đối với việc uống rượu, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ năm mà bạch y Thánh đệ tử giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
Thánh đệ tử này không còn đọa địa ngục, cũng không còn sanh vào loài súc sanh, ngạ quỷ và các chỗ ác, được quả Tu-đà-hoàn, không đọa ác pháp, nhất định thẳng tiến tới quả vị Chánh giác, tối đa chịu bảy lần sanh tử nữa. (Trung A Hàm, Kinh Ưu-bà-tắc, Phẩm 11, số 128)
+ Tàm - Quý: Sự hổ thẹn
Tàm là biết hổ thẹn với chính mình khi làm điều sai quấy. Biết ăn năn hối lỗi tự biết xấu hổ với chính mình, thường tôn trọng danh dự cá nhân nên không bao giờ để tái phạm lại lỗi lầm xưa.
Quý là biết hổ thẹn với người nên cố gắng không làm điều xấu ác. Khi ta lỡ làm một điều gì lầm lỗi ta cảm thấy ăn năn, ta cảm thấy hối tiếc mà cố gắng tìm cách khắc phục sửa sai. Người biết hổ thẹn xấu hổ với lỗi lầm, tức còn thấy mình sai nên cố gắng sửa sai do đó có cơ hội làm mới lại chính mình mà vươn lên vượt qua số phận tối tăm. (Thích Đạt ma Phổ Giác giảng)
+ Hổ thẹn trong chữ Liêm sỉ
8. Liêm sỉ: Chữ Sỉ tức là hổ thẹn. Gặp chuyện gì không hợp đạo lý, đi ngược lại với lương tâm của mình, thì tuyệt đối chẳng làm. Con người nếu không biết hổ thẹn thì giống như cầm thú vậy.
Hiếu, Ðễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là tám đức tính căn bản để làm người, các em đừng quên. Trong tương lai ra đời phục vụ xã hội, các em phải: Ngôn tất trung tín, Hành tất đốc kính. (Lời nói phải trung tín, Hành vi phải cung kính.)
Hễ các em nói lời nào thì nhất định phải giữ chữ tín, đừng có nói dối; làm việc gì thì cũng phải hết sức cung kính, chân thật, tuyệt đối đừng làm cho có lệ mà thôi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Sự hổ thẹn: Đức Phật dậy: Này các đệ tử, sự hổ thẹn là trang sức đẹp nhất trong mọi trang sức. Sự hổ thẹn có khả năng chế ngự mọi thứ bất thiện và phi pháp của con người. Thế nên hãy sống với tâm niệm hổ thẹn, đừng bao giờ lãng quên đức tính ấy. Mất tâm hổ thẹn là mất tất cả công đức. Có hổ thẹn là có tất cả thiện pháp. Không hổ thẹn thì có khác chi loài cầm thú. (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
+ Đáng hổ thẹn: ... Người đời có mười cái đáng hổ thẹn:
Một là làm vua không hiểu chánh trị;
Hai là tôi thần mà vô lễ;
Ba là thọ ân không lo báo đáp;
Bốn là có tội lỗi không chịu chừa bỏ;
Năm là một vợ hai chồng;
Sáu là chưa cưới mà có thai;
Bảy là tập học không thành;
Tám là có binh khí mà không thể chiến đấu;
Chín là kẻ bỏn sẻn thấy người bố thí;
Mười là tôi tớ mà chủ không sai khiến được.
Đó là mười cái đáng hổ thẹn. Kinh chép: "Những ai biết hổ thẹn đều là kẻ rất dễ dạy, rất dễ sách tấn cũng như điều khiển ngựa hay."(Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Tâm hổ thẹn - Pháp bảo hộ thế gian: “Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai diệu pháp bảo hộ thế gian. Nghĩa là có tàm, có quý. Này các Tỳ-kheo, nếu không có hai pháp này, thế gian sẽ không phân biệt có cha, có mẹ, có anh, có em, có vợ con, tri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ; liền sẽ cùng lục súc heo, gà, chó, trâu, dê v.v... đồng một loại. Do thế gian có hai pháp này ủng hộ, nên thế gian ắt phân biệt có cha, có mẹ, anh em, vợ con, tôn trưởng, lớn nhỏ, cũng không đồng với lục súc. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tập có tàm, có quý. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
* Tàm, quý đều là tâm hổ thẹn với các điều tội lỗi, xấu xa mà mình đã tạo ra. Tự hổ thẹn với chính mình gọi là tàm, đối với người sinh tâm hổ thẹn gọi là quý. Có những tội lỗi chỉ một mình mình biết, ngược lại có những tội lỗi mọi người đều biết. Dĩ nhiên khi điều xấu của mình được phơi bày, không giấu giếm được thì ta rất xấu hổ (quý). Người lâm vào tình cảnh này mà không biết xấu nữa (vô quý) thì bó tay, hết thuốc chữa. (Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Tàm quý, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.259)
+ 620. TÀM QUÝ
Nếu Tỳ-kheo nào biết hổ thẹn thì có ái và kỉnh. Nếu có ái và kỉnh thì thường có tín. Nếu có tín thì thường có chánh tư duy. Nếu có chánh tư duy thì thường có chánh niệm chánh trí. Nếu có chánh niệm chánh trí thì thường giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu giải thoát thì liền được Niết-bàn. (Trung A Hàm, Kinh Tàm Quý II, Phẩm 5, số 46)
586. SỐNG LÂU - THỌ MẠNG RẤT DÀI
Do nhơn gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ thọ mạng rất dài? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào xa lìa nghiệp sát, đoạn tuyệt nghiệp sát, bỏ hẳn dao gậy, có tâm tàm, có tâm quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả cho đến loài côn trùng. Người ấy thọ nghiệp này, tạo tác nghiệp ấy đầy đủ rồi đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian, thọ mạng rất dài. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ 63. BẢY TÀI SẢN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy tài sản, tín, giới, tàm, quý, văn, thí và tuệ tài. A-nan, bảy tài sản này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy tài sản này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 616. TÁM PHÁP VỊ TẰNG HỮU CỦA THỦ TRƯỞNG GIẢ
Thủ Trưởng giả có tám pháp vị tằng hữu. Những gì là tám?
Thủ Trưởng giả có thiểu dục, có tín, có tàm, có quý, có tinh tấn, có niệm, có định, có tuệ.
1) Thủ Trưởng giả tự thân thiểu dục, không muốn để cho người khác biết mình có thiểu dục.
2) Thủ Trưởng giả có lòng tin kiên cố, tin tưởng thâm sâu nơi Như Lai, tín căn đã xác lập, hoàn toàn không theo Sa-môn, Phạm chí, Ngoại đạo, hoặc Thiên, Ma, Phạm và tất cả những người khác trong thế gian.
3) Trưởng giả thường hành xấu hổ, điều gì đáng xấu hổ thì biết xấu hổ, xấu hổ đối với pháp ác bất thiện, phiền não ô uế đưa đến thọ các ác báo, tạo gốc sanh tử.
4) Thủ Trưởng giả thường thực hành sự hổ thẹn, điều nào đáng thẹn thì biết thẹn, thẹn các pháp ác bất thiện và phiền não ô uế đưa đến thôi các ác báo, tạo gốc sanh tử.
5) Thủ Trưởng giả thường thực hành sự tinh tấn, trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp, có ý tưởng ngồi dậy, chuyên nhất và kiên cố, tạo gốc rễ thiện, không hề từ bỏ sự tinh cần.
6) Thủ Trưởng giả quán nội thân như thân, quán nội giác, nội tâm, nội pháp như pháp.
7) Thủ Trưởng giả ly dục, ly ác bất thiện pháp, cho đến chứng đắc đệ Tứ thiền, thành tựu và an trụ.
8) Thủ Trưởng giả tu hành trí tuệ, quán sát sự hưng thịnh và suy tàn của các pháp; đạt được trí tuệ như vậy, Thánh tuệ minh đặt, phân biệt rõ ràng để hoàn toàn thoát khổ. (Trung A Hàm, Kinh Thủ Trưởng Giả II, Phẩm 4, số 41)
+ 608. TÂM BỊ PHÂN RẢI
Thế nào là tâm Tỳ-kheo hướng ra bên ngoài, bị phân rải, tán loạn?
Với con mắt, Tỳ-kheo con mắt thấy sắc, thức ăn tướng của sắc, thắc đắm trước vị lạc của tướng của sắc, thức bị trói buộc bởi vị lạc của tướng của sắc; vị ấy bị vị ngọt của sắc tướng cột chặt tâm nên hướng ra ngoài, bị phân rải, tán loạn. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; với ý vị ấy nhận thức pháp, thức chạy theo pháp tướng, thức đắm trước vị lạc của pháp tướng, thức bị trói buộc bởi vị lạc của pháp tướng, vị ấy bị vị của vị ngọt của pháp tướng cột chặt tâm nên hướng ra bên ngoài, bị phân rải, tán loạn. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, Phẩm 13, số 164)
+ Chín Pháp Giới Chúng Sanh Ðều Ðiên Ðảo
Ðiên đảo nghĩa là gì? Ðó là thấy khổ cho là vui, cho phải là trái, cho vô thường là thường tồn. Còn có nghĩa như trường hợp tâm tư bất định, trong đầu thì loạn tưởng, thấy việc nghĩa chẳng làm, thấy lợi thì chạy theo. Nói tóm lại, không phân biện trắng đen, không rõ điều chân giả, đều gọi là điên đảo.
Câu nói: "Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo" chính là định luật của nhân quả. Ðầu tiên là sự mê hoặc, khởi tâm sai lầm rồi theo đó tạo nghiệp. Tạo xong nghiệp thì nhận kết quả - quả báo, đó là lẽ tự nhiên. Quả báo là chẳng thể nghĩ bàn, mà chúng sanh tạo nghiệp cũng là điều chẳng thể nghĩ bàn. Lúc đầu tiên sanh ra mê hoặc, cũng là điều chẳng thể nghĩ bàn. Lý do là các loại sự vật, tất cả đều chẳng thể nghĩ bàn, do đó khiến cho chúng sanh thảy đều quay cuồng, bối rối, không biết đâu là đầu mối, như thế nào là thích đáng.
Từ pháp giới của a-tu-la mà nhìn về chư thiên thì họ không hiểu biết gì nhiều, nhưng nhìn về thế gian nhân loại thì họ biết một cách tường tận. A-tu-la thấy loài người điên đảo, trôi nổi trong sanh tử mà không biết khổ, lấy khổ làm vui, tham luyến không muốn bỏ, trông thật đáng thương.
Tại pháp giới của loài người, thì không ai biết được cảnh giới của a-tu-la ra sao, cũng không biết gì về đời sống của chư thiên, hay pháp giới của các bậc thuộc hàng Tứ thánh, nhưng đối với pháp giới của loài thú thì lại biết rõ rệt. Họ thấy súc sanh quá hồ đồ, điên đảo, không biết sự việc gì khác ngoài các vọng tưởng về ăn và dục.
Súc sanh nhìn về quỷ đói thì nhận thấy quỷ đói điên đảo, chúng vì miếng ăn mà khổ não, nhưng tới khi ăn thì đồ ăn là lửa, chúng không nuốt được.
Tại pháp giới quỷ đói nhìn sang pháp giới địa ngục thì thấy chúng sanh ở địa ngục điên đảo. Chúng sanh ở đây đã tạo ác nghiệp phải thọ ác báo, mà lại không biết sửa đổi, cải ác ra thiện.
Tại pháp giới địa ngục thì chúng sanh hoàn toàn không hiểu biết gì, sống trong mê, chết cũng trong mê, chỉ biết riêng lấy mình, không biết tới ai khác. Ðịa ngục là biển khổ mênh mông, không còn có đường nào sáng sủa......
Tại pháp giới địa ngục, mỗi ngày có hàng vạn chúng sanh được sanh ra rồi chết đi, trăm ngàn sự điên đảo, khổ sở không thể nói hết. Tại sao vậy? Ở đây ác nghiệp ngập trời nên chúng sanh phải đền tội. Trong cảnh vạn phần điên đảo không có được nửa phần không điên đảo, do đó lìa khỏi được pháp giới này thật là khó khăn vô kể.......
Tại pháp giới của loài người trong vạn phần điên đảo, thản hoặc có mười phần hay năm mươi phần, tối đa không quá một trăm phần, là không điên đảo. Trong lúc không điên đảo, người ta làm việc công đức, hoặc lạy Phật, hoặc niệm Phật. Khi điên đảo thì vọng tưởng lăng xăng, ham danh đoạt lợi, đấu tranh kiên cố. Tại sao trong vạn phần điên đảo lại chỉ có trăm phần không điên đảo? Ðại khái như khi lạy Phật chẳng hạn, lúc đó không điên đảo. Nhưng có những lúc thân đương lạy Bồ-tát mà tâm lại cầu Bồ-tát gia hộ, mong Bồ-tát ban cho trúng số, phù hộ cho được bình an; thậm chí, có kẻ chẳng chịu học hành mà cũng cầu Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ cho đỗ trạng nguyên, đó chính là điên đảo......
Quý vị phải nghiên cứu kỹ đi! Tại sao chúng ta ở thế giới này chưa thanh toán được phiền não, mà vẫn còn ở nơi hỗn tạp đợi chết? Kẻ xuất gia không ra vẻ người xuất gia, tại gia thì không chịu tu hành! Còn chờ đợi tới thời điểm nào nữa mới chịu tu? Ðời này là ngũ trược ác thế, lưu luyến sanh tử có ích lợi gì?
Quý vị! Hãy tha thiết vấn đề sanh tử, hãy mau phát tâm Bồ-đề, đừng tạo thêm những chuyện điên đảo nữa. Quay đầu lại đi! Ráng lên, "biển khổ không bờ, quay đầu là bến." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
605. TÁI SANH CHỖ BẤT THIỆN
Nếu có một người bên trong thật có ô uế mà không tự biết, không biết như thật bên trong thật có ô uế, thì nên biết, người ấy không muốn đoạn trừ ô uế, không cầu phương tiện, không tinh cần học. Người ấy khi mạng chung, với ô uế làm ô uế tâm, do mạng chung với ô uế làm ô uế tâm, nó chết không an lành, sanh vào chỗ bất thiện. Vì sao? Vì người ấy do mạng chung với ô uế làm ô uế tâm.
Cũng như có một người từ chợ, quán, hoặc từ nhà làm đồ đồng mua về một cái mâm đồng bị bụi dơ làm dơ. Người ấy mang về nhưng không năng rửa bụi, không năng lau chùi, cũng không phơi nắng, lại để chỗ nhiều bụi bặm nên đồng càng dính thêm bụi bặm dơ bẩn. Hiền giả, cũng vậy, nếu có một người bên trong thật có ô uế mà không tự biết, không biết như thật bên trong thật có ô uế, thì nên biết, người ấy không muốn đoạn trừ ô uế, không cần phương tiện, không tinh cần học, nó mạng chung với sự ô uế làm ô uế tâm. Do mạng chung với sự ô uế làm ô uế tâm, nó chết không an lành, sanh vào chỗ bất thiện. Vì sao? Bởi vì nó mạng chung với ô uế làm ô uế tâm. (Trung A Hàm, Kinh Uế Phẩm, Phẩm 8, số 87)
606. TÁI SANH CÕI THIỆN
Nếu có một người biết như thật rằng: ‘Trong ta có ô uế, trong ta quả thật có ô uế này’, thì nên biết, người ấy muốn đoạn trừ ô uế đó, cầu phương tiện và tinh cần học. Người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm. Do mạng chung không có ô uế, không làm ô uế tâm, người ấy chết an lành, sanh vào cõi thiện. Vì sao? Vì người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm.
Cũng như có người từ chợ, quán, hoặc từ nhà người làm đồ đồng mua về một cái mâm đồng bị bụi bặm làm dơ bẩn. Người ấy mang mâm về, thường năng rửa bụi bặm, thường năng lau chùi, thường năng phơi nắng và không để chỗ nhiều bụi bặm. Như vậy, mâm đồng hết sức sạch bóng. Hiền giả, cũng vậy, nếu có một người biết như thật rằng: ‘Trong ta có ô uế; trong ta quả thật có ô uế này’, thì nên biết, người ấy muốn đoạn trừ ô uế đó, cầu phương tiện và tinh cần học. Người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm. Do mạng chung không có ô uế, không làm ô uế tâm, người ấy chết an lành, sanh vào cõi thiện. Vì sao? Vì người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm. (Trung A Hàm, Kinh Uế Phẩm, Phẩm 8, số 87)
136. CHẾT AN LÀNH, MẠNG CHUNG AN LÀNH
Các Tỳ-kheo bạch rằng: Làm thế nào một Tỳ-kheo chết an lành, mạng chung an lành?
Tôn giả A-na-luật-đà đáp: Chư Hiền, nếu Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, cho đến chứng đắc Tứ thiền; đó gọi là Tỳ-kheo chết an lành, mạng chung an lành.
Chư Hiền, Tỳ-kheo không phải chỉ cùng đích như vậy là chết an lành mạng chung an lành. Lại nữa, này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo chứng đắc như ý túc về thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí, lậu tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Đó là Tỳ-kheo chết an lành, mạng chung an lành. (Trung A Hàm, Kinh A-Na-Luật, Phẩm 18, số 218)
+ 603. TAI HỌA CỦA DỤC - CỦA TIỀN TÀI GIẦU CÓ
Thế nào là tai họa của dục? Một thiện gia nam tử, tùy kỹ thuật riêng mà tự mưu sinh; hoặc làm ruộng, hoặc buôn bán, hoặc học sách, hoặc giỏi toán thuật, biết công số, khéo in khắc, làm văn chương, tạo thủ bút, hoặc hiểu kinh thơ, hoặc làm võ tướng, hoặc phụng sự vua. Người ấy khi gặp lạnh phải chịu lạnh, gặp nóng phải chịu nóng, bị đói khát nhọc mệt, bị muỗi mòng châm chích; nó phải làm nghề nghiệp như thế để mong kiếm được tiền của.
Thiện nam tử bằng những phương tiện như thế, làm các công việc như vậy để mong cầu như vậy, nếu không kiếm được tiền của thì sinh khổ sở, lo buồn rầu rĩ, tâm thành si dại, nói rằng ‘Luống công làm lụng khổ nhọc vô ích mà những điều mong cầu không có kết quả’. Trái lại, thiện nam tử ấy bằng những phương tiện như vậy để mong cầu như vậy, nếu kiếm được tiền của nó sanh yêu quý, giữ gìn, chôn giấu.
Vì sao vậy? Nó nghĩ: ‘Tài vật này của ta, đừng để cho vua đoạt, giặc cướp, lửa thiêu, hư hại, mất mát, hoặc xuất tài mà vô lợi, hoặc làm việc mà không thành tựu’. Kẻ đó giữ gìn, chôn giấu như vậy nhưng nếu rủi bị vua đoạt, hoặc giặc cướp, lửa thiêu hư hại mất thì sinh khổ sở, lo buồn rầu rĩ, tâm thành si ám, nói rằng: ‘Vật ta yêu quý, nhớ nghĩ suốt đêm ngày, nay đã không còn’. Đó là những nỗi thống khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc. (Trung A Hàm, Kinh Khổ Ấm, Phẩm 9, số 100)
598. SỰ XUẤT LY KHỎI SÂN HẬN - XA LÌA SÂN GIẬN
Đa văn Thánh đệ tử quán sát sân nhuế cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát sân nhuế nên tâm không hướng theo sân nhuế, không vui say trong sân nhuế, không gần gũi với sân nhuế, không quyết tâm nơi sân nhuế. Khi tâm sân nhuế vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không được nở rộng ra, bị vứt bỏ di. Vị ấy không trụ nơi sân nhuế, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự sân nhuế. Giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không được nở.
Đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, cực kỳ mãnh liệt quán sát sân nhuế. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát sân nhuế nên tâm không hướng theo nhuế, không vui say nhuế, không quyết định nơi nhuế. Tâm nhuế vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn chứ không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi, vị ấy không an trụ nơi nhuế, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự nhuế.
Vị ấy quán sát vô nhuế, tâm hướng về vô nhuế, không vui say vô nhuế, gần gũi vô nhuế, quyết định nơi vô nhuế, tâm không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc, viễn ly dục nhuế, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do nhuế mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa, tức cảm thọ sanh ra bởi nhuế. Như vậy, đó là sự xuất ly khỏi nhuế. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
246. GIẢI THOÁT DỤC
Thế nào là biết dục? Biết dục có năm công đức của dục, khả ái, khả hỷ, mỹ sắc, tương ưng với dục, rất khả lạc. Những gì là năm?
Sắc được biết bởi mắt, thanh được biết bởi tai, hương được biết bởi mũi, vị được biết bởi lưỡi, xúc được biết bởi thân, pháp được biết bởi ý.
Thế nào là biết nhân sanh của dục? Biết từ xúc, do xúc nên có dục.
Thế nào là biết hữu báo của dục? Tùy theo chủng loại dục mà sanh ái lạc, đắm trước rồi trụ vào đó, do nhân duyên đó lãnh thọ quả báo, đến chỗ có phước, đến chỗ phi phước hay chỗ bất động.
Thế nào là biết sự thắng liệt của dục? Hoặc có dục ham muốn sắc, hoặc có dục ham muốn tiếng, hoặc có dục ham muốn hương, hoặc có dục ham muốn vị, hoặc có dục ham muốn xúc.
Thế nào là biết sự diệt tận của dục? Biết xúc diệt, dục liền diệt.
Thế nào là biết dục diệt đạo? Biết Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định. Đó là biết dục diệt đạo.
Đó gọi là đạt phạm hạnh, có thể diệt tận tất cả dục. (Trung A Hàm, Kinh Đạt Phạm Hạnh, Phẩm 10, số 111)
248. GIẢI THOÁT TAM ĐỘC
Vì nhân chánh kiến nên sanh chánh tư duy, nhân chánh tư duy nên sanh chánh ngữ, nhân chánh ngữ nên sanh chánh nghiệp, nhân chánh nghiệp nên sanh chánh mạng, nhân chánh mạng nên sanh chánh tinh tấn, nhân chánh tinh tấn nên sanh chánh niệm, nhân chánh niệm nên sanh chánh định. Hiền thánh đệ tử đã định tâm như vậy rồi, liền giải thoát tất cả dâm, nộ, si.
Hiền thánh đệ tử đã chánh tâm giải thoát như vậy rồi, liền biết đúng như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. (Trung A Hàm, Kinh Ngũ Chi Vật Chủ, Phẩm 14, số 179)
249. GIẢI THOÁT TAM LẬU
Đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: ‘Dù là dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay là sắc của đời sau, dù là dục tưởng của đời này hay là dục tưởng của đời sau, dù là sắc tưởng của đời này hay là sắc tưởng của đời sau và bất động tưởng, vô sở hữu tưởng, vô tưởng tưởng, tất cả các tưởng ấy đều là pháp vô thường, khổ và diệt, đó là hữu thân. Nếu là hữu thân thì đó là sanh, đó là già, đó là bệnh, đó là chết.
Nếu có pháp này thì diệt trừ tất cả, không để lưu dư, không để có trở lại. Như vậy thì không sanh, không già, không bệnh, không chết.
Bậc Thánh quán như vậy. Nếu có thì chắc chắn đó là pháp giải thoát. Nếu có Vô dư Niết-bàn thì gọi là cam lộ. Vị nào quán như vậy, chắc chắn tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu. Đã giải thoát liền biết đã giải thoát, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. (Trung A Hàm, Kinh Tịnh Bất Động Đạo, Phẩm 7, số 75)
250. GIẢI THOÁT TỪ VÔ DỤC
Nếu Thế Tôn thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe, các bậc trí phạm hạnh cũng thuyết pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nghe; họ nghe pháp rồi thấu hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa, và do sự thấu hiểu pháp, thấu hiểu nghĩa đó nên được hoan duyệt, nhân hoan duyệt mà được hoan hỷ. Nhân hoan hỷ mà được thân khinh an. Do thân khinh an nên được cảm thọ lạc. Do cảm thọ lạc nên được tâm định.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nhân tâm định nên được thấy như thật, biết như thật. Do thấy như thật, biết như thật nên phát sanh sự nhàm tởm. Do nhàm tởm nên được vô dục. Do vô dục nên được giải thoát. Do giải thoát mà biết là mình giải thoát, biết một cách như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa’. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
597. SỰ XUẤT LY KHỎI DỤC
Đa văn Thánh đệ tử quán sát dục một cách cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát dục nên tâm không hướng theo dục, không vui say dục, không gần gũi với dục, không quyết tâm nơi dục. Khi tâm dục vừa sanh, tức thì bị cháy tiêu, khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không được mở rộng ra, bị vứt bỏ đi, không trụ nơi dục, chán ghét, nhàm tởm.
Giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức khắc cháy tiêu, khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không được mở rộng ra. Đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, cực kỳ mãnh liệt quán sát dục. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát dục nên tâm không hướng theo dục, không vui say trong dục, không gần gũi với dục, không quyết tâm nơi dục. Khi tâm dục vừa sanh, tức thì bị cháy tiêu, khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không được mở rộng ra. Vị ấy vứt bỏ, không trụ nơi dục, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự dục.
Vị ấy quán sát vô dục, tâm hướng về vô dục, vui say vô dục, gần gũi vô dục, quyết tâm nơi vô dục, tâm không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc, viễn ly tất cả dục, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do dục mà có, giải chúng, thoát chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh các cảm thọ ấy nữa, tức các cảm thọ sanh ra bởi dục. Như vậy, đó là sự xuất ly khỏi dục. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ Sư Tử - Hải Sư/ Leo: Hành Hỏa; Dẫn truyền (Cung 1 - Cung 5) (Xem)
- Tự ý thức, sáng tạo, quan trọng, tự hào hoặc nhút nhát, thành thật, trung thành, cá nhân ;
- Chủ quản Nhà thứ 5, có đặc tính tương ứng: Tính sáng tạo, trò chơi, thể thao
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Mặt Trời; Cung 2 (CTHNM, 80); (Mặt trời và Mộc tinh dẫn Cung 2) - Khẩu hiệu: Hãy để cho các hình tướng khác tồn tại. Tôi cai trị.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Mặt Trời; Cung 2 (CTHNM,81) - Khẩu hiệu: Tôi là Cái Đó và Cái Đó là tôi.
+ 595. SƯ TỬ LÀ ĐỆ NHẤT
Cũng như trong các loài thú, Sư tử vương là tối đệ nhất. Ví như khi các trận cùng đấu chiến nhau thì yếu thệ là thứ nhất. Cũng như các đòn tay của lầu gác, tất cả đều y cứ trên đòn dông, thiết lập trên dông, được duy trì bởi đòn dông, đòn dông là bậc nhất vì duy trì tất cả. Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất. (Trung A Hàm, Kinh Dụ, Phẩm 11, số 141)
Xem: CTHNM - Giới thiệu về Sư Tử
+ 585. SỐNG ĐÚNG PHÁP
Chư Thiên và Nhân loại thân làm điều phi pháp và làm điều dữ, miệng và ý làm điều phi pháp và làm điều dữ, lúc bấy giờ chư Thiên và Nhân loại tất sẽ tổn giảm, A-tu-la tất sẽ hưng thạnh. Này Phạm chí, nếu chư Thiên và Nhân loại mà thân làm đúng như pháp, thủ hộ thân và ý làm đúng như pháp, thủ hộ miệng và ý, thì bấy giờ chư Thiên và Nhân loại tất sẽ hưng thạnh, A-tu-la tất sẽ tổn giảm.
Như vậy chư Thiên và Nhân loại nếu sống bằng phi pháp và làm điều dữ, tất không được ích lợi, tất phải khổ nhọc. Nếu chư Thiên và Nhân loại sống đúng như pháp, không làm điều dữ, tất được ích lợi, tất được hoan lạc. (Trung A Hàm, Kinh Văn Đức, Phẩm 12, số 147)
+ Tu hành Sống Đúng Pháp/ Sống theo Pháp: Nhưng giữa thuyết pháp, tụng đọc pháp, hành trì pháp, và sống đúng theo pháp đều có sự khác biệt. Đức Phật đã chỉ rõ sự sai khác giữa sống đúng pháp và sống không đúng pháp như kinh Sống Theo Pháp số V. 74 . "Một Tỷ kheo đến hỏi Đức Phật sống theo pháp như thế nào", Thế Tôn giảng như sau:
"Ở đây, này Tỷ kheo, vị Tỷ kheo học thuộc lòng pháp…nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này Tỷ kheo, đây là vị Tỷ kheo học thuộc lòng nhiều, nhưng không sống theo pháp…
"Lại nữa, này Tỷ kheo, vị Tỷ kheo thuyết pháp cho các người khác, một cách rộng rãi, như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này Tỷ kheo, đây gọi là vị Tỷ kheo thuyết trình nhiều nhưng không sống theo pháp."
"Lại nữa, này Tỷ kheo, vị Tỷ kheo đọc tụng một cách rộng rãi pháp như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các Tỷ kheo, đây gọi là Tỷ kheo đọc tụng nhiều, nhưng không sống theo pháp."
"Lại nữa, này các Tỷ kheo, vị Tỷ kheo, với tâm tùy tầm, tùy tứ, với ý tùy quán pháp như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Nhưng vị ấy không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các Tỷ kheo, đây gọi là Tỷ kheo suy tầm nhiều, nhưng không sống theo pháp."
"Ở đây, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo học thuộc lòng pháp, tức là khế kinh ứng tụng, ký thuyết, phúng tụng, không hỏi tự nói, như thị thuyết, bản sanh, vị tằng hữu pháp, phương quảng, và rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các Tỷ kheo, đây gọi là Tỷ kheo sống theo pháp."
Cho nên việc tụng, niệm chú vẫn không có sự thành tựu giải thoát bằng cách sống theo Chú Đại Bi để phát triển tâm từ.
+ Cách sống phòng hộ: Sự phòng hộ tất cả các lậu hoặc với người tu đạo hướng đến giải thoát Niết bàn.
- Như lý tác ý: Chỉ khởi suy nghĩ tương ứng với các pháp chánh đạo, chánh pháp tà đạo, ngoại đạo để đoạn trừ lậu hoặc.
- Phải sống phòng hộ Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để đoạn trừ lậu hoặc.
- Cảnh giác với thọ dụng như Y phục, món ăn uống, dược phẩm trị bệnh để đoạn trừ lậu hoặc.
- Phải tu kham nhẫn: Lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; Lời nói mạ lị phỉ báng. Nhẫn các cảm thọ về thân, thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người để đoạn trừ lậu hoặc.
- Phải biết tránh lé: Voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước nhớp, vũng nước. Chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên lai vãng, những bạn bè ác độc rễ bị đồng tu nghi ngờ, khinh thường để đoạn trừ lậu hoặc.
- Phải tu trừ diệt mới đoạn trừ: Không có chấp nhận dục niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (dục niệm ấy); không có chấp nhận sân niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (sân niệm ấy); không có chấp nhận hại niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (hại niệm ấy); không chấp nhận các ác bất thiện pháp luôn luôn khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (các ác bất thiện pháp ấy) để đoạn trừ lậu hoặc.
- Phải tu tập mới đoạn trừ: Tu tập niệm giác chi, niệm giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; như lý giác sát tu tập trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi; xả giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên để đoạn trừ lậu hoặc. (Nguồn: Kinh Các Lậu Hoặc)
583. SƠ THIỀN LÀ CHƯA RỐT RÁO - CẦN TINH TẤN TIẾN TU
Như lúc mưa to, hồ ao trong thôn xóm đều đầy nước. Có người trước khi chưa mưa, thấy trong hồ ao đó có cát, đá, cỏ cây, một vài loại giáp trùng, cá, rùa, ểnh ương và các loài thủy tánh khác, lúc bơi qua, lúc bơi lại, lúc rượt chạy, lúc đứng yên. Nhưng sau khi trời mưa, ao hồ đầy nước, người đó không còn thấy như thế nữa. Chư Hiền, nếu người kia nói như thế này: ‘Trong hồ ao kia nhất định không thể nào thấy lại được cát, đá, cỏ cây, một vài loại giáp trùng, cá, rùa, ểnh ương và các loài thủy tánh khác, lúc bơi qua, lúc bơi lại, lúc rượt chạy, lúc đứng yên’. Người ấy nói như vậy có đúng chăng?
Không đúng. Vì sao? Vì hồ ao đầy nước kia, hoặc voi uống, ngựa uống, lạc đà, bò, lừa, heo, nai, trâu uống, hoặc người lấy dùng, gió thổi, mặt trời rọi, thì nước sẽ cạn. Người kia khi nước đầy hồ ao không thấy cát, đá, cỏ cây, một vài loại giáp trùng, cá, rùa, ểnh ương và các loài thủy tánh khác, lúc bơi qua, lúc bơi lại, lúc rượt chạy, lúc đứng yên, nhưng sau khi nước đã cạn rồi thì vẫn thấy như cũ.
Cũng vậy, hoặc có một người vừa được Sơ thiền; được Sơ thiền rồi, người ấy liền an trụ chứ không mong cầu thêm, không mong được những gì chưa được, thu hoạch những gì chưa thu hoạch, tác chứng những gì chưa tác chứng. Sau đó người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện. Người ấy thường cùng với bạch y tụ họp, cười cợt, cống cao, bàn tán ồn ào đủ chuyện rồi thì tâm sanh tham dục. Tâm sanh tham dục rồi thì thân nhiệt, tâm nhiệt. Thân nhiệt, tâm nhiệt rồi thì xả giới, bỏ đạo. Này chư Hiền, đó gọi là có một người. (Trung A Hàm, Kinh Chi-ly-di-lê, Phẩm 7, số 82)
+ Đức Phật tìm vị Thầy dẫn tu trước khi thành đạo - Thánh cầu Giải thoát:
Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu"... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... (như trên)... tự mình bi ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bi ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn.
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền thưa với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này". Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với Ta: "Này Tôn giả, hãy sống (và an trú). Pháp này là như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy), tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú". Này các Tỷ-kheo, và không bao lâu Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng tọa), và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.
Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Alara Kalama tuyên bố pháp này không phải chỉ vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú". Chắc chắn Alara Kalama biết pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?"
Này các Tỷ-kheo, được nói vậy, Alara Kalama tuyên bố về Vô sở hữu xứ. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin.
Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú".
Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với Alara Kalama: "Này Hiền giả Kalama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?" --"Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". -- "Này Hiền giả, tôi cũng tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!"
Như vậy này các Tỷ-kheo, Alara Kalama là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này. Ðược nói vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta nói với Ta: "Này Tôn giả, hãy sống (và an trú), pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy) tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú". Này các Tỷ-kheo, Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng.
Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí, và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng Tọa), và Ta tự cho rằng Ta như người khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.
Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Rama tuyên bố pháp này không phải vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú". Chắc chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?" Này các Tỷ-kheo được nghe nói vậy, Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Rama mới có lòng tin. Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Rama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Rama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Rama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú".
Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến, Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Này Hiền giả Rama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?" --"Vâng Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Này Hiền giả, tôi cũng đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy."
Thật lợi ích thay cho chúng tôi! Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi, tự tri tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!"
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta-là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.
Này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha (Ma kiệt đà) và đến tại tụ lạc Uruvela (Ưu lâu tần loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: "Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn". Và này các Tỷ-kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: "Thật là vừa đủ để tinh tấn".
(Giác Ngộ)
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái vô sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Và tri kiến khởi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.
Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!" Này các Tỷ-kheo, rồi những kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta:
Sao Ta nói Chánh pháp,
Ðược chứng ngộ khó khăn?
Những ai còn tham sân,
Khó chứng ngộ pháp này.
Ði ngược dòng, thâm diệu,
Khó thấy, thật tế nhị,
Kẻ ái nhiễm vô minh,
Không thấy được pháp này.
Rồi này các Tỷ-kheo, với những suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp.
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Phạm thiên Sahampati khi biết được tâm tư của Ta; với tâm tư của mình, liền suy nghĩ: "Than ôi, thế giới sẽ tiêu diệt, thế giới sẽ bi hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-lahán, Chánh Ðẳng Giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp". Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati, như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co, hay co cánh tay đang duỗi; cũng vậy, vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên, và hiện ra trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai chắp tay hướng vái Ta và bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bị nguy hại nếu không được nghe Chánh pháp. (Nếu được nghe), những vị này có thể thâm hiểu Chánh pháp". Này các Tỷ-kheo, Phạm thiện Sahampati nói như vậy. .........
Này các Tỷ-kheo, sau khi biết được lời Phạm thiên yêu cầu (Phật hãy Thuyết pháp), vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước.
Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:
Cửa bất tử rộng mở,
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp,
Giữa chúng sanh loài Người.
(Ôi Phạm thiên) . Mời đọc nguồn: 26.Kinh Thánh cầu
+ Truyện Đức Phật Đi Tu - "571. SÁU NĂM HỌC ĐẠO VỚI CÁC THIÊN SƯ" : Ta vào thời thiếu niên trong trắng, mái tóc xanh mướt, cho đến thời tráng niên năm hai mươi chín tuổi, bấy giờ sống cực kỳ hoan lạc, vui đùa, trang sức, du hành. Ta vào lúc ấy mặc dù cha mẹ khóc lóc, thân thuộc không ai vui, nhưng Ta cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, để học đạo; thủ hộ thân mạng thanh tịnh, thủ hộ khẩu và ý mạng thanh tịnh.
- Ta đã thành tựu giới thân ấy rồi, lại muốn tìm cầu (Pháp hơn nữa: sự không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn; sự không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn), cho nên lại ... Ta muốn chứng pháp này nên sống cô độc, viễn ly, tại một nơi trống vắng, yên tĩnh. Sau khi tâm không phóng dật, tu hành tinh cần, không bao lâu Ta chứng pháp ấy.
- Sau khi chứng pháp ấy rồi, muốn tìm cầu (Pháp hơn nữa: ......). Ta bèn bỏ pháp này đi tìm cầu sự không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn.. không bao lâu Ta chứng pháp ấy.
- Sau khi chứng pháp ấy rồi, muốn tìm cầu (Pháp hơn nữa: ......). Sau khi Ta sống cô độc, viễn ly, tại một nơi trống vắng, yên tĩnh, không bao lâu chứng được pháp ấy.
- Khi chứng pháp ấy rồi, muốn tìm cầu (Pháp hơn nữa: ......)......, không bao lâu chứng được pháp ấy.
- Ta lại suy nghĩ như vầy, ‘Pháp này không đưa đến trí, không đưa đến giác, không đưa đến Niết - Bàn. Vậy Ta hãy xả bỏ pháp này để đi tìm cầu thêm nữa, sự không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn; tìm cầu sự không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn’. Ta liền xả bỏ pháp ấy để đi tìm cầu sự không bệnh, vô thượng an ổn Niết-bàn; tìm cầu sự không già, không chết, không sầu bi ưu não, không tạp uế, vô thượng an ổn Niết-bàn. (Trung A Hàm, Kinh La-Ma, Phẩm 17, số 204)
+ Đức Phật tu vô lượng vô biên vô số pháp, hạnh nguyện và phương tiện trong Ba A Tăng Kỳ kiếp
Như Lai thường dùng môn tổng trì
Ví như hạt bụi các cõi nước
Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy
Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.
‘’ Như Lai thường dùng môn tổng trì.’’ Bài kệ này vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Chiếu Thiên Vương minh bạch được, cho nên mới nói Phật thường dùng pháp môn tổng trì, để giáo hóa chúng sinh. Pháp môn tổng trì này, lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì, rồi lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì nữa. Do đó, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
‘’ Ví như cõi nước số hạt bụi.’’ Môn đại tổng trì này, giống như cõi nước chư Phật, nhiều như số hạt bụi, tóm lại có bất khả thuyết, bất khả thuyết biển cõi nhiều như số hạt bụi.
‘’ Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy.’’ Đức Phật khai thị giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được môn tổng trì, khắp cùng tất cả cõi nước chư Phật.
‘’ Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới này, vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Phổ Chiếu Thiên Vương, đắc được pháp môn giải thoát này.
* Trong Kinh có vô cùng nhiều bài Kệ ca ngợi, tán thán sự tu hành của đức Phật. Mời xem tất cả các Tập: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1
394. MẠNG NGƯỜI KHÓ GIỮ
Giống như cây gậy ném xuống nước, nó sẽ trồi trở lên rất nhanh; cũng vậy, mạng người cũng như cây gậy ném xuống nước, trồi lên rất nhanh, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà tai hoạn, khổ đau lại lớn, tai hoạn quá nhiều! (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
395. MẠNG NGƯỜI NHƯ MIẾNG THỊT NUNG
Giống như một miếng thịt nhỏ được bỏ vào nồi nước lớn, bên dưới lửa cháy hừng hực, sẽ tiêu tan rất nhanh; cũng vậy, mạng người cũng như miếng thịt tiêu tan kia, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ, tai hoạn lại lớn, tai hoạn rất nhiều! (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
528. QUÁ ÍT VỊ NGỌT
Giống như viên ngói mới được nhúng vào bồn nước, rồi đem ra ngay, để ở nơi có gió và nóng thì khô ráo liền; cũng vậy, mạng người cũng như viên ngói mới được nhúng vào bồn nước, rồi khô ráo ngay, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ tai hoạn lớn, tai hoạn quá nhiều! (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
604. TAI HỌA QUÁ NHIỀU
Lúc trời mưa lớn, nước giọt tạo thành bong bóng, thoạt hiện thoạt biến; cũng vậy, mạng người cũng như bọt nước, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ tai hoạn rất lớn, tai hoạn quá nhiều! (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
Nguồn: Tổng hợp Lời Phật dạy - Trung A Hàm
+ Kiến Thủ: Thủ là sự giữ chặt, không buông bỏ, như người đã nghiền rượu hay ma túy, khó mà xa lìa những thói quen ấy. Có 4 loại Thủ:
a- Dục thủ: Bám víu vào những thú vui dục lạc
b- Kiến thủ: Bám víu vào những quan điểm cá nhân hay sai lầm (những tà kiến)
c- Giới cấm thủ: Bám víu vào những tập tục nghi lễ dị đoan, mê tín, không đưa đến giải thoát hay lợi ích tinh thần.
d- Ngã chấp thủ: Bám víu vào ảo tưởng về một cái ta.
Nguồn: Kinh Vô Minh (9. => Duyên Thủ) (Nguồn)
+ Mười Tâm “Là tâm Vô Kiến Thủ.”
- Khi quý vị trông thấy sự vật thì trong lòng liền mê chấp/ Chấp lấy - Kiến thủ, sanh khởi kiến hoặc; hễ có kiến hoặc tất có sự chấp giữ (sở thủ). (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng về Chú Đại Bi)
- 9- Tâm vô kiến thủ là tâm không nhìn. Nhìn là chỉ muốn nắm bắt. Đang đi xe, thấy cái nhà đẹp là mình nghĩ mình muốn mua, muốn làm chủ. Thấy món ăn ngon, là mình phải ăn mới được. Kiến thủ là thấy và nắm bắt.(Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng về 10 Tâm Đại Bi)
+ 14. Tát bà a tha đậu du bằng (HT Tuyên Hóa giảng về Thần Chú Đại Bi)
Câu chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
A tha đậu dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý, Phật pháp.
Còn dịch nghĩa là “như ý bất diệt”.
“Như ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được thành tựu.
“Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất.
Trong mười loại tâm thì đây là “vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”.
Du bằng dịch là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh và trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh, cho nên không có sự lo phiền, ưu não. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là khi quí vị vừa trông thấy một vật gì, tâm liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ lấy. Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ tâm là trạng thái không có mảy may vọng động về sự chấp thủ đối với pháp và ngã; đối với chủ thể cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như dòng chuyển biến của thức tâm.
+ Pháp ác phát sinh: Đấu tranh - Tranh giành - Tranh đoạt - Tánh bảo thủ. Pháp duyên sinh: Cái này có, cái kia có. Các dục chi phối
121. CHÁNH HẠNH
Người sống tại gia có tai hoạn lớn, có đấu tranh lớn, có oán ghét lớn, nhưng lại thực hành chánh hạnh, thì sẽ được quả báo lớn, được công đức lớn. Ví như người làm ruộng có tai hoạn lớn, có đấu tranh lớn, có oán ghét lớn, nhưng lại thực hành chánh hạnh, thì sẽ được quả báo lớn, được công đức lớn. Như vậy, này Ma-nạp, người sống tại gia cũng lại như thế.
Này Ma-nạp, người xuất gia học đạo ít có tai hoạn, ít có đấu tranh, ít có oán ghét, nhưng lại thực hành chánh hạnh, thì được quả báo lớn, được công đức lớn. Ví như người buôn bán, ít có tai hoạn, ít có đấu tranh, ít có oán ghét, nhưng lại thực hành chánh hạnh, thì sẽ được quả báo lớn, được công đức lớn. Như vậy, này Ma-nạp, người xuất gia học đạo lại cũng như thế. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 12, số 152)
160. CÔNG ĐỨC LỚN HAY KHÔNG LỚN?
Nếu sống tại gia có tai hoạn lớn, có đấu tranh lớn, có oán ghét lớn, nhưng lại làm điều tà hạnh, thì sẽ không được quả báo lớn, không được công đức lớn. Ví như người làm ruộng, có tai hoạn lớn, có đấu tranh lớn, có oán ghét lớn, lại làm điều tà hạnh, thì sẽ không được quả báo lớn, không được công đức lớn. Như vậy, người sống tại gia cũng lại như thế.
Người xuất gia học đạo ít có tai hoạn, ít có đấu tranh, ít có oán ghét, nhưng lại làm điều tà hạnh, thì sẽ không được quả báo lớn, không được công đức lớn. Ví như người buôn bán, ít có tai hoạn, ít có đấu tranh, ít có oán ghét, nhưng lại làm điều tà hạnh, thì sẽ không được quả báo lớn, không được công đức lớn. Như vậy, người xuất gia học đạo cũng lại như thế. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 12, số 152)
229. DỤC LÀM CHƯỚNG NGẠI SỰ TU HỌC
Đa văn Thánh đệ tử nên quán như vầy, ‘Thế Tôn nói rằng dục là vô thường, hư ngụy, giả dối, huyễn hóa, khi cuống, ngu si. Dù là dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay sắc của đời sau, tất cả đều là cảnh giới của ma, là miếng mồi của ma. Nhân những thứ ấy, tâm mới sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện, tham lam, sân nhuế và đấu tranh, làm chướng ngại sự tu học của Thánh đệ tử’. (Trung A Hàm, Kinh Tịnh Bất Động Đạo, Phẩm 7, số 75)
316. KHÔNG CHẤP THỦ
A-nan, nếu không có bảo thủ, tất cả đều không có bảo thủ, thì giả sử tách rời bảo thủ sẽ có dao gậy, đấu tranh, dua siểm, lừa gạt, nói láo, nói hai lưỡi, khởi lên vô lượng pháp ác bất thiện chăng?
A-Nan đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Thế Tôn nói: A-nan, cho nên biết rằng dao gậy, đấu tranh, dua siểm, lừa gạt, nói láo, nói hai lưỡi, khởi lên vô lượng pháp ác bất thiện thì nhân của chúng, tập khởi của chúng, bản của chúng và duyên của chúng chính là bảo thủ vậy. Vì sao? Vì duyên bảo thủ nên có dao gậy, đấu tranh, dua nịnh, lừa gạt, nói láo, nói hai lưỡi, khởi lên vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy là trọn đủ toàn khối khổ đau to lớn. (Trung A Hàm, Kinh Đại Nhân, Phẩm 9, số 97)
320. KHÔNG CÓ NIỆM
Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không có niệm thì không có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và không yêu. Nếu không có yêu và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị. Nếu không có bỏn sẻn và ganh tị thì không có dao gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt. (Trung A Hàm, Kinh Thích Vấn, Phẩm 11, số 134)
778. VÌ ÁI NÊN MUỐN SỞ HỮU
Thế Tôn nói: Duyên ái có thủ. Đây nói là duyên ái có thủ; nên biết, điều được nói là duyên ái có thủ. A-nan, nếu không có ái, mỗi loài và mỗi loài đều không có ái, thì giả sử tách rời ái, sẽ có thủ chăng? Thiết lập có thủ chăng?
A-nan đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Thế tôn nói: Cho nên biết rằng nhân của thủ, tập khởi của thủ, bản của thủ, duyên của thủ, gọi đó là ái. Vì sao? Vì duyên ái nên có thủ.
A-nan, đó là duyên ái có cầu, duyên cầu có lợi, duyên lợi có phân, duyên phân có nhiễm dục, duyên nhiễm dục có trước, duyên trước có keo kiệt, duyên keo kiệt có bủn xỉn, duyên bủn xỉn có bảo thủ.
A-nan, vì duyên bảo thủ nên có dao gậy, đấu tranh, dua siểm, lừa gạt, nói láo, nói hai lưỡi, khởi lên vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy là trọn đủ toàn khối khổ đau to lớn. (Trung A Hàm, Kinh Đại Nhân, Phẩm 9, số 97)
790. VÔ LƯỢNG PHÁP ÁC PHÁT SANH
Do niệm có dục, do dục có yêu và không yêu. Do yêu và không yêu có bỏn sẻn và ganh tị. Do bỏn sẻn và ganh tị mà sanh ra dao, gậy, đấu tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn khổ đau này phát sanh. (Trung A Hàm, Kinh Thích Vấn, Phẩm 11, số 134)
14. TIỂU KINH KHỔ UẨN
Như vầy tôi nghe. Một thời,... Mahànàma, dòng họ Sakka bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con đã hiểu như thế này lời dạy Thế Tôn: "Tham là cấu uế của tâm, sân là cấu uế của tâm, si là cấu uế của tâm". Tuy vậy, đôi lúc các tham pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các sân pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các si pháp chiếm cứ tâm con và an trú.
Bạch Thế Tôn, con tự suy nghĩ: "Pháp nào tự trong ta không đoạn trừ được, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các sân pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các si pháp xâm nhập tâm ta và an trú?"
-- Này Mahànàma, có một pháp trong Ông chưa được đoạn trừ, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm Ông và an trú, các sân pháp xâm nhập tâm Ông và an trú, các si pháp xâm nhập tâm Ông và an trú. Và này Mahànàma, pháp ấy trong Ông có thể đoạn trừ được, nếu Ông không sống trong gia đình, nếu Ông không thụ hưởng các dục vọng. Và này Mahànàma, vì pháp ấy trong Ông chưa được đoạn trừ, nên Ông sống trong gia đình và thụ hưởng các dục vọng.
Các dục vọng, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn. Này Mahànàma, nếu một vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy với như thật chánh trí tuệ, nhưng nếu vị này chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy vị ấy chưa khỏi bị các dục chi phối. Này Mahànàma, khi nào vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy với như thật chánh trí tuệ: "Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều. Sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn", và vị này chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy vị ấy không bị các dục chi phối.
Này Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: "Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn", dầu Ta có thấy với như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: "Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn", và Ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối.
Và này Mahànàma, thế nào là vị ngọt các dục? Này Mahànàma, có năm pháp tăng trưởng các dục này:
Các sắc pháp do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức...; các hương do mũi nhận thức...; các vị do lưỡi nhận thức...; các xúc do thân nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn. Này Mahànàma, có năm pháp tăng trưởng các dục như vậy. Này Mahànàma, y cứ vào năm pháp tăng trưởng các dục này, có lạc và hỷ khởi lên, như vậy là vị ngọt các dục.
Và này Mahànàma, thế nào là sự nguy hiểm các dục? Ở đây, này Mahànàma, có thiện nam tử nuôi sống với nghề nghiệp, như đếm ngón tay, như tính toán, như ước toán, như làm ruộng, như buôn bán, như chăn bò, như bắn cung, như làm công cho vua, như làm một nghề nào khác. Người ấy phải chống đỡ lạnh, phải chống đỡ nóng, phải chịu đựng sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng, mặt trời, các loài bò sát, bị chết đói chết khát. Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.
Này Mahànàma, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, nhưng các tài sản ấy không được đến tay mình, vị ấy than vãn, buồn phiền khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: "Ôi! Sự nỗ lực của ta thật sự là vô ích, sự tinh cần của ta thật sự không kết quả". Này Mahànàma, như vậy, là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục.
Này Mahànàma, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, và các tài sản ấy được đến tay mình, vì phải hộ trì các tài sản ấy, vị ấy cảm thọ sự đau khổ, ưu tư: "Làm sao các vua chúa khỏi cướp đoạt chúng, làm sao trộm cướp khỏi cướp đoạt chúng, làm sao lửa khỏi đốt cháy, nước khỏi cuốn trôi, hay các kẻ thừa tự không xứng đáng khỏi cướp đoạt chúng?" Dầu vị ấy hộ trì như vậy, giữ gìn như vậy, vua chúa vẫn cướp đoạt các tài sản ấy, trộm cướp vẫn cướp đoạt, lửa vẫn đốt cháy, nước vẫn cuốn trôi hay các kẻ thừa tự không xứng đáng vẫn cướp đoạt chúng. Vị ấy than vãn, buồn phiền, khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: "Cái đã thuộc của ta, nay ta không có nữa". Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này Mahànàma, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lị tranh đoạt với Sát-đế-lị, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-lamôn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt; họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá; họ công phá nhau bằng gậy; họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này Mahànàma, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này Mahànàma, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẩn, họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây, họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này Mahànàma, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các đường lớn, họ đi đến vợ người. Các vua chúa khi bắt được một người như vậy liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ cắt mũi, họ xẻo tai cắt mũi, họ dùng hình phạt vạc dầu, họ dùng hình phạt bối đồi hình (xẻo đỉnh đầu thành hình con sò), họ dùng hình phạt la hầu khẩu hình... Hỏa man hình (lấy lửa đốt thành vòng hoa)... chúc thủ hình (đốt tay)... khu hành hình (lấy rơm bện lại rồi siết chặt)... bì y hình (lấy vỏ cây làm áo)... linh dương hình (hình phạt con dê núi)... câu nhục hình (lấy câu móc vào thịt)... tiền hình (cắt thịt thành hình đồng tiền)... khối trấp hình... chuyển hình... cao đạp đài... họ tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm của dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này Mahànàma, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý. Do họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm các dục, đưa đến đau khổ tương lai, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục làm nhân.
Này Mahànàma, một thời Ta ở tại Rajagaha (Vương Xá), trên núi Gijjhakuta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, rất nhiều Nigantha (Ni-kiền Tử) tại sườn núi Isigili, trên Kalasila (Hắc Nham), đứng thẳng người, không chịu ngồi và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ đau, khốc liệt, bén nhạy. Này Mahànàma, rồi Ta vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến sườn núi Isigili, tại Kalasila chỗ các Nigantha ấy ở, khi đến nơi Ta nói với các Nigantha ấy: "Chư Hiền, tại sao các Ngươi lại đứng thẳng người, không chịu ngồi xuống và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ đau, khốc liệt, bén nhạy như vậy?"
Này Mahànàma, được nói vậy các Nigantha ấy trả lời Ta như sau: "Này Hiền giả, Nigantha Nataputta - là bậc toàn tri, toàn kiến, tự xưng là có tri kiến toàn diện như sau: 'Dầu ta có đi, có đứng, có ngủ và có thức, tri kiến luôn luôn được tồn tại liên tục ở nơi ta'. Vị ấy nói như sau: 'Này các Nigantha, nếu xưa kia Ngươi có làm ác nghiệp, hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này. Sự không làm ác nghiệp trong tương lai chính do sự hộ trì về thân, sự hộ trì về lời nói, sự hộ trì về ý ngay trong hiện tại, ở tại nơi đây. Như vậy chính nhờ sự thiêu đốt, sự chấm dứt các nghiệp quá khứ, sự không làm các nghiệp mới, mà không có sự tiếp tục trong tương lai. Do sự không tiếp tục trong tương lai, các nghiệp được diệt trừ; do nghiệp được diệt trừ, khổ được diệt trừ; do khổ được diệt trừ, cảm thọ được diệt trừ; do cảm thọ được diệt trừ, tất cả khổ đau sẽ được tiêu mòn'. Và vì chúng tôi chấp nhận điều ấy, và chúng tôi kham nhẫn điều ấy, nên chúng tôi được hoan hỷ."
Này Mahànàma, khi được nói vậy Ta nói với các Nigantha ấy như sau: "Chư Hiền Nigantha, các Ngươi có biết chăng, trong quá khứ, các Ngươi có mặt hay các Ngươi không có mặt?" --"Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết." --" Chư Hiền Nigantha, các Ngươi có biết chăng, trong quá khứ, các Ngươi không làm ác nghiệp hay có làm ác nghiệp?" --"Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết." --"Chư Hiền Nigantha, các Ngươi có biết chăng, các Ngươi không làm các nghiệp như thế này hay như thế kia?" --"Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết." --"Chư Hiền Nigantha, các Ngươi có biết chăng: Mức độ đau khổ như thế này đã trừ diệt, mức độ đau khổ như thế này cần phải trừ diệt? Hay, khi mức độ đau khổ như thế này đã được trừ diệt, thời tất cả đau khổ sẽ được trừ diệt?" --"Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết." --"Chư Hiền Nigantha, các Ngươi có biết chăng, sự đoạn trừ ngay trong hiện tại các bất thiện pháp và sự thành tựu
các thiện pháp?" --"Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết."
--"Chư Hiền, theo các Ngươi nói, Nigantha các Ngươi không biết: Trong quá khứ các Ngươi có mặt hay các Ngươi không có mặt; các Ngươi không biết, trong quá khứ các Ngươi không làm các ác nghiệp hay có làm các ác nghiệp; các Ngươi không biết các Ngươi không làm ác nghiệp như thế này hay như thế kia; các Ngươi không biết, mức độ đau khổ như thế này đã được trừ diệt, mức độ đau khổ như thế này cần phải trừ diệt; mức độ đau khổ như thế này đã được trừ diệt thời tất cả đau khổ sẽ được trừ diệt; các Ngươi không biết, sự đoạn trừ ngay trong hiện tại các bất thiện pháp và sự thành tựu các thiện pháp.
Chư Hiền Nigantha, sự kiện là như vậy thì những kẻ săn bắn ở đời, với bàn tay đẫm máu, làm các nghiệp hung dữ, được tái sanh trong loài người, những hạng ấy có xuất gia trong hàng ngũ Nigantha các Ngươi không?"
--"Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc phải thành tựu nhờ đau khổ. Hiền giả Gotama, nếu hạnh phúc có thể thành tựu nhờ hạnh phúc thì vua Magadha Seniya Bimbisara (Tần-bà-ta-la) có thể đạt được hạnh phúc, và vua Magadha Seniya Bimbisara sống hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama.
"Lời nói này thật sự đã được các Tôn giả Nigantha nói lên một cách hấp tấp, không có suy tư. Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc phải thành tựu nhờ đau khổ. Hiền giả Gotama, nếu hạnh phúc có thể thành tựu nhờ hạnh phúc, thời vua Magadha Seniya Bimbisara có thể đạt được hạnh phúc; và vua Magadha Seniya Bimbisara sống hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama. Và chính ta ở đây cần phải được hỏi như sau: 'Giữa các bậc Tôn Giả, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Tôn giả Gotama?'
"Hiền giả Gotama, lời nói này thật sự đã được chúng tôi nói lên một cách hấp tấp, không có suy tư: Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc, thời vua Magadha Seniya Bimbisara có thể đạt được hạnh phúc; và vua Magadha Seniya Bimbisara sống hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama. Hãy để yên sự việc như vậy. Nay chúng tôi hỏi Tôn giả Gotama: 'Giữa quý vị Tôn giả, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Tôn giả Gotama?'
--"Chư Hiền Nigantha, nay Ta sẽ hỏi các Ngươi một câu, cũng vấn đề này. Nếu các Ngươi vui lòng, hãy trả lời câu hỏi ấy. Chư Hiền Nigantha, các Ngươi nghĩ thế nào? Vua Magadha Seniya Bimbisara có thể không di động thân thể, không nói lên một tiếng, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn bảy ngày bảy đêm có được không?
--"Này Hiền giả, không thể được.
--"Chư Hiền Nigantha, các Ngươi nghĩ thế nào? Vua Magadha Seniya Bimbisara có thể không di động thân thể, không nói lên một tiếng, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn sáu ngày sáu đêm, luôn năm ngày năm đêm, luôn bốn ngày bốn đêm, luôn ba ngày ba đêm, luôn hai ngày hai đêm, luôn một ngày một đêm không?
--"Này Hiền giả, không thể được.
--"Chư Hiền Nigantha, Ta có thể không di động thân thể, không nói lên một lời, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn trong một ngày một đêm. Chư Hiền Nigantha, Ta có thể không di động thân thể , không nói lên một lời, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn trong hai ngày hai đêm, luôn trong ba ngày ba đêm, luôn trong bốn ngày bốn đêm, luôn trong năm ngày năm đêm, luôn trong sáu ngày sáu đêm, luôn trong bảy ngày bảy đêm. Chư Hiền Nigantha, các Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Ta?
--"Sự kiện là như vậy, Tôn giả Gotama sống hạnh phúc hơn vua Magadha Seniya Bimbisara."
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Mahànàma thuộc giòng họ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn. (Nguồn: Tiểu Kinh Khổ Uẩn)
+ Tranh chấp:
146. CHÚNG ĐỆ TỬ CỦA NHƯ LAI THẬT KHÉO THÚ HƯỚNG
Vua Ba Tư Nặc thưa: Bạch Thế Tôn, khi con ngồi trên đô tọa, con nhìn thấy mẹ tranh chấp với con, con tranh chấp với mẹ; cha tranh chấp với con, con tranh chấp với cha; cho đến anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc tranh chấp lẫn nhau. Trong khi tranh chấp, mẹ nói con xấu, con nói mẹ xấu, cha con, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc nói xấu lẫn nhau. Người thân thích trong nhà còn như thế, huống nữa là người ngoài.
Còn ở đây, con thấy chúng Tỳ-kheo, đệ tử của Thế Tôn theo Thế Tôn tu hành phạm hạnh. Hoặc nếu có Tỳ-kheo nào gây ra ít nhiều tranh chấp, xả giới bỏ đạo cũng không nói xấu Phật, không nói xấu pháp, không nói xấu chúng Tăng, mà chỉ tự chê trách rằng, ‘Tôi xấu xa, thiếu đức hạnh. Tại sao như vậy? Vì tôi không thể theo Thế Tôn trọn đời tu hành phạm hạnh’. Đó là sự loại suy về pháp của con đối với Thế Tôn. Do đó con nghĩ rằng, ‘Pháp được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác giảng dạy thật là toàn thiện. Chúng đệ tử của Thế Tôn thật là khéo thú hướng’. (Trung A Hàm, Kinh Pháp Trang Nghiêm, Phẩm 18, số 213)
389. LỤC HÒA - Pháp ủy lao
1) Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh, pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn
2) Khẩu nghiệp nói năng từ hòa
3) Ý nghiệp từ hòa
4) Lợi hòa là có lợi lộc nào đúng pháp mà được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia xẻ cho các vị đồng phạm hạnh, pháp đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn
5) Giới hòa: Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất, được Thánh khen ngợi, đầy đủ khéo thọ trì. Với giới phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lao, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
6) Kiến hòa: Nếu có kiến giải của Thánh có sự xuất yếu, được thông suốt bằng tuệ kiến, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lao là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
Ta vừa nói sáu pháp ủy lao, vì vậy mà ta giảng giải. Nếu các ngươi đối với sáu gốc rễ của đấu tranh mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp đình chỉ đấu tranh, khi trong Tăng chúng khởi lên đấu tranh, thì chấm dứt bằng luật đình chỉ đấu tranh như quăng bỏ giẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lao ấy, như vậy sau khi Ta khuất bóng, các con sống cộng đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, khoái lạc du hành như lúc Ta còn tại thế. (Trung A Hàm, Kinh Châu Na, Phẩm 16, số 196)
+ Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.
1. Từ là có thể cho niềm vui. Chúng ta có cho chúng sanh niềm vui không? Nếu như không có, đó tức là chúng ta không dùng hết lòng từ của mình. Chúng ta nên tiến đến mục tiêu “vô duyên đại từ,” là dùng lòng từ bi đối xử với những người không có duyên với mình. Chúng ta không những thông cảm với người cùng trong hoàn cảnh khó khăn, mà chúng ta cũng nên thông cảm với cả loài động vật trong cảnh hoạn nạn nữa. Nếu có chuyện không may xảy ra, chúng ta nên ra tay tiếp đỡ, giúp chúng sanh thoát vòng khổ hải. Đấy là công việc mà Phật tử nên làm. Chúng ta đừng nên có thái độ dửng dưng, chỉ biết đứng nhìn mà không chịu giúp, vì thế là đánh mất tinh thần cứu thế của Phật Giáo. Trái lại, Phật Giáo lấy từ bi làm hoài bão, dùng cửa phương tiện của đạo Phật để tiếp nhận chúng sanh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ 748. TỪ TÂM MÀ KHỞI
Nếu có Tỳ-kheo thủ hộ thành thật, thì vị ấy do thủ hộ thành thật cho nên được hỷ, được duyệt. Nếu có hỷ và duyệt tương ưng với thiện, Ta nói sự kiện đó từ tâm mà khởi.
Thế nào gọi là từ tâm mà khởi? Nếu tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh chấp, là do tu tập những pháp ấy. Như vậy, vị ấy, được hành sự bố thí, được sự tụng tập, được sự hành khổ hạnh, được sống Phạm hạnh. Vị ấy do sống Phạm hạnh cho nên được hỷ, được duyệt.
Nếu có hỷ và duyệt tương ưng với thiện, Ta nói sự kiện ấy từ tâm mà khởi. Thế nào gọi là từ tâm mà khởi? Nếu tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh chấp, tâm ấy đi đôi với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trụ; cũng vậy, hai, ba, bốn phương, tứ duy, trên dưới, bao trùm tất cả, tâm đi đôi với từ, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ; cũng vậy, với bi và hỷ. Tâm đi đôi với xả, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ.
Cũng như có người khéo thổi tù và. Nếu có phương nào chưa nghe được, người ấy vào lúc nửa đêm, leo lên núi cao, đem hết sức thổi tù và, phát ra âm thanh vi diệu, biến mãn cả bốn phương; cũng vậy, Tỳ-kheo tâm đi đôi với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trụ; cũng vậy, hai, ba, bốn phương, tứ duy, trên dưới, bao trùm tất cả, tâm đi đôi với từ, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn cả thế gian, thành tựu an trụ; cũng vậy với bi và hỷ. Tâm đi đôi với xả, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh chấp, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 12, số 152)
384. LOẠI TRỪ NIỆM DỤC
Khi sanh niệm dục, Ta không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ; sanh niệm nhuế, niệm hại cũng không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ. Vì sao vậy? Vì Ta thấy rằng, nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện.
Ví như vào tháng cuối xuân, vì đã trồng lúa nên đất thả bò không được rộng. Người chăn bò thả bò nơi đầm ruộng, bò vào đất người, nó liền cầm roi đến ngăn lại. Vì sao vậy? Vì người chăn bò biết rằng nhân nơi đó mà có lỗi lầm là sẽ bị chửi, bị đánh, bị trói. Do đó, chăn bò cầm roi đến ngăn lại. Ta cũng như vậy, sanh niệm dục, không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ. Sanh niệm nhuế, niệm hại cũng không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ. Vì sao vậy? Vì Ta thấy nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện. (Trung A Hàm, Kinh Niệm, Phẩm 9, số 102)
+ Bố thí thanh tịnh: 383. LOẠI BỐ THÌ NÀO ĐƯỢC THANH TINH
1) Thế nào gọi là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh, không phải do người thọ nhận?
Là thí chủ thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’.
Còn người thọ nhận thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’.
2) Thế nào gọi là loại bố thí do người thọ nhận thanh tịnh, không phải do thí chủ?
Là thí chủ thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo.
Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’. Còn người thọ nhận thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’.
3) Thế nào gọi là loại bố thí không phải do thí chủ thanh tịnh, cũng không phải do người thọ nhận?
Là thí chủ thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo.
Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’. Và người thọ nhận cũng không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’.
4) Thế nào gọi là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh và người thọ nhận cũng vậy?
Là thí chủ thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’. Và người thọ nhận cũng tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’. (Trung A Hàm, Kinh Cù-đàm-di, Phẩm 14, số 180)
+ 1- Sự hào phóng siêu nhiên
Hào phóng là khả năng mở rộng lòng ta để hiến dâng tất cả cho kẻ khác. Đó là liều thuốc hoá giải mọi sự bủn xỉn và bần tiện, mọi tính toán, mưu đồ và tham lam. Giàu có không đơn thuần căn cứ trên phương diện vật chất và tiền bạc, nhưng còn dựa trên khía cạnh tinh thần, học thức và khả năng yêu thương. Vì thế, mỗi người trong chúng ta đều có một chút gì để cho, để hiến dâng cho kẻ khác. Bố thí Ba-la-mật không phải tùy thuộc vào số lượng vật chất hiến dâng mà chính là khả năng mà ta có thể đặt lòng ta vào hai bàn tay của kẻ khác. Khi càng ý thức được thế nào là ích kỷ thì ta lại càng biết mở rộng lòng ta trước những kẻ khổ đau. Có những người rất nghèo, và cũng không có vốn liếng học thức cao, nhưng họ có thể bật khóc trước cảnh khổ đau và cơ hàn của kẻ khác. Ngoài tình thương ra, họ không có gì để hiến dâng, nhưng chính đó mới thật là bố thí. (Nguồn: Lục Ba La mật)
+ Siêu Bố thí - Bồ Tát Bố thí Ba La Mật: Chi tiết xin mời xem trong Kinh Hoa Nghiêm. hàng Bồ tát tu bố thí Ba la mật không tiếc cả thân mạng của mình, sẵn sàng chết để chúng sanh khác được sống.
+ Bố Thí Ba La Mật: ... Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Đàn Ba la mật: Lìa ngã mà bố thí, lìa vì ngã mà bố thí, lìa thương yêu mà bố thí, lìa vô minh kiến mà bố thí, lià tướng bỉ ngã mà bố thí, lìa các suy tưởng mà bố thí, lìa hy vọng báo Đáp mà bố thí, lìa bỏn xẻn ganh ghét mà bố thí, tâm bình Đẳng như hư không mà bố thí. Đây là tám pháp mà Bồ Tát thành tựu thì có thể tịnh Đàn Ba la mật . Tám pháp ly nầy gọi là tịnh thí . Như hư không không có chỗ nào là chẳng Đến, Bồ Tát từ tâm bố thí cũng như vậy. Như hư không chẳng phải sắc chẳng thấy Được, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa nơi các sắc cũng như vậy. Như hư không chẳng cảm thọ khổ vui, Bồ Tát hành thí rời lìa các sự khổ vui cũng như vậy . Như hư không không có tưởng biết, Bồ Tát hành thí rời lìa các ý tưởng cũng như vậy . Như hư không là tướng vô vi, Bồ Tát hành thí vô vi vô tác cũng như vậy . Như hư không hư giả vô tướng, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa thức tưởng cũng như vậy . Như hư không tăng ích tất cả chúng sanh, Bồ Tát hành thí lợi ích tất cả chúng sanh cũng như vậy . Như hư không vô biên vô tận, Bồ Tát hành thí ở trong sanh tử không có cùng tận cũng như vậy. (Nguồn: Phẩm Hư Không Tạng Bồ Tát)
382. LẤY CỦA KHÔNG CHO
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Ai lấy của không cho tất phải chịu quả báo ác trong đời này và đời sau. Nếu ta lấy của không cho, ấy là gây hại mình và cũng xuyên tạc hủy báng người khác. Chư Thiên và các vị phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta, các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta, thân hoại mạng chung tất sẽ đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Ai lấy của không cho phải chịu ác báo trong đời này và đời sau như vậy, nay ta có nên y trên xa lìa lấy của không cho mà đoạn trừ sự lấy của không cho chăng?’ Rồi vị ấy y trên xa lìa lấy của không cho mà đoạn trừ sự lấy của không cho.
Như vậy, Đa văn Thánh đệ tử y trên xa lìa lấy của không cho mà đoạn trừ sự lấy của không cho. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
+ 202. DO BỦN XỈN MÀ CÓ CHẤP THỦ
- Bảo Thủ - Keo kiệt: Nhân của bảo thủ, tập khởi của bảo thủ, bản của bảo thủ, duyên của bảo thủ, gọi đó là keo kiệt vậy. Vì sao? Vì duyên keo kiệt nên có bảo thủ.
204. DO ĐẮM TRƯỚC MÀ CÓ BỎN XẺN
Nhân của bỏn sẻn, tập khởi của bỏn sẻn, bản nguyên của bỏn sẻn, duyên của bỏn sẻn, gọi đó là đắm trước. Vì sao? Vì duyên đắm trước nên có bỏn sẻn.
205. DO DỤC MÀ BỊ THOÁI CHUYỂN
Dục tuyệt đối không có lạc, chỉ có vô lượng khổ hoạn. Đa văn Thánh đệ tử nếu không biết đúng như thật, vị ấy bị dục phủ kín, không đạt được an lạc do xả và vô thượng tịch tĩnh. Ma-ha-nam, Đa văn Thánh đệ tử như vậy sẽ nhân nơi dục mà bị thoái chuyển. (Trung A Hàm, Kinh Khổ Ấm, Phẩm 9, số 100)
206. DO DỤC MÀ CÓ ĐẮM TRƯỚC
Nhân của đắm trước, tập khởi của đắm trước, bản của đắm trước, duyên của đắm trước, gọi đó là dục. Vì sao? Vì duyên dục nên có đắm trước. (Trung A Hàm, Kinh Đại Nhân, Phẩm 9, số 97)
207. DO KHÔNG CHẤP THỦ NÊN KHÔNG SỢ HÃI
Những gì thuộc về sáu kiến xứ ấy mà thấy không phải là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của chúng, cũng không phải là thần ngã, và do không kiến chấp như vậy, nên không chấp thủ thế gian này.
Do không chấp thủ thế gian này nên không có sợ hãi. Do không sợ hãi mà chứng đắc Niết-bàn, biết như thật rằng, ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. (Trung A Hàm, Kinh A-lê-tra, Phẩm 16, số 200)
354. KHÔNG THỦ, KHÔNG SỢ HÃI
Nếu Tỳ-kheo nào ly sắc nhiễm, ly sắc dục, ly sắc ái, ly sắc khát, thì vị ấy không muốn được sắc, không truy cầu sắc, không đắm trước sắc, không trú vào sắc nghĩ rằng ‘Sắc không phải là ta. Sắc không phải là sở hữu của ta’. Vị ấy đã không muốn được sắc, không truy cầu sắc, không đắm trước sắc, không trú vào sắc nghĩ rằng ‘Sắc không phải là ta. Sắc không phải là sở hữu của ta’ thì thức không nắm bắt sắc. Khi thức đã không nắm bắt sắc, lúc ấy sắc biến dịch, thức không bị chuyển theo sắc. Thức đã không bị chuyển theo sắc thì vị ấy không sanh sợ hãi, tâm không trú vào trong đó. Nhơn vì tâm biết nên không khiếp sợ, không lao nhọc, không chấp thọ, không sợ hãi.
Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức; Tỳ-kheo ly thức nhiễm, ly thức dục, ly thức ái, ly thức khát. Nếu Tỳ-kheo nào ly thức nhiễm, ly thức dục, ly thức ái, ly thức khát thì vị ấy không muốn đắc thức, không truy cầu thức, không đắm trước thức, không trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức không phải là ta. Thức không phải là sở hữu của ta’. Tỳ-kheo ấy khi đã không muốn được thức, không truy cầu thức, không đám trước thức, không trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức không phải là ta. Thức không phải là của ta’, thì thức không nắm bắt thức. Khi thức đã không nắm bắt thức, lúc thức kia biến dịch, thức không bị chuyển theo thức. Khi thức không bị chuyển theo thức, Tỳ-kheo ấy không sanh sợ hãi, tâm không trú vào trong đó. Nhơn vì tâm biết nên không khiếp sợ, không lao nhọc, không chấp thọ, không sợ hãi.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo không chấp thủ, không sợ hãi. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, Phẩm 13, số 164)
208. ĐỐ KỴ
Thế nào là Đa văn Thánh đệ tử y trên không đố kỵ thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ thù nghịch? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Ai đố kỵ thù nghịch tất phải thọ ác báo đời này và đời sau. Nếu ta đố kỵ thù nghịch ấy là tự hại và cũng xuyên tạc hủy báng người khác. Chư Thiên và các vị phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta, các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta. Khi thân hoại mạng chung tất phải đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Ai đố kỵ thù nghịch tất phải thọ ác báo này đời này và đời sau như vậy, nay ta có nên y cứ trên không đố kỵ thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ thù nghịch chăng?’ Rồi vị ấy y cứ trên không đố kỵ thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ thù nghịch. Như vậy, Đa văn Thánh đệ tử y cứ trên không đố kỵ thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ thù nghịch. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
213. ĐOAN CHÁNH
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có thân hình đoan chánh? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào tánh không nóng nảy, không hay bực dọc, người ấy nghe lời nói êm ái hay thô bỉ cục cằn không nổi cơn giận dữ, không ganh ghét sanh ra buồn rầu, không nổi thịnh nộ tranh chấp.
Người ấy thọ nghiệp, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời lại sanh vào nhân gian, hình thể đoan chánh. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
324. KHÔNG ĐOAN CHÁNH
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có thân hình không đoan chánh? Nếu có kẻ nam hay người nữ mà tánh nóng nảy, hay bực dọc, vừa nghe chút ít đã nổi cơn giận dữ, nổi ganh ghét mà sanh lo buồn, nổi thịnh nộ tranh chấp. Người ấy thọ lấy nghiệp này, tạo tác đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, hình thể không đoan chánh. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
(Nguồn:Trung A Hàm, Kinh Đại Nhân, Phẩm 9, số 97)
+ Sợ hãi: Phương pháp để bảo đảm an toàn cho họ (Người phụng sự nhân loại) trong cuộc xung đột hiện tại và trong cuộc xung đột còn lớn lao hơn của các thế kỷ sắp đến?
1. Hãy nhận thức rằng sự thanh khiết của tất cả các thể là điều kiện tiên quyết. Nếu một vị Hắc đạo chế ngự được một người nào thì điều ấy chứng tỏ rằng cuộc sống y có một vài nhược điểm. Cánh cửa xâm nhập phải do người đó tự mở ra, và kẽ hở mà sức mạnh độc hại có thể tràn vào phải do chủ nhân các thể tự tạo. Vì thế cần phải thận trọng gìn giữ xác thân hết sức sạch sẽ, chỉ có những tình cảm thanh khiết, vững vàng trong thể tình cảm, và tư tưởng trong thể trí phải thật thanh cao. Khi làm được như vậy, sẽ có sự điều hợp trong các hạ thể và Người suy tưởng (Chân ngã) ở nội tâm sẽ ngăn được mọi sự xâm nhập.
2. Hãy chấm dứt mọi nỗi sợ hãi. Những mãnh lực thăng thượng tiến hóa rung động mau lẹ hơn các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, đây có thể hiểu là yếu tố an toàn. Sự sợ hãi làm suy yếu; suy yếu làm tan rã; một điểm yếu vỡ ra tạo nên khoảng trống, qua đó mãnh lực ác hại có thể xâm nhập. Yếu tố xâm nhập là sự sợ hãi của chính đương sự, y tự mở ra cánh cửa theo cách đó.
3. Hãy điềm tĩnh, vững vàng dù điều gì xảy ra cũng vậy. Chân bạn có thể chìm trong bùn lầy của mặt đất, nhưng đầu bạn có thể tắm trong ánh nắng mặt trời ở trên cao. Hãy nhận biết bùn lầy của thế gian nhưng đừng để bị nhiễm bẩn.
4. Hãy biết cách dùng lương tri và áp dụng lương tri vào vấn đề đang có. Hãy ngủ nhiều và trong khi ngủ tìm cách làm cho cơ thể trở nên tích cực. Hãy cố gắng làm công việc trên cõi tình cảm và giữ gìn sự an tịnh nội tâm. Đừng bắt thân xác làm việc quá mệt mỏi, và chơi đùa bất cứ khi nào có dịp. Những giờ ngơi nghỉ, thư thả giúp điều chỉnh, ngăn ngừa những sự căng thẳng về sau.(TVTTHM, 138)
+ Sự sợ hãi có mức rung động thấp nhất theo khoa học. Cho lên ta cần loại bỏ sự sợ hãi hoàn toàn, vun bồi sự can đảm vô biên với tình thương vô hạn, giúp bạn mạnh khỏe, sống lâu.
+ Sợ hãi. Đây là một trong các biểu lộ thông thường nhất của năng lượng cảm dục, và được đưa ra đầu tiên bởi vì đối với đại đa số con người, nó tạo thành Kẻ Chận Ngõ/Tổng Quả (Dweller on the Threshold), và xét cho cùng cũng là điều sai trái căn bản của thể cảm dục. Mỗi người đều biết sợ hãi, và phạm vi của các rung động do sợ hãi mở rộng từ những nỗi sợ theo bản năng của người bán khai, dựa trên sự thiếu hiểu biết của y về các định luật và các mãnh lực của thiên nhiên, và dựa trên sự khiếp sợ của y đối với bóng tối và cái không biết, đến các nỗi sợ hãi rất phổ biến ngày nay về việc mất bạn bè và những người thân yêu, về sức khỏe, về tiền bạc, về sự mến mộ và tiếp đến là những nỗi sợ hãi cuối cùng của người tìm đạo – nỗi sợ thất bại, nỗi sợ có nguồn gốc từ sự nghi ngờ, nỗi sợ về sự phủ định cuối cùng hoặc về sự hủy diệt, sợ cái chết (mà y cùng chia sẻ với tất cả nhân loại), nỗi sợ về đại ảo tưởng của cõi cảm dục, về ảo ảnh (phantasmagoria) của chính sự sống, và cũng sợ về sự đơn độc trên Thánh Đạo, thậm chí đến chính sự sợ hãi về bản thân Nỗi Sợ. Danh sách này có thể được mở rộng nhiều nữa nhưng đủ để cho thấy sự thịnh hành của những nỗi sợ hãi thuộc đủ loại. Chúng thống trị hầu hết các tình huống và làm đen tối nhiều khoảnh khắc hạnh phúc. Chúng biến con người thành một vi tử rụt rè và nhút nhát của sự sống tri giác, sợ hãi trước sự kỳ diệu của các vấn đề sự sống, nhận thức sự thiếu sót của y như một người đương đầu với mọi tình huống và không thể để lại phía sau những sợ hãi và những nghi vấn của y, và bước vào di sản của sự tự do và của sự sống của y. Thường thì y bị nỗi sợ đè nặng đến nỗi y trở nên sợ chính lý trí của mình. Sự việc không thể bị nhuốm màu quá đen tối, vì sợ hãi là năng lượng cảm dục chiếm ưu thế vào lúc này, còn nhân loại nhạy cảm thì chịu thua nó hoàn toàn quá dễ dàng.
Bạn hỏi: Các nguyên nhân cơ bản của sự sợ hãi là gì? Trước câu hỏi đó, nếu trở lại đủ xa vào lịch sử huyền bí của thái-dương-hệ thì không đưa ra được câu trả lời dễ hiểu nào. Chỉ có điểm đạo đồ tiến hóa mới có thể hiểu được. Nguồn gốc của sự sợ hãi ở trong cơ sở của chính vật chất, và hơn hết là một thể hiện hoặc hiệu quả của nguyên khí trí tuệ, và là một kết quả của hoạt động trí tuệ. Sự kiện rằng các loài chim chóc và thú vật biết sợ hãi đặt toàn bộ vấn đề trên một cơ sở rộng lớn hơn là nếu nó chỉ là một nhược điểm của con người, và là kết quả của hoạt động chức năng của tâm trí con người. Nó không liên quan với việc con người có một thể trí biết suy luận; nếu y dùng lý trí của mình đúng cách thì y đã có thể loại bỏ sự sợ hãi. Sự sợ hãi nằm trong cái gọi là Tà-Lực vũ trụ (cosmic Evil) – một cụm từ nghe có vẻ cao siêu, nhưng không truyền đạt gì nhiều. Nó vốn có trong sự thật về chính vật chất, và trong sự tác động của các cặp đối ứng – linh hồn và vật chất. Các linh hồn có tri giác của động vật và của con người có ý thức tiềm tàng về các yếu tố như:
1. Tính bao la và do đó sự đè nặng được cảm nhận của Tổng Thể.
2. Áp lực của mọi sự sống và sự hiện tồn khác.
3. Hoạt động của Định Luật không thể lay chuyển.
4. Ý thức về sự giam giữ, về sự hạn chế, và về sự không thỏa đáng tương ứng.
Trong các yếu tố này, phát sinh từ chính tiến trình biểu lộ, kiên trì và phát triển uy lực trong các thời đại, người ta tìm thấy các nguyên nhân của mọi nỗi sợ hãi hiện đại, và cơ sở của mọi nỗi khiếp sợ, trên tất cả là sự sợ hãi vốn hoàn toàn thuộc về tâm lý chứ không chỉ là nỗi sợ hãi theo bản năng của loài vật. (LVHLT, 298)
+ 1. Sợ chết: Tôi (Chân Sư DK) nói về Cái Chết như là một người hiểu biết vấn đề từ cả kinh nghiệm về thế giới bên ngoài lẫn sự biểu hiện của đời sống nội tâm: − Không hề có cái chết nào cả. Như bạn biết, chỉ có sự tiến nhập vào sự sống sung mãn hơn. Có sự giải thoát khỏi các cản trở của hiện thể nhục thân. Diễn trình giằng xé quá khủng khiếp như thế không có, ngoại trừ trong các trường hợp của cái chết dữ dội và cái chết đột ngột, lúc đó có các khó chịu thật sự duy nhất là một cảm giác ngắn ngủi và lấn át về tình trạng nguy hiểm và sự hủy diệt sắp xảy ra, và một cái gì đó rất giống như một cú sốc điện. Không còn gì nữa.
+ 2. Sợ Hãi đối với Tương Lai.
Đây là một nỗi sợ mà cho đến nay sẽ cho thấy một xu hướng phát triển ngày càng tăng và sẽ gây ra nhiều đau khổ trên thế giới trước khi nó được xóa sạch. Nó phát sinh từ ba khả năng của con người:
a/ Các thói quen suy tư thuộc tâm lý bản năng, vốn có nguồn gốc sâu xa trong bản chất động vật và quay trở lại với bản năng tự sinh tồn nguyên thủy...
b/ Các chớp lóe của sự tiên kiến (prevision) phát ra từ linh hồn đang ở trong tâm thức của Hiện Tại Vĩnh Cửu (Eternal Now)...Y sẵn sàng cho một sự xem xét cẩn thận về thông điệp của Đức Phật, và y sẵn sàng, vì y đã bị giày vò trong nhiều thế kỷ bởi chiến tranh và nạn đói, bởi dục vọng và sự vật lộn vì kinh tế. Viễn cảnh mà y nhìn thấy trước mắt có vẻ đen tối, nguy hiểm và đầy thảm họa do tai biến.
c/ Nỗi sợ do đồng hóa sợ hãi ở bên ngoài: Một số lớn nỗi đau khổ và sợ hãi cá nhân mà một cá nhân có thể nhận lãnh, nhưng không có liên quan tới y một chút nào.... Khổ thay, đây là trường hợp mà ngày nay có đến hàng ngàn linh hồn có đạo tâm nhạy cảm, thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý các nghiệp quả thế gian, mở rộng lòng trước sự đau khổ của những người khác và không thể phân biệt giữa vận mệnh của chính họ trong tương lai trước mắt, với vận mệnh của những người khác trong hoàn cảnh của họ.
+ Sợ sệt (Fear, sợ hãi, lo ngại): Nên loại bỏ mọi sự sợ sệt. Các mãnh lực tiến hóa thăng thượng (evolution) rung động mau hơn là các mãnh lực tiến hóa giáng hạ (involution) và trong sự kiện này có hàm chứa một sự an toàn có thể nhận thức được. Sợ sệt tạo ra yếu đuối (weakness). Yếu đuối tạo ra tan rã (disintegration); chỗ bị yếu sẽ gảy vỡ và lỗ hổng xuất hiện, tà lực có thể xâm nhập vào qua lỗ hổng đó. Yếu tố xâm nhập là sự sợ sệt của chính con người, con người mở cánh cửa (cho tà lực) như thế đó. (TVTTHL, 137)
355. KHÔNG THÙ MÀ SỢ HÃI
Nếu Tỳ-kheo nào không ly thức nhiễm, không ly thức dục, không ly thức ái, không ly thức khát, thì vị ấy muốn được thức, truy cầu thức, đắm trước thức, trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức là ta. Thức là sở hữu của ta’. Vị ấy khi đã muốn được thức, truy cầu thức, đắm trước thức, trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức là ta. Thức là sở hữu của ta’ thì thức nắm bắt thức. Sau khi thức nắm bắt thức, lúc thức ấy biến dịch thì thức cũng bị chuyển theo thức. Sau khi thức đã bị chuyển theo thức, Tỳ-kheo ấy sanh sợ hãi, tâm trú vào trong đó. Nhơn vì tâm không biết nên sanh khiếp hãi, lao nhọc, không chấp thọ mà sợ hãi.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo không chấp thọ mà sợ hãi. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, Phẩm 13, số 164)
235. ĐÚNG ĐƯỜNG LỐI LÀ TU CÓ THÀNH TỰU
Ví như có người muốn lấy sữa, cho bò ăn uống no nê rồi vắt sữa nơi vú nó thì chắc chắn lấy được sữa. Dù không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện, vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, nếu người ấy muốn lấy sữa, cho bò ăn no nê rồi vắt nơi vú nó, thì chắc chắn lấy được sữa. Vì sao vậy? Vì tìm cầu sữa một cách chân chánh, là vắt nơi vú con bò.
Cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí chánh kiến, chánh kiến định, người ấy có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chánh, chắc chắn sẽ chứng quả.
Nếu không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách chân chánh thì chắc chắn sẽ chứng quả. Vì sao vậy? Vì tìm cầu quả vị một cách chân chánh, là đúng đường lối. (Trung A Hàm, Kinh Tâm, Phẩm 14, số 172)
326. KHÔNG ĐÚNG ĐƯỜNG LỐI
Ví như có người muốn lấy sữa mà lại vắt nơi sừng con bò thì chắc chắn không lấy được sữa. Dù không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, nếu người ấy muốn lấy sữa mà lại vắt nơi sừng con bò thì chắc chắn không lấy được sữa. Vì sao vậy? Vì tìm cầu sữa một cách tà vạy, tức là vắt nơi sừng con bò vậy.
Cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí tà kiến, tà kiến định, người ấy có ước nguyện nhưng tu hành phạm hạnh một cách tà vạy nên chắc chắn không thể chứng quả. Không có ước nguyện, hoặc vừa có ước nguyện, hoặc vừa không có ước nguyện, hoặc chẳng phải có ước nguyện, chẳng phải không có ước nguyện, tu hành phạm hạnh một cách tà vạy thì chắc chắn không thể chứng quả. Vì sao vậy? Vì tìm cầu quả vị một cách tà vạy, là không đúng đường lối. (Trung A Hàm, Kinh Tâm, Phẩm 14, số 172)
+ Sống trong hận thù: Tật đố và san tham hay Đố kị và ích kỷ là nguồn gốc phát sanh.
1. Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi đầu tiên:
- Bạch Thế Tôn, do kiết sử gì, các loài ..., dân chúng ao ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù?
Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:
- Do tật đố (Đố kị) và xan tham (Ích kỷ/ Bỏn xẻn/ Keo kiệt của Tâm tham lam). Thế nên với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù.
2. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ câu trả lời Thế Tôn, liền hỏi câu hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn, tật đố, xan tham, do nhân duyên gì, do tập khởi gì, cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì tật đố, xan tham có mặt? Cái gì không có mặt, thì tật đố xan tham không có mặt?
- Này Thiên chủ, tật đố và xan tham do ưa ghét làm nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét khiến chúng sanh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện hữu, ưa ghét có mặt thì tật đố, xan tham có mặt; ưa ghét không có mặt thì tật đố, xan tham không có mặt.
- Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì ưa ghét có mặt? Cái gì không có mặt thì ưa ghét không có mặt?
- Này Thiên chủ, ưa ghét do dục làm nhân duyên, do dục làm tập khởi, dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng hiện hữu. Dục có mặt thì ưa ghét có mặt; dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt.
- Bạch Thế Tôn, nhưng dục do nhân duyên gì khiến dục sanh khởi, khiến dục hiện hữu? Cái gì có mặt thì dục có mặt? Cái gì không có mặt thì dục không có mặt?
- Này Thiên chủ, dục do tầm/ Suy nghĩ làm nhân duyên, do tầm làm tập khởi; tầm khiến dục sanh khởi, tầm khiến dục hiện hữu. Tầm/ Suy nghĩ có mặt thì dục có mặt; tầm không có mặt thì dục không có mặt. (Khi tâm suy nghĩ về một đối tượng thì tham dục sinh khởi, khi tâm không suy nghĩ gì thì tham dục không sinh khởi).
- Bạch Thế Tôn, tầm/ Suy nghĩ lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi? Cái gì khiến tầm sanh khởi, cái gì khiến tầm hiện hữu? Cái gì có mặt thì tầm có mặt? Cái gì không có mặt thì tầm không có mặt?
- Này Thiên chủ, tầm lấy cái loại vọng tưởng hý luận làm nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tướng hý luận khiến tầm sanh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm hiện hữu. Do các loại vọng tưởng hý luận có mặt thì tầm có mặt. Do các loại vọng tưởng hý luận không có mặt thì tầm/ Suy nghĩ không có mặt". (Trường Bộ Kinh II, 21.Đế Thích Sở Vấn)
+ 267. HAY BỊ BỊNH
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ đa phần có tật bệnh? Nếu có kẻ nam hay người nữ nhiễu hại chúng sanh; người ấy hoặc nắm tay, hoặc dùng cây đá, hoặc dùng dao gậy nhiễu hại chúng sanh.
Người ấy thọ nghiệp này, tạo thành nghiệp ấy đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, chịu nhiều tật bệnh. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Dung mạo xấu xí:
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật, đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ trong chừng một bữa ăn, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn. Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân gái, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ, cho đến Vương Phi, hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả, đoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn.
Do chí tâm chiêm lễ hình tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế."
Lược giảng:
Ðức Phật dạy tiếp: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật..."
Trên thế gian này, cùng là con người song tại sao có người thì tướng mạo đẹp đẽ xinh xắn, có người lại xấu xí cục mịch? Hoặc có người thì thân thể tráng kiện, có người lại ốm đau quặt quẹo? Vì lẽ gì mà có những sự khác biệt như thế?
Có mười nghiệp dữ (Thập Ác Nghiệp) khiến cho tướng mạo con người bị xấu xí; những gì là mười?
- Ác nghiệp thứ nhất là thường hay phẫn nộ, thích sanh lòng căm phẫn. Chữ "phẫn" này là một trong hai mươi thứ phiền não; còn "nộ" là phát cáu, nổi giận.
Người nữ đa số dễ nổi nóng, dễ giận hờn. Tuy rằng không phải người nữ nào cũng như vậy, nhưng phần đông thì đều là dễ nổi giận; họ có thể vì một cây kim hay một sợi chỉ mà sanh ra giận dữ, tức tối. Nổi giận, nổi nóng là đặc tính của người nữ.
- Ác nghiệp thứ hai là trong lòng thường chất chứa một mối hiềm nghi và ghét hận. Người nữ thường có tánh đa nghi, cái gì cũng hoài nghi cả; lại còn có thêm lòng phẫn hận nữa. Họ "hận người," cho rằng ai cũng có lỗi, cũng đắc tội với mình, cũng đáng cho mình thù ghét cả.
- Ác nghiệp thứ ba là gì? Là ưa nói dối, thích mê hoặc người khác—làm cho người khác bị điên điên đảo đảo, không biết thế nào cho phải nữa.
- Ác nghiệp thứ tư là gì? Là thích não loạn chúng sanh—đa số người nữ rất thích điều này.
- Ác nghiệp thứ năm là không có lòng ái kính chân thành đối với cha mẹ; cũng có người có vậy, nhưng đa số thì không.
- Ác nghiệp thứ sáu là không sanh tâm cung kính đối với nơi chốn tôn nghiêm của Thánh Hiền và Thiện Thần. (Những vị tu học Phật Pháp mà chứng quả A La Hán đều được gọi là bậc "Thánh Hiền.") Thậm chí ở trước mặt đức Phật, ở chùa chiền, đa số người nữ cũng không sanh lòng cung kính, không có được lòng cung kính chân chánh.
- Ác nghiệp thứ bảy là xâm đoạt tài sản ruộng vườn nhu yếu của Thánh Hiền. Ác nghiệp này chỉ nói về một số người nữ mà thôi, chứ không phải ai cũng như vậy. "Xâm đoạt" tức là cướp lấy, chiếm đoạt một cách ngang ngược.
- Ác nghiệp thứ tám là thường dập tắt những ngọn đèn thắp trước tượng Phật ở trong chùa hoặc trong tháp thờ Phật, không để đèn tiếp tục cháy sáng nữa. Ðây là hành vi thứ tám dẫn đến quả báo xấu xí. Thật ra, cũng rất ít người nữ nào lại thổi tắt đèn thắp trước tượng Phật như thế.
- Ác nghiệp thứ chín là thấy người nào xấu xí thì liền sanh lòng chê bai, khinh miệt, nói rằng: "Ôi! Người gì mà xấu xí quá sức, thật là chẳng ai dám nhìn!" Người nữ thường có thói khinh người như thế—song le, thấy người ta xấu xí mà khinh thường người ta, kết quả là chính bản thân mình cũng bị xấu xí luôn! Quý vị phải biết rằng, trong tự tánh của mình vốn có "tấm gương thu hình"; khi quý vị nhìn thấy một kẻ xấu xí rồi sanh lòng khinh mạn, thì tất cả đều được ghi nhận và thu vào "tấm gương" của quý vị; và đến đời sau, quý vị phải đầu thai làm kẻ còn xấu xí tệ hơn người đó nữa.
- Ác nghiệp thứ mười là thích học theo hoặc bắt chước theo những thói hư tật xấu (ác hạnh), những hành vi không chánh đáng.
Trên đây là mười thứ ác nghiệp hay mười nguyên nhân dẫn đến việc thọ quả báo tướng mạo xấu xí.
Lại có mười nguyên nhân khiến cho thân thể mang nhiều bệnh tật; những gì là mười?
- Thứ nhất, là thích đánh đập mọi loài chúng sanh. Bất luận là chúng sanh nào, hễ trông thấy là đều muốn đánh đập—đây là nguyên nhân đầu tiên của quả báo thân thể phải mắc nhiều bệnh khổ.
- Nguyên nhân thứ hai dẫn đến quả báo bệnh tật khổ sở là xúi giục hoặc sai bảo người khác đánh đập chúng sanh—chó, mèo, chuột..., thậm chí cả trẻ em.
- Thứ ba, là khen ngợi việc đánh nhau. Khen ngợi cái gì? Trầm trồ, khen ngợi cách đánh đập, hành hạ chúng sanh. Do vì tán thưởng cách đánh đập của người khác, nên chính bản thân mình phải chịu quả báo nhiều bệnh tật.
- Thứ tư, là thấy sự đánh đập mà vui mừng. Có những kẻ thấy người khác đánh đập chúng sanh thì trong lòng lại vui mừng hớn hở, cho là chuyện thú vị: "Hay thật! Ðáng đời! Ðánh thật là đẹp mắt!"; xem ra còn thú vị hơn cả coi xi-nê nữa!
- Thứ năm, là thấy chúng sanh bệnh tật đau đớn rên siết, thì trong lòng lại hân hoan vui sướng. Có nhiều người hễ thấy kẻ khác bị ốm đau bệnh hoạn, thì trong lòng lại mừng rỡ, thích thú: "Có chúng sanh bị đau ốm rồi. Ồ! Hay quá! Có thế chứ, hắn bệnh rồi đấy!" Họ không cảm thông thương xót đã đành, lại còn vui cười mừng rỡ nữa.
- Thứ sáu, là thấy người bệnh được bình phục thì trong lòng cảm thấy không vui. Có những kẻ thấy người khác mắc bệnh song sau đó được thuyên giảm hoặc khỏi hẳn thì họ không vui, chính vì thế cho nên kiếp sau chính bản thân họ phải chịu quả báo nhiều bệnh tật, hay đau ốm.
- Thứ bảy, là cho chúng sanh uống thứ thuốc không đúng bệnh. Có những người đem thuốc cho chúng sanh bị bệnh, họ cho thứ thuốc gì? Họ cho thứ thuốc không phải trị đúng chứng bệnh mà chúng sanh đó đương mắc phải. Ví dụ, như người bệnh đau đầu thì họ lại cho thuốc đau bụng, chẳng những thế, họ còn huênh hoang: "Quý vị xem, tôi cho bệnh nhân uống thuốc rồi đó."
- Thứ tám, là thấy người bệnh được thầy thuốc tận tâm chữa trị cho, thì sanh lòng đố kỵ, ghen ghét, nói rằng: "Ôi! Ông bác sĩ đó tốt nhất là chết sớm đi, khỏi cần phải trị bệnh cho hắn nữa! Thấy mà gai mắt!"
- Thứ chín, là thấy người khác ốm đau bệnh hoạn thì lại vui thích, còn mong sao người đó cứ luôn luôn ốm đau, mãi mãi bị bệnh tật hành hạ.
- Thứ mười, là thích ăn vặt, ăn luôn miệng. Mới vừa ăn xong chưa kịp tiêu hóa hết thì lại ăn nữa, miệng lúc nào cũng thấy thèm ăn, muốn ăn luôn miệng, không ngừng nghỉ.
Do mười thứ ác nghiệp này mà phải thọ quả báo nhiều ốm đau bệnh tật.
Chúng sanh sở dĩ tướng mạo xấu xí hoặc thân thể nhiều bệnh tật là đều do phạm vào hai mươi ác nghiệp kể trên mà ra. Nếu không phạm vào hai mươi ác nghiệp đó thì sao? Thì tướng mạo không bị xấu xí, thân thể cũng không bị nhiều bệnh tật.
Như vậy, nếu bị xấu xí và nhiều bệnh tật thì phải làm thế nào? Thì hãy "đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ, dùng cái tâm thành khẩn thiết tha mà chiêm ngưỡng lễ bái Bồ Tát Ðịa Tạng trong chừng một bữa ăn, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi lâu bằng ăn xong một bữa cơm, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn."
Thế nào gọi là "tướng mạo viên mãn"? Ðó là mắt thì giống hình dạng của mắt, tai thì có dáng vẻ của tai. Thế thì, quý vị nói mắt như thế nào là không giống mắt? Thông thường, chúng ta thấy hầu hết mọi người đều có đôi mắt dài dài tựa như hạt hạnh nhân vậy, nhưng có kẻ lại có con mắt hình tam giác hoặc vuông vức bốn cạnh; hoặc đa số có tai dài, hình đĩnh vàng, song có kẻ lại có vành tai nhòn nhọn như mũi dao vậy; có người thì mũi lại hỉnh lên, lỗ mũi lộ ra ngoài. Nói theo sách tướng, người có tướng mũi như thế là người chẳng có chút phước báo nào cả—đó là tướng bần cùng. Gặp những người có tướng như thế thì quý vị chớ nên kết giao làm bạn, bởi vì làm bạn với họ sẽ chẳng có gì tốt đẹp cả.
Tôi có biết một vị Pháp Sư nọ có tướng mắt hình tam giác và mũi thì lộ ra. Khi còn ở Hương Cảng thì tôi giúp đỡ ông cũng nhiều, nhưng sau đó ông ta lại tráo trở, dùng đủ cách để bôi nhọ, phá hoại tôi. Tuy vậy, tôi cũng chẳng hề trách móc gì ông ta cả. Về sau, ông ta mắc phải chứng ung thư mà chết. Lúc sắp chết vẫn còn ham thể diện, chưa bỏ được cái "mặt" này, ông căn dặn rằng: Hãy làm như Pháp Sư Từ Hàng vậy—hãy đặt nhục thân của ông ta ngồi trong cái vại lớn rồi niêm lại, sau ba năm thì hãy mở ra xem, nếu nhục thân vẫn còn tươi tốt thì đem ra thếp vàng. Rút cuộc, để chưa tới hai hôm thì đầu của ông đã gục xuống rồi!
Có người nói với tôi rằng nếu là người có công phu tu hành thật sự, thì bất luận chết đã bao nhiêu ngày, nhục thân của họ vẫn trong tư thế đoan nhiên chánh tọa, chứ đầu không gục xuống như thế! Vị Pháp Sư này sang ngày thứ hai đầu đã gục xuống, thế nhưng ông ta còn ham thể diện, dặn đợi đến ba năm rồi mới mở vại. Tuy nhiên, mấy người học trò của ông ta không dám mở vại, vì họ biết rằng không "chắc ăn"! Cho nên, người có tướng mũi lộ ra như thế thì không được tốt cho lắm!
Lại nữa, đàn ông miệng rộng thì tốt, song đàn bà mà miệng rộng thì không tốt, đây là tướng phân nam nữ. Vận hạn của mỗi người, lúc nào thì tốt, lúc nào thì xấu, đều có thể biết được qua tướng mạo. Chỉ cần xem tướng mạo, người ta có thể biết được thời thanh niên quý vị đã thành công như thế nào, thời trung niên sẽ ra sao, và lúc về già hậu vận sẽ như thế nào. Cho nên, sự hiểu biết của người Trung Hoa về lãnh vực tướng số rất uyên thâm, chỉ xem tướng người mà biết được kẻ ấy mai sau tiền đồ có xán lạn hay không.
"Tướng mạo viên mãn" tức là tốt đẹp toàn diện, như Hồng y Yu Bin (Vu Bân) chẳng hạn, tướng mạo của ông ấy vô cùng tốt đẹp, tuổi già được vận may. Quý vị có thể chú ý tướng mạo của ông ấy—mắt, mũi, miệng đều rất cân xứng, hài hòa, tướng người rất phúc hậu, đức độ. Thế nhưng, rốt cuộc ông lại đi lầm đường; nếu theo Phật Giáo, ông ta có thể trở thành một vị Pháp Sư bất khả tư nghị.
"Tướng mạo viên mãn" là quả báo nhờ đã từng niệm Phật, lạy Phật, hoặc lạy những vị Bồ Tát.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: "Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân nữ, tuy rằng xấu xí nhưng nếu cô ta vẫn thích thân nữ, vẫn muốn làm người nữ, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ." Nhờ lễ bái hình tượng của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, cô ta chẳng những được thác sanh làm con gái của vua chúa mà còn được tướng mạo xinh đẹp, viên mãn nữa.
"Cho đến Vương Phi." Thậm chí cô ta có thể được thọ sanh làm vợ vua, "hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả." Cô ta có thể được làm con gái của quan Tể Tướng, con gái của bậc Ðại Quan, hoặc con gái của vị Ðại Trưởng Giả giàu có.
"Ðoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn." Tướng mạo của cô ta nhất định là rất đoan trang và vô cùng xinh đẹp, mỹ miều.
Như tôi vừa nói ban nãy, nếu cặp mắt thì xinh đẹp nhưng mũi lại không cân đối, như thế là không viên mãn; mũi rất đẹp mà mắt không cân xứng thì cũng không viên mãn; mắt, mũi đều đẹp cả mà tai lại không đẹp, không tương xứng, thì cũng không gọi là viên mãn, hoàn chỉnh. Chẳng hạn, một tai lớn, một tai nhỏ; một mắt to, một mắt nhỏ; mũi nằm lệch sang một bên mặt; miệng dính liền với mũi, hoặc mũi với miệng không tách rời nhau, không biết đó là mũi hay miệng nữa—các tướng mạo như thế đều là không viên mãn. Cũng đều là có mắt, có tai, có mũi như nhau, nhưng lại không hài hòa, không cân xứng, hoặc là lộn xộn dồn về một chỗ với nhau—mắt, mũi, tai tụ về thành một khối; quý vị nói xem, như thế có dễ coi không? Tướng mạo như thế đều là không viên mãn!
"Do chí tâm chiêm lễ Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế." Thế thì, tướng mạo viên mãn, các căn hoàn chỉnh, mắt cũng đẹp, tai cũng xinh, mũi cũng tốt, miệng cũng vừa phải, mặt mày đều dễ nhìn, nói chung là tất cả đều đẹp đẽ, tương xứng, là do đâu? Do có lòng tin chí thành, tha thiết chiêm ngưỡng và đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng mà được thọ hưởng phước báo tướng mạo đoan trang xinh đẹp như thế!
Có rất nhiều người tướng mạo không được đoan chánh. "Không đoan chánh" tức là những trường hợp có đầu như đầu khỉ, mặt như mặt ngựa, mắt như mắt chuột. Người Trung Hoa có câu nói: Ðầu thỏ, mắt rắn, tai chuột, má ưng.”
(Thố đầu, xà nhãn, thử nhĩ, ưng tai.)
Có nghĩa là người mà đầu có hình thù giống như đầu thỏ, mắt như mắt rắn, tai giống tai chuột, má giống má của chim ưng. Con người mà có nhiều tướng súc sanh tập trung lại, biến thành một cái tướng mạo, thì đó là không tốt, không đoan chánh. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mười nghiệp ác làm tướng mạo xấu xí: Thường với người nữ giới thì Phẫn lộ, hờn giận - Chất chứa hiềm nghi, Ghét hận - Ưa nói dối, mê hoặc người - Thích lão loạn - Không có lòng ái kính - Không cung kính - Thích xâm đoạn tài sản nhu yếu - Thường tắt đèn cúng dường Phật - Thích sanh lòng chê bai, khinh biệt người xấu xí - Thích học đòi theo thói hư, tật xấu.
Và Mười nguyên nhân khiến thân thể nhiều bệnh: Thích đánh đạp - Xúi dục, sai bảo bảo người khác đánh đập - Khen ngợi việc đánh nhau - Thấy đánh đập thì vui mừng - Vui mừng khi người khác bị bệnh đau - Thấy người bệnh khỏi không vui - Cho thuốc không chữa được bệnh - Ganh ghét, đố kị người được bác sỹ chăm sóc tận tình - Thích thấy người khác bị bệnh đau - Thích ăn vặt, ăn luôn miệng. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
* Mười nghiệp xấu ác kết tập sâu dày qua nhiều kiếp sống: Dâm dục - Tham lam - Kiêu mạn - Sân hận - Sảo trá, lừa gạt - Nói giối, bịp bợm, vọng ngữ - Thường oán trách , đổ lỗi - Tà tri, tà kiến, bất chánh - Cong vạy, không ngay thẳng - Thích tranh giành, kiện tụng. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
* Ngũ độn sử: “Cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.” Trong con đường ấy, ngoài quỷ Dạ-xoa ra còn có cả cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp cũng đang rình chờ nữa. “Cọp” là dụ cho lòng tham, tham lam như cọp. Do đó, điều phục được lòng dâm dục tức là thuần phục được cọp; điều phục không nổi lòng dâm dục tức là chưa hàng phục được cọp vậy.
“Sói” là dụ cho cái gì? Ðó là dụ cho lòng sân hận. Loài sói rất lợi hại; lòng sân hận và loài lang sói thì đều đáng sợ như nhau.
“Sư tử” là dụ cho sự ngu si.
“Rắn độc, bò cạp” là dụ cho tánh kiêu mạn và nghi ngờ
“Tham, sân, si, mạn, nghi,” gọi chung là Ngũ Ðộn Sử. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ THAM DỤC:
- Tham lam: thì đại đa số là nói về thuận cảnh. Con người gặp lúc vừa lòng xứng ý, chẳng cần biết là hoàn cảnh tinh thần hay hoàn cảnh vật chất, cứ hễ cái gì thuận theo ý mình bèn khởi tâm tham ái/ muốn chiếm giữ.
- Dục là dục vọng: nhà Phật gọi là Ngũ Dục, thế gian gọi là Thất Tình. Thất Tình Ngũ Dục người đời có ai chẳng tham ái hay chăng? Bởi tham ái Thất Tình Ngũ Dục nên chẳng thể thoát khỏi luân hồi, học Phật cũng chẳng thể thành tựu, học Thiền cũng chẳng thể “đắc Định”, niệm Phật thì hãy khoan nói đến “nhất tâm bất loạn”, dù chỉ “công phu thành phiến” cũng vẫn chẳng thể thành công, học Giáo chẳng thể “khai ngộ”, nguyên nhân chỉ vì chẳng thể buông Ngũ Dục Thất Tình xuống được. (Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm-PSTK)
+ Tam độc Tham Sân Si. Tuy là nói ba thứ “tham sân si”, ba thứ này nếu quy thành một thì chính là Tham (PS Tịnh Không_Kinh Thập Thiện, Tập 29)
- Phật dạy rằng: “Nguồn cội của mọi khổ đau trên đời đều từ 3 việc mà ra: tham, sân, si”. Trong đó, tham đứng hàng đầu, tuy nhiên phàm là con người ở đời, ai cũng có lòng tham. Từ chữ tham mới nổi lên sân hận, mới khiến con người si mê u tối, từ đó gây nên nghiệp ác.
+ Đức Phật dạy rất thực tế: “Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn”
Lòng tham của con người giống như cái túi không có đáy, cái túi không có đáy thì dù có đựng bao nhiêu vàng bạc của quý cũng không thể nào đầy được. Cũng vậy, lòng tham của con người thì vô độ nên không có điểm dừng, không có giới hạn, mà lại vô hạn…
Tham lam không phải bản chất của con người, Phật dạy rằng, bất kể ai sinh ra đều như tờ giấy trắng, đều có trái tim thuần hậu và thiện lương. Nỗi tham lớn dần lên theo năm tháng, theo những điều mà con người muốn sở hữu và đang sở hữu. Càng có nhiều càng tham nhiều, càng mong nhiều lại càng tham nữa.
Dục vọng không bao giờ dừng lại, lòng tham tạo nên dục vọng và dục vọng phóng đại lòng tham. Nếu không biết tiết chế, kìm nén lòng tham thì chắc chắn con người sẽ rơi vào tai họa. Vì như Phật đã nói, lòng tham nổi lên, phúc đức tiêu tán. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Mời xem: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si
+ Mời xem: PS Tịnh Không Giảng Tham - Sân - Si Và Ái dục)
+ Xem thêm: HT Tuyên Hóa khai thị về Ái Dục
+ Xem tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
+ Tham lam và Vô minh:
Tâm bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát.
Tâm bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập.
=> Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Tham Lam: Theo Phật pháp, tham là sự đắm say, sự ham muốn, sự đam mê một điều gì đó. Cốt lõi của lòng tham nằm ở 5 nhu cầu của con người: Tài (tài sản), sắc (sắc đẹp, hình thức bên ngoài), danh (danh thơm, tiếng tốt), thực (ăn uống), thùy (ngủ nghỉ). Khi ham muốn về 1 trong thứ này dâng lên cao hơn mức bình thường, con người sẽ nảy sinh lòng tham và được hiển hiện với những hành động, lời nói của mình.
- Phật nói: “Lòng tham càng lớn, phúc đức lại càng tiêu tán”. Vì sao? Tham thường đi liền với ác. Người tham muốn đoạt được thứ mình muốn, lại sinh làm điều ác để thỏa mãn cho mình.
- Những dẫn dụ về lòng tham luôn đầy rẫy trong cuộc sống hằng ngày:
Người vì lòng tham mà cố gắng gầy dựng sự nghiệp, khi có của ăn của để rồi lại ưu tư lo nghĩ sợ trộm cắp.
Người giàu sang có tiền của bo bo giữ gìn, sống ích kỷ với kẻ ăn người làm, tằn tiện bố thí, khi bị mất của thì đám ngực khóc than, mất ăn mất ngủ. Lại có người giàu có bạc vạn mà chỉ chăm chút để dành, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc.
Quan lại, người có chức tước vì lòng tham mà bớt xén của công, ăn của hối lộ, bóc lột sức lao động người khác.
Người vì lòng tham mà lao vào cờ bạc, cá độ, lô đề, dẫn đến tán gia bại sản. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tham lam - Theo Minh triết mới: Điều này có liên quan đến tội hám lợi, mà theo nghĩa đen là ăn cắp trên cõi hạ trí. Tội tham lam có thể đưa tới bất kỳ tội lỗi nào trên cõi trần và rất mạnh mẽ. Nó liên quan tới trí lực (mental force) và là một thuật ngữ phổ cập bao hàm các ước muốn mãnh liệt mà vị trí của chúng không những ở nơi thể cảm dục mà còn ở trong thể hạ trí nữa. Thánh Paul đã đưa ra giới không tham lam khi nói rằng: “Trong bất cứ tình huống nào, ta vẫn học cách toại nguyện (content)”. Cần phải đạt được trạng thái đó trước khi thể trí được tịch lặng đến mức mà mọi sự việc của linh hồn có thể thấu nhập được.(ASCLH, 186)
+ Tham lam: Yama (hay năm giới răn: Không gây tổn hại, chân thật với cả chúng sinh, không trộm cắp, không buông lung tình dục và không tham vọng) là bổn phận chung của mọi người, dù họ thuộc giống dân nào, đang ở đâu, vào thời gian hay tình trạng khẩn trương thế nào. Khi hoàn toàn không tham lam, hành giả thấu hiểu luật tái sinh (Tài liệu MF-QU1- 100.3)
1. THAM LAM - ĐỐI TRỊ= GIỮ GIỚI TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ:
+ “Tham” là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu.
+ Đối trị Tâm tham: Nếu có tâm tham thời phải “tu tâm” ngay, phải tập tính “thiểu dục tri túc”. Thiểu dục là muốn ít, tri túc là biết đủ. Người thiểu dục, tri túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn vì biết đủ với những thứ mình đã có. Bỏ dần lòng tham đi để đạt tới được “vô tham”. Vô tham là không tham lam.
+ Sở di chướng là gì? Chúng ta dùng lời hiện nay mà nói là kiến giải, tức là bạn có tri, có kiến. Nói rõ thêm một chút tức là bạn có tư tưởng, bạn có kiến giải. Có những thứ này rất phiền phức. Đã có những thứ này khiến cho trí huệ, bát nhã vốn có trong tự tánh của bạn bị chướng ngại. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói tất cả chúng sanh đều có Như Lai Trí Huệ đức tướng, đức tướng tức là đại Niết Bàn. Không sanh, không diệt là đức tướng. Nếu chúng ta có tư tưởng, có kiến giải thì hư rồi. Trí huệ bát nhã của chúng ta không còn nữa, đã bị nó làm chướng ngại khiến cho trí huệ bát nhã của chúng ta sai lệch, đã biến chất. Biến thành cái gì? Biến thành tà tri, tà kiến. Tư tưởng và kiến giải hoàn toàn không tương ứng với chân tướng sự thật, đã biến thành sai lệch như vậy. Là bởi vì có thị phi nhân ngã, có tham, sân, si, mạng khiến cho đức tướng biến thành sanh tử luân hồi, biến thành chúng sanh tướng của thập pháp giới. Nếu Đức Thế Tôn không ra đời thì ai biết được chân tướng sự thật này. Ai có thể đem chân tướng sự thật này nói rõ ràng, nói minh bạch. Tất cả các tôn giáo gia, triết học gia, khoa học gia trong thế gian đều không có biện pháp nói rõ chân tướng sự thật này cho chúng ta biết may nhờ có đức Thế Tốn xuất hiện trên thế gian này. Ngài vì chúng ta nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Sau khi chúng ta nghe rồi thì quả nhiên đại ngộ. Cái quan trọng nhất là làm sao khôi phục lại bản lai diện mục của chúng ta. Làm thế nào để khôi phục trí huệ đức tướng viên mãn của chúng ta? Điều này rất quan trọng. Học Phật là phải đạt đến mục tiêu này, không vì chuyện khác. Hạnh Phổ Hiền là hành Pháp cứu cánh viên mãn. Hành Pháp là phương pháp tu hành nếu dùng lời hiện nay mà nói hành pháp tức là phương pháp sinh hoạt. Ngài nêu ra một điều cương lĩnh..... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối)
+ 4- KIÊU MẠN - KIÊU CĂNG CỐNG CAO - NGẠO MẠN:
+ Họ tự cho mình thông minh, không ngoan hơn người nên họ kiêu mạn - Là TỰ TÔN và do đó họ tự cao (cao ngạo), tự đại, tự kiêu (kiêu ngạo, kiêu mạn - kiêu căng ngạo mạn), khinh mạn (khinh khi người thấp hèn hơn mình), ganh ghét, đố kị, hiếu thắng hay thành tựu hơn người. Khổng tử nói, hạng người này không cần nhắc đến, là giả, không phải thật, hoàn toàn là giả. Chúng ta cần tự phản tỉnh, tôi có tâm tự đại - đố kỵ - hiếu thắng hay muốn thành tựu chăng? Nếu có những ý niệm này thì không phải quân tử, nhà Nho gọi là tiểu nhân. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ 321. KHÔNG CỐNG CAO Ta còn nhớ khi xưa, lúc Ta thăm ruộng, người làm ruộng nghỉ ngơi trên đám ruộng, Ta đi đến dưới gốc cây Diêm-phù ngồi kiết già, ly dục, ly pháp ác bất thiện, có giác, có quán, hỷ lạc do viễn ly sanh, chứng đắc được Sơ thiền, thành tựu và an trụ. Ta nghĩ rằng: ‘Phàm phu ngu si không đa văn, tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh, nhưng thấy người tật bệnh thì ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, mà không tự quán sát mình’. Rồi Ta lại nghĩ: ‘Ta tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh. Nếu Ta thấy người tật bệnh mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, Ta không nên như vậy, vì Ta cũng có trường hợp này’. Quán sát như vậy rồi thì tâm cống cao phát khởi do không có tật bệnh liền tự tiêu diệt. Nguồn mục 321- (Trung A Hàm, Kinh Nhu Nhuyến, Phẩm 11, số 117)
+ Kiêu mạn - Sở chi chướng:
- Phiền não chướng sinh khởi do chấp ngã. Khi chấp ngã, sẽ làm sinh khởi nên phiền não chướng. Bất luận điều gì xảy ra, quý vị đều không thể nào nhìn được thông suốt về nó cả, quý vị chẳng phóng xả sự việc đó được, vì thế nên quý vị bị vướng mắc với chúng. Và một khi sự vướng mắc sinh khởi, thì phiền não chướng theo sau liền. Đó là phiền não chướng.
- Sở tri chướng sinh khởi do chấp pháp. Về sở tri chướng, nếu quý vị nghĩ: “Tôi biết rất nhiều” thì đó là một chướng ngại. Chẳng phải là người ta càng học thì hiểu biết càng gia tăng đâu, mà trái lại họ càng học nhiều thì họ lại càng bị chướng ngại bởi những gì họ biết. Vì sao mà kiến thức là chướng ngại? Vì nó làm cho người ta kiêu ngạo và thường nghĩ: “Quý vị nhìn tôi xem. Tôi biết mọi thứ mà không ai trong các ông biết được. Tôi vượt xa các ông. Tôi chẳng thể nào so sánh với các ông được. Các ông đều là kẻ ngu đần. Nhưng còn tôi, tại sao sở học của tôi lại có một không hai trên thế gian này, đời này thật là hiếm có.” Ngay khi tâm kiêu mạn này trổi dậy thì đó chính là sở tri chướng.
Đây là hai món chướng ngại mà A-nan cho rằng toàn thể mọi người trong hội chúng đều bị ràng buộc. “Trói buộc” nghĩa là không có được tự tại. Họ không có được sự tự do bởi vì họ bị hai thứ chướng ngại này.
* Phiền não là ma quỷ, quý vị có thể tìm thấy yêu tinh ma quỷ nơi đâu? Nói đơn giản, hễ có phiền não là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại, kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn)
+ Trừ Tâm Ngã mạn: Này các Tỳ Kheo, ai trừ tâm ngã mạn, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho không còn hiện hữu lại, người ấy là bậc thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không còn bất cứ một hệ luỵ nào. Do đó, dứt trừ tâm ngã mạn là việc khó làm_ Đức Phật dậy.
+ Mặc cảm: Tự ti và Tự tôn tức kiêu mạn. Tri túc biết đủ là tự mình luôn cho mình hạnh phúc
Không kiêu mạn, không cho mình là hơn người
Biết tri túc, biết xét suy
Có thì giờ đọc tụng và thực tập kinh điển
Đó là phước đức lớn nhất
Bất mạn bất tự đại: Không cho mình là giỏi, là quan trọng. Trong đạo Bụt, chữ mạn có một ý nghĩa rất đặc biệt. Thấy mình hơn người thì gọi là mạn, có mặc cảm thua người cũng gọi là mạn mà thấy mình bằng người cũng là mạn. Nghe thế, những người bạn Tây phương hỏi: Tại sao thấy mình bằng người cũng là một cái lỗi? Tại Làng Mai, mỗi khi chúng tôi tụng kinh trước pháp thoại chúng tôi thường đọc lời quán nguyện: xin đọc tụng như một cơ thể, lắng nghe như một cơ thể, vượt thoát những mặc cảm hơn người, thua người hoặc bằng người, thì có nhiều vị thiền sinh cười: Tại sao lại có mặc cảm bằng người? Theo sự tin tưởng của đa số thì mọi người sinh ra trên trái đất đều bằng nhau. Bằng người là một sự thật. Nhưng nhìn cho kỹ chúng ta thấy, con người sinh ra không bằng nhau. Người sinh ra ở nuớc Mỹ, người sinh ra ở Phi Châu, hai người sinh ra ở hai hoàn cảnh đã không bằng nhau. Sinh vào một môi trường có cơ hội và sinh vào một môi trường ít có cơ hội hơn đã là một sự bất bình đẳng. Sinh ra trong một gia đình giàu có hay trong một gia đình nghèo khổ là đã có sự bất công. Sinh ra trong một gia đình có giáo dục hay trong một gia đình không có giáo dục cũng có sự bất công. Khi sinh ra người ta không bình đẳng đâu. Nhưng chữ mạn ở đây được hiểu theo tinh thần của đạo Bụt. Đạo Bụt nói không có ngã. Có tôi trong anh và có anh trong tôi, tôi là anh mà anh cũng là tôi, đó là vô ngã. Khi là vô ngã thì không còn sự so sánh, mà khi không so sánh thì không thấy hơn người, thua người hay bằng người.
Tâm lý trị liệu Tây phương hay nói người ta bệnh là do mặc cảm tự ti. Muốn trị hết bệnh thì phải xóa bỏ mặc cảm tự ti: Tôi không có giá trị gì hết, tôi chẳng làm được trò trống gì, tôi luôn luôn thua kém người. Do mặc cảm tự ti mà sinh ra bệnh tâm thần, cách trị liệu là làm cho người ta bỏ mặc cảm đó đi. Nhưng chúng ta không biết mặc cảm tự tôn (high self-estime) cũng là bệnh. Người cho mình hơn người cũng bị bệnh, họ khó chịu vô cùng, dương dương tự đắc, ở đây gọi là tự đại. Bất mạn, bất tự đại, đừng nên thổi phồng mình lên quá lớn như con cóc, có ngày sẽ nổ.
Trong ánh sáng giáo lý đạo Bụt, chúng ta thấy mặc cảm tự ti là bệnh, mặc cảm tự tôn là bệnh và mặc cảm bằng người cũng là bệnh tại vì thấy mình bằng người tức là còn có sự so sánh. Nếu thấy mình với người đó là vô ngã, khổ đau của người đó cũng làm mình khổ đau, hạnh phúc của người đó cũng là hạnh phúc của mình, người đó thành công thì mình cũng thành công, thấy được tính vô ngã giữa cha và con, vợ và chồng thì tự nhiên ba cái mạn không còn nữa và hạnh phúc sẽ có thật. Trong chúng, nếu có một người tu giỏi và thành công thì tất cả mọi người đều được hưởng. Nếu có một người yếu kém thì tất cả mọi người đều chăm lo cho người đó vững lên tại vì người đó cũng là mình. Như vậy mới đúng theo nguyên tắc vô ngã.
Tri túc niệm phản phúc: Tri túc là biết mình có đủ, có dư điều kiện hạnh phúc. Mình không cần đi tìm những điều kiện hạnh phúc nào khác. Khi mình thở trong chánh niệm, đem tâm trở về với thân và có mặt trong giây phút hiện tại thì mình khám phá ra mình có biết bao nhiêu điều kiện để có thể có hạnh phúc ngay bây giờ. Mình có thể thực tập câu thần chú thứ năm: Sướng quá! Hạnh phúc quá! Mình không cần phải bỏ hiện tại, chạy về tương lai để đi kiếm tìm hạnh phúc. Đó là phép tri túc, tiếng Phạn là samtustah, tiếng Pali là santutthi, dịch ra tiếng Anh là: You have already enough conditions to be happy, you don’t need to look for more.
Chỉ cần có chánh niệm thì tự nhiên hạnh phúc có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Đức Thế Tôn nói: Pháp môn “Hiện pháp lạc trú”, ai cũng có thể thực tập được. Hiện pháp lạc trú là có hạnh phúc liền bây giờ, Dristadharmasukhavihara. Chúng ta nên nhắc nhau, trước khi hô canh chúng ta có thể thực tập: Kính thưa đại chúng, đây là giây phút hạnh phúc. Mỗi người tiếp xúc được với điều kiện hạnh phúc mình đang có thì tự nhiên có hạnh phúc liền. Trước khi ăn cơm hay chấp tác với nhau, mình nhìn sư anh nói: Sư anh ơi! Đây là giây phút hạnh phúc, mình được làm việc chung với nhau.
Tri túc không có nghĩa là khổ hạnh, chịu đựng. Tri túc là ý thức rằng mình có đủ điều kiện hạnh phúc và hạnh phúc liền. Đó là hạnh phúc rất lớn, mình là người tu thì phải có cái khôn ngoan đó. Phản phúc là lật ngược trở lại để xem xét cho cẩn thận. Niệm là nhớ nghĩ, có ý thức, biết suy xét. Niệm phản phúc là phải xét đi xét lại cho kỹ lưỡng, đừng nóng nảy, bộp chộp, biết xét suy cho thấu đáo. Chữ phản phúc trước cũng có nghĩa lật lọng, trắng thành đen, sấp thành ngửa. Nhưng chữ phản phúc ở đây có nghĩa là suy xét cho kỹ phía trên phía dưới, lật hòn đá ra xét trên dưới cho rõ ràng. (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức - HT Thích Nhất Hạnh)
319. KHÔNG CÓ CỦA CẢI
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ không có của cải? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào không làm thí chủ, không thực hành bố thí cho Sa-môn, Phạm chí, cho kẻ nghèo cùng đơn độc ở xa đến xin những thứ như đồ ăn, thức uống, quần áo, mền, vòng hoa, hương thoa, nhà cửa, giường chõng, đèn dầu và sai dịch. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, không có của cải. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Học Phật Pháp xuất gia và tại gia: ... Cho nên "Phật pháp ở thế gian thì không thể lìa thế gian giác". Câu nói này quan trọng, hay nói cách khác lìa khỏi thế gian thì bạn không thể giác, bạn không rời thế gian thì bạn mới có thể giác, làm sao mà bạn có thể từ bỏ đi công việc, buông bỏ gia đình? Đó là bạn không gánh vác trách nhiệm, bạn học Phật hiểu biết không thấu triệt, chỉ nghe lời truyền miệng, bạn không nên có cách làm như vậy. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Phương pháp đọc và Học: Những chú giải Kinh của nhiều Thầy chúng ta đều có thể tham khảo, nhưng nhất định không được có thành kiến. Có thành kiến bạn sẽ không thể học được gì. “Chỉ cung cấp cho ta tham khảo”. Nhất định tự mình phải có chủ ý riêng, không thể hoàn toàn đi theo người ta, làm như thế bạn sẽ vĩnh viễn không thể xuất đầu lộ diện.(Kinh TTNĐ-Tập 62_PS Tịnh Không)
+ Học 1 biết 10: Chúng ta thường nghe trong nhà Phật nói: “Một kinh thông suốt, hết thảy kinh thông suốt”. Câu nói này ngàn vạn phần đúng đắn, tuyệt đối chẳng hư giả, mãi đến năm nay tôi mới chứng nhập được cảnh giới này_PS Tịnh Không. (Nguồn: Tu Thanh Tịnh Tâm)
+ Phụ nữ học Kinh Phật có những lợi ích sau:
1. Nhận thức được chân tướng cuộc sống, học được nguyên tắc vận hành của cuộc sống, chọn được con đường đúng đắn trong cuộc đời, làm một người phụ nữ hạnh phúc.
2. Nuôi dưỡng chính khí, hóa giải oán khí, tăng phúc khí, nâng cao năng lượng sống, nạp đầy hi vọng trong cuộc sống.
3. Hóa giải tâm trạng không tốt ở tuổi mãn kinh, tích lũy năng lượng sống trong suốt nửa đời còn lại.
4. Tăng thêm sự tín nhiệm giữa hai vợ chồng, tăng thêm tình thân giữa mẹ và con, bồi dưỡng năng lượng cho gia đình.
5. Tăng cảm giác sống có mục tiêu, sống có giá trị. Cảm nhận được nhiều thành tựu trong việc làm; cảm nhận được thêm nhiều ý nghĩa trong cuộc sống; cảm nhận được hạnh phúc; cảm nhận được tâm tưởng sự thành, vạn sự như ý.
6. Toàn gia đình dưỡng chính khí, con cái thêm yêu học tập, chồng thêm yêu gia đình, gia nghiệp thêm hưng thịnh.
7. Làm Người mẹ tốt: Hôm nay đọc kinh Phật làm người mẹ tốt, mai sau làm một người bà tốt.
8. Người lương thiện: Có cơ hội làm người lương thiện, khuyên bảo được người thân, bạn bè, hàng xóm…học tập, hành thiện, tích đức.
9. Nguồn Phúc: Có năng lực tích phúc đức lớn.
10. Được hưởng ngũ phúc lâm môn: trường thọ, phú quý, bình an, khỏe mạnh, thiện chung. Phúc báo của một người phụ nữ không những ảnh hưởng đến cuộc đời chính họ mà còn tác động đến chồng con và gia đình.
+ PS Tịnh Không: Nhà Phật thường nói “y văn giải tự, tam thế Phật oan” nghĩa là y theo câu văn hiểu nghĩa theo mặt chữ, thì ba đời Phật bị oan. Cứ chiếu theo văn tự để nghiên cứu, giải thích thì tam thế chư Phật là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật đều kêu oan uổng, quý vị hiểu lầm ý Phật mất rồi!
Quý vị xem: Học Phật pháp phải quy về tự tánh, điều này khẩn yếu lắm, giúp cho chúng ta đạt được tâm thanh tịnh, mở mang trí huệ, đấy chính là Phật pháp. ....”Nguồn: Y Kinh Giải Nghĩa ...
+ Phật lại dạy rằng: "Chỉ học thuộc lòng và nhiều kiếp nhớ ghi Kinh văn diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian..."... A Nan! Bồ-đề Niết bàn còn xa, nếu ông không siêng năng tu tập, dù ông có nhớ diệu nghĩa 12 bộ kinh của thập phương Như Lai cũng chỉ thêm nhiều hý luận. (Nguồn: Mục Lại rơi vào thuyết nhân duyên đối đãi ....)
+ Đọc Tụng Kinh - Chứng ngộ đạo: .... Kinh Pháp Hoa là bộ kinh rất quan trọng trong đạo Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là để khai mở trí huệ, chỉ ra con đường tu tập. Kinh Pháp Hoa là để tựu thành Phật đạo. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ Giảng Nói Phật Pháp Tùy Căn Cơ Chúng Sinh: Trích đoạn Kinh Đức Phật dạy ngài A Nan "Lại nữa, A-nan, như ông thường biết được rằng, như ông đã rõ, ông đã được nghe giáo lý quyền thừa trước đây. Giáo lý quyền thừa đề cập đến năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Ông đã hiểu được toàn bộ giáo lý nầy. Nhưng, giáo lý về mười tám giới chỉ được diễn bày như là một pháp môn phương tiện cho hàng Nhị thừa và ngoại đạo để dẫn dắt họ. Nay Như Lai sẽ giảng giải giáo lý ấy thật chi tiết. Đừng trở nên chấp trước với những pháp trần nầy.... (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Đức Phật giảng Pháp Có Nhiểu Cấp Độ: HT Tuyên Hóa giảng nghĩa Kinh Thủ Lăng Nghiêm ... Những gì được giảng giải trước đây đều là pháp phương tiện. Pháp đang được giảng nói bây giờ là Đệ nhất nghĩa đế, là giáo lý rốt ráo của Trung đạo, hoàn toàn khác với pháp môn được giảng nói trước đây. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới–tất cả các pháp nầy đều không sinh khởi do nhân duyên, cũng chẳng sinh khởi do tự nhiên.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ 272. HIỂU PHÁP
Cũng như có người muốn bắt được rắn, bèn đi tìm rắn. Khi đi tìm rắn, người ấy tay cầm gậy sắt, đi trong rừng hoang, thấy một con rắn rất lớn, liền lấy gậy sắt đè lên đầu con rắn, rồi lấy tay nắm đầu nó. Con rắn kia tuy ngoặt đuôi lại, hoặc quấn tay chân, hoặc các chi thể khác, nhưng không thể mổ. Người kia làm như vậy để tìm bắt rắn và đạt được mục đích, không chuốc lấy cực khổ luống công, cũng không tự gây phiền nhọc.
Vì sao? Vì người ấy khéo biết cách bắt rắn. Cũng vậy, hoặc có thiện gia nam tử ghi nhớ và hiểu biết về nghĩa và văn không điên đảo. Người ấy do tự mình ghi nhớ và hiểu biết không điên đảo về nghĩa và văn mà biết pháp kia như vậy như vậy, tức chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu pháp và thuyết nghĩa. Người ấy không vì tranh luận mà biết nghĩa này, nhưng vì giải thoát mà biết nghĩa này. Người ấy biết pháp này vì mục đích ấy nên đạt đến nghĩa này, không chuốc lấy cực khổ luống công, không tự gây phiền nhọc. Vì sao? Vì ghi nhớ và hiểu biết không điên đảo về pháp. (Trung A Hàm, Kinh A-lê-tra, Phẩm 16, số 200)
+ Xin mời đọc bài viết tổng hợp các hướng dẫn học đạo phật để có thành tựu chân thật: Học Phật pháp theo Phật dậy
+ Thiện Ác thế gian và Xuất thế gian: Gồm thiện ác hữu lậu - Thiện ác thuộc pháp thế gian và thiện ác vô lậu - Thiện ác của pháp xuất thế gian.
- Thiện ác hữu lậu của Thế gian: Theo đạo của người quân tử gồm Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín làm phân biệt, cao hơn thì theo Thập thiện nghiệp đạo mà Đức Phật dạy.
- Thiện ác vô lậu xuất thế gian: Bao gồm thành tựu các việc thiện của Pháp thế gian làm gốc, tiếp đến thực hành Quảng đại Bồ đề tâm là các hạnh Bồ Tát đạo, rồi cao siêu hơn nữa gồm hàng trăm giới luật khắt khe.(Nguồn tham khảo: Phân biệt thiện và ác)
+ Thiện ác theo phân loại, đại khái:
- Thiện ác theo Đạo làm người - Đạo nho (Bậc tiểu học): Tu đạo làm người thiện tri thức gồm các đức chính Ngũ thường và ngũ luân và bát đức
- Thiện ác theo Đạo Thanh tịnh - Đạo giáo (Bậc trung học): Tu theo Tinh - Khí - Thần hợp đức, tức đầu tiên phải làm người thiện lành, trí tuệ
- Thiện ác theo Đạo Xuất thế gian - Đạo Phật (Bậc Đại học): Tu giữ tối thiểu ngũ giới - Hành thập thiện và Bát chánh đạo. Thường bố thí theo khả năng.
+ Các phân loại - Phân nhóm thiện ác khác nhau:
- Thiện ác theo Ngũ thường và ngũ luân: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín và Đạo Cha con - Đạo vợ chồng - Anh em - bạn bè - Vua tôi
- Mười điều thiện ác: Sát sanh - Trôm cắp - Tà dâm - Nói dối - Nói hai lưỡi - Nói ác khẩu - Nói lời vô ích - Tham lam - Sân hận - Si mê
Xem thêm: Thiện ác nhân quả;
Xem thêm: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng;
Xem thêm: Kinh Ngũ Bách Vấn
264. HẠT GIỐNG BỊ MỤC NÁT
Ví như hạt giống không hư, vỡ, mục nát, bị gió nắng làm thương tổn, mùa thu không được cất giấu kín đáo. Nếu người cư sĩ kia không phải là nông phu giỏi, lại không khéo canh tác, gieo hạt giống xuống và mưa không phải thời, thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống lúa có dần dần lớn lên được chăng?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, dạ không.
Thế Tôn nói: Cũng vậy, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, Ta không thấy người này có được chút pháp bạch tịnh, dù bằng sợi lông. Người này pháp ác bất thiện hoàn toàn dẫy đầy, ô uế, làm gốc rễ cho sự hữu trong tương lai, lại phiền nhiệt, khổ báo, nguyên nhân của sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người này khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như vậy. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
265. HẠT GIỐNG GẶP ĐẤT TỐT
Cũng như hạt giống, các loại hạt giống, các loại thảo mộc, trăm giống lúa, cây thuốc được phát sanh, trưởng dưỡng, tất cả đều nhân nơi đất, y cứ trên đất, thiết lập trên đất mới được sanh trưởng.
Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất. (Trung A Hàm, Kinh Dụ, Phẩm 11, số 141)
266. HẠT GIỐNG KHỔNG THỂ NẢY MẦM
Ví như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió, nắng làm thương tổn, mùa thu đến được cất giấu kín đáo. Nếu người cư sĩ kia giỏi, sửa sang ruộng tốt rồi vãi hạt giống vào nhưng mưa xuống không phải thời, thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống này có dần dần lớn lên được không?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, không thể được.
Cũng vậy, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện; người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc chắn rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp suy thoái.
A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như vậy. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
71. BIẾT NIỆM BẤT THIỆN KHỞI LÊN
Tỳ-kheo khi sanh niệm ác, bất thiện, liền bằng niệm thiện pháp để đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như người thợ mộc hoặc học trò thợ mộc kéo thẳng dây mực, búng thẳng lên thân cây, rồi dùng búa bén mà đẽo cho thẳng. Cũng vậy, Tỳ-kheo khi sanh niệm ác bất thiện, liền niệm thiện pháp để đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như vậy, Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết trên như thật. Tỳ-kheo như thế, sống cô độc, viễn ly, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ các tai hoạn của tâm và được định tâm. Được định tâm rồi thì biết trên như thật. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Thân, Phẩm 7, số 81)
222. ĐỐI TRỊ NỘI TÂM
Ta sanh niệm vô dục, và tư niệm nhiều. Sanh niệm vô nhuế, niệm vô hại, và tư niệm nhiều. Ta lại suy nghĩ như vầy: ‘Nếu tư niệm quá nhiều thì thân mệt, mất hỷ, tâm liền bị tổn hại. Ta hãy đối trị nội tâm, khiến thường an trú bên trong, tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định để tâm không bị tổn hại’. Sau đó, Ta liền đối trị nội tâm, khiến thường an trú bên trong, tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định mà tâm không bị tổn hại.
Ta đã sanh khởi niệm vô dục, rồi lại sanh khởi suy niệm về hướng pháp, thứ pháp, sanh khởi niệm vô nhuế, niệm vô hại, rồi lại cũng sanh khởi suy niệm về hướng pháp, thứ pháp. Vì sao vậy? Vì Ta không thấy nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện.
Ví như vào tháng cuối thu, đã gặt hết lúa, khi đó đứa chăn bò thả bò nơi đồng ruộng mà nghĩ rằng: ‘Bò ta ở trong bầy’. Vì sao vậy? Vì đứa chăn bò không thấy rằng nhân nơi đó mà có lỗi lầm là sẽ bị chửi, bị đánh, bị trói. Do đó đứa chăn bò nghĩ ‘Bò ta ở trong bầy’ và không thấy rằng nhân nơi đó mà có lỗi lầm là sẽ bị chửi, bị đánh, bị trói, có mất mát. Ta cũng như vậy, sanh niệm vô dục rồi lại sanh niệm hướng pháp, thứ pháp, sanh niệm vô nhuế, niệm vô hại, rồi lại cũng sanh niệm hướng pháp, thứ pháp. Vì sao vậy? Vì Ta không thấy nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện. (Trung A Hàm, Kinh Niệm, Phẩm 9, số 102)
260. HÀNG PHỤC TÂM
Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng, tương ưng với thiện mà sanh niệm bất thiện, khi quán niệm ác có tai họa mà cũng sanh niệm bất thiện, khi không suy niệm về niệm ác cũng sanh tiếp niệm bất thiện, và khi phải dùng hành tướng của tư duy để giảm dần niệm ấy, cũng lại sanh tiếp về niệm bất thiện nữa; Tỳ-kheo đó nên quán như vầy. Tỳ-kheo, vì nhân niệm này mà sanh niệm bất thiện, Tỳ-kheo đó liền ngậm khít răng lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm để tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm, khiến không niệm ác bất thiện.
Khi vị Tỳ-kheo đó dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm thì niệm bất thiện đã sanh liền được trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định. Như hai lực sĩ bắt một người yếu, nắm vững và hàng phục nó, Tỳ-kheo cũng vậy, răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm để không sanh niệm ác bất thiện. Khi vị Tỳ-kheo đó dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, bên trong tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định. (Trung A Hàm, Kinh Tăng Thượng Tâm, Phẩm 9, số 101)
+ Tâm mình quy y tánh mình - Quy y Tam Bảo nơi Tâm Tánh mình: Ấy là quy y Chơn Phật. Tự quy y, nghĩa là dứt hết các tật xấu trong tâm mình là: lòng chẳng lành, lòng ghen ghét, lòng tà vạy, lòng vị ngã, lòng giả dối, lòng khi người, lòng nhạo người, lòng tà kiến, lòng cống cao, cùng các hạnh bất thiện trong cả thảy thời gian, lại thường thấy lỗi mình, chẳng nói việc tốt xấu của người. Ấy là tự quy y tánh mình vậy.
Thường hạ tâm mình, cung kính mọi người, thấy tánh sáng suốt, không ngưng trệ. Ấy là tự quy y tánh mình.
Giảng:
Quý vị Thiện tri thức! Tự tâm quy y tự tánh, tự mình năng hồi quang phản chiếu, đó là quy y chân Phật. Cái gì gọi là tự quy y? Chính là không nên trong tự tánh chứa đựng những tâm bất chánh. Gì gọi là bất thiện tâm? Chính là ác tâm, tật đố tâm. Luôn luôn ghi nhớ không nên tật đố người khác. Tại sao quý vị ngu si ? Vì quý vị đời đời kiếp kiếp tật đố người ta thông minh, cho nên bây giờ mình không được sáng suốt. Tật đố người có tài năng, cho nên mình năng lực gì cũng không có, không bằng người. Siểm khúc tâm: Không nên có tâm tự đại cuống vọng. Khinh nhân tâm, mạn tha tâm: Tức là tâm coi thường người khác và tâm kiêu mạn. Tà kiến tâm: Tức bất luận nhìn thấy cảnh giới gì, không suy nghĩ đến chỗ chánh đáng, mà nghĩ đến chỗ bất chánh. Cống cao tâm: Tức thường thấy rằng mình cao hơn hay hơn người khác, có tâm này cần phải trừ sạch. Cùng với tất cả những hành vi bất thiện đều cần phải dứt bỏ. Cần biết mình có sai lầm, không nói thị phi thiện ác của người khác, được như thế chính là tự quy y. Lại nữa, thường phải có lòng khiêm hạ, đối với bất cứ người nào đều phải cung kính, đó là kiến tánh thông đạt vô ngại và cũng chính là tự quy y. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Giữ Tâm một chỗ:
2- Này các đệ tử, trong các giác quan của con người, ý là quan trọng nhất. Các vị phải thận trọng chế ngự tâm ý mình. Tâm ý rất đáng sợ, nguy hiểm còn hơn thú dữ, rắn độc, thậm chí nguy hại hơn cả nạn hỏa hoạn. Cũng như có người mải mê cầm giữ chén mật trên tay và quên đi hầm hố trên đường, sẽ bị vấp ngã. Cũng như voi say mà không có móc sắt; như khỉ vượn gặp được cây rừng tha hồ mà chuyền nhảy, muốn chế ngự chúng thì thật là khó. Vì vậy các vị siêng năng chế ngự tâm mình, để giữ gìn tất cả các pháp thiện. Khi tâm được chế ngự một chỗ thì không việc gì không thành. .......
13- Này các đệ tử, nhiếp phục được tâm ý là làm cho tâm an trụ vào định. Tâm trụ thiền định thì sẽ thấu triệt được trạng thái sinh diệt, chuyển biến của thế giới. Các vị phải tinh tấn tu tập thiền định. Tâm định thì trạng thái chao động, tán loạn sẽ tiêu mất cũng như người biết cách giữ nước thì phải bảo vệ tốt đê điều. Cũng vậy, muốn có nước trí tuệ, các vị phải khéo tu tập thiền định, không để cho rỉ chảy. (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
+ 22. AN TRÚ BÊN TRONG
Tỳ kheo, tâm hướng về bên ngoài, bị phân rải, tán loạn, tâm không an trú vào bên trong, không chấp thủ nhưng sợ hãi. Nhưng, này các Tỳ-kheo, hãy quán như thế nào mà sau khi các ngươi đã quán như vậy, tâm không hướng về bên ngoài, không bị phân rải, tán loạn, tâm trú bên trong, không chấp thủ, không sợ hãi. Như vậy các ngươi không còn sanh, lão, bệnh, tử nữa. Đó là tận cùng sự khổ. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, Phẩm 13, số 164)
+ 23. AN TRỤ TỨ NIỆM XỨ VÀ BẢY GIÁC CHI
Nếu ai không đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, mà tâm có thể an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém mà tâm an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ, trường hợp này tất có.
Nếu ai không đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm không an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ mà muốn tu bảy giác chi, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ mà tu bảy giác ý, trường hợp này tất có. (Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
258. HAI MƯƠI MỐT TÂM Ô UẾ
1) Tà kiến 2) Phi pháp dục
3) Ác tham 4) Tà pháp
5) Tham 6) Nhuế
7) Thụy miên 8) Trạo cử hối quá
9) Nghi hoặc 10) Sân triền
11) Phú tàng 12) Xan tham
13) Tật đố 14) Khi trá
15) Dua siểm 16) Vô tàm
17) Vô quý 18) Mạn
19) Đại mạn 20) Ngạo mạn
21) Phóng dật.
Ví như cái áo bị cáu bẩn đem cho nhà thợ nhuộm. Người thợ nhuộm nhận áo đó, hoặc dùng tro sạch, hoặc dùng bột giặt hay dùng nước chắt chà xát thật kỹ cho sạch cái áo dơ bẩn đó. Dù người thợ giặt dùng tro sạch, hoặc dùng bột giặt hay dùng nước chắt chà xát thật kỹ cho sạch, nhưng cái áo dơ bẩn ấy vẫn có màu dơ bẩn. Cũng như vậy, nếu có hai mươi mốt thứ ô uế làm ô uế tâm thì chắc chắn đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. (Trung A Hàm, Kinh Thủy Tịnh Phạm Chí, Phẩm 8, số 93)
244. GIÀ LÀ KHỔ
Nói già là khổ; nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, già nghĩa là chúng sanh kia, với chủng loại sai biệt của chúng sanh kia, kẻ kia trở nên già yếu, đầu bạc răng rụng, sự cường tráng ngày càng suy yếu, thân còng, chân vẹo, cơ thể nặng nề, hơi thở đưa lên, phải chống gậy mà đi, thịt rút, da nhăn, xù xì như cây gai, các căn hư hoại, nhan sắc xấu xí..
Già là khổ, là chúng sanh khi già thì thân cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác, cảm giác toàn diện. Tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện.
Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện.
Thân tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện.
Tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Thân tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện, vì lẽ ấy mà nói già là khổ. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31)
+ 223. DÒNG DÕI THẤP
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ sanh vào dòng dõi đê tiện?
Nếu có kẻ nam hay người nữ nào kiêu ngạo, ngã mạn, người đáng cung kính thì không cung kính, đáng tôn trọng thì không tôn trọng, đáng quý thì không quý, đáng phụng thờ thì không phụng thờ, đáng cúng dường thì không cúng dường, đáng nhường lối thì không nhường lối, đáng nhường chỗ ngồi thì không nhường chỗ ngồi, đáng chấp tay hướng về lễ bái, thăm hỏi thì không chấp tay hướng về lễ bái, thăm hỏi. Người ấy thọ nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, sanh nhằm dòng dõi ti tiện.
(Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ 224. DÒNG HỌ CAO QUÝ
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ sanh nhằm dòng dõi tôn quý? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào không có lòng kiêu ngạo, đại mạn, người đáng cung kính thì cung kính, đáng tôn trọng thì tôn trọng, đáng quý thì quý, đáng phụng thờ thì phụng thờ, đáng cúng dường thì cúng dường, đáng nhường lối thì nhường lối, đáng nhường chỗ thì nhường chỗ, đáng chấp tay hướng về lễ bái thăm hỏi thì chấp tay hướng về lễ bái thăm hỏi. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian nhằm dòng dõi tôn quý.
(Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
Nguồn: mục 223 và 224 xem Tại đây
+ 110. CÁCH NẰM NHƯ SƯ TỬ CỦA TỲ KHEO
Bấy giờ Thế Tôn bảo rằng: Này A-nan, ngươi nên nằm như cách nằm của sư tử. Tôn giả A-nan bạch rằng: Bạch Thế Tôn, sư tử, chúa tể của loài thú, nằm theo cách nào?
- Thế Tôn đáp: Này A-nan, sư tử, chúa tể của loài thú, ban ngày đi tìm ăn, xong rồi vào hang; khi muốn ngủ, bốn chân xếp chồng lên nhau, ngay đuôi ra sau, nằm bằng hông bên phải; qua đêm đến sáng hôm sau, quay lại sau nhìn thân thể. Nếu sư tử chúa tể của loài thú, mà thân thể không ngay thẳng, thì khi thấy rồi, nó không vui. Nếu sư tử chúa tể của loài thú, mà thân thể được ngay ngắn khắp mọi phía, thì khi thấy rồi nó liền vui mừng. Nó từ chỗ nằm đứng dậy, ở trong hang đi ra; đi ra rồi gầm gừ; gầm gừ rồi tự ngắm thân thể; tự ngắm thân thể rồi nhìn khắp bốn hướng, xoay nhìn khắp bốn hướng rồi liền rống lên ba lần, rống ba lần rồi liền đi tìm ăn. Cách thức nằm của sư tử chúa là như vậy.
- A-nan bạch rằng: Bạch Thế Tôn, cách thức nằm của sư tử, chúa tể của loài thú, là như vậy. Còn cách nằm của Tỳ-kheo phải như thế nào?
Thế Tôn đáp rằng: Này A-nan, nếu Tỳ-kheo sống nơi thôn ấp, khi đêm đã qua, vào lúc sáng sớm, khoác y ôm bát, đi vào thôn khất thực, khéo hộ trì thân thể, nhiếp thủ các căn, trụ với chánh niệm. Vị ấy từ thôn ấp khất thực xong, xếp y cất bát, rửa sạch tay chân, vắt Ni-sư-đàn lên vai đi đến chỗ rừng vắng, hoặc đến dưới bóng cây, hoặc vào trong nhà trống, hoặc kinh hành, hoặc tọa thiền, tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm. Ban ngày hoặc kinh hành hoặc tọa thiền để tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm rồi. Lại vào đầu hôm hoặc kinh hành, hoặc tọa thiền, để tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm. Sau khi hoặc kinh hành, hoặc tọa thiền để tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm vào lúc đầu hôm rồi, đến nữa đêm đi vào tĩnh thất để nằm, xếp làm tư Ưu-đa-la-tăng, trải lên giường, gấp y tăng-già-lê làm gối, nằm xuống phía hông bên phải, hai chân xếp chồng lên nhau, buộc ý vào ấn tượng ánh sáng, chánh niệm, chánh trí, hằng hướng tâm niệm đến ý tưởng sẽ trỗi dậy. Sau đêm ấy liền nhanh chóng ngồi dậy, hoăc kinh hành, hoặc tọa thiền, để tịnh trừ những pháp chướng ngại trong tâm. Như thế là pháp nằm như sư tử của Tỳ-kheo.
A-nan lại nói: Này chư Hiền, Đức Thế Tôn dạy tôi cách nằm giống như sư tử; từ đó trở đi chưa hề có lần nào tôi nằm nghiêng về bên hông trái. Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ-kheo A-nan.
Nguồn: (Trung A Hàm, Kinh Thị Giả, Phẩm 4, số 33)
88. BỐN NGHIỆP CỦA MIỆNG
Những gì là bốn nghiệp do miệng cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo?
1) Nói dối; người kia hoặc ở giữa đám đông, hoặc trong quyến thuộc, hoặc ở tại vương gia, nếu có ai kêu mà hỏi rằng: ‘Ngươi có biết thì nói’. Nhưng nó không biết mà nói là biết, biết nói là không biết; không thấy nói là thấy, thấy nói không thấy. Vì mình, vì người, hoặc vì của cải, biết rồi mà lại nói dối.
2) Nói hai lưỡi; muốn ly gián người khác nên nghe nơi người này đem nói với người kia vì muốn phá hoại người này. Nghe nơi người kia đem nói với này vì muốn phá hoại người kia. Những kẻ hợp nhau muốn tạo ly tán; những kẻ đã ly tán lại muốn cho xa rời để kết bè đảng, vui thích bè đảng, khen ngợi bè đảng.
3) Nói thô ác; người ấy nếu có nói năng gì thì lời lẽ thô tục, hung bạo, tiếng dữ trái tai, không ai mến nổi, làm cho người khác phải khổ não, khiến cho không được định tâm.
4) Nói lời thêu dệt; người ấy nói không đúng lúc, nói không thành thật, nói lời không đúng nghĩa, nói lời không đúng pháp, nói không tịch tĩnh, lại còn khen ngợi sự không tịch tĩnh, trái ngược thời gian mà lại không khéo dạy dỗ, không khéo la mắng.
Đó là bốn nghiệp do miệng cố ý tạo, bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo.
(Trung A Hàm, Kinh Tư, Phẩm 2, số 15)
+ Tu tâm đối trị:
Bấy giờ Đức Thích Ca Như Lai, bảo tất cả đại chúng rằng:
Bảy mươi hai vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy, ở đời quá khứ lâu xa trong số vô lượng trăm nghìn vạn ức vi trần a tăng kỳ kiếp, đã từng cúng dàng vô lượng trăm nghìn vạn ức vi trần số chư Phật, nhiều như cát sông Hằng, ở chỗ chư Phật, thường tu phạm hạnh, cúng dàng chư Phật, tâm không biết mỏi mệt, từ tâm tu thân, khéo hộ trì Phật Pháp, không bỏ tâm đại bi, thường ở trong mười phương, làm những việc lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Nếu có chúng sinh nào, tới khi mệnh chung, được nghe tên hiệu của một vị Bồ Tát ấy, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến bảy mươi hai vị, xưng danh quy mệnh, người ấy sau khi mệnh chung sẽ được vãnh sinh về cõi nước của Phật, hóa sinh trong hoa sen, xa lìa dâm dục, không phải ở trong bào thai, nhơ uế bất tịnh, thân thể của người ấy, rất là trong sạch thơm tho mầu nhiệm, được mọi người đều cung kính yêu mến, vì được mọi người cung kính yêu mến, mà lòng sinh ra những sự hoan hỷ, vì hoan hỷ, liền hay phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, hay đối với tất cả chúng sinh, khởi đại bi tâm; sau khi đã phát tâm từ bi rồi, kế sinh tâm làm những việc lợi ích cho chúng sinh, sinh tâm làm lợi ích cho chúng sinh rồi, lại phát tâm không bao giờ bỏ chúng sinh.
Nhân tâm làm lợi ích cho chúng sinh, tâm tự lợi lợi tha, mà diệt trừ được tâm chướng ngại, được tâm tịnh tĩnh, hay gần gũi Thiện hữu, thường sinh tâm cung kính, tâm chuyên ý nghe pháp, nhớ giữ không quên, tâm suy nghĩ nghĩa lý nhiệm mầu, tâm nghe ít mà hiểu nhiều, tâm không nguyện nghe nhiều, mà không hiểu nghĩa. Kế tin tự tâm là chân như thực tướng; tin tự tâm như thực tướng nghĩa. Khi đã tin tự tâm là như thực tướng nghĩa rồi, kế sinh tâm như thuyết tu hành; do sinh tâm như thuyết tu hành rồi, kế sinh tâm không thoái chuyển, do sinh tâm không thoái chuyển rồi, nên đối với chúng sinh, liền sinh những tâm đối trị:
- Như tôi không muốn chết, tất cả ba cõi, hai mươi lăm cõi, loài có hình, không hình, loài bốn chân, nhiều chân, mãi đến loài bé nhỏ như loài kiến v.v… phàm loài nào có tính mạng đều không muốn chết như tôi, cho nên Bồ Tát, cho đến phải táng thân thất mạng, trọn không cướp đoạt thân mạng của kẻ khác.
- Như tôi có tiền của, lụa là, y phục, chăn đệm, thức ăn, uống, voi, ngựa, xe cộ, quốc thành, thê tử, thân thể tay chân, tôi thường cúng dàng ủng hộ, nhưng tôi không muốn người khác xâm chiếm của tôi, tất cả chúng sinh cũng lại như thế. Cho nên Bồ Tát cho đến phải táng thân thất mạng, đối với y phục, của cải, thức ăn uống của chúng sinh, trọn không sinh tâm cướp đoạt.
- Như tôi không muốn người khác dụ dỗ cướp đoạt chị em, thê thiếp có nhan sắc của tôi, tất cả chúng sinh cũng lại như thế, cho nên Bồ Tát, cho đến phải táng thân thất mạng, quyết không sinh ý nghĩ tà vậy, khởi tâm nhiễm ô, đối với sắc đẹp của kẻ khác, phương chi còn làm những sự phạm dâm gian ác.
- Như tôi không đối trước mặt thì khen ngợi, sau lưng thì chê bai, nói lưỡi đôi chiều, nói ác khẩu, để gia hại tôi, tất cả chúng sinh cũng lại như thế, cho nên Bồ Tát, cho đến phải táng thân thất mạng, trọn không nói dối, nói lưỡi đôi chiều, gây sự rối loạn giữa kẻ kia người này.
- Như tôi không muốn bị roi gậy đánh đập tra khảo, tất cả chúng sinh cũng lại như thế, cho nên Bồ Tát cho đến phải táng thân thất mạng, trọn không dùng roi gậy đánh đập chúng sinh.
- Như tôi không muốn bị những cảnh khổ não: Gông cùm, xiền xích, trói buột, tất cả chúng sinh cũng lại như thế, cho nên Bồ Tát, cho đến phải táng thân thất mạng, trọn không gông cùm, xiềng xích, trói buột chúng sinh.
- Như tôi không muốn người khác dùng cường lực uy thế, bức hiếp đè nén, không cho tôi được tự do trình bày sự thanh bạch của tôi, tất cả chúng sinh cũng lại như thế, cho nên Bồ Tát, cho đến phải táng thân thất mạng, trọn không đem những sự phi lý, để gia hại chúng sinh.
- Như tôi được người cúng dàng tôn trọng tán thán, khiến cho tôi vui mừng, tôi sẽ thường bố thí chúng sanh: Y phục, thức ăn, uống, đồ nằm, ngồi, thuốc thang, và tất cả những thứ làm cho chúng sinh được an vui, nếu tôi làm đại sự, hoặc Phật sự, Pháp sự, Tăng sự, nếu vì trí lực có hạn, không làm thế nào khiến cho thành tựu được, sinh ra lo buồn khổ não, nếu người có trí thấy tôi như vậy, biết rằng vì tôi kém phúc đức, nên không thể làm khiến cho thành tựu việc ấy được, liền bảo tôi rằng:
“Nếu ông cần dùng điều gì, tôi sẽ xin cung cấp, khiến cho ông được vừa lòng, để hoàn thành công việc ấy.”
Tôi nghe lời nói ấy lòng sinh vui mừng, cho nên tôi cũng sẽ thường khuyến hóa giúp đỡ mọi người làm việc thiện, lợi ích chúng sinh.
- Như tôi bị nhà vua, giặc cướp, nước, lửa, huyện quan bức bách, trói buộc giam cầm, lòng sinh sầu não. Người có trí tuệ, coi thấy tôi gặp phải những sự khổ nạn như vậy, liền đến chỗ tôi, khéo léo khuyên nhủ tôi:
“Ông không nên sầu khổ, tôi sẽ vì ông, xin với nhà vua, hay các quan đại thần hoặc cung cấp của cải, hoặc dùng các phương tiện khác khiến cho ông được giải thoát, không phải những sự khổ nạn, suy não ấy nữa”.
Tôi nghe lời nói ấy, lòng sinh vui mừng, cho nên Bồ Tát, thường siêng năng học hỏi về kỹ nghệ, đủ các tài năng xuất chúng như: Âm nhạc, xướng kỹ, thiên văn, địa lý, toán kế, chú thuật, học thuốc, lái xe, cưỡi voi, cưỡi ngựa, biết sử dụng áo giáp, gươm giáo; cung tên, xuất trận, nhập trận, võ công hiển hách. Vì tôi có những kỹ nghệ mầu nhiệm như vậy, nên tất cả mọi người: Hoặc vua, hoặc đại thần v.v… không dám trái nghịch ý tôi, và tôi lại có đủ mọi thứ của cải giàu sang như: Y phục, thức ăn uống, vàng ngọc, vòng xuyến, ngọc lưu ly, san hô, hổ phách, xà cừ, mã não, châu báu, mai khôi, ma ni bảo châu, voi, ngựa, xe cộ, kiệu cáng, đứa ở, tôi đòi, cung nhân mỹ nữ, suối chảy ao tắm, đài quán làm bằng thất bảo, thứ thứ vi diệu như vậy vô lượng trăm nghìn.
Bồ Tát tuy có mọi thứ uy vũ, kỹ nghệ, trăm nghìn bảo tạng, voi ngựa, xe cộ, vô lượng mỹ nữ, thắng diệu đài quán, suối chảy ao tắm, tất cả ngũ dục, xứng ý như vậy, nhưng tâm không hề tham đắm, mà thường ít dục biết đủ, ưa thích những chỗ vắng lặng ở nơi núi rừng, tu tập thiền định, tuy ở trong đại chúng, nói năng bàn bạc, mà tâm thường nhập pháp môn đối trị, tuy cùng với chúng sinh, hòa quang đồng trần có những tài sản, xuất nhập, sinh kế lợi tức, nhưng trọn không làm điều ác, chỉ làm những việc lợi ích cho chúng sinh.
Nếu có người nghèo cùng khổ não, tới xin Bồ Tát những thứ cần dùng, Bồ Tát đều cung cấp khiến cho được thỏa mãn như ý muốn của họ. ... (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Pháp môn đoạn giảm - Pháp môn khởi tâm - Pháp môn đối trị dung tư tưởng gốc đối nghịch - Pháp môn hướng thượng
Trích: (Ðoạn giảm)
Này Cunda, ở đây đoạn giảm được các Người thực hiện khi các Người nghĩ:
(1) "Những kẻ khác có thể là những người làm hại, chúng ta ở đây không thể là những người làm hại", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(2) "Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát sanh", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(3) "Những kẻ khác có thể lấy của không cho, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ lấy của không cho", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(4) "Những kẻ khác có thể không phạm hạnh, chúng ta ở đây sẽ sống phạm hạnh", như vậy... (như trên)... thực hiện.
(5) "Những kẻ khác có thể nói láo, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói láo",... (như trên)...
(6) "Những kẻ khác có thể nói hai lưỡi, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói hai lưỡi",... (như trên)...
(7) "Những kẻ khác có thể nói lời độc ác", chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói lời độc ác", ... (như trên)...
(8) "Những kẻ khác có thể nói lời phù phiếm, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói lời phù phiếm",... (như trên)...
(9) "Những kẻ khác có thể tham dục, chúng ta ở đây không tham dục",... (như trên)...
(10) "Những kẻ khác có thể có sân tâm, chúng ta ở đây sẽ không có sân tâm",... (như trên)...
(11) "Những kẻ khác có thể có tà kiến, chúng ta ở đây sẽ có chánh kiến,... (như trên)...
(12) "Những kẻ khác có thể có tà tư duy, chúng ta ở đây sẽ có chánh tư duy",... (như trên)...
(13) "Những kẻ khác có thể có tà ngữ, chúng ta ở đây sẽ có chánh ngữ",... (như trên)...
(14) "Những kẻ khác có thể có tà nghiệp, chúng ta ở đây sẽ có chánh nghiệp",... (như trên)...
(15) "Những kẻ khác có thể có tà mạng, chúng ta ở đây sẽ có chánh mạng",... (như trên)...
(16) "Những kẻ khác có thể có tà tinh tấn, chúng ta ở đây sẽ có chánh tinh tấn",... (như trên)...
(17) "Những kẻ khác có thể có tà niệm, chúng ta ở đây sẽ có chánh niệm",... (như trên)...
(18) "Những kẻ khác có thể có tà định, chúng ta ở đây sẽ có chánh định",... (như trên)...
(19) "Những kẻ khác có thể có tà trí, chúng ta ở đây sẽ có chánh trí",... (như trên)...
(20) "Những kẻ khác có thể có tà giải thoát, chúng ta ở đây sẽ có chánh giải thoát",... (như trên)...
(21) "Những kẻ khác có thể bị hôn trầm thụy miên chi phối, chúng ta ở đây sẽ không có hôn trầm thụy miên chi phối",... (như trên)...
(22) "Những kẻ khác có thể có trạo hối, chúng ta ở đây sẽ không có trạo hối",... (như trên)...
(23) "Những kẻ khác có thể nghi hoặc, chúng ta ở đây sẽ trừ diệt nghi hoặc",... (như trên)...
(24) "Những kẻ khác có thể phẫn nộ, chúng ta ở đây sẽ không có phẫn nộ",... (như trên)...
(25) "Những kẻ khác có thể oán hận, chúng ta ở đây sẽ không có oán hận",... (như trên)...
(26) "Những kẻ khác có thể hư ngụy, chúng ta ở đây sẽ không hư ngụy",... (như trên)...
(27) "Những kẻ khác có thể não hại, chúng ta ở đây sẽ không não hại",... (như trên)...
(28) "Những kẻ khác có thể tật đố, chúng ta ở đây sẽ không tật đố",... (như trên)...
(29) "Những kẻ khác có thể xan tham, chúng ta ở đây sẽ không xan tham",... (như trên)...
(30) "Những kẻ khác có thể man trá, chúng ta ở đây sẽ không man trá,... (như trên)...
(31) "Những kẻ khác có thể khi cuống, chúng ta ở đây sẽ không khi cuống",... (như trên)...
(32) "Những kẻ khác có thể ngoan cố, chúng ta ở đây không thể ngoan cố",... (như trên)...
(33) "Những kẻ khác có thể cấp tháo, chúng ta ở đây không thể cấp tháo",... (như trên)...
(34) "Những kẻ khác có thể khó nói (nan thuyết), chúng ta ở đây sẽ dễ nói",... (như trên)...
(35) "Những kẻ khác có thể là ác hữu, chúng ta ở đây sẽ là thiện hữu",... (như trên)...
(36) "Những kẻ khác có thể phóng dật, chúng ta ở đây sẽ không phóng dật",... (như trên)...
(37) "Những kẻ khác có thể là bất tín, chúng ta ở đây sẽ có tín tâm",... (như trên)...
(38) "Những kẻ khác có thể không xấu hổ, chúng ta ở đây sẽ có xấu hổ",... (như trên)...
(39) "Những kẻ khác có thể không sợ hãi, chúng ta ở đây sẽ có sợ hãi",... (như trên)...
(40) "Những kẻ khác có thể nghe ít, chúng ta ở đây sẽ nghe nhiều"... (như trên)...
(41) "Những kẻ khác có thể biếng nhác, chúng ta ở đây sẽ siêng năng",... (như trên)...
(42) "Những kẻ khác có thể thất niệm, chúng ta ở đây sẽ an trú niệm",... (như trên)...
(43) "Những kẻ khác có thể liệt tuệ, chúng ta ở đây thành tựu tuệ",... (như trên)...
(44) "Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả" như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(Khởi tâm)
Này Cunda, Ta nói rằng sự khởi tâm rất có lợi ích cho các thiện pháp, còn nói gì thân nghiệp, khẩu nghiệp phù hợp (với tâm ý). Do vậy, này Cunda:
(1) "Những kẻ khác có thể làm hại, chúng ta ở đây sẽ không làm hại", cần phải khởi tâm như vậy.
(2) "Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát sanh", cần phải khởi tâm như vậy... (như trên)...
(3-43) "Những kẻ khác... (như trên)...
(44) "Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả", cần phải phát tâm như vậy.
(Từ bỏ)
Này Cunda, giống như một con đường không bằng phẳng, có một con đường bằng phẳng khác đối trị.
Này Cunda, giống như một bến nước không bằng phẳng, có một bến nước bằng phẳng khác đối trị.
Cũng vậy này Cunda:
(1) Ðối với con người làm hại, có sự không làm hại đối trị.
(2) Ðối với con người sát sanh, có từ bỏ sát sanh đối trị.
(3) Ðối với con người lấy của không cho, có từ bỏ lấy của không cho đối trị.
(4-43) ..., không phạm hạnh, có phạm hạnh...; nói láo, có từ bỏ nói láo...; nói hai lưỡi, có từ bỏ nói hai lưỡi...; nói ác khẩu, có từ bỏ nói ác khẩu; nói phù phiếm, có từ bỏ nói phù phiếm...;... tham dục, có không tham dục...;... sân tâm, có không sân tâm...;... tà kiến, có chánh kiến...;... tà tư duy, có chánh tư duy...;... tà ngữ, có chánh ngữ...;... tà nghiệp, có chánh nghiệp...;... tà mạng, có chánh mạng...;... tà tinh tấn, có chánh tinh tấn...;... tà niệm, có chánh niệm...;... tà định, có chánh định...;... tà trí, có chánh trí...;... tà giải thoát, có chánh giải thoát...;... bị hôn trầm thụy miên chi phối, có không bị hôn trầm thụy miên chi phối...;... trạo hối, có không trạo hối...;... nghi hoặc, có trừ diệt nghi hoặc...;... phẫn nộ, có không phẫn nộ...;... oán hận, có không oán hận...;... hư ngụy, có không hư ngụy...;... não hại, có không não hại...;... tật đố, có không tật đố...;... xan tham, có không xan tham...;... man trá, có không man trá...;... khi cuống, có không khi cuống...;... ngoan cố, có không ngoan cố... cấp tháo, có không cấp tháo...;... khó nói, có không khó nói...;... ác hữu, có thiện hữu...;... phóng dật, có không phóng dật...;... bất tín, có tín
tâm...;... không xấu hổ, có xấu hổ...;... không sợ hãi, có sợ hãi...;... nghe ít, có nghe nhiều...;... biếng nhác, có siêng năng...;... thất niệm, có an trú niệm...;... liệt tuệ, có thành tựu tuệ....
(44) Ðối với con người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, có không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả đối trị.
(Hướng thượng)
Này Cunda, ví như các bất thiện pháp, tất cả đều hướng hạ, còn các thiện pháp, tất cả đều hướng thượng.
Cũng vậy, này Cunda:
(1) Con người không làm hại, hướng thượng đối với người làm hại, con người từ bỏ sát sanh, hướng thượng đối với người sát sanh.
(2) Con người từ bỏ lấy của không cho, hướng thượng đối với người lấy của không cho.
(3-43) Con người ... (như trên)...
(44) Con người không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả, hướng thượng đối với người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả.
(Pháp môn giải thoát)
Này Cunda, con người tự mình bị rơi vào bùn lầy có thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy, sự tình ấy không thể xảy ra. Này Cunda, con người tự mình không rơi vào bùn lầy, có thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy, sự tình ấy có thể xảy ra. Này Cunda, con người tự mình không được nhiếp phục, không được huấn luyện, không được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn luyện và hoàn toàn giải thoát người khác, sự tình ấy không xảy ra. Một người được nhiếp phục, được huấn luyện, được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn luyện, hoàn toàn giải thoát người khác, sự tình ấy xảy ra. Cũng vậy, này Cunda:
(1) Ðối với người làm hại, không làm hại đưa đến hoàn toàn giải thoát; đối với con người sát sanh, từ bỏ sát sanh đưa đến hoàn toàn giải thoát.
(2) Ðối với con người lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho đưa đến hoàn toàn giải thoát.
(3-43) Ðối với con người không phạm hạnh, sống phạm hạnh...; đối với con người nói láo, từ bỏ nói láo...; đối với con người nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi...; đối với con người ác khẩu, từ bỏ nói ác khẩu...; đối với con người nói phù phiếm, từ bỏ nói phù phiếm...; đối với con người có tham dục, không tham dục...; đối với con người có sân tâm, không sân tâm...; đối với con người có tà kiến, chánh kiến...; đối với con người có tà tư duy, chánh tư duy...; đối với con người có tà ngữ, chánh ngữ...; đối với con người có tà nghiệp, chánh nghiệp...; đối với con người có tà mạng, chánh mạng...; đối với con người có tà tinh tấn, chánh tinh tấn...; đối với con người có tà niệm, chánh niệm...; đối với con người có tà định, chánh định...; đối với con người có tà trí, chánh trí...; đối với con người có tà giải thoát, chánh giải
thoát...; đối với con người bị hôn trầm thụy miên chi phối, không bị hôn trầm thụy miên chi phối...; đối với con người trạo hối, không trạo hối...; đối với con người nghi hoặc, không nghi hoặc...; đối với con người phẫn nộ, không phẫn nộ...; đối với con người oán hận, không oán hận...; đối với con người hư ngụy, không hư ngụy...; đối với con người não hại, không não hại...; đối với con người tật đố, không tật đố...; đối với con người xan tham, không xan tham...; đối với con người man trá, không man trá...; đối với con người khi cuống, không khi cuống...; đối với con người ngoan cố, không ngoan cố....; đối với con người cấp tháo, không cấp tháo ...; đối với con người khó nói, dễ nói...; đối với con người ác hữu, thiện hữu...; đối với con người phóng dật, không phóng dật...; đối với con người bất tín, tín tâm...; đối với con người không xấu hổ, có xấu hổ...; đối với con người không sợ hãi, có sợ hãi...; đối với con người nghe ít, nghe nhiều...; đối với con người biếng nhác, siêng năng...; đối với con người thất niệm, an trú niệm...; đối với con người liệt tuệ, thành tựu trí tuệ...
(44) Ðối với con người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả, đưa đến hoàn toàn giải thoát.
Này Cunda, như vậy Ta đã giảng pháp môn đoạn giảm, đã giảng pháp môn khởi tâm, đã giảng pháp môn đối trị, đã giảng pháp môn hướng thượng, đã giảng pháp môn giải thoát hoàn toàn.
Này Cunda, những gì bậc Ðạo Sư phải làm, vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy Ta đã làm, vì lòng thương tưởng cho các Người. Này Cunda, đây là những gốc cây, đây là những nhà không tịnh. Này Cunda, hãy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau. Ðó là lời giáo huấn của Ta cho các Người.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Maha Cunda hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn (Nguồn: Kinh Đoạn Giảm)
68. BIẾT LẬU
Thế nào là biết lậu? Biết có ba lậu: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.
Đó là biết lậu? Thế nào biết nhân sanh của lậu? Biết từ vô minh, nhân vô minh, do đó có lậu.
(Trung A Hàm, Kinh Đạt Phạm Hạnh, Phẩm 10, số 111)
69. BIẾT LẬU DIỆT ĐẠO
Thế nào là biết lậu diệt đạo? Biết Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến đến chánh định.
(Trung A Hàm, Kinh Đạt Phạm Hạnh, Phẩm 10, số 111)
66. BIẾT HỮU BÁO CỦA LẬU
Thế nào là biết hữu báo của lậu? Biết bị vô minh trói buộc, bị các lậu rỉ thấm, do nhân duyên đó lãnh thọ quả báo hoặc đến chỗ lành hay đến chỗ ác.
(Trung A Hàm, Kinh Đạt Phạm Hạnh, Phẩm 10, số 111)
+ Về chữ lậu - Hữu lậu - Vô lậu: Trong Phật giáo, thuật ngữ nầy có thể được so sánh với ý niệm phiền não hoặc nhiễm ô, nên nó có nghĩa là » nhiễm ô «, » phiền não «, » bất tịnh «, » không hoàn thiện « v.v…; đồng nghĩa với Nhiễm và Phiền não. Sự nhiễm ô nầy liên đới trực tiếp với duyên của vô minh, khiến thức bị đánh lừa bởi ảo tướng của chủ thể và đối tượng, yêu và ghét. Tâm giải thoát thì vận hành không vướng nhiễm ô (vô lậu); do vậy, sự phân biệt giữa hữu lậu và vô lậu tương tự như sự khác biệt giữa phàm và thánh, hoặc giữa mê và ngộ;
I. Hữu Lậu. Phạm:Sàsrava. Đối lại: Vô lậu. Lậu, Phạm:Àsrava, nghĩa là thấm ra, rò rỉ, tên khác của phiền não. Phiền não sinh ra tội lỗi làm cho con người trôi lăn trong thế giới mê vọng không ngừng, khó có thể ra khỏi biển khổ sinh tử. Trong 4 Thánh đế thì Khổ đế, Tập đế thuộc về quả và nhân mê vọng, là pháp hữu lậu; Diệt đế, Đạo đế là quả và nhân giác ngộ, là pháp vô lậu. Pháp hữu lậu, vô lậu có vị trí rất quan trọng trong nhân và quả của sự tu hành.
Vô minh lậu. Chỉ cho 52 loại phiền não ở cõi Sắc và cõi Vô sắc.
Con người do vì sai lầm, khổ quả vốn sanh ra từ phiền não, khiến cho họ cử trôi lăn mãi trong thế giới mê lầm, không bao giờ dừng nghỉ, khó có thể thoát ra biển sanh tử; nên goi là Hữu Lậu. Nếu đạt đến cảnh giới đoạn diệt phiền não, được gọi là Vô Lậu.
Các pháp Hữu Lậu cũng như Vô Lậu vốn ở trong nhân, quả tu hành, có vị trí vô cùng quan trọng. (Nguồn: Tóm lược theo Thuật ngữ: thuvienhoasen.org)
+ Các trụ thức và Trụ xứ của thức:
+ Bảy trụ thức và hai trụ xứ:
19. A-LA-HÁN DANH TUỆ GIẢI THOÁT
Thế tôn nói: A-nan, đối với trụ xứ thứ nhất của thức, chúng sanh hữu sắc với các chủng loại thân, với các chủng loại tưởng, là loài người và loài trời cõi Dục; nếu có Tỳ-kheo biết như thật trụ xứ ấy của thức, biết sự tập khởi của trụ xứ của thức, biết sự diệt tận, vị ngọt, tai hoạn, biết xuất yếu, thì này A-nan, Tỳ-kheo kia có thể vui thích nơi trụ xứ của thức ấy, kế trước và trụ nơi trụ xứ ấy của thức chăng?
A-nan đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Hỏi: A-nan, đối với trụ xứ thứ hai của thức, chúng sanh hữu sắc với các chủng loại thân nhưng một chủng loại tưởng, là Phạm thiên sơ sanh không yểu thọ; nếu có Tỳ-kheo biết như thật trụ xứ ấy của thức, biết sự tập khởi của trụ xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai hoạn, biết xuất yếu, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trụ xứ kia của thức, kế trước và trụ nơi trụ xứ kia của thức chăng?
Đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Hỏi: A-nan, đối với trụ xứ thứ ba của thức, chúng sanh hữu sắc với một loại thân nhưng nhiều chủng loại tưởng, ấy là Hoảng dục thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trụ xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai hoạn, biết xuất yếu, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trụ xứ kia của thức, kế trước và trụ nơi trụ xứ kia của thức chăng?
Đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Hỏi: A-nan, đối với trụ xứ thứ tư của thức, chúng sanh hữu sắc với một loại thân, với một loại tưởng, ấy là Biến tịnh thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trụ xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai hoạn, biết xuất yếu, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trụ xứ kia của thức, kế trước và trụ nơi trụ xứ kia của thức chăng?
Đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Hỏi: A-nan, đối với trụ xứ thứ năm của thức, chúng sanh vô sắc, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ hữu đối tưởng, không tư duy các loại tưởng, vào vô lượng không xứ, thành tựu an trụ vô lượng không xứ, ấy là Vô lượng không xứ thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trụ xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai hoạn, biết xuất yếu, này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trụ xứ kia của thức, kế trước và trụ nơi trụ xứ kia của thức chăng?
Đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Hỏi: A-nan, đối với trụ xứ thứ sáu của thức, chúng sanh vô sắc vượt tất cả vô lượng không xứ, vào vô lượng thức xứ, thành tựu an trụ vô lượng thức xứ, ấy là Vô lượng thức xứ thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trụ xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai hoạn, biết xuất yếu, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy có thể an lạc nơi trụ xứ kia của thức, kế trước và trụ nơi trụ xứ kia của thức chăng?
Đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Hỏi: A-nan, đối với trụ xứ thứ bảy của thức, chúng sanh vô sắc vượt qua tất cả vô lượng thức tưởng, vào Vô sở hữu xứ, thành tựu an trụ Vô sở hữu xứ, ấy là Vô sở hữu xứ thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trụ xứ của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai hoạn, biết xuất yếu, thì này A-nan, vị Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trụ xứ kia của thức, kế trước và trụ nơi trụ xứ kia của thức chăng?
Đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Hỏi: A-nan, đối với trụ xứ thứ nhất, chúng sanh hữu sắc không có tưởng, không có thọ, ấy là Vô tưởng thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật trụ xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai hoạn, biết xuất yếu, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi trụ xứ kia của thức, kế trước và trụ nơi trụ xứ kia của thức chăng?
Đáp: Bạch Thế Tôn, không.
Hỏi: A-nan, đối với trụ xứ thứ hai của thức, chúng sanh vô sắc, vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, vào Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trụ Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, ấy là Phi hữu tưởng phi vô tưởng thiên. Nếu có Tỳ-kheo biết như thật xứ ấy của thức, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết tai hoạn, biết xuất yếu, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy có thể hoan lạc nơi xứ kia của thức, kế trước và trụ nơi xứ kia của thức chăng?
Đáp: Bạch Thế Tôn, không.
A-nan, nếu có Tỳ-kheo biết như thật bảy trụ xứ của thức và hai xứ kia, tâm không nhiễm trước, được giải thoát thì gọi là Tỳ-kheo A-la-hán danh tuệ giải thoát. (Trung A Hàm, Kinh Đại Nhân, Phẩm 9, số 97)
+ Bảy trụ xứ của Thức:
64. BẢY TRỤ XỨ CỦA THỨC
1) Chúng sanh hữu sắc với các chủng loại thân khác nhau, các chủng loại tướng khác nhau, ấy là loài người và loài trời cõi Dục.
2) Chúng sanh hữu sắc với các chủng loại thân khác nhau, nhưng chỉ có một loại tưởng, ấy là Phạm thiên sơ sanh không yểu thọ.
3) Chúng sanh hữu sắc với một loại thân nhưng nhiều chủng loại tưởng, ấy là Hoảng dục thiên.
4) Chúng sanh hữu sắc với một thân, với một loại tưởng, ấy là Biến tịnh thiên.
5) chúng sanh vô sắc, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ hữu đối tưởng, không tư duy các loại tưởng, vào vô lượng không xứ, thành tựu an trụ vô lượng không xứ, ấy là Vô lượng không xứ thiên.
6) Chúng sanh vô sắc, vượt qua tất cả vô lượng không xứ, vào vô lượng thức xứ, thành tựu an trụ vô lượng thức xứ, ấy là Vô lượng thức xứ thiên. .
7) Chúng sanh vô sắc, vượt qua tất cả vô lượng thức tưởng, vào Vô sở hữu xứ, thành tựu an trụ Vô sở hữu xứ, ấy là Vô sở hữu xứ thiên. (Trung A Hàm, Kinh Đại Nhân, Phẩm 9, số 97)
+ Nguồn: Chương 4 - Những lời dậy của Phật - Kinh Trung A Hàm
+ Tiền Tài: Chỉ có kẻ nào không ham muốn gì hết cho riêng mình mới có thể trở thành kẻ thu nhận nguồn tài chính phong phú và là kẻ phân phối tài nguyên của vũ trụ. Trường hợp khác, khi tài sản gia tăng, chúng không đem lại điều gì ngoại trừ phiền não, lo lắng, không vừa lòng và lạm dụng. (ĐĐNLVTD, 78–79)
+ Chân Sư DK: Libra có liên quan chặt chẽ với Ngôi 3 của Chúa Cha và do đó nó là cung đang cai quản và là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này. Cả 3 khía cạnh thiêng liêng... biểu lộ theo 3 cách hay là qua 3 trạng thái thứ yếu,... Chính là qua việc nghiên cứu Libra mà ánh sáng đối với trạng thái thứ 3 sẽ đến. Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, lập pháp, tính hợp pháp, công lý; Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục; Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Nghiên cứu thật kỹ hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn (Xem thêm về Tam giác lực với Libra ở đỉnh; CTHNM, 275)
+ Ngôi 3 - Chúa Thánh Thần - Đấng Sáng Tạo: Thiên luật, tính dục, tiền tài sẽ mang lại manh mối cho 3 cõi thấp (qua 3 cung Taurus, Libra và Capricorn)...;
1. Taurus – giới động vật – định luật, luật tự nhiên.
2. Libra – giới thực vật – tính dục (sex) – ái lực tự nhiên.
3. Capricorn – giới khoáng vật – tiền tài – biểu hiện cụ thể của Luật Cung Cầu. Với Libra ở đỉnh và chiếm ưu thế, Uranus là chủ thể chi phối bí ẩn và quan trọng bậc nhất trong cung này, vì cung năng lượng thứ 7 tác động qua hành tinh này..... Nơi đây toàn bộ bí ẩn về tiền bạc được ẩn giấu và cả sự sáng tạo và sản xuất của tiền tài. Chỉ một mình Ngôi 3 mới có liên quan tới tiến trình sáng tạo. Chính qua mối liên hệ của 3 trạng thái của biểu lộ thiêng liêng thứ ba – định luật, ái lực và năng lượng được cụ thể hóa – mà tiền tài được tạo ra (CTHNM, 277)
+ Bố thí - Tương ứng: Cho ăn là cho lực, mặc là sắc, xe là lạc, đèn là mắt; Ai cho chỗ trú xứ, Vị ấy cho tất cả, Ai giảng dạy Chánh pháp, Vị ấy cho bất tử (Tương Ưng Bộ Kinh I. 73)
+ Tài Sản hao tán và tài sản vĩnh cửu không bao giờ mất:
- Tài sản hữu hình luôn là của năm nhà: ... Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch.
- Tài sản không bao giờ mất: Có bảy tài sản không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài và tuệ tài. Bảy loại tài sản này, này Ugga, không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Ai có tài sản này, người ấy là đại phú, thiên nhân giới khó thắng.
Vị Thánh đệ tử có xấu hổ đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là tàm tài; Có sợ hãi đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là quý tài. Vị Thánh đệ tử nghe nhiều, giữ gìn những gì đã nghe, đề cao đời sống phạm hạnh, đọc tụng nhiều lần, chuyên tâm quán sát, thành tựu chính kiến, gọi là văn tài; Tâm từ bỏ xan tham, ưa thích xả ly, san sẻ vật bố thí, gọi là thí tài; Có trí tuệ về sinh diệt, thành tựu Thánh thể nhập, đưa đến chân chính đoạn diệt khổ đau, gọi là tuệ tài. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là bảy tài sản, ai có được những tài sản này được gọi là không nghèo khổ.... A Nan, hãy dạy cho thanh niên tu bảy loại tài sản này (Nguồn: Đức Phật giảng về Tiền và tài sản)
+ Bình an: Chân sư K.H, trong kiếp sống là Thánh St.Francis of Assisi, ghi lại những lời hướng dẫn chúng ta trong việc thực hành hạnh vô hại với mọi vật như sau: Hỡi Thượng đế, hãy để con là một công cụ thể hiện sự bình an của người. Nơi nào có sự ghét bỏ, hãy để con mang tình yêu đến, nơi nào có sự tổn thương, hãy để con mang đến sự tha thứ, nơi nào có sự nghi ngờ, hãy để con mang đến niềm tin, nơi nào có sự tuyệt vọng, hãy để con mang tới niềm hi vọng, nơi nào có bóng tối, hãy để con mang ánh sáng đến, và nơi nào có nỗi buồn hãy để con mang niềm vui tới.
HỠI SƯ PHỤ THIÊNG LIÊNG, đã cho con biết rằng con sẽ không tìm kiếm việc được an ủi nhiều như việc an ủi người khác, tìm kiếm việc được thấu hiểu nhiều như việc thấu hiểu người khác, tìm kiếm việc được yêu thương nhiều như việc yêu thương, vì khi cho đi là ta nhận lại; khi tha thứ ta được tha thứ; và khi chết là ta được sinh vào sự sống vĩnh hằng (Nguồn: Trích dẫn lời Thánh Francis of Assisi)
+ Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau
HỎI: Ngài nói rằng tiền bạc không ban cho hạnh phúc – Tôi đồng ý. Nhưng tôi tin rằng tiền bạc có thể mua những thứ để làm cho đời sống của ta thoải mái. Cho nên, theo tâm lý học Phật giáo, ngài có thể đề nghị một phương cách đưa đến sự cân bằng giữa việc có được sự giàu có và làm cho ta hạnh phúc không?
ĐÁP: Chúng ta có thân thể này và để làm cho nó thoải mái, chúng ta cần thực phẩm và nơi cư trú. Tôi đi ngang qua những xóm làng với những con người rất nghèo khổ, những người chưa bao giờ trải nghiệm sự thoải mái này. Trong toàn thế giới, khoảng cách giữa người giàu và nghèo là khổng lồ. Sự chú ý nên được hướng đến việc khắc phục khoảng cách trên cấp độ toàn cầu và quốc gia. Nền kinh tế Ấn Độ tăng trường khá tốt, và nó là một xã hội tự do khai phóng, không giống như Trung Hoa. Vì vậy, nó là một xã hội lành mạnh. Một sự chuyển hóa thật sự nên xảy ra trong những xa xôi hẻo lánh với nhiều sự chú ý hơn cho sự phát triển vùng sâu vùng xa.
Tôi thật sự đồng ý rằng tiền bạc là quan trọng. Những sự gia hộ thôi thì không đủ. Làm việc cần mẫn cũng quan trọng. Sự chuyển hóa thật sự đến từ việc lao động chăm chỉ chứ không đến chỉ từ việc cầu nguyện. Người giàu nên ban cho người nghèo sự học vấn và những kỷ năng công nghệ. Một vài ngày trước tôi đã ở một thị trấn mà tôi đã từng được mời đến hai thập niên trước, khi những người địa phương trình bày quyết định phát triển của họ. Tôi đã hứa hẹn hiến tặng mười triệu rupee và tiểu bang cũng hứa đóng góp. Khi tôi đến đó mới đây, người dân ở đó đã phát triển một số kỷ năng và đang sống rất yên bình.
+ Tiền Bạc Với Hạnh Phúc- Bình An Của Tâm Hồn: Có người nào có kinh nghiệm đưa qua đưa lại tâm trạng hạnh phúc và tâm trạng đau buồn?
- Khi ta đau buồn và có tiền trong túi, thì ta có thể đi tới một cửa hàng lớn và đòi hỏi một tâm thức yên bình được không?
- Hay ta có thể đi tới một nhà thương lớn chích một mũi thuốc bình an tâm hồn không,
- Hay yêu cầu một kỷ thuật cho sự bình an nội tại từ một nhà máy không?
Chỉ nếu người ta giữ não bộ một bên và thay thế nó với cơ cấu máy móc nào đó thì chúng ta sẽ dững dưng và không trải nghiệm bất cứ cảm giác gì. Chúng ta có thật sự muốn như vậy không?
=> Do vậy, rõ ràng rằng tiền bạc là cần thiết chỉ cho nhu cầu thân thể, chứ không cho sự bình an của tinh thần. Vì vậy, hãy mua những tiện nghi vật chất nhưng không tôn sùng tiền bạc. Hãy nhận ra rằng có một sự giới hạn về giá trị kinh tế và tập trung năng lượng của ta để đạt được sự hòa bình nội tại.(Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
+ Kiến giải của kẻ phàm phu:
Đức Phật dậy: Kẻ phàm phu không được nghe chánh pháp, không gặp bậc chơn trí thức, không biết Thánh pháp, không điều ngự Thánh pháp, không biết như thật về pháp, không có chánh tư duy nên suy nghĩ thế này:
‘Ta có đời quá khứ? Ta không có đời quá khứ? Do nhân duyên gì ta có đời quá khứ? Đời quá khứ ta như thế nào? Ta có đời vị lai? Ta không có đời vị lai? Do nhân duyên gì ta có đời vị lai? Ta có đời vị lai như thế nào?’ Người ấy hoài nghi về mình rằng: Thân ta là gì, nó là thế nào? Nay chúng sanh này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu? Trước kia do nhân gì mà có, và sẽ do nhân gì mà có?’ Người kia khởi tư duy không chánh như vậy rồi, trong sáu tà kiến, một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật có thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật không có thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là phi thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Chính thần ngã ấy có thể thấy, có thể biết, có thể hành động, có thể sai khiến hành động, có thể đứng dậy, có thể sai khiến đứng dậy, sanh vào nơi này, nơi kia, thọ lãnh thiện báo, ác báo; quyết không từ đâu đến, quyết không phải đã có, quyết không phải sẽ có’. Đó là tệ lậu của kiến; bị kiến lay động, bị kết sử của kiến buộc chặt. Kẻ phàm phu ngu si vì thế mà phải chịu cái khổ của sanh, lão, bệnh, tử.
Đa văn Thánh đệ tử được nghe Thánh pháp, gặp bậc chơn tri thức, được chế ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật, biết như thật về Khổ, biết Khổ tập, biết Khổ diệt và biết như thật Khổ diệt đạo. Biết như thật như thế rồi, ba kết tận trừ. Khi ba kết là thân kiến, giới thủ, và nghi đã trừ hết, chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa lạc ác pháp, chắc chắn thăng tiến đến chánh giác, thọ sanh tối đa bảy đời trong thiên thượng và nhân gian. Sau bảy lần qua lại liền chứng đắc Khổ đế. Nếu không có tri kiến thì phát sanh phiền não, ưu sầu, có tri kiến thì không phát sanh phiền não, ưu sầu. (Nguồn: Lời Phật dậy - Trung A Hàm)
62. BẢY PHÁP ĐOẠN TRỪ LẬU HOẶC ĐỂ CHỨNG KHỔ ĐẾ
Có bảy sự đoạn trừ lậu, phiền não, pháp ưu sầu. Những gì là bảy? Có lậu được đoạn do kiến, có lậu được đoạn do hộ, có lậu được đoạn do ly, có lậu được đoạn do dụng, có lậu được đoạn do nhẫn, có lậu được đoạn do trừ, có lậu được đoạn do tư duy.
Thế nào là lậu được đoạn do kiến?
Kẻ phàm phu không được nghe chánh pháp, không gặp bậc chơn trí thức, không biết Thánh pháp, không điều ngự Thánh pháp, không biết như thật về pháp, không có chánh tư duy nên suy nghĩ thế này:
‘Ta có đời quá khứ? Ta không có đời quá khứ? Do nhân duyên gì ta có đời quá khứ? Đời quá khứ ta như thế nào? Ta có đời vị lai? Ta không có đời vị lai? Do nhân duyên gì ta có đời vị lai? Ta có đời vị lai như thế nào?’ Người ấy hoài nghi về mình rằng: Thân ta là gì, nó là thế nào? Nay chúng sanh này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu? Trước kia do nhân gì mà có, và sẽ do nhân gì mà có?’ Người kia khởi tư duy không chánh như vậy rồi, trong sáu tà kiến, một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật có thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật không có thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là phi thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Chính thần ngã ấy có thể thấy, có thể biết, có thể hành động, có thể sai khiến hành động, có thể đứng dậy, có thể sai khiến đứng dậy, sanh vào nơi này, nơi kia, thọ lãnh thiện báo, ác báo; quyết không từ đâu đến, quyết không phải đã có, quyết không phải sẽ có’. Đó là tệ lậu của kiến; bị kiến lay động, bị kết sử của kiến buộc chặt. Kẻ phàm phu ngu si vì thế mà phải chịu cái khổ của sanh, lão, bệnh, tử.
Đa văn Thánh đệ tử được nghe Thánh pháp, gặp bậc chơn tri thức, được chế ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật, biết như thật về Khổ, biết Khổ tập, biết Khổ diệt và biết như thật Khổ diệt đạo. Biết như thật như thế rồi, ba kết tận trừ. Khi ba kết là thân kiến, giới thủ, và nghi đã trừ hết, chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa lạc ác pháp, chắc chắn thăng tiến đến chánh giác, thọ sanh tối đa bảy đời trong thiên thượng và nhân gian. Sau bảy lần qua lại liền chứng đắc Khổ đế. Nếu không có tri kiến thì phát sanh phiền não, ưu sầu, có tri kiến thì không phát sanh phiền não, ưu sầu.
1. Có lậu được đoạn trừ do hộ là gì? Tỳ-kheo khi mắt thấy sắc, nếu có phòng hộ nhãn căn thì sẽ do chánh tư duy mà quán bất tịnh vậy; nếu không phòng hộ nhãn căn thì sẽ do không chánh tư duy mà quán là tịnh. Nếu không phòng hộ thì sanh phiền não, ưu buồn. Nếu có phòng hộ thì không sanh phiền não, ưu buồn. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý biết pháp mà có phòng hộ ý căn, thì sẽ do chánh tư duy mà quán bất tịnh, nếu không phòng hộ ý căn thì sẽ do không chánh tư duy mà quán là tịnh. Nếu không phòng hộ thì sanh phiền não, ưu buồn, nếu có phòng hộ thì không sanh phiền não, ưu buồn.
2. Có lậu được đoạn trừ do ly là gì? Tỳ-kheo khi thấy voi dữ thì nên xa lánh, ngựa dữ, trâu dữ, chó dữ, rắn độc, đường hiểm, nhà tiểu, hầm hố, sông ngòi, suối sâu, vách núi, ác tri thức, ác bằng hữu, ác dị đạo, chòm xóm xấu, nơi cư trú xấu, hoặc Tỳ-kheo ở chung một chỗ với các người phạm hạnh, người không nghi ngờ mà khiến nghi ngờ, là những trường hợp phải nên xa lánh. Hãy nên xa lánh tất cả ác tri thức, ác bằng hữu, ác ngoại đạo, ác dị đạo, chòm xóm xấu, nơi cư trú xấu, hoặc Tỳ-kheo ở chung một chỗ với các người phạm hạnh, người không nghi ngờ mà khiến nghi ngờ. Nếu không xa lánh thì khởi sanh phiền não, ưu sầu. Nếu xa lánh thì không phát sanh phiền não, ưu sầu.
3. Có lậu được đoạn trừ do dụng là gì? Tỳ-kheo khi thọ dụng y phục, chẳng phải để cầu lợi, chẳng phải để kiêu hãnh, chẳng phải để trang sức, mà vì muỗi mòng, gió mưa, lạnh nóng và vì hổ thẹn. Khi thọ dụng đồ ăn uống chẳng phải vì mưu lợi, chẳng phải để trang sức, chẳng phải để mập béo mà vì để làm thân thể ở đời lâu dài, trừ phiền não, ưu buồn, vì để thực hành phạm hạnh, vì muốn để bệnh cũ tiêu trừ đừng sanh bệnh mới, và vì để sống lâu, an ổn, không bệnh hoạn. Khi thọ dụng nhà cửa, phòng xá, giường nệm, ngọa cụ, không phải để kiêu hãnh, chẳng phải để trang sức, mà vì để lúc mệt mỏi có nơi an nghỉ, để được tĩnh tọa. Khi thọ dụng thuốc thang không phải để mưu lợi, không phải để kiêu hãnh, không phải để mập béo, mà chỉ để trừ bệnh hoạn, để điều hòa mạng căn, để an ổn không bệnh. Nếu không thọ dụng những thứ ấy thì sẽ sanh phiền não, sầu lo, còn thọ dụng thì không sanh phiền não sầu lo.
4. Có lậu được đoạn trừ do nhẫn là gì? Tỳ-kheo tinh tấn đoạn trừ ác, bất thiện, tu tập thiện pháp, nên luôn luôn có ý tưởng trỗi dậy, chuyên tâm tinh tấn; thân thể, da, thịt, gân, xương, máu, tủy, thà để khô kiệt tất cả chớ không bỏ tinh tấn. Phải đạt được mục đích mong muốn mới xả sự tinh tấn. Tỳ-kheo lại phải chịu đựng sự đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng, ruồi, bọ chét, chấy, dù gió hay nắng bức bách, bị lời dữ, bị đánh đập, cũng đều có thể nhẫn chịu được. Dù thân mạng bệnh tật rất là đau đớn đến nỗi gần muốn tuyệt mạng, và những điều không thể ưa vui được, tất cả đều chịu đựng được. Nếu không nhẫn chịu thì sanh phiền não, ưu buồn, còn nhẫn chịu được thì không sanh phiền não ưu buồn.
5. Có lậu được đoạn trừ do trừ là gì? Tỳ-kheo nếu sanh khởi dục niệm mà không đoạn trừ, hay xả ly; sanh nhuế niệm, hại niệm mà không đoạn trừ xả ly. Nếu không trừ diệt thì sanh khởi phiền não, ưu buồn; còn nếu trừ diệt thì không sanh phiền não, ưu buồn.
6. Có lậu được đoạn trừ do tư duy là gì? Tỳ-kheo tư duy về giác chi thứ nhất là niệm, y viễn ly, y vô dục, y diệt tận, thẳng đến xuất yếu; trạch pháp, tinh tấn, hỷ, tức, định, cho đến tư duy về giác chi thứ bảy là xả, y viễn ly, y vô dục, y diệt tận, thẳng đến xuất yếu; nếu không tư duy thì sanh phiền não, ưu sầu, còn có tư duy thì không sanh phiền não ưu sầu.
Nếu có Tỳ-kheo nào do kiến mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi kiến; do hộ mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi hộ; do ly mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi ly; do dụng mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi dụng; do nhẫn mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi nhẫn; do trừ mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi trừ; do tư duy mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi tư duy. Đó gọi là Tỳ-kheo đã đoạn trừ tất cả lậu, đã giải trừ các kết phược, có thể bằng chánh trí mà chứng đắc Khổ đế. (Trung A Hàm, Kinh Lậu Tận, Phẩm 1, số 10) (Nguồn: Lời Phật dậy - Trung A Hàm)
+ Khổ đế: ... Đức Phật ẩn pháp đại thừa mà thị hiện pháp tiểu thừa, nên chỉ hiện thân lão tỳ kheo một thước sáu tấc để thuyết pháp Tứ Diệu Đế. Pháp Tứ Diệu Đế là khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
Thứ nhất là khổ đế. Chư vị hãy nói xem khổ có thật hay là giả ? Đế nghĩa là chân thật; khổ là chân thật. Như một đệ tử của tôi nói : "Nầy các khách trần ! Các ngươi hãy mau đi khỏi ! Nếu các ngươi không đi, Ta thật rất khổ."
Khách trần nếu không đi khỏi thì mình phải chịu khổ. Khách trần nếu đi khỏi thì khổ giảm thiểu dần dần.
Khổ có ba loại khổ, tức khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Lại có tám khổ, tức sanh già bệnh chết khổ (bốn loại khổ này từ thân phát xuất). Bên ngoài cũng có bốn loại khổ tức là khổ vì thương nhau mà xa lìa, khổ vì gần những người mình oán ghét, khổ vì cầu không được, khổ vì năm ấm tăng giảm hừng thạnh. Ảnh hưởng cảnh bên ngoài lại có vô số khổ đau.
"Chư khổ bức bách các tương công".
Khổ đế thật rất nhiều, chúng luôn công kích, gây chiến tranh, nên khiến cho con người bị bức bách không thể nhẫn chịu được, cơ hồ khí lực đều bị khổ chặt đứt đoạn. Khách trần đến, cái gì cũng đến, bảy tầng tám lớp. Sáu trần bên ngoài cùng sáu thức bên trong đồng đến tấn công chư vị. Mỗi việc khổ đều khiến chư vị quá khổ rồi, mà khổ lại chồng chất lên khổ. Ba loại khổ cũng đến bức bách, vô số khổ cũng đến bức bách. Tất cả khổ đều đến bức bách con người, nên gọi là "chư khổ bức bách các tương công, (bao khổ bức bách đồng công kích)".
Mời xem chi tiết bài giảng đầy đủ tại: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng
59. BẢY LOẠI PHƯỚC THẾ GIAN
Có bảy loại phước thế gian, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn. (Tộc tánh là người nam, nữ, nhà hảo tâm)
1) Có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm cúng thí phòng xá, nhà gác cho đại chúng Tỳ-kheo. Đó là loại phước thế gian thứ nhất, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.
2) Có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, ở trong các phòng xá, cúng thí giường nằm, đồ ngồi, đệm lông, thảm dệt, chăn len, ngọa cụ trong các phòng xá.
3) Có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, ở trong các phòng xá, cúng thí y phục mới mẽ, sạch sẽ, đẹp đẽ.
4) Có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, ở trong các phòng xá, thường xuyên cúng thí chúng tăng cháo buổi sáng,
5) Cúng dường thức ăn buổi trưa,
6) Cung cấp người làm vườn để sai bảo;
7) Hoặc gió, mưa, tuyết, lạnh, tự mình thân đến khu vườn mà cúng thí chu cấp thêm. Khiến các Tỳ-kheo sau khi ăn, không lo gió, mưa, tuyết lạnh khiến y phục bị ướt át, mà ngày đêm yên vui, tư duy thiền tọa vắng lặng. Châu-na, đó là loại thế gian phước thứ bảy, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.
Ví như nước sông Hằng-già từ nguồn chảy ra, tuôn vào đại hải, ở vào khoảng giữa càng lúc càng sâu, càng lúc càng rộng. Cũng vậy, Châu-na, tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm ấy, đã tạo được bảy loại phước thế gian này rồi thì hoặc đi, hoặc đến, hoặc ngồi, hoặc ngủ, hoặc thức, hoặc ngày, hoặc đêm, phước đức ấy càng sinh, càng lúc càng thêm, càng lúc càng rộng. (Trung A Hàm, Kinh Thế Gian Phước, Phẩm 1, số 7)
60. BẢY LOẠI PHƯỚC XUẤT THẾ GIAN
1) Có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nghe Như Lai hoặc đệ tử Như Lai đang trú ở nơi nào đó. Sau khi nghe, liền hoan hỷ, trong lòng rất phấn khởi.
2) Có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nghe Như Lai hoặc đệ tử Như Lai sẽ từ nơi kia đến đây, nghe rồi vui vẻ, trong lòng rất phấn khởi.
3) Có tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nghe Như Lai hoặc đệ tử Như Lai sẽ từ nơi kia đến đây, nghe rồi vui vẻ, trong lòng rất phấn khởi.
4) Với tâm thanh tịnh, đích thân tới thăm viếng,
5) Đích thân tới lễ kính,
6) Đích thân tới cúng dường.
7) Sau khi cúng dường, thọ pháp ba tự quy, đối với Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo mà thọ giới cấm. Đó là loại phước xuất thế gian thứ bảy, có phước hựu lớn, có quả báo lớn, có danh dự lớn, có công đức lớn.
Ví như từ châu Diêm-phù có năm con sông: Một là Hằng-già, hai là Dao-vưu-a, ba là Xá-lao-phù, bốn là A-di-la-bà-đề và năm là Ma-xí, đều chảy về đại hải. Ở khoảng giữa của chúng, không thể tính được số nước của bao nhiêu thăng hộc. Chỉ có thể nói là số nước nhiều không thể hạn, không thể lượng, và không thể biết được.
Cũng vậy, tộc tánh nam hay tộc tánh nữ có tín tâm, nếu tạo được bảy loại phước thế gian này và lại có bảy loại phước xuất thế gian, thì phước của người kia không thế tính được, có chừng ấy phước, có chừng ấy kết quả của phước, có chừng ấy phước báo. Chỉ có thể nói là không thể hạn, không thể lượng, và không thể biết được con số đại phước. (Trung A Hàm, Kinh Thế Gian Phước, Phẩm 1, số 7)
+ Nguồn: Lời Phật dậy - Kinh Trung A Hàm
58. BẢY LOẠI BỐ THÍ CHO TĂNG CHÚNG
1) Thiện nam tử hay thiện nữ nhân có tín tâm, sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn không lâu, bố thí cho cả hai bộ chúng,
2) Bố thí cho chúng Tỳ-kheo,
3) Bố thí cho chúng Tỳ-kheo-ni;
4) Đi vào tinh xá Tỳ-kheo bạch với chúng rằng ‘Mong trong chúng ở đây cử ra một số Tỳ-kheo để chúng con được bố thí’;
5) Đi vào tinh xá Tỳ-kheo-ni bạch với chúng rằng ‘Mong trong chúng ở đây cử ra một số Tỳ-kheo-ni để chúng con được bố thí’. Như vậy gọi là loại bố thí thứ năm cho Tăng chúng, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.
6) Tỳ-kheo thuộc loại danh tánh, khoác áo cà-sa mà không tinh tấn, vị ấy đã không tinh tấn, không tinh cần mà vẫn được bố thí vì có ở trong chúng, duyên nơi chúng, ở trên chúng, nhân nơi chúng, Ta nói lúc bấy giờ thí chủ sẽ được phước vô lượng không thể đếm, không thể kể, được thiện, được lạc;
7) Bố thí cho Tỳ-kheo thành tựu hành sự, thành tựu trừ sự, thành tựu cả hành sự và trừ sự, thành tựu chất trực, thành tựu nhu nhuyến, thành tựu cả chất trực và nhu nhuyến, thành tựu nhẫn, thành tựu lạc, thành tựu cả nhẫn và lạc, thành tựu tương ưng, thành tựu kinh kỹ, thành tựu cả tương ưng và kinh kỹ, thành tựu oai nghi, thành tựu hành lai du, thành tựu cả oai nghi và hành lai du, thành tựu tín, thành tựu giới, thành tựu đa văn, thành tựu thí, thành tựu tuệ, thành tựu cả tín, giới, đa văn, thí, tuệ. Như vậy gọi là loại bố thí thứ bảy cho Tăng chúng, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.
Đó gọi là bảy loại bố thí cho Tăng chúng sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.
(Trung A Hàm, Kinh Cù-đàm-di, Phẩm 14, số 180)
+ Bảy bậc Thiện nhân tu hành Thấy được đạo nhưng các mức tu thành tựu tương ứng sâu nông khác nhau và đều có Kiêu mạn thì chưa trừ hết.
52. BẢY BẬC THIỆN NHÂN ĐẾN VÔ DƯ NIẾT BÀN
1) Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đốt trấu, vừa nhen đã tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng thế, chút ít mạn chưa trừ hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Trung Bát-niết-bàn.
Đó là nơi đi đến của bậc thiện nhân thứ nhất, thế gian quả thực có người như vậy.
2) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không; vừa lên liền tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng lại như vậy; còn chút mạn chưa trừ hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Trung Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ hai, thế gian quả thực có người như vậy.
3) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi từ không rơi trở lại; rơi chưa đến đất liền tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Trung Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ ba, thế gian quả thực có người như vậy.
4) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống, tới đất thì tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Sanh Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ tư, thế gian quả thực có người như vậy.
5) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhúm cỏ, liền bốc khói hoặc phụt cháy; cháy hết mới tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Hành Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ năm, thế gian quả thực có người như vậy.
6) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhiều đám cỏ, liền bốc khói hoặc phụt cháy, cháy hết mới tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kiết đã đoạn hết, chứng Vô hành Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ sáu, thế gian quả thực có người như vậy.
7) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhiều đám cỏ, liền bốc khói hoặc phụt cháy, cháy luôn cả thôn ấp, thành quách, rừng núi, đồng nội, hoặc đến đường đi, hoặc mé nước, cho đến đất bằng thì tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Thượng lưu A-ca-nị-trá Niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ bảy, thế gian quả thực có người như vậy.
(Trung A Hàm, Kinh Thiện Nhân Vãng, Phẩm 1, số 6)
56. Bảy hạng người dưới nước - Các mức tu thành tựu đạo quả khác nhau
1) Thế nào là hạng người nằm mãi dưới nước?
Hoặc có những người bị pháp bất thiện che lấp, bị nhiễm bởi nhiễm ô, thọ quả báo của ác pháp, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là hạng người nằm mãi dưới nước. Cũng như người chìm lỉm, nằm luôn dưới nước, Ta nói người kia cũng giống như vậy. Đó là hạng người thứ nhất của ví dụ về nước, thế gian quả thực có hạng người như vậy.
2) Thế nào là hạng người ra khỏi nước rồi chìm lại?
Đó là người đã làm trỗi lên tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người ấy sau đó lại mất tín tâm, không kiên cố, mất sự trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, không kiên cố.
3) Thế nào là hạng người ra rồi đứng?
Đó là người đã trỗi tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn kiên cố, chắc chắn không mất, trì giới, bố thí đa văn, trí tuệ đều kiên cố, không mất.
4) Thế nào là hạng người ra rồi đứng; đứng rồi nhìn quanh?
Đó là người làm trỗi dậy tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm kiên cố vẫn không mất, trì giới, bố thí đa văn, trí tuệ vẫn kiên cố không mất; trụ trong thiện pháp; biết như thật về Khổ, biết như thật về Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo. Người kia biết như vậy, thấy như vậy, ba kiết liền dứt sạch, đó là thân kiến, giới thủ và nghi. Ba kiết đã dứt sạch liền chứng Tu-đà-hoàn, không đọa ác pháp, quyết định thẳng đến chánh giác, đời sau thọ sanh tối đa bảy lần, qua lại bảy lần trong nhân gian, thiên thượng; rồi chứng đắc biên tế của sự khổ.
5) Thế nào là người ra rồi đứng; đứng rồi nhìn quanh; nhìn quanh rồi lội qua?
Đó là người trỗi được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn không mất, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ đều đã kiên cố không mất, trú trong thiện pháp. Biết như thật về Khổ, về Khổ tập, về Khổ diệt, về Khổ diệt đạo. Biết như vậy, thấy như vậy, ba kiết liền dứt sạch. Đó là, thân kiến, giới thủ, nghi; ba kiết đã dứt sạch. Dâm, nộ, si vơi mỏng. Còn phải một lần vãng lai trong nhân gian, thiên thượng. Sau khi qua lại một lần đó rồi liền chứng đắc Khổ đế.
6) Thế nào là người ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn quanh rồi lội qua, qua rồi đến bờ bên kia?
Đó là người đã làm trỗi dậy được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn, không mất. Trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ đều vẫn kiên cố, không mất, trụ trong thiện pháp. Biết như thế, thấy như thế, năm hạ phần kiết dứt sạch. Đó là tham dục, sân nhuế, thân kiến, giới thủ, nghi. Năm hạ phần kiết dứt sạch rồi, sanh vào cõi ấy, rồi nhập Niết-bàn, chứng pháp bất thối, không trở lại thế gian này nữa.
7) ‘Thế nào là người ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn quanh rồi lội qua, qua rồi đến bờ bên kia. Đến bờ bên kia rồi được gọi là người Phạm chí đứng trên bờ?
Đó là người đã làm trỗi dậy được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn không mất, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp, biết như thật về Khổ, về Khổ tập, về Khổ diệt, về Khổ diệt đạo. Biết như vậy, thấy như vậy. Tâm giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi liền biết mình đã giải thoát và biết một cách như thật rằng: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. (Trung A Hàm, Kinh Thủy Dụ, Phẩm 1, số 4)
41. BA TỤ
Có ba tụ là giới tụ, định tụ và tuệ tụ.
Không phải Thánh đạo tám chi thâu nhiếp ba tụ, nhưng ba tụ thâu nhiếp Thánh đạo tám chi. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, ba chi Thánh đạo này được nhiếp về Thánh giới tụ. Chánh niệm, chánh định, hai chi này được thâu nhiếp vào Thánh định tụ. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, ba chi này thân nhiếp vào Thánh tuệ tụ.
Đó là nói rằng không phải Thánh đạo tám chi ba tụ, nhưng ba tụ nhiếp Thánh đạo tám chi.
(Trung A Hàm, Kinh Tỳ-kheo-ni Pháp Lạc, Phẩm 17, số 210)
29. BA NGHIỆP CỦA THÂN
Những gì là ba nghiệp do thân cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, phải thọ khổ báo?
Một là sát sanh, quá hung dữ, uống máu, cứ muốn sát hại, không thương xót chúng sanh, cho đến loài côn trùng.
Hai là lấy của không được cho, đắm trước tài vật của kẻ khác, chiếm lấy với ý muốn trộm cắp.
Ba là tà dâm; người kia chính mình xâm phạm tới người nữ có cha giữ gìn, hoặc có mẹ gìn giữ, hoặc được cả cha và mẹ giữ gìn, hoặc được chị em giữ gìn, hoặc được anh em gìn giữ, hoặc được cha mẹ vợ gìn giữ, hoặc được người thân thuộc gìn giữ, hoặc được người cùng dòng họ gìn giữ; hoặc được bảo vệ bằng đe dọa hình phạt hay roi vọt, hoặc đã được thuê, hoặc đã được hứa hôn, cho đến chỉ mới nhận tràng hoa làm tin.
Đó là ba nghiệp do thân cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo.
(Trung A Hàm, Kinh Tư, Phẩm 2, số 15)
30. BA NGHIỆP CỦA Ý
Những gì ba nghiệp của ý cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo?
1) Tham lam; thấy tài vật và các tư cụ sinh sống của người khác thường tham lam ước muốn sao cho được về của mình.
2) Sân nhuế; trong ý ôm ấp oán ghét, nghĩ rằng: chúng sanh kia đáng giết, đáng trói, đáng bắt, đáng loại bỏ, đáng đuổi đi, mong cho kẻ kia thọ khổ vô lượng.
3) Tà kiến; sở kiến điên đảo, thấy như vầy, nói như vầy: ‘không có bố thí, không có trai phước, không có chú thuyết, không có nghiệp thiện ác, không có nghiệp báo thiện ác, không có đời này, đời sau; không có cha mẹ, trên đời không có bậc chân nhân đi đến chỗ chí thiện, khéo vượt qua, khéo hướng đến, ở đời này và đời sau mà tự chứng tri, tự giác ngộ, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú.
Đó là ba nghiệp do ý cố tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ ấy khổ báo.
(Trung A Hàm, Kinh Tư, Phẩm 2, số 15)
+ 26. BA LOẠI GAI NHỌN - Đức Phật dậy
Lành thay! Lành thay! Nếu là Trưởng lão Thượng tôn đại đệ tử, nên nói như thế này: ‘Âm thanh là gai nhọn đối với thiền’. Đức Thế Tôn cũng nói: ‘Âm thanh là gai nhọn đối với thiền’. Vì sao? Vì quả thật Ta có nói như vậy:
1) Âm thanh là gai nhọn đối với thiền.
2) Phạm giới là gai nhọn đối với trì giới.
3) Trang sức thân thể là gai nhọn đối với thủ hộ các căn.
4) Tịnh tướng là gai nhọn đối với tu tập bất tịnh.
5) Sân nhuế là gai nhọn đối với tu tập từ tâm.
6) Uống rượu là gai nhọn đối với xa lìa uống rượu.
7) Thấy nữ sắc là gai nhọn đối với phạm hạnh.
8) Âm thanh là gai nhọn đối với nhập Sơ thiền.
9) Giác quán là gai đối với nhập đệ Nhị thiền.
10) Hỷ là gai nhọn đối với nhập đệ Tam thiền.
11) Hơi thở ra, hơi thở vào là gai nhọn đối với nhập đệ Tứ thiền.
12) Sắc tưởng là gai nhọn đối với nhập Không xứ.
13) Không tưởng là gai nhọn đối với nhập Thức xứ.
14) Thức tưởng là gai nhọn đối với nhập Vô sở hữu xứ.
15) Tưởng tri là gai nhọn đối với nhập Tưởng tri diệt định.
Lại cũng có ba loại gai nhọn khác; gai nhọn dục, gai nhọn nhuế và gai nhọn ngu si. Với ba loại gai này, bậc lậu tận A-la-hán đã đoạn trừ, đã biết rõ, đã nhổ sạch cội rễ, tuyệt diệt không còn sanh, ấy là bậc A-la-hán không bị gai chích, bậc A-la-hán xa lìa gai chích, bậc A-la-hán không gai, lìa gai.
+ Tổng kết về năm thứ chướng ngại:
a) Thứ nhất, tham dục chướng ngại sự bố thí, trì giới đại viên mãn của tự tánh. Do có tâm tham dục, nhất định chẳng có tâm bố thí; có ba độc Tham - Sân - Si, tâm địa chẳng thanh tịnh. Tâm chẳng thể thanh tịnh thì còn nói gì đến trì giới nữa đây?
b) Thứ hai, Sân Khuể chướng ngại từ bi, nhẫn nhục đại viên mãn nơi tự tánh.
c) Thứ ba, ngủ nghê chướng ngại tinh tấn đại viên mãn nơi tự tánh.
d) Thứ tư, Trạo Hối chướng ngại thiền định đại viên mãn của tự tánh.
e) Thứ năm, Nghi chướng ngại trí huệ đại viên mãn của tự tánh.
Chúng ta muốn viên mãn sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi đầu từ chỗ này. Ngoài ra, còn có bảy điều chúng ta phải tu tập. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Trình tự và các Pháp tu khởi đầu không thể thiếu giành cho người mới bước vào con đường tu đạo - Phật pháp: Các Kinh Phật người tu phải tu học và thấu hiểu, thực hành thành tựu trước tiên (Không thể thiếu). Học để hiểu nhân quả luân hồi => Tin sâu nhân quả luân hồi là khởi đầu tu đúng chánh pháp.
+ Không thể có hai vị Phật cùng lúc xuất hiện: Chỉ có một người duy nhất xuất hiện trong đời đem lại lợi ích và hạnh phúc cho nhiều người, đem lại lợi ích cho chư thiên và nhân loại. Đó chính là Như Lai, bậc Toàn Giác.Thật không thể có hai bậc Toàn Giác xuất hiện đồng thời trên cùng một hệ thống thế giới (TĂNG CHI BỘ KINH_đoạn 170-174).
+ Những Lời Phật dậy: Được tập hợp theo các chủ đề / Thuật ngữ từ các Kinh Phật, rất rễ đọc và thuận tiện nghiên cứu. Mời xem tại Lời Phật Dậy trong Kinh Trung A Hàm
+ Những lời Phật dậy trong Kinh A Hàm gồm kinh Trường A Hàm - Trung A Hàm. Kinh rất dài và hơn 800 tiêu đề, đủ loại kiến thức. Mời xem Danh mục tiêu đề Kinh A Hàm;
* Mời xem Kinh A Hàm với bản đầy đủ nội dung: Mời xem Kinh A Hàm
+ Vài bộ Kinh Phật dậy người tại gia và người mới xuất gia cần phải học đầu tiên và không thể thiếu:
- Mời xem: Kinh Thiện ác nhân quả;
- Mời xem: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng;
- Mời xem: Kinh Ngũ Bách Vấn
- Mời xem: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt
- Mời xem: Kinh Bại Vong
- Mời xem: Những Lời Phật dậy người tại gia
- Mời xem: Sách mười bốn điều Phật dậy xem tại đây
- Mời xem: Bốn điều Phật Không Thể Làm
+ ĐẠO HẠNH: Bao gồm Đạo đức - Hạnh nguyện để trở thành Người quân tử - Bậc Thiện tri thức
1- Chữ Đạo:
+ Chữ Đạo - Đạo của tự nhiên: Ở người là Ngũ luân gồm Vợ chồng là đạo, cha con là đạo, anh em là đạo, bè bạn là đạo, vua tôi là đạo. Đây là nguyên tắc tự nhiên.
+ Chữ Đức: Ở người gồm 12 đức tánh. Trong đó 8 đức tính căn bản gồm: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ. Bốn đức tính khác: Nhân, Ái, Hòa, Bình.
* Đạo đức: Ở người gồm Ngũ thường là Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. Trong Phật pháp là giữ Ngũ giới.
2- Chữ Hạnh: Các tính tốt cần thực hành thành tựu
+ Nhân cách: Người là trung hiếu nhân nghĩa, còn như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là không phải người => Mất Nhân cách (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
- Rèn nhân cách theo đức Mạnh Tử:
1) Lúc mình giàu có phú quí, thì phải giữ qui củ, không được dâm loạn,
2) Lúc mình nghèo hèn thì đừng thay đổi chí khí tức là không bị hoàn cảnh làm cho thay đổi chí hướng,
3) Lúc mình bị thế lực chèn ép thì không khuất phục, không đầu hàng, tức là không bị lợi lộc, vật chất làm cho mất hết danh tiết.
+ Thái độ sống đúng Chánh đạo: Nhẫn lại - Thân gần Thiện hữu - Cúng dường chư Phật - Tu tập thiện căn - Chí cầu thắng Pháp - Tâm thường nhu hòa - Từ Bi Thâm Hậu - Thân Tâm Bình đẳng - Ái lạc Đại thừa - Cầu Phật trí huệ (Nguồn: Thái độ tất yếu của người mới tu theo Kinh Hoa Nghiêm- HT Tuyên Hóa)
+ Mười hạnh tốt:
3- Giảng giải thêm:
+ Theo Nho giáo: Ngài Khổng tử đề cao Nhân, Đức là trung tâm của quan hệ nhân luân. ...
+ Theo Phật giáo: Đức là tự mình được lợi ích; Đạo là làm lợi ích cho người khác.
+ Ái dục
- Ái là Tham. Dục là danh từ chung để chỉ “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ”.
=> Ái dục: Tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi, phiền phức bèn xảy đến. Lòng tham khôn cùng, chẳng đáng sợ ư? Chúng ta nhìn thấy trong xã hội hiện thời, dòng sông ái dục sâu rộng, nhiễm bệnh quá sâu, truyền nhiễm quá rộng..(Nguồn: PS Tịnh Không Giảng Ái dục)
I- Ái dục - Đức Phật dậy:
* “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu.
* “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục.
=> Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có 3 loại ái dục:
1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta.
2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại.
3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thú và tài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn. (Nguồn: Phật dậy về Ái dục)
5. ÁI DỤC: Trích Phật dậy toàn diện về Ái Dục.... Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như thật về tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái.
Biết như thật về ái? Có ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Biết như thật về tập của ái? Do thọ mà có ái.
Biết như thật về diệt của ái? Thọ diệt tức ái diệt.
Biết như thật về diệt đạo của ái? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
Yêu và không yêu là nhân nơi dục và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có. Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy. Kinh nhiều nội dung giành cho người trí tu. (Nguồn: mục 453- Phật dậy Toàn diện về Ái Dục - Trung A Hàm)
Xem thêm: HT Tuyên Hóa khai thị về Ái Dục
Xem tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
+ Mười Tâm An Trụ - Giảng giải Chú Đại Bi:
Muốn tu hành theo Bồ-tát Đạo thì quý vị cần phải có mười thứ tâm; thế nhưng hễ bị Ma Vương quấy phá thì mười thứ tâm ấy liền bị lung lay, không thể an trụ vững vàng được nữa! Bấy giờ, tâm quý vị vốn “trụ” ở đức Tín song nay thì tín tâm không còn nữa; mà không có tín tâm thì sẽ sanh lòng “bất tín.”
Quý vị muốn giữ tâm trì niệm, nhớ nghĩ - muốn chuyên chú tụng Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng thì Ma Vương lại xui khiến quý vị trở nên ngần ngừ do dự: “Thôi, đi ngủ một giấc cho khỏe!” Và như thế là cái lòng niệm tưởng của quý vị cũng tiêu tan.
“Niệm tâm” không có thì lòng tinh tấn cũng chẳng còn, quý vị không còn hăng hái tu học nữa: “Có chắc là tu hành thì sẽ thành Phật được hay không? Biết đâu đó chỉ là chuyện hoang đường, không đáng tin?” Và thế là cái tâm tinh tấn này cũng chẳng “trụ” được nữa.
Tâm Tinh Tấn không “trụ” thì không có tâm trí huệ - Huệ Tâm cũng chẳng “trụ” được.
Huệ Tâm không “trụ” thì không có Định Tâm - Định Tâm cũng chẳng “trụ” được.
Định không “trụ” thì không có Tâm Bất Thối -“bất thối tâm” liền biến thành “thối tâm.” Hễ sanh tâm thối chuyển thì sẽ không còn lòng hộ trì Phật Pháp; bấy giờ quý vị sẽ khởi những vọng tưởng như: “Mình cần gì phải cúng dường Tam Bảo? Để Tam Bảo cúng dường cho mình chẳng tốt hơn ư?”. Như có những cư sĩ đòi hỏi Tam Bảo phải hộ pháp cho họ, đó cũng là điển hình của trường hợp tâm Hộ Pháp không “trụ” vậy.
Tâm Hộ Pháp không “trụ” thì tâm hồi hướng cũng không “trụ” - không có tâm hồi hướng.
Tâm Hồi Hướng không có thì Giới Tâm cũng chẳng “trụ,” quý vị cũng chẳng còn chú ý thọ trì Giới Luật nữa.
Và cuối cùng là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa; thế thì còn phát nguyện gì nữa? Bấy giờ quý vị sẽ nghĩ ngợi lẩn thẩn: “Tôi không phát nguyện, không hứa hẹn điều gì cả. Tôi muốn thế nào thì cứ thế ấy, tự do biết bao! Tội gì lập nguyện rồi chính mình lại bị ràng buộc bởi lời nguyện đó? Như thế thì gò bó quá, mất tự do nhiều quá!”. Thế là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa.
Như vậy, mười “trụ tâm” biến thành mười “bất trụ tâm.” Vì sao quý vị lại có mười “bất trụ tâm” ư? Đó là do sự phá hoại của Ma Vương! Ma Vương chui luồn len lỏi vào mọi ngỏ ngách trong tâm quý vị, khiến tư tưởng của quý vị có sự biến chuyển.
“Tụng Chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.” Nếu quý vị gặp phải tình trạng như trên, trong lòng cảm thấy phiền não, bứt rứt rối loạn, đó là bởi Ma Vương muốn phá hoại quý vị; bấy giờ, quý vị hãy tụng Chú Đại Bi một biến, tức thì các quỷ thần và Ma Vương sẽ bị tóm bắt và trói gô lại. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
* Kính lưu ý: Người tu Chú Đại Bi cần hết sức thận trọng khi ứng dụng 42 thủ nhãn ấn pháp, đặc biệt với việc ứng phó với thiên ma quỷ thần, vì như HT Tuyên Hóa giảng, pháp này phải được chân truyền trực tiếp từ vị Thầy tu chánh đạo đã đắc đạo cao. Còn với HT Tuyên Hóa thì ngài và các đệ tử của ngài chỉ Chân truyền "Tâm truyền Tâm" tại một nơi duy nhất là chùa Vạn Phật Thánh Thành ở Hòa Kỳ.
+ Triền cái: Cái, Chướng, Ngăn, Che lấp, Phiền não. Phiền não ngăn che thiện tâm.
1- Ngũ cái/ Phiền lão gồm: Tham dục/ tham dâm - Sân nhuế - Thuỵ miên/ Hôn trầm - Trạo hối/ Trạo cử - Nghi pháp.
2- Ngũ ác, gồm: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và uống riệu.
+ I. Năm Trở Thành Mười
13) -- Và này các Tỷ-kheo, pháp môn nào, do y cứ pháp môn ấy, năm triền cái trở thành mười?
14) Cái gì thuộc nội dục tham, này các Tỷ-kheo, cái ấy là triền cái. Cái gì thuộc ngoại dục tham, cái ấy là triền cái. Gọi là dục tham triền cái là có ý nghĩa này. Chính do pháp môn này nên thành hai.
15) Cái gì thuộc về nội sân, này các Tỷ-kheo, cái ấy là triền cái. Cái gì thuộc ngoại sân, cái ấy là triền cái. Gọi là sân triền cái là có ý nghĩa này. Chính do pháp môn này nên thành hai.
16) Cái gì thuộc về nội hôn trầm thụy miên, này các Tỷ-kheo, cái ấy là triền cái. Cái gì thuộc ngoại hôn trầm thụy miên, cái ấy là triền cái. Gọi là hôn trầm thụy miên là có ý nghĩa này. Chính do pháp môn này nên thành hai.
17) Cái gì thuộc nội trạo hối, này các Tỷ-kheo, cái ấy là triền cái. Cái gì thuộc ngoại trạo hối, cái ấy là triền cái. Gọi là trạo hối triền cái là có ý nghĩa này. Chính do pháp môn này nên thành hai.
18) Cái gì thuộc về nội nghi hoặc, này các Tỷ-kheo, cái ấy là triền cái. Cái gì thuộc ngoại nghi hoặc, cái ấy là triền cái. Gọi là nghi hoặc triền cái là có ý nghĩa này. Chính do pháp môn này nên thành hai.
19) Này các Tỷ-kheo, chính là pháp môn này, do pháp môn này, năm triền cái trở thành mười.
IV. Phẩm Triền Cái
31.I.Thiện (1) (S.v,91)
1) ... 2) -- Phàm có những pháp nào, này các Tỷ-kheo, dự phần về thiện và bất thiện, nhưng thuộc về phần thiện, tất cả những pháp ấy lấy không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ; không phóng dật được gọi là tối thượng đối với những pháp ấy.
3) ..... được chờ đợi rằng bảy giác chi sẽ được tu tập, bảy giác chi sẽ được làm cho sung mãn. ....
33.III. Cấu Uế (1) (S.v,92)
1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo có năm cấu uế này đối với vàng. Do những cấu uế ấy, vàng bị uế nhiễm, không có nhu nhuyến, không có kham nhậm, không có chói sáng, dễ bị bể vụn (pabhangu), và không chân chánh chịu sử dụng.
3) Sắt, này các Tỷ-kheo, là cấu uế của vàng. Do cấu uế ấy, vàng bị uế nhiễm... chịu sử dụng.
4) Đồng (loham), này các Tỷ-kheo, là cấu uế của vàng. Do cấu uế ấy, vàng bị uế nhiễm... chịu sử dụng.
5) Thiếc (tipu), này các Tỷ-kheo, là cấu uế của vàng. Do cấu uế ấy, vàng bị uế nhiễm...
6) Chì (siisam), này các Tỷ-kheo, là cấu uế của vàng. Do cấu uế ấy, vàng bị uế nhiễm...
7) Bạc (sajjhum), này các Tỷ-kheo, là cấu uế của vàng. Do cấu uế ấy, vàng bị uế nhiễm, không có nhu nhuyến, không có kham nhậm, không có chói sáng, dễ bị bể vụn, và không chân chánh chịu sử dụng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có năm cấu uế này của tâm, chính những cấu uế ấy khiến tâm bị uế nhiễm, không có nhu nhuyến, không có kham nhậm, không có chói sáng, dễ bị bể vụn, không chân chánh được định tỉnh để đoạn diệt các lậu hoặc. Thế nào là năm?
9) Dục tham (kàmachanda), này các Tỷ-kheo, là cấu uế của tâm. Do cấu uế ấy, tâm bị uế nhiễm, không có nhu nhuyến, không có kham nhậm, không có chói sáng, dễ bị bể vụn, không chân chánh được định tỉnh để đoạn diệt các lậu hoặc......
Nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi
+ Hàng A La Hán - Hàng Nhị Thừa: Trích đoạn ngài Phú Lâu Na hỏi Đức Phật trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm
HT Tuyên Hóa giảng: Lậu chính là phiền não. Những thứ phiền não và tập khí mà A-nan và các vị đã chứng quả A-la-hán như ngài vẫn chưa trừ sạch hết được. Đó được gọi là tập khí hữu lậu còn lưu lại từ kiếp trước. Nó nhiều hay ít tuỳ theo nghiệp. Phải chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán mới được gọi là chứng quả vô lậu.
Đó là lý do Đức Phật gọi họ là “định tánh Thanh văn”– hàng A-la-hán– “tiêu nha bại chủng” để quở trách tính tự mãn của họ. Họ không có một động lực để tiến tu. Vừa chứng được sơ quả hay nhị quả A-la-hán, họ chẳng mong tiến tu nữa. Họ tự thỏa mãn một cách tiêu cực. Họ quyết định “Ở đây quá tốt rồi.”
Đức Phật còn giải thích cho tất cả những vị A-la-hán chưa chứng được nhân không và pháp không, nhưng có tâm hướng về thượng thừa. Điều nầy chỉ cho những vị A-la-hán chưa chứng được nhân không và pháp không, nhưng hồi tâm từ tiểu thừa hướng về Đại thừa. Đức Phật sẽ giảng giải cho tất cả mọi người trong chúng hội đều được nghe.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sắp sửa giảng bày chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa, pháp vi diệu thù thắng trong thù thắng vi diệu, để khiến cho hàng A-la-hán chứng được quả vô lậu, để họ đạt được quả vị vô học. Chứng được quả vị ‘vô lậu’ có nghĩa là trừ sạch tập khí của chính mình, không còn phiền não, căn bản vô minh không còn nữa. Thế nên một người đã phá trừ được căn bản vô minh thì dứt sạch phiền não. Do phiền não và căn bản vô minh vốn không có thực, nên chúng ta đừng xem nó là ghê gớm dữ dằn lắm; nếu chúng thật có hình tướng, thì chắc chúng đã tràn ngập cả hư không pháp giới nầy.
Xe cừu và xe nai là dụ cho hàng Nhị thừa/ A La Hán. Xe trâu là dụ cho hàng Bồ-tát Đại thừa. Xe trâu trắng lớn là dụ cho Phật thừa, có thể chuyên chở mọi chúng sinh vượt qua dòng chảy phiền não, từ bờ sinh tử bên nầy sang bờ niết-bàn bên kia. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)
+ A La Hán: Trong pháp hội này, không phải chỉ có những a-la-hán nhỏ đến dự mà còn có những Đại a-la-hán, đạo lực của họ rất lớn, không có nghĩa là thể chất của họ lớn, mà có nghĩa pháp tánh của họ rất to lớn, pháp lực và đạo đức của họ lớn lao vô cùng.
A-la-hán có ba nghĩa:
1. Ứng cúng:
Họ xứng đáng được thọ hưởng vật phẩm của chư thiên và loài người cúng dường.
Nay làm tỷ-khưu thường ngày khất thực là đang ở nhân địa. Còn quả địa là a-la-hán, là “xứng đáng hưởng được vật cúng dường từ chư thiên và loài người.”
2. Sát tặc:
Đức Phật dạy chúng ta không được sát sinh. Như vậy phải chăng là phạm giới hay sao? Không. Trong trường hợp này là trừ diệt giặc ở bên trong tâm mình chứ không phải là giặc bên ngoài.
Quý vị sẽ hỏi: “Giặc ở bên trong mình là gì?
Đó là giặc vô minh, giặc phiền não và sáu loại giặc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Chúng nó cướp phá mà quý vị không hề biết.
Quý vị không nhận ra tên giặc cướp ấy, nhưng khi mắt quý vị nhìn cảnh vật, vốn năng lực tinh thần của quý vị thường sung mãn, nhưng khi quý vị bắt đầu tiếp xúc với quá nhiều cảnh thì giặc cướp từ trong mắt quý vị sẽ cướp đi kho tàng quý báu của mình. Khi quý vị nghe quá nhiều âm thanh vào mọi lúc, thì tánh nghe của quý vị bị phân tán và sinh lực cũng bị đánh cắp theo luôn. Quý vị không nên nói: “Mắt tôi là người bạn tốt nhất và tai tôi luôn luôn giúp đỡ cho tôi, mũi tôi đánh hơi được mọi vật và lưỡi tôi phân biệt được mùi vị, họ đều rất có ích.”
Không phải vậy đâu, sáu tên giặc cướp này đánh cắp kho tàng chân thực tối thượng của quý vị. Nó cướp đoạt tài sản của mình mà quý vị không hề hay biết. Quý vị đã nhận kẻ giặc cướp làm bạn láng giềng nhưng chẳng nhận ra. Quý vị còn nói: “Đừng la mắng nó vì nó chỉ cướp đoạt tài sản của tôi thôi!” Đây là điểm rất quan trọng mà tôi muốn đề cập đến. Đừng nhầm lẫn cho rằng tôi chỉ nói đùa. Nếu quý vị không bị mất những thứ này, quý vị đã thành Phật từ lâu rồi. Hãy nhìn thử xem, suy nghĩ thật kỹ. Quý vị thấy mình không mất gì cả hay sao? Tốt, tôi biết vật quý vị bị mất là của cải vô giá. Tiền bạc không thể nào mua nổi. Quý vị đã đánh mất vật quý giá ấy và vẫn nghĩ rằng mọi thứ đều tốt đẹp. “Mắt tôi còn nhìn xa rất rõ và sáng hơn mắt của mọi người khác.” Quý vị nói như vậy và nghĩ điều này là tốt, nhưng mắt quý vị càng nhìn rõ thì tinh thần của quý vị càng bị đánh mất nhiều hơn.
Đến đây quý vị sẽ nói:
“Thưa Pháp sư, Ngài chỉ cần giảng một thời pháp là đủ quá rồi, Ngài chưa nói được điều gì có chút ít đạo lý cả.”
Bởi vì quý vị chưa hiểu được những gì tôi nói, nên dĩ nhiên quý vị nghĩ rằng lời giảng ấy không có chút nào đạo lý. Hãy đợi đến khi nào quý vị hiểu được điều tôi nói rồi mới thấy những gì tôi nói đều là đạo lý chân chính hết thảy.
3. Vô sinh:
A-la-hán vốn không sinh và cũng không diệt. Họ không phải là một đối tượng của sự sinh diệt. Họ đã chứng được vô sinh pháp nhẫn. Họ không còn phải trải qua sinh tử nữa. Đó là: “những việc cần làm đã xong, không còn thọ thân sau nữa” (sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu). Họ không còn ở trong tam giới nữa, mặc dù họ chưa chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Trong kinh Tứ thập nhị chương, Đức Phật dạy “không nên tin vào tâm ý của mình, tâm ý của mình không đáng tin. Đến khi chứng được a-la-hán rồi, mới có thể tin tâm của mình được.”
Quý vị sẽ hỏi:
“Tại sao lại không nên tin vào tâm ý của chính mình?”
Vì tâm ý của quý vị đều là vọng tưởng, tin vào vọng tưởng, quý vị sẽ làm theo vọng tưởng. Nếu quý vị không tin vào vọng tưởng, nếu quý vị không tin vào tâm ý của mình, thì quý vị sẽ thoát khỏi được sinh tử.
“Khi nào thì có thể tin vào tâm mình?” Khi đã chứng được quả vị thứ tư của hàng a-la-hán thì quý vị mới có thể tin vào tâm mình. Khi chưa được như vậy thì quý vị không nên tin nơi mình mà phải nương vào lời khuyên của các vị Thiện tri thức. Đều cần phải làm là hãy lắng nghe lời dạy của các bậc Thiện tri thức.
Bích-chi Phật là những vị Độc giác, giác ngộ nhờ tu tập pháp mười hai nhân duyên. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm-HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hỏi: Quả vị La Hán và Bồ Tát khác nhau ra sao ?
Đáp: "La Hán và "Bồ Tát" đều là những tên gọi, bởi do trí huệ con người không giống nhau mà ra.
Bồ Tát thì muốn làm lợi ích cho kẻ khác, còn La Hán thì chỉ tu trì cho riêng mình; song đó chẳng qua chỉ là một giai đoạn của con đường tu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Bồ Tát và A La hán
- Bồ-tát (Bodhisattva), Hán dịch là “hữu tình giác” là người đã giác ngộ, còn gọi là “giác hữu tình” là người giúp cho chúng sinh được giác ngộ.” Dù người ta có đối xử xấu với bồ-tát ra sao, bồ-tát vẫn không chống đối lại họ. Bồ-tát không bao giờ tức giận, không bao giờ nổi nóng. Đạo tâm của bồ-tát rộng lớn và kiên định. Bồ-tát còn được gọi là bậc “đại sĩ”, vì họ đã có phát nguyện rộng lớn để trở thành một vị bồ-tát .
+ 18. A-LA-HÁN
Như vậy là sắc vô thường; thọ, tưởng, hành, thức vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Đa văn Thánh đệ tử hãy nên quán sát như vậy, hãy tu tập bảy đạo phẩm, vô ngại, chánh tư, chánh niệm.
Vị ấy đã biết như vậy, thấy như vậy rồi thì tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi liền biết mình đã giải thoát; biết đúng như thật rằng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Nếu có chúng sanh và chín trú xứ của chúng sanh, cho đến cõi đệ nhất hữu với hành còn tàn dư, tức cõi hữu tưởng vô tưởng xứ, ở trong khoảng trung gian đó, là bậc đệ nhất, là tối đại, là tối thắng, là tối thượng, là tối tôn, là tối diệu; đó chính là vị A-la-hán ở trong đời. Vì sao vậy?
Vì trên đời này, A-la-hán đã được an ổn khoái lạc. (Lời Phật dậy - Trung A Hàm, Kinh Thuyết Vô Thường, Phẩm 11, số 120)
+ Mời xem thêm đức Phật giảng về sự khác biệt giữa các Hàng A La hán - Nhị thừa ...: Kinh Đại Phương Quảng Phật Báo Ân - Phẩm Ưu Ba Ly
+ Các loại ái dục và sự khổ đau từ ái dục mà ra - Giải thoát khỏi ái dục
15. ÁI SANH SẦU BI NÃO
Giả sử có một người đàn bà đã chết. Người ấy phát cuồng, loạn trí, cởi áo cởi quần, trần truồng mà chạy rong khắp các ngõ đường, nói như vầy, ‘Này các người, có thấy mẹ tôi chăng? Này các người có thấy mẹ tôi chăng?’ Này Na-lị-ương-già, do sự kiện này mà biết rằng, ‘Nếu khi ái sanh, thì cũng sanh sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não’.
Cũng vậy, nếu cha chết, anh, chị, em chết, con cái chết, vợ chết, người ấy phát sanh cuồng, loạn trí, cởi áo cởi quần, trần truồng chạy rong khắp cả ngõ đường, nói rằng, ‘Này các ngài, có thấy vợ tôi chăng? Này các ngài, có thấy vợ tôi chăng?’ Này Na-lị-ương-già, do sự kiện này mà biết rằng, ‘Nếu ái sanh thì cũng sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não’.
Này Na-lị-ương-già, thuở xưa có một người đàn bà về thăm gia đình, các thân tộc của người này muốn cưỡng bức cải giá. Người đàn bà ấy tức tốc trở về nhà chồng, nói với chồng rằng, ‘Này ông, hãy biết cho, thân tộc của tôi muốn cướp vợ của ông để gả cho người khác. Ông có mưu kế gì chăng?’ Người ấy bèn nắm cánh tay của bà vợ dẫn vào trong nhà, nói rằng, ‘Chết chung, sang đời khác với nhau! Chết chung, sang đời khác với nhau!’ Rồi lấy con dao bén chém chết vợ và mình cũng tự sát luôn. Này Na-lị-ương-già, do sự kiện này mà biết rằng, ‘Nếu ái sanh thì cũng sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não’. (Trung A Hàm, Kinh Ái Sanh, Phẩm 18, số 216)
16. ÁI TẬN GIẢI THOÁT
Nếu khi Như Lai xuất thế, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật, Chúng Hựu. Mắt vị ấy thấy sắc, nhưng đối với sắc đẹp không hoan lạc chấp trước, đối với sắc xấu không ghét bỏ. Vị ấy lập niệm tại thân với một tâm vô lượng, biết như thật là tâm giải thoát, tuệ giải thoát, các pháp ác bất thiện đã sanh bị tận diệt vô dư, bị hủy hoại không dư tàn. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng như vậy. Ý biết pháp đối với cái đẹp không hoan lạc, chấp trước, đối với cái xấu không ghét bỏ. Lập niệm tại thân với một tâm vô lượng.
Biết như thật là tâm giải thoát, tuệ giải thoát, các pháp bất thiện đã sanh bị tận diệt vô dư, bị hủy hoại không dư tàn. Vị ấy như vậy, diệt những gì yêu ghét được lãnh nạp bởi thọ, hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc không lạc không khổ. Vị ấy không hoan lạc theo cảm thọ ấy, không tìm cầu, không chấp trước, không chấp thủ cảm thọ ấy. Do không hoan lạc theo cảm thọ ấy, không tìm cầu, không chấp trước, không chấp thủ theo cảm thọ ấy, nếu có cảm thọ lạc, nó liền diệt. Lạc diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già chết diệt, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não cũng diệt. Như vậy, toàn vẹn khối lớn khổ đau này đều diệt. (Trung A Hàm, Kinh Trà Đế, Phẩm 16, số 201)
17. ÁI TẬP KHỔ TẬP THÁNH ĐẾ
Cái gì là ái tập Khổ tập Thánh đế? Nghĩa là chúng sanh thật có sáu xứ tham ái bên trong: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý xứ. Trong đó nếu có ái, có cấu bẩn, có ô nhiễm, có đắm trước thì gọi là tập.
Này chư Hiền, Đa văn Thánh đệ tử biết rằng: ‘Ta biết pháp như vậy, thấy như vậy, hiểu như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy, đó là ái tập Khổ tập Thánh đế.
Biết như vậy là biết như thế nào? Nếu có người tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài vật xuất vốn và lời lãi, tạo tác những nghiệp có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước, đó gọi là tập. Người kia biết ái tập Khổ tập Thánh đế này. Cũng vậy, ngoại xứ xúc, thọ, tưởng, hành, ái, cũng lại như vậy.
Này chư Hiền, chúng sanh quả thực có sáu giới tham ái: đất, nước, lửa, gió, hư không, thức giới, trong đó nếu có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước, đó gọi là tập.
Này chư Hiền, Đa văn Thánh đệ tử biết rằng ‘Ta biết pháp như vậy, thấy như vậy, hiểu như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy, đó là ái tập Khổ tập Thánh đế. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31)
+ Ðức Phật dạy: "Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc đẹp to lớn không gì sánh bằng. May thay, chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế thì khắp thiên hạ không ai có thể tu Ðạo được cả!" (Nguồn: HT Tuyên Hóa Khai thị về Ái dục rất hay)
+ II- Sự tham ái. Đồng nghĩa với ái trước, ái nhiễm, ái chấp - Ái chấp là hưởng thụ tình ái. Tính dục - Bản năng của con người chỉ đứng sau thực dục.
- (I) Nghĩa của Ái Dục: Luyến ái và dục vọng, hoặc tình thương yêu gia đình
- (II) Những lời Phật dạy về “Ái Dục” trong Kinh Pháp Cú:
6) Những người có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ dong ruổi theo dục cảnh chẳng chút ngại ngùng, bởi vậy người đã có tâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi dạt hoài
- Khát ái. Thô kệch hay vi tế, luôn ngủ ngầm trong mỗi người, và là nguyên nhân chủ yếu những bất hạnh lớn trong đời. Ái dục làm ta bám víu vào đời sống với mọi hình thức và do đó dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi.
(Pháp Cú 251)
Lửa nào có thể sánh ngang
Lửa tham dục nọ dữ dằn vô biên,
Không còn cố chấp nào bền
Bằng tâm sân hận nổi lên cấp kỳ,
Lưới nào trói buộc dầm dề
So ra với lưới ngu si buộc ràng,
Sông nào chìm đắm cho bằng
Dòng sông ái dục cuốn phăng bao người. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Tham ái: Tham đắm yếu thích Ngũ dục nên không thể ra khỏi sinh tử luân hồi. Tham và ái (yêu) là cùng thể khác tên. Tham là sự ham muốn, mong cầu những tài vật nhiễm ô mà không biết nhàm chán. Ái là yêu thích đắm đuối, là 1 trong 12 nhân duyên, hoặc là 1 trong 9 kết. Theo kinh Thắng thiên vương bát nhã quyển 1 thì sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong 6 đường luân hồi mãi mãi không dứt là đều do Tham ái. Luận Đại tì bà sa quyển 50 cho rằng Ái kết là Tham trong 3 cõi; trong 9 kết, Tham trong 3 cõi được lập chung làm Ái kết, trong 7 Tùy miên lập làm 2 Tùy miên: 1. Tham ở cõi Dục gọi là Dục tham tùy miên. 2. Tham ở cõi sắc, cõi Vô sắc gọi là Hữu tham tùy miên. Trong các kinh luận khác thì có lập Tam ái: Dục ái, Sắc ái và Vô sắc ái. (xt. Tham, Ái).
Passion—Desire—Cupidity - Tham ái, tham dục đòi hỏi những sự ham muốn về vật chất như thèm ăn, thèm ngủ, thèm ân ái, vân vân, là những khoái lạc về ngũ quan. Con người còn ham muốn để được thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần như ham chiếm đoạt, ham phô trương, ham quyền lực, ham lợi lộc. Lòng ham muốn đắm mê không bao giờ biết ngừng, không bao giờ được thỏa mãn cả, như chiếc thùng không đáy. Để thỏa mãn dục vọng mà con người sanh ra vị kỷ, độc ác, làm hại, làm khổ người khác để mình được vui, được sung sướng. Vì lòng tham mà chúng ta không ngại xử dụng mọi thủ đoạn để đạt cho được mục đích, bất kể chuyện gì xãy đến cho người khác. Phật tử chúng ta nên thấy rõ vì không tu nên cõi đời trở thành một đấu trường mà nước mắt đổ như mưa rào, bể khổ dâng lên như nước thủy triều biển khơi. (Nguồn: Tham ái - Thuvienhoasen)
+ 5. Loại ái dục: Trích Phật dậy toàn diện về Ái Dục.... Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như thật về tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái.
Biết như thật về ái? Có ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Biết như thật về tập của ái? Do thọ mà có ái.
Biết như thật về diệt của ái? Thọ diệt tức ái diệt.
Biết như thật về diệt đạo của ái? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
Yêu và không yêu là nhân nơi dục và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có. Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy. Kinh nhiều nội dung giành cho người trí tu. (Nguồn: mục 453- Phật dậy Toàn diện về Ái Dục - Trung A Hàm)
Xem thêm: HT Tuyên Hóa khai thị về Ái Dục
Xem tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
+ Hiểu biết toàn diện về ái dục:
5. ÁI DỤC
Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như thật về tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái.
Thế nào là biết như thật về ái? Có ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Thế nào là biết như thật về tập của ái? Do thọ mà có ái.
Thế nào là biết như thật về diệt của ái? Thọ diệt tức ái diệt.
Thế nào là biết như thật về diệt đạo của ái? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp. (Trung A Hàm, Kinh Đại Câu-hi-la, Phẩm 3, số 29)
6. ÁI DỤC NHƯ BÓ ĐUỐC
Này Cư sĩ, cũng như một người tay cầm một bó đuốc đang cháy, ngược gió mà đi. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Giả sử người ấy không liệng bỏ tức khắc, nhất định có cháy tay và các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao? Giả sử người ấy liệng bỏ tức khắc, sẽ còn bị cháy tay hay các chi thể khác nữa chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như bó đuốc đang cháy; Thế Tôn nói dục vọng như bó đuốc đang cháy, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây, tất cả mọi dục vọng thế gian, vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
7. ÁI DỤC NHƯ CON RẮN
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một con rắn độc to lớn, rất dữ, rất độc địa, màu đen dễ sợ. Nếu một người đi đến, không ngu, không si, cũng không điên đảo, tự chủ với tâm mình, tự do tự tại, muốn hoan lạc, chớ không muốn đau đớn, rất ghét đau đớn; muốn sống chớ không muốn chết, rất ghét sự chết. Ý Cư sĩ nghĩ sao, người ấy há lại thò tay cho con rắn cắn, hay các chi thể khác và nói rằng, ‘Này, mổ đi! Này mổ đi!’ Như vậy chăng?
Cư sĩ đáp: Không phải vậy, Cù-đàm. Vì sao vậy? Người ấy thấy con rắn bèn nghĩ rằng, ‘Nếu ta thò tay và các chi thể khác cho con rắn nó mổ, nhất định phải chết chớ không nghi ngờ. Dù không chết thì nhất định phải chịu đau đớn vô cùng’. Người ấy thấy con rắn bèn nghĩ đến sự lánh xa, ước mong xả ly.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như rắn độc. Thế Tôn nói dục vọng như con rắn độc, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi dục vọng thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
8. ÁI DỤC NHƯ GẶM CỤC XƯƠNG
Như một con chó đói, gầy ốm, mệt mỏi, đến bên chỗ mổ bò. Người đồ tể hay đệ tử của người đồ tể quăng cho con chó một khúc xương đã rút tỉa hết thịt. Con chó lượm được khúc xương rồi chạy đến chỗ này chỗ kia mà gặm, rách môi, mẻ răng, hoặc gây thương hại cuống họng, nhưng con chó không vì vậy mà đoạn trừ được đói.
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như bộ xương khô. Thế Tôn nói dục vọng như bộ xương khô, hoan lạc ít mà khổ não lại nhiều, đầy dẫy nguy hiểm, nên xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi sự vật dục của thế gian đều vĩnh viễn đoạn tận không dư tàn. Hãy tu tập điều đó. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
9. ÁI DỤC NHƯ GIẤC MƠ
Này Cư sĩ, cũng như một người nằm mộng, thấy mình sung túc, năm thứ dục lạc thỏa thích. Nhưng khi tỉnh dậy, một thứ cũng không thấy. Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như giấc mộng. Thế Tôn nói dục vọng như giấc mộng, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây, tất cả mọi vật dục thế gian, vĩnh viễn đoạn tận, không dư tàn. Hãy nên tu tập sự kiện này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
10. ÁI DỤC NHƯ HẦM LỬA
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa có một hầm lửa lớn, trong đó đầy những lửa nhưng không có khói, không có ngọn. Nếu một người đi đến, không ngu, không si, cũng không điên đảo, tự chủ với tâm mình, tự do tự tại, muốn hoan lạc chớ không muốn đau đớn, rất ghét sự đau đớn; muốn sống chớ không muốn chết, rất ghét sự chết. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Người ấy lại nhảy vào hầm lửa này chăng?
Cư sĩ đáp: Không phải vậy, Cù-đàm. Vì sao vậy? Vì người ấy thấy hầm lửa liền nghĩ rằng, ‘Nếu rơi xuống hầm lửa, nhất định chết chớ không nghi ngờ. Dù không chết, nhất định chịu đựng đau đớn vô cùng’. Người ấy thấy hầm lửa bèn nghĩ đến việc xa lìa, ước mong xa lìa, xả ly.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như hầm lửa. Thế Tôn nói dục vọng như hầm lửa, hoan lạc ít mà khổ não nhiều đầy những nguy hiểm, hãy nên xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
11. ÁI DỤC NHƯ MIẾNG THỊT
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một miếng thịt rơi trên khoảng đất trống; hoặc quạ hoặc diều mang miếng thịt ấy đi. Rồi những quạ diều khác đuổi theo để tranh giành. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Nếu quạ diều ấy không chịu xả bỏ tức khắc miếng thịt này, các quạ diều khác vẫn đuổi theo để dành giựt chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao, nếu quạ diều ấy xả bỏ tức khắc miếng thịt này, các quạ diều khác có còn đuổi theo để dành giựt chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy, Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như miếng thịt. Thế Tôn nói dục vọng như miếng thịt; hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy nên xa lìa đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian đều vĩnh viễn đoạn tận không dư tàn. Hãy nên tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
12. ÁI DỤC NHƯ TRÁI CÂY
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một gốc cây ăn trái to lớn. Cây ấy thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt. Một người đi đến, đói, mệt mỏi, gầy ốm, muốn được ăn trái. Người ấy nghĩ rằng, ‘Cây này thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt. Ta đang đói, gầy ốm, mệt mỏi, muốn được ăn trái. Nhưng dưới gốc không có trái rụng để có thể ăn cho no và mang về. Ta biết leo cây. Bây giờ ta có nên leo lên cây này chăng?’ Nghĩ xong, bèn leo lên. Lại cũng có một người khác, đói, gầy ốm, mệt mỏi, muốn được ăn trái, cầm một cái búa rất lớn, bèn nghĩ rằng: ‘Cây này thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt nhưng dưới gốc cây không có trái rụng để có thể ăn cho no và mang về, ta không biết leo cây. Bây giờ ta có nên đốn ngã cây này chăng?’, bèn đốn ngã cây ấy. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Người trên cây nếu không xuống nhanh khi cây ngã xuống đất, có bị gãy tay hoặc các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao, nếu người trên cây leo xuống nhanh, khi cây ngã xuống đất, há lại bị gãy tay hay các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy, Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như trái cây. Thế Tôn nói dục vọng như trái cây, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm hãy lánh xa đi’. Nếu ai có sự xả ly dục ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian, vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập sự kiện này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
13. ÁI DỤC NHƯ VAY MƯỢN
Này Cư sĩ, cũng như một người vay mượn vật dụng hưởng lạc, hoặc cung điện, lầu các, hoặc vườn hào, ao tắm, hoặc voi ngựa, xe cộ, hoặc chen gấm mùng mền, hoặc nhẫn, vòng, xuyến, hoặc hương, anh lạc, vòng cổ, hoặc tràng hoa vàng báu, hoặc danh y thượng phục, rồi nhiều người trông thấy bèn ca ngợi rằng, ‘Như vậy, tốt lành thay! Như vậy, sung sướng thay! Nếu có tài vật gì thì nên hưởng thụ thỏa thích cho đến cùng như vậy’. Nhưng chủ nhân có thể tước đoạt hay sai người tước đoạt bất cứ lúc nào muốn, bèn tự mình tước đoạt hay sai người tước đoạt, những người khác trông thấy, bèn nói với nhau rằng, ‘Nó là người vay mượn; thật sự là lừa gạt chớ không phải vay mượn. Vì sao?
Vì chủ nhân của sở hữu có thể tước đoạt hay sai người tước đoạt bất cứ lúc nào muốn. Và rồi đã tự mình tước đoạt hay sai người tước đoạt’. Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như vay mượn. Thế Tôn nói dục vọng như vay mượn hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
Nguồn: Tổng hợp về Ái dục - Kinh Trung A Hàm
+ Nghiệp là gì: Nghiệp là suy nghĩ. Bất cứ hành động, lời nói nào được tạo tác thì đều xuất phát từ suy nghĩ của chúng ta trước.... (Nguồn: Nghiệp là gì _ Đức Phật dạy)
+ Nghiệp báo: Đức Phật nói rằng: "Tất cả chúng sanh đều mang theo cái Nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa chúng sanh." (Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, bài kinh Cullakammavibhanga Sutta, số 135)
+ Nghiệp là gì - Tích trrữ ở đâu? Xin trích đoạn
Một hôm Vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena:
-"Kính bạch Đại Đức, Nghiệp được tích trữ ở đâu?"
- Tâu Đại vương, ta không thể nói Nghiệp được tích trữ ở một nơi nào trong cái tâm luôn luôn biến đổi, hay ở một nơi nào khác trong thân thể con người. Nhưng tùy thuộc nơi danh và sắc, Nghiệp khởi hiện trong một lúc thích ứng. Cũng như ta không thể nói trái xoài được tích trữ ở nơi nào trong cây xoài nhưng, tùy thuộc nơi cây xoài và khi đầy đủ cơ duyên, nó sẽ trổ ra đúng lúc, đúng mùa. [8]"
Cũng như ta không thể nói gió hay lửa nằm ở nơi nào nhất định, ta không thể quả quyết Nghiệp được chứa đựng trong hay ngoài thân.
Nghiệp là một năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác. Nghiệp thủ một vai trò quan trọng trong việc cấu tạo tâm tánh con người. Nghiệp giải thích những hiện tượng kỳ diệu mà ta gọi là vĩ nhân, thiên tài, thần đồng v.v... Một sự hiểu biết rành mạch về định luật Nghiệp Báo là điều kiện chánh yếu khả dĩ tạo tình trạng an lành hạnh phúc cho thế gian. (Nguồn: Nghiệp là gì và tích trữ ở đâu)
+ 249. Hỏi: Cái gì gọi là nghiệp?
Đáp: Nghiệp là cái gánh nặng của con người, là gánh nặng của sanh mạng và của tinh thần. Nghiệp của mỗi người tạo ra thì thâu cất vào kho chứa riêng của mỗi người, tức là cất chứa trong thửa ruộng của thức thứ tám. Kho chứa này có sức thần thông, cho nên nghiệp nặng hay nghiệp nhẹ gì bỏ vào cũng đều được cả. Nó thì không lớn, không nhỏ, cũng không có gì là phân biệt. Đấy đều là nghiệp của chính mình, không phải của người khác, nên không ai đánh cắp được, cũng không ai cướp đoạt hay lấy đi được. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hét 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Luật nghiệp Quả báo ứng: (Xem tại đây)
+ Linh hồn đầu thai - Vận (định) mệnh và sự lựa chọn có cân nhắc:….Đừng quên rằng, trong tâm thức cao của người này, y được tham khảo ý kiến trước khi đi đầu thai để xem coi y có muốn nhận chịu karma nếu gặp thất bại, thế nên, mọi việc xảy đến cho một người nào, theo một ý nghĩa rất xác thực, đều là do sự lựa chọn có cân nhắc của chính người ấy. Khi sự thật này mọi người hiểu, họ sẽ quán triệt được chân lý rằng họ luôn luôn có thể có khả năng chịu đựng hơn cái mà họ gọi là “định mệnh” (số mệnh, vận mệnh) của họ.(VLH, 167)
* Hình thành số mệnh: Bất cứ sự SINH nào cũng căn cứ vào ngày giờ sinh/ hoàn thành đưa vào sử dụng để lập lá số để biết sự phát triển, tồn vong (Lá số sinh)
- Định hình số mệnh: Năng lượng của cung Hoàng Đạo mà một người được sinh ra trong đó, nó cho thấy vấn đề hiện tại của người ấy, nó xếp đặt bước đi hay nhịp độ đối với cuộc sống, tính chất của Phàm Ngã người ấy. Nó chi phối trạng thái hoạt động của cuộc đời người này trong lúc đầu thai.
+ Năng lượng vũ trụ với Nghiệp quả - Số mệnh: - Chín năng lượng: Từ các Cội Nguồn xa xăm, đi vào sự sống hành tinh chúng ta và tạo ra các hiệu quả nhất định lên trên con người cá biệt và nhân loại nói chung, gồm 9 nguồn: 3 chòm sao; 7 Thái dương hệ; 5+7= 12 hành tinh; 7 Trung tâm Hành tinh; 7 Trung tâm lực thể dĩ thái(L.Xa); 12 chòm sao hoàng đạo. Cũng không thể thiếu bức xạ từ địa cầu chúng ta sống, tổng cộng là 10 nguồn, và chỉ lúc bấy giờ, bạn có thể có một phân tích và hình ảnh tạm đầy đủ về các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người, nhưng chỉ có thể xảy ra ở một trình độ phát triển tương đối tiến bộ và khi con người tiến gần Thánh Đạo (hiểu về mặt chuyên môn). Trước tiên, con người học cách kiềm chế các phản ứng của mình đối với các hành tinh khi chúng chi phối và điều khiển các sự việc thuộc phàm ngã của y từ các “trạm” khác nhau của chúng trong 12 cung (houses) của lá số tử vi của con người. Điều này được thi hành theo 2 cách:
1- Lập lá số Chiêm tinh/ Tử vi giải đoán đúng và kế đó chọn các giai đoạn để xác định những gì cần làm để vô hiệu hóa các ảnh hưởng của hành tinh ở nơi nào xét thấy thích hợp để kiềm chế các phản ứng của phàm ngã. Điều này phải được làm bằng cách áp dụng sức mạnh của tư tưởng. Việc này đòi hỏi sự tin tưởng hoàn toàn vào việc tìm hiểu và lý giải của các nhà chiêm tinh học và việc biết thật đúng lúc sinh ra.
2- Bằng cách đảm nhiệm sáng suốt lập trường của Nhà Quan Sát tâm linh, và bằng cách vun trồng năng lực đáp ứng với Linh Hồn. Kế đó, từ quan điểm của Linh Hồn đó, con người phải học cách kiểm soát hoàn cảnh và các phản ứng kèm theo của phàm ngã. (Chiêm THNM, tr 24-26)
+ PHẬT NÓI KINH BẮC ĐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG: Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả chúng sanh. Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu soi. (Xem Kinh văn)
Xem: Nguồn gốc số mệnh - cải mệnh
Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
Xem: Tổng hợp về xem Chiêm Tinh
Xem: Nhân Quả tổng hợp
+ Vun bồi Phước đức:
Phước đức là phước báo, hạnh phúc có được nhờ đức hạnh. Từ tâm đức và hạnh đức ấy mà con người nhận lãnh phước báo. Ai gieo trồng nhân phước đức thì gặt quả phước đức. Nhân phước đức ở đây là những suy nghĩ, lời nói và việc làm thiện lành, gọi chung là thiện nghiệp.
Trong kinh Phước đức, một bài kinh trong kinh Tập, thuộc Tiểu bộ kinh, Đức Phật dạy mười điều vừa là nhân mà cũng vừa là quả phước đức.
1. Lánh xa kẻ xấu ác, luôn thân cận người hiền, tôn kính bậc đáng kính.
2. Sống trong môi trường tốt, được tạo tác nhân lành, được đi trên đường chánh.
3. Có học - có nghề hay, biết hành trì giới luật, biết nói lời ái ngữ.
4. Được cung phụng cha mẹ, yêu thương gia đình mình, được hành nghề thích hợp.
5. Sống ngay thẳng - bố thí, giúp quyến thuộc thân bằng, hành xử không tì vết.
6. Tránh không làm điều ác, không say sưa nghiện ngập, tinh cần làm việc lành.
7. Biết khiêm cung - lễ độ, biết đủ và nhớ ơn, không bỏ dịp học đạo.
8. Biết kiên trì phục thiện, thân cận giới xuất gia, dự pháp đàm học hỏi.
9. Sống tinh cần tỉnh thức, học chân lý nhiệm mầu, thực chứng được Niết-bàn.
10. Hành xử trong nhân gian, tâm không hề lay chuyển, phiền não hết - an nhiên.
Đức Phật dạy: “Ai sống được như thế, đi đâu cũng an toàn, tới đâu cũng vững mạnh, phước đức của tự thân” (HT. Thích Nhất Hạnh dịch).
Khi thực hành mười điều trên là chúng ta đang sống trong hạnh phúc, đang thọ hưởng phước đức, đồng thời cũng là đang gieo trồng phước đức để tiếp tục thọ hưởng trong tương lai, đời sau. Đây chính là những thiện nghiệp sinh ra phước đức làm cho đời sống các chúng sinh được nhiều an vui, hạnh phúc. Chính vì thế mà mười phương cách vun bồi phước đức trong bài kinh còn được gọi là mười điều phước đức hay mười điều hạnh phúc. (Nguồn: Kinh Phước đức - HT Thích Nhất Hạnh giảng)
+ Quả báo hành Bố thí tùy theo Ruộng phước điền: Bố thí với Tâm bình đẳng, thì tùy theo Ruộng phước điền người đó gieo hạt giống Bố thí mà gặt hái quả báo khác nhau..... Phật bảo Thủ Ca: Tất cả chúng sinh có liên quan với nghiệp, nương tựa nơi nghiệp, theo nghiệp tự chuyển. Do nhân duyên ấy có phân ra: thượng, trung, hạ, sai khác chẳng đồng: Vài ví dụ trong Kinh Quả báo sai biệt
Lại có nghiệp nghèo mà vui thích bố thí.
Ví như có chúng sinh trước từng làm việc bố thí mà chẳng gặp phước điền (Phật, Pháp, Tăng), sau đó lưu chuyển trong sinh tử, sinh vào loài người, do chẳng gặp phước điền nên quả báo nhỏ hẹp, hoặc được hoặc mất, do xưa kia từng tập bố thí nên tuy ở nơi nghèo cùng mà thích thực hành bố thí.
Lại có nghiệp giàu mà tham lam, bỏn xẻn.
Ví như có chúng sinh chưa từng bố thí, gặp thiện tri thức tạm thực hành một lần bố thí vào được phước điền tốt, do phước điền thù thắng nên tài sản đầy đủ, trước chẳng từng tập nên tuy giàu mà xan tham.
Lại có nghiệp giàu mà hay bố thí.
Ví như có chúng sinh gặp thiện tri thức, phần nhiều tu hạnh bố thí, lại gặp phước điền tốt. Do nhân duyên đó, giàu to nhiều của cải mà thích thực hành bố thí.
Lại có nghiệp nghèo mà tham lam, bỏn xẻn.
Ví như có chúng sinh xa lìa tri thức, không khuyên dạy người mà chính mình cũng chẳng thực hành bố thí. Do nhân duyên đó, sinh nơi bần cùng mà lại tham lam, bỏn xẻn. (Nguồn: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ Tu phúc được quả báo tùy theo ruộng phúc điền người đó gieo hạt giống Nghiệp
Bấy giờ Đức Thế Tôn, cùng với Ngài A Nan, vào thành Vương Xá khuất thực......
Phật bảo các đệ tử rằng:
- Nên phải giữ gìn khẩu nghiệp, cái họa hoạn của khẩu nghiệp hơn cả lửa mạnh. Đối với cha mẹ, chúng Tăng, nên phải đem lòng cung kính cúng dàng, nói lời như hòa khen ngợi, thường nghĩ đến ân đức của các vị đó. Chúng Tăng là ruộng phúc, đã ra khỏi ba cõi; còn cha mẹ là ruộng phúc tối thắng trong ba cõi. Vì sao? –Vì trong chúng Tăng gồm có bốn quả, bốn hướng, mười hai bậc hiền sĩ, người nào cúng dàng các bậc ấy sẽ được hưởng phúc vô lượng, không những như vậy, nếu tinh tiến tu hành không thoái tâm, thì còn được thành Phật đạo nữa vậy.......
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
- Cha mẹ, chúng Tăng, là hai thứ ruộng phúc của tất cả chúng sinh, là diệu quả của cõi Nhân cõi Thiên, Niết Bàn giải thoát, cũng do đó mà được thành tựu vậy.......
- Ruộng phúc hữu vi và Vô vi: Khi ấy Đức Như Lai vì muốn cứu chúng sinh khỏi cái khổ trong ba cõi, tiêu trừ năm món phiền não và mười điều ràng buộc, khiến hết thảy chúng sinh đều được giải thoát vào cảnh Niết Bàn yên vui nên Ngài mới mở lòng từ bi sâu xa mà chỉ bày hai thứ ruộng phúc:
Một là ruộng phúc hữu vi; hai là ruộng phúc vô vi. Ruộng phúc hữu vi là cha mẹ; ruộng phúc vô vi là Sư trưởng, Chư Phật, Pháp, Tăng và các vị Bồ Tát. Nếu chúng sinh hết lòng phụng dưỡng cúng dàng, sẽ được phúc báo và có thể tiến đến thành đạo Bồ Đề. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Ví dụ trong Phật Pháp làm sạch đất làm khu tu hành
... Đã nói Căn Bản Đà La Ni (Chú Thập Nhất Diện) xong, tiếp theo nói Pháp 7 ngày cúng dường Đàn. Nếu có Sa Môn hoặc nhóm Thiện Nam Tử tụng yếu quyết nơi Pháp tạng bí mật, thành tựu Đại Nghiệm. Hoặc các quốc vương sanh Tâm quyết định sám hối mọi tội.
Nguyện muốn thấy nghe Đô Đại Đạo Tràng Pháp Đàn Hội. Trước tiên, tìm nơi chốn thuộc nhà viện rộng rãi, nhà lớn sáng sủa với chùa chiền đẹp, Phật Đường, đất lộ thiên cũng được. Quyết định biết nơi chốn xong, lúc sáng sớm của ngày 1 trong kỳ Bạch Nguyệt, A Xà Lê (Ācārya) với các Đệ Tử (Śiṣya) dùng nước nóng thơm tắm gội, đem các hương hoa đến nơi chốn ấy. A Xà Lê dùng tay cầm Bạt Chiết La (Vajra: chày Kim Cang), thứu tự hỏi các nhóm Đệ Tử rằng: “Các ngươi quyết định muốn học Pháp Tạng bí mật (Guhya-dharma-garbha) của chư Phật mà chẳng sanh ngi ngờ chăng?”
Đồ Chúng đáp rằng: “Chúng con muốn học Pháp Tạng của chư Phật, quyết định tin tưởng chân thành, chẳng sanh Tâm nghi ngờ”
Như vậy theo thứ tự hỏi 3 lần, đáp 3 lần _Như vậy đáp xong. Tiếp theo, A Xà Lê dùng tay ấn lên nhóm lư hương, nước… Chú xong, tay bưng lư hương, quỳ gối, đốt hương, khải bạch tất cả chư Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên, cùng với tất cả Nghiệp Đạo Minh Kỳ: “Nay đất này là đất của con. Nay con muốn lập Hội của Đô Đại Đạo Tràng Pháp Đàn 7 ngày 7 đêm, cúng dường tất cả mười phương Pháp Giới, chư Phật Thế Tôn với Bát Nhã Ba La Mật Đa, các chúng Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên… lãnh các Đồ Chúng, quyết định chọn lấy các chứng thành Pháp Môn khó nghĩ bàn của tất cả Pháp Tạng bí mật. Con muốn hộ Thân, kết Giới, việc Pháp… ngay bên trong Viện này: Đông, Tây, Nam, Bắc, 4 góc, trên, dưới… hết thảy tất cả nhóm phá hoại Chánh Pháp, Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka), Thần Quỷ ác đều ra khỏi nơi Kết Giới của con ngoài 7 dặm. Nếu nhóm Thần Quỷ hiền thiện, hộ giữ Chánh Pháp, ở trong Phật Pháp của con có lợi ích thì tùy theo ý mà trụ”
Nói lời này xong. Tiếp đến, đều y theo Pháp Quân Trà Lợi ấy tịch trừ, kết Giới.
Đã kết Giới xong, liền khiết đào xới loại bỏ tất cả nhóm vật: đất ác, xương, tóc, than, vỏ trấu, gạch, đá vụn … bên trong đất 10 khuỷu tay. Nếu đất cực tốt thì đào sâu xuống một gang tay. Nếu là bậc trung thì đào xuống một khuỷu tay. Nếu là đất bậc hạ thì đào sâu xuống 2 khuỷu tay, nếu là đất bậc Hạ Hạ thì đào sâu xuống 3 khuỷu tay…
Loại bỏ hết vật ác xong, đem đất tốt sạch lấp đầy, đè nện cứng chắc khiến cho bằng phẳng, làm nền cao là tốt nhất
Tiếp theo, ngày thứ 2 với ngày thứ 3 dùng bùn tô trét đất. Tiếp theo, ngày thứ 4 dùng dùng phân bò, bùn thơm tô trét đất ấy xong
Tiếp theo, đem sợi dây giăng kéo một vòng 8 khuỷu tay ở 4 phương, chấm xuống một điểm ở 4 góc. Lại đem sợi dây từ góc Đông Bắc đến góc Tây Nam, từ góc Đông Nam đến góc Tây Bắc giăng kéo giao chéo nhau. trong chỗ giao chéo nhau chấm xuống một điểm. Đào đất sâu xuống một gang tay, chôn 5 thứ báu và 5 thứ lúa đậu.
5 thứ báu ấy là: một là vàng, hai là bạc, ba là trân châu, bốn là san hô, năm là hổ phách.
5 thứ lúa đậu là: một là đại mạch, hai là tiểu mạch, ba là lúa gạo, bốn là hạt đậu nhỏ, năm là mè
Dùng một tấm lụa gói vật báu, lúa đậu. Lấy sợi dây 5 màu cột tấm lụa lại rồi đem chôn, một đầu của sợi dây 5 màu ấy ló ra khỏi mặt đất, dài khoảng 5 ngón tay. Nhóm vật báu này vĩnh viễn không được lấy ra. Tiếp theo, làm Đại Kết Giới
Pháp kết Giới ấy: cầm Bạt Chiết La (Vajra: Đường gọi là chày Kim Cang) nhiễu quanh bên ngoài Đàn theo bên phải, chạy mau 3 vòng, làm Tỳ Na Dạ Ca Chủng Chủng Kết Giới Ấn ấn lên mặt đất, 4 phương, phương bên trên…. tụng Chú làm nhóm Pháp: Ấn, khải cáo, tịch trừ, kết Giới như ngày đầu tiên nói. Y theo thứ tự Pháp dùng của Quân Trà Lợi (Kuṇḍali).
Tiếp theo, ngày thứ 5: Kết Giới, Pháp Thức như ngày thứ tư. Lại dùng phân bò xoa bôi mặt đất
Pháp xoa bôi đất ấy: tay phải xoay chuyển chà xát, đứng hướng về bên trái chà xát. Việc còn lại ấy đồng với ngày thứ 4
Tiếp theo, ngày thứ 6: A Xà Lê tắm gội, trước tiên vào bên trong Đàn, lại chọn 2 người Đệ Tử rất thông minh cũng đều tắm gội, mặc áo sạch mới đi theo phìa sau vào Đàn. Dùng nướng nóng Đàn Hương hòa với tro đá xong, đem sợi dây nhuộm kỹ trong nước cốt của tro đá, khiến Đệ Tử cầm đầu sợi dây ấy đè ngay đầu góc ở phía Đông Bắc của Đàn, làm nơi chốn hạ xuống một điểm đầu tiên
Tiếp theo, A Xà Lê cầm một đấu sợi dây đè ngay đầu góc ở phía Đông Nam của Đàn, làm nơi chốn hạ xuống một điểm đầu tiên với giăng kéo sát đất, sai một Đệ Tử vin chính giữa sợi dây rồi ghép ráp ở trên mặt đất
Tiếp theo, Đệ Tử từ góc Đông Bắc đứng dậy hướng đến góc Đông Nam ngồi xuống, cũng làm như lúc trước
Tiếp theo, A Xà Lê từ góc Đông Nam đứng dậy hướng đến góc Tây Bắc ngồi xuống, cũng làm như lúc trước
Tiếp theo, Đệ Tử từ góc Tây Nam đứng dậy hướng đến góc Đông Bắc ngồi xuống, cũng làm như lúc trước
Tiếp theo, ở nơi ghép ráp lúc trước, từ bên ngoài hướng vào bên trong, lìa khoảng một khuỷu tay, lại y theo Pháp lúc trước, vây quanh ghép ráp
Tiếp theo, lấy sợi dây 8 khuỷu tay, co gập chính giữa, chấm xuống một điểm ngay một phương của Đàn. Lại gập sợi dây 2 khuỷu tay, từ điểm chính giữa ở một phương của Đàn liệu lường, hai bên trái phải lại chấm điểm ở 2 nơi. Tiếp theo, sợi dây cách vách tường ở cửa của một phương khoảng 4 ngón tay
Tiếp theo, lại lại co gập từ vách tường của cửa, hướng về 2 bên trái phải làm khoảng 5 ngón tay. Tiếp theo, hai bên trái phải làm rộng khoảng 5 ngón tay
Tiếp theo, mé bên ngoài cửa ấy, vẽ thẳng một phương, nếu như thế thì 3 phương dựa theo đây để biết
Tiếp theo làm sợi dây bên ngoài của Trung Viện khoảng 4 khuỷu tay Sợi dây bên trong của Ngoại Viện ấy với sợi dây bên ngoài ở giữa, khoảng cách giữa 2 sợi dây mở lối đi một khuỷu tay Trung Viện ấy: cửa, 4 phương, tường vách cùng hướng về 2 bên trái phải, làm chung khoảng 3 ngón tay Pháp ghép ráp sợi dây mé bên ngoài của cửa cũng như Pháp lúc trước Phương bên trong của Trung Viện ấy, lìa sợi dây bên ngoài một khủy tay, lại ghép ráp sợi dây tẩm tro đá
Ngay chính giữa của Đàn Ấy làm các Viện 2 khuỷu tay, đừng làm cửa ........
Chi tiết đầy đủ xin xem tại nguồn: Kinh Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Đà La Ni
+ Lý Khí: Vật cực tắc biến - Quy luật tự nhiên
Vật cực thì biến: Cường cực thì biến suy - Nhược cực biến vượng.
Bắt đầu là tiến, tiến tới cực là lúc thoái. Hành giả biết tiến thoái, lên xuống, nông sâu thì đã có thể bàn về Mệnh vận.
Then chốt là Tiến Thoái đúng thời, hiểu biết đúng lý không thể không biết. Cần phân biệt thời Vượng Tướng Hưu Tù mà phán đoán Tiến Thoái. (Sách: Trích Thiên Tủy)
+ Tú Diệu Lịch Kinh - Mở đầu sự phân định Tú trực (chòm sao- có tính chất thẳng đứng, dọc...)
Bài giảng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các Tiên về cát hung ngày giờ thiện ác trong Tú Diệu Kinh
(quyển thượng)
Khai Phủ Nghi đồng Tam Ti đặc tiến thí Hồng Lư Khanh túc quốc công thực ấp tam thiên hộ tứ tử tặng Tư Không thụy Đại Giám.
Chính hiệu Đại Quảng Trí Đại Hưng Thiện Tự Tam Tạng Sa Môn Bất Không phụng chiếu dịch (từ tiếng Phạn sang tiếng Hán).
Đệ tử Thượng Đô Thảo Trạch Dương Cảnh Phong tu sửa chú thích.
Phẩm thứ nhất.
Trời Đất thuở mới thành lập, lấy tinh hoa của nóng với lạnh mà tạo thành Nhật Nguyệt. Ô Thố (tức ám chỉ Mặt Trời - Kim Ô, và Mặt Trăng - Ngọc Thố) đối kháng sinh thành vạn vật. Phân chia các Tú (chòm sao) thiết lập cung quản ghi chép thứ hạng của chúng.
+ Nhật quản lý dương vị, theo tinh tú đi thuận, lấy 13 Tú như Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, cho đến phân nửa của tú Hư vừa khớp với chính giữa địa phận của Tý, phân chia thành 6 cung (Hoàng Đạo) vậy.
Nhưng Nhật Nguyệt thiên tử đều lấy Ngũ Tinh làm bề tôi phụ tá.
- Ánh sáng của Nhật (Mặt Trời) chiếu sáng nóng bức dữ dội, vật loại tương cảm nên lấy con thú thuộc dương là Sư Tử làm thần của cung (Hoàng đạo) vậy.
- Ánh sáng của Nguyệt (Mặt Trăng) thì mát lành thanh lương, vật loại tương cảm nên lấy loài trùng thuộc âm là Cự Giải (con cua lớn) để làm thần của cung vậy.
Đồng thời Nhật tính thì cương nghĩa, Nguyệt tính thì nhu huệ, Nghĩa thì lấy giúp đỡ bên dưới, Huệ lấy cùng chung tôi thần mà Nhật Nguyệt cũng đều dùng các cung thần ban chia đều đặn.
+ Ngũ Tinh thì lấy nhanh cho đến chậm, chính là Thần Tinh (sao Thủy), Thái Bạch (sao Kim), Huỳnh Hoặc (sao Hỏa), Tuế (tinh - sao Mộc), Trấn (tinh - sao Thổ). Sắp xếp thành thứ tự, hành độ đi nhanh chậm rõ ràng. Phàm 12 cung, tức là triền thứ của Thất Diệu, mỗi khi trải qua đều bày tỏ họa phúc theo tai họa hay cát tường của Kinh với Vĩ (QNB chú: Kinh là ám chỉ Kinh độ tính theo chiều dọc căn cứ vào các Hằng Tinh - chính là 28 Tú hoặc 27 Tú, còn Vĩ là ám chỉ Vĩ độ tính theo chiều ngang căn cứ vào các Hành Tinh - chính là 5 sao Thủy Kim Hỏa Mộc Thổ mà được gọi là Ngũ Tinh) cho nên các cung mới có hình dạng của Thần, dùng làm tượng của cung vậy. Đồng thời mỗi một cung lại phối quản nhóm các chòm sao "9 bước" (liệt tú cửu túc - 列宿九足), mà tất cả các thứ loại tương cảm với nhau.
- Phạm vi của Nguyệt là 50 căn cứ vào Tuần, được gắn liền với Mệnh mà làm trung tâm cát hung, đại thể thuộc vào Nhật Nguyệt (ngày tháng).
- Phạm vi của Nhật là 51 căn cứ vào Tuần (QNB chú: Tuần có nghĩa là 10 ngày).
- Phạm vi của Phong tinh Thái Bạch/ Sao kim là 10 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Không tinh Tuế tinh/ Sao mộc là 9 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Nguyệt tinh Thần tú/ Sao Thủy là 8 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Hỏa tinh Huỳnh Hoặc/ Sao hỏa là 7 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Nhật tinh Thổ Tinh/ Sao thổ là 6 căn cứ vào Tuần.
Những phạm vi của các Tinh Tú ấy đều có nơi chỗ ở.
Nhật cung bên dưới có cái quý của pha lê, có chất của lửa vậy, nóng ấm soi chiếu vạn vật.
Nguyệt cung bên dưới có cái quý của lưu ly, mát lành soi chiếu vạn vật.
Nhật Nguyệt và chư Diệu, chúng sinh có nghiệp được sắp đặt ở không trung, cưỡi gió mà dừng, hướng về nửa của Tu-Di, leo lên trên Kiện-Đà-La. Vận hành ở 27 Tú và 12 cung. Sự phân chia Cung Tú nay giải thích, thêm cả Đồ Thư mà thôi.
1. Thứ nhất sao Tinh 4 bước, Trương 4 bước, Dực 1 bước, chỗ khí dương to lớn (QNB chú: Đại Dương, có lẽ ám chỉ Mặt Trời). Thần của nó như Sư Tử, cho nên tên là cung Sư Tử (QNB chú: tương ứng với cung Ngọ), chủ sự thăng quan tiến chức, được tài lộc. Nếu người ta sinh ra thuộc cung này, noi theo pháp hợp đạt được tinh thần phú quý hiếu thuận, được nắm giữ đảm nhiệm quân đội vậy.
2. Thứ hai sao Dực 3 bước, Chẩn 4 bước, Giác 2 bước, chỗ Thần Tinh (sao Thủy, Mercury). Thần của nó như cô gái, nên tên là cung Nữ (QNB chú: Xử Nữ, Thất Nữ, tương ứng với cung Tị), chủ thê thiếp và các việc của người đàn bà. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp khó mà có được tâm phúc thân tín, nhiều con cái, đủ tiền tài, chức cao cho nên hợp với việc đảm nhiệm quản lý các cung các phòng.
3. Thứ ba sao Giác 2 bước, Cang 4 bước, Đê 3 bước, chỗ sao Thái Bạch (sao Kim, Venus). Thần của nó như cái cân, nên tên là cung Xứng (QNB chú: Thiên Xứng, Thiên Bình, tương ứng với cung Thìn), chủ những việc liên quan tới của báu và kho tàng quý. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp được tâm thẳng thắn, công bình, tín nghĩa, tôn trọng, lắm tài, hợp với việc đảm nhiệm quản lý kho tàng.
4. Thứ tư sao Đê 1 bước, Phòng 4 bước, Tâm 4 bước, chỗ sao Huỳnh Hoặc (sao Hỏa, Mars). Thần của nó như con Bọ Cạp, nên tên là Bọ Cạp cung (QNB chú: Thiên Hạt cung, tương ứng với cung Mão), chủ những việc thuộc các phần thân thể, bệnh tật, tấn công, ngăn cấm. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp nhiều bệnh, bạc tướng ác tâm, đố kị, cho nên hợp với đảm nhiệm việc quản lý bệnh tật hoạn nạn.
5. Thứ năm sao Vĩ 4 bước, Cơ 4 bước, Đẩu 1 bước, chỗ Tuế Tinh (sao Mộc, Jupiter). Thần của nó như cái cung, nên tên là cung Cung (QNB chú: Nhân Mã, Cung Thủ, tương ứng với cung Dần), chủ những việc mừng vui đắc tài lộc. Nếu người nào sinh ra thuộc những cung này theo pháp hợp nhiều kế sách lắm mưu kế, hợp đảm nhiệm việc làm tướng, quân sư.
6. Thứ sáu sao Đẩu 3 bước, Nữ 4 bước, Hư 2 bước, chỗ Trấn Tinh (sao Thổ, Saturn). Thần của nó như cái cối xay cho nên gọi là cung Ma Kết (QNB chú: còn gọi là Nam Dương, tương ứng với cung Sửu), chủ về những việc đấu tranh. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp thì tâm thô khí nghịch, không coi trọng vợ con, hợp đảm nhiệm nắm quyền hình sát.
Bên trên là 6 vị tổng thuộc phần Thái Dương.
Bên dưới là 6 vị tổng thuộc phần Thái Âm.
7. Thứ bảy sao Hư 2 bước, Nguy 4 bước, Thất 3 bước, chỗ của Trấn Tinh (sao Thổ, Saturn). Thần của nó như cái lọ bình, cho nên tên là cung Bình (QNB chú: Bảo Bình, tương ứng cung Tý), chủ những việc thắng lợi, mạnh mẽ. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp nhiều học vấn, trung thực, tín nghĩa, hợp đảm nhiệm nắm giữ học quán.
8. Thứ tám sao Thất 1 bước, Bích 4 bước, Khuê 4 bước, chỗ của Tuế Tinh (sao Mộc, Jupiter). Thần của nó như con cá, cho nên tên gọi là cung Ngư (QNB chú: Song Ngư, tương ứng cung Hợi), chủ về những việc thăng quan tiến chức. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, hợp làm tướng không sai khác, có học vấn, phú quý, trung trực, hợp đảm nhiệm nắm giữ quan tướng.
9. Thứ chín sao Lâu 4 bước, Vị 4 bước, Mão 1 bước, chỗ của sao Huỳnh Hoặc (sao Hỏa, Mars). Thần của nó như con Dê, cho nên tên gọi là cung Dương (QNB chú: Dương Cưu, tương ứng với cung Tuất), chủ những việc hoàn cảnh đi lại nghề nghiệp. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp được nhiều phúc đức, trường thọ, lại hay chịu đựng nhẫn nhục, hợp đảm nhiệm quản lý việc ăn uống thưởng ngoạn.
10. Thứ mười sao Mão 3 bước, Tất 4 bước, Tư (Chủy) 2 bước, chỗ của sao Thái Bạch (sao Kim, Venus). Thần của nó như trâu bò, cho nên tên gọi là cung Ngưu (QNB chú: Kim Ngưu, tương ứng với cung Dậu), chủ những việc về các súc vật bốn chân. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp có phúc đủ bạn bè thân hữu, được trường thọ, được người yêu quý kình trọng, hợp đảm nhiệm quản lý chuồng trại.
11. Thứ mười một sao Tư (Chủy) 2 bước, Tham (Sâm) 4 bước, Tỉnh 3 bước, chỗ của Thần Tinh (sao Thủy, Mercury). Thần của nó như vợ chồng, cho nên tên gọi là cung Dâm (QNB chú: cũng gọi là Song Tử, tương ứng với cung Thân), chủ những việc về thai sản con cháu. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp lắm thê thiếp, được người yêu mến kính trọng, hợp đảm nhiệm quản lý chìa khóa nhà cửa hộ tịch.
12. Thứ mười hai sao Tỉnh 1 bước, Quỷ 4 bước, Liễu 4 bước, chỗ của Thái Âm (Mặt Trăng). Thần của nó như con cua, cho nên tên gọi là cung Giải (QNB chú: Cự Giải, tương ứng với cung Mùi), chủ những việc quan phủ khẩu thiệt thị phi. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp có ác tính, lường gạt dối trá, thông minh nhưng đoản mệnh, hợp đảm nhiệm quản lý hình ngục kiện tụng.
Thời thượng cổ phân chia tách bạch ngày Sóc Xuân Phân tháng Hai lúc tại triền xá của diệu chỗ tú Lâu. Nói rằng tình huống ngày chính (chính nhật) của các Trung Khí phân đều bằng nhau, để mà dần dần được tươi tốt hết thảy đều tăng trưởng.
Phạm Thiên (QNB chú: Brahma, Đấng sáng tạo của đạo Bà La Môn, chữ Phạm đó cũng đọc là Phạn - chỉ Ấn Độ hay những thứ thuộc về Ấn Độ thuộc về Phật giáo) vui vẻ lệnh đặt cho làm Tuế Nguyên
[Cảnh Phong viết: Đại Đường lấy Kiến Dần làm Tuế Sơ khởi đầu năm. Thiên Trúc lấy Kiến Mão làm Tuế Thủ đứng đầu năm. Như vậy quy tắc Nguyệt Lệnh của Đại Đường đều lấy Chính Nguyệt (tháng Giêng), Hai, Ba, Tư, cho đến Mười Hai. Quy tắc của Thiên Trúc toàn là căn cứ theo ngày 15 "tháng trắng" (QNB chú: một tháng 30 ngày âm lịch thì theo họ chia này nửa trắng 15 ngày gọi là Bạch Nguyệt, còn nửa 15 ngày kia gọi là Hắc Nguyệt, hai phần Trắng-Đen này đều dựa vào sự Sáng-Tối của chu kỳ Trăng), khi Thái Âm ở chỗ chòm sao nào mà lấy làm tên tháng cho nên gọi Kiến Mão là Giác Nguyệt (QNB chú: tháng Giác, tháng mà Mặt Trăng tròn ở chỗ chòm sao Giác), gọi Kiến Thìn là Đê Nguyệt (QNB chú: tháng Đê, tháng mà Mặt Trăng tròn ở chỗ tú Đê). Tức là chỉ gọi tháng theo Giác, Đê, Tâm, Cơ,... chứ không luận về Kiến Mão hay Kiến Thìn với Giêng Hai Ba Tư gì cả, cho nên hai cái đó là Đông với Tây khác nghĩa nhau (QNB chú: hai chữ Đông - Tây này là ông Cảnh Phong ám chỉ nước Đường ở Đông và nước Thiên Trúc ở phương Tây). Học giả trước tiên cần phải hiểu rõ điều này để sau còn rõ ràng những phần giải thích nữa].
QNB chú thêm: Đối với thuật ngữ "Bạch Nguyệt" và "Hắc Nguyệt" cần phải lưu ý độc giả thêm rằng, ở trong Lịch Thời Luân của Tây Tạng, vào thời đại tương ứng triều Đường thì người ta gọi 15 ngày từ ngày Không Trăng đến ngày Trăng Tròn gọi là Hắc Nguyệt, còn 15 ngày từ ngày Trăng Tròn đến ngày Không Trăng thì gọi là Bạch Nguyệt. Nhưng đến thời gian tương ứng với triều Nguyên thì họ lại đổi ngược lại nửa Trắng trước còn nửa Đen sau. Tuy vậy nhiều khi những Chùa chiền Thiền viện ở Tây Tạng vẫn căn cứ vào quy tắc "Đen trước Trắng sau" để ghi chép ngày tháng và các hoạt động tâm linh. Điều này độc giả cần phải biết để khi đọc các tài liệu có nguồn gốc Mật Tông Tây Tạng hay Ấn Độ còn biết đường mà suy lường cho rõ thời điểm.
1. Giác Nguyệt (tháng Giác) [Cảnh Phong viết: Tháng Hai của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Mão vậy (Đẩu kiến Mão vị chi Thần)]
2. Đê Nguyệt (tháng Đê) [Cảnh Phong viết: Tháng Ba của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Thìn vậy]
3. Tâm Nguyệt (tháng Tâm) [Cảnh Phong viết: Tháng Tư của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Tị vậy]
4. Cơ Nguyệt (tháng Cơ) [Cảnh Phong viết: Tháng Năm của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Ngọ vậy]
5. Nữ Nguyệt (tháng Nữ) [Cảnh Phong viết: Tháng Sáu của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Mùi vậy]
6. Thất Nguyệt (Tháng Thất) [Cảnh Phong viết: Tháng Bảy của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Thân vậy]
7. Lâu Nguyệt (Tháng Lâu) [Cảnh Phong viết: Tháng Tám của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Dậu vậy]
8. Mão Nguyệt (Tháng Mão) [Cảnh Phong viết: Tháng Chín của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí của Tuất vậy]
9. Chủy Nguyệt (Tháng Chủy) [Cảnh Phong viết: Tháng Mười của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Hợi vậy]
10. Quỷ Nguyệt (Tháng Quỷ) [Cảnh Phong viết: Tháng (mười) Một của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Tý vậy]
11. Tinh Nguyệt (Tháng Tinh) [Cảnh Phong viết: Tháng Chạp (mười hai) của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Sửu vậy]
12. Dực Nguyệt (Tháng Dực) [Cảnh Phong viết: Tháng Giêng của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Dần vậy]
Bảng tĩnh sẵn các ngày trong năm theo 27 ngôi sao của nhị thập thất tú
Tiên nhân dạy rằng:
Phàm thiên đạo Nhị Thập Thất Tú có rộng có hẹp, đều dùng 4 bước mà phân chia đều nhau, Nguyệt (mặt Trăng) đi hoặc ở thì trước sau trong kết quả dự tính giữa tự nhiên và lý thuyết có sai lệch bất đồng. Phải định Tú trực như thế nào cho phù hợp.
Bồ Tát nói:
Phàm Nguyệt tú có 3 loại Hợp pháp, loại thứ nhất Tiền Hợp, loại thứ hai Tùy Hợp, loại thứ ba Tịnh Hợp. Biết ba loại ấy thì có thể biết được Tú trực vậy.
- Nói thế nào về Tiền Hợp. Sáu tú là Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, chính là Tiền Hợp vậy.
- Nói thế nào về Tịnh Hợp. Mười hai tú là Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, chính là Tịnh Hợp.
- Nói thế nào về Tùy Hợp. Chín tú là Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, chính là Tùy Hợp.
Phàm, Tú (chòm sao) ở chỗ trước Nguyệt còn Nguyệt ở sau Tú thì chính là Tiền Hợp.
Nguyệt ở chỗ trước Tú còn Tú ở chỗ sau Nguyệt, như nghé con theo mẹ chính là Tùy Hợp.
Tú với Nguyệt cùng đi thì chính là Tịnh Hợp.
[Cảnh Phong viết: Hễ là phép của Thiên tượng, thì phía Tây là trước (tiền) còn phía Đông là sau (hậu), như Nguyệt ở phía Đông của Tú còn Tú ở phía Tây của Nguyệt thì tức là Tú ở chỗ trước Nguyệt còn Nguyệt ở chỗ sau Tú. Ngoài ra cứ phỏng theo đó].
Ca tụng viết:
Lục Tú vị đáo danh Tiền Hợp
Thập Nhị Tú Nguyệt tả hữu Hợp
Cửu Tú như độc tùy tùng mẫu
Khuê Tú trực ứng đương tri nhĩ.
(Sáu chòm sao mà chưa đến nơi thì tên gọi là Tiền Hợp
Mười Hai chòm sao là Hợp ở hai bên trái phải
Chín chòm sao như nghé đi theo trâu mẹ
Tú Khuê trực ứng với việc biết chỗ bắt đầu).
[Tân diễn giải như bên dưới. (Nguồn: Tú Diệu Lịch Kinh - cohoc.net)
+ Ý nghĩa số 108 - Tương ứng số 108
12 cung Hoàng đạo kết hợp với nhị thập bát tú (Ngũ tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ) của bốn chòm sao Thanh Long - Bạch Hổ - Chu Tước - Huyền Vũ
* Tham khảo: Theo Tú Diệu Kinh, mỗi Cung Hoàng đạo tương ứng với một nhóm sao trong Nhị thập bát tú. Mỗi Cung lại quản các Chòm sao 9 bước, tùy thuộc mỗi sao dài ngắn mà có số bước nhiều ít => Tổng số 12 Cung x 9 bước = 108 bước (Nguồn: Tú Diệu Kinh của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát)
+ Sao Nam Đẩu còn gọi là Nam Đẩu tinh hoặc tên tiếng Trung Quốc đầy đủ Nam Đẩu lục tinh (南斗六星) là một mảng sao gồm sáu ngôi sao trên bầu trời Nam bán cầu.
Mảng các ngôi sao này tạo nên hình ảnh giống cái đấu (đẩu) hay cái gàu sòng hoặc cái thùng, thìa và nằm ở hướng Nam, ngược hướng lại với chòm sao Bắc Đẩu. Người Trung Quốc cổ đại xếp chòm sao này vào Nhị thập bát tú và theo thần thoại Trung Hoa, có 6 vị thần tương ứng với 6 ngôi sao chòm Nam Đẩu này, và gọi chung là Nam Đẩu tinh quân, (còn gọi là Nam Tào, nhưng đừng nhầm lẫn với sao Nam Tào) tương ứng với 6 ngôi sao chòm Nam Đẩu, bao gồm:
1. Đệ nhất Thiên Phủ cung: Ty Mệnh tinh quân
2. Đệ nhị Thiên Lương cung: Ty Lộc tinh quân
3. Đệ tam Thiên Cơ cung: Duyên Thọ tinh quân
4. Đệ tứ Thiên Đồng cung: Ích Toán tinh quân
5. Đệ ngũ Thiên Tướng cung: Độ Ách tinh quân
6. Đệ lục Thất Sát cung: Thượng Sinh tinh quân
=> Chòm Nam đầu và Bắc đẩu tổng có 13 Tinh Tú/ Sao/ Tinh quân (Nguồn: wikipedia.org)
+ Thanh Long: Thuộc Mộc, được coi là cát thần, tính tình thuần hậu, nhân từ, bổ trợ cho Dụng thần vượng tướng, tiến tài tiến lộc. Thanh Long động chủ về có chuyện vui, nhưng nếu gặp hào xấu cũng khó tránh được hung hại.
+ Thiên Lang (Sirius): Trong 9 cuộc điểm đạo xét về nhân loại. Có: 5 cuộc điểm đạo hành tinh; 3 cuộc điểm đạo thuộc thái dương hệ mà Đức Christ đang có 2; 01 cuộc điểm đạo cấp vũ trụ vốn liên kết một người với sao Thiên Lang (Sirius) (CTHNM, 298)
+ Đại Hùng Tinh Thiên Lang Thất Tỷ Muội: Thiên văn học hiện đại, nhóm sao này là một mảng sao gồm 7 ngôi, là bảy ngôi sáng nhất nằm trong ranh giới của chòm sao Đại Hùng (Ursa Major) tại thiên cầu bắc. Chòm Đại Hùng Tinh ngoài 7 ngôi còn nhiều ngôi sao khác.
Tên Hán-Việt: Bắc Đẩu Thất Tinh gồm Tham Lang/ Cự Môn/ Lộc Tồn/ Văn Khúc/ Liêm Trinh/ Vũ Khúc/ Phá Quân. (Nguồn: Xem thêm)
+ Các cung này (7 Cung năng lượng) có một liên hệ chặt chẽ với bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh (lại luôn luôn là bốn và ba như một biến phân thứ hai) và với Thất Tỉ Muội (seven Sisters), Chòm Sao Rua (Pleiades). Chòm sao thứ nhất là tác nhân của thần lực dương đối với Hành Tinh Thượng Đế, còn chòm sao kia là tác nhân tiếp vận (relayer) của trạng thái âm. Do đó có một trao đổi trực tiếp các năng lượng giữa các sự sống của bảy Hành Tinh Thượng Đế với Các Đấng Cao Cả (Lives) vĩ đại và khôn dò tức là Các Đấng đang làm linh hoạt (inform) các chòm sao này. (CTHNM, 41)
+ Bảy Đấng Thánh của Đại Hùng Tinh
Các nguyên mẫu (prototypes) của bảy Hành Tinh Thượng Đế (ASCLH, 82)
+ Bắc Đẩu Thất Tinh: (北斗七星) Bảy sao Bắc đẩu. Chỉ bảy ngôi sao ở phương bắc tụ thành hình cái môi. Gọi tắt là Bắc đẩu. Tức bảy ngôi sao cách bắc cực khoảng 30 độ: Thiên xu, Thiên toàn, Thiên cơ, Thiên quyền, Ngọc hành, Khai dương và Dao quang. Thiên văn học gọi là Đại hùng tinh. Tục gọi là sao Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc và Phá quân. Trong quan niệm đời xưa về tinh tú, sao Thiên xu được coi là sao chính trong bảy sao, chủ về đức dương; sao Thiên toàn là sao pháp, chủ về hình âm; sao Thiên cơ là sao lệnh chủ về phạt hại; sao Thiên quyền là sao phạt, chủ về lẽ trời; sao Ngọc hành là sao sát, chủ về bốn phương và trung ương; sao Khai dương là sao nguy, chủ về thiên thực, ngũ cốc; sao Dao quang là sao bộ, chủ về binh. Trong Tôn tinh vương pháp, Bắc đẩu pháp, Bắc đẩu hộ ma pháp v.v... của Mật giáo đều cầu khấn bảy sao này. Ngoài ra, trong Thiền lâm có câu Bắc đẩu lí tàng thân, là chỉ cho thần thông diệu dụng của Thiền tăng, cũng như nói: giấu mình trong sao Bắc đẩu, linh dương giấu sừng không lộ dấu vết. Vân môn khuông châu thiền sư quảng lục (Đại 47, 546 thượng) chép: ‘Hỏi:Thế nào là cầu thấu suốt pháp thân?’ Sư (Vân môn) đáp: ‘Giấu mình trong Bắc đẩu’. [X. kinh Bắc đẩu thất tinh diên mệnh; Cảnh đức truyền đăng lục Q.12 Ba tiêu Tuệ thanh chương; Pháp uyển châu lâm Q.4] (Nguồn: Từ điền Phật giáo)
Xem thêm: Tổng hợp về 7 Cung đến Thái Dương hệ - Địa cầu và Nhân loại
+ Bảy Đấng Thánh của Đại Hùng Tinh
Các nguyên mẫu (prototypes) của bảy Hành Tinh Thượng Đế (ASCLH, 82)
+ Mười hai bệnh không tu thiện pháp - Không thấy được Phật
Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật. A Nan hỏi Phật: “Đó là bệnh gì?” Đức Phật trả lời: “Không kính cha mẹ, đó là một bệnh; ngu si tạo ác, đó là hai bệnh; gian giảo điêu ngoa, đó là ba bệnh; lời nói hại người, đó là bốn bệnh; hay tìm lỗi người, là bệnh thứ năm; căn bệnh thứ sáu, giết hại chúng sinh; không biết hổ thẹn, đó là bảy bệnh; ham mê sắc dục, là bệnh thứ tám; kiêu ngạo khinh người, đó là chín bệnh; phạm tội không hối, là bệnh thứ mười; khen mình chê người, là bệnh mười một; không biết lợi hại, là bệnh mười hai”.
A Nan lại hỏi: ” Những bệnh như thế, chữa bằng cách nào?”
Đức Phật trả lời: “Dùng thuốc đúng bệnh, sẽ được thuyên giảm. Từ bi hỷ xả, khiêm tốn nhún nhường, tán thán Đại Thừa, nói lời hiền dịu, có lỗi lo đổi, thương người nghèo khó, kính người già cả, người ta chê mình, không giận không tức, khen ngợi người khác, nguyện độ chúng sinh, có oán phải giải, kính trên nhường dưới, đó là phương thuốc, trị những bệnh trên.”
A Nan lại hỏi: “Những thứ thuốc đó, tìm được ở đâu?” Đức Phật trả lời: “Ở núi Tu Di”. A Nan Lại hỏi: “Tu Di là gì?” Đức Phật trả lời: “Là thân người vậy. Hết thảy chúng sinh, đều có sáu nạn: Một là thân người khó được; hai là thân người khó đủ; ba là thiện tâm khó phát; bốn là Chính Pháp khó nghe; năm là trung quốc khó sinh; sáu là Đạo tràng khó gặp.”
Phật nói kệ rằng, giả sử tạo nghiệp, trong trăm nghìn kiếp, nghiệp cũng không mất, đến khi nhân duyên, hòa hợp đầy đủ, thì người gây nghiệp, phải chịu quả báo. Nét mặt tươi vui, đó là cúng dàng, miệng không nói dối, đó là diệu hương, lòng không sân hận, đó là Tịnh Độ, ý không nóng nảy, đó là đạo tràng. Làm người học đạo, mà không biết nhân, suốt ngày bận bịu, ham đắm sắc trần, chỉ biết lấy nước, lau rửa mặt mình, mà không lấy thiện, gột rửa lòng mình, thôi làm mọi điều ác, đó là nhân Tịnh Độ. Dù trí hay ngu, điều cần trước nhất, là bỏ tham sân.
Nếu có người nào, được nghe pháp này, lòng tin bền chặt, tinh tiến tu trì, thường làm hạnh lành, được vui Niết Bàn. Kinh Niết Bàn nói: “Khi Phật còn sống, trong ao Ca La, có một con hến, nghe Phật thuyết pháp, liền bò lên bờ, ẩn trong đám cỏ, lắng nghe Phật nói. Có người chăn trâu, thấy số thính chúng, vây quanh đức Phật, mới chạy đến xem, vì muốn nghe pháp. Trong lúc vội vàng, giẵm lên con hến; nó liền chết nay, và được sinh lên, cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ nó nghĩ, mình vốn là hến, vì nhân duyên gì, được sinh lên trời? Bấy giờ người trời, tự biết thân trước, nhờ nghe thuyết pháp, mới được sinh thiên, liền rời cung điện, đến trước chỗ Phật, đính lễ bái tạ. Phật lại nói pháp, cho người ấy nghe, sau khi nghe rồi, chứng được Sơ quả, chỉ nhờ nghe pháp, mà thành Chính Giác. Súc sinh còn thế, huống là thân người, thế nên phải gắng, chăm nghe Phật pháp, một lời vào tai, nhớ nghĩ thật kỹ, sẽ làm hạt giống, đạo quả Bồ Đề, muôn kiếp không dứt; căn lành tăng trưởng, nghiệp ác tiêu dần, phát Bồ Đề tâm, lập chí kiên cố, cầu đạo Vô Thượng, rộng độ chúng sinh, cùng tu đạo quả, cùng chứng Bồ Đề, tinh tiến tu hành, quyết không thoái chuyển, hiểu rõ tự tâm, quyết thành Phật đạo, thoát ly sinh tử, chứng nhập Niết Bàn. Hiện tiền đại chúng, hãy dốc lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Quá Khứ Đa Bảo Phật
Nam Mô Thập Phương Phân Thân Chư Phật.
Nam Mô Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật
Nam Mô Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật
Nam Mô Đại Thông Trí Thắng Phật
Nam Mô Quá Khứ Vô Số Kiếp Nhất Thiết Chư Phật
Nam Mô Vị Lai Hoa Quang Phật
Nam Mô Thập Lục Vương Tử Phật
Nam Mô Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Phật
Nam Mô Xá Lợi Bảo Tượng Tháp Phật
Nam Mô Như Lai Toàn Thân Bảo Tháp Phật
Nam Mô Hạ Phương Thượng Hành Đẳng Phật
Nam Mô A Tăng Kỳ Hiền Kiếp Phật
Nam Mô Tam Thừa Hành Phật
Nam Mô Đại Nhạo Thuyết Pháp Phật
Nam Mô Phả Hiện Sắc Thân Quang Minh Phật
Nam Mô Vô Lượng Tuệ Phan Thắng Phật
Nam Mô Chư Căn Thanh Tịnh Phật
Nam Mô Diệu Tuệ Đức Quang Phật
Nam Mô Vô Biên Thân Bồ Tát
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả
Đệ tử chúng con, dốc lòng thành khẩn, cầu xin sám hối, nguyện xin tội chướng, thảy đều tiêu trừ, kiếp kiếp đời đời, được sinh trước Phật, được nghe Chính Pháp, tu hạnh Đại Thừa, rộng độ chúng sinh, cùng thành Chính Giác. (Nguồn: Mục Liên Sám Pháp)
+ Mười hai bệnh không tu thiện pháp - Không thấy được Phật
Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật.
A Nan lại hỏi: ” Những bệnh như thế, chữa bằng cách nào?”
Đức Phật trả lời: “Dùng thuốc đúng bệnh, sẽ được thuyên giảm.
A Nan lại hỏi: “Những thứ thuốc đó, tìm được ở đâu?” Đức Phật trả lời: “Ở núi Tu Di”. A Nan Lại hỏi: “Tu Di là gì?” Đức Phật trả lời: “Là thân người vậy. Hết thảy chúng sinh, đều có sáu nạn: Một là thân người khó được; hai là thân người khó đủ; ba là thiện tâm khó phát; bốn là Chính Pháp khó nghe; năm là trung quốc khó sinh; sáu là Đạo tràng khó gặp.”
Phật nói kệ rằng, giả sử tạo nghiệp, trong trăm nghìn kiếp, nghiệp cũng không mất, đến khi nhân duyên, hòa hợp đầy đủ, thì người gây nghiệp, phải chịu quả báo. Nét mặt tươi vui, đó là cúng dàng, miệng không nói dối, đó là diệu hương, lòng không sân hận, đó là Tịnh Độ, ý không nóng nảy, đó là đạo tràng. Làm người học đạo, mà không biết nhân, suốt ngày bận bịu, ham đắm sắc trần, chỉ biết lấy nước, lau rửa mặt mình, mà không lấy thiện, gột rửa lòng mình, thôi làm mọi điều ác, đó là nhân Tịnh Độ. Dù trí hay ngu, điều cần trước nhất, là bỏ tham sân.
Nếu có người nào, được nghe pháp này, lòng tin bền chặt, tinh tiến tu trì, thường làm hạnh lành, được vui Niết Bàn. Kinh Niết Bàn nói: “Khi Phật còn sống, trong ao Ca La, có một con hến, nghe Phật thuyết pháp, liền bò lên bờ, ẩn trong đám cỏ, lắng nghe Phật nói. Có người chăn trâu, thấy số thính chúng, vây quanh đức Phật, mới chạy đến xem, vì muốn nghe pháp. Trong lúc vội vàng, giẵm lên con hến; nó liền chết nay, và được sinh lên, cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ nó nghĩ, mình vốn là hến, vì nhân duyên gì, được sinh lên trời? Bấy giờ người trời, tự biết thân trước, nhờ nghe thuyết pháp, mới được sinh thiên, liền rời cung điện, đến trước chỗ Phật, đính lễ bái tạ. Phật lại nói pháp, cho người ấy nghe, sau khi nghe rồi, chứng được Sơ quả, chỉ nhờ nghe pháp, mà thành Chính Giác. Súc sinh còn thế, huống là thân người, thế nên phải gắng, chăm nghe Phật pháp, một lời vào tai, nhớ nghĩ thật kỹ, sẽ làm hạt giống, đạo quả Bồ Đề, muôn kiếp không dứt; căn lành tăng trưởng, nghiệp ác tiêu dần, phát Bồ Đề tâm, lập chí kiên cố, cầu đạo Vô Thượng, rộng độ chúng sinh, cùng tu đạo quả, cùng chứng Bồ Đề, tinh tiến tu hành, quyết không thoái chuyển, hiểu rõ tự tâm, quyết thành Phật đạo, thoát ly sinh tử, chứng nhập Niết Bàn. Hiện tiền đại chúng, hãy dốc lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Quá Khứ Đa Bảo Phật
Nam Mô Thập Phương Phân Thân Chư Phật.
Nam Mô Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật
Nam Mô Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật
Nam Mô Đại Thông Trí Thắng Phật
Nam Mô Quá Khứ Vô Số Kiếp Nhất Thiết Chư Phật
Nam Mô Vị Lai Hoa Quang Phật
Nam Mô Thập Lục Vương Tử Phật
Nam Mô Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Phật
Nam Mô Xá Lợi Bảo Tượng Tháp Phật
Nam Mô Như Lai Toàn Thân Bảo Tháp Phật
Nam Mô Hạ Phương Thượng Hành Đẳng Phật
Nam Mô A Tăng Kỳ Hiền Kiếp Phật
Nam Mô Tam Thừa Hành Phật
Nam Mô Đại Nhạo Thuyết Pháp Phật
Nam Mô Phả Hiện Sắc Thân Quang Minh Phật
Nam Mô Vô Lượng Tuệ Phan Thắng Phật
Nam Mô Chư Căn Thanh Tịnh Phật
Nam Mô Diệu Tuệ Đức Quang Phật
Nam Mô Vô Biên Thân Bồ Tát
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả
Đệ tử chúng con, dốc lòng thành khẩn, cầu xin sám hối, nguyện xin tội chướng, thảy đều tiêu trừ, kiếp kiếp đời đời, được sinh trước Phật, được nghe Chính Pháp, tu hạnh Đại Thừa, rộng độ chúng sinh, cùng thành Chính Giác. (Nguồn: Mục Liên Sám Pháp)
+ Ngồi thiền phóng quang làm sạch không khí và môi trường không gian sống - Tiêu trừ độc tố và bệnh trên thân
Có hai câu thơ thật đầy ý nghĩa:
(Nếu ai tĩnh tọa chỉ một sát-na,
Còn hơn xây hằng sa tháp bảy báu.)
Ðó là hình dung công đức ngồi Thiền: nếu người ngồi Thiền có thể tịnh tâm chỉ trong một khoảnh thời gian ngắn ngủi thôi thì công đức ấy so với công đức xây hằng hà sa số tháp bảy báu còn nhiều hơn gấp bội. Bởi vì tạo ra vô số tháp bất quá cũng để cúng dường xá-lợi của Phật; song nếu tĩnh tọa chỉ trong giây lát, có thể tạo ra chân-thân của Phật. Do vậy, tĩnh tọa chỉ một sát-na mà hơn xây nhiều tháp bảy báu.
Nếu tĩnh tọa trong khoảnh khắc mà công đức lớn như vậy, thì hàng ngày tĩnh tọa, công đức càng khó kể xiết. Nếu trong một thời gian ngắn ngủi quý vị chẳng khởi vọng tưởng, tâm được thanh tịnh, thì dần dà quý vị sẽ trở nên "trạm nhiên thường tịch."
Khi tĩnh tọa ở Thiền-đường, không những công đức của quý vị vô lượng, mà đối với toàn thế giới nhân loại, công đức ấy cũng vô lượng. Có người hỏi: "Công đức của tôi làm sao san sẻ cho nhân loại, cho toàn thế giới được chứ?" Hiện nay nhân loại trên thế giới, do vì tranh danh đoạt lợi, nên tạo ra sát khí đằng đằng, ích kỷ tự lợi, nào là ta tranh, người giành, khiến thế giới biến thành đen tối u ám, đầy dẫy độc khí. Nhân loại đấu tranh ác liệt, càng ngày càng dữ dội càng ngày càng nguy hiểm, mỗi lúc mỗi thêm nghiêm trọng. Nếu chúng ta không tìm cách cứu vãn nguy cơ đang bao trùm thế giới, chắc hẳn một ngày nào đó địa cầu sẽ bùng nổ! Vì sao bùng nổ? Bởi vì giờ đây khoa học quá tiến bộ, các nước lớn đang nghiên cứu vũ khí giết người sao cho mau chóng; họ thi đua chế tạo những vũ khí hạt nhân, tia laser, v.v... Một khi chiến tranh phát sinh, những vũ khí ấy sẽ biến trái đất thành tro bụi. Lúc đó quả là ngày tàn của nhân loại.
Lúc dụng công tu hành trong Thiền-đường, vô hình trung chúng ta có thể tiêu diệt những thứ sát khí ấy, khiến thế giới tránh được nguy cơ. Làm sao tiêu diệt chúng? Bầu không khí đã bị ô nhiễm vì những chất độc, và hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp những khí độc ấy ảnh hưởng tới sức khỏe của chúng sinh, đe dọa sinh mạng của muôn loài. Quý vị hãy xem, hiện nay các thứ tật bịnh quái dị càng ngày càng nhiều, khiến các bác sĩ phải bó tay. Ðó là do không khí bị ô nhiễm, chẳng được trong lành sạch sẽ, đâu đâu cũng toàn là độc khí. Người tu Ðạo chúng ta phải dùng một loại điện liệu để làm tiêu tan chất độc trong không khí. Thế nào là "điện liệu"? Tức là tĩnh tọa, và từ đó mà ánh sáng trí huệ được phóng đi. Ánh sáng trí huệ này chính là một luồng điện lực. Luồng điện ấy di chuyển trong không gian và sẽ có tác dụng giải độc, khiến cho không khí hỗn trược biến thành thanh khiết. Ðó gọi là cách chữa trị các căn bệnh của thế giới bằng phương pháp điện liệu.
Bây giờ có người hoài nghi về tánh khả thi của nguyên tắc ấy: "Tĩnh tọa làm sao có thể làm tiêu tan chất độc trong không khí đặng?" Tôi xin kể một câu chuyện như sau: Vào đời nhà Tống có một vị đại văn hào tên là Tô Ðông Pha. Ðương thời cũng có vị Thiền-sư pháp danh là Phật Ấn. Hai người là bạn Ðạo, thường hay lui tới với nhau, nên có câu đối như sau để chứng minh tình quý vị gắn bó của họ:
(Ra vào: có Sư Phật Ấn thường gần gũi.
Tới lui: chẳng bạn Ðông Pha thì còn ai.)
Có lần Tô Ðông Pha làm một bài kệ:
(Ðảnh lễ Thiên trung Thiên (tức là Phật)
Hào quang chiếu vũ trụ.
Tám gió thổi chẳng động.
Ngồi vững tòa sen vàng.)
... Hào quang này chính là điện liệu, rọi chiếu toàn đại thiên thế giới và làm cho tiêu độc. Hào quang này có thể làm tiêu trừ không khí hỗn trược trong vũ trụ, tẩy sạch hoàn toàn cho đến một chút xíu độc tố cũng không còn.
Nếu quý vị có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ, thì phần độc khí của quý vị sẽ được tiêu tan. Nếu kẻ khác có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ thì phần độc khí của kẻ ấy sẽ được diệt trừ. Nếu mọi người có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ thì độc khí của mọi người sẽ được tiêu trừ.
Nếu ai ai cũng đồng tâm hiệp lực dùng phương pháp điện liệu để chữa trị các căn bịnh của thế giới thì không khí ô nhiễm sẽ càng ngày càng giảm bớt, không khí trong lành sẽ càng ngày càng gia tăng. Dần dần bầu không khí sẽ trở nên hoàn toàn trong sạch. Quý vị phải biết rằng không khí ô trược là độc tố, còn không khí trong lành là trí huệ.
Hiện tại vì sao không khí ô nhiễm? Vì đa số người ta không biết tu hành, không biết dùng pháp điện liệu, do đó không khí càng lúc càng ô trược. Người tu Ðạo chúng ta phải nhận trách nhiệm làm cho không khí trở nên thanh khiết. Không những bản thân mình phải dũng mãnh tinh tấn tu Thiền, mà còn phải khuyến khích quý vị bè thân thích ngồi Thiền. Công đức tọa Thiền vô lượng vô biên, đối với thân tâm có ích lợi không thể nghĩ bàn. Nếu họ không tin, quý vị hãy bảo họ thử thí nghiệm xem, sớm muộn họ sẽ đạt được ích lợi khó nghĩ bàn. Quý vị hãy gắng công tọa Thiền. Khi hào quang của quý vị chiếu khắp đại thiên thế giới, độc tố trong không khí sẽ tự nhiên tiêu diệt hết.
Quý vị hãy chú ý! Chỉ cần quý vị ngừng bặt vọng tưởng thì có thể phóng ra trí huệ quang minh. Hào quang này có thể chiếu khắp đại thiên thế giới và trừ độc trong không khí. Quý vị sẽ gặt hái vô lượng công đức có lợi ích cho nhân loại toàn thế giới. Lợi ích gì? Tức là có thể tiêu diệt độc tố làm ô nhiễm không khí, khiến nhân loại không còn bị tai họa vì các chứng bịnh hiểm nghèo. Ðây chính là lợi ích gián tiếp cho tất cả mọi người vậy. (Nguồn: Pháp tu thiền định - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Công đức ngồi thiền tu thiền định
Có hai câu thơ thật đầy ý nghĩa:
Nhược nhân tĩnh tọa nhất tu du,
Thắng tạo hằng sa thất bảo tháp.
(Nếu ai tĩnh tọa chỉ một sát-na,
Còn hơn xây hằng sa tháp bảy báu.)
Ðó là hình dung công đức ngồi Thiền: nếu người ngồi Thiền có thể tịnh tâm chỉ trong một khoảnh thời gian ngắn ngủi thôi thì công đức ấy so với công đức xây hằng hà sa số tháp bảy báu còn nhiều hơn gấp bội. Bởi vì tạo ra vô số tháp bất quá cũng để cúng dường xá-lợi của Phật; song nếu tĩnh tọa chỉ trong giây lát, có thể tạo ra chân-thân của Phật. Do vậy, tĩnh tọa chỉ một sát-na mà hơn xây nhiều tháp bảy báu.
Nếu tĩnh tọa trong khoảnh khắc mà công đức lớn như vậy, thì hàng ngày tĩnh tọa, công đức càng khó kể xiết. Nếu trong một thời gian ngắn ngủi quý vị chẳng khởi vọng tưởng, tâm được thanh tịnh, thì dần dà quý vị sẽ trở nên "trạm nhiên thường tịch."
Khi tĩnh tọa ở Thiền-đường, không những công đức của quý vị vô lượng, mà đối với toàn thế giới nhân loại, công đức ấy cũng vô lượng. Có người hỏi: "Công đức của tôi làm sao san sẻ cho nhân loại, cho toàn thế giới được chứ?" Hiện nay nhân loại trên thế giới, do vì tranh danh đoạt lợi, nên tạo ra sát khí đằng đằng, ích kỷ tự lợi, nào là ta tranh, người giành, khiến thế giới biến thành đen tối u ám, đầy dẫy độc khí. Nhân loại đấu tranh ác liệt, càng ngày càng dữ dội càng ngày càng nguy hiểm, mỗi lúc mỗi thêm nghiêm trọng. Nếu chúng ta không tìm cách cứu vãn nguy cơ đang bao trùm thế giới, chắc hẳn một ngày nào đó địa cầu sẽ bùng nổ! Vì sao bùng nổ? Bởi vì giờ đây khoa học quá tiến bộ, các nước lớn đang nghiên cứu vũ khí giết người sao cho mau chóng; họ thi đua chế tạo những vũ khí hạt nhân, tia laser, v.v... Một khi chiến tranh phát sinh, những vũ khí ấy sẽ biến trái đất thành tro bụi. Lúc đó quả là ngày tàn của nhân loại. (Nguồn: Pháp tu thiền định - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Pháp môn đốn giáo - Pháp tĩnh tọa tu thiền định: Pháp môn Thiền là pháp chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật; cũng là môn Ðốn-giáo. Ðốn-giáo là do Tiệm-giáo siêng năng tu hành mà thành. Nên có câu rằng: "Lý tuy đốn ngộ, sự tu tiệm tu." (Nghĩa lý tuy hiểu lập tức, nhưng việc tu cần phải từ từ.)
Hiện nay đi, đứng, nằm, ngồi đều là pháp Tiệm-tu. Chờ tới một ngày nào đó, chân chính hiểu rõ, thì sẽ đột nhiên khai ngộ. Ðó tức là "đốn." Thật ra, "đốn" không tách rời "tiệm"; "tiệm" chính là trợ giúp "đốn." (Nguồn: Pháp tu thiền định - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Pháp môn đốn giáo - Tu Pháp môn Đốn ngộ của Thiền tông - Lục Tổ giảng:
... Chư Thiện tri thức! Pháp môn của ta đây từ trên truyền xuống, trước hết là lập Vô niệm làm tông. Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc (bổn). Vô niệm nghĩa là trong khi niệm, lòng không động niệm. Vô tướng nghĩa là đối với sắc tướng, lòng lìa sắc tướng. Vô trụ chính là Bổn tánh của con người.
Đối với các điều lành dữ, tốt xấu ở thế gian, cùng với kẻ thù người thân, đối với lúc nghe các lời xúc phạm, châm chích, khinh khi, tranh đấu, xem cả thảy như không không, chẳng nghĩ đến việc đền ơn trả oán. Trong niệm niệm lòng không nghĩ đến cảnh mình đã gặp trước. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối tiếp nhau chẳng dứt, thì gọi là bị buộc ràng. Đối với các pháp, niệm niệm lòng không trụ vào đâu thì khỏi bị buộc ràng. Ấy là Vô trụ làm gốc.
Giảng:
Pháp môn đốn giáo mà tôi truyền dạy cho các ông, từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến nay, đều lấy vô sở niệm làm tông, vô tướng làm bổn thể, vô trụ làm cơ sở. Cái gì gọi là vô tướng? Chính là ở nơi tướng mà ly khai tướng. Vô niệm chính là ở nơi niệm mà không chấp trước vào niệm. Vô trụ chính là bổn tánh của con người. Ở thế gian này bất luận là thiện, ác, tốt, xấu cho đến oán thù hoặc là có quan hệ thân thích, hoặc là vì lời nói ngôn ngữ mà đôi bên dẫn đến sự công kích, khinh thường dối gạt và tranh đoạt lẫn nhau, nên xem những điều này là không, không chấp trước, không nghĩ đến việc báo thù hoặc làm tổn thương đến người khác. Mỗi niệm không nên nghĩ về những sự việc quá khứ. Nếu các ông cứ mãi hồi tưởng về những niệm quá khứ, niệm hiện tại và niệm vị lai, niệm niệm tương tục không ngừng, như sóng nước, đó chính là tự mình dùng dây trói buộc mình, tự trói buộc mình vào một chỗ, mà không được tự do. Nếu các ông đối với vạn pháp, niệm niệm không chấp trước, đó chính là không có bị trói buộc, chính là lấy vô sở trụ làm căn bổn.
Chư Thiện tri thức! Ngoài lìa cả thảy các sắc tướng, gọi Vô tướng. Đối với các sắc tướng mà năng lìa được sắc tướng chính là cái thể thanh tịnh của các pháp. Ấy là lấy Vô tướng làm thể........
Chư Thiện tri thức! Đời sau người nào đắc pháp của ta, cùng với những người đồng kiến đồng hành, đem pháp môn Đốn giáo nầy, phát nguyện thọ trì như là thờ Phật, trọn đời không thối chuyển, thì chắc vào ngôi Thánh. Nhưng cách truyền thọ, phải do theo ý chỉ của các vị Tổ Sư từ đời trước tới nay, mà mặc truyền phú chúc cho rõ ràng, chẳng đặng ém dấu chánh pháp của các Ngài. Còn các người không đồng kiến đồng hành hoặc ở trong pháp môn khác, thì chẳng nên truyền thọ, vì tổn hại đến các vị Tổ Sư đời trước, mà rốt cuộc không có ích gì (cho người sau), bởi sợ e có người ngu muội chẳng hiểu, rồi đem lòng chê bai pháp môn nầy mà phải đoạn tuyệt hột giống Phật tánh của họ trong muôn đời ngàn kiếp. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ SAI MỘT CHÚT THÌ TU TẬP KHÔNG CÓ CẢM ỨNG
Nhiều người tu tập đã nhiều năm, nhưng vẫn chưa thành tựu được nhiều. Tại sao vậy? Đó là bởi vì lúc chúng ta lạy Phật, chúng ta không làm như mình đang lạy Phật, và khi chúng ta niệm danh hiệu Phật, thì chúng ta không như đang niệm Phật. Hành động của chúng ta luôn bị chút ô nhiễm. Ví dụ như khi chúng ta đang tụng kinh, chúng ta không nên bị chi phối bởi bất cứ những gì xảy ra chung quanh mình. Nếu có tiếng gõ cửa, chúng ta không nên quay lại nhìn để xem ai đến. Hoặc chúng ta cũng không nên nhìn coi là ai đang bước xuống lầu. Làm như vậy là đã bị chuyển bởi âm thanh. Chính vì chúng ta chưa bỏ được những thói quen xấu này nên chúng ta không được một sự cảm ứng nào khi tụng kinh. Nếu tiếng chuông cửa reo lên, người giữ cửa sẽ lo chuyện đó. Những người đang tụng kinh không cần phải để ý đến chuyện mở cửa.
Khi niệm danh hiệu Phật, quý vị phải tập trung tâm trí. Cho dù có bất cứ âm thanh gì chung quanh mình, quý vị đều không nên để ý nghe. Quý vị chỉ nên nhận biết được âm thanh của tiếng niệm danh hiệu Phật mà thôi. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quý vị giống như là một khúc gỗ vô tri vô giác hoặc là đống đất không biết gì cả. Mặc dù quý vị nhận biết, quý vị chỉ nên để ý đến âm thanh niệm hồng danh Phật, và đừng bận tâm đến những việc không phải của quý vị.
Khi quý vị lạy Phật, quý vị cũng phải tập trung tâm trí và phải rất thành tâm. Phật đang ở trước mặt của quý vị; quý vị không nên nghĩ rằng việc lễ lạy có thể làm qua loa, hay nghĩ đó chỉ là một nghi lễ. Hoàn toàn không phải như vậy. Khi đầu quý vị cúi xuống chạm tấm đệm khi lễ lạy, quý vị không nên quay đầu qua một bên để nhìn những người khác. Quý vị không nên nhìn bên trái hay bên phải, bởi vì như vậy là thiếu sự tôn kính đối với Phật. Mỗi một người trong quý vị nên suy nghĩ thật kỹ: khi quý vị lạy Phật, quý vị vẫn chưa chịu buông bỏ xuống hết mà cứ nhìn quanh thì quý vị đang lạy vị Phật nào? Khi quý vị đang tụng kinh hoặc niệm danh hiệu Phật, nếu quý vị không cần đi vệ sinh thì, quý vị không cần phải đi nhà vệ sinh để nhìn quanh. Nếu quý vị thật sự cần đi nhà vệ sinh thì không sao, nhưng quý vị không nên cố tình đi nhà vệ sinh khi không cần thiết phải đi, hoặc vô trong nhà bếp để nói chuyện. Những lỗi lầm này sẽ cản trở sự thành tựu trong việc tu tập của quý vị.
Khi quý vị nỗ lực tu hành, đầu óc quý vị không nên bị phân tán. Quý vị nên có chút định lực. Nếu quý vị có được định lực rồi, thì trí tuệ sẽ phát sinh. Nhưng nếu quý vị thiếu định lực, thì trí tuệ sẽ không hiển lộ. Điều này rất là quan trọng. Chúng ta không thể phạm những sai lầm nhỏ nhặt nhất. Như có câu:
Sai một ly, đi một dặm (*)
Nếu quý vị chỉ sai một chút xíu thì sự tu tập của quý vị sẽ không có cảm ứng gì. Dù quý vị tu tập Pháp gì, quý vị đều cần phải nhẫn nại.
(Trích từ bài giảng Kinh Hoa Nghiêm của Hòa Thượng Tuyên Hóa, Phẩm Phẩm Thăng Tu Di Sơn Ðảnh - Facebook Diệu Thiện)
+ Người Tu tại gia Y pháp này tu hành:
Sư nói: Chư Thiện tri thức! Muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa.... Vi Thứ sử lại hỏi: Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại sư chỉ dạy."
Sư nói: "Ta nói cho đại chúng một bài kệ Vô Tướng. Nếu y theo đó mà tu, thì cũng như thường ở cùng ta một chỗ không khác. Bằng chẳng tu theo đó mà thế phát xuất gia, thì đối với Đạo nào có ích gì!"
Giảng:
Đại sư nói: "Tôi nay nói cho các ông nghe bài kệ Vô Tướng, các ông nương theo phương pháp này tu hành thì thường thường ở bên cạnh tôi không sai khác. Nếu các ông không y theo bài kệ này tu hành, thì dù cho xuất gia thế phát, đối với đạo có lợi ích gì?" Cho nên nói: "Đạo cần phải thực hành, không hành làm sao dụng đạo? Đức cần phải làm, không làm thì sao có đức?" Cần phải y theo phương pháp này tu hành mới có điều ích lợi.
Tụng rằng:
Lòng bình đẳng đâu cần giữ giới,
Làm việc ngay há phải tu thiền!
Ân, song thân hiếu dưỡng cần chuyên,
Nghĩa, huynh đệ dưới trên tương ái,
Nhượng, hòa mục tôn ti đối đãi,
Nhẫn, muôn điều ác hại chớ gây.
Nếu bền tu như lấy lửa cọ cây,
Nơi bùn lấm nở đầy sen đỏ.
Đắng miệng ấy thuốc trừ bịnh khổ,
Nghịch tai là lời độ chánh trung.
Sửa lỗi lầm trí huệ phát sung,
Binh tội quấy tâm tùng đọa ác.
Năng làm phước, giúp người lợi lạc,
Đạo nào do thí bạc mà thành!
Vốn Bồ đề cầu ở tâm thanh,
Ngoài mộng ảo, muội manh nhọc kiếm.
Nghe nói pháp, lòng vâng tu niệm,
Cõi Thiên đường mầu nhiệm thấy liền.
Giảng:
Lòng bình đẳng đâu cần giữ giới: Bình chính là không có tham sân si. Tại sao quý vị cần phải trì giới, vì có tam độc tham sân si. Nếu năng trì giới luật, thì không bị tam độc làm hại. Nếu tâm bình, chính là trong tâm không có sóng, không có sóng chính là không có vô minh. Không có vô minh, thì cần gì phải cực khổ trì giới.... mời xem trong Kinh. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Trì Tụng CHÚ ĐẠI BI Đúng Pháp - Như Pháp Thọ Trì:
Kinh Văn Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào trì tụng Thần Chú này phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh, thân trì trai giới, đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng, thường tụng Chú này, chớ để gián đoạn. Lại nên ở chốn tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết, treo phướn đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường, kềm tâm một chỗ, chớ theo dị duyên, trì tụng đúng Pháp. Lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng thần tiên đều đến chứng minh, làm tăng sự hiệu nghiệm.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Như Pháp Thọ Trì: Bấy giờ Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Phải gọi kinh này tên gì? Chúng con làm sao phụng trì? Phật bảo: Kinh này tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Do tên gọi đó, ông nên phụng trì. Vì cớ sao? Này Tu Bồ Đề! Phật nói Bát Nhã Ba La Mật tức chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật, (đó gọi là Bát Nhã Ba La Mật). Xin mời xem Kinh đầy đủ nội dung để hiểu đúng như lời Phật dậy tại đây. (Xin trích mục 13. ĐÚNG NHƯ PHÁP THỌ TRÌ Như Pháp Thọ Trì)
+ Giảng Nói Phật Pháp Tùy Căn Cơ Chúng Sinh: Trích đoạn Kinh Đức Phật dạy ngài A Nan "Lại nữa, A-nan, như ông thường biết được rằng, như ông đã rõ, ông đã được nghe giáo lý quyền thừa trước đây. Giáo lý quyền thừa đề cập đến năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Ông đã hiểu được toàn bộ giáo lý nầy. Nhưng, giáo lý về mười tám giới chỉ được diễn bày như là một pháp môn phương tiện cho hàng Nhị thừa và ngoại đạo để dẫn dắt họ. Nay Như Lai sẽ giảng giải giáo lý ấy thật chi tiết. Đừng trở nên chấp trước với những pháp trần nầy. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
* Mời đọc Tu Như Lý - Như Pháp thọ trì để có sự cảm ứng nhiệm mầu - Thành tựu viên mãn: Xem tại đây
Xem thêm: Thọ Trì của Pháp Sư Tịnh Không
Xem: Kinh Sống Theo Pháp
Xem thêm: Tu Như Pháp
+ Hàng phục ma oán:
Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê rợn. (HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi câu 68 - Hành giả trì tụng Giả kiết ra a tất đà dạ và dùng Ấn Pháp Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này có hình tròn nhưng có khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là “Hàng phục oán ma”, bất luận loại Ma nào)
+ "Hàng phục ma oán" là tướng thứ năm. CON ĐƯỜNG THÀNH PHẬT THÌ CŨNG CHẲNG DỄ DÀNG NHƯ THẾ, QUÝ VỊ PHẢI CHỊU ĐƯỢC KHẢO NGHIỆM, MA OÁN LÀ KHẢO NGHIỆM, PHẢI CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC, NHIỀU NỖI VÙI DẬP ĐỂ DIỆT HẾT CÁC TẬP KHÍ PHIỀN NÃO TRONG TÂM QUÝ VỊ THÌ QUÝ VỊ MỚI CÓ THỂ THÀNH TỰU. Ma oán cũng là thị hiện, đã thành Phật rồi, lấy đâu ra ma, lấy đâu ra oán? Oán là oán thân trái chủ, Ma là các thứ thử thách, đều chẳng còn nữa; nhưng phải thị hiện như vậy, nhằm giáo hóa những bậc đại đức tu học: Nếu đi theo con đường thành Phật thì cũng chẳng dễ dàng như thế, quý vị phải chịu được khảo nghiệm. Ma oán là khảo nghiệm, phải chịu đựng được. Nhiều nỗi vùi dập để diệt hết các tập khí phiền não trong tâm quý vị thì quý vị mới có thể thành tựu, thuần tịnh, thuần thiện, lúc ấy mới có thể thành tựu. Do vậy, Bồ Tát phải tu sáu Ba La Mật, thứ nhất là buông xuống tâm tham, keo kiệt, tham lam, dùng gì? Dùng bố thí để buông bỏ keo kiệt, tham lam. Dùng trì giới để buông ác nghiệp xuống, chẳng còn làm ác nữa. Dùng nhẫn nhục và tinh tấn để buông giải đãi xuống. Dùng Thiền Định để buông xuống tán loạn. Dùng trí huệ để buông xuống ngu si. Những thứ ấy đều là ma oán, thật sự có thể buông xuống. Quý vị thấy tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, trong kinh Kim Cang chỉ nhắc tới bằng một câu, nhưng câu chuyện ấy được kể chi tiết trong kinh Đại Niết Bàn, tức câu chuyện vua Ca Lợi cắt chặt thân thể [Nhẫn Nhục tiên nhân]. Khi Bồ Tát đang tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, vua Ca Lợi thí nghiệm, khảo đảo xem Bồ Tát có thể nhẫn hay không? Được rồi! Lăng trì xử tử, chẳng cho ông ta chết tử tế, mà xẻo từng mảnh thịt, xẻo đến chết mới thôi. Hỏi ông ta có thể nhẫn hay không? Có oán hận hay chăng? Không oán hận, đến chết vẫn không oán hận, bảo vua Ca Lợi: "Trong tương lai ta thành Phật, người thứ nhất ta độ là nhà vua". Không oán hận, chỉ có cảm ân, cảm ân gì? Vượt qua lần khảo nghiệm ấy, đã tốt nghiệp, Nhẫn Nhục Ba La Mật đã thành công; vì thế, sớm thành Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật vốn là vị sẽ thành Phật sau Di Lặc Bồ Tát, nhưng do công đức ngần ấy, công đức thù thắng khôn sánh, vua Ca Lợi đã ban cho tiên nhân cơ hội này, Ngài có thể nhẫn chịu, tâm chẳng có mảy may oán hận, nên thành Phật trước. Ở đây, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện, thị hiện thành Phật, chuyển pháp luân. Người đầu tiên chứng quả A La Hán là tôn giả Kiều Trần Như, vị này đời trước là vua Ca Lợi, Thích Ca Mâu Ni Phật là Nhẫn Nhục tiên nhân. Nói sao làm vậy, khi thành Phật đích xác độ ông ta đầu tiên. Chúng ta phải học tập điều này! Nếu đôi chút khó khăn, vất vả, thử thách mà chẳng chịu được, làm sao quý vị có thể thành Phật? Thứ gì quý vị cũng đều phải nhẫn nại chịu đựng thì mới có thể thành tựu.
(Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa [Tinh Hoa Khai Thị 菁華開示 ] Trích đoạn:TĐĐK - tập, 103)
+ Ma: Ma Oán - Oán Ma - Oán Khí các loại Ma:
Oán là oán thân trái chủ, Ma là các thứ thử thách, chướng ngại trên đường tu hành - Tu giải thoát thành Phật không rễ. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này thường xông khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê rợn. (HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi câu 68 - “Hàng phục oán ma”, bất luận loại Ma nào)
+ Ma/ Ngạ Quỷ Và Chúng sống ở đâu:
- Ma: Theo Phật giáo, Ma gọi đúng hơn là ngạ quỷ, là một trong lục đạo luân hồi, xếp trên súc sanh và địa ngục. Loài ngạ quỷ có hai nơi ở, một là nước Diêm La của nó, hai là sống trên dương gian cùng với người, vì vậy người ta hay nói đi đêm có khi gặp quỷ. Cuốn Petavatthu (Peta = Quỹ + vatthu = Truyện) là quyển sách thứ bảy trong Khuddaka Nikaya. (Nguồn: Xem chi tiết tại đây).
+ Quỷ Thần sợ cây nào: Trong kinh Diệm khẩu ghi rằng "Chẳng được viết vào gốc cây của những cây như lựu, đào, liễu, vì quỷ thần hoảng sợ, chẳng ăn được vậy" (Nguồn: Kinh Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên ngạ quỷ Đà La Ni).(Như vậy trong phong thủy trồng những cây này có giá trị ngăn ngừa quỷ thần_Ý này Nhân trắc học ghi)
+ Loài Ma/ Quỷ Thần/ Ngạ Quỷ: Trong đường ngạ quỷ cũng có phước báo. Hãy coi những loài quỷ vương như sơn thần, thổ địa thần, tại Đài Loan có Ngũ Phủ Thiên Tuế, Vương Gia Công v.v… đều là những quỷ thần có phước báo. Được nhiều người đến tế lễ, cúng dường, van vái, đó chính là phước báo trong quỷ đạo. Bởi vậy, chúng ta phải biết tu Định như thế nào thì mới có thể đạt được Chánh Định.(Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm_PS Tịnh Không)
+ Cõi Ngã quỷ được minh họa với những hình ảnh quái dị, chúng sinh đầu to, bụng lớn, cổ nhỏ như cây kim, và miệng thường phun lửa đỏ rực. Cõi này được hình thành từ những ác nghiệp do tâm tham lam, bủn xỉn được đẩy lên cao độ (Xem nguồn)
+ Vong Linh Thai Nhi do Phá Thai - Tiểu Quỷ: Tôi xin khuyên các vị nên thủ đạo phu thê, đừng ly dị và nên lo chăm nom con cái của mình cho đàng hoàng. Nếu gia đình đều được hòa thuận vui vẻ, thì đất nước tự nhiên sẽ thái bình. Còn một việc nữa là tôi khuyên quý vị chớ nên phá thai. Quý vị thử nghĩ xem, một sanh mạng chưa ra đời mà đã trở thành oan hồn thì chúng tiểu quỷ đó sẽ đi khắp nơi để tìm mạng sống. Quý vị nói đi, như vậy thì xã hội sẽ được an ổn sao? Cần phải có vị tu đạo hạnh và không tham tài lợi mới có thể siêu độ được chúng quỷ nhỏ này. Bọn tiểu quỷ khó chịu lắm đấy, rất khó mà trị được chúng. Tội lỗi, nghiệp báo khắp nơi như vậy, thì quý vị nói là có thể an ổn được sao? Có câu "Diêm Vương dễ gặp - Tiểu quỷ khó độ".
* Hiện tại chuyện tối quan trọng là thế giới đầy dẫy bọn tiểu quỷ và không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao có nhiều tụi tiểu quỷ như vậy? Bởi vì người ta phá thai quá nhiều. Thai nhi chưa thành hình mà đã bị giết rồi, nên khi làm quỷ chúng có tâm báo thù rất nặng nề. Do đó, nếu giữ giới không sát và phóng sanh thì bao hàm không được phá thai. Thật không dễ độ thoát bọn tiểu quỷ này đâu. Cho nên có câu “Diêm Vương dễ gặp, tiểu quỷ khó độ.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
Xem: Không nên qua lại với cõi Quỷ thần
Xem: Tên và nhân quả, tướng mạo 12 Quỷ
Xem: 36 loại Ngạ Quỷ trong Kinh điển
Xem: 24 loại trong Kinh Ngạ quỷ kinh giải
+ Trì giới - Sám hối có công đức có thể hóa giải - Tiêu trừ nghiệp chướng:
... Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám.
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng.
3. Loại thứ 3: Tiêu trừ nghiệp chướng.
Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Tuy họ nghiêm trì giới luật rất thanh tịnh, thật là hiếm có, được mọi người rất khen ngợi. Thế nhưng họ còn phiền não. Tức là họ còn thấy người này phá giới, người kia không trì giới. Họ còn có những phân biệt này, nếu còn có những phân biệt này thì công đức trì giới của họ bị phá hoại thì họ làm sao được định. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại trong đàn Kinh có nói “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” tức là người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Người thế gian đã phạm nhiều lỗi lầm, nếu như họ thật không thấy thì họ trở thành mất chứng ngu đần sao? vậy cái gì gọi là không thấy nghĩa là thấy như không thấy, tuyệt không để trong tâm.....(Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối nghiệp chướng)
+ Các Loại Sám Hối - Các cách sám hối.
Đệ tử chúng con, lễ chư Phật rồi, thứ lại sám hối. Kinh Diệt Tội nói: “Nếu chăm sám hối, diệt được tội nghiệp. Tại sao chỉ nói quán tâm lý trí, mới hay diệt nghiệp?”
Trong kinh giải thích hai cách sám hối: một là tâm mê, theo sự sám hối. Nghĩa là, đối trước tượng Phật, hành đạo lễ bái, tỏ bày sám hối, mong diệt tội chướng; hai là tâm sáng, theo Lý sám hối, nghĩa là quán sát thân tâm, cắt đứt phiền não, Năng Sở gây nghiệp, có nặng có nhẹ. Nếu là nghiệp nhẹ, theo Sự sám hối, có thể diệt hết, còn nếu nghiệp nặng, có thể chuyển được, biến nặng thành nhẹ. Nghĩa là lẽ ra nghiệp nặng, phải đọa ba đường, nhưng chuyển thành nhẹ, được sinh cõi người. Cho nên biết rằng, theo Sự sám hối, chuyển nặng thành nhẹ, nghiệp không thể hết là vì kiếp trước, gây nghiệp quá nặng, tâm thiện lại ít, sau ắt chịu báo.
Nay nói về Lý, không một vật gì, mình có thể được, nếu hiểu như thế, muôn pháp đều không, thân cần trong sạch, tâm không mê hoặc, không tạo ác nghiệp, nên không chịu báo, hăng hái tu hành, đạo nghiệp càng tăng. Như thế mới là phát tâm Bồ đề, rốt ráo cùng cực. Vì thế cho nên, những người có trí, nếu muốn tu tâm, muốn diệt tội nặng ba đường, phải học quán sát, theo Lý mà làm, mới mong mãi mãi xa lìa nẻo ác, đạt đến quả Phật.
Nhiếp luận nói ràng, nếu muốn lìa khổ, phải diệt vô minh, vô minh diệt rồi, thì hành cũng diệt, nếu hành đã diệt, thân tâm yên vui. Nếu hành lại sinh, tu đạo không rõ, thiện nghiệp chẳng thành, ác tâm càng mạnh. Bởi thế cho nên, bậc Tu Đà Hoàn không gây hoặc nghiệp, bậc A Na Hàm không chịu nghiệp báo, sinh nơi hạ giới. Lại nữa Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói rằng, nếu người có đủ mọi nghiệp ở nơi Dục giới, nhưng đã được quả A Na Hàm, thì chuyển được nghiệp kiếp sau mà chịu ngay ở đời hiện tại. La Hán cũng vậy. Vì thế nên biết, quán sát theo Lý mới thật sám hối.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thẩy nghiệp chướng đều do vọng tưởng, nếu muốn sám hối, hãy ngồi tĩnh tâm quán sát thực tướng”. Bởi thế chúng con, theo trong Kinh nói, trăm nghìn muôn kiếp, tạo nghiệp lâu dài, quán sát được một, đều tiêu diệt hết. Nếu các Phật tử, biết tính chúng sinh là tính niết bàn, thì những người ấy cùng cực giải thoát. Xét đến ngọn nguồn, nghiệp do điên đảo mà có, do vọng tưởng mà sinh, nhưng tâm tưởng ấy, cũng như luồng gió giữa chốn hư không, chẳng nơi nương tựa. Vì thế nên biết thiện hay là ác, đều do tâm tạo, khi chưa hiểu lý, mờ mịt không biết, nên mới gây nghiệp, đến sau rõ lý, tất cả tội trước, thẩy đều tiêu diệt. Lúc ấy mới biết, chẳng có tội gì để mà trừ diệt, chẳng có nghiệp gì để mà tạo tác, không còn chịu báo, cũng không luân chuyển.
Trong khi quán Lý, nên phải nghĩ rằng, tất cả nghiệp ác, vốn nó vắng lặng, cũng như Phật tính, đồng với chân như. Nhưng vì vô minh, ngăn ngại che lấp, nên không thể thấy, bởi vậy mới thường trước Phật, Bồ Tát, phạm trai phá giới, gây nên các tội thập ác, ngũ nghịch. Ví như trước Đạo Tràng này, tôn thờ tượng Phật, lễ bái cúng dàng, chợt có người mù, vì không trông thấy, bèn đứng trước Phật gây mọi nghiệp ác. Những người sáng mắt, thấy thế thương xót, mới bảo họ rằng, đây là Đạo Tràng, có thờ tượng Phật, tại sao đứng đây công khai tạo nghiệp? Người mù nghe rồi, xấu hổ sợ hãi, hối không kịp nữa. Liền ngay lúc đó, đứng trước đại chúng, cầu xin sám hối, bảo đại chúng rằng, vì tôi mù lòa, không thấy ánh sáng, không biết có Phật, tuy có chính nhân, nhưng không chính kiến. Nay nhờ thiện hữu chỉ bảo mới biết, xấu hổ sợ hãi, đã gây nên nghiệp, không thể nói hết.
Hiện tiền đại chúng, hãy đối trước Phật, cầu xin sám hối. Nguyện cầu chư Phật, thương xót tiếp thụ, diệt mọi tội cấu. Như người mù kia, nhờ người chỉ bảo, mới biết lỗi lầm, ăn năn sám hối. Chúng ta cũng vậy, lúc gây nên tội, thường đối trước Phật, vì không chính kiến, không thấy không biết. Ngày nay giác ngộ, biết rõ chư Phật, không ngoài tự tính, ba đạt chiếu suốt, năm mắt tròn sáng, trời đất hư không, những nơi tối tăm, bất luận xa gần, trong ngoài soi khắp, như ngọc minh châu, đặt trên bàn tay, tùy cơ ứng dụng, hóa độ quần sinh, đều lên bờ Giác. Lại biết tội duyên không có tội tính, đều do vọng tưởng, chịu mọi khổ não.
Kinh Duy Ma nói: “Tâm nhơ nên chúng sinh nhơ, tâm sạch thì cõi Phật sạch”. Vọng tưởng là nhơ, không vọng là sạch; vọng tưởng là địa ngục, tâm sạch là cõi Phật. Tội tính không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Tâm cũng không trong, không ngoài, không khoảng giữa, tâm đã như thế thì tội cũng vậy. Định tâm mà xem, tìm hiểu lý do, sẽ biết tự tính, thắp đuốc trí tuệ, diệt tan vô minh. Từ trước đến nay, gây bao tội ác, cũng như nhà tối; sám trừ vọng niệm, hiểu rõ chính nhân, đem đuốc trí tuệ, chiếu vào nhà tối. Lúc đó mới biết, từ kiếp vô thủy, đều bởi vô minh, ngăn che mê hoặc, không thấy chính quả, tạo các tội ác, như ở nhà tối, không thấy ánh sáng. Nay muốn sám trừ, phát nguyện tu hành, mở lòng đại thừa, sám tối nhỏ nhiệm, như ánh mặt trời, đánh tan băng tuyết, cũng như đau lâu, nay gặp lương y, như người ngu dại, gặp được minh sư. Nay đối trước Phật, khẩn cầu sám hối, hết thẩy tội chướng, nguyện đều tiêu diệt.
Cho nên kinh nói: tạo tội tuy nhiều không bằng làm thiện, chỉ một chút thôi, có thể diệt được tất cả tội chướng. Vì thế nên biết, tội không tự tính, do nhân duyên sinh, theo nhân duyên diệt; hễ gặp duyên ác, vô minh phát khởi, hễ gặp duyên thiện, đạo nghiệp tăng thêm, tội báo sai khác, duyên nghiệp nặng nhẹ, nay nên kiên quyết, không tạo tác nữa. Hiện tiền đại chúng, phải rõ bản nghiệp, đã biết cái nhân sám hối, mau trồng cái quả Bồ Đề, chịu tội muôn kiếp nghìn đời, sám hối một lúc tiêu hết. Nay hiểu được tâm, do lý mà sinh, rõ biết Phật lý, không ngoài tự tính. Tâm trước tuy gây tội nặng, niệm sau hiểu lý tiêu tan, vọng cảnh không sinh, nghiệp duyên cắt đứt.
Trong kinh Phật nói, tâm trước làm ác, ví như áng mây, che khuất mặt trời, tâm sau làm thiện, ví như mặt trời, đánh tan sương móc. Kinh Diệt tội nói: “Ví như chiếc áo, cả năm nhơ bẩn, có thể giặt dũ, một ngày sạch hết,” trong trăm nghìn kiếp, tạo mọi nghiệp ác, nay phải sám hối, nguyện nhờ sức Phật, sức Pháp, sức Tăng, chư Bồ Tát, cùng giúp thần lực, từ bi tiếp thụ, tấm lòng chí thành, giãi bầy sám hối, của lũ chúng con. Nguyện trong khoảnh khắc, diệt hết tội chướng, trăm nghìn muôn kiếp con đã gây nên. Hiện tại đại chúng, dốc một lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ của cả thế gian. ...(Nguồn: Kinh Mục Liên Sám Pháp)
+ 69. GIỮ GIỚI CÓ NĂM CÔNG ĐỨC
1. Cầu gì đều được như nguyện.
2. Tài sản đã có thì thêm mãi không hao sút.
3. Ở đâu cũng được mọi người kính mến.
4. Tiếng tốt đồn khắp thiên hạ.
5. Thân hoại mệnh chung được sanh lên cõi trời. Nguồn: mục 69- (Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
+ Trì giới - Sám hối có công đức có thể hóa giải - Tiêu trừ nghiệp chướng:
... Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám.
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng.
3. Tiêu trừ nghiệp chướng: Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Tuy họ nghiêm trì giới luật rất thanh tịnh, thật là hiếm có, được mọi người rất khen ngợi. Thế nhưng họ còn phiền não. Tức là họ còn thấy người này phá giới, người kia không trì giới. Họ còn có những phân biệt này, nếu còn có những phân biệt này thì công đức trì giới của họ bị phá hoại thì họ làm sao được định. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại trong đàn Kinh có nói “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” tức là người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Người thế gian đã phạm nhiều lỗi lầm, nếu như họ thật không thấy thì họ trở thành mất chứng ngu đần sao? vậy cái gì gọi là không thấy nghĩa là thấy như không thấy, tuyệt không để trong tâm.....(Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối nghiệp chướng)
+ Công đức lễ lạy đọc tụng kinh chú - Công đức nghe đọc kinh Phật
Kinh Bảo Tích nói: “Người nghe Phật nói, niệm danh hiệu Phật, tụng đọc kinh điển, người ấy diệt được, hằng sa tội chướng; những người bố thí, thụ trì trai giới, không giết sinh linh, thọ mệnh vô cùng, người nào nhẫn nhục, tính tình nhu hòa, được vào chính định; người trừ tham vọng, dứt được phiền não; người biết quán thân, là đồ nhơ nhớp, thì xa bể ái, người tu phạm hạnh, chóng chứng Bồ Đề, người chăm thiền định, thành bậc Chính Giác. (Nguồn: Kinh Bảo Tích)
+ Công đức thấy nghe Danh Phật, Bồ Tát: Mời xem Kinh Địa Tạng Bồ Tát giảng về Công đức - Phúc báo chiêm lễ, tu niệm Bồ Tát Địa Tạng. (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Công đức bố thí cúng dường kẻ sống người chết: "Như có người nam hoặc người nữ nào, lúc sống đã không tu thiện nhân mà lại tạo nhiều nghiệp tội, sau khi mạng chung lại được hàng quyến thuộc vì người chết mà tu tạo phước lợi lớn nhỏ; thì tất cả Thánh sự, trong bảy phần công đức, người chết được một phần, còn sáu phần thuộc về người sống hiện lo tu tạo đó.
Vì thế cho nên, các thiện nam thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng tự tu hành, thì được hưởng trọn phần công đức. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ CÔNG ĐỨC LẠY PHẬT RẤT LỚN: “Thân vô tà hạnh”, tốt nhất là lạy Phật nhiều hơn, công đức lạy Phật rất lớn, hiệu quả lại vô cùng thù thắng. (Pháp sư Tịnh Không). Lễ lạy Phật có 10 lợi ích (Xem nguồn Lợi ích lễ lạy Phật)
+ 69. GIỮ GIỚI CÓ NĂM CÔNG ĐỨC: (Nguồn: mục 69- (Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
+ CÔNG ĐỨC Trì giới - Sám hối có thể hóa giải - Tiêu trừ nghiệp chướng:
... Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám.
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng.
3. Tiêu trừ nghiệp chướng: Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Tuy họ nghiêm trì giới luật rất thanh tịnh, thật là hiếm có, được mọi người rất khen ngợi. Thế nhưng họ còn phiền não. Tức là họ còn thấy người này phá giới, người kia không trì giới. Họ còn có những phân biệt này, nếu còn có những phân biệt này thì công đức trì giới của họ bị phá hoại thì họ làm sao được định. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại trong đàn Kinh có nói “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” tức là người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Người thế gian đã phạm nhiều lỗi lầm, nếu như họ thật không thấy thì họ trở thành mất chứng ngu đần sao? vậy cái gì gọi là không thấy nghĩa là thấy như không thấy, tuyệt không để trong tâm.....(Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối nghiệp chướng)
+ Công đức bố thí Ấn tống kinh, tượng Phật được mười công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phuớc, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tin tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho mình và thân bằng quyến thuộc. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Quả báo hành Bố thí tùy theo Ruộng phước điền : Bố thí với Tâm bình đẳng, thì tùy theo Ruộng phước điền người đó gieo hạt giống Bố thí mà gặt hái quả báo khác nhau.. (Nguồn: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ Kinh Phân biệt Bố thí, Ðức Phật dạy (Tùy loại ruộng phước điền): (Xem thêm: Kinh phân biệt bố thí)
Xem thêm: Kinh Công đức bổn nguyện ... (Nguồn: Kinh Dược Sư, trang 250 bản pdf). Xem giảng giải Kinh Dược Sư: HT Tuyên Hóa giảng
+ Quả báo hành Bố thí tùy theo Ruộng phước điền : Bố thí với Tâm bình đẳng, thì tùy theo Ruộng phước điền người đó gieo hạt giống Bố thí mà gặt hái quả báo khác nhau..... Phật bảo Thủ Ca: Tất cả chúng sinh có liên quan với nghiệp, nương tựa nơi nghiệp, theo nghiệp tự chuyển. Do nhân duyên ấy có phân ra: thượng, trung, hạ, sai khác chẳng đồng, ví dụ: ... Ví như có chúng sinh chưa từng bố thí, gặp thiện tri thức tạm thực hành một lần bố thí vào được phước điền tốt (Tam Bảo, Cha Mẹ), do phước điền thù thắng nên tài sản đầy đủ, trước chẳng từng tập nên tuy giàu mà xan tham. (Nguồn: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ 409. MƯỜI BỐN LOẠI BỐ THÍ RIÊNG (Tùy loại ruộng phước điền)
1) Thiện nam tử hay thiện nữ có tín nhân bố thí cho Đức Như Lai, bố thí cho Duyên giác, bố thí cho A-la-hán, bố thí cho A-la-hán hướng, bố thí cho A-na-hàm, bố thí cho A-na-hàm hướng, bố thí cho Tư-đà-hàm, bố thí cho Tư-đà-hàm hướng, bố thí cho Tu-đà-hoàn, bố thí cho Tu-đà-hoàn hướng, bố thí cho Tiên nhân ngoại đạo ly dục, bố thí cho người tinh tấn, bố thí cho người không tinh tấn, bố thí cho súc sanh.
2) Bố thí cho súc sanh được phước trăm lần hơn.
3) Bố thí cho người không tinh tấn được phước ngàn lần hơn.
4) Bố thí cho người tinh tấn được phước trăm ngàn lần hơn.
5) Bố thí cho Tiên nhân ngoại đạo ly dục được phước ức trăm ngàn lần hơn.
6) Bố thí cho vị Tu-đà-hoàn hướng được phước vô lượng.
7) Bố thí cho vị đắc Tu-đà-hoàn được phước vô lượng.
8) Bố thí cho vị Tư-đà-hàm hướng được phước vô lượng.
9) Bố thí cho vị đắc Tư-đà-hàm được phước vô lượng.
10) Bố thí cho vị A-na-hàm hướng được phước vô lượng.
11) Bố thí cho vị đắc a-na-hàm được phước vô lượng.
12) Bố thí cho vị A-la-hán hướng được phước vô lượng.
13) Bố thí cho vị đắc A-la-hán được phước vô lượng.
14) Huống nữa là bố thí cho Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.
Đây là mười bốn loại bố thí riêng cho từng người, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được đại quảng báo. Nguồn: mục 409- (Trung A Hàm, Kinh Cù-đàm-di, Phẩm 14, số 180)
+ BẢY LOẠI BỐ THÍ CHO TĂNG CHÚNG (Ruộng Phước điền tốt)
1) Thiện nam tử hay thiện nữ nhân có tín tâm, sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn không lâu, bố thí cho cả hai bộ chúng;
2) Bố thí cho chúng Tỳ-kheo,
3) Bố thí cho chúng Tỳ-kheo-ni;
4) Đi vào tinh xá Tỳ-kheo bạch với chúng rằng ‘Mong trong chúng ở đây cử ra một số Tỳ-kheo để chúng con được bố thí’;
5) Đi vào tinh xá Tỳ-kheo-ni bạch với chúng rằng ‘Mong trong chúng ở đây cử ra một số Tỳ-kheo-ni để chúng con được bố thí’.
Như vậy gọi là loại bố thí thứ năm cho Tăng chúng, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.
6) Tỳ-kheo thuộc loại danh tánh, khoác áo cà-sa mà không tinh tấn, vị ấy đã không tinh tấn, không tinh cần mà vẫn được bố thí vì có ở trong chúng, duyên nơi chúng, ở trên chúng, nhân nơi chúng, Ta nói lúc bấy giờ thí chủ sẽ được phước vô lượng không thể đếm, không thể kể, được thiện, được lạc;
7) Bố thí cho Tỳ-kheo thành tựu hành sự, thành tựu trừ sự, thành tựu cả hành sự và trừ sự, thành tựu chất trực, thành tựu nhu nhuyến, thành tựu cả chất trực và nhu nhuyến, thành tựu nhẫn, thành tựu lạc, thành tựu cả nhẫn và lạc, thành tựu tương ưng, thành tựu kinh kỹ, thành tựu cả tương ưng và kinh kỹ, thành tựu oai nghi, thành tựu hành lai du, thành tựu cả oai nghi và hành lai du, thành tựu tín, thành tựu giới, thành tựu đa văn, thành tựu thí, thành tựu tuệ, thành tựu cả tín, giới, đa văn, thí, tuệ. Như vậy gọi là loại bố thí thứ bảy cho Tăng chúng, sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn.
Đó gọi là bảy loại bố thí cho Tăng chúng sẽ được đại phước, được đại quả, được đại công đức, được quả báo rộng lớn. (Trung A Hàm, Kinh Cù-đàm-di, Phẩm 14, số 180)
+ Kinh Phân biệt Bố thí, Ðức Phật dạy (Tùy loại ruộng phước điền):
- "Cho 100 người ác ăn không bằng cho 01 người thiện ăn.
- Cho 1.000 người thiện ăn không bằng cho 01 người thọ ngũ giới ăn.
- Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu Ðà Hoàn ăn.
- Cho một trăm vị Tu Ðà Hoàn ăn không bằng cho một vị Tư Ðà Hàm ăn.
- Cho một ngàn vạn vị Tư Ðà Hàm ăn không bằng cho một vị A Na Hàm ăn.
- Cho một ức vị A Na Hàm ăn không bằng cho một vị A La Hán ăn.
- Cho mười ức vị A La Hán ăn không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn.
- Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật ba đời ăn (Tam thế Phật).
- Cho một ngàn ức vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn". (Xem thêm: Kinh phân biệt bố thí)
+ So sánh công đức bố thí: "So sánh" là cân nhắc, đo lường, so bì với nhau để biết được sự khác biệt. "Bố thí" nghĩa là đem cho cùng khắp; và gồm có ba loại là tài thí, Pháp thí và vô úy thí.
1) Tài thí (bố thí tài sản). "Tài thí" là gì? "Tài" là tài sản, tiền của; và được phân làm hai loại là nội tài và ngoại tài. "Nội tài" (tài sản bên trong) là thân tâm, tánh mạng; còn "ngoại tài" (tài sản bên ngoài) tức là vàng, bạc, châu báu...
2) Pháp thí (bố thí Pháp). "Pháp thí" tức là học được Phật Pháp rồi thì không "hoài kỳ bảo nhi mê kỳ bang." Câu này nghĩa là gì?
3) Vô úy thí (bố thí sự vô úy). "Vô úy thí" là an ủi, đem lại sự không sợ hãi cho người khác. Khi thấy có những người rủi ro gặp hoạn nạn hoặc mắc phải tai bay vạ gió, khiến họ phải hoảng hốt lo sợ, mà quý vị ân cần hỏi han, dùng lời dịu dàng trấn an, làm cho họ không còn sợ hãi nữa, thì đó chính là "vô úy thí" vậy.
Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nương oai thần của Ðức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối, chắp tay bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo, so sánh về sự bố thí thì có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời; có người hưởng phước trong mười đời; có người hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, ngàn đời. Những việc này là như thế nào? Cúi xin Ðức Thế Tôn chỉ dạy cho con rõ."
Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Ở cõi Nam Diêm Phù Ðề, có các Quốc Vương, hàng Tể Phụ, Ðại Thần, Ðại Trưởng Giả, Ðại Sát Lợi, Ðại Bà La Môn v.v... gặp những kẻ bần cùng thấp kém nhất, cả đến những kẻ gù lưng, tàn phế, ngọng, câm, điếc, ngu si, không mắt, những người không được vẹn toàn như thế; khi các Ðại Quốc Vương đó muốn bố thí và nếu có thể đủ lòng đại từ bi, mỉm cười hạ mình, tự tay bố thí cùng khắp hoặc sai bảo người khác bố thí, lại dùng lời ôn hòa, dịu dàng an ủi; thì các Quốc Vương đó sẽ được phước lợi bằng phước lợi của công đức cúng dường cho chư Phật nhiều như số cát một trăm sông Hằng .
Vì cớ gì? Bởi các Quốc Vương đó đã phát tâm đại từ bi đối với những kẻ bần cùng thấp kém nhất cùng những người khuyết tật kia, cho nên được quả báo phước lợi như thế, trong trăm ngàn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ thọ dụng như y phục, đồ ăn thức uống!"
"Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có các Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v... gặp chùa tháp thờ Phật, hoặc hình tượng Phật, cho đến tượng Bồ Tát, Thanh Văn hoặc Bích Chi Phật, bèn đích thân thu xếp sửa sang, cúng dường, bố thí, thì các Quốc Vương đó sẽ được trong ba kiếp làm thân Ðế Thích, thọ hưởng sự vui sướng thù thắng, vi diệu. Nếu có thể đem phước lợi bố thí này hồi hướng cho Pháp Giới, thì các Ðại Quốc Vương đó, trong mười kiếp thường được làm vị Ðại Phạm Thiên Vương.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có các Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v..., gặp tháp miếu của chư Phật thuở trước, hoặc cả kinh điển, hình tượng bị hủy hoại, rách nát, liền có thể phát tâm tu bổ lại. Các Quốc Vương đó, hoặc tự mình lo liệu sửa sang, hoặc khuyến hóa người khác, thậm chí cả trăm ngàn người cùng bố thí để kết Pháp duyên; thì các vị Quốc Vương đó trong trăm ngàn đời thường được làm thân Chuyển Luân Vương, còn những người cùng chung làm việc bố thí đó, trong trăm ngàn đời thường được làm thân Tiểu Quốc Vương.
Nếu lại có thể ở trước chùa tháp mà phát tâm hồi hướng, thì các Quốc Vương cho đến những người đó, thảy đều thành Phật Ðạo, bởi quả báo ấy là vô lượng vô biên."
"Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, như có các vị Quốc Vương cùng hàng Bà La Môn v.v..., gặp những người già yếu, tật bệnh và kẻ phụ nữ sinh đẻ, nếu trong một niệm mà đầy đủ lòng đại từ, đem thuốc men, đồ ăn thức uống, mền chiếu... bố thí cho, khiến cho họ được an vui, thì phước lợi đó không thể nghĩ bàn—trong một trăm kiếp thường được làm Thiên Chủ trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp thường được làm Thiên Chủ cõi Lục Dục Thiên và rốt ráo sẽ được thành Phật, vĩnh viễn không còn đọa vào ác đạo, thậm chí trong trăm ngàn đời, tai không hề nghe đến tiếng khổ.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, như có các vị Quốc Vương cùng hàng Bà La Môn v.v..., có thể làm những việc bố thí như thế, sẽ được vô lượng phước lành. Nếu lại có thể đem hồi hướng, thì không kể là nhiều hay ít, rốt ráo đều sẽ thành Phật; huống gì là những quả báo Thích, Phạm, Chuyển Luân! Vì thế, này Ðịa Tạng, ông nên khuyến hóa chúng sanh đều phải học theo như thế!"
"Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào ở trong Phật Pháp mà gieo trồng chút ít thiện căn chừng bằng mảy lông, sợi tóc, hạt cát, hạt bụi, thì phước lợi được thọ hưởng sẽ không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp hình tượng Phật, hình tượng Bồ Tát, hình tượng Bích Chi Phật, hình tượng vua Chuyển Luân mà bố thí cúng dường, thì sẽ được vô lượng phước báo, thường ở cõi người, cõi trời, hưởng sự vui thù thắng, vi diệu. Như có thể đem hồi hướng cho Pháp Giới, thì phước lợi của người ấy sẽ không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp kinh điển Ðại Thừa, hoặc nghe thấy một bài kệ, một câu kinh, rồi phát tâm ân cần trân trọng, cung kính ngợi khen, bố thí cúng dường, thì người ấy sẽ được đại quả báo vô lượng vô biên; nếu có thể đem hồi hướng cho Pháp Giới, thì phước báo này sẽ không thể ví dụ thế nào cho được."
"Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp chùa tháp thờ Phật và kinh điển Ðại Thừa—nếu còn mới thì bố thí cúng dường, chiêm ngưỡng, lễ lạy, khen ngợi, chắp tay cung kính; nếu đã cũ kỹ hoặc hư hoại thì sửa sang tu bổ, hoặc riêng mình phát tâm, hoặc khuyên nhiều người khác cùng phát tâm. Như những người này, trong ba mươi đời thường được làm Tiểu Quốc Vương; còn vị Ðàn Việt thì thường làm Luân Vương, lại dùng thiện pháp mà giáo hóa các Tiểu Quốc Vương.
Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào ở trong Phật Pháp đã gieo trồng thiện căn—hoặc là bố thí cúng dường, hoặc là tu bổ chùa tháp, hoặc sửa sang kinh điển, cho đến chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước...; những thiện sự như thế mà đều có thể đem hồi hướng cho Pháp Giới, thì công đức của người này sẽ là trong trăm ngàn đời đều được hưởng sự vui sướng vi diệu, tối thượng.
Còn như chỉ hồi hướng cho thân quyến trong gia đình hoặc cho lợi ích của riêng mình, thì quả báo là sẽ được hưởng sự vui sướng trong ba đời, cứ thí xả một thì được báo đáp vạn lần trội hơn.
Cho nên, này Ðịa Tạng! Những nhân duyên của sự bố thí là như thế!" (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P10 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đọa làm súc sinh - Họa từ miệng mà ra (Mời xem Kinh văn gốc):
- Đoại làm con Lai: .... Bấy giờ tôn giả A Nam bạch Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Đức Ma Gia phu nhân đời quá khứ, làm hạnh nghiệp gì, mà phải sinh trong loài súc sinh, làm thân Lộc Nữ?
Phật bảo Ngài A Nam rằng:
-Nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông, phân biệt giải nói về nhân duyên hành nghiệp đời trước của Đức Ma Gia phu nhân.
.... Ngày ngày theo thường lệ; bà vẫn đem thức ăn về cho con ăn. Nhân một bữa nọ, vì sự chậm trễ của mẹ nàng, chưa kịp đem về cho nàng, hơn nữa vì sự đói khát bức bách, nên nàng sinh ra tức giận nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không biết vì lẽ gì, mà không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta như thế này?
Và vì quá phiền muộn, nên nàng nhắc đi nhắc lại đến ba lần như vậy, rồi lại còn nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không bằng loài súc sinh; ta thấy loài súc sinh như con hươu, một khi con nó bị đói khát, lòng nó còn chẳng nỡ rời bỏ nữa là mẹ ta!.........
Phật bảo tôn giả A Nan:
-Người con gái lúc bấy giờ, về sau là Lộc Mẫu phu nhân, bởi cúng dàng vị Phật Bích Chi một bữa ăn, và hoa mà trong năm trăm đời, được hưởng phúc báo tôn vinh hào quý, y phục thức ăn uống, không thiếu một thứ gì, nếu đi tới đâu, lại có hoa sen mọc theo dấu chân đi, vì có nhân duyên như thế, mà nay được gặp năm trăm vị Phật Bích Chi, lễ bái cúng dàng, nhưng chỉ vì một lời nói ác, chẳng biết ân đức, hủy báng mẹ: Chẳng bằng loài súc sinh, mà trong năm trăm kiếp, phải sinh làm loài hươu.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
...... Vì thế A Nan! Tất cả chúng sinh, họa từ trong miệng mà sinh ra. Vả miệng lưỡi thực là cái búa sắc tự bổ mình, là cái họa để tự diệt mình vậy.
- Đọa làm đại trùng: ... Bấy giờ Đức Thế Tôn, cùng với Ngài A Nan, vào thành Vương Xá khuất thực.
Khi trở về đến ngoài thành, thấy có một vũng nước rất lớn và sâu, nên người ở trong thành Vương Xá, thường đem những thứ đại tiểu tiện ô uế, đổ bỏ vào trong cái vũng ấy, và khi trời mưa thì tất cả nước dơ dáy ở khắp các nơi cũng chảy dồn cả vào trong vũng đó.
Lúc ấy, ở trong vũng nước đó, có một con đại trùng, hình thù giống như người, nhưng chân tay lại rất nhiều. Con đại trùng ấy xa coi thấy Đức Như Lai, liền ngóc đầu lên khỏi mặt nước, trông nhìn Đức Như Lai, mà nước mắt tuôn trào.
Đức Như Lai coi thấy rồi, Ngài rất tỏ vẻ thảm thương không vui, liền trở về núi Kỳ Xà Quật......
-Lạy Đức Thế Tôn! Con trùng ở trong vũng nước vừa rồi coi thấy đó, đời trước làm nghiệp ác gì mà phải sinh ở trong cái vũng nước ấy? Với thời gian là bao nhiêu? Và đến thời nào mới được giải thoát?
Phật bảo Ngài A Nan - Về đời quá khứ,...... có một người Bà La Môn, lập tịnh thất cúng dàng chúng tăng. Nhân có một người đàn việt, thường dâng dầu tô để cúng dàng chúng tăng.
Lúc ấy có khách Tỷ Khưu tới, vị Duy Na thấy vậy, sinh lòng giận tức, hiềm khách Tăng tới, nên đem giấu giếm tất cả những thứ dầu tô ấy mà không cho khách Tăng.
Khách Tăng mới nói rằng: -Sao Ngài không đem vị dầu tô để cúng dàng chúng Tăng?
Vị Duy Na đáp rằng:-Vì ông là Khách Tăng, tôi là cựu trụ, vì thế mà tôi không cúng dàng.
Tỷ Khưu khách nói rằng: -Đó là đàn việt cúng dàng Tăng hiện tiền.
Lúc ấy, người Duy Na kia, lộ vẻ hung ác đáng sợ, liềm mắng khách Tăng rằng:
-Sao ông không ăn phẩm giải mà lại cứ theo tôi đòi vị tô đó hoài vậy?
Bởi lời nói ác ấy, cho nên từ khi ấy đến nay, đã trải qua mười ức kiếp, thường phải sinh trong vũng phân. Người Duy Na lúc bấy giờ, nay là con trùng ở trong vũng nước ấy. Do đời quá khứ, phát ra một lời nói ác, hủy mắng chúng Tăng, mà trải vô lượng kiếp cứ phải sinh vào nơi phân giải nhơ nhớp!....
- Đọa làm thân Chó: .... Lúc ấy có một vị Tỷ Khưu già, thân hình xấu xí, nhân tướng bất cụ, hơn nữa giọng tiếng lại không được tốt, nhưng thường ưa đọc tụng tán thán công đức của Tam Bảo.
Bấy giờ, vị Tam Tạng Tỷ Khưu tuổi trẻ, thấy vị Tỷ Khưu già, giọng tiếng không được tốt, liền sinh tâm hủy nhục, mà nói rằng:
- Giọng tiếng như thế, chẳng khác gì tiếng chó sủa!
Lúc đó vị Tỷ Khưu già nói rằng:
- Sao ngươi lại hủy nhục ta như vậy? Ngươi có biết ta chăng?
Vị Tam Tạng Tỷ khưu tuổi trẻ nói rằng:
- Tôi có biết ông chớ, ông là người Tỷ Khưu già Ma Ha La, trong thời kỳ chính pháp của Phật Tỳ Bà Thi, sao tôi lại không biết?
Ma Ha La nói:
- Ta nay chỗ sở tác đã xong, phạm hạnh đã lập, và không còn phải chịu thân sinh tử hậu hữu nữa.
Vì Tam Tạng Tỷ Khưu tuổi trẻ nghe nói rồi, lòng sinh kinh hãi, dựng cả chân lông.
Bấy giờ Ma Ha La, liền đưa tay bên phải phóng ra ánh sáng hào quang rất lớn soi khắp cả mười phương.
Bấy giờ Tam Tạng, liền cúi đầu lễ bái, cầu xin sám hối:
- Tôi là người ngu si, không biết phân biệt Hiền Thánh, nên gây ra nghiệp ác ấy, xin cho tôi đời sau, được gần gũi bạn lành gặp gỡ Thánh sư, bao nhiêu phiền não đều được sạch hết, cũng như Đại Đức.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
Tam Tạng Tỷ Khưu trẻ tuổi ấy, vì một lời nói ác hủy mắng Thượng Tọa, mà sau trong năn trăm kiếp, thường phải quả báo làm thân chó.
- Đọa làm chim nhạn:.... Phật bảo A Xà Thế: ... Cách đây không biết bao nhiêu kiếp, có một ông Vua chỉ thích ăn thịt chim nhạn. Nhà Vua sai một người chuyên đi thả lưới bắt chim.
Lúc ấy, một đàn năm trăm chim nhạn từ phương Bắc bay qua phía Nam, con đầu đàn rủi ro sa lưới. Người đánh bẫy vui mừng, từ trong khóm lá chạy ra vồ lấy con nhạn.
Khi đó một con nhạn khác, kêu than thảm thiết, quanh quẩn không bay đi. Người đánh bẫy liền giương cung bắn, không những không sợ cung tên, mà con nhạn ấy còn đáp xuống rồi lăn vào con nhạn đầu đàn. Còn bầy nhạn trên không cũng bồi hồi lui tới, nhất định không bay đi.
Người đánh bẫy thấy con nhạn kêu than thảm thiết, miệng trào ra máu, mới tự nghĩ rằng: “Loài chim muôn mà còn biết thương mến nhau, đến nỗi không tiếc thân mệnh như thế này, sao ta lại có thể nhẫn tâm giết hại chúng được?” Nghĩ như thế rồi, liền mở lưới thả chim nhạn ra.
Sau khi được thả, hai con nhạn cất tiếng kêu vui mừng, vỗ cánh bay lên, rồi cùng với bầy nhạn trên không, quấn quít lấy nhau mà bay đi.
Bấy giờ người đánh bẫy về tâu Vua rằng:
- Tâu Bệ hạ! Hôn nay thần bẫy được một con nhạn đầu đàn, lẽ phải đem về dâng Bệ hạ, nhưng một con nhạn khác, kêu than thảm thiết, đến trào máu miệng, không sợ cung tên, bồi hồi không đi.
Thần thấy cảnh ấy, mủi lòng, thương xót, liền thả chúng ra. Khi được thả ra, nhạn liền ca hót vui mừng, rồi cùng bầy nhạn, quấn quyện với nhau mà bay đi.
Nghe xong, nhà Vua tỏ vẻ buồn thảm, tự nghĩ: “Loài chim thú mà còn biết thương yêu, che chở nhau như thế.”
Nghĩ rồi, liền phát từ tâm và từ đó nhà Vua thề không ăn thịt nhạn và không sai bắt chim nữa.
Đại vương nên biết, nhà Vua bấy giờ, nay chính là Đại vương vậy; người bẫy chim bấy giờ, nay là Đề Bà Đạt Đa; con nhạn kêu thương thảm thiết đến trào máu miệng, nay là A Nan; bầy nhạn trên không nay là năm trăm vị La Hán, còn con nhạn đầu đàn bấy giờ chính là thân Như Lai vậy.
Làm thân con giận: ...... Phật nói: -Vị Tỷ khưu tọa thiền bấy giờ nay là Đại Ca Diếp, con vắt này là Đề Bà Đạt Đa, còn con rận này là thân Ta vậy.
Xưa kia, vì lợi dưỡng mà Đề Bà Đạt Đa muốn làm hại Ta, cho đến ngày nay Ta đã thành Phật, cũng vì ham danh lợi, mà Đề Bà Đạt Đa làm cho thân Phật chảy máu, nên mặc dầu đang còn sống mà phải đọa vào địa ngục. Đề Bà Đạt Đa thường mang lòng thâm độc, hủy hại Như Lai, nếu nói cho đầy đủ việc đó, thì cùng kiếp cũng không hết được. Thế mà lúc nào Ta cũng đem lòng từ bi, thương xót Đề Bà Đạt Đa, vì chính Ta thường gặp Đề Bà Đạt Đa nên mới chóng chứng đạo Bồ Đề. Bởi nhớ trọng ơn ấy nên Ta thường đem lòng tha thứ. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Bị đọa làm Lợn: Kinh Chiết Phục nói:”Một vị Thiên tử, trên trời Đao Lợi, khi hưởng hết phúc, năm tướng suy hiện, thấy sau khi chết, đọa làm kiếp lợn, sầu muộn vô cùng. Ngay trong khi ấy, trên Trời có tiếng: “Phật có thể cứu tội của nhà ngươi, mau đến cầu Phật, xin Ngài cứu cho!” Khi đến trước Phật, Ngài bảo Thiên tử: “Hết thảy các pháp, đều là vô thường, nên biết như thế, lo buồn làm gì?”
Thiên tử bạch Phật: “ Bạch đức Thế Tôn, làm sao thoát được, thân hình kiếp lợn?” Phật bảo Thiên tử: “Nếu muốn như thế, phải quy y Tam Bảo, hướng về Bồ Đề”. Vị Thiên tử đó, liền quy y Phật, tu pháp Đại Thừa, ngày đêm chăm chỉ. Trong bảy ngày sau, ông bèn mệnh chung, sinh xuống một nước, tên Duy Gia Ly, nhà trưởng giả nọ, ở trong thai mẹ, ngày đêm quy y, khi vừa sinh ra, cũng quỳ quy y. Cả nhà đều sợ, cho là ma quái, muốn đem giết chết, nhưng chỉ người cha, biết rõ việc ấy, nên ông nói rằng, đứa trẻ thơ này, là người phi phàm, vì người đời này, sống lâu trăm tuổi, mà còn không biết, quy y Tam Bảo, huống chi mới sinh đã niệm Tam Bảo. Vì thế nên biết, nó là phi phàm.
Khi lên bảy tuổi, thụ trì ngũ giới, đến khi lớn lên, bẩm với cha mẹ, xin cho xuất gia, tu các phạm hạnh, được Phật thụ ký, liền chứng Sơ quả. (Nguồn: Mục Liên Sám Pháp)
+ Các Kinh sám hối nghiệp chướng - Các Pháp sám hối - Các Phương pháp sám hối - Tiêu trừ nghiệp chướng.
+ Các pháp sám hối: ... Ngày nay, rất nhiều vị đồng tu học Phật khi nghe đến danh từ sám hối này, sám trừ nghiệp chướng trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện thì nghĩ đến phải lạy Lương Hoàn Sám, Mục Liên Sám Pháp, lạy Thủy Sám, thiết lập đàn chay Thủy Lục đi làm những nghi thức này, cũng có người ở trong nhà lạy Đại Bi Sám, lạy Tịnh Độ sám, lạy Hoa Nghiêm Sám, Pháp Hoa Sám, nghi thức lễ lạy sám Pháp rất nhiều. Họ đều y theo nghi thức lễ lạy này cầu sám hối. Tội nghiệp của họ có được sám trừ hay không? Giả như lễ lạy Lương Hoàn Sám mà nghiệp chướng của họ được sám trừ đó là có hiệu quả. Nếu như sau khi lễ lạy mà không sám trừ được tội nghiệp đó là họ có vấn đề. Vấn đề không phải là sai ở phương pháp, không có sai ở nơi Lương Hoàn Sám, cũng không có sai ở Thủy Sám, tất cả những nghi thức sám pháp đều là do chư vị tổ sư, Đại Đức căn cứ trong kinh giáo mà biên soạn ra. Đều là tinh hoa của trong Kinh Giáo thì không bao giờ có sai. Là sai ở chổ nào? là sai ở chổ chúng ta không hiểu rõ nghĩa lý của Sám pháp, chỉ là đọc nghi thức của Sám Pháp Không có lợi ích gì, đọc theo như vậy thì cổ nhân gọi là “ hét bể cổ họng cũng uổng công”. Ta vừa đọc vừa cúi đầu lạy xuống, dù mỗi ngày lạy một ngàn lạy như cổ nhân ví dụ như một cái chày giả gạo vậy không có lợi ích gì, đều là vô dụng. Vậy phải sám hối như thế nào? Là phải tùy văn nhập quán, y theo trong kinh văn dạy, bạn phải đem những quan niệm, tư tưởng sai lầm của mình sữa lại cho đúng thì mới được. Đó gọi là chân sám hối. Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám. Chúng ta có thể khắc phục tội nghiệp của mình. Làm theo cách này thì dễ dàng hơn. Thực tại mà nói ngày nay chúng ta niệm câu Phật hiệu này, quý vị nên biết là trì danh niệm Phật. Từng chữ từng câu đều là phục nghiệp sám.....
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng. Nghĩa là đem ý niệm tư tưởng của bạn chuyển trở lại, chuyển phàm thành thánh, chuyển bằng cách nào? ... Khi chúng ta suy nghĩ tức là chúng ta khởi tâm động niệm đều vì cá nhân, đều vì sự lợi ích của mình, đều vì danh văn lợi dưỡng của mình nên chấp trước kiên cố. Nay chúng ta phải biết chuyển ý niệm từ nay trở đi không vì cá nhân mình nữa mà niệm niệm vì chúng sanh, niệm niệm vì Phật Pháp, niệm như vậy, hành cũng như vậy phải chuyển lời nói hành vi của chúng ta đều vì xã hội, đều vì chúng sanh thì gọi là chuyển phàm thành thánh. Cái hiệu quả này vô cùng, vô cùng lớn lao.
3. Tiêu trừ nghiệp chướng: Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. ... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối)
+ Các phương pháp sám hối: Thành tâm đọc tụng Lương Hòang Sám hay Từ Bi Thủy Sám. Đó là những bộ kinh thư có công năng sám hối mạnh mẽ vô biên. Hoặc nếu không có nhiều thời gian, bạn có thể sám hối theo Nghi thức (Nguồn: Xem tại đây)
+ Lương Hoàng Sám: Phương pháp sám hối nghiệp chướng thông dụng. Mời xem Lương Hoàng Sám
+ Mục Liên Sám Pháp: Phương pháp sám hối nghiệp chướng thông dụng. Mời xem Mục Liên Sám Pháp
+ Họa từ miệng mà ra:
Bấy giờ tôn giả A Nam bạch Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Đức Ma Gia phu nhân đời quá khứ, làm hạnh nghiệp gì, mà phải sinh trong loài súc sinh, làm thân Lộc Nữ?
Phật bảo Ngài A Nam rằng:
-Nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông, phân biệt giải nói về nhân duyên hành nghiệp đời trước của Đức Ma Gia phu nhân.
-Đời quá khứ lâu xa, vô lượng a tăng kỳ kiếp, bấy giờ đó có một Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, ở đời giáo hóa.
Sau khi diệt độ, trong thời kỳ tượng pháp, lúc ấy có một nước nọ, gọi là Ba La Nại, trong nước đó có một Bà La Môn, chỉ sinh hạ được một người con gái. Sau khi cha của nàng chết, để lại nàng cho mẹ nàng nuôi nấng cho đến khi khôn lớn. Nhà có một cái vườn trái, nên mẹ nàng thường để nàng ở nhà để trông coi, còn bà thì đi kiếm ăn để nuôi mình, và nuôi con. Ngày ngày theo thường lệ; bà vẫn đem thức ăn về cho con ăn. Nhân một bữa nọ, vì sự chậm trễ của mẹ nàng, chưa kịp đem về cho nàng, hơn nữa vì sự đói khát bức bách, nên nàng sinh ra tức giận nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không biết vì lẽ gì, mà không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta như thế này?
Và vì quá phiền muộn, nên nàng nhắc đi nhắc lại đến ba lần như vậy, rồi lại còn nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không bằng loài súc sinh; ta thấy loài súc sinh như con hươu, một khi con nó bị đói khát, lòng nó còn chẳng nỡ rời bỏ nữa là mẹ ta!
Nhưng thời gian không bao lâu, mẹ nàng đã đem thức ăn về cho nàng ăn.
Đang lúc toan ăn uống, thì có một vị Sa môn Bích Chi Phật, từ phía Nam bay qua phía Bắc.
Lúc ấy, người con gái Bà La Môn thấy vị Tỷ Khưu ấy, lòng sinh ra vui mừng, liền đứng dậy, chấp tay, cúi đầu làm lễ, trải tòa thỉnh mời Ngài ngồi, rồi lại lấy những bông hoa tươi tốt, giảm phần ăn của mình, để cúng dàng vị Tỷ Khưu.
Vị Tỷ Khưu ăn xong rồi, lại vì người con gái ấy, thuyết pháp chỉ dạy, kiến cho được những sự lợi ích, vui mừng.
Bấy giờ, người con gái đó liền phát nguyện rằng:
-Nguyện tôi đời sau, được gặp gỡ những bật hiền thánh, lễ bái, cúng dàng, khiến cho tôi được nhan sắc tốt đẹp, tôn vinh hòa quý, nếu khi dạo đi đến đâu, hoa sen sẽ mọc theo dấu chân đi.
Phật bảo tôn giả A Nan:
-Người con gái lúc bấy giờ, về sau là Lộc Mẫu phu nhân, bởi cúng dàng vị Phật Bích Chi một bữa ăn, và hoa mà trong năm trăm đời, được hưởng phúc báo tôn vinh hào quý, y phục thức ăn uống, không thiếu một thứ gì, nếu đi tới đâu, lại có hoa sen mọc theo dấu chân đi, vì có nhân duyên như thế, mà nay được gặp năm trăm vị Phật Bích Chi, lễ bái cúng dàng, nhưng chỉ vì một lời nói ác, chẳng biết ân đức, hủy báng mẹ: Chẳng bằng loài súc sinh, mà trong năm trăm kiếp, phải sinh làm loài hươu.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
-Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy, cũng chỉ đốt cháy một đời này, còn như lời nói ác khẩu đốt cháy, sẽ đốt cháy trong vô số kiếp, lửa mạnh đốt cháy chỉ đốt cháy được của cải của thế gian, còn như lời nói ác khẩu đốt cháy, sẽ đốt cháy cả bảy thứ của cải của Thánh nhân.
Vì thế A Nan! Tất cả chúng sinh, họa từ trong miệng mà sinh ra. Vả miệng lưỡi thực là cái búa sắc tự bổ mình, là cái họa để tự diệt mình vậy. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Tu sửa và chuyển hóa nóng giận - Giận giữ - Thù hận
Câu hỏi: Thầy ơi, con không biết làm gì với cơn giận trong con. Khi cơn giận phát khởi, con có thể cảm nhận được sự có mặt của nó, cơ thể con nóng lên, mặt con đỏ bừng và đầu con thì rối bời…Con biết là con được trao truyền từ cha của con hạt giống nóng giận đó và con không muốn giống cha. Con muốn trở thành một con người dễ thương. Nhưng khi giận lên thì con không thể suy nghĩ được gì hết. Thầy hãy chỉ cho con là con nên làm gì khi con giận? Bởi vì lúc đó đầu óc của con dường như bị tê liệt và con không thể suy nghĩ được gì hết.
Thầy: Có những người rất dễ nổi giận, năng lượng bực bội, sân hận trong họ rất mạnh và dễ biểu hiện. Có thể là mười năm trước, người đó không nóng tính và dễ giận như bây giờ. Và điều đó có nghĩa là hạt giống giận trong người đó được tưới tẩm và không ngừng lớn lên mỗi ngày. Vì vậy, nếu ta thấy cơn giận trong ta quá lớn thì điều đó cũng có nghĩa là ta đã để cho hạt giống giận lớn lên trong ta. Vấn đề là ở thức ăn. Bụt đã dạy rằng không có gì có thể tồn tại nếu không có thức ăn. Và nếu cơn giận trong ta không ngừng lớn lên, đó là vì ta đang cung cấp thực phẩm, đang nuôi cơn giận trong ta mỗi ngày. Những gì chúng ta nghe, những gì chúng ta thấy đều đi vào trong ta và nuôi hạt giống giận lớn lên. Nếu ta biết làm thế nào để dừng lại, không nghe những điều đó, không xem những thứ đó, thì chúng ta có cơ hội ngăn không cho hạt giống giận lớn lên.
Điều này cũng đúng với những hạt giống khác như bạo động, sợ hãi, tuyệt vọng, v.v. Nếu bạo động, sợ hãi và tuyệt vọng trong ta lớn lên, đó là vì ta đã để cho chúng lớn lên. Trong đời sống hàng ngày, ta đã tiêu thụ như thế nào để nuôi cơn giận, sự sợ hãi và tuyệt vọng trong ta ngày một lớn lên. Khi ta đọc một bài báo trong một tạp chí nào đó tức là ta đang tiêu thụ, bởi vì bài báo đó có thể chứa đựng rất nhiều bạo động và hận thù, đọc bài báo đó chính là ta đang cung cấp thực phẩm cho hạt giống giận trong ta. Cũng tương tự như vậy, khi ta trò chuyện với một ai đó và những gì người đó chia sẻ toàn là giận hờn và thù hận thì trong khi nghe, ta đã để cho hạt giống giận trong ta bị tưới tẩm và nuôi dưỡng. Vì vậy mà chúng ta cần phải rất chánh niệm để không tiêu thụ những loại thực phẩm có khả năng nuôi dưỡng cơn giận trong ta. Đó là sự thực tập chánh niệm.
Những thực phẩm nuôi hạt giống giận có thể đi vào trong ta qua đường mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đó là vấn đề tiêu thụ. Chẳng hạn như Internet, khi ta vào mạng Internet, ta có thể tiếp xúc với rất nhiều những thức ăn không lành mạnh như thèm khát, bạo động, giận hờn, tuyệt vọng, và ta tiêu thụ những thực phẩm đó. Vì vậy mà điều đầu tiên ta cần thực tập đó là không cung cấp thực phẩm để nuôi dưỡng hạt giống giận. Không nhìn, không nghe, không làm những gì có khả năng làm cho hạt giống giận lớn lên. Chúng ta phải quyết tâm và đề ra những cách thức cụ thể để làm điều đó. Chẳng hạn như: ta nguyện rằng từ nay trở đi ta sẽ không nhìn, không nghe, không nói chuyện, không suy nghĩ về những điều có khả năng nuôi dưỡng hạt giống giận trong ta. Và ta phải nhờ bạn bè giúp đỡ, ta có thể nói với bạn bè rằng: “Xin các bạn hãy giúp tôi, tâm giận hờn trong tôi rất lớn, vì vậy xin đừng cho tôi bất kỳ một loại thực phẩm nào có thể nuôi dưỡng hạt giống giận trong tôi. Xin hãy yểm trợ cho tôi.” Chúng ta phải tự mình thực tập và đề nghị bạn bè yểm trợ chúng ta trong sự thực tập đó. Đây là điều đầu tiên chúng ta cần thực tập.
Điều thứ hai chúng ta cần làm, đó là quán chiếu về khổ đau, khổ đau trong chính chúng ta, khổ đau nơi cha, nơi mẹ, nơi vợ/chồng, hoặc con cái, v.v. Những người thân của ta có thể đã nói, đã làm những điều không được dễ thương đối với chúng ta. Nhưng đó không phải là vì họ muốn làm cho chúng ta khổ, mà bởi vì trong bản thân họ có quá nhiều khổ đau. Và họ chính là nạn nhân của khổ đau đó. Họ không biết xử lý những khổ đau trong chính mình. Và nếu nhìn thật sâu, chúng ta sẽ thấy được nỗi khổ, niềm đau nơi họ cũng như những gốc rễ của khổ đau đó. Ta sẽ nhận ra rằng họ chính là nạn nhân của những khổ đau của chính họ. Cái thấy đó sẽ làm phát khởi tình thương và lòng từ bi trong trái tim ta. Từ bi là năng lượng duy nhất có khả năng làm trung hòa cơn giận, một loại thuốc giải độc giúp chuyển hóa cơn giận (antidote of anger). Vì vậy, điều thứ hai mà chúng ta cần thực tập, đó là nuôi dưỡng lòng từ bi. Một người không có từ bi là người có rất nhiều khổ đau. Nếu chúng ta biết cách nuôi dưỡng lòng từ bi thì năng lượng từ bi đó sẽ có khả năng trung hòa cơn giận trong ta và giúp làm vơi bớt khổ đau nơi người kia, bởi vì với lòng từ bi, chúng ta có thể nói và làm một điều gì đó đầy tình thương để giúp cho người kia bớt khổ. Con đường của đạo Bụt là con đường của từ bi. Không một ngày nào mà chúng ta không thực tập nuôi dưỡng lòng từ bi. Nếu lòng từ bi trong ta lớn lên mỗi ngày thì hạt giống giận trong ta sẽ tiếp tục được chuyển hóa. Mọi người ai cũng nên thực tập điều này.
Nếu cha mẹ của chúng ta không biết phương pháp thực tập thì với sự thực tập của mình, chúng ta sẽ giúp cho cha mẹ làm được điều đó. Khi chúng ta thực tập, chúng ta làm cho cơn giận trong ta ngày một yếu đi và năng lượng từ bi ngày một lớn, điều này sẽ nuôi dưỡng và mang lại nhiều lợi lạc cho cha mẹ của chúng ta. Vì cha mẹ không chỉ ở bên ngoài chúng ta mà còn nằm bên trong từng tế bào của cơ thể chúng ta. Vì vậy mỗi khi ta làm phát khởi lòng từ bi trong trái tim ta thì cha mẹ ở trong ta cũng đang được chuyển hóa nhờ vào năng lượng từ bi đó. Và khi chúng ta có con, chúng ta sẽ không tiếp tục trao truyền cho con mình hạt giống giận, bởi vì chúng ta đã thực tập và đã chuyển hóa được cơn giận trong ta. Chúng ta đã dừng lại được bánh xe luân hồi. Chúng ta chỉ trao truyền cho thế hệ tương lai hạt giống của hiểu biết và thương yêu mà thôi. Chúng ta đã chuyển hóa được năng lượng giận hờn trong ta thành năng lượng tích cực. Và đó là điều mà chúng ta hoàn toàn có thể làm được ngay ngày hôm nay. (Nguồn: TS Thích Nhất Hạnh giảng)
Ðức Phật dạy:
"Này các Tỳ Kheo, có năm phương cách để loại trừ sân hận mà vị Tỳ kheo cần phải áp dụng để loại bỏ hoàn toàn sân hận mỗi khi nó khởi lên đối với bất cứ ai. Thế nào là năm?
1.Hành giả cần phải phát triển tâm từ đối với người mà vị ấy sân hận; bằng cách này, hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
2.Hành giả cần phải phát triển tâm bi mẫn đối với người mà vị ấy sân hận; bằng cách này, hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
3.Hành giả cần phát triển tâm xả đối với người mà vị ấy sân hận; bằng cách này, hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
4.Hành giả cần phải làm ngơ, không để ý người mà vị ấy sân hận; bằng cách này hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
5.Hành giả cần phải áp dụng ý tưởng: 'chủ nhân của nghiệp' đối với người mà vị ấy sân hận, như sau; 'vị này là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp của vị ấy; vị này có nghiệp là nguồn gốc, nghiệp là bà con, nghiệp là nơi nương tựa; vị ấy sẽ là kẻ thừa kế bất cứ nghiệp nào mà vị ấy đã tạo, tốt hay xấu'; bằng cách này hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
Đây là năm phương cách mà vị Tỳ kheo cần phải áp dụng để loại trừ hoàn toàn sân hận mỗi khi nó khởi lên đối với bất cứ ai."
(Tăng Chi Bộ Kinh III, Ch.7 (X) 60, tr 409-413)
+ Tư tưởng hạt giống – chủng đề (seed thought)
Nói chung, có hai phương pháp tham thiền. Trong phương pháp đầu tiên (“tham thiền hữu chủng”) tâm trí tập trung vào một "tư tưởng hạt giống" – đó là một từ, một cụm từ hoặc một câu được phân tích trong khi tham thiền. Đây là loại tham thiền phân tích và là phương pháp được sử dụng trong khóa học này. Phương pháp thứ hai ở trình độ cao hơn, được gọi tham thiền "vô chủng," liên quan đến việc sử dụng khả năng trực giác. Tuy nhiên, nếu tâm trí chưa phát triển trước đó, người học viên chưa sẵn sàng sẽ rơi vào một trạng thái hôn mê nguy hiểm hoặc trạng thái vô thức. (Nguồn: Khóa thiền MQ - MFVN)
+ Tham thiền vô chủng (meditation without seed): Khi tham thiền, tập trung vào việc chỉnh hợp Chân Ngã và tạo ra sự trống không (vacuum) giữa bộ óc xác thân với Chân Ngã, kết quả là thiên tính hiện ra và tất nhiên là hình hài bị phá vỡ, đưa tới sự giải thoát.(TVTTHL, 58)
Xem: Tổng hợp về tham thiền huyền môn; Thần Bí và Huyền bí gia ...
+ Nhật ký Tâm linh:
Là quyển nhật ký chỉ dùng để ghi lại những tư tưởng và ấn tượng của sự phát triển và đời sống tinh thần của bạn. Bạn hãy giữ nó kế bên bạn khi bạn tham thiền, sao cho ở cuối mỗi buổi tham thiền bạn có thể ghi lại bất kỳ ấn tượng trực giác nào trước khi chúng biến mất. Bạn có thể viết các ghi chú trong "nhật ký tâm linh" và sử dụng các ghi chú này khi bạn viết báo cáo về tham thiền hàng tháng. (Nguồn: Khóa thiền MQ - MFVN)
+ Mantram
Một mantram là một từ hoặc cụm từ mà kết hợp các âm thanh và suy nghĩ một cách nhịp nhàng và đầy ý nghĩa tạo nên uy lực mạnh mẽ với sư sử dụng thường xuyên.
"OM" là một mantram và là âm thanh của tiếng Phạn huyền bí có gốc từ Ấn độ. Chúng ta được biết rằng OM là Linh tự, là lời của Thượng Đế mang theo sự rung động của Bác Ái và Trí Tuệ Thiêng Liêng. Do đó, khi xướng lên với ý định tốt, nó có một ảnh hưởng tốt lành. Ví dụ, nó trung hòa các rung động tiêu cực trong người xướng tụng nó và trong môi trường xung quanh ... Khi bạn xướng nó lên để kết thúc một buổi thiền, nó nâng cao các nguồn năng lượng tích cực được cầu xin, gửi chúng ra trên đôi cánh của ánh sáng và tình yêu để thực hiện công việc của chúng – hướng tới sự vinh quang của Thượng Đế (Nguồn: Khóa thiền MQ - MFVN)
+ Linh Từ/ Bảo Bối: Thần Chú - Mantrams - Chân Ngôn - Châm Ngôn - Đà La Ni - Mật Chú:
- Là những đoạn rút từ kinh Vedas. Theo nghĩa công truyền thì thần chú (hay khả năng tâm thông hoặc quyền năng để truyền đạt nhận thức hoặc tư tưởng) là phần cổ xưa của kinh Vedas, phần thứ nhì gồm các kinh Brahmanas. Theo ngữ cú nội môn thì thần chú là Thượng Đế đã hiện thân hay làm cho biểu hiện ra ngoài nhờ huyền thuật. Một hình thức các ngôn từ hay các âm vận được sắp có tiết điệu sao cho khi được xướng lên sẽ tạo ra một số rung động. (ĐĐNLVTD, 221)
- Thần chú là tập hợp các âm thanh, các từ và các nhóm từ để nhờ một vài hiệu quả nhịp nhàng mà đạt được các kết quả vốn không thể có được nếu không có chúng. Cho đến nay, thần chú linh thiêng nhất trong tất cả các thần chú ở Đông Phương được đưa ra cho quần chúng là thần chú nằm trong các linh từ “OM MANI PADME HUM”. Mỗi vần của nhóm linh từ này đều có một mãnh lực huyền bí và toàn thể nhóm có 7 ý nghĩa có thể mang lại 7 kết quả khác nhau.
- Có nhiều hình thức thần chú khác nhau dựa vào công thức này và dựa vào Linh từ, mà nếu được ngân lên một cách nhịp nhàng và bằng nhiều khóa khác nhau sẽ hoàn thành được một số mục tiêu mong muốn như là triệu thỉnh các thiên thần hộ trì và thực hiện được công việc nhất định, có tính chất xây dựng hoặc có tính chất hủy diệt trên các cõi.
+ Lựa chọn ngôn ngữ: Với người bắt đầu, rất nên cố gắng lựa chọn ngôn ngữ không thuộc quốc gia, chủng tộc nào cả là tốt nhất. Trường hợp sử dụng tiếng mẹ đẻ thì cũng nên mở rộng tâm thức bao trùm, hiểu rằng dù tiếng nào cũng không có phân biệt. (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Chân ngôn (mantra) hay Đà-la-ni hay Thần chú: Theo Ðại Trí Ðộ Luận thì: “Đà-la-ni có nghĩa là duy trì và ngăn ngừa: duy trì là duy trì những thiện pháp không để cho thất lạc, như một cái bình nguyên vẹn có thể chứa nước không để nước rịn ra; ngăn ngừa là ngăn ngừa những ác pháp không cho phát sinh, nếu có khuynh hướng tạo tác tội ác thì ngăn ngừa không cho tạo tác: Đó là Đà-la-ni”.
+ Câu châm-ngôn huyền bí: “Quyết chí (nguyện, to will), hiểu biết (tri, to know), dũng cảm (cảm, to dare) và im lặng (mặc, to be silent)”, có một ý nghĩa đặc biệt cho đến nay không được tiết lộ và Tôi chỉ có thể gợi ý về nó mà thôi. Những ai trong các bạn có được tri thức bên trong thì sẽ hiểu được ngay.
- Quyết chí (nguyện). Những lời này liên quan đến sự thành tựu cuối cùng, khi, bằng một tác động của ý chí được kết hợp của linh hồn và của phàm-nhân, sự hợp nhất và sự nhận thức được xảy ra. Nó liên quan đến bí huyệt ở đáy cột sống.
- Hiểu biết (tri). Những lời này liên quan đến bí huyệt Ấn Đường, tức là bí huyệt giữa hai lông mày. Một ẩn ý nằm trong các chữ “Mong cho Mẹ biết được Cha”. Nó có liên quan đến cuộc phối ngẫu (marriage) trên các cõi Trời.
- Dũng cảm (cảm). Những lời này cung cấp manh mối cho sự tuân phục của phàm nhân, và có một mối liên quan mật thiết với huyệt đan điền, nơi tiếp nhận và phân phối vĩ đại của dục vọng và của các mãnh lực cảm dục, và cũng là trung tâm chính của hoạt động chuyển-hóa.
- Im lặng (mặc). Cụm từ này liên quan đến sự chuyển-hóa của năng lượng sáng tạo thấp thành sự sống sáng tạo cao hơn.
* Bí-huyệt xương cùng phải lại rơi vào im lặng.
Kế đó, đối với vị đệ-tử, các bí huyệt sau đây sẽ được thấy là hết sức quan trọng:
1. Bí huyệt ấn đường, qua đó phàm nhân đã được thanh luyện tự biểu lộ chính mình.
2. Bí huyệt ở đáy xương sống, vốn là bí huyệt mà qua đó sự kiểm soát hoàn toàn và đầy đủ cùng với sự phối kết được đạt đến, thông qua việc khơi hoạt tác dụng thanh lọc của lửa.
3. Bí huyệt xương cùng, trong đó mãnh lực cơ bản của thái-dương-hệ riêng biệt của chúng ta, tức lực hấp dẫn của hình hài đối với hình hài, được chuyển hóa, và lực hấp dẫn của linh hồn thay thế cho hoạt động tạo tác sinh sản của vật chất (productive creative material activity).
4. Bí huyệt đan điền (solar plexus centre), nằm ở trung tâm của cơ thể và là cơ quan của thể cảm dục và của thông linh thuật (psychism) bậc thấp, tập hợp tất cả các mãnh lực hạ đẳng lại với nhau và tái định hướng chúng dưới sự thúc đẩy của linh hồn vào kho lưu trữ cao hơn của chúng.
Tôi hiểu rằng giáo lý được đưa ra ở đây vừa sâu xa vừa khó hiểu, nhưng giáo lý đó cần thiết cho số ít, và con số những người đó sẽ tăng lên theo thời gian.
Tôi đưa ra bảy bí quyết (keys) cho mỗi phương pháp của các cung. Các bí quyết này có thể được nghiên cứu liên quan đến các bảng ở trên và liên kết với bốn từ ngữ mà chúng ta đã đang xem xét. Chúng ta phải nhớ rằng:
+ “Nguyện” (“To Will”) là đặc quyền của Tinh Thần,
+ “Tri” (“To Know”) là chức năng của Linh Hồn,
+ “Cảm” (“To Dare”) là nhiệm vụ của phàm-ngã,
+ còn “Mặc” (“To Be Silent”) là thiên chức cuối cùng hay số phận của khía cạnh vật chất, của bản chất động vật trong sự tương tác của nó với linh hồn. (LVHLT, 288)
+ Xem thêm về Thần chú quyền năng trong Thư về tham thiền huyền môn, tr 177;
+ Chân ngôn - Hòa Thượng Tuyên Hóa nói đến trong giảng Kinh Chú Đại Bi
81. Án tất điện đô
Nay phần kinh văn của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án luôn luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”.
Tất nghĩa là “thành tựu”.
Điện đô. Hán dịch là “ngã giới” là đạo tràng, lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi kiết đại giới là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần. Trong phạm vi đã được kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được như ý.
Chẳng hạn như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên tai khác. Vì các vị hộ pháp, thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng được thành tựu.
Phạm vi và ý nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi trần của hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới, và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần tồn tại thì vô lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết giới.
+ Đà la ni - Thần chú - Tổng trì ...: Trong tiếng Phạn, chữ đà-la-ni [53] có nghĩa là thần chú.[54]
Có lọai đà-la-ni gồm nhiều chữ, như thần chú Thủ Lăng Nghiêm, thần chú Phật đảnh tôn thắng. Có lọai đà-la-ni gồm ít chữ, như thần chú Lục tự đại minh. Có khi dùng chữ man-tra. Có khi dùng chữ đà-la-ni. Khi dùng chữ đà-la-ni, thì có nghĩa là “tổng trì.” Nghĩa là “Tổng nhất thiết pháp, trì vô lượng nghĩa.” Tất cả các pháp đều bao hàm trong man-tra. Vô lượng diệu nghĩa đều xuất sinh từ man-tra. Đây là một cách giải thích. Tôi còn có một cách giải thích khác. “Tổng trì” có nghĩa là giữ cho ba nghiệp thân khẩu ý được hòan toàn thanh tịnh. Tam vô lậu học giới, định, huệ được thọ trì. Đại đà-la-ni khác với tiểu đà-la-ni. Tiểu đà-la-ni là những câu chú nhỏ, công năng của nó không lớn lắm. Điều đang nói đây là đại đà-la-ni. (HT Tuyên Hóa giảng đang giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Xem TH về thần chú, matram, ...của phật giáo
Xem TH về thần chú, matram ....minh triết mới
Xem: Thuật ngữ "Chân Ngôn" Phật Giáo
+ Pranayama (X. Điều khí): Tức là khoa học về hơi thở hay về năng lượng của prana. (ASCLH, 77)
+ Hơi thở: Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo (TVTTHM, 185)
+ Cách hít thở giúp rễ Chỉnh hợp trong tham thiền: Khi bạn hít năng lượng tế vi vào các thể của bạn, hãy giữ ý định của bạn trong tâm trí. Hãy nghĩ mỗi hơi thở là hơi thở cuả ánh sáng và của xung lực linh hồn, và hãy giữ điều này trong trí của bạn
Bắt đầu bằng cách hít vào một hơi dài, kế đến khi thở ra bạn hãy làm trong sạch phổi của bạn và những ý định của bạn.
1. Hít vào một cách có ý thức đưa năng lượng tế vi vào trong thể xác.
Khi làm thế, bạn quán tưởng rằng “Tôi thở vào xác thân này”.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở tràn ngập xác thân.
2. Hít vào một cách có ý thức, đưa năng lượng tế vi và trong thể cảm xúc.
Khi làm thế, bạn quán tưởng rằng “Tôi thở vào các cảm xúc này”.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở bao trùm tất cả các cảm xúc.
3. Hít vào một cách có ý thức, đưa năng lượng tế vi vào trong thể trí.
Khi làm thế, bạn quán tưởng rằng “Tôi thở vào tâm trí”.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở tràn đầy tâm trí.
4. Hít vào một cách có ý thức, đưa năng lượng tế vi vào trong phàm ngã của bạn như một tổng thể.
Khi làm thế, bạn quán tưởng rằng “Tôi thở vào phàm ngã này”.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở và sự sống của linh hồn tràn ngập phàm ngã.
5. Hít vào một cách có ý thức, dùng hơi thở vào để nâng tâm thức lên một điểm phía trên đầu.
Khi làm thế, như là linh hồn đang nhập thế, bạn hãy nói trong yên lặng “Tôi thở”.
Lập lại bước này vài lần. Mỗi lần bạn lại thấy Ánh Sáng, Tình Thương, và Quyền Năng của Chân Ngã, là Linh-hồn-trên-cõi-giới-riêng của nó, đang thở ra hướng về bạn, là Linh-hồn-nhập-thế bên trong phàm ngã, và sau đó, bạn hít vào những phẩm tính này vào trong bạn.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở và sự sống của linh hồn tràn ngập phàm ngã.
6. Thở ra một cách có ý thức vào trong đời sống của bạn (cơ quan, gia đình, bạn bè …), quán tưởng rằng “tôi thở vào tập thể mà tôi là một bộ phận”.
7. Hít vào một cách có ý thức, xong thở ra đến thế giới và nhân loại, quán tưởng rằng “ tôi thở với toàn thế giới và nhân loại ”.
8. Xướng linh tự OM ba lần. (Nguồn: Khóa Thiền MQ - MFVN)
Tứ Nguyên Huyền Bí Trong Con Người:
+ Một nhận xét trong khi nghiên cứu cung Hoàng đạo Leo - Sư Tử, rất thú vị của Chân Sư DK (CTHNM, 338):
+ Với Mercury - Thủy Tinh: Ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến tứ nguyên của con người – tinh thần, linh hồn, trí tuệ và bộ óc. Năng lượng này nó chuẩn bị cho người tìm đạo được điểm đạo. Tứ nguyên cao cấp này, bạn có:
Sirius Leo Mercury Saturn
Tinh Thần ... Linh hồn .... Trí tuệ ....... Bộ óc
Sự sống ..... Tính chất ... Giác ngộ ... Sắc tướng
Hít vào ........Tạm nghỉ ... Thở ra ...... Tạm nghỉ
- Bảng trên mang lại cho bạn manh mối cho thực tại căn bản, và việc cần thiết thiền định như được thực hành bởi đệ tử và điểm đạo đồ (CTHNM, 338)
+ Lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô
Lạy Chúa, hãy để con là một công cụ bình an của Chúa.
Nơi có sự thù hận, hãy để con gieo tình thương.
Nơi có sự tổn thương, hãy để con gieo sự tha thứ.
Nơi có sự nghi ngờ, hãy để con gieo niềm tin.
Nơi có sự tuyệt vọng, hãy để con gieo niềm hy vọng.
Nơi có nỗi buồn, hãy để con mang lại niềm vui.
(Nguồn: Giáo lý MQ - Học MF)
CUNG |
NGỌC THẠCH |
KHOÁNG CHẤT |
1 2 3 4 5 6 7 |
Kim Cương (Diamond) Ngọc Lam (Sapphire) Ngọc Bích (Emerald) Vân Thạch (Jasper) Ngọc Vàng (Topaz) Ngọc Hồng Bảo (Ruby) Ngọc Tím (Amethyst) |
Thạch Anh Đá Turquoise Cẩm Thạch Đá Mã Não; Đá Xà Vằn Đá Citrine Đá Tourmaline Đá Vân Ban |
Trên đây là bản lược đồ chỉ loại Ngọc Thạch đứng đầu mỗi Cung, và những loại khoáng chất này cũng có hàm xúc một thứ mãnh lực giống như loại Ngọc Thạch đồng Cung, mặc dầu yếu hơn. Xem thêm ; Xem thêm tóm lược về bảy cung
I- Cung "Nguyên Thuỷ/ Cung Gốc Vũ Trụ" là Cung và là phân thân trực tiếp của Tứ Linh Diệu. (Giáo Lý Bí Nhiệm I, 115, 116)
+ Tứ Linh Diệu Của Đại Vũ Trụ là:
1. Nhất Nguyên: Cha - Mahadeva - Thượng Đế Ngôi Một - Ý chí Tinh thần
2. Nhị nguyên: Con - Vishnu - Thượng Đế Ngôi Hai - Bác ái Minh triết
3. Tam Nguyên: Mẹ - Brahma - Thượng Đế Ngôi Ba - Trí tuệ Hoạt động
* Tứ Linh diệu: Biểu lộ hợp nhất của cả ba - Đại vũ trụ (TCF/ LVLVT, 118)
+ Tứ Linh Diệu Của Đại Thiên Địa là: Nhất Nguyên (Unity)
a/ Cha … Mahadeva … Thượng Đế Ngôi Một … Ý chí–Tinh thần (1st Logos) Nhị Nguyên (Duality)
b/ Con … Vishnu … … Thượng Đế Ngôi Hai ….. Bác ái–Minh triết (2nd Logos) Tam nguyên (Trinity)
c/ Mẹ … Brahma … Thượng Đế Ngôi Ba ……. Hoạt động–Trí tuệ (3rd Logos) Tứ Linh Diệu
* Biểu lộ kết hợp (united manifestation) của bộ ba (the three) – Đại Thiên Địa (Macrocosm) (TCF/ LVLCK, 41)
+ Tứ Linh Diệu: Đến lượt mình, con người trở thành một “Tứ Linh Diệu” – Tinh thần và bộ ba biểu lộ (spirit and the three of manifestation). (LVHLT, 75)
+ Tứ linh diệu (Tetraktys): Bộ Ba, được chiếu rọi bởi ánh sáng của Đấng Duy nhất là ba Ngôi của Tam hạ thể (lower Triad), tức thể hạ trí, thể cảm dục và thể xác. Ba thể này cùng với Đấng Soi sáng (Illuminator) tạo thành “Bốn” được nói đến và như thế hiển nhiên trở thành Tứ linh diệu của tiểu thiên địa. (LVLCK, 1000)
II- Tứ nguyên biểu lộ và 7 Đấng Kiến Tạo xuất phát từ Mẹ . (GLBN, 402)
a/ 7 Đấng Kiến Tạo là Trí Tinh Quân, các con sinh ra từ Trí của Brahma, Ngôi Ba. (GLBN III, 540)
b/ Các Ngài biểu lộ để phát triển Ngôi Hai. (GLBN I, 108)
c/ Phương pháp của các Ngài là biểu lộ ra ngoại cảnh.
3. Năng lượng được khơi hoạt lại phóng vào không gian.
a/ Chúng là sự tổng hợp còn ẩn giấu (GLBN I, 362)
b/ Chúng là toàn thể mọi biểu lộ (GLBN I, 470)
c/ Chúng là tiền vũ trụ (GLBN I, 152, 470)
+ Bảy cung năng lượng bảy cung vũ trụ có đặc tính chuyển động, chia làm 3 nhóm đặc trưng, nổi bật:
1. Nhóm 1 - Chuyển động xô thẳng, trong đó - Cung 1 (Cung chính): Chuyển động xô thẳng mạnh mẽ, không thể cản trở, như mũi tên/ viên đạn bay - Cung 7 (Cung phụ) : Chuyển động thẳng tiến, nhưng nhịp nhàng uyển chuyển như Ngựa lướt uyển chuyển
2. Nhóm 2 - Chuyển động xoay vòng, trong đó: - Cung 2 (Cung chính): Chuyển động tròn, đều đặn, vừa mức theo một hướng - Cung 4 (Cung phụ) : Chuyển động xoay vòng tới lui - Cung 6 (Cung phụ) : Xoay tròn một chiều mạnh mẽ, tuôn tràn chủ nghĩa lý tưởng nhiệt thành, sùng tín
3. Nhóm 3: Chuyển động zích zắc, vô phương, trong đó - Cung 3 (Cung chính): Rất năng động, đa năng, có thể cuồng loạn - Cung 5 (Cung phụ) : Hoạt động có chừng mực, dừng nghỉ (Suy nghĩ), chuyển động tiếp, ngừng lại ..v.v.. Xem: Tâm lý học nội môn 2 - minhtrietmoi.org
+ Như Lai - Tên gọi của một Đức Phật: Như là bất biến - Lai là tùy duyên
Trong Kinh Kim Cang nói: Bậc Như Lai, Không từ đâu đến, cũng không về đâu, nên gọi Như Lai. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Như Lai[5] là một trong mười danh hiệu của Đức Phật (Thông thường, mỗi Đức Phật đều có mười ngàn danh hiệu ... do chúng sinh không nhớ hết các danh hiệu ấy. Nên lại giảm xuống chỉ còn 10 danh hiệu). Ngoài Như lai còn là:
- Ứng cúng: xứng đáng được hưởng sự cúng dường của loài người và trời.
- Chánh biến tri: hiểu biết chân chính bao trùm khắp.
- Minh hạnh túc: Sự giác ngộ cũng như công hạnh hoàn toàn trọn vẹn.
- Thiện thệ thế gian giải [6]: vượt qua mọi kiến giải thế gian một cách tự tại.
- Vô thượng sĩ : Bậc không ai sánh bằng.
- Điều ngự trượng phu: Bậc trượng phu khéo điều phục chính mình.
- Thiên nhân sư: Thầy của trời và người
- Phật
- Thế Tôn
Tất cả các Đức Phật đều có mười danh hiệu này.
HT Tuyên Hóa cũng giảng Đức Phật to lớn thế nào, Ngài ngự ở đâu ...(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh)
+ Đức Phật có các Danh: Bạc Già Phạm/ Bà Già Phạm - Bà Già Bà - Bà Nga Phạ Đế ... (Nguồn: Tại đây)
+ Ai là đấng Bảo vương? Bảo vương chính là Đức Phật.
Thế nên với người tuyên bố, "Chúng ta đều là Phật!". Tôi bảo họ, "Anh là Phật? Đức Phật có tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông. Vậy anh có được bao nhiêu thân? Bao nhiêu trí? Bao nhiêu mắt? Bao nhiêu thần thông? Anh không thể giả mạo được."(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Đức Phật thành Phật - Được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề: ... Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Ðức Phật kia cũng ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế nầy: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc rất khó làm và ít có; ở trong cõi nước Ta Bà, trong đời ác năm trược: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này.
Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó! (Nguồn: Kinh A Di Đà)
+ Như Lai: ... bây giờ nếu tùy duyên tác động vào tâm chúng sinh, con người sẽ phát sinh ra những cảm giác vui buồn, hờn giận, thương ghét, tốt xấu, hơn thua, phải quấy… nhưng nếu chúng sinh biết xoay về bản thể chân thật của mình thì vui buồn tan biến, thương ghét không còn và tâm sẽ trở về với tự tánh thanh tịnh bất biến của nó.
Nói cách khác, Như là bất biến còn Lai là tùy duyên. Vì thế Như Lai là bất biến tùy duyên và cũng tùy duyên bất biến. Có tùy duyên bất biến nên chúng sinh mới có thể hóa giải vô minh phiền não để trở về sống với chơn tâm, tánh giác diệu minh của chính mình. (Nguồn: Xem mục Dùng Phật nhãn nhìn lên ....)
+ Cần xả bỏ tất cả các Pháp đã đạt mới mong Đạt Pháp cao hơn_Đức Phật:
+ Bảy Danh hiệu: Trích ngài A Nan hỏi Đức Phật...
Bạch Thế tôn, như trong các quả vị Bồ-đề, Niết-bàn, Chân như Phật tính, Am-ma-la thức, Không Như Lai tạng, Đại viên cảnh trí. Bảy danh hiệu ấy tên gọi tuy khác, mà thể tánh thanh tịnh viên mãn vững chắc như kim cương vương, thường trụ bất hoại. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương V)
+ Thế Tôn: Đức Phật dậy, còn thế nào gọi là Thế Tôn? Là người có thể biết hết các pháp đối trị vậy.
Lại nữa, ở thế gian ngôn ngữ bất đồng, nên người đời không hiểu được nhau, mà Phật thì hiểu biết tất cả, nên gọi Phật là Thế Tôn.
Lại nữa, như Lặc Tỷ Khưu nói, Nhị Thừa phàm phu tự nói đã chứng được các pháp, hoặc ưa nơi tĩnh mịch, hoặc thích thiền định, hay các pháp khác, nhưng giữ bí mật. Phật thì không thế, Phật chứng được các pháp, đều rủ lòng từ bi mà nói cho người khác nghe.
Lại nữa, vì Phật đã diệt trừ được tham, sân và si, nên gọi là Thế Tôn. ..... (Nguồn: Phẩm Ưu Ba Ly thứ tám)
+ Các quả vị A La Hán của Hàng Thanh văn tu:
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Trong Kinh Kim Cang đức Phật thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v... Chẳng biết thế nào là bốn câu kệ?
Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.
Tại sao? Chúng sanh thường mê không giác ngộ cho nên nhiều kiếp đọa lạc. Chư Phật thường giác ngộ chẳng mê cho nên thành Phật đạo. Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật, công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ: là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh.
Tại sao?
Nếu ngộ đặng Sắc không, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Dự lưu Tu đà hoàn;
Ngộ đặng Tâm không, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Nhứt lai Tư đà hàm;
Ngộ đặng Tánh không, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất lai A na hàm;
Ngộ đặng Pháp không, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Vô sanh A la hán.
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Quả vị A La Hán của Hàng Thăn văn: Gồm hai loại hữu lậu và vô lậu học
+ Hàng Hữu lậu: Trích Đức Phật giảng cho ngài A Nan trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật trả lời: Cũng là giúp cho hàng hữu lậu trong tương lai chứng được quả vị bồ-đề.
HT Tuyên Hóa giảng:
“Hàng hữu lậu trong tương lai” bao gồm cả chúng ta, những người đang ngồi học trong pháp hội nầy. Chúng ta bây giờ chính là “Hàng hữu lậu trong tương lai” được đề cập lúc ấy. Ai cũng phải trải qua quá trình “hữu lậu” trước khi được công nhận là chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán. “Hữu lậu” có nghĩa là những điều sai lầm. Chẳng hạn, nếu có ai thích uống rượu, người ấy được gọi là tửu lậu, nếu có ai thích hút thuốc, người ấy được gọi là yên lậu, nếu có ai thích ăn ngon, người ấy được gọi là thực lậu, nếu có ai thích mặc đẹp, người ấy được gọi là y lậu. Nếu những ví dụ nầy chưa được rõ ràng, tôi sẽ nói theo cách khác. Nói chung, bất luận quý vị thích cái gì nhất thì đó gọi là lậu.
Quý vị sẽ có ý kiến: “Tôi thích ngồi thiền nhất, nên được gọi là thiền lậu chăng?”
Điều ấy khác hẳn. Thiền định giúp quý vị hướng thượng. Khi tôi nói đến cái gì quý vị thích nhất, đó là những thứ gì làm quý vị chìm đắm. Nếu quý vị thích những thứ khiến mình bị chìm đắm, thì đó gọi là lậu.
Hữu lậu không chỉ có nghĩa là những việc quý vị đã làm trong quá khứ. Nếu có một vọng niệm cứ khuấy động trong tâm, quý vị nghĩ rằng “ta vốn đã có sai lầm như vậy, nay ta đã thay đổi, nhưng ta vẫn nghĩ về nó và muốn tái phạm lại.” Đó là một ý tưởng hữu lậu. Nên nó thật là mãnh liệt. Lúc ấy quý vị chỉ biết để mặc cho vọng niệm khuấy động tâm mình, và quý vị sẽ bị chìm đắm. Còn nếu tâm quý vị bất động, thì quý vị sẽ được thăng hoa.
Quả vị thứ nhất, thứ hai, và thứ ba của hàng A-la-hán chưa được gọi là vô lậu, khi chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán rồi mới được gọi là vô lậu.
Làm sao để chứng được quả vị bồ-đề? Quý vị cần phải đạt được vô lậu. Nếu quý vị còn hữu lậu, thì không thể nào mong chứng được quả vị bồ-đề. Quý vị có muốn thử chẳng? Quý vị đã là kẻ hữu lậu vì quý vị đã thử từ vô thuỷ đến nay rồi. Thế nên đừng tiếp tục mê mờ nữa. Đừng hành xử như thể chưa từng bao giờ nghe tôi giảng, rồi cho rằng: “Có lẽ Sư phụ chẳng đề cập đến sai trái của mình. Ở đây có rất nhiều người nên chắc chắn sư phụ nói về một người nào đó. Lỗi lầm nhỏ nhặt của mình đâu có vấn đề gì nghiêm trọng. Ta còn yêu thích thói quen ấy và chưa muốn từ bỏ nó. Sao vậy? Vì sư phụ chưa đề cập đến mình. Có lẽ sư phụ nói đến người nào khác. "Nhưng quý vị không nên tự mình làm trò ngu xuẩn, vì quý vị sẽ đánh mất cơ hội thành Phật. Từ vô thuỷ đến nay, quý vị đã trôi lăn sinh tử trong cõi ta-bà nầy, sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, lang thang mãi không thấy lối quay về. Thật là điên đảo. Nay quý vị đã gặp được Phật pháp, quý vị nên nhanh chóng quay đầu, dũng mãnh và tinh tấn thức tỉnh. Đừng tiếp tục rong ruổi lang thang mà quên đường về. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Quả vị A La Hán của Hàng Thanh văn tu hành Phật đạo
Nay xin giới thiệu tóm tắt các pháp của ba thừa để quý vị mới tu học tham khảo.
I. Pháp Tứ đế của hàng La-hán.
Thanh văn, hai chữ này nghĩa là nghe lời thuyết giảng của Ðức Thích-ca về pháp Tứ đế mà ngộ đạo (thanh là thanh âm, văn là nghe). Thanh văn hay quả A-la-hán, gồm bốn quả vị.
1. Thứ nhất là sơ quả a-la-hán, quả này đã đoạn trừ kiến hoặc của tam giới, nhập vào "giòng pháp tánh của thánh nhân, nghịch với giòng lục trần của phàm phu;" quả này còn phải chịu bẩy lần sanh tử nữa.
2. Quả thứ nhì a-la-hán thì đã đoạn trừ kiến hoặc của tam giới, cũng đoạn trừ luôn sáu phẩm đầu về tư hoặc của tam giới. Quả này phải chịu hai lần sanh tử nữa, một lần sanh ở tầng trời, một lần ở thế gian.
3. Quả thứ ba a-la-hán thì đoạn trừ được ba phẩm sau về tư hoặc của dục giới, và hãy còn một lần sanh tử nữa, nhưng không sanh vào tầng dục giới mà sanh vào các tầng sắc giới hay vô sắc giới.
4. Quả thứ tư a-la-hán thì đoạn trừ hết tám mươi mốt phẩm tư hoặc của tam giới, không còn bị sanh tử nữa; nói cho đúng là không bị phân đoạn sanh tử, nhưng vẫn còn trong biến dịch sanh tử.
Hàng Thanh văn tuy gọi là ngộ đạo, nhưng ngộ đạo cũng có loại nông sâu khác nhau, có loại rốt ráo có loại không rốt ráo, nghĩa là trình độ không đồng đều. Pháp tu của hàng Thanh văn là khổ, tập, diệt, đạo. Quán về khổ thì hết thảy là khổ. Khổ chia ra tam khổ và bát khổ. Pháp tu của họ là đoạn tập, mộ diệt, tu đạo (đoạn tập khí, mến mộ Niết-bàn và tu đạo). Ba yếu tố này liên quan mật thiết với nhau, như khổ thì sanh ra phiền não và có phiền não thì phải đoạn trừ. Ðoạn trừ như thế nào? Phải đoạn trừ kiến hoặc, tư hoặc và các phiền não lâu nay tích tụ lại. Phải hâm mộ pháp Niết-bàn, tức bốn tánh của nó là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (Niết-bàn tứ đức). Từ bến sanh tử qua giòng phiền não để đến bờ bên kia, là cả một quá trình tu tập ba mươi bẩy phẩm đạo mới thành công được. Trong các pháp này có bát chánh đạo.
Những pháp này chung cho cả Ðại Tiểu thừa. (Nguồn: Khai thị 4 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hàng A La Hán - Hàng Nhị Thừa: Trích đoạn ngài Phú Lâu Na hỏi Đức Phật trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm
HT Tuyên Hóa giảng: Lậu chính là phiền não. Những thứ phiền não và tập khí mà A-nan và các vị đã chứng quả A-la-hán như ngài vẫn chưa trừ sạch hết được. Đó được gọi là tập khí hữu lậu còn lưu lại từ kiếp trước. Nó nhiều hay ít tuỳ theo nghiệp. Phải chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán mới được gọi là chứng quả vô lậu.
Đó là lý do Đức Phật gọi họ là “định tánh Thanh văn”– hàng A-la-hán– “tiêu nha bại chủng” để quở trách tính tự mãn của họ. Họ không có một động lực để tiến tu. Vừa chứng được sơ quả hay nhị quả A-la-hán, họ chẳng mong tiến tu nữa. Họ tự thỏa mãn một cách tiêu cực. Họ quyết định “Ở đây quá tốt rồi.”
Đức Phật còn giải thích cho tất cả những vị A-la-hán chưa chứng được nhân không và pháp không, nhưng có tâm hướng về thượng thừa. Điều nầy chỉ cho những vị A-la-hán chưa chứng được nhân không và pháp không, nhưng hồi tâm từ tiểu thừa hướng về Đại thừa. Đức Phật sẽ giảng giải cho tất cả mọi người trong chúng hội đều được nghe.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sắp sửa giảng bày chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa, pháp vi diệu thù thắng trong thù thắng vi diệu, để khiến cho hàng A-la-hán chứng được quả vô lậu, để họ đạt được quả vị vô học. Chứng được quả vị ‘vô lậu’ có nghĩa là trừ sạch tập khí của chính mình, không còn phiền não, căn bản vô minh không còn nữa. Thế nên một người đã phá trừ được căn bản vô minh thì dứt sạch phiền não. Do phiền não và căn bản vô minh vốn không có thực, nên chúng ta đừng xem nó là ghê gớm dữ dằn lắm; nếu chúng thật có hình tướng, thì chắc chúng đã tràn ngập cả hư không pháp giới nầy.
Xe cừu và xe nai là dụ cho hàng Nhị thừa/ A La Hán. Xe trâu là dụ cho hàng Bồ-tát Đại thừa. Xe trâu trắng lớn là dụ cho Phật thừa, có thể chuyên chở mọi chúng sinh vượt qua dòng chảy phiền não, từ bờ sinh tử bên nầy sang bờ niết-bàn bên kia. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)
+ Các Giai Vị: Chư Phật được gọi là Diệu giác, và chư Bồ-tát được gọi là Đẳng giác; Bồ-tát cũng có đủ năng lực đạt đến Diệu giác. Có năm mươi lăm giai vị[52] từ Thanh văn, Bồ-tát thẳng đến quả vị Diệu giác. Năm mươi lăm giai vị sẽ được giảng giải trong phần sau của Kinh văn.
Thanh Văn là tiểu thừa. Bích Chi Phật là trung thừa. Bồ Tát là đại thừa.(Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Năm mươi hai Bồ-tát ở đây biểu tượng cho thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác, diệu giác – Năm mươi hai giai vị tu chứng của hàng Bồ-tát. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.5)
+ Bồ Tát: Pháp Vương Tử có nghĩa là Bồ Tát (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Quyển 5)
+ Bồ Tát: Nghĩa đen, là Vị mà tâm thức trở thành thông tuệ hay có tuệ giác. Các Ngài chỉ cần thêm một lần lâm phàm nữa là trở thành Đức Phật hoàn thiện. Như được dùng trong các sách này, Bồ Tát là danh xưng chỉ chức vụ mà hiện nay Đức Di Lạc đang giữ. Ở Phương Tây, Ngài được biết như là Đức Chirst. Chức vụ này có thể được diễn dịch như là chức vụ của Đức Chưởng Giáo Thế Gian. Đức Bồ Tát là vị Lãnh Đạo các tôn giáo trên thế gian, là Chân Sư của các Chân Sư và của các Thiên thần. (ĐĐNLVTD, 216)
+ Đức Bồ-tát - Ngài là một trong 3 vị - Tam vị nhất thể của Huyền giai tinh thần: Nhóm hai có vị Trưởng ngành chủ trì là Đức Chưởng giáo Thế gian. Ngài là Đấng cao cả giữ toàn bộ Phương diện Bác ái của thiên tính. Ngài có danh hiệu là Đức Christ, Đức Bồ-tát, Đức Di Lạc, và là Đấng mà người Hồi giáo đang mong chờ với danh hiệu Imam Mahdi. Ngài sẽ tái lâm giữa nhân loại như đã định. Ngài là vị Chúa cao cả của Bác ái và Từ bi, cũng giống như vị tiền nhiệm của Ngài là Đức Phật, vị Chúa của Minh triết. Ngài hiện là Đức Chưởng giáo Thế gian, Vị Thầy của các Chân sư. (Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Quả vị Bồ Tát và Bích Chi Phật:
- Bồ-tát (Bodhisattva), Hán dịch là “hữu tình giác” là người đã giác ngộ, còn gọi là “giác hữu tình” là người giúp cho chúng sinh được giác ngộ.” Dù người ta có đối xử xấu với bồ-tát ra sao, bồ-tát vẫn không chống đối lại họ. Bồ-tát không bao giờ tức giận, không bao giờ nổi nóng. Đạo tâm của bồ-tát rộng lớn và kiên định. Bồ-tát còn được gọi là bậc “đại sĩ”, vì họ đã có phát nguyện rộng lớn để trở thành một vị bồ-tát ......
- Bích-chi Phật là những vị Độc giác, giác ngộ nhờ tu tập pháp mười hai nhân duyên. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm-HT Tuyên Hóa giảng)
+ Vị Bồ Tát - Hạnh Bồ Tát: Do nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ – tát thường siêng năng làm các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề. Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ – tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự cho rằng:
“Tôi đã cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”.
Chính vì chư vị Bồ – tát không có tâm niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng, để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ được giải thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô thượng bồ - đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm. (Nguồn: Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng câu 23. Ma ha bồ đề tát đoả trong Thần Chú Đại Bi)
+ Tướng Trạng của Tâm
Nhưng tâm nguyện vốn có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không chỉ ra thì làm sao biết mà xu hướng đến. Nay xin vì đại chúng mà ước lược trình bày. Sự phát tâm lập nguyện gồm tám tướng là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên. Như thế nào là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên?
Ðời có kẻ tu hành mà từ trước đến nay chỉ một bề hành theo sự tướng, không biết tham cứu tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc mong cầu lợi dưỡng, hoặc ưa thích hư danh, hoặc ham dục lạc hiện đời, hoặc mong cầu phước báo mai sau, phát tâm như vậy gọi là tà.
Ðã không mong cầu hư danh lợi dưỡng, lại không ham quả báu dục lạc đời sau, chỉ vì mong liễu thoát sinh tử, vì chứng đắc Bồ đề, phát tâm như vậy gọi là chánh.
Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh, nghe con đường thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp sợ, thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận đỉnh, như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột nóc, phát tâm như vậy gọi là chân.
Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong trược ngoài thanh, trước siêng năng sau biếng lười, dù có tâm tốt phần lớn cũng bị danh lợi xen lẫn, dù tu thiện pháp phần nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm, phát tâm như vậy gọi là ngụy.
Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành, phát tâm như vậy gọi là đại.
Xét xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người, phát tâm như vậy gọi là tiểu.
Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh mình nguyện độ, có Phật đạo nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tiêu mất, phát tâm như vậy gọi là thiên. Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo nên nguyện viên thành, không thấy một pháp nào lìa tâm mà riêng có, lấy cái tâm hư không phát cái nguyện như hư không, làm cái hạnh như hư không, chứng cái quả hư không, cũng không có cái tướng hư không có thể đắc được, phát tâm như vậy gọi là viên.
Biết tám tướng trạng khác nhau trên đây là biết quán xét kỹ càng, biết quán xét kỹ càng thì biết lấy bỏ, biết lấy bỏ thì có thể phát tâm. Quán xét như thế nào? Là xem sự phát tâm của ta, trong tám tướng trạng trên đây, là tà hay chánh, chân hay ngụy, đại hay tiểu, thiên hay viên. Lấy bỏ như thế nào? Là bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên, lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như vậy mới được gọi là chân chánh phát Tâm Bồ đề.
Sự phát tâm lập nguyện gồm tám tướng: Tướng trạng này tổng quát thì có tám loại. Tám loại là gì ? là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên: Có tà, có chánh, có chân có ngụy, có đại có tiểu, có thiên có viên.
Thế nào gọi là tà? Chính là lòng ích kỷ, chỉ biết lợi ích riêng mình.
Thế nào gọi là chánh? Chính là không ích kỷ.
Thế nào gọi là chân? Chính là lợi người không lợi mình.
Còn ngụy chính là lợi mình không lợi người.
Quý vị dùng sáu đại tông chỉ (1) để xem thì có thể hiểu rõ.
Tiểu chính là vì mình, đại là vì đại chúng.
Nên nói “Vì người không vì mình, cuối cùng là Phật thể; vì mình không vì đại chúng, rốt cuộc uổng phí cuộc đời“. Dù có bỏ cả sanh mạng mình, cũng không có ích dụng gì. Ðại là phát tâm quảng đại, cũng chính là hành Bồ tát đạo. Vậy nếu không phát đại tâm mà phát tiểu tâm thì sao ? Chính là không hành Bồ tát đạo, ích kỷ tự lợi, tranh giành, tham lam, ham cầu, chỉ tính toán cho mình, đó đều là tiểu. Nếu lo toan cho đại chúng, chí công vô tư, chánh trực không thiên vị, khắp cùng cúng dường, lấy pháp giới làm thể, lấy hư không làm dụng, đó gọi là đại.
Thiên là thiên về một bên, vào một chỗ nhỏ, không có viên dung. Viên là bao la vạn hữu, chính là viên mãn Bồ đề, không có chỗ nào mà không bao bọc, chẳng có chỗ nào mà không dung chứa. Tôi có một bài kệ tụng có thể dùng để hình dung cái “viên” này :
Pháp giới là thể có chi ngoài,
Hư không là dụng đều dung chứa.
Vạn vật bình đẳng lìa phân biệt,
Một niệm không sanh bặt ngữ ngôn.
Viên, chính là “Pháp giới là thể có chi ngoài“, lấy pháp giới làm thể, thì có cái gì ở bên ngoài pháp giới đâu ?
“Hư không là dụng đều dung chứa” hư không là một đại dụng thì không có gì không bao bọc bên trong.
“Vạn vật bình đẳng lìa phân biệt”, đối với vạn sự vạn vật đều xem bình đẳng.
“Một niệm không sanh bặt ngữ ngôn“, một niệm không sanh đường ngôn ngữ tuyệt, đây có thể nói là “viên” ! Ở đoạn văn sau Ðại sư Tỉnh Am sẽ giải thích “thiên viên”, ở đây tôi chiếu theo ý nghĩa đại khái của chữ để giải thích mà thôi. Bài “Văn khuyên phát tâm Bồ đề” của Ðại sư Tỉnh Am, nếu kết hợp với sáu đại tông chỉ của chúng ta, thì như áo trời không thấy vết chỉ may, thật là hoàn hảo toàn mỹ!
Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh, nghe con đường thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp sợ, thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận đỉnh, như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột nóc, phát tâm như vậy gọi là chân. Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong trược ngoài thanh, trước siêng năng sau biếng lười, dù có tâm tốt phần lớn cũng bị danh lợi xen lẫn, dù tu thiện pháp phần nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm, phát tâm như vậy gọi là ngụy. Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành, phát tâm như vậy gọi là đại. Xét xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người, phát tâm như vậy gọi là tiểu. (Nguồn: Văn Khuyên Phát Tâm Bồ Đề tu Bồ Tát Đạo) và Chính văn (Nguồn: Khuyên Phát Tâm Bồ Đề - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bài Văn Khuyên Phát Tâm Bồ Ðề :
- Khuyên phát, là chúng ta vốn chưa phát tâm, nay Ðại sư Tỉnh Am dùng ngôn ngữ vô cùng hợp lý, hợp pháp, để khuyên nhắc khuyến khích chúng ta, khiến chúng ta phát tâm. Phát tâm gì ? Chính là phát tâm Bồ đề.
I - Phần tựa: Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quý vị thương xót, lưu ý một chút mà nghe và xét cho.
Từng nghe, cửa yếu để vào đạo thì sự phát tâm làm đầu, việc khẩn cấp tu hành thì sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập thì có thể độ chúng sanh, tâm phát thì Phật đạo có thể thành. Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập cái nguyện vững bền kiên cố, thì dù trải qua nhiều kiếp như số vi trần, cũng vẫn y nhiên ở trong vòng luân hồi. Dù có tu hành cũng chỉ là uổng công lao nhọc, khổ sở một cách vô ích. Nên kinh Hoa Nghiêm nói: "Nếu quên mất tâm Bồ đề mà tu các pháp lành, gọi đó là nghiệp ma". Quên mất mà còn như thế, huống chi chưa phát ư? Cho nên muốn học Như lai thừa thì trước phải phát Bồ tát nguyện, không thể chậm trễ vậy.
Nhưng tâm nguyện vốn có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không chỉ ra thì làm sao biết mà xu hướng đến. Nay xin vì đại chúng mà ước lược trình bày. Sự phát tâm lập nguyện gồm tám tướng là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên. Như thế nào là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên?
Ðời có kẻ tu hành mà từ trước đến nay chỉ một bề hành theo sự tướng, không biết tham cứu tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc mong cầu lợi dưỡng, hoặc ưa thích hư danh, hoặc ham dục lạc hiện đời, hoặc mong cầu phước báo mai sau, phát tâm như vậy gọi là tà.
Ðã không mong cầu hư danh lợi dưỡng, lại không ham quả báu dục lạc đời sau, chỉ vì mong liễu thoát sinh tử, vì chứng đắc Bồ đề, phát tâm như vậy gọi là chánh.
Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh, nghe con đường thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp sợ, thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận đỉnh, như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột nóc, phát tâm như vậy gọi là chân.
Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong trược ngoài thanh, trước siêng năng sau biếng lười, dù có tâm tốt phần lớn cũng bị danh lợi xen lẫn, dù tu thiện pháp phần nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm, phát tâm như vậy gọi là ngụy.
Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành, phát tâm như vậy gọi là đại.
Xét xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người, phát tâm như vậy gọi là tiểu.
Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh mình nguyện độ, có Phật đạo nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tiêu mất, phát tâm như vậy gọi là thiên. Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo nên nguyện viên thành, không thấy một pháp nào lìa tâm mà riêng có, lấy cái tâm hư không phát cái nguyện như hư không, làm cái hạnh như hư không, chứng cái quả hư không, cũng không có cái tướng hư không có thể đắc được, phát tâm như vậy gọi là viên.
Biết tám tướng trạng khác nhau trên đây là biết quán xét kỹ càng, biết quán xét kỹ càng thì biết lấy bỏ, biết lấy bỏ thì có thể phát tâm. Quán xét như thế nào? Là xem sự phát tâm của ta, trong tám tướng trạng trên đây, là tà hay chánh, chân hay ngụy, đại hay tiểu, thiên hay viên. Lấy bỏ như thế nào? Là bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên, lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như vậy mới được gọi là chân chánh phát Tâm Bồ đề.
II- Phần Chánh tông:
Tâm Bồ đề này là vua trong các pháp lành, phải có nhân duyên mới phát khởi được. Nhân duyên ấy, nay nói tóm lược thì có mười thứ là : 1 là nhớ ơn sâu nặng của Ðức Phật, 2 nhớ ơn cha mẹ, 3 nhớ ơn sư trưởng, 4 nhớ ơn thí chủ, 5 nhớ ơn chúng sanh, 6 nhớ khổ sanh tử, 7 vì tôn trọng linh tánh của mình, 8 sám hối nghiệp chướng, 9 cầu sanh Tịnh độ, 10 vì mong muốn làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài.
Thế nào là nhớ ơn nặng của Phật? Ðức Phật Thích Ca Như Lai của ta, lúc mới phát tâm, đã vì chúng ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực. Khi ta tạo nghiệp, Ðức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không chịu tin theo. Ta đọa địa ngục, Phật càng thương xót, muốn thay ta chịu lấy khổ sở, nhưng vì nghiệp ta quá nặng, không thể cứu vớt. Ta sinh làm người, Phật dùng phương tiện khiến cho ta gieo trồng căn lành.
Ðời đời kiếp kiếp, Phật luôn theo ta, lòng không tạm bỏ chốc lát. Khi Phật xuất thế ta còn trầm luân, nay được thân người Phật đã diệt độ. Tội lỗi gì mà sinh vào thời mạt pháp, phước đức nào lại được dự vào hàng ngũ xuất gia, nghiệp chướng gì mà không thấy được thân vàng của Phật, may mắn nào lại được cung nghinh xá lợi của Ngài. Suy nghĩ như vậy mới thấy, nếu đời quá khứ không gieo trồng căn lành thì làm sao được nghe Phật pháp, không nghe Phật pháp thì làm sao được biết thường thọ ân đức của Phật. Ân đức này, núi non cũng khó sánh bằng. Nếu không phát tâm quảng đại, hành Bồ tát đạo, xây dựng hộ trì Phật pháp, cứu độ chúng sanh, thì dù cho tan xương nát thịt cũng không thể đền đáp được. Ðó là nhân duyên thứ nhất của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là nhớ ơn cha mẹ? Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc, mười tháng mang thai ba năm bú mớm, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt, mới được nên người. Mong ta tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Mà nay ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn, đồ ngon vật ngọt đã không phụng dưỡng, cúng tế chạp tảo càng không chu tất. Cha mẹ còn sống, ta đã không thể nuôi dưỡng, khi cha mẹ qua đời, ta lại không thể hướng dẫn thần thức. Ðối với phương diện thế gian là sự tổn lớn, đối với phương tiện xuất thế lại không có ích chi. Hai đường đều tổn thất thì tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế, chỉ có có cách trong trăm đời ngàn kiếp thường hành Phật đạo, mười phương ba đời khắp độ chúng sanh. Ðược như thế thì không phải chỉ cha mẹ một đời, mà song thân nhiều đời nhiều kiếp đều được độ thoát; không phải chỉ cha mẹ một người, mà song thân tất cả mọi người cùng được siêu thăng. Ðó là nhân duyên thứ hai của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là nhớ ơn sư trưởng? Cha mẹ tuy sinh dưỡng sắc thân ta, nhưng nếu không có sư trưởng thế gian thì không hiểu biết lễ nghĩa; không có sư trưởng xuất thế thì không hiểu Phật pháp.
Không hiểu biết lễ nghĩa thì chẳng khác gì cầm thú, Phật pháp không hiểu thì cũng như người phàm tục. Nay ta được biết chút ít về lễ nghĩa, được hiểu sơ lược về Phật pháp, ca sa trang nghiêm đắp thân, giới pháp nhuận thấm thân mình, được như thế là nhờ ân đức sâu nặng của sư trưởng. Nếu chỉ cầu quả nhỏ thì chỉ có lợi riêng cho bản thân mình mà thôi. Nay phải phát tâm đại thừa, phổ nguyện lợi ích hết thảy chúng sanh. Như thế thì sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế đều được lợi ích. Ðó là nhân duyên thứ ba của sự phát Tâm Bồ đề.
Nhớ ơn thí chủ là thế nào? Chúng ta ngày nay, mọi thứ cần dùng hàng ngày đâu phải của mình. Cơm cháo hai buổi, quần áo bốn mùa, tật bịnh cần dùng, thân miệng tiêu xài, đều xuất từ sức lực của kẻ khác mà đem đến cho ta sử dụng. Người nhọc sức cày cấy, còn khó nuôi miệng, ta ngồi không mà ăn, vẫn chưa vừa ý. Kẻ dệt đan mãi hoài mà vẫn gian nan cực khổ, còn ta an nhàn y phục thừa thãi, há không thương tiếc? Họ nhà tranh cửa lá, cực nhọc suốt đời, còn ta phòng lớn sân rộng, thong thả cả năm. Ðem cái cực nhọc của họ cung phụng cái an nhàn cho ta, làm sao an lòng. Ðem cái lợi ích của người để cung cấp sự no ấm cho thân xác mình, có hợp lý chăng? Do đó, phải vận dụng cả hai thứ bi trí, trang nghiêm cả hai mặt phước huệ, để thí chủ nhờ ơn, chúng sanh được phước, nếu không thì dù chỉ là một hạt gạo, một tấc vải, vẫn phải có phần trả nợ. Ðó là nhân duyên thứ tư của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là nhớ ơn chúng sanh? Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp thay đổi làm cha mẹ, kia đây đều có ơn với nhau. Nay tuy cách đời hôn mê, không nhớ biết nhau, nhưng lấy lý mà suy ra thì làm sao không đem sức báo đáp! Ngày nay đội lông mang sừng, nhưng biết đâu kiếp trước ta không phải là con cái của chúng. Hiện tại là các loài bò bay máy chạy, nhưng biết đâu quá khứ chúng đã không phải là cha của ta. Thường thường nhìn thấy thơ ấu mà lìa xa cha mẹ thì lớn lên đã quên hết hình dáng song thân, huống chi cha mẹ con cái đời trước, kiếp trước là họ Trương hay là họ Vương, ngày nay khó mà nhớ rõ. Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngư trong ngạ quỉ, thống khổ ai biết, đói khát kêu ai. Tuy ta không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu độ. Ngoài Kinh ra nơi đâu bày tỏ được việc này, không Phật chẳng ai chỉ rõ cảnh ấy. Còn kẻ tà kiến làm sao có đủ sức mà biết được. Cho nên Bồ tát quán sát sâu kiến thấy toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai, thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng. Ðó là nhân duyên thứ năm của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là nhớ khổ sinh tử? Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp đến nay, cứ ở mãi trong vòng luân hồi sinh tử, chưa được giải thoát. Khi sanh trong loài người, lúc ở trên thiên cảnh, khi ở thế giới này, lúc ở phương khác, ra vào đủ cách, lên xuống liền liền. Thoáng chốc làm trời, thoáng chốc làm người, thoáng chốc sanh vào cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Cửa đen sáng ra chiều về, hang sắt mới tạm lìa khỏi lại bước vào. Lên núi đao thì thân thể không còn mảnh da nguyên vẹn, vào rừng kiếm thì tim gan cũng bị cắt xả. Sắt nóng không hết đói, mà nuốt vào thì ruột gan cháy nát, đồng sôi đâu khỏi khát, mà uống vào thì xương tan thịt nát. Cưa bén cắt thân, cắt đứt ra là liền lại, gió lạ thổi vào thì chết rồi lại sống ngay. Trong thành lửa dữ chỉ nghe tiếng thét gào thảm thiết, trên bàn chưng nướng toàn nghe âm thanh đau khổ thống thiết. Băng tuyết đông lại thì như sen xanh kết nhụy, máu thịt rã ra thì như sen đỏ mới nở. Ở trong địa ngục, một đêm chết sống thường đến cả vạn lần, một buổi thống khổ mà như trăm năm ở nhân gian. Mãi hoài làm cho ngục tốt mệt nhọc, nhưng có ai chịu nghe lời Diêm vương khuyên bảo. Khi thọ quả báo mới biết đau khổ, dẫu hối hận cũng đâu có kịp; lúc thoát khỏi cảnh khổ thì lại quên ngay, vẫn tạo nghiệp y như cũ. Ðánh con lừa đến đổ máu, đâu biết đó là cái bi thảm của mẹ mình; lôi con heo đến lò thịt, nào hay đích thị cái đau thương của cha ta.
Ăn thịt con mà không biết, Văn vương mà còn như thế; ăn thịt cha mẹ mà không hay, phàm phu đều như vậy. Kiếp trước thương yêu mà đời nay trở thành oan gia, ngày xưa là giặc là thù mà ngày nay trở thành ruột thịt. Quá khứ là mẹ mà hiện tại là vợ, túc thế là cha mà hiện tiền là chồng. Nếu có cái trí túc mạng biết được nhân quả đời trước thì thật đáng hổ đáng thẹn, nếu dùng con mắt thiên nhãn để nhìn thì quả đáng cười đáng thương.
Bị bao bọc trong rừng dơ bẩn mười tháng thì thật khó chịu, ở chỗ máu mủ mà khi bị dốc xuống thì thật là đáng thương. Khi nhỏ thì biết chi, đông tây trước sau cũng chẳng phân biệt rõ, lớn lên hiểu biết, tham lam dục vọng bèn tăng trưởng. Nhưng khoảnh khắc là già bịnh truy tầm, chốc lát mà vô thường lại đến. Bấy giờ, gió với lửa giao tranh, tâm thức bấn loạn trong đó, tinh huyết đã kiệt lực, da thịt teo khô từ ngoài, không một sợi lông nào mà không như bị chích đốt, không một kẽ huyệt nào mà không như bị cắt xả. Con rùa đem nấu, sự thoát vỏ của nó còn dễ; thần thức lúc tàn, sự thoát xác của nó thật là quá khó.
Tâm không phải thường trụ nên giống như thương khách bôn ba giong ruổi mọi nơi, thân không có hình dáng cố định nên khác nào phòng ốc thường dời đổi. Vi trần của đại thiên thế giới cũng khó sánh thân luân hồi, nước đầy trong bốn biển vẫn không bằng lệ biệt ly. Xương mà chất thì hơn núi cao, thây nằm ngang dọc thì nhiều hơn đại địa. Giả sử không được nghe lời Phật thì việc ấy ai thấy ai nghe, chưa được đọc văn Kinh thì lý này ai hay ai biết. Vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê như cũ, chỉ e rằng muôn kiếp ngàn đời một lần sai lầm là trăm lần sai lầm. Thân người khó được mà dễ mất, giờ tốt dễ trôi mà khó kéo. Rồi đường hướng mịt mờ, biệt ly dài dặc, ác báo tam đồ tự mình phải chịu, thống khổ không nói hết được, mà ai chịu thay. Trình bày đến đây, há chẳng lo sợ sao! Cho nên hãy dứt nguồn sinh tử, vượt bể ái dục, mình người cùng siêu thoát, đồng lên bờ giác. Từ vô lượng kiếp cho đến nay quan trọng là ở chỗ này. Ðó là nhân duyên thứ sáu của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là trọng linh tánh của mình? Tâm hiện tiền của chúng ta cùng với đức Thích Ca Như Lai không hai không khác. Vậy mà tại sao Thế Tôn từ vô lượng kiếp đã sớm thành chánh giác, còn chúng ta thì vẫn còn là phàm phu hôn mê điên đảo. Lại nữa Ðức Phật Thế Tôn thì có vô lượng thần thông, trí huệ, công đức trang nghiêm, còn chúng ta chỉ có vô biên nghiệp chướng phiền não, sinh tử buộc ràng. Tâm tánh là một mà vì mê ngộ nên cách xa một trời một vực. Lặng đi mà nghĩ mới thấy hổ thẹn. Ví như ngọc báu vô giá vùi xuống bùn dơ mà xem như ngói gạch, không chút thương tiếc quí trọng. Vì thế hãy dùng vô lượng thiện pháp mà đối trị vô biên phiền não. Tu đức có công, thì tánh đức mới lộ. Bấy giờ thì như ngọc báu được rửa, treo trên phướn cao, ánh sáng rực rỡ, chói lấp tất cả. Thế mới gọi là không uổng công Ðức Phật giáo hóa, không phụ tánh linh của mình. Ðó là nhân duyên thứ bảy của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là sám hối nghiệp chướng? Kinh dạy: "Phạm một tội kiết la cũng phải đọa địa ngục bằng năm trăm tuổi thọ của bốn Thiên vương. Kiết la là tội nhỏ mà còn bị quả báo đến thế, huống chi tội nặng, quả báo thật khó tả. Nay chúng ta, mỗi cử chỉ động tác hằng ngày, hằng trái với giới luật, lúc ăn lúc uống thường phạm vào thi la. Một ngày tội lỗi đã phạm, cũng đã vô lượng, huống chi trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi đã phạm khó mà nói hết. Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì mười người đã có đến chín người phạm, phát lộ thì ít mà che giấu lại nhiều. Ngũ giới là giới của Ưu bà tắc mà còn không giữ gìn đầy đủ, huống chi các giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát, thì không cần nói đến vậy.
Hỏi cái tên thì nói "Tôi là Tỳ kheo", hỏi cái thật thì hãy còn chưa đủ làm Ưu bà tắc, như thế mà không xấu hổ sao! Phải biết, giới luật của Phật không thọ thì thôi, thọ thì không được hủy phạm, vì không phạm thì thôi, phạm thì cuối cùng nhất định bị đọa lạc. Trừ phi cảm thương thân mình, thân người, lại xót xa cho mình và kẻ khác, thân và khẩu cùng tha thiết, lệ rơi theo tiếng, khắp cùng với chúng sanh khẩn cầu sám hối, nếu chẳng thế thì quả báo ác ngàn đời muôn kiếp cũng khó tránh khỏi. Ðó là nhân duyên thứ tám của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là cầu sinh Tịnh độ? Ở cõi này tu hành thì sự tiến đạo rất khó khăn, vãng sinh cõi kia thì sự thành Phật cũng rất dễ dàng. Dễ dàng nên một đời đã có thể đạt đến, khó nên nhiều kiếp vẫn chưa thành tựu. Do đó mà thánh ngày xưa, hiền ngày trước, người người xu hướng; kinh cả ngàn, luận cả vạn, chỗ chỗ chỉ qui. Sự tu hành trong thời kỳ mạt pháp này, không có pháp nào vượt qua pháp môn này. Nhưng kinh đã nói : " Căn lành nhỏ thì khó được vãng sanh, phước đức nhiều mới chắc chắn đến được". Nói phước đức nhiều thì không chi bằng sự chấp trì danh hiệu, nói căn lành lớn thì không chi bằng sự phát tâm quảng đại. Vì thế tạm trì danh hiệu Phật hơn cả trăm năm bố thí, một niệm phát tâm Bồ đề rộng lớn vượt hơn cả sự tu hành trong nhiều kiếp. Vì niệm Phật vốn mong thành Phật, vậy tâm lớn không phát thì niệm Phật để làm chi; còn phát tâm vốn để tu hành, vậy Tịnh độ không sanh thì có phát cũng dễ thối chuyển. Cho nên gieo hạt giống Bồ đề, cày bằng lưỡi cày niệm Phật, thì đạo quả tự nhiên lớn lên; ngồi chiếc thuyền đại nguyện, vào trong bể cả Tịnh độ, thì Tây phương Cực Lạc quyết định vãng sanh. Ðó là nhân duyên thứ chín của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài? Ðức Thế Tôn của ta, từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ đề, Ngài đã làm việc khó làm, nhẫn sự khó nhẫn, nhân tròn, quả mãn, mới được thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hóa tròn đầy, nhập vào Niết bàn. Nay thì thời kỳ Chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp. Giáo pháp còn đó mà không người hành trì, tà chánh không phân, thi phi lẫn lộn, tranh giành nhân ngã, mãi chạy theo danh lợi. Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên hạ đều là như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào, Pháp là nghĩa gì, Tăng là người chi. Suy tàn đến thế, bất nhẫn thốt ra lời. Mỗi khi nghĩ đến, bất giác rơi lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích cho người, sống vô ích đương thời, chết vô ích mai sau. Trời tuy cao cũng không che nổi ta, đất tuy dày cũng khó chở ta. Tội nhân cực trọng, không phải ta thì là ai?
Vì thế mà đau lòng không thể nhẫn nổi, nhưng suy nghĩ thì lại không thấy có cách nào khác hơn, nên quên ngay tư cách quê mùa, liền phát tâm rộng lớn. Tuy không thể vãn hồi mạt vận ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ trì chánh pháp trong mai sau. Vì thế nên cùng với chư thiện hữu, cùng đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, phát bốn mươi tám điều đại nguyện, nguyện nguyện hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp, tâm tâm thành Phật, từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, hết một đời này nguyện sanh Cực Lạc, lên chín phẩm xong thì trở lại Ta bà. Khiến cho mặt trời Phật pháp rạng soi, pháp môn rộng mở, để tăng giới được trong lặng ở cõi này, dân chúng được tiếp hóa ngay cõi phương Ðông, vận Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp do đó được tồn tại lâu dài. Ðây là tấm lòng khổ tâm chân thành, tha thiết nhỏ mọn của tôi. Ðó là nhân duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề.
III- Lưu thông: Như trên vậy mười nhân duyên đã hiểu rõ, tám tướng trạng đã biết, thì xu hướng có lối, phát tâm có chỗ. Chúng ta nay được thân người, ở xứ Hoa Hạ, sáu căn khỏe mạnh đầy đủ, tứ đại nhẹ nhàng an lạc, tín tâm đầy đủ, may mắn lại không có chướng. Huống chi chúng ta ngày nay còn được xuất gia, được thọ cụ túc giới, được gặp đạo tràng, được nghe Phật pháp, được chiêm bái xá lợi, được tu tập sám pháp, được gặp bạn lành, được nhân duyên thù thắng tốt đẹp. Nếu ngày nay không phát tâm rộng lớn, thì còn chờ đến ngày nào.
Cúi xin đại chúng thương cho tâm thành ngu muội của tôi, xót cho chí nguyện khổ sở của tôi, mà cùng lập nguyện ấy, đồng phát tâm này. Nếu chưa phát thì nay phát, phát rồi thì tăng trưởng, tăng trưởng rồi thì tương tục không gián đoạn. Chớ sợ gian nan mà khiếp sợ thối lui, đừng cho dễ mà khinh thường, hời hợt, đừng ham mau mà chẳng lâu bền, đừng biếng nhác giải đãi mà thiếu dũng mãnh, đừng uể oải mà không phấn khởi, đừng chần chờ mà kỳ hẹn mãi, đừng vì tối dốt mà cứ mãi vô tâm, đừng vì căn cơ cạn cợt mà tự khinh không có phần. Như trồng cây, trồng lâu thì rễ cạn ngày càng sâu; như mài dao, mài mãi thì dao đùi cũng thành sắc bén; chẳng nên vì rễ cạn mà không trồng, mặc cây khô héo, vì dao đùi mà không mài, để dao vô dụng.
Lại nữa, nếu cho tu hành là cực khổ mà không biết biếng nhác lại còn khổ hơn. Tu thì khó nhọc tạm thời mà an vui vĩnh kiếp, còn biếng nhác thì một đời tạm nhàn nhưng lắm kiếp chịu sự khổ đau. Huống chi lấy pháp môn Tịnh độ làm thuyền tàu thì lo gì thối chuyển, lại được vô sanh làm sức nhẫn thì sợ gì khó khăn. Nên biết, kẻ tội nhân trong cõi địa ngục mà còn phát Tâm Bồ đề từ bao kiếp trước, huống chi đã làm người, lại làm con Phật, mà không lập đại nguyện ngay trong đời này. Từ vô thỉ đến nay hôn mê mờ mịt, việc gì đã qua rồi đã không thể cản ngăn, mà ngày nay tỉnh ngộ, những việc trong tương lai còn có thể theo. Mê mà chưa ngộ, cố nhiên đáng thương; còn biết mà không làm, mới càng đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ địa ngục thì sự tinh tấn tự sinh, nhớ cái vô thường tấn tốc thì tính biếng nhác không khởi. Lại nữa cần lấy Phật pháp làm roi dục, lấy thiện hữu làm tay dắt, trong khoảnh khắc cũng không tách rời, suốt cả một đời vẫn cố nương theo, thì không lo lắng còn có sự thối chuyển nữa. Chớ bảo một niệm phát nguyện là nhỏ nhặt, đừng cho nguyện suông là vô ích. Tâm chân thì sự thật, nguyện rộng thì hạnh sâu. Hư không chẳng rộng lớn, tâm vương mới lớn. Kim cương đâu có cứng chắc, nguyện lực mới chắc. Ðại chúng nếu không chê bỏ lời tôi, thì quyến thuộc Bồ đề từ đây kết hợp, bạn hữu Liên xã từ đây kết giao, sở nguyện đồng sanh Tịnh độ, đồng thấy Di đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác. Như vậy thì biết đâu ba mươi hai tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này chẳng bắt đầu từ sự phát tâm lập nguyện trong ngày hôm nay. Nguyện cùng đại chúng chung nhau nỗ lực, như thế thật vô cùng may mắn. (Nguồn: Khuyên Phát Tâm Bồ Đề - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tâm Bồ Đề: Là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm. Trong chân tâm, không có các tướng ủy khúc quanh co, cũng chẳng có các hành vi bất chánh. Tâm Bồ đề cũng có thể nói rằng là tâm lợi người, tâm tự giác giác tha, tâm tự lợi lợi tha. "Bồ đề" là tiếng Phạn, dịch là "giác đạo". Giác đạo có nghĩa là hiểu rõ đạo, khiến chúng ta hiểu rõ đạo này, hiểu rõ con đường này. Hiểu rõ đạo, mới có thể tu hành ; nếu không hiểu đạo, thì không thể tu hành. Thường hay điên đảo, cho phải là trái, cho trái là phải, trắng đen không rõ, nón giày lẫn lộn, vị trí đảo ngược. Hiểu rõ đạo thì có thể đi trên con đường chân chánh ; không hiểu rõ đạo thì sẽ bước vào đường tà. Tóm lại, không làm các việc ác, làm các điều lành, đó chính là tâm Bồ đề. Cho nên cũng chính là giữ gìn giới luật, chúng ta giữ gìn giới luật quy củ, đó chính là tâm Bồ đề ; không giữ gìn quy củ tức là làm mất đi tâm Bồ đề. Ðó chính là ý nghĩa khái quát của tâm Bồ đề. (Nguồn: Khuyên Phát Tâm Bồ Đề - HT Tuyên Hóa giảng)
+ TÂM BỒ ĐỀ: “Nội ngoại nhất như gọi là tương ưng, tức là trực tâm”. Trong Phật pháp đại thừa gọi là tâm bồ đề, điều đầu tiên gọi là trực tâm. Trong Khởi Tín Luận dùng danh từ này, Tâm Bồ Đề gồm Ba Tâm hay Tam Tâm:
- Trực tâm - Trực tâm là thể, là chân tâm, người xưa gọi là bản tánh bản thiện, bản tánh đó chính là trực tâm.
- Thâm tâm,
- Đại bi tâm => Tam tâm, hợp lại gọi là tâm bồ đề.
+ Trực Tâm là Đào Tràng: Tịnh Danh Kinh dạy _Kinh Duy Ma Cật nói: “Trực tâm là đạo tràng”.
- Đạo tràng nghĩa là gì? Chư Phật Như Lai, đại đạo ở đâu thì ở đó gọi là đạo tràng, cổ thánh tiên hiền, nơi hành đạo gọi là đạo tràng. Hành đạo, sinh hoạt là hành đạo. Họ ở đâu thì nơi đó gọi là đạo tràng, không nhất định là chỉ chùa chiền am đường, không phải vậy. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Phát Tâm Bồ Đề: .... Thế gian có đủ thứ sự ăn uống vui chơi, tại sao phải lìa khỏi? Vì thế gian có cái vui của: Tài, sắc, danh, ăn và ngủ, năm dục, khiến cho con người sinh ra đủ thứ phiền
não, làm cho con người gặp thọ quả khổ, chẳng đắc được sự giải thoát, cho nên phải lìa khỏi thế gian. Làm thế nào có thể lìa khỏi thế gian? Chỉ có một phương pháp, đó là
phát bồ đề tâm, tu bồ đề đạo.
Bồ đề tâm là gì? Nói đơn giản là: “Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh”, đừng học phát bồ đề tâm của hàng tiểu thừa, chỉ biết trên cầu Phật đạo, chẳng biết dưới độ chúng sinh, cho nên gọi là “tự liễu hán”. Phải học phát bồ đề tâm của người đại thừa, chẳng những trên cầu Phật đạo, mà còn dưới độ chúng sinh. Tóm lại, một mặt cầu chân lý của Phật pháp, một mặt giáo hoá tất cả chúng sinh, cả hai mặt đồng thời tiến tu trung đạo.
Tu hành thì phải tinh tấn, không giải đãi. Tu hành đến cảnh giới viên mãn, thì tự nhiên đắc được giải thoát, sẽ thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử. Phẩm nầy là phẩm thứ ba mươi tám, nên gọi là Phẩm Lìa Thế Gian thứ ba mươi tám. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm-T 19.TR295)
+ Phát Tâm/ Phát bồ đề tâm: Chỉ cho tâm phát nguyện cầu Vô thượng bồ đề. Tức phát khởi tâm mong cầu giải thoát khổ nạn, được vãng sinh Tịnh độ hoặc thành Phật. Tâm bồ đề là hạt giống của tất cả chư Phật, là thửa ruộng tốt nuôi lớn pháp thanh tịnh. Khi phát tâm này rồi, phải siêng năng tiến tu để mau chóng chứng được Vô thượng bồ đề. 3 loại phát tâm:
1. Phát tâm đại trí: Muốn dùng trí tuệ rộng lớn cầu được tất cả pháp của Phật để hóa độ hết thảy chúng sinh, làm cho họ được niềm vui pháp hỉ.
2. Phát tâm đại bi: Thương xót hết thảy chúng sinh, chịu vô lượng khổ não trong vòng luân hồi sinh tử, thệ nguyện cứu vớt họ.
3. Phát tâm đại nguyện: Nương theo 4 thệ nguyện rộng lớn, phát tâm Vô thượng bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh.
Hoặc 3 loại phát tâm là:
1. Phát tâm nhàm chán xa lìa hữu vi: Các pháp thế gian đều là pháp hữu vi, chỉ mang lại khổ não sống chết trong 3 cõi; muốn cầu thoát khỏi nỗi khổ ấy, thì phải nhàm chán pháp hữu vi mà phát tâm tu hành.
2. Phát tâm cầu bồ đề: Vốn có thiện căn và chính kiến, muốn cầu đạo xuất thế mầu nhiệm thì phải phát tâm tu hành.
3. Phát tâm làm lợi ích cho loài hữu tình: Khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh thế gian chịu khổ sinh tử, nguyện nhổ hết gốc khổ và mang lại niềm an vui cho họ, nên phát tâm tu hành. (xt. Bồ Đề Tâm). Xem nguồn
+ Đây là một ví dụ mẫu về phát Đại Bi Tâm và phát Đại Nguyện theo lời dạy của Bồ Tát Quan Thế Âm - Thiên Thủ Thiên Nhãn trong Kinh Thần Chú Đại Bi (Phát Tâm và Phát nguyện có nhiều kiểu cách)
Phát Quảng Đại Bồ Đề Tâm rồi Lễ, đọc trước chư PHẬT, BỒ TÁT (Hoặc hình dung Phật, Bồ Tát hiển hiện ra ở trên cao phí trước mặt, xả bỏ mọi phiền não để giữ Tâm thanh tịnh rồi mới đọc), gồm 10 Tâm như sau:
Tâm Đại Từ Bi
Tâm Bình Đẳng
Tâm Vô Vi
Tâm Vô Niệm Trước
Tâm Quán Không
Tâm Cung Kính
Tâm Khiêm Tốn
Tâm Vô Tạp Loạn
Tâm Vô Khiến Thủ
Tâm Vô Thượng Bồ Đề
≫≫≫ Đây chính là Tướng Mạo của Đà La Ni này (Nguồn: Xem giảng Chú Đại Bi và kết ấn)
+ Vô Thượng Bồ Đề: Giác ngộ Bồ Đề mà Phật đã đạt được(Xem nguồn)
+ “Là tâm Vô Thượng Bồ Đề.” Quý vị phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì đó chính là Chú Đại Bi; nếu quý vị không có Đạo tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì không phải là niệm Chú Đại Bi vậy.
+ Tâm Bồ Đề Kiên Cố: Nếu bỏ mất tâm Bồ đề mà mong ngày thành đạo thì không khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việc ma vậy”.
Về bất thối chuyển, có ba dạng:
- Thứ nhất là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A la hán tồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa, Nếu hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn rơi lại hàng A la hán nữa. Nếu hành giả đã chứng đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi muốn hiện thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn toàn đúng.
- Thứ hai là niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma vương rất vui khi người tu hành khởi niệm lui sụt.
Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.
Niệm bất thối là tâm lượng của hành giả không còn bị trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”, không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn luôn đi với hạnh bất thối.
- Thứ ba là hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối. Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không thể nghĩ bàn.
Đứng trên nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn ấn pháp (Tay Ấn số 38 trong 42 Tay Ấn của Chú Đại Bi), thì từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành trì! (Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi, câu chú số 46. Bồ đề dạ - Bồ đề dạ)
Xem thêm: Tổng hợp cách Phát Tâm, Phát nguyện, Phát Đại Bi tâm. Phát Đại nguyện
+ Xá Lợi Phất - Dòng Bà La Môn
"Như Xá-lợi-phất ..."Tôi đã giảng về Xá-lợi-phất trước đây. Mắt của mẹ ngài đẹp như mắt của loài chim diệc trắng. Chim diệc, tiếng Phạn là Śāri.[74] Đọc là Xá-lợi. Còn chữ 'phất弗' trong tiếng Phạn là putra, Hán dịch là tử子, có nghĩa là 'con trai'. Nên chữ Śāriputra (Xá-lợi-phất) có nghĩa là 'Người con trai của bà Śāri.' Ông ta thuộc dòng họ Bà-la-môn. Bà-la-môn là một trong bốn tầng lớp cao nhất của xã hội Ấn Độ. 'Bà-la-môn[75]' là tiếng Phạn có nghĩa là 'dòng dõi trong sạch', chủng tử thanh tịnh. Nhưng thực ra, chủng tử của loài người thì không mấy thanh tịnh. 'Bà-la-môn' còn được giải thích với ý nghĩa là 'mục đích thanh tịnh.' Họ cho rằng thuỷ tổ của họ xuất thân từ cõi trời Phạm thiên (Brahma Heaven) thế nên họ cho rằng họ thuộc dòng họ cao quý và thanh tịnh.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Xá Lợi Phất Trí Tuệ Đệ nhất :
.... Cậu của Xá Lợi Phất là Ma Ha Câu Hy La, sau khi đấu lý luận thua Phật, ông hỏi Phật cho mượn con dao: “Xin Ngài cho tôi mượn con dao!”. Phật hỏi: “Ông cần dao để làm gì?” Ông đáp: “Tôi đã lập ra điều kiện cho cuộc biện luận này với Ngài, bây giờ tôi thua rồi, tôi phải cắt đầu của mình đưa cho Ngài!”...
Phật bảo: “Trong giáo pháp của Phật không có loại phương thức này! Ông thua, xem như xong, hà tất phải cắt đầu?” Thế là Phật thuyết pháp cho ông; vừa nghe, ông liền đắc được Pháp nhãn tịnh ngay tại chỗ, mở được con mắt pháp. Mắt pháp vừa mở, ông biết được Phật pháp thâm diệu vô cùng: “Thì ra pháp ngoại đạo mà mình đã học nhiều năm như thế đều không bằng một phần vạn của Phật pháp!” Cho nên, ông không những không bắt cháu mình về, mà chính ông cũng xuất gia theo Phật....
Giảng về ngài Xá Lợi Phất trí tuệ đệ nhất trong Kinh Pháp Hoa của HT Tuyên Hóa: Xá Lợi Phất - Trí Tuệ Đệ Nhất
+ Tóm lược Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
.... Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Đại-chúng, nhân buổi nhàn du, đi về phía nam, thấy đống xương khô, chất cao như núi, Đức Phật Thế-Tôn, liền xụp lạy ngay, đống xương khô ấy.
A Nan bạch Phật rằng: Lạy Đức Thế-Tôn, ngài ở trên ngôi, chí Tôn, chí Quý, Thầy cả ba cõi, Cha lành bốn loài, thiên thượng nhân gian, thẩy đều tôn kính, sao ngài lại lễ, đống xương khô kia.
Nầy A-Nan ơi ! Ngươi tuy xuất-gia, theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe, đã rộng rãi đâu, đống xương khô ấy, hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trước của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế ta nay, chí thành kính lễ. Ngươi đem xương này, chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta. ...... bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn, là xương nam giới, còn như con gái, trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn bao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình, chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sữa ở trong mình, giảm mất tinh-anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Nầy A-Nan ngươi, về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng, đi lại nặng-nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không kể xiết. !
- Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương, dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tiêu tan, khó lòng giữ được.
- Khi được hai tháng, ở trong thay mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
- Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
- Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
- Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ năm hình, chân tay đầu óc.
- Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ. Sáu căn mới đủ, mắt tai mũi lưỡi, thân hình và ý.
- Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi, những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn ngàn chân lông.
- Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ; phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
- Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người, ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thục tạng hướng lên, có một giãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di, hai là núi nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời, hóa ra dòng máu, rót vào trong miệng.
- Trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ, nếu là con bạc, giẫy dụa bãi bơi, khiến đau lòng mẹ; buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho xiết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay dấu thay!
Phật bảo A-Nan : Công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu. Những gì là mười ?
Nhớ ơn Mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn khi Mẹ sinh nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn khi Mẹ sinh nở, quên cả lo âu.
Nhớ ơn Mẹ ăn miếng đắng, Mẹ nhả miếng ngọt, dành dụm cho con.
Nhớ ơn chỗ ướt Mẹ nằm, chỗ ráo sê con.
Nhớ ơn ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn giặt dũ hong phơi, áo quần dơ-dáy, ô uế tanh hôi, Mẹ đành cam chịu.
Nhớ ơn khi Mẹ đi đâu, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy , một chút chẳng ngơi.
Nhớ công ơn Mẹ, vì sinh nuôi con, mà Mẹ cam lòng, tạo bao ác nghiệp.
Nhớ ơn lòng Mẹ thương con, trọn đời yêu dấu không chút nào ngơi.
..... Bảy giờ trong Đại húng nghe Phật nói rồi, trong dạ bồi hồi, ruột đau như cắt, hai hàng nước mắt tầm tã như mưa mà bạch Phật rằng: Con muốn đền ơn công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo.
Đức Phật liền bảo cặn kẽ mọi lời: Này chúng sinh ơi, muốn đền ơn mẹ,
Nhất là một nhẽ nên chép kinh này, kính biếu gần xa cho nhiều người tụng.
Hai vì mẹ cha đọc tụng kinh này chuyên cần chớ đoạn.
Ba vì mẹ cha sám hối làm chay.
Bốn vì mẹ cha cúng dàng Tam-Bảo tùy ý sở dùng.
Năm vì mẹ cha trong sáu ngày trai phải nên nhớ giữ.
Sáu vì mẹ cha thường hay bố thí làm mọi việc lành.
Làm được như thế thực là con hiếu, cứu được mẹ cha siêu thăng Cực-Lạc phúc đẳng Hà-sa.
..... Kinh dài và cực kỳ quí báu, đề nghị quý vị đọc toàn văn bản Kinh công đức vô lượng. Mời đọc Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
+ Các Kinh Phật: .... Phật đã thấu suốt hết thảy mọi pháp và có thể thuyết minh tất cả các pháp”.
Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật:
-Thế nào gọi là Phật thuyết hết thảy các pháp? Phật tùy cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi?
Phật đáp: -Phật theo căn tính của chúng sinh và tùy thời cơ mà thuyết các pháp.
Sau này các đệ tử kết tập pháp tạng sẽ chia ra từng bộ loại một.
Khi Phật thành đạo, vì các đệ tử mà nói ra giới luật, có giới khinh giới trọng, hữu tàn và vô tàn, kết tập thành Luật Tạng.
Khi Như Lai nói về nhân quả, tội phúc, các món ràng buộc, phiền não và các nghiệp thân, khẩu, ý thì kết thành Luận Tạng.
Như Lai vì trời, người, tùy thời có thuyết pháp để khuyên họ tu tập, nói ra bộ Tăng Nhất A Hàm.
Sau lại vì những chúng sinh thông minh, nói các pháp cao sâu, gọi là Trung A Hàm, để cho những người có lợi căn theo đó mà tu tập.
Sau nữa, nói các phép tọa thiền cho những người tu thiền định học tập, nên mới thành bộ Tạp A Hàm.
Sau hết, vì phá trừ tà kiến, ngoại đạo mà nói ra bộ Trường A Hàm.
Tất cả bốn loại đó, sau kết tập thành Kinh Tạng. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Mười hai Bộ Kinh: Trích Đức Phật bảo Ngài A Nan: ... Ông tuy luận bàn nghĩa nhân duyên tự nhiên dứt khoát rõ ràng. Nhưng ông không thoát khỏi nạn Ma-đăng-già (Dùng tà chú tà dâm hại ngài A Nan).
Giảng giải: Tôi sẽ kể lại mười hai bộ kinh cho quý vị:
1. Trường hàng.
2. Trùng tụng.
3. Thọ ký
4. Cô khởi.
5. Tự thuyết.
6. Nhân duyên.
7. Thí dụ.
8. Bổn sự.
9. Bổn sinh.
10. Phương quảng.
11. Vị tằng hữu.
12. Luận nghị.
Khi tôi liệt kê như vậy, tôi không căn cứ hoặc tra cứu đến một cuốn luận nào cả. Tôi chỉ ghi nhớ. Tương tự như vậy, trong quý vị đây ai đến nghe giảng kinh nên nhớ kỹ những gì mình học được. Khi nghe, nên nhắm vào điểm nào để ghi nhớ. Thật là phiền toái khi mình không nhớ rõ được những gì mình đã học, thế nên quý vị phải xem lại kỹ những gì mình sẽ giải thích. Quý vị nên ghi nhớ phần chính yếu của bộ kinh.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Các Kinh Phật: .... Phật đã thấu suốt hết thảy mọi pháp và có thể thuyết minh tất cả các pháp”.
Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật:
-Thế nào gọi là Phật thuyết hết thảy các pháp? Phật tùy cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi?
Phật đáp: -Phật theo căn tính của chúng sinh và tùy thời cơ mà thuyết các pháp.
Sau này các đệ tử kết tập pháp tạng sẽ chia ra từng bộ loại một.
Khi Phật thành đạo, vì các đệ tử mà nói ra giới luật, có giới khinh giới trọng, hữu tàn và vô tàn, kết tập thành Luật Tạng.
Khi Như Lai nói về nhân quả, tội phúc, các món ràng buộc, phiền não và các nghiệp thân, khẩu, ý thì kết thành Luận Tạng.
Như Lai vì trời, người, tùy thời có thuyết pháp để khuyên họ tu tập, nói ra bộ Tăng Nhất A Hàm.
Sau lại vì những chúng sinh thông minh, nói các pháp cao sâu, gọi là Trung A Hàm, để cho những người có lợi căn theo đó mà tu tập.
Sau nữa, nói các phép tọa thiền cho những người tu thiền định học tập, nên mới thành bộ Tạp A Hàm.
Sau hết, vì phá trừ tà kiến, ngoại đạo mà nói ra bộ Trường A Hàm.
Tất cả bốn loại đó, sau kết tập thành Kinh Tạng. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Trong Phật giáo, nếu thấu hiểu Kinh Hoa Nghiêm, thì sẽ đắc được toàn thân của Phật. Nếu minh bạch Kinh Lăng Nghiêm, thì minh bạch được đảnh của Phật. Nếu minh bạch được Kinh Pháp Hoa, thì minh bạch được thân của Phật. Nhưng đây vẫn chưa hoàn toàn, nếu dung hội quán thông được đạo lý của Kinh Hoa Nghiêm, thì sẽ minh bạch được toàn thân và huệ mạng của Phật. Kinh Hoa Nghiêm ví như biển cả, còn những Kinh khác như những dòng sông. Dòng sông làm sao sánh được với biển cả. Hiện tại trên thế giới giảng giải Kinh Hoa Nghiêm rất ít, lại rất ít. Có người học Phật pháp cả đời, mà tựa đề Kinh Hoa Nghiêm cũng chưa từng nghe qua, thật là đáng thương xót. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, đừng nói là giảng, dù đọc qua một lần cũng rất ít người đọc. Đọc nhanh qua một lần cũng phải mất hai mươi mốt ngày....
Ở Trung Quốc hoằng dương Kinh Hoa Nghiêm đều là đại Bồ Tát. Nếu chẳng phải có cảnh giới của Bồ Tát, thì không thể giảng nói cảnh giới của Hoa Nghiêm, mà cảnh giới Hoa Nghiêm là diệu trong diệu, huyền trong huyền, không thể nghĩ bàn ! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - T.25)
+ Tiểu Bộ Kinh: Kinh này tiếng Việt gọi là Tiểu bộ kinh, một bộ kinh mà Đức Phật đã dạy đầy đủ và chi tiết nhất cho các đệ tử của Ngài, đặc biệt là đệ tử xuất gia. Làm cách nào để từ cuộc sống đầy bùn nhơ này mà vươn lên được, cũng như hoa sen vươn lên được mà không bị bùn nhơ vấy bẩn (Theo TS Huệ Dân). Mời xem chi tiết: Tiểu Bộ Kinh nhiều tập)
+ Danh mục tiêu đề Kinh A Hàm: Hơn 800 tiêu đề gồm những lời Phật dậy. Mời xem Danh mục tiêu đề Kinh A Hàm;
* Mời xem Kinh A Hàm với bản đầy đủ nội dung: Mời xem Kinh A Hàm
+ Diệu dụng của các kinh Phật
+ Giải đáp về sự diệu dụng của Các Kinh và sự chọn lựa Kinh Phật cho đúng để tu học chánh pháp:
Trích Đức Phật giảng Kinh cho ngài A Nan. HT Tuyên Hóa giảng: .... Những ai đã học Phật pháp chắc chắn phải nên tham cứu kỹ Kinh Thủ Lăng Nghiêm và phải thông đạt nghĩa lý kinh nầy. Kinh Thủ Lăng Nghiêm khiến phát sinh đại trí huệ. Nếu quý vị muốn có chánh tri chánh kiến và khai mở đại trí huệ thì dứt khóat phải thông đạt kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tác dụng của kinh Thủ Lăng Nghiêm là phá tà hiển chánh. Kinh phá trừ sạch mọi loài thiên ma ngoại đạo, cùng khai thị năng lực chánh tri chánh kiến vốn có trong mỗi chúng sinh. Nhưng vào thời kỳ Phật pháp sắp hoại diệt thì Kinh Thủ Lăng Nghiêm sẽ bị tiêu hủy trước hết. Thế nên nếu chúng ta nuốn hộ trì chánh pháp thì chúng ta nên tham cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm. Để được thông đạt và thấm nhập kinh Thủ Lăng Nghiêm, và hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm. Khi đến thời kỳ Phật pháp sắp hoại diệt, thì yêu ma quỷ quái hiện hành ở thế gian nầy, cùng với những người có tà tri tà kiến. Chúng rất thông thạo pháp thế gian, nó có rất nhiều năng lực biện tài và rất thông minh lanh lợi. Nó dùng lý lẽ để thuyết phục mọi người rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là giả mạo – ngụy tạo – và bảo mọi người đừng tin kinh nầy.
Vì sao nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm là giả mạo?
Vì Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rõ về những sai lầm của chúng. Vì kinh nói về những tà tri tà kiến của chúng. Nếu Kinh Thủ Lăng Nghiêm còn lưu hành ở thế gian, thì sẽ không có ai tin vào tà tri tà kiến. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm không còn được lưu hành nữa, thì những tà tri tà kiến nầy của chúng tiếp tục làm mê hoặc con người. Thế nên họ cho rằng Kinh Thủ Lăng Nghiêm là nguỵ tạo. Điều này là hiện tướng của ma vương. Những ai đã tu học Phật pháp đặc biệt phải chú ý điểm nầy. Hãy hết sức thận trọng, đừng để mình bị tà tri tà kiến của ma vương kia xoay chuyển. Đừng để cho ma vương thay đổi tư tưởng và quan niệm của quý vị.
Có quý vị nào có ý kiến gì muốn hỏi không?
Hỏi: Kinh Lăng-già so sánh với Kinh Thủ Lăng Nghiêm như thế nào?
Đáp: Yếu chỉ Kinh Lăng-già là nói về giáo lý Thiền tông. Khác với Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Sơ Tổ Bồ-đề Đạt-ma đã dùng Kinh Lăng-già như là nền tảng khi Ngài truyền bá Thiền tông ở Trung Hoa. Kinh Thủ Lăng Nghiêm biểu tượng cho trí huệ chân chính của toàn bộ giáo lý Phật giáo.
Hỏi: Có thể các vị Bồ-tát thị hiện với thân tướng của một đạo sư ngoại đạo không?
Đáp: Tất cả các pháp đều là Phật pháp. Không có điều gì chẳng có thể xảy ra cả. Chỉ cần đừng chấp trước. Nếu quý vị chấp trước, thì chẳng phải là Phật pháp. Nếu quý vị không chấp trước, thì đó chính là Phật pháp. Nếu quý vị chấp trước, thì đó là pháp ma.
Hỏi: Các bản dịch Kinh Thủ Lăng Nghiêm khác đã được ấn hành. Cơ bản có được chính xác không? Nếu không, xin Sư phụ cho biết những người đọc tiếng Anh như chúng con nên đọc bản kinh nào?
Đáp: Bây giờ chúng ta đang trong tiến trình dịch Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Với những bản dịch mà quý vị đề cập, thì có bản đúng ở phần nầy, có bản thiếu chính xác phần kia, và có bản hòan toàn không tương ứng với ý chỉ cơ bản của kinh. Chẳng hạn, có dịch giả nói rằng Ngài Tây phương không thích Chú Thủ Lăng Nghiêm nên họ không nghiên cứu phần Chú. Đó thật là hòan toàn sai lầm. Nên họ đã bỏ phần Chú trong bản dịch của họ. Nhưng nếu không có phần thần Chú Thủ Lăng Nghiêm trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, thì cơ bản là chẳng có lý do gì để nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm cả. Quan trọng của Kinh Thủ Lăng Nghiêm là chỉ để tán thán Chú Thủ Lăng Nghiêm. Nếu có dịch giả nào theo ý mình mà bỏ phần Chú Thủ Lăng Nghiêm, điều ấy hòan toàn ngược lại với mục đích của Đức Phật khi nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Hỏi: Con có nghe nói về Kinh Pháp Hoa rằng Đức Phật thuyết tất cả các kinh trong tất cả các thời khác đều là giảng bày giáo lý phương tiện, và giáo lý được giảng dạy đó chỉ để khiến mọi người tin nhận Kinh Pháp Hoa, rằng vào giai đoạn mạt pháp, mọi kinh khác sẽ không còn hiệu lực, chỉ Kinh Pháp Hoa là thực sự còn năng lực ấy mà thôi.
Đáp: Không sai, mọi kinh khác đều được nói từ yếu chỉ của Kinh Pháp Hoa. Nhưng Kinh Pháp Hoa là để khiến cho mọi chúng sinh đều được thành Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là để khai mở trí huệ. Kinh Pháp Hoa là để nhận ra Phật tánh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là để phá trừ tà tri tà kiến. Cũng có thể nói rằng nhờ có Kinh Pháp Hoa mà Kinh Thủ Lăng Nghiêm mới phá trừ được tà tri tà kiến của thiên ma ngoại đạo–có nghĩa là khiến chúng sinh tu tập Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Chúng sinh nghiên cứu Kinh Pháp Hoa và hành trì pháp môn đã được giảng giải trong kinh là để nhận ra Phật tánh.
Tuy nhiên, về lâu dài, khi Phật pháp sắp vào thời kỳ hoại diệt, không phải Kinh Pháp Hoa còn lưu truyền trên thế gian, mà là Kinh A-di-đà. Vào thời kỳ cuối, khi Phật pháp hoại diệt, chỉ còn Kinh A-di-đà còn lưu truyền trên thế gian, và sau khi Kinh A-di-đà lưu truyền trên thế gian chừng 100 năm nữa thì Kinh A-di-đà cũng biến mất, chỉ còn lại một câu, đó là sáu chữ hồng danh Nam mô A-di-đà Phật vẫn còn lưu truyền.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ HÀNH TRẠNG CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA (SHI HENG TUNG)
THỜI THƠ ẤU:
Vào ngày 17 tháng 03 năm Mậu Ngọ (1918), Hòa Thượng Tuyên Hóa sinh ra trong một gia đình họ Bạch, tại một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Song Thành, tỉnh Cát Lâm, Đông Bắc Trung Hoa.
Ngay khi vừa sinh ra, Ngài khó suốt ba ngày, thương cho chúng sinh trong cõi Ta bà quá nhiều khổ lụy. Năm 11 tuổi, nhân thấy một em bé chết giữa vùng sa mạc hoang vu, Ngài có phần thức tỉnh, muốn rời bỏ cuộc sống gia đình, tu đạo để giải quyết vấn đề sinh tử lớn lao.
Năm lên 12 tuổi, Ngài bắt đầu sám hối tất cả mọi lỗi lầm của mình với hai đấng sinh thành, dự tính một lòng báo đáp hiếu đạo. Ngài lạy cha mẹ mình hằng ngày. Sau đó, Ngài cảm thấy lạy cha mẹ mình chưa đủ, Ngài lạy Trời Đất, Quốc vương, Sư trưởng. Ngài vẫn thấy chưa đủ. Vì thế, dần dần Ngài lạy đến cả mọi loài chúng sanh. Ngài lạy sáng và chiều, lỗi lần hơn 380 lạy, 5 thời mỗi ngày. Ngài lạy đến cả gió, mưa, tuyết, mong rằng qua cái lạy sẽ chuyển hóa được người xấu thành người tốt; hy vọng cái lạy sẽ đem bình an đến cho thế giới tao loạn này.
Năm 15 tuổi, Ngài quy y với Lão Hòa Thượng Thường Trí ở chùa Tam Duyên. Chính thức là Phật tử đã quy y Tam Bảo.. Ngài thân cận Hòa Thượng Thường Nhân. Đến năm 17 tuổi, Ngài chỉ đến trường học hai năm rưỡi. Do Ngài đạt được tâm chuyên nhất nên đọc qua một lần liền thuộc. Nhờ vậy, Ngài thông thạo Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bách gia Chư Tử, Y học, Bốc phệ, Chiêm tinh, Vật lý, và các lĩnh vực học thuật khác của thế gian.
Vào năm 16 tuổi, Ngài đã bắt đầu giảng Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Kim Cang, Kinh A Di Đà, và giảng giải Phật Pháp cho những người không biết chữ nghe.
Năm 18 tuổi, mẹ Ngài lâm bệnh. Ngài bỏ học ở nhà chăm sóc. Vì Ngài đã biết rõ khó khăn do không được học hành chu đáo, nên Ngài thành lập một lớp học miễn phí, dạy cho hơn 30 trẻ em nghèo, từ sáng đến tối không nghỉ.
Trong những năm đi học, Ngài còn tham gia nhiều hội đoàn từ thiện, như Hội Phật Học, Hội Đạo Đức, Hội Từ Thiện, Hội khuyến khích bỏ uống rượu, bỏ hút thuốc; khuyến khích từ bỏ những thói xấu, làm việc thiện. Ngài tu tập hạnh Bồ tát, nguyện cứu độ tất cả mọi loài.
* XUẤT GIA:
Năm 19 tuổi, mẹ Ngài, Hồ Thái qua đời. Ngày 08 tháng 04 ngày Đức Phật Đản sanh, Ngài đảnh lễ Lão Hòa thượng Trí Nhân ở chùa Tam Duyên, xin thế phát xuất gia. Được Lão Hòa thượng truyền giới Sa di, pháp danh là An Từ, pháp tự là Độ Luận. Ngài xin được y chỉ với Lão Hòa thượng Thường Nhân, trụ trì chùa Tam Duyên. Khi được Lão Hòa thượng Hư Vân truyền pháp, Ngài được ban pháp hiệu là Tuyên Hóa.
Trong suốt ba năm xuất gia, Ngài sống trong một túp ều đơn giản bên cạnh mộ mẹ Ngài. Người đời gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con hiếu họ Bạch).
Vào ngày 19 tháng 06, kỷ niệm khánh đản Bồ tát Quán Thế Âm, Ngài phát 18 lời nguyện lớn trước Chư Phật. Cuộc đời của Ngài là sự thực hành sống động 18 lời nguyện lớn này.
“Cúi đầu đảnh lễ Chư Phật mười phương cùng Tam Tạng Pháp quá khứ, hiện tại, vị lai cùng các Hiền Thánh Tăng, duy nguyện rủ lòng chứng minh cho đệ tử pháp danh Thích An Từ, tự Độ Luận, con nay phát tâm không vì tự mình cầu phước báo cõi Trời, Người, Thanh văn, Duyên giác cho đến các quả vị Bồ tát quyền thừa, chỉ y theo tối thượng thừa phát tâm Bồ đề. Con nguyện cùng chúng sinh trong cả pháp giới cùng lúc đều đạt được quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.
1. Con nguyện vì hết thảy chư vị Bồ tát trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
2. Con nguyện vì hết thảy các vị Duyên giác trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
3. Con nguyện vì hết thảy các vị Thanh văn trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
4. Con nguyện vì hết thảy các loài ở cõi Trời trong tam giới, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
5. Con nguyện cho hết thảy loài người, trong mười phương thế giới, nếu như còn một người nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
6. Con nguyện cho loài người, loài Trời, hết thảy loài A tu la, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
7. Con nguyện cho hết thảy các loài súc sanh, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
8. Con nguyện cho hết thảy các loài Ngạ quỷ, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
9. Con nguyện cho hết thảy chúng sanh trong địa ngục, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
10. Con nguyện cho tất cả các loài Trời, Người, A tu la, các loài côn trùng, cho đến các linh giới như Rồng, Quỷ thần … đã từng quy y với con, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.
11. Con nguyện đem hết tất cả những phước lạc mà con đáng được hưởng, xin hồi hướng, bố thí, cúng dường cho hết thảy chúng sanh.
12. Con nguyện chọu thay hoàn toàn mọi khổ nạn chu chúng sanh trong pháp giới này.
13. Con nguyện phân thân vô số lượng để chuyển hóa hết thảy chúng sanh chưa có lòng tin với Phật Pháp, khiến họ bỏ việc ác làm việc lành, sám hối mọi tội chướng, quy y Tam Bảo, rốt ráo thành Phật.
14. Con nguyện cho hết thảy chúng sanh, khi được thấy mặt con, được nghe đến tên con, đều phát tâm Bồ đề, chóng thành Phật đạo.
15. Con nguyện hết lòng tôn kính giới luật đức Thế Tôn đã chế. Nguyện thực hành ăn một ngày một bữa vào lúc giữa trưa.
16. Con nguyện giác ngộ cho hết thảy chúng sanh hữu tình, nhiếp độ hết thảy mọi căn cơ.
17. Con nguyện tu tập để ngay đời này được ngũ nhãn, lục thông, đến đi tự tại.
18. Con nguyện cho hết thảy những điều đã phát nguyện đều được viên mãn.
Cuối cùng:
Chúng sanh không ngằn mé, thệ nguyện độ hết thảy.
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.
Pháp môn không số lượng, thệ nguyện đều tu học.
Phật đạo không gì sánh bằng, thệ nguyện được viên thành.
GIỚI LUẬT - GIẢNG KINH - CHỮA BỆNH ...
* ĐÊM KHÔNG NGỦ NẰM
Ngủ nhiều và hôn trầm khiến tâm ngu si tăng trưởng. Hòa thượng đã từng thực hành không bao giờ nằm ngủ vào ban đêm từ hồi còn trẻ, nên Ngài khuyến khích đệ tử ngủ ngồi, khiến tinh thần thanh thản, nhẹ nhàng, tỉnh táo. Nhờ đó có thể thoát khỏi sự cám dỗ của ma quỷ.
+ Pháp Hiệu Tuyên Hóa: Do HT Hư Vân ban cho Ngài năm 1956
.... Tổ thứ tám Thiền Sư Đức Thanh Hư Vân.Truyền nhân của Phái Quy Ngưỡng
Nay Lão sư Đức Thanh Hư Vân
Truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng
Cho đời thứ Chín, Thiền giả Tuyên Hóa Độ Luân để được Ngài đích thân bảo vệ và duy trì.
Như vậy Ngài là vị Tổ Đông độ đời thứ Chín dòng Quy Ngưỡng và cũng là Tổ Tây độ thứ Bốn mươi lăm của Thiền Tông (Nguồn: mục 61 bài viết HT Tuyên Hóa)
+ Giảng Kinh Hoa Nghiêm: ... HT Tuyên Hóa nói: Ở Trung Quốc hoằng dương Kinh Hoa Nghiêm đều là đại Bồ Tát. Nếu chẳng phải có cảnh giới của Bồ Tát, thì không thể giảng nói cảnh giới của Hoa Nghiêm, mà cảnh giới Hoa Nghiêm là diệu trong diệu, huyền trong huyền, không thể nghĩ bàn! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - T.25)
+ HT Tuyên Hóa dạy: “Trên tất cả, đừng sợ hãi!” Hòa Thượng thúc giục chúng tôi. Tay và mắt (thủ nhãn) khắp cơ thể là một kỳ diệu vô biên. Ma Ha Bát Nhã thật sự rất khó để diễn tả bằng lời! ... Lời của Đệ tử HT Tuyên Hóa nói về Ngài ngày 27/06/2020 nhân kỷ niệm 25 năm Niết Bàn. Xem tại Bài viết của Sư Cô Hằng Trì
Mời xem chi tiết thêm tại nguồn: Về Hòa Thượng Tuyên Hóa
+ Kinh Ngũ Bách Vấn: Nói Về Nhân Quả Rất Nhiều Việc Chi Tiết Trong Phật Giáo, chủ yếu GIÀNH CHO GIỚI TỲ KHEO, Xin đọc kỹ đoạn cuối để biết ĐỐI TƯỢNG THỌ TRÌ Kinh này.
1. PHẨM HỎI VỀ QUẢ BÁO PHẠM NĂM THIÊN GIỚI
Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật cư ngụ tại vườn trúc Ca-lan-đà thuộc thành Vương Xá. Lúc bấy giờ, Mục-kiền-liên đứng dậy bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Nay con có điều muốn thưa hỏi, xin đức Thế Tôn chỉ dạy!
Phật dạy:
- Quí thay! Nếu việc ấy có thể làm lợi ích vô lượng cho chúng sinh thì ông cứ tùy ý mà hỏi.
Mục-kiền-liên bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Vào thời mạt pháp, nếu có tì-kheo khinh mạn lời dạy của Phật, phạm giới Chúng học, sử dụng lẫn lộn những vật dụng của Tam bảo thì sẽ đọa vào chốn nào?
Đức Phật bảo Mục-kiền-liên:
- Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho ông rõ!
Nếu tì-kheo không biết hổ thẹn, khinh mạn lời Phật dạy, phạm giới Chúng học thì chịu khổ trong địa ngục chín trăm nghìn năm, bằng thọ mạng năm trăm năm của chư thiên cõi trời Tứ Thiên Vương. Nếu tì-kheo phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni, sẽ chịu khổ trong địa ngục ba ức sáu mươi nghìn năm, bằng thọ mạng một nghìn năm của chư thiên cõi trời Tam Thập Tam. Nếu tì-kheo phạm Ba-dật-đề, thì sẽ chịu khổ trong địa ngục hai mươi ức nghìn năm, bằng thọ mạng hai nghìn năm của chư thiên cõi trời Dạ-ma. Nếu tì-kheo phạm Thâu-lan-giá, thì sẽ chịu khổ trong địa ngục năm mươi ức sáu mươi nghìn năm, bằng thọ mạng bốn nghìn năm của chư thiên cõi trời Đâu-suất. Nếu tì-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, thì sẽ chịu khổ ở địa ngục hai trăm ba mươi ức bốn mươi nghìn năm, bằng thọ mạng tám nghìn năm của chư thiên cõi trời Hóa Lạc. Nếu tì-kheo phạm Ba-la-di, thì sẽ chịu khổ trong địa ngục chín trăm hai mươi mốt ức sáu mươi nghìn năm, bằng thọ mạng mười sáu nghìn năm của chư thiên cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
2. PHẨM HỎI VỀ VẬT DỤNG CỦA PHẬT: Nội dung rất nhiều phật sự, xin xem trong Kinh
Kinh Ngũ Bách Vấn là Kinh Mục-Kiền-Liên hỏi 500 tội khinh và trọng trong giới luật, và có thêm phần chú giải nên rất thuận tiện cho người tìm hiểu về giới luật (Nguồn: Trích đoạn Kinh Ngũ Bách Vấn)
Mục Lục bản Kinh văn đầy đủ
1.PHẨM HỎI VỀ QUẢ BÁO PHẠM NĂM THIÊN GIỚI
2. PHẨM HỎI VỀ VẬT DỤNG CỦA PHẬT
3. PHẨM HỎI VIỆC THUYẾT PHÁP
4. PHẨM HỎI VỀ PHÁP KIẾT GIỚI
5. PHẨM HỎI VỀ VIỆC AN CƯ
6. PHẨM HỎI VIỆC ĐỘ NGƯỜI
7. PHẨM HỎI VIỆC THỤ GIỚI
8. PHẨM HỎI VỀ VIỆC NHẬN PHẨM VẬT CÚNG DƯỜNG
9. PHẨM HỎI VỀ BỆNH TẬT
10. PHẨM HỎI VỀ VIỆC TÌ-KHEO THỊ TỊCH
11. PHẨM HỎI VỀ BA Y
12. PHẨM HỎI VỀ BÁT
13. PHẨM HỎI VỀ CÁC VIỆC LINH TINH
14. PHẨM HỎI VỀ THỤ BA TỰ QUI
15. PHẨM HỎI VỀ THỤ NĂM GIỚI
16. PHẨM HỎI VỀ THỤ MƯỜI GIỚI
17. PHẨM HỎI VỀ SA-DI (Đại khái là Người đã nhập tăng đoàn, dưới 20 tuổi hoặc chưa phải là Tỳ Keo, Tỳ Kheo Ni)
8. VĂN SÁM HỐI SAU CHÍN MƯƠI NGÀY KIẾT HẠ
* ... Nghe Đức Phật giảng Kinh xong: Bấy giờ, Mục-kiền-liên từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Con rất vui mừng khi được nghe Như Lai dạy Tì-ni. Nhưng sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể thụ trì Tì-ni này?
Phật bảo Mục-kiền-liên:
- Người nào học tập và tư duy Tì-ni, nên biết người đó có thể tu tập và thụ trì Tì-ni này.
Phật lại bảo:
- Sau khi Ta diệt độ, nếu có tì-kheo, tì-kheo ni nào phỉ báng người thụ trì Tì-ni này, thì kẻ đó là bạn của ma, chẳng phải là đệ tử của Ta. Bọn người này đời đời học đạo không thành, không thể vượt khỏi ba cõi. Nay Ta thương xót các chúng sinh đó mà nói kinh này.
Nghe Đức Phật nói xong, Mục-kiền-liên vô cùng vui mừng và cung kính hành trì. (Nguồn: Kinh Ngũ Bách Vấn)
Xem bản Kinh Ngũ Bách vấn bản đầy đủ
+ Định luật Nhân và Quả (Law of Cause and Effect): Định luật Nhân và Quả là định luật chi phối vật chất. (LVHLT, 470)
* Định luật Tác động và Phản Tác động (Law of Action and Reaction): X. Định luật Nhân và Quả
* Tóm lược Kinh Nghiệp báo sai biệt: Phật bảo Thủ Ca: Tất cả chúng sinh có liên quan với nghiệp, nương tựa nơi nghiệp, theo nghiệp tự chuyển. Do nhân duyên ấy có phân ra: thượng, trung, hạ, sai khác chẳng đồng:
Bị quả báo mạng sống ngắn ngủi - Mạng sống trường thọ;
Bị quả báo nhiều bệnh tật - ít bệnh tất;
Bị quả báo thân xấu xí - thân đẹp đẽ;
Bị quả báo uy thế yếu - uy thế mạnh;
Bị quả báo dòng họ hạ tiện - Dòng họ cao thượng;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh của cải ít - Của cải nhiều;
Bị quả báo trí tàn kiến (thấy biết sai lệnh không đúng nhân quả) - Trí chân chính;
Bị quả báo địa ngục - Súc sinh - ngạ quỷ - A-tu-la;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh được quả báo loài người - Trời Sắc giới - Trời vô sắc giới;
Bị quả báo không cố định;
Bị quả báo sinh chỗ biên địa (vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới…) - Sinh nơi thành phố, thủ đô;
Bị quả báo phải chịu đủ tuổi thọ ở địa ngục;
Bị quả báo phân nửa tuổi thọ ở địa ngục;
Bị quả báo tạm vào liền ra;
Khiến chúng sinh làm mà chẳng tập - Tập mà chẳng làm - Cũng tập cũng làm - Chẳng làm chẳng tập;
Khiến chúng sinh trước vui sau khổ - Trước khổ sau khổ - Trước vui sau vui - Trước khổ sau vui;
Khiến chúng sinh nghèo mà thích bố thí - Giàu mà xan tham (tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ…);
Khiến chúng sinh được thân vui mà tâm chẳng vui - Tâm vui mà thân chẳng vui - Thâm tâm đều vui - Thân tâm đều chẳng vui;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh tuổi thọ tuy hết mà nghiệp chẳng hết - Nghiệp tuy hết mà tuổi thọ chẳng hết;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ đều hết;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ cả hai đều chẳng hết mà đoạn trừ tất cả phiền não;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh đoạ vào đường ác mà thân hình đẹp lạ, mày mắt đoan trang, màu da tươi sáng được mọi người thích nhìn;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nơi đường ác mà thân hình xấu xí, da dẻ thô nhám, người chẳng thích nhìn;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh sinh vào đường ác mà thân miệng hôi thối, các căn khiếm khuyết (mắt, tai mũi, lưỡi… không được trọn vẹn);
Hoặc có chúng sinh tập hạnh thế gian mười bất thiện nghiệp bị ác báo bên ngoài;
Hoặc có chúng sinh tập hạnh thế gian mười điều thiện nghiệp được quả báo thù thắng bên ngoài.
Ví như có chúng sinh lễ Phật, tháp miến được mười thứ công đức:
Cúng thí lọng báu được mười thứ công đức,
Cúng thí chuông linh được mười thứ công đức,
Cúng thí y phục được mười thứ công đức,
Cúng thí bát đũa được mười thứ công đức,
Cúng thí thức ăn nước uống được mười thứ công đức,
Cúng thí giầy dép được mười thứ công đức,
Cúng thí hương hoa được mười thứ công đức,
Cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức,
Cúng thí cung kính chắp tay được mười thứ công đức.
Đó là lược nói tên pháp môn các nghiệp sai khác.
Chi tiết giảng giải các loại Nghiệp báo và công đức nói trên đức Phật giảng rất rõ, xin xem tại nguồn: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt
+ Kinh Thiện Ác Nhân Quả: Chính tôi được nghe Ngài A Nan bạch Phật: “Kính lạy đức Thế Tôn! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người, có kẻ đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo, người giàu, kẻ khổ, người vui, kẻ sang, người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đã tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu, cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có người xấu xí mà giàu sang, kẻ rất mạnh khỏe mà thấp kém, có người nhu nhược mà lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ý chí cao thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai con gái, có kẻ cô đơn một mình, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ được vào cung vua ăn mặc tha hồ, có ngườì lúc trẻ thì nghèo hèn đến lúc già lại giàu sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hãm trong tù ngục, có nhà cha từ con hiếu, luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất hòa đấu tranh ngang trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không cửa không nhà nay đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực, có người ở như ổ quạ hang hưu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem lại, có kẻ giàu mà tham xẻn, có người nghèo lại rộng lòng bố thí. Có người lời nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính, có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát sanh không nương tay, có người khoan dung đại lộ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân chúng bỏ rơi. Có nhà nàng dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ hòa hợp. Có người ham nghe pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn chương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh. Cuối xin đức Thế Tôn nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện! Khi bấy giờ đức Thế Tôn bảo A Nan tôi rằng: Như ngươi hỏi ta chúng sanh thọ báo bất đồng là do đời trước dụng tâm khác nhau, vì thế cho nên muôn sai vạn biệt. Người đời nay được than tâm đoan chánh, là do đời trước ở trong đạo người tu hành nhẫn nhục mà được..... (Nguồn: Thiện ác nhân quả);
Xem thêm: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng;
Xem thêm: Kinh Ngũ Bách Vấn
+ Phật tử - Đệ tử Phật:
Kinh Phạm Võng có nói:
Chúng sinh thọ Phật giới
Tức nhập chư Phật vị
Vị đồng đại giác dĩ
Chân thị chư Phật tử.
Nghĩa là:
Khi chúng sinh đã thọ nhận giới luật Phật chế rồi, tức là có được những phẩm chất cần thiết để bước lên quả vị Phật. Khi đã đồng một quả vị với các bậc đại giác rồi, thì đó mới chân thực là Phật tử.
Kinh Pháp Hoa nói:
Tùng Phật khẩu xuất, tùng pháp hóa sinh
Đắc Phật pháp phần, giai kham tác Phật.
Nghĩa là:
Từ giáo pháp của Phật mà ra đời; từ pháp mà hóa sinh, đạt được sự giác ngộ từ Phật pháp, nên đều có thể thành Phật.
Quý vị sẽ hỏi: “Thế nào là hóa sinh từ miệng của Đức Phật?”
Đó là kết quả nhờ Đức Phật giáo hóa, nên được giác ngộ nên như được gọi là sinh ra từ Phật pháp. Chẳng hạn ngày quý vị quy y Tam bảo là ngày sinh thứ hai của quý vị, là ngày khởi đầu của một cuộc sống mới. Những người đã quy y Tam bảo đều là đệ tử của Phật, đều được gọi là Phật tử. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q1-HT T.Hóa giảng)
+ Cư sĩ - Phật tử tại gia là những người tu đạo nhưng vẫn ở tại gia đình mình. (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Tu Hành: Là Pháp tu TRUNG ĐẠO - Là con đường Chánh đạo mà chính Đức Phật đã dậy, áp dụng cho mọi Pháp tu (Lời HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Q1)
+ Tu Tại Gia _ Đức Phật dậy: Trong quyển Ưu-bà-tắc giới kinh, đức Phật dạy rằng: “Tại gia còn bị nhiều sự ràng buộc nơi gia đình, khó bề tu học, nhưng nếu tu học được thì công đức nhiều hơn người xuất gia”.
- Ông Anatapandica, tàu dịch là Cấp-Cô-Độc, một Đại phú hộ, có hỏi Phật: ”Bạch Phật, lòng tôi muốn làm lành và ban ân huệ cho muôn loài vạn vật, xin Phật giải bày cho tôi rõ coi, muốn đắc đạo tôi có phải bỏ gia thế, bỏ sự sản của tôi đặng đi ta bà như Phật chăng ?”
Phật bèn đáp: “Người nào giữ tròn Đạo Bát Chánh thì sẽ hưởng đặng hạnh phúc của sự tu hành. Người nào ham mến giàu sang thì mau trừ thói ích kỷ đó đi, đừng để nó nhiễm trong lòng mà phải mang hại. Còn người nào tiền của dư muôn, đã không quí trọng nó, lại còn làm việc phải, đó là người ban hạnh phúc cho nhân loại.
Ta khuyên ngươi hãy cần mẫn trong công việc làm ăn của ngươi, đừng bỏ nhà cửa đi đâu. Không phải tại cuộc đời, tại sự giàu sang hay là quyền thế bắt con người làm tôi mọi cho nó, song tại sự ham mến cuộc đời, tại sự ham mến cảnh giàu sang, tại sự ham mến quyền tước, nó giam hãm con người vào vòng vật chất.
Người tu ở tại nhà có đắc quả chăng?
Người đã quyết chí tu hành thì dầu ở hoàn cảnh nào cũng đều có kết quả. Tục ngữ có nói: “Nhứt là tu ở tại nhà, hai là tu ở non núi, thứ ba là tu ở chùa”. Đây là so sánh các hoàn cảnh, nơi nào dễ tu, nơi nào khó tu mà thôi.(Theo Facebook Vũ Ngọc Minh - trích từ Bạch Liên - thongthienhoc.com)
+ Tu Tam phước: Khởi đầu đường tu, điều đầu tiên của “Tam Phước” là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”, đây là gốc, không tu chân thật thì không thể tiến bước trên đường đạo.(PS Tịnh Không)
+ Người ngu tối - Căn tánh chậm chạp - Trí tuệ chưa phát triển nên Tu tín nguyện và giữ giới: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặc chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
+ MỚI TU cần vượt qua 4 loại Nghiệp Chướng để Tu Hành Phật Pháp:
1./- Hôn trầm;
2./- Vọng niệm tán loạn;
3./- Ác cảnh bức bách;
4./- Thân thể đột nhiên sanh bệnh hoặc truyện gia đình công việc bức bách (Nguồn: Xem Tại đây)
+ CÁC PHÁP TU CHO NGƯỜI MỚI TU
1. Thực Hành Thập thiện nghiệp đạo
+ Thân: Không sát sinh - Trộm cắp - Tà dâm
+ Khẩu: Không nói dối - Hai Lưỡi - Đôi chiều - Truyện nhảm nhí
+ Ý - Suy nghĩ: Không Tham - Sân Hận - Si Mê
2. Đọc Kinh Phật Và Lễ lạy Phật đều đặn: Ví dụ, mới tu nên đọc Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện; Kinh A DI Đà Phật;
3. Học một trong các Thần chú Phật đã dậy: Ví dụ Thần Chú Đại Bi; Trì Cú Thần Chú ...
+ Tu Thập trụ (Trong kinh Hoa Nghiêm, nơi phần Trị Địa Trụ ở phẩm Thập Trụ): Xem các Clip thày Hằng Trường giảng rất hay. Mời xem: (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Sơ Phát Tâm Tu Thập Trụ 1-2-3-4-5); (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Tu Trị Địa Trụ 1-2-3); (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Tu Hành Trụ 1-2-3-4-5-6) ...
+ Tu Tại Gia: Câu Hỏi 23: Còn ở tại nhà mà xuất gia, vậy có phải thật là xuất gia không?
Đáp: Nếu người tại gia, ở nhà mà có thể xa lìa được trần cấu thì cũng giống như là người xuất gia. Vậy người trong cảnh trần tục mà tâm thoát khỏi phàm trần, cũng như trồng hoa trong giếng, thì hoa đó không bị nhiễm trần. Là người xuất gia mà trong tâm nhiễm đầy trần cấu, thì cũng giống như người tại gia.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Tu hành tại gia: ... Sư nói: Chư Thiện tri thức! Muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Ở nhà mà thường tu hành, thì cũng như người Đông phương có lòng lành. Ở chùa mà chẳng tu, thì cũng như người Tây phương có lòng dữ, nếu lòng trong sạch, thì tánh mình tức là Tây phương vậy."
Vi Thứ sử lại hỏi: Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại sư chỉ dạy."
Sư nói: "Ta nói cho đại chúng một bài kệ Vô Tướng. Nếu y theo đó mà tu, thì cũng như thường ở cùng ta một chỗ không khác (Mời: Xem bài kệ để tu).
Bằng chẳng tu theo đó mà thế phát xuất gia, thì đối với Đạo nào có ích gì!" (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kinh Phân biệt Bố thí, Ðức Phật dạy:
- "Cho 100 người ác ăn không bằng cho 01 người thiện ăn.
- Cho 1.000 người thiện ăn không bằng cho 01 người thọ ngũ giới ăn.
- Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu Ðà Hoàn ăn.
- Cho một trăm vị Tu Ðà Hoàn ăn không bằng cho một vị Tư Ðà Hàm ăn.
- Cho một ngàn vạn vị Tư Ðà Hàm ăn không bằng cho một vị A Na Hàm ăn.
- Cho một ức vị A Na Hàm ăn không bằng cho một vị A La Hán ăn.
- Cho mười ức vị A La Hán ăn không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn.
- Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật ba đời ăn (Tam thế Phật).
- Cho một ngàn ức vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn". (Nguồn: Kinh phân biệt bố thí)
+ Quả báo thiện ác - Quả báo cát hung - Quả báo Họa phúc với con người
1- Phật tử cùng Tín phụng thờ Phật nhưng lại có quả báo sai biệt là vì sao? Mời đọc trong Kinh để biết Phật giảng rõ nguyên nhân có người Tín phụng thờ Phật thì cầu được ước thấy, nhiều điều cát tường như ý, nhưng có người thì cầu gì cũng không được, lại lắm tai ương ... Tất cả đều do tu không ssungs NHƯ PHÁP - NHƯ LỜI PHẬT DẬY mà ra quả báo sai khác nhau như vậy.
2.- A-Nan xót thương người đời nhiều ác, kém đức tin.
Lời Phật dạy chí chân chí thiết, mà người tin Phật quá ít oi, đời nầy xấu ác nhiều, chúng sanh nguyền rủa lẫn nhau, thật đáng đau lòng lắm vậy! Nếu có tin lời Phật cũng chỉ một hoặc hai thì làm sao hoán cải cõi đời ác trượt nầy, nên mới tồi tệ đến như thế.
3.- A- Nan thương xót chúng sanh mà cầu Phật trụ lâu ở đời.
Sau khi Phật diệt độ, kinh pháp tuy còn mà không có người tin, rồi dần dần suy tàn tán diệt! Than ôi! Đau lòng lắm thay! Sẽ phải nương cậy vào đâu, cúi xin đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh mê tối lầm lạc, chưa nên vào Niết bàn.
+ Thỉnh Phật trụ ở đời.
I- A-Nan nhân đây mà nói kệ rằng.
1/ Phật hộ trì ba cõi
Ân đức khắp chúng sanh
Nguyện vì tất cả chúng
Nên chưa thể Niết bàn.
2/ Người gặp chánh pháp ít
Mê muội không rõ chân
Đáng thương kẻ bất thức
Tội chướng sâu như thế
3/ Có phước gặp Phật pháp
Vạn triệu chỉ một hai
Kinh pháp tiêu tán dần
Biết phải nương vào đâu.
II- Nghi hoặc hủy báng Tam Bảo thì tội nặng.
III- Tội nào thì quả nấy
IV- Phước báo của người thọ trì giới.
V/ Nghi quả báo tội phước.
VI- Tâm ý thế gian là nguyên nhân của nghiệp báo.
VII- Kết thúc băng lời chuyển hóa. (Nguồn: Kinh A Nan vấn về Phật sự)
+ Quả Báo Phước nghiệp - Phước Báo - Phước Báu: Có 3 căn bản:
1. Hạng người sau đây, khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người không may mắn vì:
- Làm phước do bố thí trên một quy mô nhỏ
- Làm phước do giới đức trên một quy mô nhỏ
- Làm phước do tu tập trên một quy mô nhỏ.
2. Hạng Người, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người có may mắn vì:
- Làm phước do bố thí trên một quy mô vừa
- Làm phước do giới đức trên một quy mô vừa
- Không đạt được căn bản làm phước do tu tập.
3. Hạng Người, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên vì:
- Làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn
- Làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn
- Không đạt được căn bản làm phước do tu tập.
* Có nhiều cấp bậc chư thiên mà người đó có thể được sanh đến như
- Chư Thiên ở Tam thập Tam thiên
- Chư Thiên ở Yàma thiên
- Chư Thiên ở Tusità thiên
- Chư Thiên ở Hóa lạc thiên
- Chư Thiên ở Tha hóa tự tại thiên (Nguồn: Ba căn bản phước nghiệp)
Xem thêm: Công đức phước đức
+ Phật tử Tin phụng thờ Phật có quả báo kiết hung khác nhau - Vì sao?
1. Tôn giả A-Nan khải thỉnh Đức Phật về việc tín phụng Phật có quả báo bất đồng.
A-Nan bạch Phật rằng: “Có người tín phụng thờ Phật được giàu sang phú quý tốt lành như ý. Có người tín phụng thờ Phật lại phải quả báo không như ý, bị tiêu hao suy thoái. Tại sao có việc khác biệt lạ lùng như vậy? Cúi xin đức Thiên-Trung-Thiên (Phật) từ bi khắp vì chúng sanh mà giải nói cho.
Phật bảo A-Nan: “Có người phụng sự Phật, theo bậc minh sư thọ giới, tin tưởng, tinh chuyên hành trì không phạm, tinh tiến phụng hành giáo pháp, không thối thất điều đã lãnh thọ.
Hình tượng Phật phải trang nghiêm tốt đẹp, sáng chiều thành tâm lễ bái, cung kính thắp đèn nến, thanh tịnh bố thí được phước báo an lạc, hành vi không trái với lời Phật dạy, trì trai giữ giới không gián đoạn, không mỏi mệt, như thế lòng mới được an vui.
Thường được chư Thiên, thiện thần ủng hộ, tâm cầu như ý, hành sự như nguyện, trăm việc tăng tiến gấp đôi, được trời rồng quỷ thần mọi người kính trọng, về sau đắc đạo.
Kẻ thiện nam, người thiện nữ (y như giáo pháp đức Phật mà chánh tâm tu hành) là chân thật đệ tử Phật.
Có người tin phụng Phật mà không chịu tìm minh sư, không nghiên cứu kinh Phật, chỉ thọ giới thôi.
Chỉ có được cái danh thọ giới, mà hồ đồ mê muội không tin năng lực của giới, trái phạm giới luật, khi tin khi không, tâm ý do dự. Không có tâm hoan hỷ cung kính kinh điển tượng Phật, nên chẳng thành kính thắp hương đèn lễ bái, lại riêng ôm lòng nghi ngờ, giận hờn mắng nhiếc, ác khẩu đố kỵ người hiền.
Lại chẳng thực hành lục trai, ham thích sát sanh. Không tôn kính Phật, để kinh Phật chung lộn với áo quần vật bẩn thỉu; hoặc để kinh Phật chỗ bất tịnh giường ghế của vợ con; hoặc treo vắt trên ghế trên phên vách, không có tâm cung kính làm kệ tủ để kinh sách, xem thờ kinh Phật như kinh sách thế gian không khác.
Nếu khi bệnh tật, tự mình không tin tiền nhân nghiệp quả lại cầu hỏi thầy bói thầy phù thủy làm sớ văn cúng tấu để mong giải trừ. Thờ tà thần thì thiện thần xa lánh không còn hộ trì, do đây mà yêu tinh quỷ mị ngày một đến thêm nhiều, ác quỷ tụ tập nơi cửa khiến cho suy kiệt tổn hao, sở cầu không được tốt, hoặc mới vừa từ trong ác đạo ra được làm người, tuy là đời nay làm người, nhưng vẫn là người còn mang nặng tập khí tội lỗi. Hạng người như thế không phải đích thực là Phật tử.
Khi chết phải đọa vào địa ngục chịu các hình phạt tra khảo đau đớn, bởi do tà tâm gây tạo tội ác quả hiện đời suy thoái tiêu hao, đời sau lại còn phải chịu bao điều oan ương hoạn nạn, chết đọa vào đường ác luân chuyển chịu thống khổ khốc liệt không lời nào tả cho hết. Quả báo khổ đau như vậy đều do tâm niệm hành vi bất thiện đời trước và đời nầy tích tụ ác nghiệp mà hình thành.
Kẻ ngu mù tối không thấu hiểu nguyên nhân của quả báo do hành vi đời trước tạo nghiệp nhân, dẫn tới báo ứng nghiệp quả, chính là nguyên nhân từ trước đưa đến ngày nay. Rõ ràng như vậy mà không thấy biết, lại nói do phụng thờ Phật pháp nên phải suy thoái tiêu hao; không những không biết chính tự đời trước chẳng tu phước đức mà còn oán trách thiên địa, giận thánh hờn trời, bởi do người đời mê muội nên chẳng thông hiểu đạo lý nhân quả báo ứng.
Người không thấu đạt đạo lý, ôm lòng không yên, chí không kiên cường, tâm thối thất lạc đạo, trái phụ ơn Phật chỉ dạy mà không phản tỉnh hồi tâm, bị tà kiến trói buộc đọa đày trong ba đường ác, đều do mình tự tạo tác họa phước. Duyên do thức tâm tội ác, gieo thành gốc rễ lầm lạc, không thể không thận trọng.
Thập ác là oan gia, thập thiện là bạn lành, thân tâm an ổn đều do tu thiện mà được. Thiện là áo giáp bằng đồng không sợ binh đao; thiện là thuyền lớn có thể vượt nước sông sâu biển cả, hay giữ lòng tin chân chánh thì nhà cửa an hòa, phước báo tự nhiên tăng trưởng, đạt được từ việc tốt lành nầy đến việc tốt lành khác, không phải thánh thần ban cho. Nếu không tin như vậy thì về sau sẽ chuyển thành bi kịch.
Phật nói: Nầy A-Nan! Thiện ác theo người như bóng theo hình không có xa lìa nhau. Việc tội phước đối với chúng sanh cũng như vậy, chớ nên ôm lòng nghi ngờ mà tự đọa vào đường ác. Tội phước nhân quả phân minh, phải nên tin chắc chớ đừng lầm lẫn, thì chỗ ở thường an lạc. Lời Phật nói hết sức chân thật trọn không dối người.
Đức Phật lại bảo A-Nan: Như Lai không nói hai lời, khó gặp Phật ở đời, khó nghe được kinh pháp, ông có phước duyên đời trước, nên nay được hầu Phật nghe pháp.
Nên nghĩ đến việc báo ân Phật, Ngài đã giảng truyền giáo pháp, thị hiện làm người, làm ruộng phước điền cho người tín tâm gieo trồng phước đức để đời sau không còn lo âu. A-Nan lãnh thọ giáo pháp của Phật, tự mình phụng hành đồng thời truyền khắp cho chúng sanh đều nghe. (Nguồn: Kinh A Nan vấn Phật sự cát hung)
+ Kinh A Nan vấn Phật Sự Cát Hung - Ngài A Nan hỏi Phật (Sơ lược đề mục Kinh):
- Đoạn một: Tin phụng thờ Phật có quả báo kiết hung
- Đoạn hai: Quả báo của nghiệp sát sanh.
- Đoạn ba: Bổn phận thầy trò.
- Đoạn bốn: A-Nan hỏi cách cư xử.
1. A-Nan hỏi cách cư xử của người Phật tử.
A-Nan lại bạch Phật: “Vào thời mạt pháp, các đệ tử học Phật cùng với việc đời hằng ngày tương duyên sanh tồn, liệu lý việc nhà hệ lụy đến thân miệng thì phải làm cách nào trong trần mà không nhiễm trần.
2. Phật dạy cách làm thế gian sự mà không có thế gian ý.
Phật nói: Nầy A-Nan! Người có thọ giới pháp của Phật, thành tín phụng hành, hiếu thuận cha mẹ, dè dặt cẩn thận hành vi, quy kính Tam Bảo, hiếu dưỡng cha mẹ, tận trung quốc dân, trong tâm ngoài thân cẩn trọng hành thiện, tâm miệng hợp nhau, như thế cho dù làm việc thế gian mà không có ý thế gian.
3. A-Nan cầu xin Phật giảng giải ý nghĩa thế gian sự, thế gian ý.
A-Nan thưa với Phật: Thế nào là thế gian sự? Thế nào là thế gian ý? Thật khó phân biệt.
Phật nói: Là đệ tử Phật có thể mua bán kinh doanh thương nghiệp, đúng cân đủ thước, không nên lừa dối, làm đúng tình lý, không trái lương tâm lý tánh tự nhiên, tống táng, hôn thú, di cư đều là thế gian sự.
Là đệ tử Phật thì đối với việc thế gian ý như xin xăm bói quẻ, càu thỉnh sùng bái quỉ thần, phù chú, trù yếm, tấu sớ giải trừ, xem lựa ngày giờ tốt xấu, tất cả những thứ nầy đều không nên làm.
4- Phật huấn thị về cung cách và bổn phận người Phật tử.
Thọ trì năm giới Phật chế là người phước đức. Phàm làm việc gì nên khải bạch Tam Bảo. Phật huyền thông thấu suốt không việc nhỏ nhặt nào mà không biết.
Người có giới đức thì chư thiên thiện thần tận lực kính hộ, chư thiên hóa hiện để phục dịch, trời rồng quỷ thần đều kính phục. Tôn quý giới luật xưa nay chưa có điều chẳng cát tường, đâu phải lo ngại điều chẳng lành ư?
Đạo thì bao la trùm che khắp đại địa, kẻ không thấu đạt lý nầy, lại tự làm chướng ngại cho chính mình.
Việc thiện ác do tâm người làm. Họa phước đều do người tạo. Thiện ác phước theo người như bóng theo hình, như vang theo tiếng.
Người có giới hạnh là có đạo đức ứng hợp với chân tánh tự nhiên, chư thiên hộ trì, sở nguyện không trái ý, cảm động mười phương, đức tánh bằng trời, vun bồi công đức vĩ đại, thánh hiền ngợi khen, khó có thể nghĩ bàn.
Kẻ trí hiểu sự đạt lý trọn đời không rơi vào đường tà, khéo y như lời Phật dạy thì có thể đạt đạo giải thoát.
Đoạn năm: A-Nan biết mình có phước duyên gặp Phật, thương xót người đời nhiều nghiệp tội ít lòng tin.
1. A-Nan biết mình được phước duyên gặp Phật ở đời.
A-Nan nghe Phật thuyết xong, sửa lại y áo chỉnh tề, đầu mặt cúi sát đất bạch Phật: “Tuy nhiên cúi xin đức Thế Tôn, chúng con có phước duyên được gặp đức Như Lai, khắp cho ân đức lớn lao, mong Ngài thương nghĩ đến tất cả chúng sanh, vì họ mà làm ruộng phước, khiến cho họ được thoát khổ”.
2.- A-Nan xót thương người đời nhiều ác, kém đức tin
Lời Phật dạy chí chân chí thiết, mà người tin Phật quá ít oi, đời nầy xấu ác nhiều, chúng sanh nguyền rủa lẫn nhau, thật đáng đau lòng lắm vậy! Nếu có tin lời Phật cũng chỉ một hoặc hai thì làm sao hoán cải cõi đời ác trượt nầy, nên mới tồi tệ đến như thế.
3. A- Nan thương xót chúng sanh mà cầu Phật trụ lâu ở đời.
Sau khi Phật diệt độ, kinh pháp tuy còn mà không có người tin, rồi dần dần suy tàn tán diệt! Than ôi! Đau lòng lắm thay! Sẽ phải nương cậy vào đâu, cúi xin đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh mê tối lầm lạc, chưa nên vào Niết bàn.
Đoạn sáu: Thấy mình có phước duyên, lại thương xót chúng sanh tội nhiều phước mỏng lòng tin yếu kém. Tôn giả A Nan cảm kích nên lời thi kệ để tóm lược lời Phật dạy giảng nói để đại chúng dễ nhớ, đồng thời cũng khuyến pháp hội phát tâm Bồ đề.
1- Thỉnh Phật trụ ở đời.
A-Nan nhân đây mà nói kệ rằng: “Nhân đây” có nghĩa là tôn giả A-Nan cảm thấy mình được phước duyên gặp Phật nghe pháp tín thọ tu hành, đồng thời nghĩ đến những chúng sanh hiện đời và đời sau khó gặp được Phật, nên kính xin Phật trụ lâu ở đời để cho thế nhơn thấm nhuần ơn pháp nhủ, có đủ nghị lực phát tâm tu hành. Đồng thời tôn giả cũng làm hai mươi tám bài thi kệ khuyến hóa người đời. Hai mươi tám bài kệ có thể chia làm bảy đoạn:
2- Nghi hoặc hủy báng Tam Bảo thì tội nặng.
3- Tội nào thì quả nấy
4- Phước báo của người thọ trì giới.
5/ Nghi quả báo tội phước.
6- Tâm ý thế gian là nguyên nhân của nghiệp báo.
7- Kết thúc băng lời chuyển hóa.
Đoạn bảy: Đại chúng nghe A-Nan nói kệ đều hoan hỷ phát tâm Bồ đề
1- Đại chúng phát tâm Bồ đề.
A-Nan nói như thế rồi, đại chúng trong pháp hội thấu hiểu đều phát chánh tâm tinh tấn cầu đạo vô thượng Bồ đề.
2- Đại chúng phát tâm tự độ độ tha.
Hương xông thơm ba cõi, từ đây được độ thoát, mở bày đường giác ngộ, bắt cầu độ chúng sanh.
3- Thính chúng trong pháp hội tâm trí khai thông đồng hân hoan tiếp nhận lời Phật và A-Nan nói.
Vua quan thần dân, thiên long quỷ thần nghe kinh hoan hỷ tiếp nhận những điều A Nan vừa nói. Tất cả đại chúng vừa buồn vừa sợ, cúi dầu đảnh lễ chưn Phật và lạy A-Nan thọ giáo mà lui ra.
Lưu ý: Trên đây chỉ sơ tóm lược đề mục chính trong Kinh. Xin quí vị xem kỹ Kinh gốc mới có đủ nội dung và lời giảng kinh của Pháp Sư Tịnh Không để hiểu rõ rồi thực hành. (Nguồn: KINH ANAN VẤN PHẬT SỰ CÁT HUNG - HT Tịnh Không giảng)
+ Định quang phát minh, dấn sâu vào tính sáng, chỉ có tiến chứ không lui, gọi là Bất thối tâm.
Giảng giải:
Khi tâm trụ trong định, Định quang phát minh, dấn sâu vào tính sáng. Bậc thiện tri thức tu tập, họ chỉ có tiến chứ không lui. Khi đã hiểu rõ, họ chỉ tiến tới chứ không bao giờ quay trở lại. Lý do họ không thể đảo ngược là họ thực sự hiểu biết, họ có trí tuệ chân thật, đấy gọi là Bất thối tâm. Tín tâm ấy không bao giờ lui trở lại.
Kinh văn:
Tâm an nhiên tiến tới, giữ gìn không mất, giao tiếp với khí phần mười phương Như Lai, gọi là Hộ pháp tâm
Giảng giải:
Tâm an nhiên tiến tới, luôn tiến về phía trước, và không để thoát khỏi tầm tay. Họ rất kiên định và an nhiên, và giữ gìn không mất, đấy là tâm bất thối của họ. Những người tu ấy giao tiếp với khí phần mười phương Như Lai. Khi một người tu hành đến độ không thể đảo ngược thì năng lực của Phật sẽ hòa hợp với họ, đấy gọi là Hộ pháp tâm. Điều ấy có nghĩa Phật bảo hộ quý vị, và quý vị hộ trì Phật pháp. Với sự bảo hộ của Phật, chúng ta có thể thành tựu nghiệp của mình theo đạo; với sự hộ trì của chúng ta, Phật pháp được phát triển, lan rộng và đấy là tín tâm hộ pháp vậy. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu hành tại Vạn Phật Thánh Thành
Tiếng bảng đều đặn vang lên từng hồi giữa đêm khuya tĩnh mịch, xua tan bóng tối âm u đang bao trùm vạn vật. Bây giờ là đúng ba giờ rưỡi sáng, ánh trăng dịu mát đang chiếu qua khe cửa. Vào giờ này, hầu hết mọi người vẫn còn đang say sưa trong giấc ngủ; riêng những người mang bổn nguyện và hoài bảo của kẻ xuất gia, phải là những người giác ngộ trước tiên trong vũ trụ, do đó họ cần phải thức dậy sớm nhất!
Theo Tỳ Ni Nhật Dụng Năm Mươi Ba Tiểu Chú, tập sách gắn liền với đời sống của người xuất gia, thì điều đầu tiên mà họ phải nghĩ tới sau khi thức dậy là “phải vì chúng sanh, không nên vì mình”:
Chương trình một ngày bắt đầu từ sáng sớm, sự khởi đầu mà tốt đẹp thì kể như đã thành công được một nữa. Sáng sớm tinh mơ thức dậy, việc quan trọng nhất của người xuất gia là hành lễ Công Phu Khuya – một mặt là để thôi thúc bản thân tinh tấn, không lười biếng, đồng thời cũng để gìn giữ tình, khí, thần của chính mình; và mặt khác là mượn sức mạnh của sự tụng Kinh trì Chú để quét sạch mọi hắc ám và tà khí trước khi bình mình ló dạng, để hạo nhiên chánh khí được tồn tại trong trời đất trước lúc vạn vật sinh hoạt trở lại. Như thế suốt ngày yêu ma quỷ quái sẽ không dám hung hăng, lộng hành. Cho nên việc trì tụng Thần Chú Lăng Nghiêm là đặc biệt cần thiết. Thần Chú này là tiêu biểu của Chánh Pháp và cũng là khắc tinh của yêu ma quỷ quái; do đó Thần Chú Lăng Nghiêm vô cùng quan trọng. Chỉ cần trên thế giới có một người tụng Thần Chú Lăng Nghiêm thì yêu ma quỷ quái sẽ không dám công nhiên xuất hiện tác oai tác quái rồi, huống hồ là mọi người đều đồng tâm hiệp lực, cùng nhau tụng niệm! Sức mạnh này càng khó thể nghĩ bàn hơn nữa!
Trong thời khóa Công Phu Khuya, sau khi tụng Kinh và Chú xong, đại chúng tụng Mười Đại Hạnh Nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Mười Đại Hạnh Nguyện nầy nhắc nhở kẻ tu hành phải noi gương phát tâm của Bồ Tát Phổ Hiền, học tập tinh thần của Bồ Tát, và đem mọi công đức hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Đó cũng là tu hạnh Bồ Tát vậy.
Tiếp theo lễ Công Phu Khuya là lễ Bái Nguyện. Đây là thời điểm “cảm ứng Đạo giao” giữa chúng Phật tử với chư Phật và chư Bồ Tát, là lúc hào quang của chư Phật và sự thành tâm của chúng sanh giao tiếp nhau. Từng chuỗi Phạm âm Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thanh thoát, trầm bổng ngân vang chẳng khác nào từng đợt sóng biển nhịp nhàng kéo đến gột rửa những trái tim thành khẩn huớng thiện được thêm trong sách, sáng lạn và viên dung hơn nữa. Trong nhiều năm qua, âm điệu truyền thống cổ điển này đã thức tỉnh không biết bao nhiêu kẻ mê muội, lầm lạc và giúp họ tìm lại được quê nhà đích thực của mình. Bái Nguyện cũng là biểu hiện lòng thiết tha của người Phật tử, thành khẩn phát lồ sám hối và khẩn cầu chư Phật cùng chư Bồ Tát “từ bi nhiếp thọ, hào quang rạng ngời, soi chiếu thân con, mọi ác tiêu trừ, thân tâm thanh tịnh.” Qua sự sám hối, người Phật tử đạt được sự lợi lạc cho bản thân và cho cả người khác, nguyện cầu cho mình cũng như hết thảy chúng sanh đều sớm lìa khổ được vui, vãng sanh Tịnh Độ, đồng thành Phật Đạo.
Tại Vạn Phật Thánh Thành, thường thì mỗi ngày đều có hai tiếng đồng hồ Tọa Thiền ở Vạn Phật Điện, và được chia làm hai thời – sáng từ 6 giờ đến 7 giờ, và chiều từ 5 giờ đến 6 giờ. Đó là lúc mà các cư sĩ tại gia dùng điểm tâm và cơm chiều, còn các Tăng Ni và những cư sĩ chỉ ăn ngày một bữa thì lợi dụng khoảng thời gian này để tinh tấn, nỗ lực hành Đạo như lời nhắc nhở của Hòa Thượng Tuyên Hóa: “Đừng bỏ qua cơ hội có thể khai ngộ, dù chỉ một giây, một phút!”
Những người tu hành của Vạn Phật Thánh Thành sau bốn tiếng đồng hồ dụng công bây giờ phân tán để chấp tác, tiếp tục dụng công tu hành qua công việc.
Thời xưa, có nhiều bậc cao tăng, đại đức đã đạt được sự thành tựu trong lúc làm việc cực nhọc; do đó không phải chỉ khi ngồi tham Thiền, tụng Kinh, lạy Phật mới là tu hành, mà là ở mọi nơi mọi lúc đều là tu hành cả. Người tu hành thì phải “động không chướng ngại tĩnh, tĩnh không chướng ngại động, động tĩnh chẳng phải hai”; bất cứ lúc nào cũng phải như như bất động, an nhiên tự tại. Do vậy, chấp tác cũng là một phần của sự tu hành. .....
Sáu giờ rưỡi chiều là giờ hành lễ Công Phu Tối. Nội dung Công Phu Tối cứ tuần tự một hôm tụng Kinh A Di Đà và một hôm tụng Lễ Phật Đại Sám Hối (Hồng danh 88 vị Phật). Thời khóa Công Phu Tối kết thúc vào lúc 7 giờ rưỡi tối, và tiếp theo đó là giờ giảng Kinh thuyết Pháp. Gia phong của Vạn Phật Thánh Thành là “một ngày không giảng Kinh thuyết Pháp là một ngày không ăn không uống.” ..... Thời gian thuyết Pháp mỗi buổi tối là một tiếng rưỡi đồng hồ từ 7 giờ rưỡi đến 9 giờ. Kể đến là nữa tiếng đồng hồ tụng phần tâm chú của Chú Lãng Nghiêm. Nếp sinh hoạt hằng ngày tại Vạn Phật Thánh Thành được kết thúc với bài kệ Cảnh Tỉnh Đại Chúng của Bồ tát Phổ Hiền.
Mười giờ rưỡi tối, ai nấy đều tuân theo hiệu lệnh tiếng bảng mà tắt đèn. Tất cả lại trở về với tịch tĩnh. Mọi người về liêu phòng nghỉ ngơi. Riêng đối với những người tinh tấn tu hành thì đây cũng chính là thời gian để tiếp tục dụng công. “Ngủ mà không ngủ, luôn ngồi không nằm” là bản sắc của kẻ tu hành vậy. (Nguồn: Tu Hành Tại Vạn Phật Thánh Thành)
+ Ăn uống - Ăn ít - Ăn chay - Nhịn ăn làm thân thể khỏe mạnh - Thân tâm tinh sạch ít bệnh tật
Trì trai tu phạm hạnh: Nguyên văn trong chữ Hán là trai. Trì trai tức là ăn chay chứ không ăn mặn. Nhưng chữ trai này có nghĩa khác hơn, sâu hơn nữa, khi tham cứu nguyên bản bằng tiếng Pali thì chữ trai này ngày xưa người ta sử dụng để dịch chữ thanh lọc (purification). Ngày xưa người ta dùng chữ trai chung với chữ giới, gọi là trai giới, nghĩa là ăn chay và giữ giới. Đây không phải là vấn đề riêng của người xuất gia mà đây cũng là sự thực tập của người tại gia, tức là phải khổ hạnh một chút xíu, phải tiết chế, không được hưởng thụ nhiều để có thể thanh lọc được thân và tâm. Trai giới để cho thân và tâm được nhẹ nhàng, thân tâm nhẹ nhàng thì hạnh phúc sẽ dễ dàng có được, còn thân hoặc tâm quá nặng thì hạnh phúc sẽ ít hơn. Vì vậy không những người xuất gia giữ trai giới mà người tại gia cũng nên giữ trai giới.
Tại Làng Mai thỉnh thoảng có khóa tu sức khỏe, trong khóa tu mọi người ăn rất ít, không những ăn chay mà ăn rất là ít, uống nước rất nhiều, tập thể thao rất nhiều, súc ruột (nhịn ăn) để thanh lọc thân thể. Khi thân nhẹ nhàng thì tâm cũng nhẹ nhàng, mình cũng làm thế nào để cho những lo lắng, buồn phiền, tham đắm nhẹ bớt. Mình được tham dự một khóa tu, được nghe pháp thoại, được thực tập thiền tọa, thiền hành, và đi bộ một ngày mấy giờ đồng hồ, và cố nhiên là mình không có liên hệ tình dục thì thân tâm của mình được thanh lọc. Đây không phải chỉ là thực tập của những người xuất gia mà là cả của người tại gia. Nếu biết cách thực tập thì trong giai đoạn đó mình có hạnh phúc liền, còn bị bắt buộc phải làm thì mình không có hạnh phúc lắm.
Trong nguyên văn tiếng Phạn có chữ tapas có nghĩa là khổ hạnh, tiết chế, thanh lọc. Khổ hạnh (duskaracarya) tức là thực tập tiết chế. Trì trai và giữ giới, chữ trai dịch nguyên văn từ chữ tapas, tức là tiết chế khổ hạnh. Người cư sĩ cũng nên có những giai đoạn thực tập như vậy để thanh lọc thân và tâm của mình. Giữ giới là không gần gũi, chung chạ về vấn đề sắc dục. Cho nên phạm hạnh (brahmacarya) không phải chỉ cho người xuất gia mà người tu tại gia thỉnh thoảng cũng nên làm như vậy.
Bản dịch của kinh Phước Đức là biết tinh cần, tỉnh thức. Tinh cần ở đây tức là tinh cần thanh lọc. Thành ra mình phải sửa cho gần với nguyên văn hơn. Biết ăn chay, biết tu theo phạm hạnh mình nên dịch là biết tinh cần thanh lọc thân tâm và tu theo phạm hạnh thì hay hơn dịch là ăn chay. Ăn chay ở đây có nghĩa là thanh lọc thân, thanh lọc tâm, khổ hạnh một chút xíu để cho nhẹ nhàng. Trong bản dịch từ tiếng Pali mình cũng phải sửa lại là sống tinh cần, tỉnh thức. Tinh cần ở đây là chuyên cần thanh lọc thân tâm cho thường, chứ đừng có lâu lâu mới làm một lần mà mỗi năm phải làm nhiều lần. Đi một khóa tu sức khỏe, một khóa tu bảy ngày hay hai mốt ngày để thanh lọc thân tâm và tu theo phạm hạnh (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức - HT Thích Nhất Hạnh)
+ Các ví dụ Phát nguyện trong công việc hàng ngày của Phật tử
- HT Tuyên Hóa phát nguyện mua lại khi Nhà đất cũ để tạo lập Chùa Vạn Phật Thánh Thành ở Hoa Kỳ:
Hoà Thượng kể lại : ‘Thế rồi khoảng nửa năm sau lại có người ngỏ lời muốn đầu tư làm ăn và đến thương lượng với tôi. Song le, tôi thì không có tiền, cũng chẳng có vốn liếng gì cả. Dù vậy, tôi cũng cứ dẫn một nhóm gồm 18 người đi xem nơi ấy. Mọi người xem mặt tiền của khu bệnh viện trước. Xem xong, tâm tư cũng có phần nào dao động, tôi chợt nghĩ : ‘Chỉ xây bệnh viện này thôi cũng xây không nổi!’ Do đó, tôi bèn đặt vấn đề với 18 người ấy: ‘Chúng ta đều là Phật tử, do đó, chúng ta nên vì Phật tử mà chút việc hữu ích. Nếu không thì thật đáng hổ thẹn vô cùng và chúng ta cũng chẳng còn mặt mũi nào đối diện với thế nhân. Cho nên hôm nay tôi phát nguyện là tôi sẽ mua toàn bộ nhà cửa và đất đai thuộc bất động sản này!’... (Nguồn: Giới thiệu Vạn Phật Thánh Thành)
+ Phát Nguyện Theo Lời Dạy Của Bồ Tát Quan Thế Âm (Trích từ Kinh Chú Đại Bi).
Nếu có vị Tì khưu, Tỳ khưu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết tất cả pháp.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ các chúng sanh,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau lên thuyền bát nhã.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được qua biển khổ,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau được đạo giới định.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau về nhà vô vi.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
Địa ngục liền mau tự tiêu diệt,
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ.
Ngạ quỷ liền được tự no đủ,
Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục,
Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.
Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi (Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm hoặc Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát), rồi lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai (24), kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử. (Nguồn: Xem giảng và hướng dẫn trì Chú Đại Bi và kết ấn)
+ Lời Nguyện Xấu - Tốt: Đức Phật dậy, lời nguyện xấu tốt đều được thành tựu. Cho nên không được phát thề/ nguyện với lời nguyện (Nguyền) không trong sáng, không lợi tha. (Xem: TH về Phát Tâm - Nguyện:Bài viết số 4)
+ Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm (HT Tuyên Hóa Giảng Chú Đại Bi - câu thứ 37: Thất na thất na là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện”)
- HT Tuyên Hóa cũng dạy: Trong tu hành, không phát nguyện cũng giống như cây ra Hoa mà không thành quả được. Lời Phát nguyện mà có thể làm lợi ích cho người thì dù là vọng tưởng cũng không đáng ngại; (Nguồn: Vấn đáp Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay)
+ Phát nguyện nên phát triển từ nhỏ đến lớn, đến đại nguyện theo hạnh Bồ Tát đạo: Lời Nguyện vị tha - Làm gì cho người khác được lợi ích - Nên phát nguyện trước bàn thờ, tượng Phật, Bồ tát, đức Thầy hay hội chúng nhiều người. Nên phát nguyện hợp với khả năng, có tính khả thi trong thực hiện trong một thời gian có thể kiểm chứng nhanh, tạo nhiều động lực hơn (Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi - 42 Thủ Nhãn_Clip 06, phút thứ 19)
+ Nguyện vọng rực lửa: Sự bừng cháy với lòng nhiệt thành và nỗ lực “tinh tấn” hướng đến lý tưởng, hoặc tự rèn luyện nhằm đạt mục tiêu phải thật sâu xa trong tâm đến mức không khó khăn, trở ngại nào có thể khiến y lùi bước. Khi hành giả đã tỏ ra rằng không vấn đề khó khăn nào, không sự tối tăm hay thời gian lâu dài nào ngăn trở được y, thì bấy giờ y mới được phép trở thành đệ tử của một vị Chân sư. Sự cố gắng mãnh liệt, lòng thiết tha kiên định và liên tục, và sự trung thành không dời đổi đối với lý tưởng thấy được qua thị kiến tinh thần, là điều kiện thiết yếu của Con đường Đệ tử. (Sách: Ánh Sáng Của Linh Hồn)
+ Nguyện vọng phải phát khởi trước khi có sự lưu nhập của nguồn cảm hứng tinh thần. Phàm ngã phải thở ra trước khi có sự thở vào của Chân ngã cao siêu. Nguyện vọng có ẩn ý là lửa. Nó ngụ ý ước vọng bừng cháy, và quyết tâm nồng nhiệt, rốt cuộc mang lại ba điều cho người chí nguyện. Xem nguyện vọng rực lửa.
+ Lời nguyện giải tỏa lỗi lo sợ: Tôi muốn đề nghị họ nhớ nằm lòng và luôn luôn sử dụng, khi bị cuốn đi bởi nỗi sợ hãi do ảo tưởng và điềm báo vô ích, công thức hoặc lời cầu nguyện sau đây: “Xin cho thực tại chi phối mọi suy nghĩ của tôi, và chân lý là chủ nhân của cuộc đời tôi”. (LVHLT, 239)
+ Lập đại nguyện - Phát Tâm Bồ Đề: Phật nói: Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát, khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề phải lập đại nguyện, và nói như thế này: “Nếu tôi chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tôi sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh được an trụ trong cảnh đại Niết Bàn, lại sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh, thảy đều được đầy đủ bát nhã ba la mật”. Như thế gọi là tự lợi cũng gọi là lợi tha. (Xem: TH về Phát Tâm - Phát nguyện: Bài số 1)
+ Phát Nguyện tùy theo nhân duyên và công việc hàng ngày
- Phát nguyện với Phật sự: HT Tuyên Hóa khi gặp nhân duyên có người bán Nhà đất đắc địa là một bệnh viện cũ bỏ hoang nhiều năm do không có nước dùng, ngài muốn mua để làm chùa, tuy không có tiền tài, nhưng ngài đã phát nguyện mua khu dự án này tại Hoa kỳ để làm chùa Vạn Phật Thánh Thành. Rất tuyệt diệu .
- Phát nguyện trong tu hành: Mỗi người tu đều nên phát nguyện hàng ngày
- Phát Đại Nguyện của Bậc Thánh. Ví dụ như HT Tuyên Hóa có 18 Đại nguyện trong kiếp tái sanh gần nhất, trong đó nguyện thứ 14. Nguyện rằng tất cả chúng sinh nào, khi thấy mặt tôi, cho đến chỉ nghe tên tôi, đều phát tâm Bồ-đề, mau đắc thành Phật đạo. Mời xem 18 đại nguyện tại: Sơ lược tiểu sử HT Tuyên Hóa
+ Kinh Ước Nguyện: Đức Phật giảng cho các Tỳ kheo/ Người xuất gia cách ước nguyện chân chánh... Mời xem tại Kinh Ước Nguyện
Xem thêm về Phát nguyện quan trọng như thế nào
+ Nhân duyên thành lập Chùa Vạn Phật Thánh Thành và xác định vị trí mạch nước ngầm
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đã tạo lập chùa Vạn Phật Thánh Thành vào năm 1976 và đặt trụ sở tại đây. Chùa Vạn Phật Thánh Thành bao gồm hơn 488 mẫu đất với trên 60 tòa nhà.
Hòa Thượng Tuyên Hóa đã nói về nhân duyên thành lập Vạn Phật Thánh Thành như sau : ‘Có thể nói rằng nhân duyên thành lập Vạn Phật Thánh Thành đã được định trước từ vô lượng kiếp – Phật Pháp nhất định sẽ được truyền bá đến phương Tây, và khi ấy, Vạn Phật Thành sẽ xuất hiện. Sự xuất hiện ấy không có nghĩa là Vạn Phật Thánh Thành sẽ từ trên trời rơi xuống hay ở dưới đất mọc lên, mà là do con người kiến tạo nên – chính con người đã xây cất bảy, tám chục tòa nhà này....
Làm sao xây cất được bảy, tám chục tòa nhà như thế? Toàn bộ công trình này được xây dựng trước Ðệ Nhị Thế Chiến, lúc Hoa Kỳ đang ở vào thời kỳ thịnh vượng nhất – đó là lý do vì sao người ta có thể kiến tạo được những tòa nhà qui mô như vậy. Công trình này được thực hiện một cách đàng hoàng, cẩn thận, hoàn toàn không có sự gian dối, hoặc bớt xén công và vật liệu. Các tòa nhà này đều rất kiên cố và vật liệu hoàn toàn là loại có phẩm chất đặc biệt tốt’....
Hoà Thượng kể lại : ‘Thế rồi khoảng nửa năm sau lại có người ngỏ lời muốn đầu tư làm ăn và đến thương lượng với tôi. Song le, tôi thì không có tiền, cũng chẳng có vốn liếng gì cả. Dù vậy, tôi cũng cứ dẫn một nhóm gồm 18 người đi xem nơi ấy. Mọi người xem mặt tiền của khu bệnh viện trước. Xem xong, tâm tư cũng có phần nào dao động, tôi chợt nghĩ : ‘Chỉ xây bệnh viện này thôi cũng xây không nổi!’ Do đó, tôi bèn đặt vấn đề với 18 người ấy: ‘Chúng ta đều là Phật tử, do đó, chúng ta nên vì Phật tử mà chút việc hữu ích. Nếu không thì thật đáng hổ thẹn vô cùng và chúng ta cũng chẳng còn mặt mũi nào đối diện với thế nhân. Cho nên hôm nay tôi phát nguyện là tôi sẽ mua toàn bộ nhà cửa và đất đai thuộc bất động sản này!’...
Sau khi mua lại khu bệnh viện, Hòa Thượng đã mở mang và phát triển thành Vạn Phật Thánh Thành. Nhằm giải quyết nạn khan hiếm nước, Hòa Thượng đã dùng Trí Huệ Nhãn để xác định vị trí mạch nước ngầm. Đây là một sự kiện bất khả tư nghị, và cho đến nay, mọi người vẫn thích nhắc lại với niềm xúc động pha lẫn hào hứng; Hoà Thượng tay cầm gậy, đi đi lại lại quan sát. Đột nhiên Ngài đập đập đầu gậy vào một chỗ nọ và nói: ‘Đào ngay chỗ này!’ Nhân công được mướn đến để đào giếng phản đối: ‘Không được! Chúng tôi đã trắc lượng và đào thử chung quanh đây hết rồi. Chỗ này chắc chắn không có nước đâu!’ Hòa Thượng nói: ‘Không sao! Cứ đào thử xem!’ Và khi đào được chừng một trăm bộ thì quả nhiên gặp mạch nước – nước phun lên xối xả! Ai nấy đều mừng rỡ và tấm tắc ca tụng là kỳ tích. Mạch nước ấy vô cùng dồi dào, đủ để cung cấp cho cả mười ngàn người nữa! (Nguồn: Giới thiệu Vạn Phật Thánh Thành)
+ Đạo của người quân tử: Là trung hiếu nhân nghĩa, còn như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là không phải người (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Ngũ thường - Năm đức tính của con người quân tử theo Đạo đời:
1. Nhân: Nhân (trong "nhân hậu")
2. Nghĩa: Nghĩa (trong "chính nghĩa")
3. Lễ: Lễ (trong "lễ phép")
4. Trí: Trí (trong "trí tuệ")
5. Tín: Tín (trong "uy tín")
... Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh, kinh Hoa nghiêm ghi: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đây cũng là lời Đức Phật dạy, con người sau khi chết, được thân người lại rất khó; huống gì theo nguyên lý kinh Phật đã dạy, đời sau muốn được làm thân người thì nhất định phải đầy đủ điều kiện của năm giới. Năm giới với năm thường của nhà Nho ở Trung Quốc nội dung giống nhau. Năm thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
1. Nhân (Không gây tổn hại): Nhân (trong "nhân hậu") là lòng yêu thương đối với vạn vật. Ứng với Mộc trong ngũ hành. Là nhân từ chúng ta làm được không? Đối với người, đối với vật chúng ta có lòng nhân từ chưa?
2. Nghĩa (Không tham lam): Nghĩa (trong "chính nghĩa") là phải cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải. Ứng với Kim trong ngũ hành. Đối với người, đối với sự vật, chúng ta có tận tâm làm tròn nghĩa vụ chưa? Tuy có thù lao, nhưng không xem trọng thù lao mà cho là việc bổn phận của ta. Chúng ta phải tận tâm tận lực làm cho tốt; đây là đạo nghĩa, nhưng không nên xem là trả thù lao. Thù lao nhiều thì tôi làm nhiều, thù lao ít thì tôi làm ít, hạng người này không có nghĩa. Thấy lợi phải luôn nghĩ đến nghĩa, không vì lợi mà quên nghĩa, có quyền lợi chính đáng phải biết nghĩ đến người khác (lộc bất tận hưởng). Người trọng nghĩa khinh tài rất đáng kính.
3. Lễ (Không kiêu mạn): Trong "cung kính lễ phép", mang tính tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. Ứng với Hỏa trong ngũ hành. Giữa người với người phải có lễ phép qua lại, gồm rất nhiều thủ tục lớn chào hỏi, lễ khi vào đình chùa, vào nhà mới, cưới xin ....Người hiểu biết và giữ lễ nghi là người có văn hóa. (* Thầy Hằng Trường giảng Clip 9: Tu Lễ - Nét đặc trưng để làm người tốt. Tu lễ + Tu hành = Người toàn diện; Nếu thêm Tu luyện => Siêu nhân, có năng lực thần thông)
4. Trí (Không nghiện ngập): Trí (trong "trí tuệ") là sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai. Ứng với Thủy trong ngũ hành. Nói đơn giản là lý trí, chẳng phải theo tình cảm mà làm việc. Lý trí là khả năng hiểu biết và phân biệt tốt xấu, đúng sai, việc quan trọng và ít quan trọng, thường tự trách mình, thường tránh không gây tạo chia rẽ, hận thù, thường dùng lời nói bình hòa giúp người đúng lúc, đúng chỗ và đúng pháp ...
5. Tín (Chân thật): Tín (trong "uy tín") là phải giữ đúng lời hứa. Ứng với Thổ trong ngũ hành. Là tín dụng, chữ tín rất quan trọng là “không dối mình, không lừa người”. Tự lừa dối mình là lương tâm bị mê muội. Chúng ta thường nghe tục ngữ nói: “Người không có lương tâm”. Người không có lương tâm thì bàn đến chữ tín làm gì? Bên trong lương tâm mê muội; bên ngoài dùng nhiều thủ đoạn tinh vi lừa gạt người khác.
- Người nào phạm 5 điều này thì đời sau không làm được thân người. Chúng ta làm được năm điều này thì lương tâm không có hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người. Chúng ta xem những người này trong xã hội ngày nay, lại so với mình, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm mình, tự mình có làm được hay không? Tự mình đời sau có được thân người không? Nếu như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì đời sau nhất định đọa trong ba đường ác. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Lục đại tông chỉ: Tương ứng với Ngũ thường (Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín) và Ngũ giới, cụ thể:
- Không tranh, tức là không sát sinh;
- Không tham, tức là không trộm cắp;
- Không cầu, tức là không dâm dục;
- Không ích kỷ, tức là không vọng ngữ;
- Không tự lợi, tức là không uống rượu.
* Không nói dối là người tu đạo muốn tiến xa phải thật hành. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Ngũ thường - Đức hạnh biểu hiện
1. Nhân: Là tâm nhân ái không muốn sát hại sinh mạng kẻ khác.
2. Nghĩa: Lòng nhận thức biết làm chuyện gì phải, và làm hết sức đứng đắn, đúng với trung-đạo, không có thái quá cũng không có thiếu sót, không nghiêng về bên phải cũng chẳng lệch qua phía trái, luôn luôn trung-đạo. Hiểu biết nghĩa lý thì không ăn cắp. Người có nghĩa khí thì không bao giờ ăn cắp đồ vật kẻ khác.
3. Lễ: Là lễ thứ lễ mạo, lễ tiết. Nếu mình có lễ tiết thì không làm những chuyện gian dâm. Ăn cắp và tà dâm đều là thứ không hợp với lễ nghĩa, đi ngược lại với luân thường.
4. Trí: Người có trí huệ thì không bao giờ uống rượu, hay hút thuốc xì ke, ma túy, những thứ độc dược. Người ngu si thì mới làm những thứ điên đảo nầy.
5. Tín: Người có thành tín thì không bao giờ nói dối cả.
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đó gọi là Ngũ-thường. Hễ mình có đầy đủ Ngũ-thường này tức là có đạo, có đức. Cho nên đạo đức là do từ nơi tâm sinh ra. Nhưng khi phát ra thì nó có nhiều hình thái: có xanh, vàng, đỏ, trắng, và đen. Ðó là biểu hiện của đức hạnh, là ánh sáng của đức hạnh. Cho nên ông Hàn Dũ trong bài Nguyên Ðạo có một đoạn văn nói rằng: "Nghĩa là lòng bác ái tức là lòng Nhân. Lòng nhân đúng cách (hợp lẽ) thì gọi là Nghĩa. Nhờ đó mà tiến tới gọi là Ðạo. Ðầy đủ nơi mình không dựa vào bên ngoài nên gọi là Ðức." Ông Mạnh Tử cũng nói rằng: Nghĩa là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí sinh gốc rễ trong tâm mình. Màu sắc của nó chiếu soi nơi vẻ mặt, sáng soi nơi lưng, vận dụng nơi tay chân. Tứ thể không cần nói nhưng biểu hiện đã rõ. Người có đức thì không những biểu hiện nơi khuôn mặt của mình, mà ngay trên lưng của mình cũng lưu lộ ánh sáng đức độ, thậm chí cho đến tay chân cũng có thể biểu hiện ra đạo đức đó. Ðức tướng nầy không cần nói mà tự nó phát hiện ra, khiến ai ai cũng thấy một cách rõ ràng. Sự biểu hiện của đức hạnh chân chính đó là do công phu dụng công. Ðức hạnh nầy mình không thể giả trang được, nếu như hư dối thì chỉ tạm thời thôi, chớ không thể vĩnh viễn lừa dối người khác được.... (Nguồn: Biểu Hiện của Đức Hạnh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đạo làm Người rất hay: Xem 28 Điều Lời Khai thị của Ấn Quang Đại Sư
+ Khổng Tử bàn về “đạo của quân tử”
Cao Đình nước Tề nói với Khổng Tử: “Tôi từ nước Tề xa xôi đến đây gặp Ngài vì muốn học đạo quân tử. Mong Ngài hãy chỉ cho tôi”.
Khổng Tử đáp: “Nội tâm phải chính trực, đây là cái gốc làm người. Bề ngoài, trong công việc phải cẩn trọng, giữ vững ý chí của mình; kiên trì thực hiện nhân nghĩa; thấy người có tài đức thì khiêm tốn học tập; gặp kẻ tiểu nhân bất tài thì tránh xa. Với người quân tử có tài năng không sinh lòng đố kỵ mà phải biết học tập. Làm được như thế thì người ở xa đến mấy cũng có thể thân như anh em. Nếu không muốn học theo đạo người quân tử thì người ở gần bên cạnh cũng khó thân nhau được”.
“Còn nữa, trong cuộc sống thường ngày, mỗi ngày chúng ta nói gì, làm gì, muốn làm sao không nói lời gây tai họa, làm những việc mình phải ân hận, thật không phải dễ dàng. Chỉ có người tài năng, có trí tuệ mới làm được. Vì thế phải luôn cẩn trọng, chú ý lời nói và việc làm của mình. Cần biết: cho dù một người cả đời trước đây chưa làm điều gì sai trái, nhưng cũng có thể chỉ vì một câu nói không hay nhất thời mà bao nhiêu công lao trước đây bị mất hết. Vì thế, muốn trở thành người quân tử phải luôn luôn cẩn trọng!” (Xem Khổng Tử bàn về quân tử)
+ Tâm sở qui định BẢN TÁNH hay CĂN TÁNH con người.
Theo Phật giáo, con người có 6 căn tánh chính là: Tham, Sân, Si, Kiêu, Mạn, Nghi. Sáu căn tánh nầy phối hợp với nhau cho ra 63 tánh tình khác nhau. Gồm có 14 thuần tánh và 49 hổn hợp tánh. Không ai có thể biết chính xác tâm tánh người khác, ngay cả tâm tánh của chính mình hay của vợ chồng với nhau, ngoại trừ những vị có Tha Tâm Thông.
+ Phật giáo có 5 yếu tố để xét đoán về 6 căn tánh người:
1- Oai nghi: Cách đi, đứng, ngồi, nằm, cử chỉ, nói năng…
2- Thọ dụng: Cách ăn uống, sở thích ăn uống. TD: Người tham thích ăn vị béo ngọt.
3- Cách làm việc, Ví dụ:
- Người Minh: Làm việc chu đáo, kỹ lưỡng
- Người Tham: Làm việc nhanh le, gắp rút.
- Người Sân: Làm việc dục chạc, cẩu thả.
4- Cách nhận thức, tính cảm quan, cách diễn dịch sự vật xuyên qua 5 giác quan: Lạc quan, bi quan hay thực tế hay không tưởng (trên trời, dưới đất). Cách chấp thủ, bám víu, hay thờ ơ, lảnh đạm với đối tượng nầy.
5- Khuyết tánh(tánh xấu), ví dụ:
5.1- Người Tham: Không biết đủ, mưu mô, gian xảo, hay xo đo những gì có lợi cho mình ; tự cao, ngã mạn ; thích được tân bốc.
5.2- Người Sân: Nóng giận, thù hiềm, hay chỉ trích việc công đức người khác, ganh tị, bỏn xẻn, hối tiếc.
5.3- Người Si : Ngủ nhiều, không tỉnh táo, phân vân, ngờ vực vì không có khả năng để nhận xét đối tượng, thiếu tự tin.
5.4- Người Tín: Dể tin, dể dụ ; nếu thích hợp với tánh tầm thì lại hay hoài nghi, chẻ sợi tóc làm 4.
5.5- Người Minh: Có nhiều tánh tốt hơn tánh xấu, tùy loại:
* Nếu hợp với tham thì họ sẽ ích kỹ, ngã mạn.
* Nếu hợp với sân thì họ sẽ thiếu nhẫn nại và hay bõ rơi đồng bạn.
5.6- Người Tầm: Thường nói nhiều, có ý nghĩ rắc rối, chẻ sợi tóc làm tư, vui thích những nơi tập hợp đông đảo, thiên hướng bất định, nên việc làm không đi đến kết quả. Đêm hay suy tính, nghĩ ngợi nên thường hay mất ngủ hoặc ngủ ít.
+ Tâm Tính/ Đức Tính thiện lành: Căn cứ vào Tooltip "Lợi ích của người tu tập theo Thập thiện" và Bát tránh đạo để đánh giá người có các đức tính thiện lành, Tooltip "người đại thiện" theo Đức Phật dậy => Làm căn cứ dự đoán số mệnh (Nguồn: Kinh thập thiện)
Nguồn: Nghiên cứu Tâm Tánh
Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
Xem thêm: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
Tóm lược chủ đề vài Kinh Phật
+ Kinh Địa Tạng: Tông chỉ của bộ Kinh này gồm có bốn điều và được bao hàm trong tám chữ "Hiếu Ðạo, Ðộ Sanh, Bạt Khổ, Báo Ân." Tám chữ này nói lên điều gì? Ðó là "tinh nghiên hiếu đạo" - đạo lý hiếu thảo với cha mẹ. Con người nếu biết giữ hiếu đạo thì trời đất sáng ngời rạng rỡ. Ðiều khiến cho trời đất cảm động cũng chính là lòng hiếu thảo, nên nói: ""Thiên địa trọng hiếu, hiếu đương tiên" (trời đất đều xem trọng đạo hiếu, hiếu là trước nhất).
+ Bát nhã Tâm kinh: Một khi mở kinh ra thì trí huệ Bát Nhã phóng quang đầy khắp sáu phương. Bộ tâm kinh là tâm trong tâm bát nhã, tuy chỉ có hai trăm sáu mươi chữ mà lấy chữ tâm trong kinh bát nhã làm chủ thể, nên gọi tâm trong tâm. Nay lại nói chữ tâm này, chính là tâm trong tâm, nên gọi là tâm kinh. Chân tâm biểu hiện chân tâm, nên dùng một chữ tâm. Pháp này là bát nhã ba la mật đa, cũng là pháp đạt đến bờ giác. Tâm là dụ. Kinh này lấy tâm trong một đời người làm chủ thể, nên tuyệt không và vượt ngoài đối đãi. Pháp tuyệt không đối đãi này cũng không có pháp nào đối đãi được, siêu việt, vượt ngoài cảnh giới đối đãi. (Nguồn: Tâm Kinh Bát Nhã)
+ Kinh Bát Nhã đại nhân giác: Tám điều làm người phải biết gồm Đời vô thường - Dục là khổ - Nên biết đủ - Lười thì bị đọa - Vô minh thì Luân hồi - Nghèo khổ rễ hành xấu ác - 5 Dục là lỗi lầm tai hại - Sanh tử không ngừng
+ Lục Tổ Đàn Kinh: ... Trước khi Tổ sư Đạt Ma đến Trung Quốc, Ngài có phái hai người đệ tử là Phật Đà và Da Xá đến Trung Quốc truyền pháp môn đốn ngộ, đốn giáo, tức là Thiền tông. Ai ngờ hai Ngài đến Trung Quốc lại gặp phải cảnh trái ý nghịch lòng, tất cả các Tăng sĩ thời đó đều không xem trọng hai Ngài.
+ Kinh Tạp A Hàm: Gồm 4 Kinh Tạng: .... Phật đã thấu suốt hết thảy mọi pháp và có thể thuyết minh tất cả các pháp”.
Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật: Thế nào gọi là Phật thuyết hết thảy các pháp? Phật tùy cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi? Phật theo căn tính của chúng sinh và tùy thời cơ mà thuyết các pháp.
+ Kinh Bốn Ân Lớn - Ai cũng chịu bốn ân lớn này: ƠN CHA NGHĨA MẸ - NHỚ ƠN TỔ QUỐC - ƠN BA NGÔI BÁU - ƠN NGHĨA CHÚNG SINH
+ Kinh Đại Phương Tiện Phật báo Ân: Kinh giảng nói về trong tiền kiếp, nhiều lần đức Phật không tiếc Thân Mạng để báo ân Cha Mẹ.
+ Kinh Ngọn Đèn Sáng Tỏ: Một Sự Tiên Tri Về Tương Lai của Đức Phật.
+ Kinh - I. Phẩm Vô Minh: Khi nào vô minh dẫn đầu, đưa đến sự thành tựu các pháp bất thiện -> Tà kiến sanh -> Tà tư duy sanh -> Tà ngữ sanh -> Tà nghiệp sanh -> Tà mạng sanh -> Tà tinh tấn sanh -> Tà niệm sanh -> Tà định sanh.
+ Kinh phước đức - Kinh Cát tường - Kinh điềm lành: Đức Phật dạy cách tu học để được nhiều nhiều phúc đức
+ KINH CHÁNH KIẾN: Phật bảo, phần lớn người đời đều bị kẹt vào chấp mắc (Chấp có - Chấp không) và bảo thủ. Người không bị kẹt vào chấp và thủ thì không còn nắm giữ và vọng tưởng về cái ngã nữa. Người ấy biết cái khổ, chẳng hạn, khi có điều kiện phát sinh thì nó phát sinh, khi hết điều kiện tồn tại thì nó tiêu diệt. Người ấy không còn nghi hoặc gì nữa cả. Cái thấy của người ấy không do ảnh hưởng của kẻ khác mà có, trái lại do chính người ấy tự đạt được. Cái thấy ấy gọi là chánh kiến.
+ Tóm lược sơ lược Kinh Dược Sư: Y theo Phật Điển ghi chép thì 12 vị Thần Tướng ấy ở trong 12 giờ của ngày đêm, bốn mùa, 12 tháng thay phiên nhau thống lãnh quyến thuộc thủ hộ chúng sinh. Riêng việc phối trí 12 vị Thần Tướng với 12 vị Thời Thần thì có ba dòng truyền thừa.
* Cách thứ nhất (Nguyệt Tướng): bắt đầu khởi từ Hợi ngược lên cho đến Tý (Nguyệt Tướng) tức Cung Tỳ La là Hợi Thần, Bạt Chiết la là Tuất Thần .... Tỳ Yết La là Tý Thần.
* Cách thứ hai (Nguyệt Lệnh): khởi từ Dần thuận đến Tý (Nguyệt Lệnh) tức Cung Tỳ La là Dần Thần, Bạt Chiết La là Mão Thần..... Tỳ Yết La là Sửu Thần.
* Cách thứ ba: khởi từ Tý thuận đến Hợi tức Cung Tỳ La là Tý Thần, Bạt Chiết La là Sửu Thần..... Tỳ Yết La là Hợi Thần.
Thân Bản Địa (tức Bản Địa Thần) của 12 Đại Tướng Dược Xoa ......... Do đó, 12 vị Dược Xoa Đại Tướng là các vị Hộ Pháp trọng yếu ắt phải có Bản Địa Thần tương ứng để đối ứng.
+ Kinh hiếu tử: Thế Tôn hỏi, Con phụng dưỡng cha mẹ, trăm vị ngọt ngon bốn mùa mời dâng. Âm nhạc với đủ loại cung bậc luôn làm vui người nghe tai. Áo quần sang trọng, sạch, mới để cha mẹ mặc. Hai vai cõng cha mẹ đi khắp mọi chốn, trọn đời như vậy để báo đáp ân sinh thành. Tất cả những việc làm như thế đáng gọi là hiếu chăng?
Các vị Sa-môn thưa: Bạch Thế Tôn! Là đại hiếu. Ðức Phật bảo: Những điều mắt thấy ở thế gian chưa phải là hiếu. Chỉ có thực hành ... Tức có thể khiến cho cha mẹ bỏ ác, theo thiện, quy kính Tam bảo, giữ năm giới. Nếu không dùng Tam Bảo để khuyến hóa cha mẹ, thì người con tuy có hiếu dưỡng đủ đường cũng vẫn xem là bất hiếu…
+ Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân - Chữ hiếu - Báo hiếu: Trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ, nếu là con bạc, giẫy dụa bãi bơi, khiến đau lòng mẹ; buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho xiết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay dấu thay! Phật bảo A-Nan: Công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu.
+ Kinh Hiền Nhân: Những lời giản dị nhưng đầy vẽ hiểu đời và chứng tỏ hạnh phúc chỉ có khi nào tâm niệm được an lành và thanh-thoát. Nhân loại đã bỏ lui sau bước chân những hạt vàng quí giá và mắt mờ còn trông ngóng những bào ảnh đâu xa..., cuốn "HIỀN-NHÂN" nầy là một cuốn kinh luân-lý và đạo-đức Phật dạy cho kẻ bạch-y. Như tôi đã nói luân-lý nhà Phật bao trùm cả luân-lý Đông, Tây, các bạn có để tâm mới thấy rõ.
+ Kinh Phân Biệt Thiện Ác Báo Ứng: Thế tôn bảo Du ca rằng: Con chó Thương khư này quả thật là cha của ngươi?
Trưởng giả thưa: Đúng vậy, Thưa Thế tôn, như lời đức Phật đã nói chân thật không hư dối, tất cả những điều nghi hoặc của con đều đã đoạn trừ....
+ Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật: Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt. Phải biết rằng giới luật là bậc Thầy tối thượng. ..... Người giữ giới thì không được kinh doanh, thương mại, xây dựng nhà cửa, cày cấy ruộng vườn, đầu tư nông nghiệp, thuê người giúp việc, theo kiểu thế tục. Không được chặt đốn cây cối, đào đất, móc hang, điều chế dược liệu, đoán quẻ tốt xấu, xem sao đoán mạng, nghiên cứu địa lý, tìm tòi hưng suy, hay coi lịch đoán số.
+ Kinh A nan vấn Phật sự: Đức Phật dậy, Thọ trì năm giới Phật chế là người phước đức - Người Thiện lành. Phàm làm việc gì nên khải bạch Tam Bảo. Phật huyền thông thấu suốt không việc nhỏ nhặt nào mà không biết..... Kinh Kim Cang có nói : "Tất cả chúng sinh có những tâm gì, Như Lai đều biết đều thấy"....
+ Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé: Người phá thai tội rất nặng, nếu biết chân thật sám hối thì rất tuyệt..... Đức Phật bảo: “Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào thọ trì đọc tụng thần chú này, như họ muốn tụng chú này cho em bé đang ở trong bào thai, hoặc cho em bé đã sanh rồi, hay cho các em bé mắc bệnh, thì trong bảy ngày bảy đêm hãy thắp hương rải hoa, biên chép Kinh này để cúng dường, và chí tâm tín thọ, thì tất cả trọng bệnh cùng nghiệp chướng ở đời trước của chúng đều sẽ được tiêu trừ.”....Tuy họ có bốn loại ma đang cư ngụ trong thân thể, nhưng chúng sẽ không thể ngang ngược lộng hành. .... Nếu có đệ tử nào của Phật đang mắc bệnh hoạn trầm trọng mà nghe được thần chú này, thì sẽ liền thoát khỏi bị chúng ác quỷ đoạt mất tánh mạng.”....
+ Kinh Phân Biệt Công Đức Bố Thí: Tuy tu hành cần có Tâm không phân biệt, nhưng Nghệ thuật bố thí của người có trí tuệ phân biện vẫn mang lại diệu quả thần diệu hơn.
+ Kinh Đại Sư Tử Hống: Này Sariputta, những ai nói một cách chân chánh, vị ấy sẽ nói về Ta (Đức Phật) một cách chân chánh như sau: "Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người"....
+ Ðọc Kinh Lăng Nghiêm là để khai trí huệ..... Lại có những quyến thuộc của ma vương, vô cùng khiếp sợ chân lý của Kinh Lăng Nghiêm phá tà hiển chánh, thanh tịnh minh hối, chuyển mê về ngộ (HT Tuyên Hóa giảng Kinh)
* Chú lăng nghiêm: Chú Lăng Nghiêm là chủ thể của Kinh Lăng Nghiêm. Nếu không có chú Lăng Nghiêm, thì không có Kinh Lăng Nghiêm ... (HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Ðọc Kinh Pháp Hoa là để thành Phật.
Nên nói: Khai huệ là Lăng Nghiêm; thành Phật là Pháp Hoa. Kinh Hoa Nghiêm thì quy nguyên: Trở về gốc. Ai ai cũng từ trong pháp giới này lưu xuất; ai ai cũng sẽ trở về với pháp giới. Các bạn nên tuyển lựa một bộ kinh mà các bạn cảm thấy vui thích nhất thì nó mới khế cơ (hợp với căn cơ bạn). Ðã có pháp khế cơ rồi , bạn hãy nghiên cứu nó, không nên ngày ngày cứ lo làm tiền, quên mất Phật pháp. (Nguồn: Pháp ngữ HT Tuyên Hóa)
+ Kinh Hoa Nghiêm: Pháp đại thừa chân thật. Rất tuyệt vời.
+ Nhiều tóm lược chủ đề các Kinh Phật khác nữa: Mời Xem tại đây
+ Chú Lăng Nghiêm - Thủ Lăng Nghiêm:
- Mời đọc: Khai thị về Kinh và Chú Thủ Lăng Nghiêm
- Mời đọc: Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm
+ Ứng dụng Chú Lăng Nghiêm: Trừ ái dục và
Tôi đã nói với quý vị về việc tụng chú Lăng Nghiêm. Nếu quý vị tụng được chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ là một trong những người giàu nhất thế giới trong bảy kiếp sau. Thực vậy, nếu ngay bây giờ, nếu quý vị tụng được chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ là một trong những người giàu nhất thế giới vì quý vị nhận ra được Pháp bảo tạng nầy. Và khi quý vị đặt Pháp bảo tạng nầy vào trong tâm quý vị rồi thì còn có ai đánh cắp ra khỏi được? Bất kỳ loại kẻ cắp nào cũng không lấy được. Pháp bảo tạng nầy ở trong tự tánh của quý vị. Nó đã được cất giữ trong vòm trời Như Lai tạng của quý vị. Chẳng ai có thể tìm đến đó để lấy cắp được. Chẳng thể diễn tả nó vi diệu đến chừng nào. Nếu quý vị thâm nhập được Phật pháp, thì ngay bây giờ quý vị là một trong những người giàu nhất thế gian. Nhưng bây giờ thì quý vị chưa sử dụng tài sản đó được. Khi nào quý vị thành Phật rồi thì điều ấy sẽ thuộc về quý vị. Bây giờ gia tài ấy chỉ mới được kí thác với tên của quý vị, nhưng quý vị chưa đến tuổi trưởng thành, thế nên bây giờ chưa dùng được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
- Chú Thủ Lăng Nghiêm tiêu trừ Ái dục: ... Như Ma-đăng-già trước kia là dâm nữ, do nhờ sức của thần chú mà tiêu trừ ái dục. Nay trong Phật pháp có tên là Tánh tỷ-khưu ni.
Giảng giải:
"Như Ma-đăng-già trước kia là dâm nữ, do nhờ sức của thần chú mà tiêu trừ ái dục". Trong đời trước, cô ta là dâm nữ, vốn nhiều ái dục. Tuy vậy, năng lực của thần chú Thủ-lăng-nghiêm đã khiến cho tiêu tan hết ái dục trong cô. Nên bây giờ chúng ta mới biết công dụng thần chú Thủ-lăng-nghiêm là để tiêu trừ ái dục trong lòng mỗi người. “Thế thì tôi chẳng muốn tụng chú Thủ-lăng-nghiêm nữa,” quý vị bác lại. “Tôi không muốn tình yêu của mình bị khô héo. Tôi muốn có tình yêu mãi mãi.”
Giữ mãi tình yêu ấy? Được rồi! Quý vị cứ mặc tình. Nếu quý vị đã thích rồi, thì chẳng ai ngăn cản được. Nhưng quý vị nên nhớ rằng thần chú Thủ-lăng-nghiêm không những chỉ trừ bỏ được nghiệp ái, mà còn có thể khiến cho tăng trưởng năng lực thần thông và trí huệ. Đó là năng lực bất khả tư nghì.
Ái tình là khổ đau. Như tôi vừa nói đến. Yêu và ghét là hai cái khổ. Chẳng hạn, hãy xem tình yêu mà không được đáp lại. Người đang yêu không nghĩ đến gì khác ngoài người mình yêu đến mức không ăn không ngủ được. Họ cứ mơ tưởng đến cách theo đuổi, nhưng cuối cùng họ vẫn không đạt được. Có phải đó là nghĩ mãi đến cái khổ hay không?
Nay trong Phật pháp có tên là Tánh tỷ-khưu ni.
Pháp danh Tánh tỷ-khưu ni của Ma-đăng-già biểu hiện sự nhận ra tự tánh của cô ta. Ngay khi Đức Phật nói pháp cho cô ta nghe, ngay lúc đó cô ta chứng ngộ, đạt được quả vị thứ ba của hàng A-la-hán, không qua các thứ bậc sơ quả đến quả vị thứ hai. Cô ta chứng ngộ ngay quả vị thứ ba. Vì cô nhận ra rằng, thấy rằng ái dục vốn là không. A-nan vẫn còn trong giai vị sơ quả, trong khi người vợ của ông trong 500 kiếp trước đã vượt qua mình quá xa.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ LĂNG NGHIÊM CHÚ SỚ LƯỢC GIẢNG
Nhân duyên Ðức Phật thuyết kinh Lăng Nghiêm là vì A Nan bị Ma Ðăng Già Nữ dùng tà chú Tiên Phạm thiên mê hoặc, nhiếp dẫn vào nhà dâm, dựa kề vuốt ve, làm cho A Nan sắp bị hủy hoại giới thể. Ðức Phật sai Bồ tát Văn Thù đem chú đến cứu hộ, dắt A Nan về chỗ Phật. Vì thế nên biết Chú Lăng Nghiêm là chủ thể của Kinh Lăng Nghiêm. Nếu không có chú Lăng Nghiêm, thì không có Kinh Lăng Nghiêm. Mà Charles Luk khi phiên dịch Kinh Lăng Nghiêm ra tiếng Anh, lại võ đoán bỏ đi phần chú Lăng Nghiêm cùng với phần kiến lập thiết trí đạo tràng, nói người Tây phương đối với chú không có gì hứng thú. Ðiều này thật là hoàn toàn sai lầm. Thật như rằng lấy tai thay mắt (đối với vự việc chỉ nghe người ta nói liền tin theo mà không chịu phân tích, xét đoán), giống như thằng mù dẫn thằng đui, người ta nói sao mình cũng tào lao làm bậy theo, thật là vô tri ngu dốt, đáng thương vô cùng, đáng hổ thẹn biết bao. Ðã không thỉnh giáo với các bậc Thiện trí thức, lại lấy ý kiến nông cạn hẹp hòi của riêng mình, độc tài Kinh nghĩa, không sợ quả báo, gan to tầy trời, mà những người không hiểu biết lại a dua theo đó. Lại có những quyến thuộc của ma vương, vô cùng khiếp sợ chân lý của Kinh Lăng Nghiêm phá tà hiển chánh, thanh tịnh minh hối, chuyển mê về ngộ. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kinh Hoa Nghiêm: Pháp đại thừa chân thật. Rất tuyệt vời. Ở đây có đường dẫn tới fai với nội dung chỉ tóm tắt sơ lược đề mục Kinh để tiện tra cứu. Kính xin mời quí vị tìm đọc Kinh văn gốc HT Tuyên Hóa giảng giải.
GIỚI THIỆU
Mở đề Kinh Hoa Nghiêm ................................................13
Dẫn nhập..........................................................................18
Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm Thứ Nhất ..........................28
Giới thiệu sơ lược về bảy nơi, chín hội, ba mươi chín phẩm. Bộ Kinh nầy gồm có 45 phẩm Kinh văn, nhưng chỉ dịch ra được 39 phẩm, gồm 80 quyển.
Hội thứ nhất thì nói về "tin nhân quả".
Từ hội thứ hai đến hội thứ sáu thì nói về "sai biệt nhân quả".
Hội thứ bảy thì nói "bình đẳng nhân quả".
Hội thứ tám thì nói "thành hạnh nhân quả".
Hội thứ chín thì nói "chứng nhập nhân quả".
Hội thứ nhất có 11 quyển là : Cử quả hoan lạc sinh tín phần. Từ hội thứ hai đến hội thứ bảy cộng lại có 41 quyển là : Tu nhân khế quả sinh giải phần. Hội thứ tám có 7 quyển là : Thác pháp tiến tu thành hạnh phần. Hội thứ chín có 21 quyển là : Y nhân chứng nhập thành đức phần.
Hội thứ nhất tại Bồ Đề Đạo Tràng Hội nầy nói sáu phẩm :
1. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm.
2. Phẩm Như Lai Hiện Tướng.
3. Phẩm Phổ Hiền Tam Muội.
4. Phẩm Thế Giới Thành Tựu.
5. Phẩm Thế Giới Hoa Tạng.
6. Phẩm Tỳ Lô Giá Na.
Hội thứ nhì ở tại Điện Phổ Quang Minh.
Hội nầy nói sáu phẩm :
7. Phẩm Danh Hiệu Như Lai.
8. Phẩm Bốn Thánh Đế.
9. Phẩm Quang Minh Giác.
10. Phẩm Bồ Tát Vấn Minh.
11. Phẩm Tịnh Hạnh.
12. Phẩm Hiền Thủ.
Trên đây là mười hai phẩm diệu pháp nói ở tại nhân gian.
Hội thứ ba ở tại Điện Diệu Thắng trên cung trời Đao Lợi.
Hội nầy cũng nói sáu phẩm.
13. Phẩm Thăng Lên Đỉnh Tu Di.
14. Phẩm Kệ Tán Tu Di.
15. Phẩm Thập Trụ.
16. Phẩm Phạm Hạnh.
17. Phẩm Công Đức Ban Đầu Phát Tâm.
18. Phẩm Minh Pháp.
Hội thứ tư ở tại Điện Bảo Trang Nghiêm, cung trời Dạ Ma.
Hội nầy nói bốn phẩm.
19. Phẩm Thăng Lên Trời Dạ Ma.
20. Phẩm Kệ Tán Dạ Ma.
21. Phẩm Thập Hạnh.
22. PhẩmThập Vô Tận Tạng.
Hội thứ năm ở tại Điện Nhất Thiết Diệu Bảo Trang Nghiêm, cung trời Đâu Suất.
Hội nầy nói ba phẩm.
23. Phẩm Thăng Lên Trời Đâu Suất.
24. Phẩm Kệ Tán Đâu Suất.
25. Phẩm Thập Hồi Hướng.
Hội thứ sáu ở tại Điện Ma Ni Bảo Tạng, cung trời Tha Hoá Tự Tại.
Hội nầy chỉ nói một phẩm.
26. Phẩm Thập Địa.
Trên đây là mười bốn phẩm diệu pháp nói ở trên Thiên cung.
Hội thứ bảy ở tại Điện Phổ Quang Minh.
Hội nầy nói mười một phẩm :
27. Phẩm Thập Định.
28. Phẩm Thập Thông.
29. Phẩm Thập Nhẫn.
30. Phẩm A Tăng Kỳ.
31. Phẩm Thọ Lượng.
32. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ.
33. Phẩm Thập Thân Tướng Hải.
34. Phẩm Tuỳ Hảo Quang Minh.
35. Phẩm Hạnh Phổ Hiền.
36. Phẩm Như Lai Xuất Hiện.
Hội thứ tám tại Điện Phổ Quang Minh. Hội nầy chỉ nói một phẩm
38. Phẩm Lìa Thế Gian.
Hội thứ chín ở tại Rừng Thệ Đa.
Hội nầy chỉ nói một phẩm:
39. Phẩm Vào Pháp Giới.
Giải thích chúng Bát bộ Tứ Vương (tám bộ chúng, bốn ông vua hộ đời), Bát bộ tức là :
1. A Tu La Vương.
2. Ca Lâu La Vương.
3. Khẩn Na La Vương.
4. Ma Hầu La Già Vương.
5. Dạ Xoa Vương.
6. Long Vương.
7. Cưu Bàn Trà Vương.
8. Càn Thát Bà Vương.
Tứ Vương tức là :
1. Phương bắc Đa Văn Thiên Vương.
2. Phương tây Quảng Mục Thiên Vương.
3. Phương nam Tăng Trưởng Thiên Vương.
4. Phương đông Trì Quốc Thiên Vương.
Mỗi vị thống lãnh hai bộ chúng.
Mười hai chúng chư thiên thuộc dục giới và sắc giới. Tại dục giới có bảy chúng :
1. Nguyệt Thiên Tử.
2. Nhật Thiên Tử.
3. Tam Thập Tam Thiên Vương.
4. Tu Dạ Ma Thiên Vương.
5. Đâu Xuất Thiên Vương.
6. Hóa Lạc Thiên Vương.
7. Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương.
Tại Sắc giới có năm chúng :
1. Đại Phạm Thiên Vương.
2. Quang Âm Thiên Vương .
3. Biến Tịnh Thiên Vương.
4. Quảng Quả Thiên Vương.
5. Đại Tự Tại Thiên Vương.
+ Trang nguồn đầy đủ các tập: Tất cả 25 tập Kinh Hoa Nghiêm
+ Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác: Làm người phải biết
Là đệ tử Phật thì phải thường cả ngày lẫn đêm hết lòng thành kính đọc và nghĩ nhớ tám điều giác ngộ này:
1- Phải biết thế gian là vô thường; quốc độ thì mong manh không bền chắc; bốn đại là khổ, là không; năm ấm là vô ngã, hay sinh diệt đổi dời, nó giả dối không thật cũng không chủ; tâm là nguồn gốc của mọi điều ác; thân là chỗ tu tập nhiều điều tội lỗi. Nếu đúng như vậy mà quán xét thì xa dần sinh tử.
2- Phải biết nhiều dục là khổ; sanh tử nhọc nhằn mỏi mệt đều là do tâm tham dục mà phát sinh. Vậy phải bớt cái lòng tham dục mà học Đạo Giác Ngộ Giải Thoát thì thân tâm mới được an vui tự tại.
3- Phải biết tâm người thì không bao giờ biết đủ, ngược lại chỉ mong cầu được nhiều nên càng thêm lớn nhiều tội ác. Còn người tu hạnh Bồ Tát thì chẳng phải vậy, vì họ thường nghĩ nhớ về pháp biết đủ, sống an vui trong cảnh nghèo khó mà giữ Đạo, và chỉ lấy Trí Tuệ làm sự nghiệp duy nhứt cho đời tu của mình.
4- Phải biết lười biếng thì đọa lạc; nếu thường tu hành tinh tấn thì có thể phá trừ các nghiệp ác phiền não, phá vỡ và hàng phục bốn ma, ra khỏi nhà tù của năm ấm và mười tám giới.
5- Phải biết do ngu si (vô minh) mà có sinh tử. Do vậy người tu hạnh Bồ Tát thì thường nhớ học rộng nghe nhiều, để thêm lớn Trí Tuệ, thành tựu được cái tài nói pháp thông suốt và lưu loát, hầu giáo hóa tất cả chúng sanh, và khiến họ đều được vui lớn.
6- Phải biết nghèo khổ thì thường sanh nhiều thù hận, nên dễ kết nhiều duyên xấu ác. Do vậy người tu hạnh Bồ Tát thì nên nhớ bình đẳng mà bố thí dù người đó có là kẻ oán hay người thân của mình; không nhớ những lỗi lầm xưa, cũng không ghét người ác.
7- Phải biết năm dục là lỗi lầm tai họa. Vậy cho nên tuy còn là người thế tục, cũng đừng nên đắm nhiễm những dục lạc của thế gian. Phải thường nhớ nghĩ đến ba Y, một Bát khất thực, và những dụng cụ đúng pháp của người xuất gia để nuôi lớn chí nguyện xuất gia, giữ cái đạo trong sạch, sống một đời sống phạm hạnh cao vời, và từ bi với tất cả chúng sanh.
8- Phải biết sanh tử không ngừng thiêu đốt nên khổ não cũng không số lượng. Do vậy cần phải phát khởi cái Tâm Đại Thừa, mới có thể cứu giúp khắp tất cả chúng sanh, nguyện thay thế cho chúng sanh chịu vô lượng khổ, và khiến cho các chúng sanh rốt ráo được an vui lớn.
Tám điều như vậy đều là chỗ giác ngộ của chư Phật, Bồ Tát, bậc Đại Nhân; do nhờ tinh tấn hành đạo, tu hạnh từ bi và trí tuệ, mà các ngài ngồi thuyền pháp thân đến bờ Niết Bàn, lại vào sinh tử dùng tám điều này mà khai đạo cho tất cả chúng sanh, khiến cho các chúng sanh thấu rõ được cái khổ sinh tử, mà xa rời năm dục, tu tâm theo con đường Hướng Thượng của chư Phật chư Tổ. Nếu là người đệ tử Phật thì nên đọc tám điều này trong từng mỗi niệm, để diệt vô lượng tội, tiến đến Bồ Đề, tốc lên ngôi Chánh Giác, vĩnh viễn chấm dứt sinh tử, và thường ở trong an lạc. (Nguồn: Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác)
+ Xem thêm giảng kinh của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh rễ hiểu: Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác
+ Các Phương Pháp Tu - Các Pháp Tu - Các Pháp Môn tu: TÙY THEO CĂN CƠ TRÍ TUỆ MÀ CHỌN
a/ Học hiểu giáo lý: Trong nhà Phật nói có đến tám mươi tư ngàn pháp môn tu hành tùy theo căn cơ của mỗi chúng sinh. Đầu tiên là phải học và nghe giảng về Phật pháp - Các giáo lý của Thánh hiền để hiểu rõ giáo lý trước khi lựa trọn phương pháp tu cho mình. Điều này cực kỳ quan trọng, vì nó giúp quí vị lựa chọn được giáo lý phù hợp với căn cơ của mình, cũng nhằm giúp quí vị tránh đi nhầm vào con đường tà đạo không có ngày ra. Với người mới tu, các giáo lý cần ưu tiên học và nghe giảng gồm:
* Mời tham khảo bài viết hướng dẫn giành cho người khởi tu - Tu tại gia: Xem tại đây
b/ Chọn pháp môn tu hành: Việc lựa chọn phương pháp, con đường, pháp môn tu hành cho mình đúng, hợp với căn cơ, phát huy điểm mạnh như đức Phật dậy "Tùy bệnh cho thuốc", quí vị sẽ sớm có thành tựu viên mãn hơn.
+ Tu tứ diệu đế: Phương Pháp tu của Hàng Thanh Văn tu - Pháp tu Tiểu thừa lên Trung thừa.
Giảng giải rất chi tiết đầy đủ (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mười phương pháp tu hành theo lời dạy của Hòa thượng Tuyên Hóa
Đây là mười phương pháp dạy trong kinh Hoa Nghiêm, nơi phần Trị Địa Trụ ở phẩm Thập Trụ. Thật sự ra phương pháp này không hạn cuộc nơi chư Tăng Ni, mà dành cho mọi người tu Bồ tát hạnh, tại gia và xuất gia.
Song nói rằng dành cho chư Tăng Ni là bởi chư Tăng Ni có điều kiện, nhân duyên thù thắng để thực hiện phương pháp này. Đồng thời, sinh hoạt của tăng chúng là sinh hoạt hướng về sự giác ngộ, phù hợp hoàn toàn với mười phương pháp của kinh nêu ra. Phương pháp ấy như sau:
1. Tụng tập đa văn
Tức là học hỏi sâu rộng Phật pháp. Học để biết rõ Phật lý, chân lý. Học để tài bồi đức hạnh. Do đó đối tượng của việc học là chân lý, đưa tới sự giải thoát phiền não, phá tan sự mê hoặc của bản ngã.
2. Hư nhàn tịch tịnh
Đây là thái độ tự tại với đời. Nếu “đa văn” có nghĩa là chất chứa những tri kiến, chuyện thị phi của thế gian, thì mình chắc chắn chiêu cảm lấy đủ chuyện thị phi, phiền não ở đời; do đó mình sẽ kẹt trong vòng luẩn quẩn của “việc đời”. Nếu “đa văn” có nghĩa là huân tập chân lý trong kinh điển, tiêu hóa (internalize) đạo lý giải thoát, thì mình sẽ trở nên tự tại. Bởi thế, hư nhàn tịch tịnh là thái độ vứt bỏ chuyện đời, chuyện hơn thua, tranh chấp, chuyện lợi lộc cho mình. Mọi thứ tính toán cho mình đều không phải là nhàn, là tịch.
3. Cận thiện tri thức
Nghĩa là gần gũi những bậc thầy có kiến địa, giác ngộ hay giải thoát. Hoặc gần gũi những bậc thầy có trí huệ và đạo đức để dắt dẫn mình tu hành. Bậc thiện tri thức phải là bậc đi trước mình nhiều bước trên đường tu, do đó có thể khiến mình phát Bồ đề tâm, dạy mình trưởng dưỡng và thành thục Bồ đề tâm; cứu giúp lúc mình gặp bế tắc; chỉ bảo lúc mình còn đầy khuyết điểm. Do gần gũi thiện tri thức mình mới thành tựu được đa văn, tức là nghe nhiều những lời chỉ dạy của bậc thầy.
4. Pháp ngôn hòa duyệt
Nghĩa là nói năng ôn hòa, vui vẻ. Lời nói chỉ có thể ôn hòa, duyệt lạc khi mà tâm mình thật sự ôn hòa. Do đó mình phải tập thái độ không tranh: không tranh chấp với ai; bất kỳ việc gì, hãy sẵn sàng nhận lỗi, chịu thua. Không đấu lý, không tự bào chữa.
Khi tâm mình không thấy ai là kẻ thù, không có thành kiến về ai cả, cũng không cho rằng mình hay mình giỏi, cách mình làm việc là độc nhất đúng đắn thì mình rất dễ tự tại, ôn hoà. Nếu chú ý kỹ mình sẽ thấy có những lúc nhất định nào đó, mình hay thích lên giọng, cộc cằn. Những lúc ấy, trí huệ hay tâm mình không còn khống chế làm chủ lời nói nữa, bấy giờ thói quen hư xấu khống chế cái lưỡi mình.
Bởi vậy, phải tập lắng nghe lời mình nói, quán sát và chú ý từng lời, khiến lời không ngược lại với tinh thần “Bất tranh”.
5. Ngữ tất tri thời
Tức là nói cho đúng lúc. Cổ nhân dạy rằng khi nói chuyện, hãy xem mặt đối phương. Nếu người ta tỏ thái độ khó chịu, không muốn nghe, buồn bực thì chớ nói nữa. Gặp lúc đối phương không chú ý, đang bận rộn, đang nói, thì chớ ngắt lời, chớ nói. Biết đối phương không thích, không muốn nghe một đề tài gì đó thì chớ đem nó ra nói, bàn luận. Biết đối phương không có thì giờ đàm luận, thì chớ giông dài. Việc vô ích, vô nghĩa, việc thế tục thì người tu không nên nói.
Người xuất gia nếu thích đàm luận chuyện thế tục, chuyện tranh chấp, lợi lộc riêng tư thì chỉ khiến người tại gia khinh thường và chỉ trích. Chỉ nên nói những việc khiến người nghe phát khởi lòng tin, phát Bồ đề tâm, hoặc giải trừ được bế tắc và phiền não trong đời sống. Nên tập quán sát thời cơ, nhân duyên rồi hãy phát biểu.
6. Tâm vô khiếp bố
Tức là tâm không sợ hãi, bố úy. Không sợ hãi rằng pháp quá thâm sâu, mình không thể thọ nhận. Không bố úy rằng pháp quá khó tu, mình không thể thực hành. Khi tâm có hy vọng, có mong cầu thì tâm ấy lúc nào cũng có bố úy sợ hãi. Bởi vậy tập luyện tâm thái không khiếp bố là tập luyện tính không cầu. Hễ được dạy pháp nào thì tu pháp ấy, không mong cầu quả báo, không nghĩ tới mình sẽ được lợi ích gì.
7. Liễu đạt ư nghĩa
Tức là dùng trí huệ tư duy, giải đạt thâm nghĩa. Đây không phải là hiểu bề ngoài, hay học thuộc làu. Liễu đạt nghĩa lý tức là thấy được sự thể hiện của nghĩa lý ấy trong cuộc sống. Ví như khi nghiên cứu đoạn: “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thuý…” mình cần phải thấy sự vô thường ấy, không phải chỉ qua mặt chữ, lời văn, mà là qua trực giác và sự cảm nhận thực tại cảnh vô thường ở trần gian.
8. Như pháp tu hành
Trong quá trình liễu đạt thâm nghĩa, sẽ có những lúc mình không dùng suy nghĩ để hiểu rõ, cũng không thể dùng cảnh giới bên ngoài để minh chứng, những lúc ấy, đòi hỏi mình phải dùng cảnh giới thiền định để giải đáp. Bởi vậy người tu cần phải “Như pháp tu hành” để phát triển năng lực thấu hiểu chân lý bén nhạy hơn khả năng của đầu óc suy tư này. Như pháp có nghĩa là làm đúng theo sự chỉ dẫn, đúng với chân lý, đúng với giới luật, hợp với đạo đức nhân nghĩa. Khi tu không như pháp thì tức là tu không đúng theo lời thiện tri thức chỉ dạy, hoặc giả không phù hợp với tinh thần của kinh Phật, hoặc là tự mình sáng tác ra phương pháp cách thức hoàn toàn không theo một tiền đề, hệ thống hay quy củ, giới luật nào cả. Có kẻ ở trong chúng nhưng tự mình làm ra vẻ khác biệt, lập dị; Khi không cùng tu, không hòa đồng với đại chúng, mình phải quan sát, xem mình có tu như pháp hay chăng. Hễ như pháp tu hành thì không bao giờ có “cái mình”, “cái tôi” đặc biệt “nổi” hơn kẻ khác cả.
9. Viễn ly ngu mê
Gốc ngu mê là ở lòng dục vọng, phiền não, chấp trước. Khi tu mình hãy nhớ mục tiêu là dứt trừ những thứ ấy. Càng tu phải càng bớt phiền não, bớt nóng giận, bớt cống cao, bớt dục vọng. Do đó sẽ thêm sáng suốt, nên Phật dạy phải “siêng tu giới, định, huệ để dứt trừ tham, sân, si”.
10. An trụ bất động
Tâm chỉ bất động khi nào tâm an trụ hay thấy được sự thật, chân lý bất biến. Bởi vậy trong mọi chuyện, mọi việc, mình phải phát triển con mắt biết thẩm thấu sự thật hay chân lý, gọi là trạch pháp nhãn. Phải biết nhìn xuyên thủng hiện tượng hay hình tướng để biết đặng chân lý. Khi ấy tâm mình lúc nào cũng an định, dù ở bất cứ hoàn cảnh trắc trở, xáo động nào đi chăng nữa. Khi tâm không còn bị tình dục, phiền não, vọng tưởng quấy nhiểu, thì lúc ấy tâm mới thật sự an trụ bất động.
Mười phương pháp trên, đa số đều dùng trí huệ để dẫn dắt, từ đó khởi thêm lòng đại bi thì mới tới được chỗ viên mãn. Song những phương pháp trên, có thể nói, vô cùng thực tiễn cho những ai sống trong tùng lâm: Cứ tu tập theo chúng thì đường đạo ắt phải tiến bộ. (Nguồn: Hòa thượng Tuyên Hóa giảng)
+ CHỌN PHÁP TU GIẢI THOÁT: A-nan bạch Phật rằng: Bạch Thế tôn, tuy Như Lai đã dạy về hai nghĩa quyết định. Nay xem trong thế gian những người muốn cởi nút, nếu không biết đầu nút ở đâu, thì con tin chắc là những người ấy không cởi được.
Giảng giải:
Điều nầy nói về hai nghĩa quyết định, một trường hợp là dùng tâm phan duyên, đối tượng của sinh diệt để tu tập và một trường hợp là không dùng tâm phan duyên, đối tượng của sinh diệt để tu tập.
Nay xem trong thế gian những người muốn cởi nút, nếu không biết đầu nút ở đâu–nếu họ không biết đầu mối của nút ở đâu–thì con tin chắc là những người ấy không cởi được. Do họ còn không xác định được đầu mối của nút, làm sao mà mở nút được.
* Trong Kinh thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dậy các Pháp Tu Đại thừa/ Bồ Tát đạo - Không dùng Tâm phan duyên để tu. Người tu chọn Pháp nào Viên Thông nhất để tu tập, sớm có thành tựu đạo quả.
* Đến đoạn kinh này, quý vị đặc biệt phải chú tâm nhiều hơn. Quý vị nên phát huy công phu của mình vào một trong sáu căn. Căn nào? Bất kỳ căn nào cũng được: Mắt - Tai - Mũi - Lưỡi - Thân - Ý – Quý vị đều có thể áp dụng công phu tu tập của mình vào đó. Cửa vào của mỗi sáu căn đều là lối để nhập đạo. Mỗi sáu căn đều là một phần của tánh Như Lai tạng. Việc cần phải làm đối với quý vị là bắt tay vào, để tâm trong công phu tu tập, và quý vị sẽ thể nhập với bản thể của tánh Như Lai tạng.
* PHÁP TU VIÊN THÔNG: Mời xem bản Kinh văn gốc này để biết chọn trong 25 Pháp tu viên thông giảnh cho người tu Thánh đạo hay Bồ Tát đạo - Tu giải thoát Niết Bàn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5.
Xem: TH Tương Ứng Của Thuật Ngữ Minh Triết - Tâm Linh Tu Hành
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạo - Điểm đạo
+ CHỌN PHÁP TU VỚI CÔNG ĐỨC TU CÁC CĂN: Mỗi người mỗi khí chất, theo đó mỗi người có điểm mạnh yếu khác nhau, cần chọn điểm mạnh, ít trở ngại nhất để tu
Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới.
Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng:
1. Xét về nhãn căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về mắt chỉ được 800 công đức.
2. Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có 1200 công đức.
3. Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có thở ra và hít vào. Điểm giao tiếp giữa hít và thở gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.
4. Xét về thiệt căn thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gian và xuất thế gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.
5. Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.
6. Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian mười phương ba đời, thánh phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức.
=> A Nan! Ông muốn ngược dòng sinh tử hãy xét 6 căn ông hiện thọ dụng. Cái nào hợp, cái nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên thông, căn nào không viên thông. Nếu khai ngộ được một căn viên thông thì đảo ngược tất cả dòng nghiệp vô thỉ. Đối với hiệu quả tu hành, bấy giờ một ngày bằng một kiếp.
Tôi nay đã chỉ rõ cho ông: Sáu căn, căn nào cũng trong sáng và đều có số lượng công năng. Tùy ông chọn lựa. Thích hợp căn nào tôi sẽ hướng dẫn cho ông để ngày thêm tăng tiến.
Mười phương Như Lai, căn, trần, thức, 18 giới đều là công cụ để viên mãn Vô thượng Bồ-Đề. Căn cơ trí tuệ còn non nớt, ông cần đi sâu tu tập một căn. Một căn thanh tịnh thì sáu căn đồng thời được tháo mở hoàn toàn thanh thoát.
Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)
+ Mười Pháp môn Vi Riệu của Chú Đại Bi
Câu 7. Án
Án nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật.
Mẹ của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn mẫu”.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.
2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành trì.
4. Thứ tư là “Trí”: Là trí tuệ, dùng thanh gươm trí tuệ để cắt đứt tất cả phiền não.
- Trí tuệ tức là pháp môn lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ viên mãn nhất.
- Còn “quán” là lưu xuất từ pháp môn Thiền định Ba La Mật.
5. Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì.
6. Thứ sáu là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện, nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành.
7. Thứ bảy là “Giáo”: Nghĩa là y cứ theo giáo pháp chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không nương theo lời dạy của đức Phật mà tu hành, thì dù quí vị có tu hành đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể nấu cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy nhiên, để có thể tu tập xứng hợp với giáo lý chân chính của đức Phật thì trước hết, quí vị phải thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận.
8. Thứ tám là “Lý”: Nghĩa là đạo lý. Nếu quí vị có thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có được sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị không khế hội được diệu pháp này, thì quí vị chỉ là người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt được sự thành tựu.
9. Thứ chín là “Nhân”: Trong đời này quí vị phải gieo trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân thanh tịnh, thì vị lai quí vị sẽ gặt được quả thù thắng, quả vi diệu và quả thanh tịnh.
10. Thứ mười là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác ngộ tối thượng.
Như vậy từ chữ Án, xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu. Nên khi quí vị trì niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ án thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác thần đều phải cung kính chấp trì. Công năng của thần chú thật to lớn, thần lực thật không thể nghĩ bàn. (Nguồn: Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng Chú Đại Bi)
+ Nóng giận - Tạo ra độc tố: Giáo sư Elma giảng dạy tại đại học Stanford, Mỹ từng làm một thí nghiệm nổi tiếng. Ông thu thập hơi thở của người tức giận, bi thương, phiền não thở ra rồi dẫn vào một cái chai có đựng nước thuốc. Ông phát hiện màu sắc của nước ở trong chai này có sự thay đổi. Hơi thở của người tức giận làm cho nước chuyển thành màu tím, của người bi thương khiến nước chuyển thành màu xám. Sau đó ông đổ nước này lên những con chuột, một khoảng thời gian thì chúng run rẩy và chết. Thực nghiệm này chứng minh rằng, khi tức giận cơ thể sẽ sản sinh ra độc tố.(Nguồn: Tại đây)
+ Giận hờn - Hờn giận và Pháp tu để xa lìa giận hờn
... Hoặc người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa lòng giận.
Giận hờn là gì? Chính là nổi nóng, chính là phiền não, cũng là vô minh. Giận hờn lợi hại giống như lửa vậy.
Ấy là: "Một đốm lửa giận, có thể đốt tiêu cả rừng công đức."
Người xưa cũng nói: "Ngàn ngày gánh củi một mồi lửa."
Ý nói quý vị đốn củi một ngàn ngày chỉ cần một đốm lửa châm vào có thể đốt cháy sạch. Ðó là hình dung bình thường chúng ta tích tạo bao công đức thiện nghiệp, dù tu hành bao lâu mà một khi quý vị nổi cáu lên, phừng lửa vô minh, thì bao nhiêu công đức tích tụ được đều đốt sạch cả. Hạng người nào thích nổi lửa vô minh thế? Chính là A-tu-la đấy. Mỗi cá nhân đều có một xu hướng riêng.
Người thuộc Phật đạo, tính cách đa số là từ bi;
Người thuộc Tiên đạo thì ưa thích thanh nhàn,
Người thuộc Nhân đạo thì đều có nhân duyên với mọi người;
Thuộc Quỷ đạo thì tánh hay giảo hoạt, không muốn thua thiệt, là người không thành thật, lén lén lút lút, và cũng giống như quỷ La-sát đã nói ở trước, đều có ý "muốn đến hại người."
Người thuộc Súc sanh đạo thì nặng về tham dục, bất luận thứ gì họ đều không sợ nhiều, càng nhiều càng tốt, tham mãi không chán.
Người thuộc Tu-la đạo thì hay phát cáu, những người này hễ động đến thì nổi giận ngay, cáu gắt om sòm.
Những người như thế thì phải làm sao? Có cách gì có thể sửa đổi được? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã đem pháp môn này dạy bảo cho quý vị kỹ càng, đó là phải thường niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Hơn nữa, phải tiếp tục luôn luôn không gián đoạn.
"Thường" nghĩa là không dứt. Mỗi khi lên chùa, gặp chỗ nào có thờ Phật, hoặc thờ Bồ Tát Quán Thế Âm thì phải cung kính cúi đầu đảnh lễ. Cũng không nên hôm nay lạy, rồi ngày mai không lạy; sáng nay đảnh lễ, chiều tối lại không đảnh lễ. Nếu chịu kiền thành hằng thường kính lễ chư Phật Bồ-tát, lâu dần rồi bịnh nổi cáu ấy sẽ không còn nữa, mà chính mình cũng không biết vì sao? Nếu quý vị không tin, tôi sẽ đem kinh nghiệm của chính mình nói cho quý vị nghe. Tôi trước kia là người rất dễ nổi giận, hễ nói đánh là đánh, nói mắng là mắng ngay. Năm tôi 12, 13 tuổi rất thích đánh nhau. Bất luận là người lớn bao nhiêu, đến với tôi thì phải nghe tôi chỉ huy, nếu không nghe tôi chỉ huy thì tôi đánh! Dù chết cũng phải đánh, đánh đến chừng nào chịu hàng phục mới thôi. Thế gọi là gì? Ðó chính là một thứ hành động của A-tu-la. Về sau tôi học Phật, mới biết thói giận bướng như thế là không tốt, phải cải hóa tự tân mới được, nên thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho nên bây giờ làm sư phụ, tôi phải tu hạnh nhẫn nhục. Có lúc đồ đệ đến hiếp đáp, trước hết tôi nổi cáu, nhưng rồi nhỏ nhẹ ôn hòa, nhẫn nhục cho đến khi người ấy từ từ hiểu ra, tự nhận biết lỗi mình. Vì trước đây tôi chọc người khác giận nên bây giờ tôi bị đệ tử đến hiếp đáp. Có thể nói đây là một thứ quả báo! Có người hỏi: "Ðồ đệ nào dám hiếp đáp thầy vậy?" Người nào hiếp đáp tôi thì người đó tự biết. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nóng giận - Hận Thù: Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau
HỎI: Ngài có thể nói với chúng tôi vấn đề ngài vượt thắng thù oán và sợ hãi như thế nào? Và ngài có thể đưa ra một ánh sáng của thiền nào đó không?
ĐÁP: Có nhiều mức độ của thù oán và nó có thể được diễn tả như một cảm nhận xấu đối với người tạo ra rắc rối, kẻ thù, hay bạn bè. Nhưng sân hận là một bộ phận cảm xúc của chúng ta, vốn mọc lên như một cơ cấu phòng vệ trong một con người khi người ấy chạm trán với những hoàn cảnh tiêu cực hay nguy hiểm. Nói một cách sinh học, các cảm xúc như sân hận, khát vọng, và dính mắc là cần thiết cho sự tồn tại.
=> Thù oán có thể được diễn tả như dư âm của sân hận vốn duy trì và day dứt trong một thời gian dài.
Tôi không có thù oán, nhưng nếu tôi thấy điều gì đó sai trái, tôi trở nên sân hận giận hờn. Sau khủng hoảng ở Tây Tạng vào ngày 10 tháng Ba năm 2008, tôi cảm thấy những cảm xúc giống như mà tôi đã cảm nhận vào ngày 10 tháng Ba năm 1959, khi tôi mất tự do – bất lực, bất lực, và băn khoăn. Tuy thế, những cảm xúc hiện hữu khác, khi sau khủng hoảng 2008, tôi đã quán tưởng những cán bộ Trung Cộng và tôi đã hoán đổi sự sợ hãi và sân hận của họ cho sự nhẫn nhục và từ bi của tôi. Rõ ràng, nó không giải quyết bất cứ vấn nạn nào, nhưng nó giúp tôi trong việc duy trì sự an bình tinh thần của tôi.
Ta có thể cầu nguyện để tiêu trừ thù oán. Theo tâm lý học Phật giáo, việc đối phó với các cảm giác tiêu cực là quan trọng. Thù oán vốn sắp khởi lên phải được đối phó ngay lúc đầu. Sự kích thích hoạt động như một chất xúc tác cho sân hận phát triển thành thù oán. Vào lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng sân hận không phải là một giải pháp nhưng chỉ giúp làm tàn phá niềm hạnh phúc. Điều đó giúp cho việc giảm thiểu các tư tưởng khó chịu hình thành trong tâm thức.
Điều kiện của thân thể cũng liên quan, như một thân thể yếu đuối có thể làm nghiêm trọng sự tiêu cực, nhưng một thân thể khỏe mạnh sẽ đưa đến kết quả trong một tâm tư mạnh mẽ vốn sẽ không bị quấy rầy một cách dễ dàng. Qua sự thực hành, chúng ta cần nghiên cứu để tách rời chính ta khỏi sân hận, vốn sẽ làm cho ta nhìn vào sân hận một cách hợp lý và cuối cùng đánh bại nó một cách hoàn toàn. Nếu sân hận lan tỏa khắp tâm tư, thì nó trở thành khó khăn để loại trừ.
=> Tâm lý Phật giáo và tâm lý học Ấn Độ giáo có những yếu tố như thiền chỉ và thiền quán giải thích những phương pháp để tìm cách giải quyết vấn nạn này của tâm thức.
Khi tôi đi ngang qua những thị trấn của Ấn Độ, tôi thấy những đền thờ như Shiva lingam, Ganesh – tôi tự hỏi tại sao không xây dựng những phòng ốc nơi mà các tín đồ có thể ngồi và thảo luận các kinh điển hơn là những đền thờ chỉ như một ngôi nhà cho một bức tượng đơn độc của một bổn tôn mà thôi? Tôi thường nói với những người Tây Tạng đừng tạo dựng thêm các tượng Phật nữa. Tôi là một Phật tử nhưng tôi biết rằng tượng Phật sẽ không bao giờ nói; nhưng tốt hơn là in thêm kinh sách vốn có thể chứng tỏ lợi lạc hơn thêm. Những kinh điển đã tồn tại hơn ba nghìn năm qua, nhưng điều thiếu vắng là sự học hỏi chúng. Nhiều người Ấn Độ là những tín đồ rất ngoan hiền, nhưng họ không chú ý đến việc học hỏi các kinh điển.(Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
+ Hỏa Đại - Tánh của Lửa: Trích đoạn Phật dậy đoạn về Tứ Đại trong Như Lai Tạng/ Chân Tâm: ... A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh. Ông hãy xem các nhà trong thành khi chưa đến bữa ăn, muốn nhóm bếp thì tay cầm tấm kính đưa trước ánh sáng mặt trời để lấy lửa.
- Giảng: "A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh." Lửa tự nó vốn không có tánh chất riêng biệt. Phải có các yếu tố nhân duyên nó mới phát sinh được. 'Tự thể' ở đây không đề cập đến người mà chỉ cho thể tánh của lửa. Đoạn kinh nầy không nên hiểu rằng: 'Tôi không có lửa.' Có nghĩa là 'Tôi không có tánh nóng giận.' Nếu tự tánh quý vị không có chút lửa nào cả, thì quý vị sẽ là một vị Bồ-tát rất ngoan.
Thể tánh của lửa ở đâu? Tánh lửa ở khắp mọi nơi. Dù nó không có tự thể riêng, nhưng chẳng có nơi nào mà không có lửa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Thù ghét - Chán Ghét - Thù Oán - Oán Thù - Thù hận - Hận Thù: Là đố kỵ bất cứ đối tượng nào của giác quan (Tài liệu MF-QU1 - Môn 100.3)
+ Hận thù/ Căm thù/ Oán thù: Căm giận đến mức thôi thúc phải trả thù. Cách hóa giải: đem tình thương đáp lại hận thù (TĐVN)
* Cõi Địa Ngục: Có nguồn gốc từ Nhân Sân hận - Nóng nảy - Giận hờn - Giận giữ - Thù hận, rất đáng sợ.
+ 2. SÂN HẬN - ĐỐI TRỊ = ĐỊNH TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ
+ “Sân” là cơn giận, lòng giận dữ, nóng nảy, thù hận khi không vừa lòng, không được thỏa thích như ý muốn. Bất bình vì bị xúc phạm, nhân đó làm những chuyện sai trái. Sau cơn giận thời giữ lại lòng oán ghét tìm dịp mà trả thù.
- Sở dĩ sân sinh khởi là do lòng yêu thích “cái ta” hay thích “cái của ta”. Nếu người ta mắng nhiếc, chê bai kẻ nào khác thời ta không thấy giận, nhưng nếu ai chửi bới hoặc khiển trách ta hay người thân của ta, hoặc làm tổn hại tài sản của ta lập tức ta cảm thấy khó chịu ngay. Khi khó chịu tăng dần thời sẽ trở thành nóng giận. Nhưng nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian như Đức Phật đã từng đưa nhận xét:
+ Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.” Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”
=> Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người nào không nổi sân, thì tâm không khổ não, tâm không tranh giành, tâm nhu hòa ngay thẳng, tâm từ bi như Phật, thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sinh, thân tướng trang nghiêm được chúng sinh tôn kính và vì có đức nhẫn nhục nên sẽ được mau sinh lên cõi Phạm Thiên. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Hóa giải Tam độc - Ba độc Tham Sân Si = Pháp Niệm Quán Thế Âm hay Quan thế âm
Này Vô Tận Ý! Ðại Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần cao lớn như thế.
Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni sau khi giảng giải lý lẽ như trên xong, lại gọi tiếp: “Này Vô Tận Ý! Sức oai thần của Bồ Tát Quán Thế Âm thật là rộng lớn cao tột!” Nói mãi không rồi, giảng hoài không hết.
Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng ly dục.
Giả như có những chúng sanh nào, lòng đặc biệt dâm dục quá nhiều. Có người vừa học Phật vừa sanh tâm dâm dục, học Phật-pháp càng nhiều, tâm dâm dục càng phát triển mạnh. Cả ngày từ sáng đến tối khởi lên vọng tưởng dâm dục cuồn cuộn như giòng nước chảy tràn. Ðó là một thứ tư tưởng, hành vi cùng biểu hiện rất xấu xa! Vậy thì phải làm sao? Quý vị đừng buồn, cũng đừng lo! Chỉ cần thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là được. Nhưng chỉ đơn thuần tụng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm vẫn chưa đủ, mà phải đem lòng cung kính chân thành đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm thật nhiều nữa.
Ðảnh lễ Phật và Bồ-tát là một biểu hiện rất cung kính. Nhưng có một số người không biết lý lẽ này, nhất là những người ngoại đạo, nhìn thấy người ta lạy Phật rồi phê bình một cách mù quáng rằng: “Ðó đều là ngẫu tượng, là thứ gỗ khắc hay tô đắp mà thành, lạy làm chi?” Tại vì chính mình không có huệ nhãn, không thấy được cảnh giới Phật quang chiếu khắp mới sanh ra đại ngã mạn như thế, thậm chí coi mình còn hơn Phật cho nên mới nói cần gì phải lạy Phật! Ðó chính là kẻ ngu si mắc phải sai lầm quá lớn! Nếu thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì tâm dâm dục của quý vị tự nhiên lìa khỏi. Có người nói: “Thật là bậy quá! Tôi thích dâm dục mà bây giờ không có nữa, phải làm sao đây?” Nếu quý vị thích có, cũng không cần phải lo, rồi sẽ có. Nếu quý vị không thích có rồi sẽ được không có.
Hoặc người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa lòng giận.
Giận hờn là gì? Chính là nổi nóng, chính là phiền não, cũng là vô minh. Giận hờn lợi hại giống như lửa vậy.
Ấy là: “Một đốm lửa giận, có thể đốt tiêu cả rừng công đức.”
Người xưa cũng nói: “Ngàn ngày gánh củi một mồi lửa.”
Ý nói quý vị đốn củi một ngàn ngày chỉ cần một đốm lửa châm vào có thể đốt cháy sạch. Ðó là hình dung bình thường chúng ta tích tạo bao công đức thiện nghiệp, dù tu hành bao lâu mà một khi quý vị nổi cáu lên, phừng lửa vô minh, thì bao nhiêu công đức tích tụ được đều đốt sạch cả. Hạng người nào thích nổi lửa vô minh thế? Chính là A-tu-la đấy. Mỗi cá nhân đều có một xu hướng riêng. Người thuộc Phật đạo, tính cách đa số là từ bi; người thuộc Tiên đạo thì ưa thích thanh nhàn, thuộc Nhân đạo thì đều có nhân duyên với mọi người; thuộc Quỷ đạo thì tánh hay giảo hoạt, không muốn thua thiệt, là người không thành thật, lén lén lút lút, và cũng giống như quỷ La-sát đã nói ở trước, đều có ý “muốn đến hại người.” Người thuộc Súc sanh đạo thì nặng về tham dục, bất luận thứ gì họ đều không sợ nhiều, càng nhiều càng tốt, tham mãi không chán. Người thuộc Tu-la đạo thì hay phát cáu, những người này hễ động đến thì nổi giận ngay, cáu gắt om sòm. Những người như thế thì phải làm sao? Có cách gì có thể sửa đổi được? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã đem pháp môn này dạy bảo cho quý vị kỹ càng, đó là phải thường niệm: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Hơn nữa, phải tiếp tục luôn luôn không gián đoạn.
“Thường” nghĩa là không dứt. Mỗi khi lên chùa, gặp chỗ nào có thờ Phật, hoặc thờ Bồ Tát Quán Thế Âm thì phải cung kính cúi đầu đảnh lễ. Cũng không nên hôm nay lạy, rồi ngày mai không lạy; sáng nay đảnh lễ, chiều tối lại không đảnh lễ. Nếu chịu kiền thành hằng thường kính lễ chư Phật Bồ-tát, lâu dần rồi bịnh nổi cáu ấy sẽ không còn nữa, mà chính mình cũng không biết vì sao? Nếu quý vị không tin, tôi sẽ đem kinh nghiệm của chính mình nói cho quý vị nghe. Tôi trước kia là người rất dễ nổi giận, hễ nói đánh là đánh, nói mắng là mắng ngay. Năm tôi 12, 13 tuổi rất thích đánh nhau. Bất luận là người lớn bao nhiêu, đến với tôi thì phải nghe tôi chỉ huy, nếu không nghe tôi chỉ huy thì tôi đánh! Dù chết cũng phải đánh, đánh đến chừng nào chịu hàng phục mới thôi. Thế gọi là gì? Ðó chính là một thứ hành động của A-tu-la. Về sau tôi học Phật, mới biết thói giận bướng như thế là không tốt, phải cải hóa tự tân mới được, nên thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho nên bây giờ làm sư phụ, tôi phải tu hạnh nhẫn nhục. Có lúc đồ đệ đến hiếp đáp, trước hết tôi nổi cáu, nhưng rồi nhỏ nhẹ ôn hòa, nhẫn nhục cho đến khi người ấy từ từ hiểu ra, tự nhận biết lỗi mình. Vì trước đây tôi chọc người khác giận nên bây giờ tôi bị đệ tử đến hiếp đáp. Có thể nói đây là một thứ quả báo! Có người hỏi: “Ðồ đệ nào dám hiếp đáp thầy vậy?” Người nào hiếp đáp tôi thì người đó tự biết.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa ngu si.
Trước đã nói về tham và sân, bây giờ nói về si. Tham sân si được gọi là ba độc. Ba độc này làm hại Phật tánh của chúng ta hôn mê như say ngủ. Tại sao chúng ta chưa giác ngộ? Cả đời sống say chết mộng? Ðó là bởi ba độc này. Tham là tham dục. Xưa nay tham dục này tác hại rất lớn đối với tự tánh, nhưng có một số người lại cho nó là một thứ hưởng thụ tối cao, cho nên đã gây ra biết bao hành vi điên đảo, đem tự tánh của mình vùi chôn dưới lớp trần cấu. Thứ trần cấu này càng ngày càng nhiều, vì thế mà ánh sáng Phật tánh của quý vị không hiển lộ được. Ðó là sự tệ hại của tham độc. Tác hại của sân độc cũng rất lớn không kém gì tham độc.
Còn thế nào là si độc? Si là ngu si. Ngu si mà chẳng biết mình ngu si, đó là ngu si đấy. Có kẻ cho mình là người rất thông minh, có trí huệ; nhưng trên thực tế, nếu quý vị hỏi anh ta: “Anh từ đâu đến đây? Tương lai anh sẽ về đâu?” thì anh ta không biết. Ðến không biết mình từ đâu đến, đi không biết mình đi về đâu, quý vị thử nghĩ xem người như thế có phải là thông minh không? Nhưng chính anh ta lại không thừa nhận mình là người ngu si. Ấy là:
Việc nhỏ lợi danh người người thích,
Việc lớn sanh tử chẳng ai lo.
Trên thế gian này, việc tìm cầu danh lợi tuy là nhỏ, nhưng người ta suốt ngày quần quật bôn ba, thậm chí hại bạn, giết người, phóng hỏa đều là vì lợi cả. Nếu không vì “lợi” cũng vì “danh”! Trên thế gian này, số quốc gia cùng con người không đếm kể hết, song tựu trung lại có hai hạng người: Một là cầu danh, hai là cầu lợi. Danh lợi nó chi phối, làm điên điên đảo đảo biết bao nhiêu người vẫn chưa giác ngộ được. Từ khi sanh ra đến lúc chết, đều ở trong tình trạng bon chen, giành giật, có người ham làm quan, có người ham phát tài, có người ham được con cái, cho đến những ham muốn nghiêng về khoái lạc. Khát vọng một đời, chờ đợi mọi thứ khoái lạc, nhưng mà chưa hưởng thụ được bao nhiêu rồi phải chết. Chết rồi đi về đâu cũng không biết! Lúc sống đều tự cho mình là phi thường, cảm thấy chính mình thật là không ai bằng.
-“Ta là người có trí huệ thông minh nhất. Lúc còn đi học, ta mỗi năm đều được hạng nhất, bất cứ làm việc gì ta cũng đều dẫn đầu, trên người một bậc.”
Tự cho mình là thông minh khác thường, mà kỳ thật cả bản lai diện mục của mình cũng không nhận biết! Sự thông minh như thế đều là giả cả, đó là thứ “thông minh giả.” Người thật sự có thông minh thì không cảm thấy chính mình có trí huệ. Vậy thì thấy mình là ngu si sao? Cũng không tự thấy mình là ngu si, lại càng không tự thấy mình có trí huệ. Tuy rằng, ngoài mặt xem ra cũng cùng một thân thể hình trạng như mọi người, nhưng mà những tư tưởng quan niệm của họ thật thấu suốt rõ ràng. Rõ ràng là thế nào? Thấu suốt rõ ràng rằng tất cả đều như huyễn như hóa. Biết rằng tất cả mọi thứ đều là giả, họ không tham đắm vinh hoa phú quý trong mộng, ham giành sắc đẹp, tranh nhân ngã, tranh thị phi, tranh đứng đầu, tranh danh đoạt lợi, mà hiểu rõ tất cả đều là vô thường. Vì thế Kinh Kim Cang nói:
“Tất cả pháp hữu vi
Như chiêm bao, bóng nước,
Như điện chớp, mù sương,
Hãy quán cho thật tường.”
Tất cả pháp hữu vi như chiêm bao, bóng nước. Pháp hữu vi là gì? Tất cả những gì có hình tướng, có thể nhìn thấy, đều là pháp hữu vi. Nó giống như chiêm bao, bọt nước. Bọt nước trong biển cả, quý vị cho là thật hay giả? Nói là thật, thì sao nó lại hóa ra không có? Nói là giả, thì sao lại có cái bọt nước? Tuy có bọt nước, nhưng không phải thật tại, không có thể tánh chơn thật. Bóng, cũng là hư ảo. Lại giống như mù sương; sáng sớm có mù sương, nhưng khi mặt trời mọc lên nó lại tan biến hết. Ðiện, cũng là có; nhưng lửa điện, lửa đá chớp mắt tan đi, cũng không phải là chơn thật. Nếu có thể quán tưởng tất cả sự vật như thế thì còn có gì phải chấp trước? Không có chấp trước mới là thật hiểu rõ. Bấy giờ, quý vị sẽ không tưởng Ðông tưởng Tây, càng không tưởng Nam tưởng Bắc, tất cả vọng tưởng trần lao đều bị vất bỏ. Bỏ hết những vọng tưởng trần lao rồi, lúc ấy quý vị không muốn thành Phật cũng không được, muốn không có trí huệ cũng không được, sẽ tự nhiên có thôi.
Cho nên đương lúc tự mình không có trí huệ, không nên cho là mình có trí huệ. Trí huệ không phải tìm cầu ở bên ngoài mà có. Không nên sanh tâm kiêu ngạo, cho là:
-“Giữa mọi người, ta là kẻ thông minh nhất, đẹp đẽ nhất, kiệt xuất đối với mọi người, siêu quần bạt tụy, trên tất cả.”
Nếu quý vị có tư tưởng này là quý vị còn chấp tướng. “Tướng” vốn là cái đãy da hôi, nó như là chiêm bao, bóng nước. Quý vị suốt ngày cho nó ăn ngon mặc đẹp, hết lòng cho nó hưởng thụ. Nhưng đến lúc nó bỏ đi, nó cũng không thèm để ý tới quý vị. Có người lại chăm chút cho đãy da hôi này, vừa hút thuốc, vừa uống rượu, vừa ăn thịt, suốt ngày lo lấp cái hố sâu không đáy này, lấp rồi lại chảy, chảy rồi lại lấp, lấp mãi vẫn không đầy. Nhưng người ta cứ bỏ cũ thay mới, mới cũ thay nhau, vì bản thân mà bận rộn, vất vả.
Tại sao mỗi ngày ăn một bữa cơm? Tại vì sợ phiền phức cho nên ăn ít một chút để bớt đi phiền rộn. Có một số người cho rằng ăn ngon là cách hưởng thụ tốt nhất, tôi lại cho rằng đó là việc phiền rộn nhất. Giải thích như thế nào đây? Nếu ăn nhiều vào thì bụng sẽ khó chịu. Ăn ít vào, lại sanh ra tâm tham:
-“Ðồ ăn ngon như thế này, nên ăn nhiều một ít!”
Nếu đồ ăn không ngon thì không thể sanh tâm tham. Bao tử cũng không bị khổ sở. Cho nên đó đều là những việc phiền phức. Tại sao người ta lại có những phiền phức này? Tại vì mình quá ngu si mới tham hưởng thụ, cầu giàu sang, cầu danh lợi, cầu vui sướng, các thứ ấy thảy đều là điên đảo cả. Quý vị tham cái này cái nọ, thì kết quả sẽ ra sao? Kết cuộc rồi cũng phải chết thôi. Ðến lúc chết, không đem theo được tí gì. Ðó không phải là ngu si sao? Ngu si như thế thì phải làm sao? Theo phương pháp của Kinh Pháp Hoa dạy: “Thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.” Sự ngu si của quý vị sẽ mất đi và trí huệ sẽ hiện lên. Ai có thể biết mình ngu si? Ðó mới là nhận thức đúng đắn về mình. Ðã có trí huệ, mới biết mình là ngu si. Nếu quý vị tự mình không có trí huệ thì rốt cuộc không thể biết tự mình là ngu si đâu, càng nghĩ càng xa thôi. Chính mình vốn là ngu si, mà tự cho là rất thông minh thì há không phải là trên ngu si lại thêm ngu si hay sao? Trước là một kẻ ngu si còn chưa đủ, lại muốn biến thành kẻ ngu si gấp đôi. Hiện tại chúng ta nếu muốn mình không ngu si thì phải thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðó là một phương pháp hay nhất, linh diệu nhất. Tuyệt đối bảo đảm mầu nhiệm không thể nói được.
Nói về ngu si và trí huệ, thì thế nào là ngu si? Thế nào là trí huệ? Tôi sẽ nói một đạo lý mà quý vị sẽ không tin đâu, đó là
-“Ngu si chính là trí huệ, trí huệ chính là ngu si.”
Tại sao nói thế? Ở Tâm Kinh có câu: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc.” Cảnh giới này nói lên chơn sắc từ chơn không mà sanh, chơn không từ chơn sắc mà có, cho nên hai mà không hai. Ngu si và trí huệ cũng cùng một đạo lý ấy. Khi quý vị biết dùng thì đó là trí huệ, nếu không biết dùng thì đó là ngu si. Ngu si và trí huệ không phải là hai mà phải xem quý vị có biết dùng hay không! Nếu quý vị biết dùng thì ngu si cũng biến thành trí huệ; nếu không biết dùng thì trí huệ biến thành ngu si. Nếu thấu triệt được đạo lý này thì quý vị sẽ không còn điên đảo nữa.
Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Lục nhập: Như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt.
Giảng:
“Như vậy.” Tại sao Như Lai nói rằng các tướng huyễn hóa sinh khởi hư vọng? Đạo lý mà Như Lai đã giảng giải cũng giống như vậy đối với mọi phần loại khác nhau của
ngũ ấm– sắc, thọ, tưởng, hành, thức – lục nhập– có nghĩa là 6 căn , mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – từ thập nhị xứ – 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với 6 trần: sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp– cho đến thập bát giới– 6 căn, 6 trần và 6 thức phát sinh ra do khi căn và trần tiếp xúc nhau: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức. Sáu căn và 6 trần kết hợp thành 12 xứ, cùng với 6 thức tạo thành 18 giới. Các thứ sắc pháp và tâm pháp nầy, đều do nhân duyên hòa hợp mà hư vọng sinh ra, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt. Khi nhân duyên không hòa hợp thì hư vọng diệt mất. Đây là tánh của sinh diệt. Các sắc pháp và tâm pháp nầy đều chỉ biến hiện từ tâm. Nên Đức Phật bảo A-nan: “Thân tâm của ông, đều là vật biến hiện từ trong diệu minh chân tâm.” Lại nữa: “Ông không biết rằng sắc thân của ông, cho đến núi sông, hư không, đất liền đều là vật bao hàm trong diệu minh chân tâm.”(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q1)
+ Giảng về Lục nhập
NHÃN NHẬP: "Tướng nhìn sững quá lâu hoá ra mỏi mệt nhân nơi sáng tối, phát ra cái thấy từ trong hai thứ vọng trần kia, thu nạp trần cảnh, gọi là tánh thấy. Tánh thấy nầy rời hai trần cảnh sáng tối kia, hoàn toàn không có tự thể.
Giảng: ...Sáng và tối là một phần của không hư nằm phía trước mặt ông. Trong sự hiện hữu của không hư, vọng trần giả dối nầy mà phát sinh ra tánh thấy. “Thu nạp trần cảnh”– tánh thấy nhận lấy hình sắc và tướng của vọng trần đang có trước mặt ông. “Đây gọi là tánh thấy.” Đó là bản chất của cái thấy. “Tánh thấy” nầy không phải là “minh tâm kiến tánh” như thường được đề cập trong Thiền tông. Tánh thấy ở đây chỉ là tính chất cái thấy thông thường của con người. Còn minh tâm kiến tánh có nghĩa là thấy được bản tâm và nhận ra chân tánh của chính mình
"Nếu (cái thấy) từ mắt sinh ra, ắt hẳn không có sáng và tối. Thế nên cái thấy vốn không có tự tánh".
"Thế nên phải biết, nhãn nhập là hư vọng. Vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên".
NHĨ NHẬP: A-nan, thí như có người lấy hai ngón tay bít chặt hai lỗ tai, do lỗ tai mỏi mệt nên nghe trong đầu phát ra âm thanh. Cả lỗ tai và cái mỏi mệt đều là tánh bồ-đề, do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.
Nhân nơi động tỉnh, phát ra cái nghe từ trong hai thứ vọng trần, thu nạp trần tướng nầy, gọi là tánh nghe. Tánh nghe nầy rời hai trần tướng động tĩnh kia hoàn toàn không có thật thể - Tánh nghe nó chẳng có tự tánh riêng.
Như vậy, A-nan! phải biết cái nghe đó, chẳng phải do động hay tĩnh mà có, chẳng phải từ lỗ tai mà ra, chẳng phải do hư không phát sinh.
Nếu (cái nghe) từ tai sinh ra, ắt hẳn không có động và tĩnh. Thế nên tánh nghe vốn không có tự tánh.
Thế nên phải biết nhĩ nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
KHỨU NHẬP: A-nan, ví như có người bít chặt hai lỗ mũi, bít lâu thành ra mỏi mệt. Trong lỗ mũi nghe có cảm giác lạnh, do cảm giác như vậy mà phân biệt được là thông, là ngăn bít, là rỗng, là đặc; cho đến các mùi hương thơm khí thối, cả cái ngửi cùng tướng mỏi mệt đều là thể tánh bồ-đề, do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng trần thông và bít, phát ra cái ngửi ở trong, thu nạp các trần tượng đó, gọi là tánh ngửi. Tánh ngửi đó rời hai thứ vọng trần thông và bít kia, hoàn toàn không có tự thể.
Nếu (tánh ngửi) từ lỗ mũi sinh ra, hẳn không còn có cái thông cái bít. Nên tánh ngửi như vậy vốn không có tự tánh.
Thế nên phải biết tị nhập/Khứu nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
VỊ NHẬP: A-nan, ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sinh ra mỏi mệt. Nếu người đó có bệnh thì thấy có vị đắng, nếu người không bệnh thì thấy có chút vị ngọt. Do những cảm giác ngọt, đắng mà hiện bày tính nếm, còn khi không động (không liếm mép) thì thường thấy tính nhạt. Cả tính nếm và cái mỏi mệt đều là tánh bồ-đề do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.
Vậy nên biết rằng thiệt nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
XÚC NHẬP: A-nan, ví như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng. Nếu bên tay lạnh thấy lạnh nhiều hơn, thì bên tay nóng sẽ lạnh theo; nếu bên nóng thấy nóng hơn, thì tay bên lạnh cũng thành ra nóng. Như vậy, do cảm xúc nhận biết khi hợp lại này mà rõ được sự nhận biết lúc rời ra. Nếu cái thế chênh lệch hình thành giữa nóng và lạnh, thì do đó mà phát ra tướng mỏi mệt và có cảm xúc. Cả tính biết xúc cảm cùng cái mỏi mệt đều là tính bồ-đề chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.
Nhân nơi hai vọng trần ly và hợp, phát ra cái hay biết ở bên trong, thu nạp các trần tượng nầy, gọi là tính biết cảm xúc. Tính biết cảm xúc nầy, rời hai vọng trần ly và hợp, trái và thuận kia, rốt ráo không có tự thể.
Nếu (tính biết cảm xúc) từ thân thể mà ra, hẳn không có bốn tướng ly hợp trái thuận, thì tính biết cảm xúc nơi thân của ông vốn không có tự tánh.
Vậy nên biết rằng thân nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Ý NHẬP: A-nan, ví như có người mệt nhọc thì ngủ, ngủ rất sâu rồi thức dậy, nhìn trần cảnh để nhớ lại (những gì đã hiện ra trong giấc ngủ), những gì không nhớ được thì gọi là quên. Các thứ sinh trụ dị diệt điên đảo đó, quen thói thu nạp vào bên trong mà không lẫn lộn nhau. Đó gọi là ý căn. Cả ý căn cùng cái mỏi mệt đều là thể tính bồ-đề do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.
“Đó được gọi là ý căn.” Trong sáu giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; nay ý được đề cập. “Cả ý căn cùng cái mỏi mệt đều là thể tính bồ-đề do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.” Đây cũng là sự chăm chú, tính diên trì trong chân tánh bồ-đề khiến phát sinh ra tướng mỏi mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết bên trong. Thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược vào trong. Dòng nầy đi vào nơi không cùng tận, gọi là cái ý hay biết.
Giảng:
“Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết bên trong.” Các thứ vọng trần của tâm thức nằm ngay trong tâm. Tâm phan duyên chính là đối tượng của sinh diệt. Cũng có những pháp không phải là đối tượng của sinh diệt nhưng pháp do tâm phan duyên chính là pháp sinh diệt, đó chính là vọng trần, tánh hay biết tập hợp và trú ở bên trong vọng trần nầy, và “Thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược vào trong.” Vọng trần của cái thấy, cái nghe quay trở lại với tâm ý thức (thức thứ 6). “Dòng nầy đi vào nơi không cùng tận.” Trước khi dòng nầy đến được nơi chốn, có nghĩa là trước khi dòng tâm thức với cái thấy cái nghe quay trở lại đến nhập vào thức thứ tám, “gọi là cái ý hay biết.”
Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và ý thức, thức thứ 6, chính là tính giác tri của ý căn. “Trước khi dòng nầy đến được nơi chốn,” đây cũng gọi là dòng nghịch lưu. Dòng nghịch lưu là gì? Khi tâm phan duyên khởi niệm, như thể có một dòng chảy ngược lại vào tâm thức. Trước khi dòng chảy ngược nầy đến nhập vào thức thứ 8 (cập địa), thì có phát sinh một cái ý hay biết (tánh giác tri) ở trong thức thứ 6.
Cái ý hay biết nầy rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia thì rốt ráo không có tự thể.
Thật vậy, A-nan nên biết cái ý căn hay biết như thế, không phải do từ nơi thức, nơi ngủ mà đến; không phải do nơi sinh, nơi diệt mà có; không phải từ nơi ý căn mà ra, cũng không phải từ nơi hư không mà phát sinh.
Vì cớ sao? Nếu (cái ý căn hay biết) từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ? Nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hoá như không có rồi, thì lấy cái gì mà biết là diệt? Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh sẽ không có cái diệt, lấy cái gì mà biết là sinh?
Nếu do ý căn[9] mà ra, thì hai tướng thức ngủ thay đổi lẫn nhau nơi thân thể, nếu rời hai tướng ấy ra, thì cái ý hay biết ấy cũng đồng như hoa đốm giữa hư không, rốt ráo không có tự tánh.
Nếu (cái ý hay biết) do hư không mà sinh thì tự hư không ấy biết, có quan hệ gì đến chỗ thu nạp (ý nhập) của ông?
Do vậy nên biết, ý nhập là hư vọng, vốn không phải tính nhân duyên, chẳng phải tính tự nhiên.
Giảng: Vậy thì, rốt ráo, tại sao nay quý vị lại có được tánh hay biết? Nó phát ra từ sự chăm chú trong tánh chơn như nhiệm mầu của Như Lai tạng khiến phát sinh ra tướng mỏi mệt. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Quyển 3)
+ Tiến hóa của giác quan trong tiểu thiên địa
a/ Giác quan thứ 1...... ...... … Thính giác
1. Thính giác hồng trần ........... Cõi hồng trần.
2. Nhĩ thông .......................... Cõi cảm dục.
3. Nhĩ thông cao ................... Cõi trí.
4. Lĩnh hội........................... Cõi Bồ Đề( 4 âm thanh)
5. Toàn phúc ........................ Cõi Niết Bàn.
b/ Giác quan thứ 2 .... Xúc giác hay cảm xúc.
1. Xúc giác hồng trần ............ Cõi hồng trần.
2. Trắc tâm thuật ................... Cõi cảm dục.
3. Trắc tâm hành tinh ............. Cõi trí.
4. Chữa trị (Healing) ............... Cõi Bồ Đề.
5. Phụng sự linh hoạt ............ Cõi Niết Bàn.
c/ Giác quan thứ 3 ............... Thị giác
1. Thị giác hồng trần ............... Cõi hồng trần.
2. Nhãn thông ...................... Cõi cảm dục.
3. Nhãn thông cao................... Cõi trí.
4. Linh thị thiêng liêng ............. Cõi Bồ Đề.
5. Chân thức .......................... Cõi Niết Bàn.
d/ Giác quan thứ 4 ............... Vị giác
1. Vị giác hồng trần ................. Cõi hồng trần.
2. Sự Tưởng tượng ................ Cõi cảm dục.
3. Sự Phân biện ...................... Cõi trí
4. Trực giác ............................. Cõi Bồ Đề.
5. Sự hoàn thiện ...................... Cõi Niết Bàn.
e/ Giác quan thứ 5 .............. Khứu giác
1. Khứu giác hồng trần.............. Cõi hồng trần.
2. Chủ nghĩa lý tưởng tình cảm ... Cõi cảm dục.
3. Biệt biện tâm linh .................. Cõi trí.
4. Chủ nghĩa lý tưởng ............ Cõi Bồ Đề.
5. Toàn thức ............................ Cõi Niết Bàn.
- Nguồn: (ASCLH, 325)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
+ Mười hai xứ - Mười hai nhập: "Vốn chỉ có mười tám giới nay thành ra có mười chín giới. Giới vừa mới phát sinh thêm, như ông vừa lập luận, là do tâm ông hiện hữu. Mười tám giới là gì? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là sáu căn cộng với sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sẽ sinh ra khởi sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Tổng cộng là mười tám giới. Sáu căn và sáu trần tiếp xúc nhau gọi là mười hai xứ (thập nhị xứ) hay mười hai lối vào (thập nhị nhập)."(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Sáu Căn tiếp xúc với sáu trần - Thập nhị xứ: Như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt.
Giảng:
“Như vậy.” Tại sao Như Lai nói rằng các tướng huyễn hóa sinh khởi hư vọng? Đạo lý mà Như Lai đã giảng giải cũng giống như vậy đối với mọi phần loại khác nhau của
ngũ ấm– sắc, thọ, tưởng, hành, thức – lục nhập– có nghĩa là 6 căn , mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – từ thập nhị xứ – 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với 6 trần: sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp– cho đến thập bát giới– 6 căn, 6 trần và 6 thức phát sinh ra do khi căn và trần tiếp xúc nhau: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức. Sáu căn và 6 trần kết hợp thành 12 xứ, cùng với 6 thức tạo thành 18 giới. Các thứ sắc pháp và tâm pháp nầy, đều do nhân duyên hòa hợp mà hư vọng sinh ra, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt. Khi nhân duyên không hòa hợp thì hư vọng diệt mất. Đây là tánh của sinh diệt. Các sắc pháp và tâm pháp nầy đều chỉ biến hiện từ tâm. Nên Đức Phật bảo A-nan: “Thân tâm của ông, đều là vật biến hiện từ trong diệu minh chân tâm.” Lại nữa: “Ông không biết rằng sắc thân của ông, cho đến núi sông, hư không, đất liền đều là vật bao hàm trong diệu minh chân tâm.”(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Thập Nhị Xứ - 12 Xứ: Trích Đức Phật dậy... Lại nữa, A-nan, vì sao bản tính của 12 xứ vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?
Giảng:
“Lại nữa, A-nan, Như Lai sẽ giảng giải rõ hơn cho ông. Ông phải lắng nghe cho kỹ. Tại sao Như Lai nói rằng bản tính của 12 xứ vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?” “Xứ” là chỉ cho một vị trí đặc biệt. Mười hai vị trí đặc biệt nầy là gì? Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý– và sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp– Có khi chúng được gọi là 12 nhập (thập nhị nhập), cũng như lục nhập đề cập ở trên, Nhưng, 12 nhập còn có thêm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sự phối hợp của sáu căn và sáu trần được gọi là 12 xứ.
SẮC TRẦN: A-nan, ông hãy xem rừng cây Kỳ-đà và các suối hồ nầy.
Ý ông nghĩ sao. Có phải những sắc trần nầy sinh ra cái thấy, hay cái thấy sinh ra sắc tướng?
A-nan, nếu cái thấy sinh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không chẳng có sắc tướng, lẽ ra tính thấy sinh ra sắc tướng đã tiêu mất rồi. Đã tiêu mất thì hiển bày rõ hết thảy đều không. Sắc tướng đã không, thì lấy gì rõ bày tướng không? Đối với hư không cũng lại như vậy.
Lại nữa nếu sắc trần[10] sinh ra cái thấy, khi thấy hư không chẳng có sắc tướng, thì cái thấy liền bị tiêu mất. Tiêu rồi thì tất cả đều không, còn ai để rõ được không và sắc tướng?
Do vậy nên biết rằng cái thấy cùng sắc không đều chẳng có nơi chốn. Tức là sắc trần cùng với cái thấy, hai xứ đó đều là hư vọng không thật, vốn chẳng phải tính nhân duyên, cũng chẳng phải tính tự nhiên.
A-nan, ông hãy nghe trong vườn Kỳ-đà nầy, khi bữa ăn được bày dọn xong thì đánh trống, đại chúng sẽ nhóm lại khi nghe tiếng chuông. Tiếng chuông trống trước sau theo nhau.
Giảng: Đoạn kinh nầy giải thích về hai xứ của tai (nhĩ căn) và âm thanh.
Ý ông nghĩ sao? Như thế là âm thanh đến bên cái nghe, hay cái nghe đến chỗ âm thanh?
A-nan, nếu như âm thanh đến bên cái nghe, như khi Như Lai khất thực trong thành Thất-la-phiệt, thì ở rừng Kỳ-đà ắt là không có Như Lai. Âm thanh đó đã đến bên cái nghe của A-nan, thì lẽ ra ông Mục-kiền-liên, ông Ca-diếp đều không cùng nghe được. Huống gì trong đây có đến 1250 sa-môn, một khi nghe được tiếng chuông, họ đều cùng đến trai đường cả.
Lại nếu như cái nghe của ông đến bên âm thanh, cũng như khi Như Lai về ở trong rừng Kỳ-đà rồi, thì trong thành Thất-la-phiệt ắt là không có Như Lai nữa. Vậy khi ông nghe tiếng trống, cái nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi tiếng chuông cùng phát ra, lẽ ra ông không thể nghe được cả hai thứ, huống gì ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều thứ âm thanh khác quanh ông.
Còn nếu (cái nghe) không chạy đi chạy lại, thì cũng không có cái nghe.
Giảng:
Rốt ráo đạo lý nầy muốn chỉ bày điều gì? Chỉ ra rằng tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng vốn không sinh không diệt. Nó bao trùm mọi nơi, có trong mọi vật. Nó không như một con người, khi ở một nơi nào đó thì gọi là có mặt, và khi ông ta rời khỏi chỗ đó rồi thì gọi là không hiện hữu ở đó nữa. Đúng hơn, tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng là không sinh không diệt. Điều ấy chỉ ra rằng căn tánh vốn là chân thật và vọng tưởng là hư vọng, không thật.
Do vậy nên biết rằng cái nghe và âm thanh đều không có nơi chốn; tức cái nghe và thanh trần hai thứ đều là hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên, chẳng phải tính tự nhiên.
MÙI HƯƠNG: A-nan, ông hãy ngửi mùi hương chiên đàn trong lò, hương ấy nếu đốt đến một thù, thì cả thành Thất-la-phiệt trong khoảng 40 dặm đều ngửi được mùi thơm.
Giảng:
Bây giờ sẽ đề cập đến mùi hương và lỗ mũi với tính biết ngửi....
Ý ông nghĩ như thế nào? Mùi hương ấy sinh ra do cây chiên đàn, do nơi mũi ông hay do hư không?
A-nan, nếu như mùi hương ấy sinh ra do từ mũi ông, nói do mũi sinh ra thì hương phải từ mũi phát ra, mà lỗ mũi không phải là chiên-đàn, làm sao trong mũi lại có hương chiên-đàn? Còn nói rằng ông ngửi được mùi hương thì mùi thơm phải đi vào trong mũi ông. Còn như trong mũi đã phát ra mùi hương, mà nói do mũi ngửi được thì không đúng nghĩa.
... Đức Phật cố ý gạn hỏi A-nan như vậy để xem thử A-nan trả lời ra sao. Tuy nhiên, mặc dù mùi thơm phát sinh từ hương chiên-đàn, nhưng tánh biết ngửi lại xuất phát từ Như Lai tạng. Thế nên ý chính là chỉ ra nó không phải do mùi hương, mà do tánh ngửi. Tánh ngửi nầy bao trùm khắp và không sinh không diệt. Đó là điểm then chốt.
Thế nên biết rằng hương trần và cái ngửi đều không có nơi chốn. Tức là nơi phát sinh cái ngửi và hương trần đều là hư vọng, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
VỊ TRẦN: A-nan, ông thường ở trong chúng, hai thời mang bình bát khất thực. Trong đó, khi gặp tô, lạc, đề hồ, gọi là những món quý.
Ý ông nghĩ thế nào? Vị ấy sinh ra do trong hư không, do nơi lưỡi hay do thức ăn?
Lại nữa A-nan, nếu vị ấy sinh ra do lưỡi của ông, thì trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi; cái lưỡi ấy bấy giờ đã thành vị tô rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra cái vị phải không thay đổi.
Nếu không dời đổi, thì không được gọi là biết vị. Còn nếu dời đổi, thì lưỡi không có nhiều tự thể, làm sao một lưỡi mà biết nhiều vị được?
Nếu sinh ra do thức ăn, thì thức ăn không có tri giác, làm sao tự biết được vị? Còn nếu thức ăn tự biết, Tức giống như người khác ăn, có dính dáng gì đến ông?
Nếu sinh ra do hư không, thì ông hãy nếm hư không xem nó có vị gì? Nếu hư không có vị mặn, thì nó đã làm mặn cái lưỡi của ông, và cũng làm mặn cái mặt của ông; ắt mọi người trong cõi giới nầy cũng giống như cá biển, đã thường chịu cái mặn, không còn biết thế nào là mặn nữa. Nếu đã không biết nhạt, thì cũng không biết mặn; làm sao được gọi là biết vị?
Vậy nên biết rằng mùi vị và cái lưỡi biết nếm đều là không có xứ sở. Tức là tính biết nếm cùng với mùi vị, hai thứ đều là hư vọng, không thật; vốn chẳng phải tính nhân duyên, chẳng phải tính tự nhiên.
Giảng:
"Vậy nên biết rằng mùi vị và cái lưỡi biết niếm đều là không có xứ sở." Nó đều không có một nơi chốn nhất định. "Tức là tính biết nếm cùng với mùi vị, hai thứ đều là hư vọng, không thật." Tính biết nếm và mùi vị– cả hai cái nầy đều không có gốc gác– đều là không thật, đều là hư giả, hư vọng sinh khởi và hư vọng biến diệt. Nó chẳng phải sinh khởi từ tính nhân duyên. Nó cũng chẳng phải sinh khởi từ tính tự nhiên. Nó đều là biểu hiện cho sự lưu xuất từ tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng chớ không có gì khác hơn."
XÚC TRẦN: A-nan, ông thường mỗi sáng, lấy tay xoa đầu.
Ý ông nghĩ sao? Trong sự biết xoa ấy, lấy gì làm biết cảm xúc? Cái biết ấy do nơi tay hay nơi đầu?
Nếu nó ở nơi tay, ắt là đầu không biết, thì làm sao thành cảm xúc ấy? Còn nếu nó ở nơi đầu, ắt là tay vô dụng, làm sao gọi là cảm xúc được?
Nếu cả đầu và tay, mỗi cái đều có biết; thì A-nan, một mình ông có đến hai thân.
Nếu đầu và tay đều do một cảm xúc sinh ra, thì tay và đầu lẽ ra chỉ có một tự thể. Nếu chỉ có một tự thể, thì không thành cảm xúc được.
Còn nếu là hai thể, thì cảm xúc do ở đâu? Nếu ở bên năng thì không có bên sở, nếu ở bên sở thì không có bên năng. Không lẽ giữa hư không và ông mà tạo thành cảm xúc?
Vậy nên biết rằng cảm xúc và thân đều không xứ sở. Tức là thân biết cảm xúc và cái cảm xúc, cả hai đều là hư vọng, không thật, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
Giảng:
... Tức là thân biết cảm xúc và cái cảm xúc– nơi chốn của thân và nơi chốn của cảm xúc – cả hai đều là hư vọng." Nó đều không thật. Đừng trở nên dính mắc vào đối tượng của sự xúc chạm. Đừng trở nên chấp trước rồi nghĩ:
"Như thế nầy như thế kia là điều tuyệt diệu nhất," rồi sinh khởi tham luyến. Nó hoàn toàn hư giả, không thật, thế nên ông khởi tâm đắm chấp chúng làm gì?
"Cũng chẳng phải tự nhiên chúng phát sinh từ trong hư không. Nó lưu xuất từ tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng. Nhưng, chúng cũng hư vọng và không thực như nhau. Đừng đắm chấp với nó. Quý vị phải phản bổn hoàn nguyên, quay về lại với tánh chân như nhiệm mầu từ Như Lai tạng của chính mình. Hãy buông bỏ những tướng hư vọng nầy vả quay về nhận ra chân tánh bản hữu của mình. Đó chính là của báu trong nhà, là bổn địa phong quang."
(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Giác Quan hay Các Căn theo Minh Triết mới:
+ Giác quan không phải là cơ quan hồng trần, mà là quan năng của thể trí tác động qua cơ quan đó như là vận cụ của nó. Các cơ quan cảm giác bên ngoài là các phương tiện thông thường mà nhờ đó các chức năng như nghe, vv… được hoàn tất trên cõi trần. (LVLCK, 194)
+ Giác quan (sense): Các giác quan là những cơ quan giúp cho con người biết được môi trường chung quanh. Trong con vật cũng có 5 giác quan, nhưng không có năng lực suy tư liên kết. Các giác quan này biểu hiện như một năng lực tập thể, tương tự với một bản năng nòi giống ở giới nhân loại. Mỗi một trong 5 giác quan này đều có mối liên hệ nhất định với một trong 7 cõi biểu lộ và cũng có một tương ứng trên tất cả các cõi.
Cõi Giác quan
1. Hồng trần ......... Thính giác
2. Cảm dục ............. Xúc giác
3. Trí tuệ .................. Thị giác
4. Bồ đề ................... Vị giác
5. Niết Bàn ............. Khứu giác (ASCLH, 322–323)
+ Giác Quan hay Các Căn - Năng Minh hay Lục nhập theo Phật dậy:
Trích đoạn: Phật bảo A Nan... Lấy đó mà suy nghĩ thì căn không phải một cũng không phải sáu. Mà cũng một cũng sáu. Tại vì sự chấp mê điên đảo vô thỉ cho nên cái thể viên minh kia lại sanh ra một, sanh ra sáu. Các căn/ Giác quan gồm:
1- Nhãn Căn - Mắt: Do hai thứ sáng và tối hiển bày lẫn nhau, cái tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên, phát ra cái gọi là thấy. Cái thấy phản ánh ra gọi là sắc. Cơ quan tiếp thu sắc được gọi là nhãn căn. Nhãn căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình dáng trông như trái nho.
2- Nhĩ Căn - Tai: Do hai thứ động và tĩnh đối chọi nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là nghe. Cái nghe phản ánh ra gọi là tiếng (thanh trần). Cơ quan tiếp thu tiếng được gọi là nhĩ căn. Nhĩ căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình dáng trông như cái lá sen non.
3- Tỷ Căn - Mũi: Do hai thứ thông và bít phát hiện lẫn nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên, phát ra cái gọi là ngửi. Cái ngửi phản ánh ra gọi là hương. Cơ quan thu nạp hương được gọi là tỷ căn. Tỷ căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành hình dáng trông như hai ngón tay duỗi xuống.
4- Thiệt Căn - Lưỡi: Do hai thứ lạt và vị xâm lấn lẫn nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là nếm. Cái nếm phản ánh ra gọi là vị. Cơ quan nhận thức vị được gọi là thiệt căn. Thiệt căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành hình dáng trông như nửa vành trăng.
5- Thân Căn - Xác Thân: Do hai thứ hợp và ly cọ xát nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là biết. Cái biết phản ánh ra gọi là xúc. Cơ quan nhận biết xúc được gọi là thân căn. Thân căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình thể trông như cái trống cơm.
6- Ý Căn - Bộ Óc: Do hai thứ sinh và diệt tiếp nối nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng với bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là biết. Cái biết phản ánh ra gọi là pháp. Cơ quan tiếp thụ pháp được gọi là ý căn. Ý căn vốn là tứ đại thanh tịnh, biểu hiện qua khái niệm và tư duy, tựa hồ như chất đậu hủ non (bộ óc). (Nguồn: xem mục Chỉ rõ chỗ hư vọng của sáu căn)
+ Lục nhập: Như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Quyển 3)
+ Con người tu phúc và tạo nghiệp, tóm tại chẳng qua 3 nghiệp 6 căn:
- Ba nghiệp: .- Ba nghiệp là nghiệp thân, khẩu và ý. Thân nghiệp có ba: sát sinh, trộm cắp, tà dâm........
- Sáu căn: Mắt- Sắc trần (cảnh vật), tai- Thanh trần (âm thanh), mũi- Hương trần (mùi hương), lưỡi- Vị trần (vị), thân- Xúc trần (cảm giác ở thân), ý - Pháp trần (cảnh ở trong tâm).;- Năm căn trước thuộc về thân nghiệp, Một ý căn sau thuộc về tâm, tức là ý nghiệp.
+ Nhân duyên - Duyên sinh - Khởi duyên. Duyên nghiệp - Nghiệp duyên
+ Thuyết Duyên sinh/ Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt: (Xem thuật ngữ Nhân duyên)
- Thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: Vô Minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão bệnh tử.
1. Vô minh: Vô minh là sự mê mờ, không có trí tuệ, không hiểu thấu chân lý tự nhiên gồm 3 khía cạnh: thân, tâm và cảnh. Chúng ta nhận lầm Thân là “cái tôi”, nhà của tôi, tài sản của tôi,... là vô minh - Gốc Luân hồi.
2. Hành: Vô minh - hành động sai lầm, với động cơ (thiện, bất thiện hoặc vô ký), tạo nên nghiệp tương ứng. Thân khẩu ý đã tạo hiện tại hay trong quá khứ, đều nhận quả tương ứng trong hiện tại và tương lai. Được tích lũy trong Tạng thức, đó là năng lực nghiệp tiềm ẩn dẫn dắt hành trình sinh khởi sau này.
3. Thức: Là toàn thể tâm thức gồm 8 thức tâm vương, chỉ cho sự hiểu biết phân biệt còn nằm trong trạng thái mê lầm. Trong vòng quay sinh tử, dưới sự dẫn dắt của Nghiệp lực, thần thức đi tìm bụng mẹ để tái sinh, tìm cho mình một đời sống mới. Sau khi nhập mẫu thai, Tạng thức có trước nhất, sau đó lần lượt nảy sinh 7 thức còn lại. Thức tạo nên vô số kiếp tái sinh trong luân hồi.
4. Danh sắc: Danh chỉ cho yếu tố tâm lý, tinh thần. Sắc chỉ cho yếu tố sinh lý, vật chất. Trong hành trình tái sinh, thần thức hoan hỷ khi thấy hình ảnh cha mẹ tương lai giao hội và lập tức vào bụng mẹ, bám chấp vào sự hòa quyện của giọt tinh cha và giọt huyết mẹ, hình thành bào thai và tạo nên một đời sống mới. Thần thức là Danh và tinh cha huyết mẹ là Sắc.
5. Lục nhập: Chỉ sự hình thành 6 giác quan (6 căn) là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Khi đậu thai sẽ có sự phát triển các giác quan; 6 căn giống như 6 cửa trực tiếp đón nhận những đối tượng của nhận thức như hình ảnh, màu sắc, hương vị... (tức 6 trần), được biểu thị bằng hình ảnh một ngôi nhà có 6 cửa.
6. Xúc: Sự tiếp xúc với ngoại cảnh thông qua 6 giác quan: mắt nhìn hình sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm nhận sự xúc chạm, ý tư duy về các pháp; Nguy hiểm nhất là nam nữ 2 thân xúc chạm - Nguồn luân hồi.
7. Thụ: Thụ là cảm giác, cảm thụ 3 loại chính là cảm giác vui sướng (lạc thụ), đau khổ (khổ thụ) và không vui không buồn do tâm si mê đem lại. Khi 6 giác quan tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài và có nhận thức sẽ dẫn đến cảm thụ;
8. Ái: Khi có cảm thụ buồn vui sẽ nảy sinh tâm ham muốn, luyến ái hay chối bỏ. Có ghét bỏ sẽ có ái luyến và ngược lại, có ái luyến tất có ghét bỏ. Cảm giác vui sướng dễ chịu dẫn đến tâm ham muốn. Cảm giác khó chịu dẫn đến tâm ghét bỏ. Với ái, luyến ái nam nữ là mãnh liệt và nguy hiểm hơn cả, là bản năng sâu kín của con người. Đằng sau tình yêu thương là động cơ muốn chiếm đoạt, sở hữu và sự thôi thúc âm thầm của lòng dục, nguồn máy làm xoay chuyển không ngừng nghỉ bánh xe luân hồi. Ái - Hình ảnh người đàn ông đang uống rượu, càng uống càng khát, mê say;
9. Thủ: Là nắm chặt, giữ chặt, gây nên ràng buộc. Vì yêu thích, ái luyến nên nảy sinh lòng bám giữ, tâm chấp thủ; Tâm chấp thủ đó thể hiện rõ rệt nhất ở sự chấp ngã, yêu mến cái tôi, nhận ngũ uẩn là tôi. Hình ảnh người phụ nữ đang hái trái cây mà quả của nó có thể là độc hay lành. Thủ: Chấp vào “cái tôi”, các tri kiến cá nhân, những đối tượng ngoại cảnh,...
10. Hữu: Là có, tồn tại hay sự sống. Vì thủ chấp ắt tạo nghiệp, là động lực cho sự tái sinh, là một sự tồn tại mới hay một đời sống mới. Tâm chấp thủ gieo vào Tạng thức một nhân là cơ sở cho sự hình thành ở đời sau; Hữu: Hình ảnh người nữ có mang biểu trưng rằng Hữu là nhân, giống như cái thai, sau này hình thành một cuộc đời mới. Nhân được làm người là giữ 5 giới, 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô sắc giới..
11. Sinh: Vì Nhân đã hình thành thì chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả, là sự tái sinh khi nhân duyên chín muồi; Sinh: là sự hình thành kết quả khi nguyên nhân điều kiện đầy đủ, chín muồi. Kết quả đó được biểu hiện như một cơ thể mới mang theo ham muốn mới để tiếp tục vòng quay miên viễn của luân hồi. Hình ảnh tượng trưng cho mắt xích này là một người phụ nữ sinh con.
12. Lão bệnh tử: Đã có sinh khởi, hình thành một đời sống ắt sẽ có già, bệnh, chết, vì thế nên gọi là “Sinh duyên Lão, Bệnh, Tử”. (Nguồn: Kinh Thập nhị nhân duyên)
+ Thuyết Lý mười hai nhân duyên
Không có vô minh, cũng không có tận hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có tận hết già chết.
Không vô minh tận không bổn tánh
Hành vọng hiểu rõ từ danh sắc
Sáu nhập trược thọ ái thủ hữu
Từ sanh già chết tận tương đồng
Muôn dặm tình không tuyệt ánh mây
Nước trong ao sạch trăng hiện rõ
Như khi ăn uống biết lạnh nóng
Nói ăn chẳng ăn thật phí công."
"Không có vô minh, cũng không tận hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết".
Đây là thuyết về lý mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên này là tu theo thừa Duyên Giác. Có mười hai loại duyên làm trợ duyên, tức trợ giúp con người sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh. Các ngài Duyên Giác do tu pháp mười hai nhân duyên mà hiểu rõ bao đạo lý nhân sanh, khai ngộ, chứng được quả Bích Chi Phật. Đó gọi là trung thừa. Thanh Văn là tiểu thừa. Bích Chi Phật là trung thừa. Bồ Tát là đại thừa.
Sao gọi là vô minh ? Vô minh nghĩa là không minh bạch; thế gian gọi là mù mờ, tức là không hiểu rõ đạo lý, mù mù mờ mờ. Vì không minh bạch nên mới có hành vi mê mê mờ mờ, cũng chính là vọng hành (làm sai trái), nghĩa là việc không nên làm mà lại làm. Khi đã làm sai thì nhận thức hư vọng, dẫn đến mê mờ vì danh lợi sắc tướng, lại biến thành nhập mù mờ, xúc mù mờ, thọ xúc mù mờ, hưởng thọ mù mờ, ái mù mờ, mong cầu chấp giữ mù mờ, rồi muốn đạt được mù mờ, dẫn đến có sanh, lại có già, chết. Những nhân duyên này do vì mê mờ trong buổi ban đầu, nên kết quả mới bị mê mờ. Mê mờ mờ sống qua một đời. Đời sau lại mê mê mờ mờ. Thế nên mười hai nhân duyên cũng là mười hai nhân duyên mê mờ mà phàm phu không thể minh bạch hiểu rõ.
"Vô vô minh tận bổn tánh không, (không tận vô minh, không bổn tánh)".
Mười hai nhân duyên này, lúc ban đầu là mê mờ. Bao loại tham dục của con người, hoặc tham ăn, hoặc tham sắc v.v... chúng phát sanh từ đâu? Đều phát sanh từ vô minh. Trong mười hai nhân duyên, bàn về thọ sanh như thế nào, chết như thế nào ?
Vì vô minh nên có bao loại hành vi chủng tánh nam nữ. Hành vi bản tánh này do tâm mê loạn phát khởi. Có hành vi bản tánh đó rồi thì sanh ra ý thức ngu mê. Thức này chính là thân trung ấm. Sau khi có hành vi bản tánh nam nữ rồi thì kết một lằn ánh sáng. Thân trung ấm tuy xa muôn ngàn vạn dặm nhưng vì có nhân duyên làm quyến thuộc với cha mẹ nó, nên khi thấy lằn ánh sáng đó liền nhập vào thai mẹ. Sau khi thần thức đầu thai thì lại có danh sắc. Danh tức là bốn uẩn, thọ tưởng hành thức. Sắc uẩn cũng gọi là sắc. Thọ tưởng hành thức khi còn trong thai mẹ chỉ có bốn loại danh thức, nhưng chưa thành thục. Đợi cho đến khi có danh sắc rồi thì mới có sáu nhập. Sáu nhập cũng do sáu căn sanh ra sáu tánh như thấy nghe, ngũi, nếm, giác, biết. Có sáu nhập rồi thì đứa bé liền có xúc giác, nên nói sáu nhập duyên xúc. Có xúc giác thì lại có lãnh thọ. Có lãnh thọ nên sanh ra tâm luyến ái. Có tâm luyến ái nên sau này muốn mong cầu, giữ gìn. Vì vậy cảm thọ duyên chấp thủ. Luyến ái, mong cầu chấp thủ rồi lại muốn có được. Vì muốn có được nên mới có sanh. Có sanh nên mới có mười hai nhân duyên. Nếu không có vô minh thì không có hành. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh già bệnh chết diệt. Đó là diệt được mười hai nhân duyên. Thế nên, bảo rằng vô minh mà tận hết thì bổn tánh không. Bổn tánh không rồi thì không còn vô minh nữa.
"Vọng hành liễu biệt danh sắc tùng, (hiểu rõ hành vọng từ danh sắc)".
Hành tức là vọng hành. Thức là liễu biệt. Sau khi có thức rồi thì có danh sắc.
"Lục nhập xúc thọ ái thủ hữu, (sáu nhập xúc thọ ái thủ hữu)".
Kế tiếp danh sắc là sáu nhập. Sau sáu nhập là xúc, đến thọ, đến ái, đến thủ, đến hữu.
"Lai sanh lão tử tận tương đồng, (đến sanh già chết tận tương đồng)".
Có hữu thì có sanh. Có sanh thì có già chết. Do đó, bảo rằng sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, cho đến sanh già chết đều tương đồng tận hết.
"Vạn lý tình không tuyệt vân ảnh, (trời trong muôn dặm tuyệt áng mây)".
Mười hai nhân duyên nối tiếp, liên hệ chằng chịt với nhau, nhưng tất cả vốn không, giống như trời trong muôn dặm, chẳng có một áng mây hồng.
"Mãn đầm trừng thủy hiển nguyệt minh, (nước trong trăng hiện rõ khắp hồ)".
Ví như hồ nước trong thì ánh trăng rằm hiện rõ.
"Như nhân kiết ẩm tri lãnh noãn, (như lúc uống ăn biết lạnh nóng)".
Chư vị nếu liễu ngộ (hiểu rõ) pháp mười hai nhân duyên, tức là có công phu tu hành, thì khi ấy giống như lúc ăn cơm uống nước, tự biết là lạnh hay nóng.
"Thuyết thực trợ trường tổng phập công, (nói ăn mà chẳng ăn, phí công)".
Nếu chư vị không thật sự tu hành, tham ngộ mười hai nhân duyên, mà chỉ nói mười hai nhân duyên này là không-không-không. Bảo rằng chúng là không, mà không thể hội được ý nghĩa không của chúng, không chân chánh chứng đắc được lý không này, cũng giống như người chỉ nói ăn mà thực sự không ăn. Kinh Lăng Nghiêm nói :
"Thí như thuyết thực chung bất năng bảo, (thí như nói ăn mà cuối cùng không no được".
Dầu cho chư vị có nói bao ngày đi nữa, nhưng vẫn không no được. (Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phật Giảng về 12 Nhân Duyên: Ta sẽ thuyết Mười Hai Nhân Duyên mà chư Phật quá khứ cũng đã dạy.
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết và các ưu sầu khổ não.
Khi vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già chết và các ưu sầu khổ não diệt.
Mười Hai Nhân Duyên này là bí tạng của chư Phật. Nếu ai lưu thông cúng dường và niệm niệm tu hành, họ sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và không gì có thể chướng ngại hay phá hoại người ấy. Họ sẽ không bao giờ bị chết yểu hay bị chết đột ngột.”(Nguồn: Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé)
Xem thêm: 12 nhân duyên và Tổng hợp theo số 12
Xem: Thuyết Nhân Duyên
+ Đức Phật dụng Tâm: Như Lai dùng tánh giác diệu minh bất sinh bất diệt hiệp cùng Như Lai tạng, thì Như Lai tạng chỉ thuần là tánh giác diệu minh, chiếu khắp cả pháp giới.
Cho nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong cái nhỏ hiện ra cái lớn, trong cái lớn hiện ra cái nhỏ.
Giảng: "Lớn và nhỏ không ngăn ngại nhau; một và nhiều không cản trở nhau". Quý vị cũng có thể hiểu rằng một là biểu tượng cho tánh Như Lai tạng, có thể biểu hiện ra vô số hiện tượng. Và vô số các hiện tượng ấy lại hoàn toàn quay trở lại trong tánh Như Lai tạng. Một ở đây có thể chỉ cho nhất tâm, mà các hiện tượng đều lưu xuất từ nhất tâm ấy. Tâm chứa vô số hiện tượng. Chân tâm chính là tánh Như Lai tạng, tánh Như Lai tạng chính là chân tâm. Quý vị không thể nào dùng cái hiểu biết hạn cuộc của người phàm phu mà biết được diệu giác minh tâm với sự chuyển hoá bất khả tư nghì của nó. Ông không thể nào hoàn toàn biết được.
Đạo tràng bất động cùng khắp cõi giới mười phương. Thân bao trùm cả hư không vô tận khắp mười phương. Ở trên đầu một mảy lông mà hiện ra cõi Bảo vương. Ngồi trong vi trần mà chuyển bánh xe đại pháp. Diệt trần tướng, khế hợp tánh giác, nên phát ra tánh giác chân như sáng suốt nhiệm mầu. (HT Tuyên Hóa: Một ví dụ là bạn lấy một miếng gương soi, nhìn vào đó là cả không gian bao la vô cùng tận hiện hữu trong đó, để hiểu sự vi riệu của Phật Pháp).
Mà Như Lai tạng chính là bổn diệu viên tâm.
Không phải là tâm, chẳng phải là không. Không phải là đất, chẳng phải là nước, chẳng phải gió, chẳng phải lửa; chẳng phải mắt tai mũi lưỡi thân ý; chẳng phải sắc thanh hương vị xúc pháp. Chẳng phải nhãn thức giới, như thế cho đến chẳng phải ý thức giới.
Chẳng phải là minh, chẳng phải vô minh; chẳng phải là hết minh, chẳng phải hết vô minh. Như vậy cho đến chẳng phải là hết lão, hết tử, chẳng phải là hết lão, chẳng phải hết tử.
Không phải là khổ là tập; chẳng phải là diệt là đạo. Không phải là trí là đắc.
Không phải là bố thí, trì giới, không phải là tinh tấn, nhẫn nhục; không phải là thiền định, trí tuệ; không phải là ba-la-mật-đa.
Như thế cho đến chẳng có Như Lai, chẳng phải A-la-hán, chẳng có Chánh biến tri. Chẳng có đại niết-bàn, chẳng có thường lạc ngã tịnh.
Do đó đều chẳng phải là các pháp thế gian và xuất thế gian. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng.
Tức là tâm, là không. Tức là đất nước gió lửa. Tức là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Tức là sắc thanh hương vị xúc pháp. Tức là nhãn thức giới, cho đến tức là ý thức giới.
Tức là minh, là vô minh; tức là chấm dứt minh và chấm dứt vô minh. Như thế cho đến tức là lão, là tử, tức là hết lão hết tử; tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Tức là trí, là đắc. Tức bố thí, trì giới, tức tinh tấn, tức nhẫn nhục, tức thiền định, tức trí huệ, tức lục độ. Như thế cho đến tức Như Lai, tức Ứng cúng, tức Chánh biến tri. Tức đại niết-bàn, tức thường lạc ngã tịnh .
Do vậy nó là cả hai pháp thế gian và xuất thế gian, Tức là Như Lai tạng diệu minh tâm nguyên.
Rời các nghĩa “tức,” “phi,” mà cũng là nghĩa “tức,” và chẳng phải nghĩa “tức.”
Làm sao chúng sinh trong ba cõi thế gian, cùng với hàng Thanh văn Duyên giác xuất thế gian, đem tâm sở tri mà suy lường Vô thượng bồ-đề của Như Lai, dùng ngôn ngữ thế gian để nhập vào tri kiến Phật?
Ví như những cây đàn cầm, đàn sắt, đàn không hầu, đàn tỳ bà, tuy có âm thanh hay, nhưng nếu không có ngón tay tài ba gảy vào, thì rốt cuộc cũng không phát ra tiếng.
Ông và chúng sinh cũng đều như vậy. Chân tâm giác ngộ quý báu đều đầy đủ trong mỗi người. Nhưng khi Như Lai ấn ngón tay thì hải ấn phát ra hào quang, còn các ông chỉ tạm móng khởi tâm, thì trần lao liền nổi dậy.
Do vì không siêng năng cầu đạo giác ngộ vô thượng. Chỉ thích nghĩ đến Tiểu thừa, được một ít liền cho là đủ.
Phú-lâu-na bạch, “Chân tâm quý báu, thanh tịnh vi diệu, giác ngộ sáng suốt của con cùng với Như Lai vốn là viên mãn không hai. Nhưng xưa con mắc phải vọng tưởng từ vô thủy, nên phải ở lâu trong luân hồi. Nay được thánh thừa, còn chưa được chỗ cứu cánh. Như Thế tôn, hết thảy các vọng đều dứt trừ, chỉ có diệu dụng của tính chân. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
Cơ khát hữu tình vọng thanh lương
Cô mộc trọng sinh phóng dị quang
Phổ khánh từ bi tham tạo hóa
Cam lộ thiên lệ tế thập phương.
Phiên dịch
Chúng sinh đói khát vọng cầu an
Cây khô xanh lá tỏa hào quang
Đức hạnh đại bi muôn biến hóa
Cam lồ không dứt trải mười phương. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên.
Phiên dịch
Biến hình tay mắt chẳng tận cùng
Cõi nước ba ngàn an chúng ma
Khảo nghiệm chánh tà tu thiện pháp
Dùng lời há nói được ma ha. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
+ Huyền giai Sáng tạo Thứ 4 (Thực gia là thứ 9): Huyền Giai con người (Nhân loại) chỉ là Huyền Giai thứ 4 trong số 7 Huyền Giai đang hoạt động hay biểu lộ; 9 là số của con người, 9 là con số về điểm đạo xét về nhân loại (CTHNM, 46 và 298)
+ Huyền giai Sáng tạo Thứ tư là Huyền giai của Chân Thần con người. (LVLCK, 1099)
+ Huyền giai sáng tạo thứ 4: Bây giờ chúng ta xem xét chủ yếu con người v| nguyên khí trí tuệ, sự phát triển của trí tuệ trong Huyền Giai Sáng Tạo thứ 4, tức các Chân Thần nhân loại, với mối quan hệ đặc biệt tới dãy Địa cầu của chúng ta. (Nguồn: Trí tuệ con người - LVLCK, 456)
+ Huyền giai thứ 4: Tuy nhiên chúng ta phải đưa thêm vào nhận thức nói trên một sự kiện nữa, đó là Huyền Giai Sáng Tạo thứ 4 là Huyền Giai mà chúng ta đang xem xét sự tiến hóa của nó, và đối với môn sinh hời hợt nhất, rõ ràng là trong các ý tưởng này có tàng ẩn manh mối, không những chỉ đối với con ngừời mà còn đối với toàn thể cuộc tiến hóa có chu kỳ mà con người đang tham dự vào đó.
Huyền Giai Sáng Tạo thứ 4 chủ yếu là Huyền Giai của manas. Đây không phải là sự chơi chữ, mà là một phát biểu có ý nghĩa huyền linh sâu xa. Sự phát biểu được đưa ra với sự chính xác hoàn toàn mà 5 Huyền giai trong số 12 đã qua và còn lại 7 Huyền Giai. Trong số bảy Huyền giai này, Huyền giai nhân loại của chúng ta đứng thứ 4, theo sát nghĩa thì nó là huyền giai thứ 9 khi tính hết 12 Huyền Giai. (LVLCK, 466)
Xem: Sơ đồ Huyền giai Thái dượng - Hành tinh - Tinh thần/ Thánh đoàn
Xem Tổng hợp về huyền giai
Sơ đồ: Vị trí Huyền giai Tinh thần với tiến hóa.
+ Huyền giai của các đấng cao cả
Tính chất của một Cung dựa vào tính chất của huyền giai các Đấng Cao Cả đang sử dụng nó như là phương tiện biểu lộ. Bảy huyền giai này bị che giấu bởi các Cung, nhưng mỗi huyền giai nằm ở sau bức màn của mỗi Cung, vì trong toàn thể của chúng, chúng là các sự sống làm linh hoạt của mỗi hành tinh hệ bên trong thái dương hệ; chúng là sự sống của mọi không gian liên hành tinh, và các sự sống đang tự biểu lộ qua các tiểu hành tinh và tất cả mọi hình thức sự sống độc lập nhỏ bé hơn là một hành tinh. Tôi xin đưa ra vắn tắt một vài chỉ dẫn liên quan đến các huyền giai này, nó có thể giúp làm sáng tỏ những gì được chứa trong GLBN liên quan đến chúng.
Mỗi một trong bảy đẳng cấp (hierarchies) các Đấng Cao Cả, các Ngài là các Thần Kiến Tạo hay là các Tác Nhân Thu Hút (Attractive Agents) (ở trình độ của các Ngài) chính là các người trung gian; tất cả đều biểu hiện cho một trong các loại thần lực phát ra từ bảy chòm sao. Do đó, công việc trung gian của các Ngài có hai mặt.
1. Các Ngài là kẻ trung gian giữa Tinh Thần với vật chất.
2. Các Ngài là các tác nhân truyền thần lực từ các nguồn từ ngoài đến thái dương hệ cho các hình tướng bên trong thái dương hệ.
Hierarchy I (Huyền Giai). Hierarchy thứ nhất và vĩ đại được phát tỏa từ Tâm (Heart) của Mặt Trời Tinh Thần trung ương (GLBN I, 233 – 250; III, 565 – 566).........
Huyền Giai II. Huyền Giai thứ hai được liên kết chặt chẽ Đại Hùng Tinh. Chúng ta được dạy rằng Các Ngài tiến nhập vào qua tâm thất thứ nhì bên trong Quả Tim Thánh Thiện, và là (như chúng ta được dạy trong GLBN) các nguyên mẫu (prototypes) của các Monads. Các Ngài là cội nguồn của Sự Sống Chân Thần, nhưng các Ngài không phải là các Monads; Các Ngài còn cao xa hơn nữa. .............
Huyền Giai III. Huyền Giai Sáng Tạo thứ ba (hay là Huyền Giai thứ tám) là Huyền Giai đặc biệt lý thú. Chúng được gọi là “Triads” (“Tam Bộ”) vì chúng nắm giữ trong chính chúng các tiềm lực của ba cuộc tiến hóa, về trí tuệ, tâm linh (psychical) và thiêng liêng (spiritual) ,,,,,,,,,,,,
Huyền Giai IV. Huyền Giai sáng tạo thứ tư là nhóm mà trong đó trạng thái cao nhất của con người, tức là “Cha Trên
Trời” tìm được vị trí. ............
Hierarchy V. Theo chúng ta biết do học hỏi trong GLBN, Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm là một Huyền Giai thần bí nhất. Cái bí ẩn này gắn liền với mối liên hệ của Hierarchy thứ năm với năm nhóm đã giải thoát ..........
Hierarchies VI và VII. Các Huyền Giai thứ sáu và thứ bảy này cung cấp các hình hài vật chất của ba cõi thấp, chúng có một công dụng tối quan trọng và một vị trí đáng chú ý nhất. Theo quan điểm của Thượng Đế, chúng không được xem như là đang cung cấp các nguyên khí, nhưng theo quan điểm của con người, rõ ràng là chúng đang cung cấp cho con người các nguyên khí thấp nhất của y ....... (LVLCK, 637)
+ 12 Huyền Giai Sáng Tạo. (The Twelve Creative Hierarchies).
Các nhà nghiên cứu thường gặp lúng túng khi cố giải thích về “số mười hai” trong vũ trụ. Một thông tín viên gửi ý kiến sau: Trong Khảo Cứu về Tâm Thức, bằng một lối sắp xếp các nhóm bên trong, số ba cho thấy có bảy nhóm; các nhóm này có thể được mô tả như ABC, ACB, BCA, BAC, CAB, CBA và nhóm thứ bảy, một tổng hợp mà trong đó ba cái đều bằng nhau. Nhóm sáu phụ sẽ được tượng trưng bằng (AB) C, C (AB), A (BC), (BC) A, (CA) B, B (AC), hai cái trong ngoặc thì bằng nhau còn cái thứ ba thì mạnh hơn hoặc yếu hơn. Hai nhóm gồm 6, còn nhóm mà trong đó ba yếu tố thì ngang nhau, sẽ tạo thành mười ba nhóm. “Mười ba này sẽ được sắp xếp dưới hình thức một vòng tròn có 12, với một nằm giữa. Cái nằm giữa sẽ là tổng hợp, và sẽ buộc tất cả ba yếu tố đều bằng nhau. Sự tương ứng vật chất của việc này sẽ là mười hai cung hoàng đạo với mặt trời nằm ở trung tâm, tổng hợp tất cả các cung. Sự tương ứng tinh thần sẽ là mười hai Huyền Giai Sáng Tạo (twelve Creative Orders) với Thượng Đế ở trung tâm, tổng hợp tất cả”. Cách sắp đặt hoàn toàn hợp lý (légitimate).
Tạp chí The Theosophist, quyển XXIX, trang 100. Cũng so sánh với Mười Hai Cung Hoàng Đạo. (LVLCK, 636)
+ Huyền giai sáng tạo: Là trật tự đẳng cấp có trong nhiều đoàn nhóm khác nhau. Như các đẳng cấp của chính phủ, của giáo hội, hoặc những hệ thống đẳng cấp để phân biệt các giai tầng xã hội. ....
+ Nhiều ánh sáng, nếu thành tâm nghiên cứu các con số của Huyền Giai - Năm Huyền Giai đầu xem như các trừu xuất thuần túy.
Huyền Giai 1 có các số: 6 . 1 . 7.
Huyền Giai 2 có các số: 7 . 2 . 6.
Huyền Giai 3 có các số: 8 . 3 . 5.
Huyền Giai 4 có các số: 9 . 4 . 4.
Huyền Giai 5 có các số: 10 . 5 . 3.
Huyền Giai 6 có các số: 11 . 6 . 2.
Huyền Giai 7 có các số: 12 . 7 . 1.
* Lưu ý, trong GLBN các Huyền Giai có số khác. Điều này để che đậy, nhưng nó cũng làm rối trí nhà nghiên cứu (CTHNM, 47)
+ Huyền giai sáng tạo thứ 4 - Nhân loại: Bây giờ chúng ta xem xét chủ yếu con người v| nguyên khí trí tuệ, sự phát triển của trí tuệ trong Huyền Giai Sáng Tạo thứ 4, tức các Chân Thần nhân loại, với mối quan hệ đặc biệt tới dãy Địa cầu của chúng ta. (Nguồn: Trí tuệ con người - LVLCK, 456)
+ Huyền giai thứ 6: Điều này đã ảnh hưởng đến Huyền giai thứ 6, một trong các Huyền Giai thiên thần, đang cư trú trong hệ thống Kim Tinh. (LVLCK, 485)
+ Giới thứ 4 và Huyền giai Hành tinh: Một số sự kiện đã được hiểu rõ và được nhận thức bởi một môn sinh huyền linh bậc trung, vốn đã suy nghĩ về giáo lý này một cách cẩn thận. Y biết rằng sự kết nối của Tinh thần - vật chất với trí tuệ, hay manas, được thực hiện trong căn chủng thứ ba, và chắc chắn rằng gia đình nhân loại nhất định đã bắt đầu hiện diện trên địa cầu kể từ ngày ấy (LVLCK, 494)
+ Ba Đấng cao cả: Đức Bàn Cồ - Bồ Tát - Văn Minh Đại Đế đại diện cho Ý chí, Bác ái, và Thông tuệ. Mỗi người sẽ vào 1 trong 3 Ngành này của Huyền giai (MQ, Chủ đề 5)
+ Phân biệt Huyền giai: Nếu đạo sinh nhớ rằng bản chất của hình hài tùy thuộc vào tính chất (quality) của Sự Sống đang nhập thể (incarnating Life), y cũng sẽ nhớ rằng các phân biệt giữa các nhóm Huyền Giai khác nhau, vì các Sự Sống trong các nhóm này đều có tính chất khác nhau và các hình hài mà qua đó chúng biểu lộ đều khác hẳn nhau. Do đó, chúng ta phải phân biệt giữa:
1. Các nhóm tiến hóa hướng hạ.
2. Các nhóm tiến hóa hướng thượng.
3. Bảy nhóm sự sống mà chúng ta gọi là Nguyệt Tổ Phụ (lunar Fathers):
a/ Ba nhóm không có hình hài (incorporeal) mà chúng ta gọi là giới tinh hoa chất (elemental kingdoms).
b/ Bốn nhóm có vật chất, vốn là các hình hài của bốn giới trên cung hướng thượng.
4. Bảy huyền giai của các Sự Sống (Lives).
5. Bảy nhóm gồm các Solar Angels.
Đừng nên lẫn lộn về sự phân biệt giữa các huyền giai của các Đấng Cao Cả (Beings) với bảy Cung, vì mặc dầu có sự liên quan chặt chẽ (close connection), lại không có sự giống nhau (resemblance). Các “Cung” (“Rays”) chỉ là các hình thức nguyên thủy của một số Đấng Cao Cả (Lives), các Ngài “mang theo trong Quả Tim (Hearts) của các Ngài” mọi Mầm Mống (Seeds) của Hình Hài. Các Hierarchies là các nhóm sự sống đa dạng, ở mọi giai đoạn khai mở và tăng trưởng sẽ dùng đến các hình hài đó. (1) (LVLCK, 635)
+ NGHIÊN CỨU HỌC HỎI: Có ba nhóm sách mà ba loại người nghiên cứu và học hỏi trong đó (CTHNM 17):
1. Sách về Sự Sống – Các Điểm Đạo Đồ ‒ 12 chòm sao.
2. Sách về Minh Triết – Các Đệ Tử ‒ 12 hành tinh.
3. Sách về Hình Hài hay về Sự Biểu Lộ ‒ Nhân Loại – 12 Huyền Giai Sáng Tạo (12 Creative Hierarchies).
Xem: Sơ đồ Huyền giai Thái dượng - Hành tinh - Tinh thần/ Thánh đoàn
Xem Tổng hợp về huyền giai
Sơ đồ: Vị trí Huyền giai Tinh thần với tiến hóa.
+ Các con số và tương ứng
GLBN nói rằng :
Chính trên các Huyền Giai (Hierarchies) và con số đúng của các Thực Thể Thông Linh này mà bí ẩn của vũ trụ được kiến tạo.
Số 10 (ten) – đường thẳng và vòng tròn. Biểu tượng của các Hành Tinh Thượng Đế. GLBN I, 117.
Số 10 là vũ trụ vô sắc tướng (arupa universe) < GLBN I, 125
Số 10 là Sự sống biểu lộ (manifested existence) GLBN I, 467
Số 10 là tổng kết (sumtotal).. GLBN I, 428
Số 6 – Ngôi sao 6 cánh. Sự sống bên trong và hình hài bên ngoài, được Tinh thần ứng linh.
Số 6 là 6 mãnh lực của thiên nhiên < GLBN I, 236
Sáu Hành Tinh Thượng Đế < GLBN I, 402
Sáu cõi <.. GLBN I, 236
Mãnh lực hay năng lượng, vật chất hay chất liệu nguyên thủy và Tinh Thần.
Số 6 là tam giác kép (double triangle) .. GLBN I, 143.
6 là biểu tượng của tính biểu lộ (objectivity) GLBN II, 625
Chúng là khía cạnh thiên thần của biểu lộ .. GLBN I, 241
Năm (five) – Đây là ngũ giác (pentagon), Makara, ngôi sao 5 cánh.
So với GLBN I, 218, 219.
5 là biểu tượng của một Hành Tinh Thượng Đế< GLBN II, 618
5 là biểu tượng của tiểu thiên địa < GLBN II, 608
5 là biểu tượng của sáng tạo <. GLBN II, 613
Đó là Thượng Đế Ngôi 2 và Ngôi 3 hợp nhất trong sự tiến hóa.
Trong sự phối hợp của 5 và 6, bạn có toàn thể biểu lộ, dương và âm phối hợp trong Lưỡng Tính Thiêng Liêng.
Tổng kết, GLBN I, 235-239, II 610, 638.
Cấp bậc thứ nhất .. Các Sự Sống bản thể. Tinh Thần. Bản ngã
Cấp bậc 6 <<<< Hình hài biểu lộ. Vật chất. Phi Ngã.
Cấp bậc 5 < <<< Sự thông tuệ. Manas. Liên quan ở giữa. (LVLCK, 508)
+ Số 4 và các tương ứng trong Vũ trụ, thiên nhiên và con người
* Số 4 Là số hậu thiên. là số sinh từ Cung 3 - Cung chính vũ trụ - Cung trí tuệ vũ trụ.
+ Tứ nguyên biểu lộ (Tứ Linh diệu): Gồm Tam nguyên (Nguyên thủy là Cung) là
1. Cha (Cung 1 – Ý Chí & Tinh Thần)
2. Con (Cung 2 – Bác ái & Minh Triết)
3. Mẹ (Cung 3 – Trí tuệ & Họat động)
4. Biểu lộ hợp nhất của cả 3 – Đại Vũ trụ
+ Cũng hãy so sánh với các tương ứng sau đây:
Tứ Linh Diệu (Sacred Tetraktys) ... Thượng Đế biểu lộ.
Huyền Giai Sáng Tạo Thứ 4 .......... Nhân loại.
Nguyên Khí thứ 4 ........................... Hạ trí (Lower Mind)
Giống Dân thứ 4 .............................. Trí cảm (Kama-manas)
Nguyên Tố thứ 4 (4 "th" element).. .... Nước, GLBN I, 95, 640
4 Chân Lý (the four Truths) ..........GLBN I, 70
4 Định Đề (4 Propositions) ............ GLBN I, 107
4 Cuộc Điểm Đạo ..................... GLBN I, 227
Cõi thứ 4 ............................. Bồ đề, dĩ thái vũ trụ thứ 4.
Cõi phụ hồng trần thứ 4 ............... Dĩ thái thứ 4.
Cuộc tuần hoàn thứ 4 ............ Cuộc Tuần Hoàn Hiện tại (Nguồn: LVLCK, 466)
Tứ Đại Thiên Vương
Tứ đại: Đất nước gió lửa, tương ứng rung động, mầu sắc, â thanh, ánh sáng..
Bốn phương: Đông Tây Nam Bắc
Bốn mùa: Xuân hạ Thu Đông
Bốn Nhóm Tiến hóa trong các Cung Hoàng đạo
Bốn nhóm lời nói thiện lành: Nói giối - Hai lưỡi - Ác khẩu - Vô nghĩa
Tiến trình Thiền theo dõi hơi thở: 4 Niệm sứ -> 4 Chánh cần -> 4 như ý -> Ngũ Căn -> Ngũ lực -> 7 Giác chi - 8 Chánh đạo -> 4 Vô Lượng Tâm
Xem Thuật ngữ: Tổng hợp tương ứng số 4
+ Sự Hiểu biết tương ứng - Trí tuệ tương ứng của Chiêm tinh gia - Thầy dự đoán Số mệnh - Người chí nguyện - Các đệ tử - Các Điểm đạo đồ
Khi các ảnh hưởng này tuôn đổ qua hành tinh chúng ta và từ đó đi đến các trung tâm lực trên hành tinh, chúng tạo ra một hiệu quả song đôi:
1. Chúng tạo ra một hiệu quả nơi người tiến hóa, kích hoạt các trung tâm lực phía trên cách mô đi vào hoạt động và giúp cho con người đáp ứng với phóng phát (radiation) và hoạt động của Thánh Đoàn (Hierarchy).
2. Chúng tạo ra một hiệu quả nơi người kém tiến hóa giúp cho y hoạt động như một con người thông thường chưa giác ngộ.
Tuy nhiên, ở đây cần nên lưu ý rằng mọi năng lượng – thuộc hoàng đạo, thái dương hệ và hành tinh – đều có hiệu quả nhất định trên mọi sự sống trong mọi hình tướng trong tất cả các giới của thiên nhiên. Không gì có thể thoát được các ảnh hưởng bức xạ và từ lực này. Mục tiêu tiến hóa cho nhân loại là trở nên hiểu biết một cách sáng suốt và linh động về bản chất của các năng lượng này và bắt đầu biết đến chúng và vận dụng được chúng. Đây là lĩnh vực của huyền linh học như Thánh Đoàn đã luôn luôn dạy cho con người. Có thể nói rằng đệ tử phải hiểu biết một cách sáng suốt về các ảnh hưởng của hành tinh và bắt đầu sử dụng chúng cho việc xúc tiến mục đích của linh hồn. Điểm đạo đồ phải biết về các ảnh hưởng của hoàng đạo đang phóng phát ra bên ngoài của toàn thể thái dương hệ. (CTHNM, 29)
+ Kiến thức cần học tương ứng: Toàn bộ lịch sử về hoàng đạo có thể được tóm tắt một cách sinh động tuy vẫn chính xác trong diễn đạt sau: có ba quyển sách mà ba loại người nghiên cứu và học hỏi trong đó:
1. Sách về Sự Sống – Các Điểm Đạo Đồ ‒ 12 chòm sao.
2. Sách về Minh Triết – Các Đệ Tử ‒ 12 hành tinh.
3. Sách về Hình Hài hay về Sự Biểu Lộ ‒ Nhân Loại – 12 Huyền Giai Sáng Tạo (12 Creative Hierarchies). (CTHNM, tr31)
+ Phẩm tính Cung Bảy: Nghi lễ, Trật tự, Huyền thuật
- Ưu điểm: Mạnh mẽ, bền chí, can đảm, lịch sự, hết sức chú ý về chi tiết, tự lập, trật tự, cơ cấu, hoàn thiện hình thức, tuân thủ.
- Khuyết điểm: Chuộng hình thức, cố chấp, tự cao, hẹp hòi, phán đoán nông nổi, quá tự phụ, quá thủ cựu.
+ Các Đức Tính và các Tật Xấu EPI 210-211( Xem Bảy đấng ....)
- Đức Tính đặc biệt: Sức mạnh, nhẫn lại/ sự kiên trì, can đảm/ lòng dũng cảm, tao nhã/ lịch sự, cực kỳ cẩn thận trong chi tiết, tính tự lực.
- Tật Xấu của Cung: Tính(chủ nghĩa) hình thức, cố chấp, tự cao/ kiêu hãnh, cư sử hẹp hòi, các phán đoán hời hợt/ phiến diện, cố chấp/ bảo thủ ý kiến quá mức. quá đam mê
- Các Đức Tính cần có: Nhận thức về tính thống nhất, tâm trí rộng mở, lòng khoan dung, khiêm tốn, dịu dàng và bác ái. + Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung
+ Trong mọi điều Tôi đã nói liên quan tới thể dĩ thái của con người, liên quan đến hành tinh, liên quan đến chơn linh của địa cầu, mấu chốt của toàn bộ tình hình nằm trong sự kiện là năm cung vào lúc này, có cung 7 là cung chiếm ưu thế của chúng. Cung 7 là cung kiểm soát thể dĩ thái (the etheric) và các devas dĩ thái. Nó kiểm soát cõi phụ thứ bảy của tất cả các cõi nhưng vào lúc này nó chi phối cõi phụ thứ bảy của cõi trần. Cũng vì đang ở trong vòng tuần hoàn thứ tư, khi một cung tiến vào sự nhập thế (incarnation) rõ ràng, nó không những chỉ kiểm soát trên các cõi có cùng một số, mà còn có một ảnh hưởng đặc biệt trên cõi phụ thứ tư. Hãy lưu ý cách mà cung này tác động vào lúc này trong ba cõi thấp:
1. Cõi dĩ thái thứ tư, cõi thấp nhất trong số các cõi dĩ thái, sẽ là cõi vật chất kế tiếp của tâm thức. Chất dĩ thái ngay lúc này đang trở nên có thể thấy được đối với một số người, và sẽ có thể nhìn thấy hoàn toàn vào cuối thế kỷ này đối với nhiều người.
2. Cõi phụ thứ tư của cõi cảm dục giữ lại phần lớn con người khi họ qua đời, và tất nhiên nhiều công việc với số lượng lớn nhất nhờ đó có thể được hoàn tất.
3. Cõi phụ thứ tư của cõi trí là cõi devachan (thiên đường tạm). (LVHLT, 374)
+ Cung 7: Hiện nay, sự nhập cuộc của cung màu tím, tức là Cung Nghi thức hay Cung bảy ...(TTHM, Thư 08.10.1919)
+ Thí dụ gọi là Huyền giai: Thí dụ như địa vị của màu tím (violet) trong quang phổ (103) có tầm quan trọng bậc nhất, liên quan với các chu kỳ lớn, và đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ và sự bắt đầu một chu kỳ mới. Cõi bồ đề đặc biệt là cõi của màu tím, mặc dù tất cả các màu sắc đều có nơi đó; Đấng Chủ Quản của Cung Nghi Lễ Huyền Thuật vốn tiêu biểu cho tia tím hay huyền giai tím, có một mối quan hệ đặc biệt với cõi bồ đề. Phải nhớ rằng mỗi Hành Tinh Thượng Đế hoạt động trước tiên trên một trong bảy cõi, từ điều này, chúng ta có thể suy ra rằng ảnh hưởng của Ngài tìm thấy đường lối ít đối kháng nhất của nó trên một cõi nào đó, mặc dù nó được áp dụng trên mọi cõi. (Nguồn: LVLCK, 424)
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: tóm lược về bảy cung
Xem: Đặc tính năng lượng các Cung Phần 1 và phần 2
Xem: Cung Thể Xác - Thể Cảm dục - Thể Trí - Phàm Ngã - Linh hồn
+ Bốn cung trí tuệ:
Thứ ba. Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư của các Chân Thần nhân loại được duy trì bằng định luật nghiệp quả tứ phân dưới sự hƣớng dẫn của các Vị Lipikas.
Thứ tư. Bốn vị Hành Tinh Thượng Đế (47) lo về sự Hài Hoà, Tri Thức, Tư Tưởng Trừu Tượng và Nghi Lễ, các Ngài [113] xét chung vốn là Tứ Nguyên của Manas trong khi có diễn trình tiến hoá, và các Ngài chuyển vào dưới ảnh hưởng của các Ngài tất cả các con của nhân loại.
Thứ năm. Các Thiên Thần Tinh Quân ở bốn cõi, đó là cõi Bồ Đề hay cõi Trực Giác tâm linh, cõi Manas hay cõi Trí, cõi Cảm dục và cõi trần, các Ngài cũng có liên hệ với sự tiến hoá nhân loại theo một ý nghĩa mật thiết hơn ba cõi cao.
Bốn cung về trí tuệ là bốn cung thứ yếu, vốn hợp thành Tứ Nguyên của Thượng Đế (logoic Quaternary) và vốn sau rốt được tổng hợp thành một cung thứ 5, cung chính yếu thứ 3 của trí tuệ hoạt động hay khả năng thích ứng. Danh xưng của các cung như sau:
Ba cung chính yếu:
1. Cung Ý Chí hay Quyền Năng.
2. Cung Bác Ái hay Minh Triết.
3. Cung Trí Tuệ Hoạt Động.
Bốn cung thứ yếu:
4. Cung Mỹ Lệ, Hài Hoà, Mỹ Thuật hay Nhịp nhàng.
5. Cung Kiến Thức Cụ Thể hay Khoa Học.
6. Cung Lý tưởng trừu tƣợng.
7. Cung Trật Tự Nghi Lễ hay Tổ Chức.
Các Chân Thần của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, tức các Chân Thần con người, tồn tại trong ba nhóm chính :
a. Các Chân Thần Ý Chí (The Monads of Will).
b. Các Chân Thần Bác Ái (The Monads of Love).
c. Các Chân Thần Hoạt Động (The Monads of Activity)
- Đức Mahachohan. (Văn Minh Bồ Tát). Một viên chức trong Thánh Đoàn hành tinh chúng ta. Ngài chủ trì các hoạt động được xúc tiến trong 4 cung thứ yếu và cung tổng hợp thứ 3 của bốn cung này.
Ngài có liên quan đến nền văn minh, đến sự mở mang trí tuệ các giống dân, và với năng lượng thông tuệ, Ngài là vị lãnh đạo các Thánh sư (Adepts).
- Đức Bồ Tát (Bodhisattva). Đấng tiêu biểu (the exponent) cho thần lực cung 2, Bậc Thầy (Teacher) của các Thánh sư, con người và thiên thần. Chức vụ này lúc đầu do Đức Phật nắm giữ, nhưng (sau khi Đức Phật trở nên Toàn Giác) thì Đức Christ giữ địa vị này.
Công việc của Đức Bồ Tát liên quan đến các tôn giáo trên thế gian và liên quan đến Bản Thể tâm linh trong Con Người.
- Đức Bàn Cổ: (The Manu) Đấng chủ trì cơ tiến hoá của các chủng tộc. Ngài là con người lý tưởng. Ngài phải làm việc với các hình hài mà xuyên qua đó Tinh Thần phải biểu lộ; Ngài huỷ diệt và xây dựng lại.
Ba Đấng này chủ trì ba Bộ Môn (Departments) được phân chia trong Thánh Đoàn, và do đó tượng trưng ba Trạng Thái biểu lộ thiêng liêng trong lãnh vực đặc biệt của các Ngài. (Nguồn: LVLCK, 156 - 165)
+ Cung Thể trí: thuộc một trong các cung 1, cung 4, cung 5. Các khó khăn được giải quyết như thế nào? Hãy phân tích các phương pháp được sử dụng để xử lý dữ liệu, các lời lẽ được đưa ra như thế nào.
- Cung 5: Có phải theo phương pháp trí tuệ của não trái: đường thẳng, hợp lý, chi tiết, cung cấp bằng chứng, có lẽ sự tập trung nhạt nhẽo và đơn điệu chỉ vào các sự kiện (Thể trí cung 5)?
- Cung 4: Hoặc có phải nó là trí tuệ thuộc não phải, có tính giải trí, đầy màu sắc, đầy kịch tính, trực quan, nên thơ, hài hước, ngắn gọn dựa trên các chi tiết rõ ràng (Thể trí cung 4)?
- Cung 1: Hay bạn nhảy đến các kết luận, đi thẳng vào vấn đề, sau đó bảo vệ quan điểm của bạn với một trong hai cách : kiêu ngạo và gây hấn, hạ gục đối thủ của bạn; hoặc với năng lực và sự khẳng định đầy tự tin (Thể trí cung 1)?
Cách nhìn khác
- Cung 4: Có phải bạn khổ sở với các quyết định và bị cảm xúc đến nỗi bạn không thể suy nghĩ một cách rõ ràng (Thể trí cung 4)?
- Cung 5: Hoặc có phải bạn được đưa vào kỷ luật trong vấn đề đang giải quyết, và có một cách tiếp cận thực tế và hợp lý (Thể trí cung 5)?
- Cung 1: Hoặc bạn tóm tắt các vấn đề một cách nhanh chóng và ngay lập tức đi đến một kết luận tổng hợp (Thể trí cung 1)?
Nguồn: (Trích từ năng lượng 7 cung - Khóa học GQ/ MF)
Mời xem phóng to Cung Trí Tuệ 1 - 4 - 5 của Thể trí
Nguồn: Tâm lý học nội môn 3 – Biểu đồ cung
Xem thêm: Tổng hợp về Trí tuệ, Cung Thể Trí và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
+ Quả báo bần cùng hạ tiện: 5) Mắc nợ (Phụ trái). Còn nhân tố thứ năm dẫn tới quả báo hạ tiện là gì? Là mắc nợ—mượn tiền của người ta rồi trốn tránh, không chịu trả. Không cần nhiều, cho dù chỉ nợ nần một đồng bạc, chúng ta cũng không được thiếu. Tiền bạc là giả tạm, song có thể được dùng để làm những việc chân thật, thiết thực và hữu ích; do đó chúng ta không nên hoang phí hoặc chi tiêu bừa bãi. Ví dụ, quý vị mượn tiền của người khác rồi không muốn trả, bèn lánh sang nơi khác để trốn nợ, và cho rằng hành động như thế là khôn ngoan, có lợi cho mình. Thật ra, không có lợi chút nào cả, bởi quý vị quỵt tiền của thiên hạ thì sau này, chính mình phải chịu quả báo bần cùng hạ tiện. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Pháp tu trí tuệ - Tu có trí tuệ - Người có trí tuệ - Người ngu đần - Người liệt tuệ
44.IV. Liệt Tuệ (Duppanna) (S.v,99)
1) ...
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến... ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn :
3) -- "Kẻ liệt tuệ ngu đần, kẻ liệt tuệ ngu đần", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là liệt tuệ ngu đần?
4) -- Do bảy giác chi không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này Tỷ-kheo, nên được gọi là liệt tuệ ngu đần. Thế nào là bảy? Niệm giác chi... Xả giác chi.
5) Này các Tỷ-kheo, chính do bảy giác chi này không được tu tập, không được làm cho sung mãn, nên được gọi là liệt tuệ ngu đần.
45.V. Có Trí Tuệ (S.v,100)
1-2) ...
3) -- "Có trí tuệ không ngu đần, có trí tuệ không ngu đần", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là có trí tuệ không ngu đần?
4) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bảy giác chi, này các Tỷ-kheo, được gọi là có trí tuệ không ngu đần. Thế nào là bảy giác chi này? Niệm giác chi... Xả giác chi.
5) Do tu tập, do làm cho sung mãn bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, được gọi là có trí tuệ không ngu đần.
46.VI. Bần Cùng (Daliddo) (S.v,100)
1-2) ...
3) -- "Bần cùng, bần cùng", bạch Thế Tôn, được gọi là như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là bần cùng?
4) -- Do không tu tập, do không làm cho sung mãn bảy giác chi, nên được gọi là bần cùng. Thế nào là bảy? Niệm giác chi... Xả giác chi.
5) Do không tu tập, không làm cho sung mãn bảy giác chi này, này Tỷ-kheo, được gọi là bần cùng.
47.VII. Không Bần Cùng (S.v,100)
1-2) ...
3) -- "Không bần cùng, không bần cùng", bạch Thế Tôn, được gọi là như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là không bần cùng?
4) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bảy giác chi, này Tỷ-kheo, được gọi là không bần cùng. Thế nào là bảy? Niệm giác chi... Xả giác chi.
5) Chính do tu tập, làm cho sung mãn bảy giác chi này nên được gọi là không bần cùng. (Nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi)
Thô tà hộ chánh kim cương luân
Si mị võng lượng câu độn hình
Bồ đề đạo tâm thường bất thoái
Kim thân nãi chí thành Phật thân
Phiên dịch
Bỏ tà theo chánh chuyển pháp luân
Quỉ mị yêu tinh sợ ẩn mình
Bồ đề tâm đạo không thoái chuyển
Thân này thân Phật được viên thành. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Viên phố quả qua đào lý tân
Hướng vinh chi diệp thậm tiển minh
Ngũ cốc phong thu thương doanh túc
Bách bàn như ý khánh thăng bình.
Phiên dịch
Đào lý mướp dưa trổ vườn rau
Cành tươi đơm nhánh lá non xanh
Bao thóc chứa đầy năm giống lúa
Trăm điều như ý cảnh thanh bình. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Hóa Phật đảnh thượng pháp tối kỳ
Phổ cứu quần sinh xuất hãm ni
Công viên quả mãn siêu tam giới
Tức hoạch giác giả thọ thánh ký.
Phiên dịch
Hóa Phật đảnh thượng pháp diệu kỳ
Cứu độ quần sinh thoát bủa vây
Công quả viên thành qua ba cõi
Bồ đề thọ ký đắc thánh vị. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí tuệ thao thao như dũng tuyền.
Phiên dịch
Nghe nhiều bậc nhất chính A Nan
Học rộng nhớ hay Khổng Nhan Uyên
Đọc tụng đại thừa sâu bát nhã
Như dòng suối cuộn trí mông mênh. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Thế thế sinh sinh pháp vương gia
Cung điện lâu các diệu liên hoa
Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh
Tín giải hành chứng ma ha tát.
Phiên dịch
Kiếp kiếp thọ sinh nhà pháp vương
Cung điện hoa sen thơm ngát hương
Không thọ thai sinh, thân thanh thoát
Tin hiểu tu chứng đạo Bồ tát. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Túc thực đức bản chủng thắng nhân
Chư Phật Bồ tát quyến thuộc thân
Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện
Đại viên kính trí cổ kim minh.
Phiên dịch
Xưa trồng cội đức hạt thiện lành
Vào nhà Bồ tát, Phật thọ sinh
Giác như trăng hiện trên dòng biếc
Trí lớn gương tròn soi cổ kim. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Nhất tâm cung kính thiên trung thiên
Chúng sinh ái niệm các chân hư
Chủng nhân kết quả cầu chư kỷ
Lễ thượng vãng lai đạo bất thiên.
Phiên dịch
Một lòng cung kính Đức Như Lai*
Ái dục chúng sinh chuỗi vọng hư
Ta chính là nhân sinh kết quả
Đến đi cung thỉnh đạo như như. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Đại từ đại bi cứu quần sinh
Đại hỷ đại xả ích hàm manh
Đại nguyện đại nhân bồ tát đạo
Đại hùng đại lực Phật quả thành.
Phiên dịch
Đại từ đại bi cứu người người
Đại hỷ đại xả ích chúng sinh
Đại nguyện đại nhân bồ tát đạo
Đại hùng đại lực Phật quả thành. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
+ CÁC TAY THỦ NHÃN ẤN PHÁP
+ 42 Thủ Nhã Phải Được Chân Truyền: Thông báo được công bố ngày 16 tháng 8 năm 2006 của Văn Phòng Quản Trị Vạn Phật Thánh Thành: Bất cứ khi nào Hòa thượng Tuyên Hóa truyền pháp 42 Thủ Nhãn, Ngài luôn nhấn mạnh “Bất cứ ai truyền pháp này mà không có sự chấp thuận của tôi sẽ gặp ma chướng.” (1). Trước khi nhập Niết bàn, Ngài đã đặc biệt huấn thị vị trụ trì của Vạn Phật Thánh Thành (Pháp sư Hằng Luật) như sau: “Đừng để pháp môn Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này diệt tận. Hãy tiếp tục truyền lại cho các thế hệ sau. Việc truyền pháp này phải được tiến hành trước tượng Bồ Tát Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt (ở Phật Điện chính của Vạn Phật Thánh Thành).” (2) (Nguồn: Hòa Thượng khai thị rằng )
+ Trang 72 của quyển sách nầy cũng cho biết là 42 Thủ Nhãn nầy đều là sở tu của Bồ Tát, chứ chẳng phải là tên của 42 vị Bồ Tát. Ngài cũng cho biết là tại Đài Loan có một vị Pháp Sư giảng Chú Đại Bi, mỗi một Thủ Nhãn vị nầy đều giảng thành một vị Bồ Tát. Ví dụ như “Chưởng Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn” thì vị nầy giảng là: “Chưởng Thượng Hóa Phật Bồ Tát Thủ Nhãn”. Giảng như vậy là sai, sai một ly đi một dặm là vậy. Hình Thủ Nhãn tức là hình bàn tay có cầm những pháp bảo, mà cũng kỳ lạ là từ câu thứ 24.“Tát Bà Tát Bà” mới bắt đầu có Thủ Nhãn nầy và chấm dứt ở câu 75. “Ta Bà Ha” gồm có 42 hình ảnh của bàn tay với nhiều ấn quyết, mà không chấm dứt ở câu 84. “Ta Bà Ha” là câu cuối cùng, nhưng dẫu sao đi nữa thì đây cũng là những lời giải thích của vị có tu, có hành trì Thần Chú Linh Cảm nầy của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vì lòng Đại Bi mà đã thể hiện ra như thế để hóa độ chúng sanh, còn tin hay không thì xin tùy theo từng người đã cảm ứng với Thần Chú nầy như thế nào, chứ bảo rằng đúng hay sai thì lại là vấn đề khác nữa. (Sách Chú Đại Bi giảng giải của HT Tuyên Hóa - Thượng Tọa Thích Minh Định dịch sang tiếng Việt)
+ Ý nghĩa Tượng Quán Âm Bồ Tát: 42 tay ở giữa nêu biểu báo thân Phật, nêu biểu 42 thánh vị tu chứng (thập trụ, thập hạnh, thập địa, thập hồi hướng, đẳng giác và diệu giác) để cứu độ 25 cõi chúng sinh trải qua 42 thánh vị để thành tựu giác ngộ.(Nguồn: Giảng về Tượng Quán Âm Bồ Tát ngàn Tay và 42 Tay Ấn Pháp)
+ Câu Chú 24. Tát bà tát bà: Câu này là Bảo Ấn/ Bảo thủ nhãn ấn pháp. Ý nghĩa tương ứng cả bài Chú Đại Bi và Tay Ấn này bao hàm cả 42 tay thủ nhãn (Nhưng quí vị phải thành tựu cả 42 Thủ nhãn thì khi đó mới sử dụng được Ấn này). Bằng cách hành trì ấn pháp này, quí vị có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo người trì tụng ấn chú này. Quí vị bảo họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”. (Ngài HT Tuyên Hóa đã dùng 2 lần để cứu người sắp chết sống lại nhiều năm).
Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ – tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”. (Nguồn: Giảng Chú Đại Bi)./.
+ Tùy theo mỗi Ấn Pháp mà có thể là dùng cả hai Tay hoặc một Tay để biểu diễn - Ngàn cánh Tay của Bồ Tát tương ứng với Ngàn Ấn Pháp.
+ Ứng dụng Sáu Tay Ấn <=> Sáu hạnh và Sáu mắt: (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi)
Có 6 hạnh rất quan trọng:
1- Cho ra
2- Buông đi (tay buông đi có 2 vị thế: Thí Vô Úy và Thí Tiếp Dẫn, 2 tay nhỏ- Xem nguồn
3- Xoa dịu (Tay xoa dịu cũng có 2 tay là Đại Bi Cam Lồ và Đại Từ Giáng Vũ
4- Gỡ rối
5- Nhấc bổng
6- Mãn nguyện
Đây là 6 tay mà cũng là 6 hạnh. Sáu hạnh đi với 6 mắt là:
1-Cho ra đi với mắt Tri Ân
2- Buông đi đi với mắt Thấy bản tánh
3- Xoa dịu đi với mắt Hiền lành
4- Gỡ rối đi với mắt Thấy suốt
5- Nhấc bổng đi với mắt Tha thứ
6- Mãn nguyện đi với mắt Tin sâu
Như thế là mình có mắt, có tay và có tâm. Có đủ bộ như vậy thì mình mới thấy được con đường tu dễ dàng. Nếu các bác đem bạn tới Mạn Đà La kỳ này (Thay Tượng A Di Đà thành Tượng 6 Tay Quan Âm đặt ở giữa mạn Đà La), các bác nên giới thiệu đây là con đường nhập thế, của đạo bồ tát là đạo của tình thương và của lòng từ bi mở rộng. Đây là thực hành phụng sự.
+ 42 Chủng Tử Tự trong Kinh Hoa Nghiêm: Kinh giảng về thứ tự tu hành từ thấp đến cao, một bản đồ tu hành, chỉ dẫn con đường tu đạo đến quả vị Bồ Tát, Phật quả.
Đức Phật gói nghém cảnh giới bất nhị/ Vô sắc vô hiện của Ngài vào 42 chủng tử Tự, qua Mạn đà la ... biểu hiện bản tánh của Ngài. 42 chủng tử tự (Đỉnh cao của trí tuệ) ứng vô số cửa giải thoát. Sử dụng để giúp chúng sinh, ví dụ một người đang buồn, nếu dụng chủng tử tự và câu Chú tương ứng nhập vào Tâm anh ta, mang năng lượng tình thương vào hóa giải (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ PHẦN 42 TAY ẤN PHÁP: Mời xem chi tiết Tóm lược 42 Thủ Nhãn Ấn Pháp
Xem thêm Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi Tại đây
Xem thêm: (Xem Giới Thiệu 42 Thủ Nhãn và Clip về Chủng tử tự)
Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo trường
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.
Chú: cấp tu, pháp độ, quả vãng, pháp đại, giai thượng.
Phiên dịch
Cấp Tu, Khoái Độ, các vua rồng
Quả Vãng, Pháp Đại bậc hiền thần
Quy y tam bảo làm hộ pháp
Đi, đứng, ngồi, nằm thường an nhiên. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
+ 42 Thủ Nhã Phải Được Chân Truyền:
Vào ngày 24 tháng 5, Hòa Thượng khai thị rằng: Bất luận tu pháp môn nào quý vị cũng không được khinh cử vọng động, không được khinh suất hay tu nửa vời, nhất là đối với người hành trì 42 Thủ Nhãn thì càng phải kính trọng Pháp-bảo của mình. Vì bởi 42 Thủ Nhãn là pháp môn đưa quý vị đến minh tâm kiến tánh, liễu thoát sanh tử. Đừng niệm chú để đuổi một con muỗi đang đốt, đừng có dùng thủ ấn để đối phó với một người la rầy mình. Làm như vậy thì giống như ném Pháp-bảo của mình vào sọt rác, thật là uống phí! Nếu quý vị không kính trọng Pháp tức là quý vị không kính trọng Phật, và cũng chính là không kính trọng Tăng. Kẻ không kính trọng Tam Bảo, bất luận tu pháp môn nào cũng đều không thành tựu đặng. Thật ra, nếu quý vị thường phô trương cho người hoặc hay thí nghiệm thử xem pháp có linh không thì rất chóng pháp sẽ không còn linh ứng nữa. Sao vậy? Bởi vì các vị Thiện Thần Hộ Pháp không còn theo chúng ta nữa. Cho nên người học 42 Thủ Nhãn không được tùy tiện phô trương. Nếu không phải là những trường hợp sanh tử thì tuyệt đối không bao giờ được khinh xuất vọng động, nhất là khi quý vị chưa học thành thạo pháp môn này.
Thông báo được công bố ngày 16 tháng 8 năm 2006 của Văn Phòng Quản Trị Vạn Phật Thánh Thành: Bất cứ khi nào Hòa thượng Tuyên Hóa truyền pháp 42 Thủ Nhãn, Ngài luôn nhấn mạnh “Bất cứ ai truyền pháp này mà không có sự chấp thuận của tôi sẽ gặp ma chướng.” (1). Trước khi nhập Niết bàn, Ngài đã đặc biệt huấn thị vị trụ trì của Vạn Phật Thánh Thành (Pháp sư Hằng Luật) như sau: “Đừng để pháp môn Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này diệt tận. Hãy tiếp tục truyền lại cho các thế hệ sau. Việc truyền pháp này phải được tiến hành trước tượng Bồ Tát Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt (ở Phật Điện chính của Vạn Phật Thánh Thành).” (2) (Nguồn: Tức sự minh lý)
+ Hòa Thượng cũng khai thị phải Tu Tập Đúng: Bất luận tu pháp môn nào quý vị cũng không được khinh cử vọng động, không được khinh suất hay tu nửa vời, nhất là đối với người hành trì 42 Thủ Nhãn thì càng phải kính trọng Pháp-bảo của mình. Vì bởi 42 Thủ Nhãn là pháp môn đưa quý vị đến minh tâm kiến tánh, liễu thoát sanh tử. Đừng niệm chú để đuổi một con muỗi đang đốt, đừng có dùng thủ ấn để đối phó với một người la rầy mình. Làm như vậy thì giống như ném Pháp-bảo của mình vào sọt rác, thật là uống phí! Nếu quý vị không kính trọng Pháp tức là quý vị không kính trọng Phật, và cũng chính là không kính trọng Tăng. Kẻ không kính trọng Tam Bảo, bất luận tu pháp môn nào cũng đều không thành tựu đặng. Thật ra, nếu quý vị thường phô trương cho người hoặc hay thí nghiệm thử xem pháp có linh không thì rất chóng pháp sẽ không còn linh ứng nữa. Sao vậy? Bởi vì các vị Thiện Thần Hộ Pháp không còn theo chúng ta nữa. Cho nên người học 42 Thủ Nhãn không được tùy tiện phô trương. Nếu không phải là những trường hợp sanh tử thì tuyệt đối không bao giờ được khinh xuất vọng động, nhất là khi quý vị chưa học thành thạo pháp môn này (Nguồn: Hòa Thượng khai thị rằng )
+ Cảnh báo đáng sợ về PHÀM PHU tự ý tu 42 Thủ nhãn: 42 Thủ nhãn ấn pháp còn gọi là Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn trong kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Hòa thượng Tuyên Hóa, là hóa thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, dạy: “Trong tất cả các pháp, pháp 42 thủ nhãn là pháp bí mật nhất trong các pháp bí mật; Thâm sâu nhất trong các pháp thâm sâu, vi diệu nhất trong các pháp vi diệu. Pháp này là bất khả tư nghì và không suy lường được”. Nếu bạn đang có ý định tu tập thì bài viết này là đành cho bạn đấy!
Chính bởi sự vô cùng trọng yếu của pháp môn này, nên Hòa Thượng đặc biệt nhấn mạnh về thọ pháp và cách tu tập. Bởi nếu không phải hàng Thượng căn, giới hạnh cực tinh nghiêm, mà ngã mạn tu pháp này, tất sẽ bị nhập ma. Bất cứ khi nào Hòa thượng Tuyên Hóa truyền pháp 42 Thủ Nhãn Ấn Pháp, Ngài luôn nhấn mạnh: “Bất cứ ai truyền pháp này mà không có sự chấp thuận của tôi sẽ gặp ma chướng.” (Nguồn: Cảnh báo đáng sợ tu ứng dụng 42 Thủ Nhãn)
Khẩu nhã huyền hà biện tài hùng
Ngôn từ khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung pháp tánh áo
Truyền Phật tâm ấn vạn thiện đồng.
Phiên dịch
Mở miệng thao thao sức biện tài
Tiếng lời vang vọng diệu thanh âm
Lý sự gồm thu trong pháp tánh
Muôn một chung đồng ấn Phật tâm. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Phạm âm liệu lượng biến thái không
Khải lung chấn quý cảnh ngu mông
Huyền diệu biến hóa bảo đạc thủ
Văn thanh ly khổ giác hoa tông.
Phiên dịch
Phạm âm réo rắt một trời không
Đui, điếc, ngu si được tỏ thông
Chuông báu diệu huyền muôn biến hóa
Nghe chuông thoát khổ ngộ hoa tông. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Niệm tư tại tư vọng quy chân
Thập phương chư Phật thụ thủ thân
Tốc chứng tam bối cửu phẩm địa
Ma ha diệu pháp thắng linh văn.
Phiên dịch
Tâm thường niệm Phật vọng hóa chân
Tay Phật mười phương tự trao truyền
Chín phẩm ba tầng mau chứng được
Ma ha diệu pháp bản kinh huyền. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Bạch cốt hoàn giao thổ vị mai
Hành nhân tu pháp thiết cung đài
Luyện thành quỷ thần tuân hiệu lệnh
Độc lâu trượng thủ bi nguyện hoài.
Phiên dịch
Xương trắng còn trên đất chưa chôn
Người tu thánh pháp dựng đài cao
Luyện thành quỷ thần tuân hiệu lệnh
Chống gậy đầu lâu nguyện đại bi. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Pháp âm hưởng triệt chấn chư thiên
Nhất thiết thiện thần y triệu lệnh
Tứ phương kết giới thiên biến hóa
Long vương hộ vệ tại hậu tiền.
Phiên dịch
Pháp âm chấn động khắp chư thiên
Tất cả thần nhân y lệnh chầu
Phân định bốn phương ngàn biến hóa
Vua rồng bảo vệ trước và sau. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Nhân Quý chinh liêu dũng vô địch
Nê hà cứu giá lập công kỳ
Cao ly đầu hàng triều thánh đế
Tha phương nghịch tặc tuyệt tông tích.
Phiên dịch
Viễn chinh Nhân Quý bậc anh hùng
Giúp nước cứu vua lập đại công
Cao ly đầu hàng triều thánh đế
Nghịch tặc phương nào lưu dấu chân. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Chư thiên khoái lạc thắng nhân gian
Phát nguyện vãng sinh đa trở nan
Đản tự thủ trì hồng liên hoa
Đàn chỉ vãng sinh phi đẳng gián.
Phiên dịch
Vui thú cõi trời hơn thế gian
Phát nguyện vãng sinh bao khó khăn
Hồng liên hoa thủ siêng tu tập
Búng tay tức khắc đã về nhà. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên
Thọ thắng diệu lạc phúc báo toàn
Đản năng trì thử quân trì thủ
Thân thân sinh bỉ thọ như sơn.
Phiên dịch
Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên
Thọ phúc báo thù thắng vẹn toàn
Chuyên cần trì pháp quân trì thủ
Thọ kiếp lâu dài như núi non. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.
Phiên dịch
Vì đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Chẳng hề tăng giảm sánh trời xanh
Biến hóa rộng sâu như ý nguyện
Năm sắc mây lành quyện dưới chân. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Thiên thượng chúng bảo diệu nghiêm trang
Điạ trung phục tạng hóa ngu manh
Hải lý long cung kỳ trân hiện
Bảo khiếp thủ nhãn phóng hào quang.
Phiên dịch
Thiên giới trang nghiêm lắm ngọc ngà
Dấu trong lòng đất hóa thô sơ
Cung điện vua rồng trân bảo hiện
Hộp ngọc hào quang tỏa sáng lòa. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật đà gia
Tòng kim bất lạc lục đạo gia.
Phiên dịch
Vi diệu đóa sen tím khó lường
Mau chóng chứng giải thoát Bồ đề
Thấy được đất Phật khắp mười phương
Sáu cõi thời thời chẳng lạc về (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Đại viên kính trí cùng pháp nguyên
Chiếu yêu kính lý tróc quái tiên
Diêm vương kính trung ác nghiệp hiện
Pháp bảo kính thủ chủng trí viên
Phiên dịch
Đại trí viên dung tận cội nguồn
Tróc nã yêu tinh phản chiếu hình
Giữa kính Diêm Vương ác nghiệp hiện
Pháp bảo kính thủ chủng trí viên. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung.
Phiên dịch:
Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Sen như đèn báu tịnh mười phương
Trên hoa Phật hiện viên thành đạo
Đến đi niệm niệm ứng thời cơ. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Tiển xạ cường địch đảm lạc hàn
Khắc thù chí thắng thao tả khoán
Nhân Quý tướng quân bình liễu loạn
Khải ca cao xướng lạc quần thiên.
Phiên dịch:
Mật lạnh theo tên vào kẻ dữ
Khắc phục lòng thù đoạt chiến công
Nhân Quý tướng quân an giặc loạn
Khúc hát ngày về ấm trời hồng. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Dương chi thủ nhãn độ quần manh
Phiền nhiệt bệnh khổ đắc thanh lương
Khô mộc phùng xuân trọng mậu thịnh
Tử nhi bất vong thọ vĩnh xương.
Phiên dịch:
Phổ độ chúng sinh một cành dương
Não phiền nóng bõng hóa thanh lương.
Xuân đến cây khô đơm lộc biếc
Chết mà không mất lại miên trường. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ
Khinh tảo số số chúng nan quyên
Phiên dịch:
Kiếp xưa nghiệp sát nặng bằng non
Chắn bước đường tu đạo thánh nhân
Chổi trắng ai ngờ tâm lượng lớn
Quét đi vô số nghiệp khó trừ. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Bảo bình cam lộ nhuận quần manh
Cô mộc phùng xuân mậu hựu xương
Vạn bệnh kham trừ hiển đại dụng
Sinh sinh hóa hóa diệu vô phương.
Phiên dịch:
Bình vàng sương ngọc nhuận quần sinh
Cây khô đơm nhánh giữa trời xuân
Hiển hiện kỳ công trừ bệnh tật
Sinh sinh hóa hóa diệu vô phương*. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Sài lang hổ báo mạnh hựu hung
Sư tử hùng bi cánh tranh nanh
Bàng bài cao cử giai hồi tỵ
Tuy phùng hiểm lộ dịch khang bình.
Phiên dịch:
Sài lang hổ báo đã ác hung
Uy phong sư tử lại bạo tàn
Đưa cao bàng bài đều lẩn tránh
Gặp đường nguy hiểm cũng bình an. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Nghiêm hình bức cung khấp quỉ thần
Hàm oan linh ngữ lý nan thân
Nhược dục thoát ly luy tiết khổ
Thả tu phủ việt thủ an thân
Phiên dịch:
Quỷ khóc thần than bức bách thân
Ngục tù ngậm miệng khó minh oan
Nếu muốn thoát vòng dây trói buộc
Pháp tu phủ việt thủ bình an. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Kinh thiên động địa dịch quỉ thần
Hô phong hoán vũ đàm tiếu trung
Nam cung nữ kính đồng lễ bái
Tân chủ hòa hợp đạo đại hưng.
Phiên dịch:
Khiến thần sai quỷ động đất trời
Gọi gió kêu mưa lúc nói cười
Trai gái một lòng cung kính lạy
Hợp hòa chủ khách đạo vun bồi. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Tướng quân anh dũng mạnh vô địch
Bảo cung tại thủ xạ gian di
Khải toàn cao xướng vinh quan bổng
Ích chức gia thăng lạc hữu dư.
Phiên dịch:
Vô địch tướng quân khí hùng anh
Cung báu trong tay diệt ngụy tà
Quan tước điểm tô câu tán tụng
Chức vị càng thêm lợi nước nhà. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Nhiệt độc vi hoạn nhật tương tiễn
Triền miên sàng đệ bội thương thảm
Nguyệt tinh ma ni thanh lương tán
Tiêu tai diên thọ lợi kiền khôn.
Phiên dịch:
Bệnh vì khí nóng ngấm vào thân
Trên giường trăn trở khổ nhân đôi
Ngọc phóng luồng trăng tươi khí lạnh
Xua tan hoạn nạn nhuận đất trời. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Tâm địa quang minh chiếu thế gian
Lục căn thanh tịnh hỗ dụng huyền
Ngu si chuyển thành chân trí tuệ
Hắc ám biến tác cự hỏa diệm.
Phiên dịch:
Đất tâm trong sáng chiếu thế gian
Dùng thế cho nhau cả sáu căn
Ngu muội chuyển thành chân trí tuệ
Tối tăm đổi lấy lửa rực hồng. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Thu tận thiên ma pháp bảo kỳ
Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề
Vạn bệnh hồi xuân tăng phúc thọ
Thí vô úy thủ độ quần mê.
Phiên dịch:
Phi thường pháp bảo trói thiên ma
Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề
Dứt bệnh ngày xuân tăng phúc thọ
Đưa tay vô úy độ quần mê. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Hàng phục oán ma kinh quỉ thần
Vũ trụ cát tường chánh khí tồn
Hộ pháp vệ giáo công huân phổ
Tăng già hợp hòa đạo dịch hưng.
Phiên dịch:
Hàng phục oán ma khiếp quỉ thần
Đất trời tươi nhuận khí thanh trần
Giữ gìn giáo pháp nơi nơi tỏ
Tăng già hòa hợp đạo thịnh hưng. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Pháp lôi cao kình cảnh ngoan minh
Pháp cổ phủ xao chấn quý lung
Pháp vân phổ âm lợi vạn vật
Pháp vũ biến sái nhuận quần sinh.
Phiên dịch:
Pháp như sấm dậy tỉnh người ngu
Trống pháp êm tai kẻ điếc, mù
Mây pháp ngang trời che vạn vật
Như mưa rưới đất nhuận quần sinh. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Bảo kiếm phi quang thấu tam tam
Si mị võng lượng các tuân tuyên
Pháp giới yêu khí tòng tư tức
Hoằng dương chánh giáo độ khôn kiền.
Phiên dịch:
Gươm lồng bóng thép ba ngàn cõi
Si mị võng lượng phục thần oai
Yêu khí tiêu trừ trong pháp giới
Hoằng dương chánh giáo độ muôn loài. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Bát vạn tứ thiên bệnh ma triền
Bảo bát cam lộ khả ly thuyên
Bồ đề tát đỏa tự tại quán
Từ bi phổ độ hóa hữu duyên.
Phiên dịch:
Ma bệnh buộc ràng tám vạn tư
Bát vàng sương ngọc tịnh tâm hư
Tự tại Quán Âm Bồ Tát hạnh
Duyên lành nhiếp thụ đại tâm từ. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Quyến sách thủ thị khổn ma thằng
Bàng môn quỉ quái nan độn hình
Câu lưu pháp bảo đa biến hóa
Trừ tà phù chánh bí văn linh.
Phiên dịch
Tay làm mạng lưới trói quân ma
Lối quỉ đường yêu khó chạy xa.
Pháp thần biến hóa muôn hình trạng
Phép luật uy linh rõ chánh tà. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
Thanh hương bảo đỉnh hóa tam thiên
Như ý kim ngao du cửu uyên
Thiện Tài Long Nữ tiếu huyên huyên
Phật giáo diệu pháp nhữ yếu tham.
Phiên dịch:
Đỉnh hương nhập diệu khắp ba ngàn
Rùa ngọc chín tầng như ý chơi.
Cầu học Phật môn vô thượng pháp
Huyên thuyên Long Nữ Thiện Tài cười. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
+ Khai quang tượng Bồ Tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn: Bây giờ, chúng ta đang khai quang bức tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt này. Tôi muốn nhân dịp này để giảng pháp và truyền cho quý vị tất cả sự hiểu biết của tôi về giáo pháp 42 Thủ Nhãn của Quan Thế Âm Bồ Tát – từng mỗi Thủ Nhãn đều truyền thọ cho quý vị. Nếu quý vị tin, thì tin; nếu không tin thì tôi cũng không thể ép buộc quý vị tin. Bất cứ ai chú tâm thực hành theo pháp này thì trong tương lai sẽ được thành tựu ngàn tay ngàn mắt.
Tại sao Quan Thế Âm Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt? Thực tế, ‘ngàn tay’ và ‘ngàn mắt’ là danh xưng tổng quát. Nếu phân tích chi tiết, tay và mắt của Quan Thế Âm Bồ Tát thì vô hạn. Mỗi đầu sợi lông đều có tay và mắt. Làm thế nào mà Ngài chứng được pháp thân này? Đó là vì Ngài đã tu pháp 42 Thủ Nhãn nên thành tựu được diệu tướng trang nghiêm này. Có thể dùng 42 Thủ Nhãn để hàng phục thiên ma ngoại đạo. Trong mỗi bàn tay có một con mắt và mỗi mắt đều có thể quan sát tâm niệm của tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới.
Tại Mã Lai (Malaysia), tôi đã từng nói “Trong tất cả các pháp, pháp 42 thủ nhãn là pháp bí mật nhất trong các pháp bí mật, thâm sâu nhất trong các pháp thâm sâu, vi diệu nhất trong các pháp vi diệu (1). Pháp này là bất khả tư nghì và không suy lường được.” Ai có thể ngờ rằng trong Phật pháp, việc truyền pháp này đã bị gián đoạn và thất truyền. Vì vậy, bây giờ tôi muốn kế tục pháp này, truyền thọ cho quý vị. Nhưng giảng về pháp này không dễ dàng. Tại sao? Để học và thực hành pháp này, thứ nhất quý vị cần có lòng tin vào pháp này, thứ nhì cần có lòng nhẫn nại, và thứ ba lại cần có tâm bền bỉ lâu dài không nhàm mỏi.(2) (Nguồn: Vạn chúng nhất tâm Vạn Phật Thành - HT Tuyên Hóa)
+ Khai Quang Tượng Phật - Bồ tát
Hỏi: Tượng Phật ở nhà chúng con chưa làm lễ khai quang, vậy chúng con có thể lễ bái được không?
Đáp: Tượng Phật có khai quang, hay không khai quang, đó không phải là vấn đề ở đây. Chỉ là xem quý vị có tâm chấp trước hay không thôi. Nếu trong tâm không chấp trước thì tượng Phật lúc nào cũng đều là khai quang. Nếu trong tâm còn chấp trước thì dù tượng Phật đã được khai quang rồi, cũng coi như là không có khai quang vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 316)
+ Các cánh hoa kiến thức tức là trạng thái trí tuệ (mind aspect). Thuộc vòng cánh hoa thứ ba hay vòng ngoài của hoa sen Chân Ngã.
+ Thổ Tinh: Trái đất và Thổ tinh truyền dẫn Cung 3(GQ1- CT con người)
+ Cấu trúc, kỷ luật, tập trung, nghiêm trọng, tách rời, phân cách. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Giống như Sao Mộc, có nhiều liên kết với Sao Thổ, một số đó là: tách rời, cứng nhắc, trưởng thành, trí tuệ, trách nhiệm, thất vọng, ức chế, cô lập, tách rời, thất bại, chết chóc, khô khan, và nặng nề. - Tôi xem sao Thổ như là một động lực để loại bỏ sự thừa thải, và bất cứ điều gì phù phiếm, trong khi bảo vệ những gì là cần thiết. Sao Thổ có xu hướng loại bỏ sự lãng phí và đôi khi ngay cả những niềm vui đơn giản và tập trung sự chú ý của chúng ta về trách nhiệm của chúng ta. Hầu như tất cả các liên kết truyền thống của sao Thổ đều có thể được xem như những biểu hiện hay hậu quả của sự tập trung của Thổ tinh vào những gì là cần thiết. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Kiểu mẫu tương tác năng lượng cần nghiên cứu kỹ: Một hiểu biết về các ảnh hưởng gây cản trở hoặc kích thích này có thể dễ dàng hiểu được bởi người nào có thể hiểu được bản chất của các hoạt động của hành tinh Saturn (Thổ Tinh).
Đây là hành tinh hiện chi phối trước tiên mức tiến hóa nơi mà sự chọn lựa chắc chắn xảy ra, nơi mà sự bác bỏ cơ hội hoặc chấp nhận cơ hội đó có thể được đảm đương một cách sáng suốt, và việc gánh vác trách nhiệm cá nhân trở nên một sự kiện được nhận biết trong một kiếp sống có hoạch định và có nền nếp. Điểm này trong diễn trình tiến hóa nhân loại được nói đến trong Cổ Luận bằng các câu tượng trưng sau đây: ..... (CTHNM, 28)
Xem thêm: Tổng hợp về Thổ tinh/ Sao thổ
+ Xem chiêm tinh học nội môn - Dự đoán chiêm tinh nội môn
Chắc chắn là về điều này, chiêm tinh học hiện đại đã đi lạc đường. Nó đã đảo ngược phương pháp chân thực và đúng đắn và đã nhấn mạnh vào cái đặc thù và riêng biệt; dựa vào lá số cá nhân và mệnh số cá biệt, và đã không nhấn mạnh vào các năng lượng vĩ đại và Cội Nguồn các năng lượng đó. Các cội nguồn này đều chịu trách nhiệm tối hậu cho sự biểu lộ của cái đặc thù. Lập trường và cách trình bày chân lý này phải được thay đổi.
Do đó, trong chiêm tinh học huyền bí, chúng ta bàn đến Sự Sống và Các Sự Sống đang làm linh hoạt (inform) “các điểm ánh sáng” bên trong Sự Sống vũ trụ (universal Life).
Các tinh tòa, các thái dương hệ, các hành tinh, các giới trong thiên nhiên và con người tiểu vi (microscopic man) hầu như là kết quả của hoạt động và sự biểu lộ năng lượng của một số Đấng Cao Cả (Lives) mà chu kỳ biểu lộ và các mục tiêu bao la của các Ngài nằm ngoài sự hiểu biết của các thể trí giác ngộ và tiến hóa nhất trên hành tinh chúng ta. (Chiêm tinh học nội môn, Tr 14)
+ Xem Lá số chiêm tinh: Sự đảo ngược của con đường mà một người đang đi xuyên qua các cung của hoàng đạo sẽ cần đến một sự hiệu chỉnh về phương pháp mà các chiêm tinh gia dùng đến khi họ chấm lá số tử vi của những người tìm đạo già dặn hơn, của các đệ tử và các điểm đạo đồ.
Do đó, tùy theo mức tiến hóa của một cá nhân trên Thánh Đạo hay là (nói cách khác) vị trí của cá nhân trên bánh xe sự sống, chiêm tinh gia thực tiễn sẽ sắp đặt cách lý giải lá số. Điều đó sẽ cần đến công lao và ý tưởng của chiêm tinh gia có trực giác, tùy thuộc vào sự tiếp xúc của linh hồn và nhiều suy tư, để xác định các tiến trình của việc lý giải chiêm tinh học cho những người vốn là các linh hồn tích cực và linh hoạt ở giai đoạn này hoặc giai đoạn khác, trong các giai đoạn cuối cùng trên Thánh Đạo. Việc chấm lá số của người bậc trung hoặc người kém phát triển không xảy ra khó khăn nào như thế cả. (CTHNM, 29)
+ Biểu Lộ Theo Chu Kỳ
1/ Một chu kỳ thái dương (solar cycle) như chu kỳ hiện nay, trong đó Cung 2, Cung Bác ái - Minh Triết là cung chính, còn tất cả các cung khác chỉ phụ thuộc cung này.
2/ Chu kỳ hành tinh, như là các chu kỳ mà chúng ta vừa xem xét liên quan đến các giống dân, năm giống dân được liệt kê ở trên và năm cung đang chi phối của các giống dân này.
3/ Các chu kỳ liên quan đến 12 cung Hoàng đạo cơ bản, các chu kỳ này có hai:
a– Các chu kỳ có liên quan với một vòng Hoàng đạo đầy đủ, vào khoảng 25.000 năm.
b– Các chu kỳ có liên quan với mỗi một trong 12 cung đi vào và chấm dứt biểu lộ vào khoảng mỗi 2.100 năm.
4/ Các chu kỳ mà một số cung chiếm ưu thế trong một giai đoạn tiến hóa của nhân loại, đó là năm giai đoạn thuộc giống dân chính mà chúng ta đã thấy ở trên.
5/ Chu kỳ nhỏ diễn ra trong và ngoài lúc biểu lộ như có đề cập đến trước đây trong quyển này.
6/ Các chu kỳ hoạt động của cung được xác định bằng các con số của chúng. (TLHNM I, 265 / 332)
+ Chuyển tiếp Cung theo chu kỳ: Chu kỳ vừa kể là sự nhập cuộc hay ra đi của một cung (biểu lộ thành màu sắc khi chúng tiếp xúc với vật chất). Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này thường có 4 cung thay đổi nhau tác động trong bất cứ thời gian nào. Như vậy, ít nhiều gì cũng có những cung đồng thời nổi bật vào những giai đoạn biểu hiện nhất định.
Trong thời gian chuyển tiếp, sự pha trộn màu sắc hết sức phức tạp, nhưng cũng có tính tương trợ và giúp ích lẫn nhau. Theo hiện tại và của thời gian trong tam giới thì ảnh hưởng này hầu như rất ít ỏi, không thể đánh giá được. (TTHM, 234)
Xem: Tổng hợp về Chu kỳ
+ Các Chu Kỳ Cung biểu lộ (EPI 26-27)
Cung Một Không biểu lộ.
Cung Hai Biểu lộ từ năm 1575 sau Công Nguyên
Cung Ba Biểu lộ từ năm 1425 sau Công Nguyên
Cung Bốn Đi dần vào biểu lộ sau năm 2025 sau Công Nguyên
Cung Năm Biểu lộ từ năm 1775 sau Công Nguyên
Cung Sáu Đang nhanh chóng ra khỏi biểu lộ. Nó bắt đầu chuyển ra năm 1625 sau Công Nguyên
Cung Bảy Biểu lộ từ năm 1675 sau Công Nguyên. (26)
Có rất ít chân nhân (ego) cung bốn trên Trái đất ở thời điểm này, và một số lượng rất lớn chân nhân cung sáu, vì sẽ mất khoảng hai trăm năm trước khi tất cả họ chuyển ra khỏi luân hồi. Không có loại người cung một thuần túy trên hành tinh … tất cả cái gọi là các chân nhân cung một đều ở trên cung phụ thứ nhất của cung hai, đang luân hồi.
Tất cả các chân thần con người, được đưa vào biểu lộ bởi ý chí và mong muốn của một vị Chúa Tể cung nào đó, là thành phần của thể biểu lộ của Ngài. Họ biểu lộ mạnh mẽ tính chất của Ngài và xuất hiện một cách phi thường tùy theo thời gian cấp bách trong sự biểu lộ tiến hóa đã được đạt tới. “Giống như Ngài, chúng ta sẽ như thế trong thế giới này,” nhưng cho đến nay chỉ mới là tiềm năng, – mục tiêu tiến hóa là làm cho tiềm năng thành thực tế, và điều tiềm tàng thành điều được biểu lộ. Công việc của huyền bí gia chỉ là chính điều này: mang ra khỏi trạng thái tiềm tàng tính chất còn bị che dấu. (trích tóm lược Tâm lý học nội môn - Khóa GQ)
+ Chu kỳ Cung: Mỗi cung có chu kỳ [165] ảnh hưởng lớn nhất của nó, mà tất cả đều lệ thuộc vào chu kỳ đó tới một mức đáng kể, không chỉ những người thuộc về cung đặc biệt đó bởi bản chất, mà còn những người ở trên mọi cung khác cũng vậy. Chu kỳ ảnh hưởng dài của mỗi cung được chia thành bảy giai đoạn, mỗi giai đoạn được hạn định bởi ảnh hưởng của chu kỳ cung lớn hơn, được tăng cường khi chu kỳ cung phụ của chính nó đến (nghĩa là ảnh hưởng cung 6 thì lớn nhất trong chu kỳ của cung phụ 6). Chúng ta phải thận trọng lưu ý rằng thuật ngữ “cung phụ” (“sub-ray”) được dùng chỉ vì thuận tiện để chỉ giai đoạn ảnh hưởng ngắn hơn, không cốt để nêu ra bất cứ sự dị biệt nào trong bản chất của cung. (TLHNM I, 213)
I - THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ CON NGƯỜI: Nói chung, con người là những gì mà thể cảm dục của y tạo ra cho y. Sau nữa, “con người tưởng nghĩ như thế nào thì y trở nên thế ấy”. Thể cảm dục, với các mong mỏi, các thèm muốn, các tâm trạng, các cảm xúc và các khao khát của nó đúc nặn nên thể xác nhờ các lực thu hút tuôn chảy qua nó, và như thế dắt dẫn con người một cách chính xác để thực hiện các ham muốn của y. Nếu các khao khát của bản chất tri giác có tính thú vật vượt trội trong mục tiêu của chúng, chúng ta sẽ có con người với các thèm muốn mạnh mẽ, sống một cuộc đời dành hết nỗ lực để làm thỏa mãn chúng. Nếu sự khát khao để có tiện nghi và hạnh phúc, chúng ta sẽ có con người có tính khí thiên về giác quan, yêu cái đẹp và thích khoái lạc, về thực tế thì bị chi phối hoàn toàn bởi sự nỗ lực ích kỷ. Vì vậy, nó đi suốt tất cả các cấp độ ham muốn, tốt, xấu, và thông thường, cho đến khi sự tái-định-hướng xảy ra, nó tái-tập-trung (refocusses) các năng lượng cảm dục sao cho chúng được chuyển theo một hướng khác. Ham muốn (desire) trở thành nguyện vọng (aspiration). Như vậy, việc giải thoát khỏi bánh xe sinh tử được mang lại và một người được thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh. Khi đó thì lá số tử vi, như được hiểu hiện nay, tỏ ra vô ích, sai và vô dụng, còn thuật ngữ đôi khi được dùng, nhưng không đúng, là “lá số tử vi của chân ngã (ego) hay linh hồn”, thì không có ý nghĩa gì hết. Linh hồn không có vận mệnh cá nhân nào cả, mà được chìm vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của nó là vận-mệnh của tập thể, và của Tổng Thể (the Whole); mong muốn của nó là thể-hiện Thiên Cơ vĩ đại, và ý chí của nó là sự tôn vinh Thượng Đế nhập thể (the incarnated Logos). (LVHLT, 296)
+ Có bốn loại hình hài trong kỷ nguyên của vòng tuần hoàn thứ tư này:
1. Hình Hài của Phàm-Ngã, hiện thể đó bằng chất hồng trần, chất cảm dục và chất trí, vốn cung cấp phương tiện tiếp xúc trong ba cõi thấp
2. Hình Thức của Môi Trường. Đây thực sự là sự thực hiện tiến hóa thăng thượng của hồn khóm tiến hóa giáng hạ (involutionary).
3. Hình Thức của Người Thành Tâm (Devotee). Vâng, Tôi chỉ muốn nói từ ngữ đó, vì nó diễn đạt một ý tưởng trừu tượng
4. Hình tướng của Thể Nguyên Nhân. Đây là hiện thể của tâm thức cao siêu, đền thờ của Thượng Đế nội tại, vốn dường như có một vẻ đẹp rất hiếm có, và một sự ổn định có bản chất quá chắc chắn đến nỗi khi sự tan rã cuối cùng của ngay cả kiệt tác đó của nhiều kiếp sống xảy ra, thì cốc phải uống thực sự là cay đắng, và đơn vị tâm thức dường như bị mất đi một cách không thể diễn tả bằng lời được (LVHLT, 263)
II - THEO PHẬT PHÁP
Xem: T.H Tooltip và Thuật Ngữ, Cấu Tạo Con Người
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ Cung Hoàng Đạo (Trái đất làm Tâm/ Địa tâm): Có 12 phần = 30 độ = 12 Cung; Có 12 nhà (Địa bàn/ Cố định) - Ngoại môn/thuận chiều V.chất - Nhân loại hiện nay, đi từ Dương Cưu => Kim Ngưu qua Song Ngư; - Nội môn/ Tâm linh: Ngược lại, tức từ Dương Cưu ... Song Ngư qua Kim Ngưu (CTNM, 28)
+ Các Cung Hoàng Đạo ở 3 Cấp Độ Tâm Thức (Chiêm THNM, 332)
+ Mặt Trời: Đồ hình hình tròn, ta thấy Mặt trời đi theo chiều kim đồng hồ, từ dưới phía Đông đi lên đỉnh đồ hình là đỉnh đầu - 12 giờ trưa (Xem)
+ 12 Cung HĐ dẫn truyền: BẠCH DƯƠNG (1 và 7) ; KIM NGƯU (4) ; SONG TỬ (2) ; CỰ GIẢI (3 và 7) ; HẢI SƯ hay SƯ TỬ (1 và 5) ; XỬ NỮ (2 và 6) ; THIÊN BÌNH (3) ; HỔ CÁP (4) ; NHÂN MÃ (4, 5, 6); MA KẾT (1, 3, 7); BẢO BÌNH (5); SONG NGƯ (2 và 6)
+ 12 cung chia 2 nhóm. 7 Cung có biểu tượng nhị nguyên (CTHNM, 69):
1- Bảy cung có liên quan phát triển tâm thức hành tinh trên Địa Cầu và chỉ ngẩu nhiên liên quan đến Huyền Giai Sáng Tạo 4 (Nhân loại)
2- Năm cung có liên quan việc phát triển Huyền Giai Nhân loại trong thời gian và không gian. 5 cung quyết định chính yếu: a/ Cancer. b/ Leo. c/ Scorpio. d/ Capricorn. e/ Pisces. Ứng với 5 giống dân lớn, mà giống dân hiện tại của chúng ta, chủng Aryen, là thứ năm. 5 chủng tộc này tạo ra các biểu lộ bên ngoài gọi là 5 lục địa – Châu Âu, Châu Phi, Châu Á, Châu Úc, Châu Mỹ. Đối với Đấng hành tinh, 5 lục địa này cũng như 5 tuyến nội tiết chính yếu đối với con người. Chúng được liên kết với 5 trung tâm lực (CTHNM, 482)
+ 12 Cung Hoàng đạo: Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ 12 Hành tinh đang chi phối 12 Cung Hoàng đạo, có liên quan trước tiên đến biểu lộ ở cõi trần của con người, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã (CTHNM, 63)
- Định hình số mệnh: Năng lượng của cung Hoàng Đạo mà một người được sinh ra trong đó, nó cho thấy vấn đề hiện tại của người ấy, nó xếp đặt bước đi hay nhịp độ đối với cuộc sống, tính chất của Phàm Ngã người ấy. Nó chi phối trạng thái hoạt động của cuộc đời người này trong lúc đầu thai.
Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo Xem: Cung Hoàng Đạo;
+ Ba Chu Kỳ Biểu Lộ/ Biểu Hiện Thiên Cơ: Mỗi sự sống biểu hiện có ba chu kỳ vĩ đại của nó (6-7)
Sinh ra Sống Chết.
Xuất hiện Phát triển Biến mất.
Giáng hạ tiến hoá Tiến hóa Qui nguyên
Bất động hoạt động Chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại Sự sống sinh động Sự sống nhịp nhàng.
7. Kiến thức của các chu kỳ liên quan đến kiến thức về con số, âm thanh và màu sắc (7)
8. Kiến thức toàn bộ của các chu kỳ chỉ được biết đến khi đã là một người tinh thông lão luyện hoàn thiện (7)
Tri thức trọn vẹn của bí ẩn của các chu kỳ chỉ được sở hữu bởi Chân sư hoàn thiện. (LVLCK, 39)
+ Ba Đại Chu Kỳ: Chu kỳ khai nguyên - Chu kỳ tiến hoá - Chu kỳ Qui nguyên
1. Đại chu kỳ khai nguyên: X. Mahamanvantara.
+ Mahamanvantara (Đại Chu kỳ khai nguyên hay sinh hóa): Một giai đoạn dài của toàn thể Thái Dương Hệ. Thuật ngữ này được dùng cho các đại chu kỳ Thái Dương Hệ. Nó hàm ý một thời kỳ hoạt động của vũ trụ. (TVTTHL, 355)
- Manvantara (Chu kỳ sinh hoá, chu kỳ khai nguyên):
2. Thời kỳ hoạt động Tiến Hóa được xem như tương phản với thời kỳ ngơi nghỉ (rest), không nói tới độ dài đặc biệt nào của chu kỳ (cycle). Thường được dùng để diễn tả một giai đoạn hoạt động của hành tinh và 7 giống dân trên hành tinh đó. (ĐĐNLVTD, 221)
- Bảy manvantaras tức là bảy cuộc Tuần Hoàn (7 rounds). (MTNX, 351)
- Vào mỗi chu kỳ khai nguyên có hàng triệu và hàng tỷ thế giới (worlds) được tạo ra. (GLBN I, 199)
- Một chu kỳ quy nguyên (Pralaya) dài bằng một chu kỳ khai nguyên, tức là một Đêm của Brahma bằng một Ngày của Brahma. (GLBN I, 285)
3. Chu kỳ Qui nguyên: X. Qui nguyên
+ DANH SÁCH CÁC CHU KỲ LIÊN QUAN ĐẾN THÁI DƯƠNG HỆ:
I- Chu Kỳ Với Năng Lượng
1. Chu Kỳ Bảy Cung Năng Lượng
2. Chu Kỳ Của Vòng Hoàng Đạo:
3. Chu Kỳ Luân Hồi - Linh Hồn Luân Hồi - Thức Luân Hồi
4. Chu Kỳ Với Tâm Thức
II- Chu Kỳ Với Vật Chất
1. Chu Kỳ Thái Dương Hệ
2. Chu Ky Mặt Trời:
3. Chu Kỳ Mặt Trăng
4. Chu Kỳ Trái Đất
5. Chù Kỳ Các hành Tinh
Xem: Tổng hợp về Chu kỳ
+ Chu Kỳ: Sự chuyển động lặp đi lặp lại theo Định Luật Chu Kỳ bao chùm và điểu khiển mọi hoạt động của vạn sự, vạn vật trong vũ trụ, sự tuần hoàn của các chu kỳ tuân theo Định Luật Tuần Hoàn - Định Luật Tiến Hóa của Vũ trụ.
+ Bản chất của Chu kỳ (LVLCK, 1036 - 1040): Các nhà nghiên cứu bàn về các chu kỳ xuất hiện của các Cung năng lượng (Rays), đưa ra các niên đại độc đoán, như là 2 500 năm, cho sự biểu lộ của bất cứ Cung đặc biệt nào. Một Cung nào đó trải qua chu kỳ của nó trong đoạn thời gian đó, nhưng chỉ có cung đó thôi, các cung khác hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn. Sự dị biệt có một ảnh hưởng lớn tới các chu kỳ Chân Ngã, và chịu trách nhiệm cho độ dài thời gian giữa các lần hóa nhập (incarnations). Một số Egos theo chu kỳ xuyên qua các lần hóa nhập của chúng và các chu kỳ qui ẩn (pralayas) của chúng rất nhanh chóng; các Chân Ngã khác trải qua các kỳ gian dài không đếm xuể, do đó không thể nói rằng có các “mức trung bình” (“averages”) bằng nhau nối tiếp với sự xuất hiện của các Egos trên cõi cảm dục chẳng hạn. Sự kiện này có liên quan tới cách diễn tả của H.P.B. về nỗ lực của Thánh Đoàn (Lodge) mỗi 100 năm. Dưới loại mãnh lực đặc biệt theo chu kỳ phát xuất từ Thánh Đoàn, dấu nước cao (high water mark) của hoạt động của Thánh Đoàn được tìm thấy một lần trong mỗi bảy chu kỳ. Tất cả những gì xuất phát trên Cung đó đều được kiểm soát bằng các nỗ lực xoắn ốc theo chu kỳ dựa trên con số 10 và các bội số của nó, và tìm thấy rung động theo chu kỳ cao siêu nhất của nó, khi nó xảy ra, trong phần tư cuối cùng của mỗi thế kỷ. Điều mà các nhà nghiên cứu hiện đại hơn của chúng ta thường hay quên trong mối liên hệ này là ở chỗ hoạt động này chỉ là biểu hiện của một loại thần lực trong số 7 thần lực có được và thần lực đó có liên quan trước tiên với nhóm các adepts (cao đồ) đang ở trên hướng năng lượng đặc biệt đó, và tất nhiên sẽ tác động nhiều lên tất cả các đệ tử và con người ở trên hướng tương tự. Đồng thời, công việc mà loại thần lực đó khai mở được Thánh Đoàn bảo trợ nói chung, vì nó là thành phần của phóng xuất lực (force emanation) của Hành Tinh Thượng Đế. Tất nhiên, lực đó rất quan trọng do sự kiện là năng lượng cung này là năng lượng của một trong ba Cung chính; nhưng trong tiến trình lập lại thăng bằng, nó sẽ được làm quân bình bởi hoạt động phóng phát có chu kỳ tương tự từ hai Cung chính kia.
Ở đây có thể thêm rằng khi điều này được nhận biết, điều sẽ trở nên rõ rệt là các khám phá khoa học có tính cách mạng vốn có thể được truy xuống nhiều thế kỷ, như là việc thiết lập Định Luật Hấp Dẫn, sự tuần hoàn của máu, xác định về bản chất của hơi nước, việc con người khám phá ra dạng thức của hiện tượng điện mà con người đã khai thác, và nhiều khám phá gần đây về chất radium, đều ở trong bộ môn riêng của các Ngài (bộ môn của Đức Mahachohan), tương tự với nỗ lực được tạo ra trong phần tư cuối của mỗi thế kỷ để thúc đẩy sự tiến hóa của con người qua một phát hiện thêm về phần nào đó của bộ GLBN. Newton, Copernicus, Galileo, Harvey và Curies đều ở trên tuyến lực riêng của họ, tức là những kẻ mang ánh sáng ngang hàng với H.P.B. Tất cả đều làm thay đổi hoàn toàn tư tưởng của thời đại của họ; tất cả đều đem đến một thúc đẩy lớn cho năng lực của con người để giải thích các định luật của thiên nhiên và để hiểu được tiến trình vũ trụ, và chỉ những ai có thị kiến giới hạn mới không nhận ra sự hợp nhất của nhiều sự thôi thúc của thần lực phát xuất từ Thánh Đoàn duy nhất.
- Các chu kỳ này sẽ không trùng hợp, vì không phải tất cả chúng đều tương tự với đường xoắn ốc 100 năm. Một ý tưởng nào đó về chu kỳ của Đức Mahachohan với các xung lực tỏa ra có thể được gom lại bằng cách xét các niên đại của các khám phá khoa học quan trọng nhất từ thời Plato (Pháp ngữ: Platon, 427 ? – 347/348 trước T.C.);
- Các chu kỳ của Cung hai cũng có thể được tính bình quân bằng một bản tóm tắt về các xuất hiện của các Đại Huấn Sư qua các thời đại.
Các phóng phát thần lực từ Đức Bàn Cổ (Manu), hay các Đấng thuộc Cung Một, được truy nguyên một cách dễ dàng khi xem xét về các giống dân, và điều này đã được làm trong việc thừa nhận các căn chủng và phụ chủng. Những gì thường bị bỏ qua đó là mỗi một trong các cung năng lượng này biểu lộ một cách xây dựng, qua các tác nhân kiến tạo hình hài, và một cách hủy diệt qua khả năng của mãnh lực hủy diệt trước khi kiến tạo. Như vậy các chu kỳ có thể được xét theo hai khía cạnh.
Chính ở điểm này mà các nhà nghiên cứu thuộc một chi bộ của phong trào minh triết thiêng liêng của chúng ta phải nhận ra sự thật rằng, giống như H.P.B. xuất lộ dựa vào một trào lưu năng lượng theo chu kỳ để hủy diệt các hình hài giới hạn phải được tìm thấy trong thế giới của khoa học và tôn giáo, cũng thế, công việc của con người cũng phải thích hợp với các phóng phát thần lực, như là công việc xây dựng của Cung hai liên kết với năng lượng của Cung bảy vào lúc này.
Khi các nhà nghiên cứu học được cách phối hợp các chu kỳ 100 năm chứa loại năng lượng cung thứ nhất với các xung lực cũng mạnh mẽ từ Cung hai và Cung ba, bấy giờ, chúng ta sẽ có việc ngưng lại nhiều tranh cãi. Không có một thôi thúc quan trọng nào sẽ đến từ Thánh Đoàn theo đường lối Cung Một, tức Cung Ý Chí hay Quyền Năng mãi cho đến khi cuối một thế kỷ. Một thôi thúc như thế theo đường lối thần lực khác đã đến khi việc khám phá ra bản chất của nguyên tử được đạt đến xuyên qua việc nghiên cứu về điện và về các chất phóng xạ, và một thôi thúc từ Ngôi Hai đang sắp xảy ra. Thật là không an toàn cho các đạo sinh với cái nhìn hạn hẹp đối với giáo điều về vấn đề các chu kỳ. Không kể đến các thôi thúc theo chu kỳ luôn luôn được ban ra, trùng lắp và thay thế, đồng thời pha trộn với nhau, có nhiều sự thôi thúc mà chúng ta có thể gọi là các thôi thúc nhỏ (và chu kỳ của 100 năm mà HPB nhắc đến chỉ là một thôi thúc nhỏ. Có một chu kỳ 1 000 năm quan trọng hơn nhiều). Có các chu kỳ rộng lớn với 2 500 năm, 7 000 năm, 9 000 năm, 15 000 năm và nhiều chu kỳ khác mà chỉ những đệ tử điểm đạo mới biết được và có thể theo dõi; các chu kỳ này có thể gián đoạn dựa trên bất cứ các thôi thúc nhỏ nào, và có thể được thấy xuất hiện, một cách không mong đợi, xét theo sự hiểu biết của con người bậc trung, và tuy thế họ chỉ là các sức thôi thúc quay trở lại được tạo ra theo chuyển động có chu kỳ có lẽ cách đây hàng ngàn năm.
H.P.B. có lý trong xác nhận của bà xét về sự thôi thúc của Cung một; nhưng các môn đệ của bà đều không đúng, bao giờ mà họ bỏ sót và phủ nhận sáu loại xung lực kia, bằng hoặc là quan trọng hơn, vốn có thể phát ra theo chu kỳ từ Thánh Đoàn và vốn sẽ đáp ứng với sự đáp ứng từ những người rung động với loại năng lượng đặc biệt.
Xem: Tổng hợp về Chu kỳ
+ Năng lượng Hành tinh chi phối phàm ngã
- Có một trạng thái năng lượng mà nhà chiêm tinh học hiện đại rất ít để tâm đến, tuy thế nó lại vô cùng quan trọng. Đây là năng lượng phát ra hay là xạ ra từ chính Địa Cầu. Linh hoạt như tất cả mọi con người đang sống trên bề mặt của Địa Cầu và do đó được phóng vào thể dĩ thái của hành tinh (vì lý do là “con người đứng thẳng”) thân thể con người lúc nào cũng ngập trong các phóng xuất và các phát xạ của Địa Cầu chúng ta và trong tính chất toàn vẹn của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta khi Ngài phát ra và truyền năng lượng bên trong vùng chung quanh hành tinh của Ngài. Các nhà chiêm tinh học luôn luôn nhấn mạnh vào các ảnh hưởng và các năng lượng đang đi đến khi chúng đập mạnh vào (beat upon) và tác động qua hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia đã bỏ quên không xem xét thích đáng các tính chất và các lực phát ra vốn là sự đóng góp của thể dĩ thái của Địa Cầu chúng ta vào tổng thể lớn hơn. Chúng ta sẽ xem xét điều này sau, nhưng Tôi cảm thấy cần kêu gọi sự chú ý của các bạn vào lúc này.
Trong chiêm tinh học huyền bí, ảnh hưởng của mặt trăng được ghi nhận dưới hình thức một ảnh hưởng của tư tưởng và như kết quả của một hình tư tưởng mạnh mẽ và cổ xưa nhất; tuy nhiên mặt trăng không có tính chất nào của chính nó và không thể truyền qua cho Địa Cầu thứ gì cả. Tôi xin lặp lại: mặt trăng là một hình hài chết; nó không có một phóng phát nào cả. Đó là lý do giải thích tại sao mặt trăng được nói đến trong giáo lý cổ xưa như là “đang che phủ hoặc là hành tinh Vulcan, hoặc là hành tinh Uranus”. Ẩn dụ hoặc suy đoán này luôn luôn nằm ở chỗ này và các chiêm tinh gia sẽ thành công khi làm thí nghiệm với gợi ý đó mà Tôi đã đưa ra về mặt trăng và (thay vì hành động với mặt trăng) hãy để họ hoạt động với Vulcan khi liên quan đến người kém tiến hóa hay người bình thường và hoạt động với Uranus khi xét đến người phát triển cao. Họ sẽ rút ra được một vài kết quả lý thú và có tính thuyết phục.
“Chiêm tinh học có liên quan với hiệu quả được tạo ra trong vật chất của các thể thấp (sheaths, lớp vỏ) bởi các ảnh hưởng, các rung động v.v… của các hành tinh khác nhau. Về mặt huyền bí đây là các ảnh hưởng của các trung tâm thái dương. Các lực này phát ra từ các trung tâm thái dương, tác động trên các trung tâm hành tinh… Điều này được ẩn giấu trong karma của Hành Tinh Thượng Đế (Heavenly Man).
Bên cạnh các ảnh hưởng này, cần nên nhớ rằng về mặt chuyên môn, chúng ta cũng cần thêm vào ảnh hưởng bức xạ trực tiếp đến với chúng ta từ hành tinh mà chúng ta sống, tức Địa Cầu. Lúc bấy giờ, và chỉ lúc bấy giờ, bạn có thể có một phân tích và hình ảnh tạm đầy đủ về các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người, nhưng chỉ có thể xảy ra ở một trình độ phát triển tương đối tiến bộ và khi con người tiến gần Thánh Đạo (hiểu về mặt chuyên môn). Trước tiên, con người học cách kiềm chế các phản ứng của mình đối với các hành tinh khi chúng chi phối và điều khiển các sự việc thuộc phàm ngã của y từ các “trạm” (“stations”) khác nhau của chúng trong mười hai cung (houses) của lá số tử vi của con người. Điều này được thi hành theo hai cách:
Thứ nhất: Bằng cách có được lá số tử vi giải đoán đúng và kế đó chọn các giai đoạn để xác định những gì cần làm để vô hiệu hóa (negate) các ảnh hưởng của hành tinh ở nơi nào xét thấy thích hợp để kiềm chế các phản ứng của phàm ngã.
Điều này phải được làm bằng cách áp dụng sức mạnh của tư tưởng. Việc này đòi hỏi sự tin tưởng hoàn toàn vào việc tìm hiểu và lý giải của các nhà chiêm tinh học và việc biết thật đúng lúc sinh ra. Người ta thắc mắc không biết là các tình trạng về thời điểm chính xác này và nhà chiêm tinh hoàn toàn minh triết, cho đến nay có hay không.
Thứ hai: Bằng cách đảm nhiệm sáng suốt lập trường của Nhà Quan Sát tâm linh, và bằng cách vun trồng năng lực đáp ứng với Linh Hồn. Kế đó, từ quan điểm của Linh Hồn đó, con người phải học cách kiểm soát hoàn cảnh và các phản ứng kèm theo của phàm ngã.
Các thái độ và các lập trường sau đây mà nhà chiêm tinh huyền bí chọn lựa nên được lưu ý:
1. Đó là các ảnh hưởng hành tinh cho thấy khuynh hướng của các hoàn cảnh sống bên ngoài. Đối với người thường và người kém tiến hóa, khi được lý giải đúng, các ảnh hưởng đó có thể và chắc chắn báo hiệu số phận và định mệnh của phàm ngã; các ảnh hưởng đó nhất định chi phối và hoàn toàn kiểm soát người nào vốn không có kinh nghiệm rõ rệt về linh hồn. Thời điểm mà một người bắt đầu biết được về linh hồn của chính mình và đang nỗ lực để kiểm soát “con đường trong sự sống” của chính mình, thì ảnh hưởng của các hành tinh, tự nó, yếu đi một cách rõ rệt và ngày càng kém hẳn; biểu đồ phàm ngã của y dường như không đi đến kết quả cụ thể nào (inconclusive) và thường không còn chính xác chút nào (most inaccurate). Chính thần lực đang tuôn chảy qua các hành tinh chứ không phải lực của chính các hành tinh lúc đó mới chi phối và kiểm soát. Lúc bấy giờ con người mới bắt đầu dễ tiếp nhận các năng lượng cao siêu và tinh anh hơn của thái dương hệ và của mười hai tinh tòa đang chi phối.
2. Chính là cung Thái Dương (Sun sign), như người ta thường gọi, chỉ ra / báo hiệu (indicate) bản chất của con người, về vật chất, trí tuệ và tâm linh. Nó nắm giữ cái bí ẩn của cung phàm ngã và của sự đáp ứng của con người, hoặc là thiếu sự đáp ứng đối với Linh Hồn, tức con người thực sự (real man, chân nhân). Nó cũng chỉ ra sự hội nhập đã đạt được và mức độ khai mở hiện tại của các tính chất linh hồn, của thiết bị đang có hiện nay, của tính chất sự sống hiện tại và của các mối liên hệ tập thể có thể có tức khắc. Theo quan điểm của Minh Triết Nghìn Đời, nó không chỉ ra gì cả. Đây là một đảo lộn của lập trường chiêm tinh học thông thường. Lý do mà Tôi đưa ra ấy là nhân loại đã đủ tiến hóa để cho chiêm tinh học của linh hồn sẽ sớm trở nên thích hợp; theo nhiều quan điểm, nó tạo nên một đảo ngược so với biện pháp thông thường. Điều này vừa khôn ngoan vừa cần thiết và cũng không thể tránh được. Sau rốt, các nhà chiêm tinh sẽ được chia thành hai hạng:
Chiêm tinh gia ngoại môn sẽ bận tâm đến lá số tử vi của phàm ngã, và chiêm tinh gia nội môn, là những người sẽ quan tâm đến các mục tiêu của linh hồn.
3. Cung mệnh (rising sign) chỉ ra các năng lực cao xa hơn, cùng với mục tiêu tinh thần và mục đích của việc lâm phàm liền đó và của các lần lâm phàm kế tiếp sát nách. Chính cung này có liên quan với sự phấn đấu của con người tâm linh “để xúc tiến” (“to carry on”) từ mức độ đã đạt được để cho khi mà năng lượng sự sống bị nhất thời cạn kiệt và “cái chết của phàm ngã” xảy ra, con người tìm thấy chính mình “gần hơn với trung tâm của sự sống của mình, gần hơn với trung tâm của nhóm mình và tiến gần tới trung tâm của sự sống thiêng liêng”, như Minh Triết Muôn Thuở diễn tả. Câu nói đặc biệt này “cái chết của phàm ngã” có hai hàm ý rõ rệt:
a/ Nó có thể có nghĩa là cái chết của thể xác, tất nhiên nó được theo sau bằng hai giai đoạn của cái chết của thể tình cảm và sự tan biến tiếp theo sau của hình tướng nhất thời và luôn luôn thay đổi mà phần phải đóng góp (quota, chỉ tiêu) của năng lượng trí tuệ đã đảm đương trong lúc lâm phàm.
b/ “Cái chết bên trong và thần bí của phàm ngã”. Đây là một câu nói cho thấy sự chuyển đổi của sự tập trung đối với sự phân phối năng lượng từ phàm ngã (một trung tâm lực xác định) đối với linh hồn (một trung tâm lực xác định khác). Tôi hiểu rằng các quan niệm này đều không phù hợp với các nguyên lý cơ bản của chiêm tinh học thông thường.
Tuy nhiên chiêm tinh học sẽ không phí thời gian nếu nó thực nghiệm với các ý tưởng này trong một thời gian. Các chiêm tinh gia có thể tìm ra một số vấn đề lý thú nhất và lôi cuốn nhất và có lẽ đạt đến một độ chính xác mà ngày nay chưa ai biết được. Có thể là hữu ích nếu Tôi quảng diễn thêm đôi chút về điểm này:
Về cung thái dương, cung mệnh và ảnh hưởng của hình tư tưởng liên quan với mặt trăng, lập trường của chiêm tinh học huyền bí như sau:
1. Cung thái dương. Cung này báo hiệu vấn đề/ khó khăn (problem) hiện tại của con người; nó thiết lập nhịp độ phát triển hay là nhịp sinh hoạt của sự sống phàm ngã của con người; nó được liên kết với đặc tính, tính tình và các khuynh hướng sự sống vốn đang tìm cách biểu lộ trong lần luân hồi đặc biệt này, và nó làm liên tưởng đến khía cạnh hoạt động của con người bẩm sinh. Về mặt căn bản, các mãnh lực được tìm thấy nơi đây đều biểu lộ cho đường lối ít đối kháng nhất.
2. Cung mệnh (ascendant or rising sign) chỉ ra sự sống có dự kiến hay là mục tiêu trước mắt của linh hồn cho lần luân hồi này. Nó nắm giữ cái bí ẩn của tương lai và đưa ra thần lực mà, khi được vận hành đúng, sẽ đưa con người tới thành công. Nó trình bày khía cạnh hài hòa (sattvic or harmony aspect) của sự sống và có thể tạo ra mối liên hệ đúng giữa linh hồn với phàm ngã trong bất luận một cuộc luân hồi nào. Như thế, nó vạch ra phương hướng đưa đến việc thừa nhận mãnh lực của linh hồn.
3. Mặt trăng. Loại thần lực này (đến từ một số hành tinh chứ không đến từ mặt trăng) báo hiệu rằng lực đó thuộc về quá khứ (past). Do đó, nó tổng kết giới hạn và các bất lợi hiện tại. Nó chi phối xác thân và cho thấy nơi mà nhà tù của linh hồn phải được tìm ra. (CTHNM, 25 - 30)
+ Cung Mặt Trời - Cung Thái dương: Là Cung Hoàng Đạo mà Mặt trời ở trong đó vào thời điểm một người sinh ra đời. - Tượng trưng cho mức độ có ý thức, tự nhận thức. Trong lá số, Mặt Trời tượng trưng cho “phàm ngã” và những nỗ lực của chúng ta để phát triển một cái bản ngã (ego) sinh động và mạnh mẽ. Hầu hết mọi người chưa phải là phàm ngã. Một định nghĩa bí truyền của phàm ngã là: Một phàm ngã là một người hoạt động với sự phối hợp, nhờ vào khả năng của y và sự ổn định tương đối của bản chất tình cảm của y, và hệ thống tuyến (glandular equipment) hoàn chỉnh và phát triển đầy đủ của y. Điều này được hỗ trợ bởi sự ham muốn mạnh mẽ của y đối với năng lực và các điều kiện môi trường thích hợp. (EP II, 264). Hầu hết mọi người đã chưa trở nên ổn định hoặc chưa phối kết các khía cạnh khác nhau trong bản chất của họ và do đó là “đang phát triển phàm ngã”. Sự phát triển này phải diễn ra trước khi bất kỳ hoạt động tâm linh cao cả nào có thể xảy ra. Nguồn: Xem Chiêm tinh học BẠCH DƯƠNG (1 và 7) ; KIM NGƯU (4) ; SONG TỬ (2) ; CỰ GIẢI (3 và 7) ; HẢI SƯ hay SƯ TỬ (1 và 5) ; XỬ NỮ (2 và 6) ; THIÊN BÌNH (3) ; HỔ CÁP (4) ; NHÂN MÃ (4, 5, 6) ; MA KẾT (1, 3, 7) ; BẢO BÌNH (5) ; SONG NGƯ (2 và 6)
Xem thêm Năng khiếu các Cung và Cung Hoàng Đạo
Xem thêm: Cung Hoàng đạo, hành tinh, Cung H.Đạo dẫn truyền; khẩu hiệu Chiêm tinh Phàm ngã, linh hồn
Xem thêm: Biểu đồ cung và Nhận dạng (tính chất mạnh, yếu, biểu hiện, hoạt động) các cung của bạn
Xem thêm: Lá số chiêm tinh và cung mặt trời, mặt trăng, cung mọc ...
+ Cung Mặt trăng cai quản khía cạnh sắc tướng của con người, và nhất là hình thể vật chất. Xem nguồn
+ Chu kỳ lớn: Cứ 28 năm lại quay trở lại chu kỳ mới, gây ra các ảnh hưởng tương tự (Nguồn)
+ Cung Mặt trăng: Là Cung Hoàng Đạo mà Mặt trăng ở trong đó vào thời điểm một người sinh ra đời (Lá số sinh)
1. Cung Mặt Trăng tượng trưng cho mức độ vô thức: Trong bí truyền, Mặt Trăng được gọi là Mẹ của tất cả mọi Hình Tướng (EA, 321), và tượng trưng cho chất liệu vật chất của vũ trụ. Các cá nhân sử dụng cùng một nhóm chất liệu để xây dựng cơ thể của họ – hết kiếp này sang kiếp khác. Các thói quen vốn được thể hiện trong mỗi kiếp, để lại một dấu ấn hay “mô hình phản ứng” trên chất này. Mô hình này chuyển sang kiếp sau, làm tăng thêm cường độ của nó. Điều này có nghĩa rằng trong một kiếp mới, chúng ta đến với những thói quen và những phản ứng theo khuôn mẫu có trước, vốn có nguồn gốc của chúng trong quá khứ. Cung Mặt Trăng tượng trưng cho những “thói quen” này. Nhiệm vụ quan trọng nhất trong mỗi kiếp theo quan điểm tinh thần là để thanh luyện, cải tiến và sau đó phá vỡ mô hình ‘nhà tù của linh hồn” này. (Xem Chiêm tinh học)
+ Cung Mặt Trăng: Cho đến kỳ điểm Đạo thứ 3, chúng ta vẫn đang dọn dẹp đồ đạc >>> Cung Mặt Trăng cần phải xem để biết Người trên đường Đạo đang làm công việc chuyển hóa cần thiết (Nguồn: Câu hỏi)
+ 12 Cung Hoàng Đạo dẫn truyền: BẠCH DƯƠNG (1 và 7) ; KIM NGƯU (4) ; SONG TỬ (2) ; CỰ GIẢI (3 và 7) ; HẢI SƯ hay SƯ TỬ (1 và 5) ; XỬ NỮ (2 và 6) ; THIÊN BÌNH (3) ; HỔ CÁP (4) ; NHÂN MÃ (4, 5, 6) ; MA KẾT (1, 3, 7) ; BẢO BÌNH (5) ; SONG NGƯ (2 và 6) Xem: Tổng hợp về Mặt Trăng và Cung Mặt Trăng
+ Cung Mọc (Ở cung địa bàn 1): Là Cung hoàng đạo xuất hiện trên đường chân trời phía Đông vào lúc một người sinh ra đời. Cứ 2 giờ đến Cung tiếp. Cứ 4 phút di chuyển 1o.(Chính xác đến 10 phút; Nếu không biết giờ sinh, có phương pháp Nhật ký tâm linh để tìm: Xem nguồn)
+ Cung Mọc/ Cung mệnh: Tượng trưng cho mức độ siêu thức hay linh hồn. Thời điểm đó rất linh thiêng, vì bình minh và việc đi lên của ánh sáng báo hiệu sự đến gần vinh quang của thần thánh. Cung Mọc là đến gần những cánh cổng của Ngôi Đền của các Bí Nhiệm Cao Siêu.
+ Cung mọc: Nhà nghiên cứu hiện đại thích tin rằng mọi năng lượng đang ảnh hưởng / tác động đến y và đang tuôn đổ qua y, vốn phát xuất từ cung (sign) mà mặt trời “đi vào” (“finds” itself) lúc y được sinh ra. Y cũng xem chính mình như được đáp ứng với các lực của các hành tinh khác nhau, khi chúng chi phối các cung hoàng đạo (houses) trong lá số tử vi của y, và y tin rằng các khuynh hướng đời sống và các hoàn cảnh của y được định đoạt như thế. Điều này làm cho y cảm thấy chính mình trở thành một yếu tố có tầm quan trọng độc nhất. Các lý giải hiện đại không nhấn mạnh vào sự quan trọng của cung mệnh (the rising sign, the ascendant) và điều này do bởi sự kiện là cho đến nay ít có người sẵn sàng hành động với tư cách linh hồn; (CTHNM, 12)
+ Cung Mệnh:
- Ở giai đoạn 1 - Cung Thái dương chi phối Phàm ngã, Mặt Trời gọi là "Thế Mạnh Mặt Trời khả hữu";
- Giai đoạn 2- Khai mở sự sống nội tâm, Cung Mệnh gọi là "Mặt Trời của triển vọng" (CTHNM, 64)
+ Cung Mọc là ‘trái tim’ của lá số với người có ý thức về tâm linh cao cả
- Cung Mặt Trời là trái tim của lá số với những người không phải như trên. Một phần mục đích của linh hồn là chuyển di năng lực điều khiển năng lượng ra khỏi phàm ngã (Mặt Trời), đến cho linh hồn (qua Cung Mọc). Trên thực tế, điều này có nghĩa là đồng nhất hóa hơn với những tính chất của Cung Mọc so với các tính chất của Cung Mặt Trời. (Chiêm tinh học)
+ Cung Mọc dự định hay mục đích của linh hồn cho kiếp này. Nó chứa bí mật của tương lai và trình bày các mãnh lực mà, nếu được sử dụng đúng, sẽ dẫn con người đến thành công. Nó tượng trưng cho khía cạnh hòa thanh hay hài hòa của sự sống và có thể tạo mối quan hệ đúng đắn giữa linh hồn và phàm ngã trong bất kỳ một kiếp nào. Do đó nó chỉ cách để nhận ra mãnh lực của linh hồn. (EA, 18, 19)
+ C.Tinh công truyền ít xem trọng cung mệnh/ Cung Mọc, vì ít có người sẵn sàng hành động với tư cách linh hồn; ít có sự xem xét về các năng lượng lúc nào cũng đang tác động vào hành tinh chúng ta từ các chòm sao khác nhau, hoặc là từ khoảng 70 Hành tinh “bị che khuất” (ẩn giấu) trong thái dương hệ chúng ta (CTHNM, 12)
+ Chủ Tinh Lá Số: Hành tinh cai quản Cung mọc là Hành tinh chủ quản Lá số của bạn (Xem: CTH ngoại môn 4) BẠCH DƯƠNG (1 và 7) ; KIM NGƯU (4) ; SONG TỬ (2) ; CỰ GIẢI (3 và 7) ; HẢI SƯ hay SƯ TỬ (1 và 5) ; XỬ NỮ (2 và 6) ; THIÊN BÌNH (3) ; HỔ CÁP (4) ; NHÂN MÃ (4, 5, 6) ; MA KẾT (1, 3, 7) ; BẢO BÌNH (5) ; SONG NGƯ (2 và 6)
+ Định luật Tương Tác Rung động (Law of vibratory interplay): Định luật Tương tác Rung động liên quan đến việc kiến tạo. (LVHLT, 278)
+ Hai mươi hai phương pháp Tương Tác Tập Thể (LVLCK, 1222-1224)
Các phương pháp tương tác tập thể chỉ có thể được hiểu rõ nhờ xem xét sự kiện rằng tất cả các nhóm nằm trên Cung này hoặc Cung khác trong số bảy Cung, và do đó, sự tương tác của chúng sẽ là gấp ba. Điều này lần nữa phải được quan tâm khi có :
a/ Một tương tác tam phân bên trong.
b/ Một tương tác tam phân bên ngoài.
Do đó, chúng ta có thể chọn bảy Cung và đưa ra các danh xưng cho ba cách mà các nhóm trên bất cứ cung đặc biệt nào tương tác với nhau trong đó, nhớ rằng khi chúng ta xem xét chúng, chúng ta thực sự đang khảo sát hai mươi mốt rung động của Định Luật Hút hay là chuyển động, với rung động căn bản, vốn là tổng hợp của hai mươi mốt rung động được thêm vào, như vậy tạo thành hai mươi hai:
CÁC PHƯƠNG PHÁP HOẠT ĐỘNG CỦA CUNG
I. Cung Quyền Năng
1. Hủy diệt hình hài qua sự tương tác của nhóm.
2. Kích thích Bản Ngã, hay nguyên khí Chân Ngã.
3. Xung lực tâm linh hoặc năng lượng.
II. Cung Bác Ái Minh Triết
4. Cấu tạo các hình hài qua giao tiếp tập thể.
5. Kích thích của dục vọng, nguyên khí bác ái.
6. Xung lực linh hồn, hay năng lượng.
III. Cung Hoạt Động hay Thích Nghi
7. Cấp sinh lực cho hình hài qua công việc tập thể.
8. Kích thích các hình hài, nguyên khí dĩ thái hay nguyên khí prana.
9. Xung lực vật chất, hay năng lượng.
IV. Cung Hài Hòa, Hợp Nhất
10. Hoàn thiện hình hài qua sự tương tác tập thể.
11. Kích thích của Solar Angels hay nguyên khí trí tuệ.
12. Năng lượng bồ đề.
V. Cung Kiến Thức Cụ Thể.
13. Tương ứng của các hình hài với kiểu mẫu, qua ảnh hưởng của tập thể.
14. Kích thích của thể vật chất trọng trược của Thượng Đế, ba cõi thấp.
15. Năng lượng hoặc xung lực trí tuệ.
VI. Cung Lý Tưởng Trừu Tượng hay Sùng Tín
16. Phản ảnh của thực tại qua công việc tập thể.
17. Kích thích của Con Người qua dục vọng.
18. Năng lượng dục vọng, bản năng và đạo tâm.
VII. Cung Trật Tự Nghi Lễ
19. Hợp nhất của năng lượng và vật chất qua hoạt động tập thể.
20. Kích thích của mọi thể dĩ thái.
21. Năng lượng sinh động.
Hai mươi mốt phương pháp này và sự tổng hợp của chúng tổng kết một phần rất lớn tất cả những gì có thể được nói đến về các hành vi và các hoạt động của mọi thần chất (deva subtance) và mọi hình hài. Dưới Định Luật Hút, sự tương tác giữa các mãnh lực cung này và mọi hình hài nguyên tử đã xảy ra, và sự biểu lộ trở thành một sự thực trong thiên nhiên, và đại Hão Huyền (great Maya) hiện ra. Ở đây có thể ghi nhận trong kết luận rằng các yếu tố sau đây:
- 3 liên hệ nguyên tử
- 7 định luật
22
---- Phương pháp hoạt động
32
+ Tương tác ở cõi trí (LVLCK, 1029): Hiển nhiên là đối với mọi nhà nghiên cứu thận trọng về quyển Luận về Lửa này, trong tiết này chúng ta bàn về:
- Thứ nhất, loại hoạt động để phân biệt trạng thái Vishnu của Thượng Đế, hay là hoạt động của các Manasaputras thiêng liêng. Do đó, điểm này bao hàm việc xem xét các hiệu quả của chuyển động này :
a. Bên trong các hệ thống hành tinh, các thể của các Ngài,
b. Dựa vào các nguyên tử hay “Các Điểm” trong các thể này, tức các Monads của con người và deva.
- Thứ hai, loại xung lực vốn là nền tảng của Định Luật Chu Kỳ và vốn tạo kết quả trong việc luân hồi theo chu kỳ của mọi Thực Thể. Xung lực này biểu lộ trong ba chu kỳ hay là trong ba vòng (turns) của bánh xe của Being ( Hiện Tồn, Bản Thể, Thực Thể …).
a) Hoạt động tạo ra tiến hóa giáng hạ (involution), hay là sự chìm ngập trong vật chất của Sự Sống hoặc Tinh Thần.
b) Sự hoạt động tạo ra sự thăng bằng của hai mãnh lực này, Vật Chất và Tinh Thần, hay là sự biểu lộ, hay là các diễn trình tiến hóa thăng thượng (evolution).
c) Hoạt động triệt thoái, năng lượng trung ương ra khỏi hình hài đáp ứng tạo ra sự qui nguyên (obscuration, trở về trạng thái mờ tối ban đầu).
- Thứ ba, loại hoạt động vốn gây nên sự tương tác – hút và sau đó là đẩy – giữa mọi nguyên tử, từ nguyên tử vũ trụ vĩ đại, tức một thái dương hệ, đến nguyên tử bé nhỏ của nhà hóa học hoặc nhà vật lý . Do đó, hoạt động có thể được xem như :
a) Liên vũ trụ, hay là tác động đến các chòm sao.
b) Liên hành tinh, hay là tác động đến các hệ hành tinh.
c) Giữa – dãy (inter- chain) hay tác động đến các dãy hành tinh.
d) Giữa - bầu, hay là tạo ra sự trao đổi lẫn nhau của lực giữa các bầu hành tinh của các dãy.
e) Giữa tiểu tiết, hay là tác động đến sự chuyển đổi của lực giữa năm giới của thiên nhiên.
f) Giữa con người, hay liên quan đến sự tương tác giữa các đơn vị nhân loại khác nhau.
g) Giữa nguyên tử, hay là đường đi của lực từ nguyên tử này đến nguyên tử khác.
Ở đây, các nhà nghiên cứu cần nhớ rằng chúng ta quan tâm tới năng lượng hay hoạt động vốn tạo ra các hình tướng (forms), và do đó quan tâm tới các lực có khuynh hướng đưa tới sự mạch lạc, sự kết dính và đưa tới sự ổn định công việc của các nhà kiến tạo. Phải chi họ có thể hiểu được điều đó. Đối với nhiều người, bí quyết gắn liền với việc tạo ra các hình hài, hay là của Con, tức Ngôi Hai, được chứa trong bảng biểu trên, vì mọi bản thể đều cùng chung với nhau, và sự sống của bất cứ hành tinh hệ nào, bầu nào, giới nào hoặc nguyên tử nào, đến phiên đều trở thành nguyên khí linh hoạt của hành tinh hệ, bầu, giới hoặc nguyên tử khác. Mọi sự vật trong thái dương hệ đều đang ở trạng thái thay đổi liên tục (state of flux) giống như mọi sự vật trong vũ trụ, còn năng lượng thiết yếu đang tuần hoàn, giống như máu hoặc năng lượng thần kinh của cơ thể tuần hoàn qua khắp toàn bộ hệ thống. Đây là nền tảng của sự kiện huyền linh mà vạn vật trong thiên nhiên, thí dụ sẽ là, đang là hoặc đã là, qua giới nhân loại ( GLBN I, 215, 242, 295).
Ở dưới loại hoạt động thái dương này, lợi ích sau cùng được đạt đến bằng phương pháp tương tác, trao đổi lẫn nhau và thu hút lẫn nhau, xô đẩy lẫn nhau.
+ Tương Tác Năng Lượng trong vũ trụ - Hành tinh - Con người.
Diễn đạt kế tiếp mà Tôi muốn trình bày, và thông thường nó xuất phát từ bên trên, đó là các năng lượng của hoàng đạo, của thái dương hệ và của hành tinh, tác động hoặc là dưới hình thức các lực gây cản trở, hoặc là dưới hình thức lực kích động tùy theo loại vận thể hay thể mà chúng tác động vào; bản chất của các vận thể (vehicles) này và năng lực của chúng để thu hút, để đáp ứng, để loại bỏ, để tiếp nhận và để chuyển hóa đều hoàn toàn tùy thuộc vào mức tiến hóa đã đạt được và cũng tùy thuộc vào tình hình chung của hành tinh và tâm lý đang có trong gia đình nhân loại ở bất cứ thời kỳ đã chọn nào. Một trường hợp của tình hình sau, ngày nay có thể nhìn thấy trên thế giới, nơi mà các lực đang khuấy động với một mức độ hầu như dữ dội và có phần mới mẻ, và nhịp độ trên sự sống hành tinh chúng ta đang khơi dậy một đáp ứng được làm mạnh thêm rất nhiều từ các tư tưởng gia trên thế giới, nhờ thế kích thích họ đến cố gắng nhiệt thành theo các đường lối ý thức hệ, và đồng thời bị lôi kéo từ quần chúng và người kém tiến hóa không có gì khác ngoài sự sợ hãi, một số phận đáng thương, sự suy yếu vật chất lan rộng và nhiều phản ứng không mong muốn từ bản chất hình hài.
Một hiểu biết về các ảnh hưởng gây cản trở hoặc kích thích này có thể dễ dàng hiểu được bởi người nào có thể hiểu được bản chất của các hoạt động của hành tinh Saturn (Thổ Tinh).
Đây là hành tinh hiện chi phối trước tiên mức tiến hóa nơi mà sự chọn lựa chắc chắn xảy ra, nơi mà sự bác bỏ cơ hội hoặc chấp nhận cơ hội đó có thể được đảm đương một cách sáng suốt, và việc gánh vác trách nhiệm cá nhân trở nên một sự kiện được nhận biết trong một kiếp sống có hoạch định và có nền nếp. Điểm này trong diễn trình tiến hóa nhân loại được nói đến trong Cổ Luận bằng các câu tượng trưng sau đây:
“Ở giữa các mãnh lực xoay tít, tôi chịu đựng mơ hồ. Tôi không biết chúng, vì trong tất cả quá khứ của tôi, chúng đã cuốn tôi lên và xuống vùng đất trong đó tôi đã hoạt động, chóa mắt và không hay biết. Từ nơi này đến nơi khác, và điểm này đến điểm khác, chúng đẩy tôi lên và xuống vùng đất đó và không dừng lại nơi nào cả.
Hiện giờ tôi biết chúng và nơi đây tôi dừng lại, và sẽ không hành động cho tới khi tôi biết được Định Luật đang chi phối mọi hoạt động lên và xuống vùng đất đó. Tôi có thể quay vòng và xoay mặt theo nhiều hướng khác nhau; tôi đối mặt với một số chân trời rộng lớn và tuy vậy ngày nay tôi trụ lại.
Tôi sẽ định cách đi cho chính tôi. Kế đó tôi sẽ tiến tới. Tôi sẽ không đi lên và xuống vùng đất đó, cũng không quay lại không gian. Nhưng tôi sẽ tiến lên”. (Chiêm tinh học nội môn, 28)
+ Các nguồn năng lượng vũ trụ
Sau đây là một danh sách – không hoàn chỉnh nhưng cũng đầy đủ cho các mục tiêu của chúng ta – trong số các ảnh hưởng chính, các ảnh hưởng này đang tìm kiếm con đường của chúng từ Các Cội Nguồn xa xăm, đi vào sự sống hành tinh chúng ta và tạo ra các hiệu quả nhất định lên trên con người cá biệt và nhân loại nói chung.
1. Tinh tòa Đại Hùng (Great Bear, Gấu Lớn).
2. Thất Tỉ Muội (Seven Sisters) của tinh tòa Pleiades.
3. Sirus, the Dog Star (Sao Thiên Cẩu).
1. Bảy thái dương hệ mà thái dương hệ chúng ta là một
2. Bảy hành tinh thánh thiện trong đó hành tinh chúng ta không phải là một.
3. Năm hành tinh không thánh thiện hay các hành tinh “ẩn tàng”.
1. Bảy trung tâm hành tinh.
2. Bảy trung tâm lực trong thể dĩ thái con người.
1. Mười hai chòm sao của hoàng đạo.
Như vậy, chúng ta có chín năng lượng có ảnh hưởng mạnh. Đây là một sơ đồ chính yếu, nhưng nên nhớ rằng có các tác động khác tương đối có ít ý nghĩa. Cần thêm các luồng năng lượng khác vào các dòng năng lượng này, chúng có tác động rõ rệt và ảnh hưởng lên sự sống hành tinh chúng ta, như là các dòng năng lượng đến từ đại tinh tú Betelgeuse, hoặc là từ Antares và các mặt trời vĩ đại khác, cũng như các thái dương hệ vốn có liên kết với các chòm sao của hoàng đạo và thần lực của chúng đến chúng ta qua các chòm sao này chứ không đến trực tiếp.
Bên cạnh các ảnh hưởng này, cần nên nhớ rằng về mặt chuyên môn, chúng ta cũng cần thêm vào ảnh hưởng bức xạ trực tiếp đến với chúng ta từ hành tinh mà chúng ta sống, tức Địa Cầu. Lúc bấy giờ, và chỉ lúc bấy giờ, bạn có thể có một phân tích và hình ảnh tạm đầy đủ về các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người, nhưng chỉ có thể xảy ra ở một trình độ phát triển tương đối tiến bộ và khi con người tiến gần Thánh Đạo (hiểu về mặt chuyên môn). Trước tiên, con người học cách kiềm chế các phản ứng của mình đối với các hành tinh khi chúng chi phối và điều khiển các sự việc thuộc phàm ngã của y từ các “trạm” (“stations”) khác nhau của chúng trong mười hai cung (houses) của lá số tử vi của con người. Điều này được thi hành theo hai cách: Thứ nhất: Bằng cách có được lá số tử vi giải đoán đúng và kế đó chọn các giai đoạn để xác định những gì cần làm để vô hiệu hóa (negate) các ảnh hưởng của hành tinh ở nơi nào xét thấy thích hợp để kiềm chế các phản ứng của phàm ngã. (Chiêm tinh học nội môn, 23)
+ Chòm Sao hay Tinh Tòa (CTHNM, 35; 37)
+ 12 Chòm sao/ Tinh tòa Hoàng Đạo: Xem như biểu hiện của trạng thái NL Linh hồn, được khảo cứu qua Tâm thức và phát triểnlinh hồn (Ý chí Bác Ái) (CTHNM, 37)
+ Ba chòm sao: Đại Hùng (Great Bear), từ Pleiades (Tua Rua) và từ Sirius (Ngưu Lang), chúng chi phối rộng, nhưng ngày nay vẫn tiềm tàng hơn là biểu lộ ; Riêng chòm Tua Rua có 7 năng lượng ảnh hưởng lên xác thân. (CTHNM, 470).
+ Ba nhóm tam giác - Truyền năng lượng của 3 Chòm Sao:
Đại Hùng Tinh Pleiades Sirius
Leo ........... Capricorn................. Pisces
Các sao này truyền năng lượng xuyên qua
Saturn .....................Mercury ................. Uranus
Đi đến các trung tâm lực sau
Trung tâm lực đầu ... Trung tâm lực ..... Tung tâm lực
của hành tinh ..... ấn đường H.Tinh ....tim hành tinh.
Từ đó đi đến
Trung tâm lực đầu .. Trung tâm lực....... Trung tâm lực
của đệ tử ấn đường đệ tử tim của đệ tử.
và sau rốt kiểm soát
Đáy xương sống.... Bí huyệt cổ họng .... Huyệt đan điền
- Hai nhóm năng lượng chi phối trái đất:
(i)- Bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh là cội nguồn xuất phát của 7 cung của thái dương hệ chúng ta. Mỗi một trong 7 năng lượng này được truyền vào Thái Dương hệ chúng ta qua 3 chòm sao (Hoàng Đạo) và các Hành tinh chi phối chúng. (Xem Bảng tổng hợp Minh triết mới)
(ii)- 12 Chòm sao hòa lẫn năng lượng Cung => Tạo ra lưỡng nguyên chi phối cuộc sống hành tinh. (Nguồn: CTHNM, 477-478)
+ 12 chòm sao: Các đạo sinh cũng sẽ thành công khi nhớ rằng mười hai chòm sao đang tạo ra hoàng đạo đặc biệt của chúng ta chính là các nơi nhận nhiều luồng năng lượng đến với chúng từ nhiều cội nguồn. Chúng hòa lẫn và pha trộn với năng lượng của bất luận chòm sao đặc biệt nào và – chuyển hóa và “thanh luyện về mặt huyền linh” – sau rốt tìm ra con đường của chúng đi vào thái dương hệ chúng ta. (CTHNM, 18)
Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo Xem: Bảy Cung; Cung H.Đạo; Lá số Chiêm tinh; Biểu đồ cung; Khẩu hiệu P.Ngã và L.Hồn Xem: Tổng hợp về chòm sao
+ Nguyệt cầu (The Moon): Vệ tinh của chúng ta đang tuôn đổ vào bầu thấp nhất của dãy hành tinh chúng ta (bầu D, tức Địa cầu) tất cả các năng lượng và sức mạnh của nó; và đã dời chuyển chúng qua một trung tâm mới, hầu như trở thành một hành tinh chết, trong đó, từ lúc bầu hành tinh của chúng ta ra đời, việc quay đã ngưng lại.” (LVLCK, 154–155)
+ Mặt Trăng: Mặt Trăng là hình hài chết, không có tính chất nào của chính nó, nó không có một phóng phát năng lượng nào cả, nó không thể truyền cho Địa cầu bất cứ thứ gì cả. Hành tinh ẩn dấu của Vulcan hoặc Uranus, sử dụng như sau:
(i)- Với người kém tiến hóa hay trung bình thì dùng Vulcan,
(ii)- Với Người tiến hóa cao thì làm việc với Uranus (CTHNM III, 21);
- Chân Sư DK: Khi Nói Mặt Trăng chủ thể cai quản 1 cung là Mặt trời hay Mặt trăng, tôi sẽ nói đến 2 Hành tinh ẩn giấu là Vulcan và Uranus. Các Hành tinh này có thể thay thế lẫn nhau ở công dụng của chúng. Do đó, về nội môn, Tôi nhắc đến Uranus (CTHNM, 113),
- Chân Sư DK: Mặt Trăng che dấu cả Vulcan lẫn Neptune - Đặc biệt quan trọng ở trạng thái liên kết hình hài với Tâm thức (CTHNM, 308)
+ Thủy tinh và Mặt trăng truyền dẫn Cung 4, Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người)
+ Cung Mặt trăng: Tính khí, nhà, bản chất trong nhà, phẩm chất nuôi dưỡng. (Xem nguồn)
+ Mặt Trăng Là Bậc Nhất Trong các Tinh tú: Cũng như trong các ngọn núi, Tu di sơn vương là bậc nhất. Cũng như trong các dòng suối, biển lớn thu nhập nước, biển lớn là bậc nhất. .... Cũng như giữa các vì tinh tú trong hư không, mặt trăng là bậc nhất. .. trong các hội chúng, Như Lai là bậc nhất, là tối đại, là tối thượng, là tối cao, là tối tôn, là tối diệu. (Nguồn: mục 489- Trung A Hàm, Phẩm 11, số 141)
+ Kinh nghiệm thất bại từ Nguyệt cầu: Mục tiêu mỗi kiếp sống là sự phát triển của một hình hài thích hợp hơn để cho tinh thần sử dụng; và khi mục tiêu này được đạt đến, lúc bấy giờ Chủ Thể Nội Tâm xoay sự chú ý của mình đi nơi khác, sự chết đến và hình hài sẽ tan rã sau khi đã được dùng cho nhu cầu của Chủ Thể đó. Điều này không phải lúc nào cũng xảy ra trong mọi kiếp sống con người, mà cũng không nằm trong mỗi chu kỳ hành tinh. Bí mật của nguyệt cầu là bí mật về sự thất bại, điều này khi được hiểu rõ sẽ đưa đến một đời sống xứng đáng và đem lại một mục tiêu xứng đáng cho nỗ lực có hiệu quả nhất của chúng ta. Khi nào khía cạnh chân lý này được nhận thức một cách rộng rải, cũng như khi sự sáng suốt của nhân loại đã đầy đủ, lúc bấy giờ sự tiến hoá sẽ tiếp diễn một cách chắc chắn và sự thất bại sẽ ít đi. (LVLCK, 171)
+ Phát xạ từ địa cầu: Có một trạng thái năng lượng mà nhà chiêm tinh học hiện đại rất ít để tâm đến, tuy thế nó lại vô cùng quan trọng. Đây là năng lượng phát ra hay là xạ ra từ chính Địa Cầu. Linh hoạt như tất cả mọi con người đang sống trên bề mặt của Địa Cầu và do đó được phóng vào thể dĩ thái của hành tinh (vì lý do là “con người đứng thẳng”) thân thể con người lúc nào cũng ngập trong các phóng xuất và các phát xạ của Địa Cầu chúng ta và trong tính chất toàn vẹn của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta khi Ngài phát ra và truyền năng lượng bên trong vùng chung quanh hành tinh của Ngài. Các nhà chiêm tinh học luôn luôn nhấn mạnh vào các ảnh hưởng và các năng lượng đang đi đến khi chúng đập mạnh vào (beat upon) và tác động qua hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia đã bỏ quên không xem xét thích đáng các tính chất và các lực phát ra vốn là sự đóng góp của thể dĩ thái của Địa Cầu chúng ta vào tổng thể lớn hơn. Chúng ta sẽ xem xét điều này sau, nhưng Tôi cảm thấy cần kêu gọi sự chú ý của các bạn vào lúc này. (CTHNM, 17)
+ Nhiệt (heat): Các nội hỏa làm linh hoạt và đem lại sinh lực, tự biểu lộ theo 2 cách:
- Thứ nhất là tiềm nhiệt. Đây là nền tảng của chuyển động quay và là nguyên nhân của biểu lộ cố kết của dạng hình cầu của mọi sự sống, từ vi tử của Thượng Đế, vòng giới hạn của thái dương, xuống đến nguyên tử nhỏ nhất của nhà hóa học hoặc nhà vật lý học.
- Thứ hai là hoạt nhiệt. Điều này đưa đến kết quả là sự hoạt động và thôi thúc hướng tới của công cuộc tiến hóa vật chất. (LCVCK, 41–42)
+ Diễn tả hiệu quả các hỏa thực thể (Lửa bên trong vật chất, VD: Trong Thái dương hệ, trong hành tinh, trong con người gồm có
3) với môi trường bao quanh là: NHIỆT VÀ PHÁT XẠ (LVLCK, 70)
+ X. Phát xạ. Bức xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình thành toàn (process of accomplishment). (TBĐC, 148)
+ Phát xạ (Bức xạ, Radiation): Phát xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình hoàn thành. Chuyển hóa vốn là sự giải thoát của tinh chất ngõ hầu nó có thể tìm được một trung tâm mới, tiến trình có thể được hiểu như là tính chất phóng xạ, hiểu theo mặt chuyên môn và áp dụng cho tất cả các thể nguyên tử, không trừ một thể nào. Chỉ gần đây, khoa học mới biết đến chất radium (một thí dụ của tiến trình chuyển hóa) chỉ là lỗi lầm của khoa học. Khi điều này được hiểu rõ hơn, người ta sẽ thấy rằng mọi bức xạ, như là từ lực (magnetism) hay phóng phát tâm thông chỉ là diễn trình chuyển hóa đang tiến hành trên một mức rộng lớn. Ở đây, điểm cần phải hiểu là tiến trình chuyển hóa khi có hiệu quả, nhìn theo bề ngoài, là kết quả của các yếu tố bên ngoài. Về căn bản thì đó là kết quả của hạt nhân tích cực bên trong của mãnh lực hay sự sống đang đạt tới một mức rung động khủng khiếp đến nỗi sau rốt, nó phân tán các điện tử hay các điểm âm (negative points) vốn tạo thành khối cầu ảnh hưởng của nó và phân tán chúng ở khoảng cách xa đến mức mà Định luật Đẩy chi phối. Bấy giờ, chúng không còn bị hút vào trung tâm ban đầu nữa mà tìm kiếm một trung tâm khác. Khối cầu nguyên tử, nếu tôi có thể nói như thế, tan rả ra, các điện tử chịu ảnh hưởng của Định luật Đẩy, tinh chất trung ương thoát ra và tìm kiếm một khối cầu mới, hiểu về mặt huyền linh. (LVLCK, 478)
+ Chân Sư DK có 12 Gợi ý cho Chiêm tinh gia:
1. Khi thay các hành tinh nội môn = ngoại môn, nhiều thông tin sáng tỏ, và các ý tưởng của Tôi sẽ được xác minh.
2. Muốn phân biệt, sẽ thấy, hành tinh thánh thiện - dung hợp phàm ngã, hướng đến linh hồn; Hành tinh không thánh thiện ảnh hưởng đặc biệt đến phàm ngã; nhiều ánh sáng về sức lôi kéo giữa các cặp đối ứng sẽ đến.
3. Nghiên cứu 3 hành tinh bị che khuất bởi Mặt Trời và Mặt Trăng, là chủ thể chi phối, y sẽ có được nhiều hiểu biết do trực giác, hữu ích với đệ tử dự bị khi xét chủ thể cai quản ngoại môn, hay đệ tử với quản nội môn (CTHNM, 571)
1. Mọi trung tâm lực đều được chi phối bởi một trong các cung năng lượng.
2. Các cung năng lượng sử dụng các hành tinh thánh thiện - Không thánh thiện như là các môi giới truyền chuyển - trong chu kỳ thế giới này.
3. Nhân loại thông thường bị chi phối bởi các hành tinh ngoại môn; nhân loại tiến hoá, các đệ tử và các điểm đạo đồ bị chi phối bởi các hành tinh nội môn.
4. Cung Thái Dương - Hành tinh ngoại môn – Chi phối phàm ngã, cho biết sự kế thừa, trang bị và là một tóm tắt của những gì đã là, như vậy cung cấp nền tảng.
5. Cung mệnh, hành tinh ngoại môn, cho biết mục tiêu của linh hồn và con đường đến tương lai, cơ hội.
6. Lá số tử vi, với chung quanh cung Thái Dương, trở nên thích hợp đối với nhân loại thông thường. Các hành tinh ngoại môn chi phối và con người sống với các giới hạn 12 cung hoàng đạo.
7. Lá số tử vi với chung quanh cung mệnh, với hành tinh nội môn đang chi phối, sẽ truyền đạt vận mệnh của đệ tử giai đoạn đầu...
8. Cung Thái Dương, với với lá số tử vi của điểm đạo đồ; khi được đặt chồng lên nhau.....
9. Cung Thái Dương với chủ thể ngoại môn, cung mệnh với chủ thể quản nội môn và cả hai được đặt chồng lên nhau, vấn đề của đệ tử trong bất cứ lần luân hồi nào sẽ xuất hiện (CTHNM, 575)
Xem: Nguồn gốc số mệnh - cải mệnh Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp Xem: Tổng hợp về xem Chiêm Tinh Xem: Thiết lập Biểu đồ cung và nhận dạng Cung
+ Ba yếu tố Chân Sư DK dạy về độ chính xác các tiên đoán Chiêm tinh và diễn giải nó (CTHNM, 83)
1- Sức mạnh của các Hình tư tưởng đã tạo được liên hệ với 12 Cung
2- Trực giác nhà Chiêm tinh: Việc xem Lá số giúp đặt Chiêm tinh gia giao tiếp với cá nhân, nhưng điều này chỉ giúp chút ít cho mỗi bên, trừ khi trực giác và độ nhạy cảm của Chiêm tinh gia hiện hữu tích cực.
3- Năng lực của Chiêm tinh gia trong bất cứ giai đoạn nào khi đáp ứng với các thay đổi đang sảy ra luôn luôn, chủ yếu là ảnh hưởng Hành tinh và các Chòm sao. Do đó, cốt tủy là phải nắm bắt TRÌNH ĐỘ TIẾN HÓA của đối tượng (Tức nghiên cứu các Cung năng lượng) + Khoa Chiêm Tinh là 5 KHOA HỌC:
(1)- Các Cung;
(2)- Giải thích huyền bí;
(3)- Các Tam giác;
(4)- Các Trung tâm lực;
(5)- Khoa học về Vận Mệnh, khoa này dựa vào 4 Khoa học trước, và Lá số tiến bộ cá nhân là khởi đầu của khoa học này (CTHNM,99).
+ Các chiêm tinh gia quan tâm trước tiên đến ba loại năng lượng (LVHLT, 434):
a/ Năng lượng của chòm sao mà Mặt Trời được an vị nơi đó vào lúc sinh ra.
b/ Cung mệnh (rising sign) mà con người sẽ đáp ứng.
c/ Mặt trăng vốn cai quản khía cạnh hình hài của con người, và nhất là hình hài vật chất.
Năng lượng của chòm sao đặc biệt hay là cung hoàng đạo (sign) mà trong đó một người được sinh ra có ý nghĩa sâu xa hơn là ý nghĩa đã được đề xuất từ trước đến giờ. Nó tiêu biểu hoặc chỉ ra vấn đề hiện tại của y, ấn định tốc độ phát triển hoặc nhịp độ (or tempo) của sự sống của y, và có liên quan đến tính chất của phàm-ngã của y. Nó chi phối, nếu Tôi có thể diễn tả nó như thế, trạng thái động (raja) hay trạng thái hoạt động của sự sống con người trong khi lâm phàm.
Cung mệnh (ascendant or rising sign) cho thấy đường lối mà toàn bộ năng lượng của con người có thể tuôn chảy theo đó, nếu y hoàn thành mục tiêu của một lần luân hồi nào đó. Dĩ nhiên nếu điều này được vận dụng đúng. Nó nắm giữ bí mật của tương lai của y, và theo biểu tượng và trong sự tìm hiểu về nó, y có thể tìm thấy đầu mối cho vấn đề về cuộc sống của y, và một dấu hiệu của những gì mà y có thể trở thành và thành đạt. Nó bộc lộ cho y loại thần lực vốn sẽ giúp cho y thành công. Khi được hoàn tất đầy đủ, điều này có thể được coi như tạo ra trạng thái điều hòa (sattva) hay là trạng thái hài hòa của cuộc đời y, vì khi nó thể hiện vai trò của nó và được vận dụng, nó tạo ra sự hòa hợp với ý chí của linh hồn trong bất kỳ lần luân hồi đặc biệt nào.
Trong ảnh hưởng của nguyệt cầu, chúng ta đã chỉ ra quá khứ của người được sinh ra. Nó tổng kết các hạn chế và các bất lợi mà y phải làm việc dưới các điều kiện đó, và do đó có thể được coi là tiêu biểu cho khía cạnh tĩnh (tamas) của vật chất, hay những gì vốn “ngăn giữ” và vốn – nếu được phép gây ảnh hưởng thái quá – sẽ tạo ra sự trì trệ (inertia). Trong thân thể mà con người được trang bị, có ẩn giấu cái bí mật của kinh nghiệm quá khứ, và mỗi nguyệt thể (lunar form, thể cảm dục – ND) mà nhờ đó chúng ta phải đạt đến sự biểu lộ thích đáng, bản chất nó là sản phẩm hoặc sự tổng hợp của toàn bộ quá khứ. Để Tôi xem liệu Tôi có thể diễn đạt chân lý hiện nay về chiêm-tinh-học theo hình thức đơn giản đến nỗi mà những người không biết chút gì về khoa học phức tạp này cũng có thể hiểu được.
Tháng sinh cho biết ngày của thời cơ. Cánh cửa được mở ra. Tháng đặc biệt mà trong đó một linh hồn đi vào luân hồi được biểu thị cho linh hồn đó bởi tháng mà trong đó linh hồn chuyển ra khỏi luân hồi (passed out of incarnation, chết) trong một chu kỳ sống trước đây. Thí dụ, nếu linh hồn đã qua đời trong tháng được chi phối bởi cung Leo, linh hồn sẽ trở lại luân hồi trong cùng cung đó, phục hồi dòng (thread) kinh nghiệm mà linh hồn đã để nó lại, và bắt đầu với cùng một loại năng lượng và với sự trang bị đặc biệt, mà cùng với những thứ đó linh hồn đã ra khỏi kiếp sống trần gian, cộng với sự thành tựu về tư tưởng và thái độ bàng quan hữu thức (conscious onlooking). Tính chất của năng lượng và bản chất của các mãnh lực cần được vận dụng trong kiếp sống được chỉ ra cho linh hồn theo cách này.
Cung mệnh, tiêu biểu cho một loại năng lượng khác nữa, sẽ mạnh lên (wax in strength) trong khi luân hồi, vì nó chỉ ra bản chất của thần lực linh hồn, mà đứa con đang nhập thể của Thượng Đế đang tìm cách vận dụng qua trung gian của một phàm-ngã đặc biệt, sở hữu một số đặc điểm nhất định.
Ảnh hưởng của mặt trăng chủ yếu là về thể chất. Nhà tù của linh hồn được ngụ ý như thế. Các trở ngại phải gặp được gìn giữ chắc chắn như thế; loại thể xác hoặc loại của các thể (bodies) mà qua đó mãnh lực của cung bổn mạng (native’s sign), và tính chất của năng lượng vốn sẽ đưa con người đến mục tiêu của mình được xác định như thế. Con người phải tự biểu lộ trên cõi trần thông qua các nguyệt thần (lunar lords), và những gì mà các thần này đã cung cấp cho y dưới hình thức là kết quả của kinh nghiệm quá khứ trải qua nhiều thời đại.
Do tuế sai (precession) của các phân điểm (equinoxes), một tình huống được mang lại, trong đó một loại thần lực thứ tư tự biểu lộ. Thực ra thì mặt trời ở nhiều cấp độ cách xa trong vòng tròn lớn của các cõi trời, từ nơi mà nó được cho là đang hiện hữu trong phạm vi liên quan với vòng hoàng đạo lớn (greater zodiac). Dĩ nhiên, đây là theo quan điểm của thời gian. Vì đường quét của mặt trời qua một chòm sao bao gồm một chu kỳ khoảng 2200 năm, sự dịch chuyển trong tiến trình các thế kỷ là rất nhỏ, quá nhỏ để ghi nhận sự dị biệt nhỏ bé đó trong việc lấy số tử vi hành tinh. Trong việc lấy số tử vi của một thái-dương-hệ, nó sẽ rất quan trọng, nhưng điều này cho đến nay vượt quá xa khả năng của các nhà chiêm tinh thông thái nhất trên hành tinh của chúng ta, đến nỗi việc thảo luận là không quan trọng.
Tuy nhiên, khi lấy lá số tử vi của một người được sinh ra trong một tháng đặc biệt (particular month), nên nhớ rằng (vốn rất ít khi được nhớ) hiện giờ tháng và cung hoàng đạo không ăn khớp chút nào. Ví dụ, thực sự thì mặt trời không ở trong cung Leo (Hải Sư) trong tháng tám. Do đó, việc giải thích chính xác một lá số phần lớn thuộc về trắc tâm (psychometrical) và tùy vào hình-tư-tưởng của chòm sao vốn đã được tạo ra trong nhiều kỷ nguyên bởi các nhà chiêm tinh. Năng lượng theo sau tư tưởng. Trong nhiều ngàn năm qua, một số loại năng lượng và các hiệu ứng định tính của chúng gây ra trên vật chất và hình hài đã được xem xét đại loại như thế. Vì vậy, chúng trở thành như thế rồi, ngoại trừ trong trường hợp của người tiến hóa cao, của người tìm đạo chân chính, tức là những người đã định hướng cho mình, và như thế thoát khỏi bánh xe của sự sống và bắt đầu chi phối các sao bổn mạng (stars) của mình, và thế là không còn dưới sự cai quản và sự thống trị của chúng nữa.
Chiêm tinh học bây giờ chủ yếu đề cập đến phàm-ngã vì đó là đối tượng mà người ta có thể lập lá số tử vi, và đề cập đến các sự kiện của sự sống phàm-ngã. Khi, nhờ tham thiền và phụng-sự, cộng với giới luật của các nguyệt thể, một người đi vào ảnh hưởng của cung linh hồn của mình một cách hữu thức và chắc chắn, lúc đó y mới chịu ảnh hưởng của một trong bảy thái-dương-hệ (seven solar systems), khi chúng tập trung năng lượng của chúng qua chòm sao này hoặc khác của các chòm sao, và rồi tới hành tinh này hoặc hành tinh khác trong bảy hành tinh thánh thiện. Cuối cùng sẽ có mười hai hành tinh thánh thiện, tương ứng với mười hai chòm sao, nhưng giờ thì chưa phải lúc. Như bạn biết, tháidương-hệ chúng ta là một trong bảy thái-dương-hệ. Khi một người đã đạt đến mức tiến hóa này, các tháng sinh, chiêm tinh học thế tục, và các ảnh hưởng đang tác động trên các khía cạnh hình hài trở thành ngày càng kém quan trọng. Quỹ đạo (circle) này của các thái-dương-hệ vô cùng ảnh hưởng đến linh hồn, và linh hồn trở thành tụ điểm của các năng lượng tâm linh. Đây là vấn đề của linh hồn trên cõi riêng của nó, − đó là sự đáp ứng với các loại năng lượng này, và, phàm ngã hoàn toàn không biết về các năng lượng đó.
Do đó, các cung (signs) rơi vào bốn loại: đất (địa), nước (thủy), lửa (hỏa) và gió (phong) có liên quan trước tiên đến người nào đang sinh hoạt phía dưới cơ hoành, và vận dụng bốn bí huyệt thấp: bí huyệt ở đáy cột sống, bí huyệt xương cùng, bí huyệt đan điền và bí huyệt lá lách. Nhóm bên trong của bảy năng lượng chính yếu hay năng lượng thái-dương-hệ tạo ảnh hưởng của chúng vào người nào đang sinh hoạt phía trên cơ hoành, và hoạt động qua bảy trung tâm tiêu biểu trong đầu. Bốn trong số đó tập trung qua bí huyệt cổ họng, bí huyệt tim, bí huyệt ấn đường và bí huyệt đầu. Ba bí huyệt ở trạng thái tiềm tàng trong khu vực của các bí huyệt đầu (hoa sen ngàn cánh) và chỉ đi vào hoạt động chức năng sau kỳ điểm đạo thứ ba. Do đó theo quan điểm của lá số tử vi (cũng như của vấn đề cá nhân), hiển nhiên là sự gặp gỡ này của các năng lượng của hai loại chòm sao sẽ rất phức tạp, trong trường hợp của người nào không thuần là con người mà cũng không thuần tâm linh. Lá số tử vi thông thường bị phủ nhận. Cho đến nay, lá số tử vi này không thể phác thảo ra được. Lá số tử vi duy nhất, về mặt cơ bản và đúng gần như không thể sai là lá số của một người hoàn toàn thuộc cấp thấp, sinh hoạt hoàn toàn dưới cơ hoành, và chỉ bị chi phối bởi bản chất thú tính của mình.
Các chiêm-tinh-gia cũng phải nhớ rằng có một vài hành tinh chưa được khám phá, chúng đang tạo ra các lực hút (pulls), các dịch chuyển và các dòng năng lượng tập trung trên trái đất của chúng ta, có xu hướng làm cho vấn đề phức tạp hơn nữa. Diêm Vương Tinh (Pluto) là một trong số các hành tinh đó, và hiện đã và đang biểu lộ (hay đúng hơn là được nhìn nhận) để nó sẽ được qui cho tất cả các tình trạng không giải thích được. Diêm Vương Tinh sẽ được biến thành con dê tế thần cho chiêm tinh học đầy khuyết điểm trong một thời gian dài sắp tới. Lá số (chart) này không hữu ích và thiếu chính xác bởi vì Diêm Vương Tinh phải có ảnh hưởng trong đó, mà chúng ta lại biết rất ít về Diêm Vương Tinh. Thế rồi, câu chuyện cứ tiếp diễn. Tuy nhiên, Diêm Vương Tinh đã và đang luôn luôn quay quanh mặt trời của chúng ta, và tạo ra các ảnh hưởng của nó. Tuy nhiên nó chi phối (govern) cái chết hoặc chấm dứt các ý tưởng và tình cảm cũ xưa, và do đó ảnh hưởng của nó phần lớn thuộc về trí não (cerebral) và trong đó bạn có đầu mối cho sự khám phá muộn màng về nó. Nhân loại chỉ mới ở ngưỡng của việc trở nên thiên về trí tuệ. Các ảnh hưởng của nó đang được cảm nhận trước tiên trong thể trí. Tên gọi của các hành tinh không phải là kết quả của sự lựa chọn độc đoán mà chính các hành tinh tự đặt tên cho chúng.
Cuối cùng các nhà chiêm tinh sẽ thấy là cần lấy ba lá số tử vi hay ba biểu đồ (charts):
- Một thuần về vật chất bàn đến thể xác (body of nature);
- Một chủ yếu về tình cảm, bàn đến tính chất (quality) của phàm-ngã và tính nhạy cảm của nó, hoặc trạng thái của ý thức;
- Lá số thứ ba sẽ là biểu đồ về các xung lực và các tình trạng trí tuệ.
Người ta thấy rằng ba biểu đồ này sẽ chứa một vài đường hình học nhất định, các tuyến năng lượng sẽ tạo thành các mô hình. Ba biểu đồ này được xếp chồng lên nhau, sẽ cung cấp sơ đồ phàm-ngã, mô hình sự sống cá nhân. Các biểu đồ mang tính biểu tượng đáng ngạc nhiên và các hình thức trực hệ (lineal) sẽ được thấy xuất hiện khi điều này được thực hiện, và “hình học của cá nhân” sẽ nảy sinh ra từ đây, vì người ta sẽ thấy rằng mỗi đường (line) sẽ hoạt động liên quan đến một đường khác, và các xu hướng của các năng lượng sự sống sẽ trở nên rõ ràng. Cuối cùng, ngay cả trong bộ môn kiến thức này, “ngôi sao sẽ tỏa sáng ra”. Điều này sẽ tạo thành một chi nhánh mới của tâm lý học và người xuất chúng thực sự của nó trong kỷ nguyên chúng ta sẽ được tìm thấy đúng lúc. Tôi chỉ trình bày sơ qua các đường lối của chiêm tinh học tương lai để bảo vệ cho chiêm tinh học hiện tại.
Một điều mà các nhà chiêm tinh cần làm vào lúc này, đó là tính cho đúng giai đoạn chuyển tiếp này: ra khỏi cung Song Ngư, tiến vào cung Bảo Bình. Điều này hiếm khi được thực hiện, nhưng rõ ràng là sự xáo động dữ dội gắn liền với các chuyển đổi này ảnh hưởng đến lá số cá nhân, và thường hóa giải vận mệnh hoặc karma cá nhân. Con người bị chìm đắm trong vận mệnh hành tinh và chủng tộc, và các sự việc bé nhỏ của riêng họ bị hóa giải gần như hoàn toàn và đôi khi hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Không thể lấy số tử vi của hành tinh, những người dự định làm như vậy là lừa dối chính mình và những người khác. Lá số tử vi của giới thứ tư trong thiên nhiên, tức là của nhân loại, cuối cùng sẽ được lập, nhưng nó sẽ được thực hiện bởi các điểm đạo đồ, và không có nhà chiêm tinh được điểm đạo nào đang hoạt động trên cõi trần vào lúc này.(LVHLT, 434)
+ Chiêm Tinh Gia với Bí huyệt/ Luân xa
- Bí huyệt tim trong con người mở cánh cửa vào những gì được gọi là “tâm của Mặt Trời” (“heart of the Sun”).
- Bí huyệt cổ họng mở đường vào sự hiểu biết đầy đủ về đường đi của Mặt Trời vật chất, và tất cả các nhà chiêm tinh chân chính cuối cùng phải có bí huyệt đó hoạt động.
- Bí huyệt đầu mở đường tới Mặt Trời tinh thần trung ương,
===> Mỗi bí huyệt đi tới một trong những cõi vũ trụ, xuyên qua sự tương ứng hành tinh (LVHLT, 364)
+ Phương pháp đánh giá trình độ Thầy xem số mệnh: .............
Xem : Tổng hợp về xem Chiêm Tinh
Xem: Nguồn gốc số mệnh - cải mệnh
Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
Xem: Tổng hợp nguyên tắc xem lá số Tứ trụ
Xem: Tổng hợp nguyên tắc xem lá số tử vi
+ Nhà Chiêm tinh học bậc trung
Nhiều điều đã được đưa ra trong các sách huyền linh học mà nhà chiêm tinh học bậc trung vẫn không biết được một cách tường tận về các sách này. Điều thiết yếu là y cần học cách suy tư theo các Tổng Thể rộng lớn và đề cập sâu sắc hơn tới Các Cội Nguồn xuất phát và với các Nguyên Nhân bền bĩ vĩnh cửu hơn là với các hiệu quả của các Cội Nguồn này vào sự sáng tạo nhất thời đó, tức là một con người và sự hiện hữu tạm thời của y trên một hành tinh kém quan trọng nhất. Khi y tìm cách làm điều này, y sẽ khám phá cho chính y các cung hoàng đạo (signs) của thiên tính cốt yếu của con người – một thiên tính vốn phải được tìm thấy trong việc hiểu thấu vô hạn tâm thức của con người khi được giác ngộ bằng ánh sáng của linh hồn và với năng lực của y để phóng ý tưởng của mình vào tâm thức của các Đấng đa năng (manifold Lives) mà “các hoạt động truyền sinh lực” của các Ngài, y phải bắt buộc chia sớt bởi vì số năng lượng bé nhỏ của y là một phần nguyên vẹn của năng lượng các Ngài. (CTHNM, 17)
+ Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ DĨ THÁI - NƯỚC CỦA KHÔNG GIAN: Chúng ta đã tạo ra một thuật ngữ mà chúng ta gọi là dĩ thái (ether). Nói theo huyền linh học, đây là cách hiện đại để diễn đạt “nước của không gian” (“waters of space”), vốn là khối nước của ham muốn (waters of desire), mà chúng ta bị chìm ngập trong đó. Nó lên xuống liên tục và là luồng sự sống, được tạo thành với bốn mươi chín loại năng lượng, đang tuôn đổ qua hoa sen chân ngã vũ trụ, và (tỏa ra từ nó) cung cấp theo mức độ của nó để nuôi dưỡng hình tướng – thuộc thái dương, thuộc hành tinh, hoặc thuộc con người − mà nó chịu trách nhiệm. Điều này được bàn đến trong bộ sách “Luận Về Lửa Càn Khôn”. (LVHLT, 275)
+ Dĩ Thái: Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Tiên Thiên Khí (Akasha). (GLBN I, 78)
+ Dĩ thái: Trong và qua Dĩ thái của không gian, các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Thể dĩ thái của hành tinh, thái dương hệ và 7 thái dương hệ (Có thái dương hệ chúng ta)... cung cấp môi trường truyền chuyển cho tất cả các năng lượng đang tác động trên và qua thái dương hệ .... Nó chuyển động liên miên không dứt- một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng.
* Dĩ thái không gian, Dĩ thái hành tinh, Dĩ thái trong con người .... mời xem tại (CTHNM, 16)
+ Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ Đại: Phong, Hỏa, Thủy, Địa. (LVLCK, 43)
+ Chất dĩ thái sẽ hoàn toàn thấy được đối với nhiều người vào cuối thế kỷ (XX-ND) này (LVHLT, 374)
+ Có 4 loại chất dĩ thái Của Các Cõi Phụ Của Cõi Trần (Cõi Hồng Trần Vũ Trụ Biểu Lộ này là 01 biến phân của Cõi Bảy - Cõi Hồng Trần Vũ Trụ, là Cõi thấp nhất của Bảy Cõi Vũ Trụ Hệ thống/ Gốc) (LVLCK, 320, 326):
a. Cõi phụ 1 - Cõi trần (cõi phụ cao nhất) chứa chất dĩ thái 1.
b. Cõi phụ 2 - Cõi trần, chất dĩ thái 2, ánh sáng cõi trần sử dụng làm phương tiện truyền đi.
c. Âm thanh tác động qua Cõi phụ 3 - Chất dĩ thái thứ 3.
d. Màu sắc có liên kết với Cõi phụ 4 - Chất dĩ thái thứ 4. Dĩ thái 4 là chất mà nhờ đó, đa số thể dĩ thái của con người được tạo thành.
+ Dĩ thái lực tức là sinh lực. (TLHNM II, 309)
+ Huyền linh học nhìn nhận có 7 Bản Tố Vũ Trụ, 4 hoàn toàn thuộc về vật chất, bản tố thứ 5, Dĩ Thái, bán vật chất, sẽ trở nên thấy được trong không khí vào cuối Cuộc Tuần Hoàn thứ 4. (GLBN I, 78)
+ Khoa Học Khám Phá Dĩ Thái: Còn Vật lý học với các khám phá về quark đã bước vào cõi phụ dĩ thái (etheric) của cõi trần. Trong tương lai, nếu khoa học có thể khám phá ra cách làm việc cới các cõi phụ dĩ thái theo cách như hiện nay đang làm việc với thế giới vật lý (ba cõi phụ 5,6,7) thì có lẽ đó là một trong những tiến bộ vĩ đại nhất.
+ DĨ THÁI Không gian - Ether: Thuật ngữ Dĩ Thái. Nói theo huyền linh học, đây là cách hiện đại để diễn đạt “nước của không gian” (“waters of space”), vốn là khối nước của ham muốn (waters of desire), mà chúng ta bị chìm ngập trong đó. Nó lên xuống liên tục và là luồng sự sống, được tạo thành với 49 loại năng lượng, đang tuôn đổ qua hoa sen chân ngã vũ trụ,...(LVHLT, 275)
(Xem: Điểm 6 - Quy Luật 5 - CT Con Người 13- Thể Hồng Trần
Xem thêm: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem thêm: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Dĩ thái không gian Điểm kế tiếp mà mỗi người trong các bạn cần hiểu rõ đó là sự kiện dĩ thái của không gian chính là lĩnh vực mà trong và qua đó các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Vì lẽ đó chúng ta chỉ đề cập tới thể dĩ thái của hành tinh, của thái dương hệ và của bảy thái dương hệ mà trong đó thái dương hệ của chúng ta là một, cũng như bàn đến thể dĩ thái rộng lớn hơn của vũ trụ mà chúng ta đang nằm trong đó. Ở đây Tôi sử dụng từ ngữ “located” (“nằm”, “có vị trí”…) một cách có cân nhắc và vì các suy đoán mà thuật ngữ đó dẫn đến. Lĩnh vực rộng lớn này, cũng như các lĩnh vực nhỏ hơn và có giới hạn hơn, cung cấp môi trường truyền chuyển (medium of transmission) cho tất cả các năng lượng đang tác động trên và qua thái dương hệ chúng ta, các bầu hành tinh chúng ta và mọi hình thức, sự sống trên các bầu này. Nó tạo thành một lĩnh vực hoạt động liên tục trong một chuyển động liên miên không dứt – một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng. (CTHNM, 17)
+ Con người bị chìm ngập trong các mãnh lực mà đối với y như là nước của không gian đối với thái-dương-hệ chúng ta. Con người nhận thấy bản thân y, giống như mặt trời và các hành tinh đi kèm mặt trời cũng nhận thấy như thế, tạo nên một phần của một tổng thể, và giống như thái-dương-hệ của chúng ta chỉ là một trong bảy thái-dương-hệ, được thu hút lại nhau tạo thành một thể (body), ...(LVHLT, 275)
+ Vật chất không gian (matter of space): Theo cách gọi một cách thực tế (graphically) của Ấn giáo thì đối với mỗi Thái Dương Hệ, vật chất không gian chung quanh nó là Cội nguồn của Vật chất (Root of Matter), hay Hỗn nguyên khí (Mulaprakriti) của Thái Dương Hệ đó. (KCVTT, 16)
+ Trường không gian (Field of space): Bản chất của trường không gian là dĩ thái, và thể sinh lực của nó được tạo bằng tổng số các thể dĩ thái của tất cả các chòm sao, các Thái Dương Hệ và các hành tinh nằm trong đó. Toàn bộ mạng lưới quý báu của vũ trụ này có một sự lưu chuyển không ngừng của các năng lượng và các thần lực, điều này tạo thành nền tảng khoa học của các thuyết chiêm tinh học. Giống như các thần lực của hành tinh và của chân nhân (chỉ ghi nhận một trong số nhiều yếu tố) đang tuôn đổ qua thể dĩ thái của từng người trên cõi trần và chi phối ngoại hiện của con người, các hoạt động và các tính chất của y, cũng thế, các thần lực khác nhau của vũ trụ đang tuôn đổ qua mọi phần thể dĩ thái của thực thể mà chúng ta gọi là không gian, rồi chi phối, định đoạt phần ngoại hiện, các hoạt động và các tính chất của mọi hình hài nằm trong chu vi vũ trụ. (CTHNM, 11)
+ Không gian bao quanh Thái Dương Hệ chúng ta: Cuộc chiến vĩ đại đầu tiên để đạt đến việc Tự ý thức trọn vẹn bắt đầu trên Cõi Hồng Trần (TCF - Luận Về Lửa Vũ Trụ, tr 625)
Cõi hồng trần vũ trụ. Đây là lực (ngoài và trong) của chính thái dương hệ và của không gian bao quanh. Nó có thể được xem như các lực của prana, tuôn đổ qua thể dĩ thái của Thượng Đế (bốn cõi phụ cao của chúng ta) vốn là dương so với ba cõi thấp hơn, đang thấm nhuần ba cõi thấp này (một phản ảnh trong vật chất, hay là trong trạng thái Brahma, của sự hợp nhất của Phụ-Mẫu) và tạo ra biểu lộ cụ thể thuần túy. Điều này giải thích tại sao thể xác có sự kiềm chế như thế trong các giai đoạn dài của sự tiến hóa của con người, vì mãnh lực thuộc loại năng lượng này tất nhiên được cảm nhận mạnh hơn nhiều so với các lực khác. Chính mãnh lực thiên thần, và vật chất, vốn rất gần gũi với chúng ta cũng như lừa dối chúng ta một cách mạnh mẽ. Ở đây có tàng ẩn bí mật của ảo lực (maya), và cũng ở đây được thấy bí ẩn của ảo tưởng (illusion). Đối với con người, nơi đây chứa giai đoạn lớn thứ nhất của trận chiến cho ngã thức đầy đủ, và cho việc huyền đồng (identification) với phương diện - Chúa (God-aspect), chớ không phải với phương diện-vật chất. Ở đây ẩn tàng lý do huyền linh giải thích tại sao con người được gọi bằng tên của cha chớ không phải tên của mẹ của y. Khi con người đã chi phối được các tinh hoa thiên thần của cõi trần, thì y kiểm soát kế tiếp các tinh hoa thiên thần của cõi cảm dục và chi phối các tinh hoa cõi trí. Nhờ đạt được điều này trong bản thể riêng của mình, bấy giờ y có thể an toàn trở thành một nhà huyền thuật và tiếp xúc, kiểm soát và hoạt động với các devas có liên quan đến các kế hoạch của Hành Tinh Thượng Đế. Khi nhận ra ba loại thần lực này, con người sẽ tìm được chìa khóa đưa đến cái bí ẩn về các trung tâm lực của mình.
+ Không gian là một thực thể và toàn bộ “vòm trời” (như nó được gọi một cách thi vị) là cái bề ngoài hiện tượng (phenomenal appearance) của thực thể đó. Bạn nên để ý rằng Tôi không nói bề ngoài vật chất (material appearance) mà nói bề ngoài hiện tượng. Việc suy đoán về bản chất, lịch sử và tung tích / chân tướng (identity) của thực thể đó là vô dụng và không có giá trị. Ý tưởng mơ hồ nào đó, cung cấp sự giống nhau dù cho khi vượt quá các đặc điểm, có thể trở thành có lợi, nếu bạn cố gắng suy tưởng về gia đình nhân loại, tức giới thứ tư trong thiên nhiên, dưới hình thức một thực thể, khi tạo thành một đơn vị đơn độc, tự biểu lộ qua biết bao dạng thức biến cải của con người. Với tư cách một cá nhân, bạn là một phần nguyên vẹn của nhân loại, tuy thế bạn sống cuộc sống riêng của chính bạn, bạn phản ứng lại với các ấn tượng của chính bạn, bạn đáp ứng với các ảnh hưởng và các tác động bên ngoài, và đến lượt bạn, bạn phóng xuất ra các ảnh hưởng, đưa ra một hình thức phóng phát cá tính nào đó và lộ ra một hoặc nhiều đặc tính nào đó. Bằng cách ấy và ở một phạm vi nào đó, bạn tạo ảnh hưởng lên chung quanh bạn và những người mà bạn tiếp xúc. Tuy nhiên, suốt thời gian đó bạn vẫn là một phần của một thực thể hiện tượng (phenomenal entity) mà chúng ta gán cho tên gọi là nhân loại. Bây giờ, nới rộng ý tưởng này đến một thực thể hiện tượng vĩ đại hơn, tức là một thái dương hệ. Chính thực thể này là một phần nguyên vẹn của một Sự Sống còn vĩ đại hơn đang tự biểu lộ qua bảy thái dương hệ, mà thái dương hệ của chúng ta là một. Giá mà bạn có thể hiểu được ý tưởng này, một minh họa mơ hồ về một chân lý vĩ đại đang nằm dưới chân lý huyền bí sẽ xuất hiện trong tâm thức của bạn. Chính sự sống và ảnh hưởng, các bức xạ (radiations) và các phóng phát (emanations) của thực thể này, và ảnh hưởng hợp nhất của chúng trên sự sống hành tinh chúng ta, các giới trong thiên nhiên và các nền văn minh đang khai mở của nhân loại, mà chúng ta sẽ phải xem xét một cách vắn tắt.
Đề tài quá rộng lớn đến nỗi Tôi đã đối mặt với khó khăn của phương pháp hữu hiệu nhất để nhờ đó mà vận dụng nó. Tôi lựa chọn sự ngắn gọn, việc giải trình chính xác các sự kiện (các sự kiện đối với những ai trong chúng ta đang hoạt động ở khía cạnh nội môn của sự sống, nhưng chúng phải hữu lý chỉ ở các giả thuyết đối với bạn) đồng thời tránh đi vào chi tiết và bàn thảo tỉ mỉ. Chúng ta sẽ cố gắng hoạt động từ cái phổ quát đến cái đặc thù, và từ khái quát đến cụ thể, nhưng trọng điểm của chúng ta sẽ luôn luôn ở trên cái phổ quát và khái quát, chứ không dựa vào cái đặc thù và cụ thể. Nó sẽ dựa vào những ai trong các bạn vốn là các nhà nghiên cứu chiêm tinh học để áp dụng đúng chân lý cho cái đặc thù.
Chắc chắn là về điều này, chiêm tinh học hiện đại đã đi lạc đường. Nó đã đảo ngược phương pháp chân thực và đúng đắn và đã nhấn mạnh vào cái đặc thù và riêng biệt; dựa vào lá số cá nhân và mệnh số cá biệt, và đã không nhấn mạnh vào các năng lượng vĩ đại và Cội Nguồn các năng lượng đó. Các cội nguồn này đều chịu trách nhiệm tối hậu cho sự biểu lộ của cái đặc thù. Lập trường và cách trình bày chân lý này phải được thay đổi.
Do đó, trong chiêm tinh học huyền bí, chúng ta bàn đến Sự Sống và Các Sự Sống đang làm linh hoạt (inform) “các điểm ánh sáng” bên trong Sự Sống vũ trụ (universal Life). ...... Còn dài, mời xem sách Chiêm tinh học nội môn, trang 15./.
+ Chìa khóa Chiêm tinh học (Chân Sư DK)
3. Điều này đưa Tôi đến giải trình thứ ba, nó có nền tảng và căn bản đến nỗi Tôi muốn các bạn tạm dừng và xem xét nó, cho dù cho đến nay bạn không hiểu đủ hết các hàm ý của nó. Minh Triết Nghìn Xưa dạy rằng “không gian là một thực thể” (“space is an entity”). Chính là với sự sống của thực thể này và với các thần lực và năng lượng, các xung lực và các nhịp điệu, các chu kỳ và mùa tiết mà chiêm tinh học huyền bí bàn đến. H.P.B. có nói đến điều này trong Giáo Lý Bí Nhiệm.
Tôi xin nhắc các bạn rằng có một chìa khóa chiêm tinh học cho Giáo Lý Bí Nhiệm mà chưa thể được đưa ra đầy đủ. Tuy nhiên, Tôi có thể trao cho các bạn một số ẩn ngôn và gợi ra một số đường lối tiếp cận, và các đường lối này, nếu được tiến hành trong tâm thức của các nhà chiêm tinh học giác ngộ, có thể giúp một trong số họ vào một thời đại sau này khám phá ra chìa khóa đó và lúc bấy giờ ‒ giải thích nó cho nhân loại – tiết lộ nguyên lý cơ bản vĩ đại thứ tư của Minh Triết Muôn Thuở mà 3 nguyên lý căn bản đã được đưa ra trong lời nói đầu của GLBN.
Không gian là một thực thể và toàn bộ “vòm trời” (như nó được gọi một cách thi vị) là cái bề ngoài hiện tượng (phenomenal appearance) của thực thể đó. Bạn nên để ý rằng Tôi không nói bề ngoài vật chất (material appearance) mà nói bề ngoài hiện tượng. Việc suy đoán về bản chất, lịch sử và tung tích / chân tướng (identity) của thực thể đó là vô dụng và không có giá trị. Ý tưởng mơ hồ nào đó, cung cấp sự giống nhau dù cho khi vượt quá các đặc điểm, có thể trở thành có lợi, nếu bạn cố gắng suy tưởng về gia đình nhân loại, tức giới thứ tư trong thiên nhiên, dưới hình thức một thực thể, khi tạo thành một đơn vị đơn độc, tự biểu lộ qua biết bao dạng thức biến cải của con người. Với tư cách một cá nhân, bạn là một phần nguyên vẹn của nhân loại, tuy thế bạn sống cuộc sống riêng của chính bạn, bạn phản ứng lại với các ấn tượng của chính bạn, bạn đáp ứng với các ảnh hưởng và các tác động bên ngoài, và đến lượt bạn, bạn phóng xuất ra các ảnh hưởng, đưa ra một hình thức phóng phát cá tính nào đó và lộ ra một hoặc nhiều đặc tính nào đó. Bằng cách ấy và ở một phạm vi nào đó, bạn tạo ảnh hưởng lên chung quanh bạn và những người mà bạn tiếp xúc. Tuy nhiên, suốt thời gian đó bạn vẫn là một phần của một thực thể hiện tượng (phenomenal entity) mà chúng ta gán cho tên gọi là nhân loại. Bây giờ, nới rộng ý tưởng này đến một thực thể hiện tượng vĩ đại hơn, tức là một thái dương hệ. Chính thực thể này là một phần nguyên vẹn của một Sự Sống còn vĩ đại hơn đang tự biểu lộ qua bảy thái dương hệ, mà thái dương hệ của chúng ta là một. Giá mà bạn có thể hiểu được ý tưởng này, một minh họa mơ hồ về một chân lý vĩ đại đang nằm dưới chân lý huyền bí sẽ xuất hiện trong tâm thức của bạn. Chính sự sống và ảnh hưởng, các bức xạ (radiations) và các phóng phát (emanations) của thực thể này, và ảnh hưởng hợp nhất của chúng trên sự sống hành tinh chúng ta, các giới trong thiên nhiên và các nền văn minh đang khai mở của nhân loại, mà chúng ta sẽ phải xem xét một cách vắn tắt.
Đề tài quá rộng lớn đến nỗi Tôi đã đối mặt với khó khăn của phương pháp hữu hiệu nhất để nhờ đó mà vận dụng nó. Tôi lựa chọn sự ngắn gọn, việc giải trình chính xác các sự kiện (các sự kiện đối với những ai trong chúng ta đang hoạt động ở khía cạnh nội môn của sự sống, nhưng chúng phải hữu lý chỉ ở các giả thuyết đối với bạn) đồng thời tránh đi vào chi tiết và bàn thảo tỉ mỉ. Chúng ta sẽ cố gắng hoạt động từ cái phổ quát đến cái đặc thù, và từ khái quát đến cụ thể, nhưng trọng điểm của chúng ta sẽ luôn luôn ở trên cái phổ quát và khái quát, chứ không dựa vào cái đặc thù và cụ thể. Nó sẽ dựa vào những ai trong các bạn vốn là các nhà nghiên cứu chiêm tinh học để áp dụng đúng chân lý cho cái đặc thù.
Chắc chắn là về điều này, chiêm tinh học hiện đại đã đi lạc đường. Nó đã đảo ngược phương pháp chân thực và đúng đắn và đã nhấn mạnh vào cái đặc thù và riêng biệt; dựa vào lá số cá nhân và mệnh số cá biệt, và đã không nhấn mạnh vào các năng lượng vĩ đại và Cội Nguồn các năng lượng đó. Các cội nguồn này đều chịu trách nhiệm tối hậu cho sự biểu lộ của cái đặc thù. Lập trường và cách trình bày chân lý này phải được thay đổi.
Do đó, trong chiêm tinh học huyền bí, chúng ta bàn đến Sự Sống và Các Sự Sống đang làm linh hoạt (inform) “các điểm ánh sáng” bên trong Sự Sống vũ trụ (universal Life).
Các tinh tòa, các thái dương hệ, các hành tinh, các giới trong thiên nhiên và con người tiểu vi (microscopic man) hầu như là kết quả của hoạt động và sự biểu lộ năng lượng của một số Đấng Cao Cả (Lives) mà chu kỳ biểu lộ và các mục tiêu bao la của các Ngài nằm ngoài sự hiểu biết của các thể trí giác ngộ và tiến hóa nhất trên hành tinh chúng ta.
Điểm kế tiếp mà mỗi người trong các bạn cần hiểu rõ đó là sự kiện dĩ thái của không gian chính là lĩnh vực mà trong và qua đó các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Vì lẽ đó chúng ta chỉ đề cập tới thể dĩ thái của hành tinh, của thái dương hệ và của bảy thái dương hệ mà trong đó thái dương hệ của chúng ta là một, cũng như bàn đến thể dĩ thái rộng lớn hơn của vũ trụ mà chúng ta đang nằm trong đó. Ở đây Tôi sử dụng từ ngữ “located” (“nằm”, “có vị trí”…) một cách có cân nhắc và vì các suy đoán mà thuật ngữ đó dẫn đến. Lĩnh vực rộng lớn này, cũng như các lĩnh vực nhỏ hơn và có giới hạn hơn, cung cấp môi trường truyền chuyển (medium of transmission) cho tất cả các năng lượng đang tác động trên và qua thái dương hệ chúng ta, các bầu hành tinh chúng ta và mọi hình thức, sự sống trên các bầu này. Nó tạo thành một lĩnh vực hoạt động liên tục trong một chuyển động liên miên không dứt – một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng. (CTHNM, 14)
+ Phật dạy: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa”. Tất cả chúng sinh đều mang theo nghiệp của chính. Chính vì nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sinh..(Xem nguồn)
+ Nghiệp Làm Chủ Số Mệnh: Theo Nhân Quả, mỗi suy nghĩ, lời nói, hành động của Ta trong suốt cuộc đời đều đã bị nghiệp dẫn dắt, khống chế, sắp đặt sẵn và bị trói buộc trong Nghiệp duyên dẫn dắt. Ta chỉ có thể thay đổi được Nghiệp duyên nhờ Tu hành đúng cách (Nguồn: PS Tịnh Không)
+ Số mạng: Chúng ta phải tin sâu nhân quả "Một miếng ăn miếng uống đều đã được định sẵn". Nói theo luật nhân quả, trong cuộc đời mỗi người chúng ta, nói thật ra, số mạng quý vị đã được định trước, chẳng có cách nào vượt khỏi vận mạng! Mỗi người vốn đã được định sẵn, nếu không có đại thiện - đại ác thì số mạng đại khái chạy theo số đã định (Nguồn: PS T.Không)
+ Vận mệnh là thân phận, phúc họa, sang hèn, vinh nhục… thuộc về số phận. Có người nói số phận đã định đoạt thì không thay đổi được, tuy nhiên thực tế, số phận hoàn toàn có thể biến chuyển được, nếu bạn biết cách. Đức Phật đã giác ngộ một cách chân xác về sự tồn tại của mọi vật:” Nếu cái này hiện hữu, thì cái kia hiện hữu; nếu cái này không hiện hữu, thì cái kia không hiện hữu. Nếu cái này sinh khởi, thì cái kia sinh khởi”. Vận mệnh con người cũng không tồn tại ngoài quy luật ấy. Nguồn
+ Ấn định vận mệnh kiếp sống của một người: Thể cảm dục có chứa trong nó các đối phần của các trung tâm lực dĩ thái hay các trung nhiếp điểm; qua các trung tâm lực này, các mãnh lực và các năng lượng có nói đến trước đây, tuôn đổ vào thể dĩ thái. Các trung tâm lực này hứng chịu các năng lượng từ bảy hành tinh và từ mặt trời đến mọi phần của bộ phận cảm dục, như vậy, đặt con người vào mối quan hệ chặt chẽ với mọi phần của Thái Dương Hệ. Việc này đưa đến kết quả là ấn định vận mệnh kiếp sống của một người, mãi cho tới khi con người làm thức động cái di sản bất tử của mình và như thế trở nên nhạy cảm với các mãnh lực mà cho đến nay – đối với nhiều người – chưa được nhận biết. Các mãnh lực này tỏa ra từ hình tướng. Đây là lý do giải thích tại sao một lá số tử vi lại thường rất đúng khi lấy số cho người kém tiến hóa và cho người chưa giác ngộ, nhưng lại hoàn toàn sai lạc và lỗi lầm đối với trường hợp người tiến hóa (LVHLT, 295)
+ Số phận và Định mệnh: Các ảnh hưởng của Hành tinh cho thấy, với người bình thường và kém tiến hóa, khi lý giải đúng, các ảnh hưởng đó có thể và chắc chắn báo hiệu số phận và định mệnh của phàm ngã (CTHNM, 24)
+ Quả báo - Nghiệp Quả báo ứng: Cổ nhân có nói là trước 40 tuổi, quả báo của chúng ta vẫn chịu sự ảnh hưởng của nghiệp báo quá khứ, quả báo còn sót lại. Sau 40 tuổi, nghiệp mà bản thân mình đời này đã tạo dần dần sẽ hiện ra. Lời nói này rất có đạo lý. Ác nghiệp tạo trong đời quá khứ chúng ta không sợ, chỉ cần chúng ta thật sự giác ngộ, thật sự quay đầu đoạn ác tu thiện. Chúng ta nhìn thấy ở trong Liễu Phàm Tứ Huấn, người giống như Viên Liễu Phàm này ở Trung Quốc trước đây, thậm chí là hiện đại rất nhiều. Họ đều có thể thay đổi vận mệnh của mình, vận mệnh đều nắm chắc ở trong tay của mình. Giáo dục của Phật Đà không có gì khác, chính là dạy chúng ta cải tạo vận mệnh. Đoạn ác tu thiện là cải tạo vận mệnh. Phá mê khai ngộ là chuyển phàm thành thánh. Chúng ta muốn cải tạo vận mệnh của mình, thì phải cố gắng học theo Phật. Phật đối với chúng ta từ bi đến tột đỉnh. Phật là hoàn toàn nghĩa vụ, nói lời chân thật. (Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ CHẤP NHẬN HOÀN CẢNH - LÀM NHẸ NGHIỆP QUẢ - TU SẼ SỬA NGHIỆP: Đừng trách, đừng buồn, đừng thở than. Đừng hờn, đừng giận, đừng ngỡ ngàng Nhẹ nhàng chấp nhận điều ngang trái. Oán hận làm chi chuyện bẽ bàng. Sự đời sóng gió chuyện thường thôi. Phật pháp ít nhiều đã hiểu rồi. Chấp chứa trong lòng chi để khổ. Xả đi quá khứ việc xa xôi. Kém phước, hết duyên vậy đó mà. Tạo thêm duyên phước đừng lo xa. Đâu ai rảnh rỗi ban và giáng. Nghiệp quả chính mình nên nhận ra. Đủ duyên, đủ phước, đủ tài tình. Đủ đức, đủ từ, đủ trí minh. Tự tại thản nhiên chấp nhận hết. Khổ đau, hạnh phúc tự nơi mình.
+ ... Ông Văn Thù này! Bắc Đẩu Cổ Phật quảng đại từ bi, thị hiện giữa bầu trời, chủ trương niên – mệnh , thống lãnh Càn Khôn. Trên từ vua- chúa, dưới đến nhân dân, trời đất núi sông, chim muông cây cỏ, tất cả đều do Thất Tinh Bắc Đẩu cai quản soi chiếu. (Xem Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật)
+ ... Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả chúng sanh.... Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu soi. (Xem nguồn)
+ Không hề có vận mệnh mà chỉ có những gì do chính chúng ta định đoạt. (CKMTTL, 160)
+ Linh hồn không có vận mệnh cá biệt mà chìm ngập vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của linh hồn là vận mệnh của tập thể và của Tổng thể. (LVHLT, 296)
+ Thật là có số mạng không? Con người có khả năng điều khiển vận mạng số kiếp của họ được không?
Đáp: “Người Quân tử biết cách tạo mạng mình, Mạng do ta lập, phước tự mình cầu. Họa phước vô môn, bởi người tự chiêu Quả báo thiện ác như bóng theo hình.” Người quân tử có thể sáng tạo và thay đổi vận mạng của họ. Đa số người đời vì không hiểu, nên cứ nghĩ rằng, mọi sự đều do trời định. Nhưng nếu quý vị có lòng tin và nghị lực, thì trong một niệm là có thể từ chỗ phàm phu nhảy vọt lên quả vị Phật. Nếu như tất cả đều là định mạng, có số mạng nhất định, vậy khi chưa học Phật chúng ta có thể bói quẻ trước để xem mình có cơ hội thành Phật hay không? Số mạng gặp thiện và ác thì không phải là cố định. Nếu quý vị là người đại thiện hoặc là người đại ác, như quý vị đã làm những chuyện vượt qua khỏi phạm vi của người thường, thì vận mạng của quý vị cũng không giống với người thường. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 211)
+ Nghiệp Quả Và các Thức trong Con Người: Con thường nghe nói rằng: tất cả những hành động của chúng ta đều sẽ trở thành chủng tử trong thức thứ tám. Con không biết giữa thức thứ tám này và bảy thức trước có mối quan hệ ra sao?
Đáp: Bảy thức trước là cùng làm việc với nhau trong thân thể chúng ta. Bảy thức đó đều chịu sự chi phối của thức thứ tám. Nếu phân tách ra thì bảy thức đó cũng không có trách nhiệm gì mà lãnh trách nhiệm lại là thức thứ tám. Nhưng đến lúc cuối cùng, khi thức thứ tám không thể điều khiển được bảy thức trước thì con người sẽ chết. Lúc chết, thức thứ tám rời khỏi thân thể sau hết, nhưng lúc nhập thai thì nó lại đến trước tiên. Cho nên nói: “Đi sau tới trước làm chủ ông”. Thức thứ tám là chủ nhân ông, nếu y không tới thì bảy thức kia cũng không có tác dụng gì. Bảy thức đều do thức thứ tám mà có, nếu nó bị hư hoại thì bảy thức kia cũng bị hoại luôn. Giống như bộ phận tống dầu trong đầu máy xe mà bị hư thì các bộ phận còn lại đều không có tác dụng gì cả! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 346)
+ Nhân Quả Nghiệp Báo - Ðức Phật dạy:
Có ba nhân căn để sự phát sanh mọi hành động (nghiệp): Tham, sân và si. Một hành động được làm bằng tâm tham, sân và si sẽ chín muồi bất cứ ở cảnh giới nào người ấy tái sanh vào; và bất cứ ở đâu hành động đó chín muồi, ở đó người ấy gặt quả (vipāka) của hành động đó, ở với nó trong đời nầy, trong đời sau và trong những vị lai.(TĂNG CHI BỘ KINH_đoạn 38)
Xem:Nguồn gốc số mệnh - cải mệnh
Xem:Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
Xem: Tổng hợp về xem Chiêm Tinh
Xem:Nhân Quả tổng hợp
+ Thay Đổi Số Mệnh: Người không thể thay đổi vận mạng là Phàm Phu, Người thay đổi được vận mạng thì là người có trí tuệ (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Quân Tử Biết Cách Tạo Vận Mạng
Sách Trung Dung có nói rằng:
"Vui, giận, buồn, sướng khi chưa sinh thì gọi là Trung;
Khi phát ra rồi mà giữ ở mức trung thì gọi là Hòa".
Nếu hiểu đạo lý này thì bất luận làm gì mình cũng không thái quá, cũng không mê muội, không điên đảo. Cần phải biết rõ ràng đen là đen, trắng là trắng, thiện là thiện, ác là ác, phân chiết minh liễu thì mới không lẫn lộn thiện với ác. Những điều mà chúng ta gặp trong kiếp này đều là do nghiệp lực kiếp trước tạo thành. Hiện tại muốn cải biến vận mệnh của mình thì cần phải tạo nhiều công đức. Có câu rằng:
"Người quân tử biết cách tạo vận mạng.
Mạng do ta làm, Phước tự ta cầu.
Họa, phước không có cửa,
Chỉ do ta chuốc lấy."
Người học Phật nhất định phải nhận thức rõ ràng định luật nhân quả báo ứng; không thể tùy tiện tạo ác nghiệp, trồng ác nhân, cũng không được làm sai đạo lý nhân quả. Vì thế phải mười phần cẩn thận, nếu chờ đến lúc thọ quả báo thì hối hận đã muộn rồi! (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Cải mệnh: Tức là tu hành - Tu sửa Tâm tính - Làm lành lánh giữ theo Đạo của Người quân từ - Tức Pháp thế gian. Cao hơn và nhiệm mầu nữa là tu theo Pháp Xuất thế gian như Đức Phật dạy để được giầu có, an lành, hạnh phúc, thọ cao ... đến giải thoát luân hồi sinh tử. Du theo Pháp nào thì cũng nhằm mục đích không chấp nhận sự an bài của số phận. SỐ MỆNH CÓ THỂ THAY ĐỔI qua Tu hành chánh đạo - Tu theo Thành hiền đã dạy.
+ Cải mệnh: Các Phương pháp - Con đường tu hành để cải mệnh mạnh mẽ: Xem tại đây
A- CẢI MỆNH THEO PHÁP THẾ GIAN
+ Với Thế gian Pháp - Phật nói người thông thường đều là bị số mạng trói buộc. Còn Phật Pháp, kể cả Nho, Đạo hay tôn giáo khác đều có thể cải tạo vận mạng của chúng ta (Nguồn)
I- CẢI MỆNH THEO KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC/ DỊCH HỌC ĐÔNG TÂY KIM CỔ
+ Không cải mệnh - Khác gì chấp nhận Định mệnh an bài: Số mệnh hoàn toàn có thể thay đổi được. Ngày xưa Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư:" Phật giáo là gì?". Thiền sư đáp rằng: "Là không làm các điều ác, siêng làm các điều lành". Bạch Cư Dị nói: Điều này ai mà không biết. Thiền sư nói: Đứa bé 3 tuổi có thể hiểu được, nhưng ông già 80 chưa chắc đã làm được. Đây chính là cái khó? (Xem sách: Liễu Phàm Tứ Huấn)
+ Tuân theo Luật sinh tồn và Luật tự nhiên: Các quy luật cuộc sống và Dưỡng sinh Cải Mệnh mạnh mẽ (Lời dậy của Danh Y - Cẩm nang sống-NTH);
+ Thực Hành Tốt đời đẹp đạo: Quan hệ đời sông nhân sinh rất quan trọng với việc cải mệnh - Khổng Tử dạy: Xem Quan hệ gia đình -xã hội_NTH
+ Cải Mệnh qua Thể dục thể thao - Hatha Yoga
+ Các phương pháp Tham thiền thông dụng (TH Tham thiền_NTH);
Và nhiều phương pháp khác
II. DỰA VÀO LÁ SỐ SINH MỆNH: Theo Lá số sinh như Lá số Tứ trụ/ Tử vi/ Chiêm tinh: Cải mệnh = kiềm chế năng lượng vũ trụ và nghiệp quả quá lá số sinh. Trước tiên, con người học cách kiềm chế các phản ứng của mình đối với các hành tinh khi chúng chi phối và điều khiển các sự việc thuộc phàm ngã của y từ các “trạm” khác nhau của chúng trong 12 cung (houses) của lá số tử vi của con người, có 2 cách:
1- Lập lá số Chiêm tinh/ Tử vi giải đoán đúng và kế đó chọn các giai đoạn để xác định những gì cần làm để vô hiệu hóa các ảnh hưởng của hành tinh ở nơi nào xét thấy thích hợp để kiềm chế các phản ứng của phàm ngã. Điều này phải được làm bằng cách áp dụng sức mạnh của tư tưởng. Việc này đòi hỏi sự tin tưởng hoàn toàn vào việc tìm hiểu và lý giải của các nhà chiêm tinh học và việc biết thật đúng lúc sinh ra.
2- Bằng cách đảm nhiệm sáng suốt lập trường của Nhà Quan Sát tâm linh, và bằng cách vun trồng năng lực đáp ứng với Linh Hồn. Kế đó, từ quan điểm của Linh Hồn đó, con người phải học cách kiểm soát hoàn cảnh và các phản ứng kèm theo của phàm ngã.(Chiêm THNM, tr 24-26)
- Theo Phong thủy: Âm Dương trạch và Vật phẩm phong thủy: Cải Mệnh theo Phong thủy
B- CẢI MỆNH THEO PHẬT GIÁO - PHÁP XUẤT THẾ GIAN
+ Cải mệnh - Thay đổi vận mệnh: Trong đời của mỗi một con người chúng ta, việc đáng quan tâm nhất, hẳn là chính mình; mà trong vấn đề chính mình, quan trọng hơn cả chính là vận mệnh, số phận hay số kiếp. Về cách nhìn vận mệnh, có người cảm thấy rằng bất cứ việc gì của mình cũng không bằng người ta, vận mệnh lận đận éo le, liền giận trời trách người; có người thì tin rằng tất cả họa phước giàu nghèo đều là do sự sắp đặt của số phận, vì vậy khi gặp phải những khó khăn thì chỉ biết cam chịu số phận; có người thì lại bằng lòng với số phận, vì thế họ không còn lo sợ gì cả, đối với những khó khăn khốn đốn trong cuộc sống, thì lại an bần thủ tiết. ..... nhất ngôn nhất hành của đời này, lại là quyết định vận mệnh vị lai của mình. Cho nên, vận mệnh của chúng ta tùy theo nghiệp lực thay đổi trong từng phút giây, đồng thời không bị quản chế bởi một chủ tể đặc định nào, thống trị, chi phối vận mệnh của con người vẫn là chính mình ... => Chính mình tu hành tinh tấn đúng Như Pháp thọ trì thì vận mệnh chắc chắn thay đổi, vì nghiệp xấu ác thì được hóa giải, tiêu trừ, công đức phước đức ngày càng tích đầy. (Nguồn: Đại Sư Tinh Vân giảng)
+ Tu Hành - Phật dậy: "Tu 1 ngày 1 đêm ở cõi ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả 100 năm. Tại sao vậy? Cõi nước của đức phật đó đều hành thiện tích đức, không có một chút ác. Tu thiện ở ta bà 10 ngày đêm hơn làm lành 1000 năm ở các cõi phật khác. Vì cõi nước phật, không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là khổ độc chưa từng ngừng nghỉ" (Kinh Vô Lượng Thọ phẩm 37)
+ Cải mệnh = Tu hành: Ðức Phật dạy, ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải do lỗi nơi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi nơi người chỉ đường. Bạn Tu hành đúng Như lý - Như Pháp thì bạn sẽ nhận được sự cảm ứng nhiệm mầu. (Xem tại đây và Tại đây và theo Phật dậy_NTH)
+ Tu Cải mệnh toàn diện: Nếu các tỳ-kheo đoạn trừ tham nhiễm, tâm liền được giải thoát. Đoạn trừ vô minh, huệ liền được giải thoát. Trừ tham nhiễm ô gọi là "Thân tác chứng", được mạnh khỏe, trường thọ, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng cần phải uống thuốc, cũng chẳng phải tẩm bổ. Những thứ thuốc bổ, đồ bổ đó đều kèm theo nhiễm ô và tật bệnh. Chỉ có mỗi “thanh tịnh tâm” có dinh dưỡng cao nhất, có hiệu quả nhất. A Di Đà Phật là đồ bổ tốt nhất. Do vậy quí vị nên tu pháp Thanh tịnh tâm như lời Phật dậy. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Thành Sự Cát Hung: Để thành sự Cát Hung cần hội đủ Nhân Duyên. Nhà Phật nói, điểm mấu chốt của quả báo chuyển biến là do duyên. Nếu như không có duyên, tuy có nhân ác nhưng quả ác sẽ không hiện tiền. “Nhân”, chúng ta không có cách gì điều khiển được, nhưng “duyên” thì chúng ta có thể điều khiển. Chúng ta tu tất cả duyên thiện, đoạn tất cả duyên ác, thì sự tổn hại của oán tặc sẽ xa lìa. Cho dù gặp phải một số tổn hại nhỏ cũng không đến nỗi trở ngại việc lớn. Cho nên, kiết hung họa phước là ở trong tâm chúng ta mà chuyển. Điều quan trọng là nhất định không được sát sanh, dứt khoát không được phép làm tổn hại việc của người. (PS Tịnh Khôn - Kinh TTNĐ, Tập 41)
+ Thay đổi tâm niệm - Sửa đổi tâm niệm - Thay đổi tư tưởng cực kỳ quan trọng => Số mệnh thay đổi:
.... Trong Tu tập bằng cách thắp hương niệm Phật trước khi có chuyện gì xảy ra là một phương pháp tạo sự thay đổi. Hoạ và phước chỉ nằm trong một niệm. Lão Tử nói:
“Khi nghĩ đến điều thiện, điều thiện ấy sẽ ảnh hưởng đến những việc chưa xảy ra và đem đến sự tốt lành.
Khi nghĩ đến điều ác, điều ác ấy sẽ ảnh hưởng đến những việc chưa xảy ra và đem đến sự rắc rối.”
...Điềm báo xấu - Nó không dứt khóat cố định.
..... Yuan Hsiao Hai hỏi: “Người ta có thể thóat khỏi số mệnh không? Đừng để cho định mệnh trói buộc được chăng?”
Thiền sư Yuan Ku đáp: “Anh là người có học. Anh không nghe Kinh Dịch nói: “Phát khởi điều tốt lành và tránh việc ác” đó sao?
Sau đó Yuan Hsiao Hai đổi tên mình là Dương Liễu Phàm, “không còn làm kẻ phàm phu nữa”. Ta không phải là kẻ phàm phu nữa. Ta không còn là phàm phu nữa. Sau đó lời tiên đoán của Lão K’ung không còn đúng nữa. Lão ta nói rằng Yuan Hsiao Hai sẽ chết vào ngày 14 tháng 8, lúc 54 tuổi, nhưng đến đó anh ta không chết. Tử vi nói rằng anh ta không có con, nhưng anh ta lại có hai người con. Anh ta sống đến 80 tuổi. Nên số mệnh của con người không phải là nhất định. Làm việc thiện là tất cả những gì quý vị cần phải thực hành, vì ngay khi thay đổi tâm niệm thì mọi thứ đều thay đổi. Tại sao có việc không lành? Vì có tâm niệm không lành của quý vị trong đó. Đó là lý do tại sao quý vị gặp việc chẳng lành. Điều này chứng tỏ rằng vọng kiến làm sinh khởi các nhân duyên hư dối. Nếu quý vị có chánh kiến, thì nhân duyên hư dối kia sẽ biến mất. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ CẢI MỆNH = TRÌ CHÚ NHIỆM MẦU: Không gì bằng tu sửa tâm tính như lý như pháp, kèm theo thọ trì đọc tụng Kinh Phật, các Thần chú, đặc biệt là thần chú phật giáo để có sự nhiệm mầu, không gì không chữa lành và còn diệt vô lượng tội, được vô lượng phước đức, tái sinh cõi lành, thọ ngàn vạn tuổi. (Mời xem cải mệnh bằng trì chú nhiệm mầu)
Xem: Nguồn gốc số mệnh - cải mệnh
Xem: Cải mệnh để khỏe và giầu sang
Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
A- KIẾN THỨC CHUNG
+ Nghiệp và Thời gian là hai từ có nhiều đồng nghĩa (Chân Sư DK).
+ Lá số sinh lập theo thời gian là cơ sở để dự đoán số mệnh bằng các phương pháp khác nhau. Nếu người thầy có đủ Tâm và tầm thì dù dự đoán bằng phương pháp nào, thường đều cho kết quả như nhau, không mấy khác biệt. Người dự đoán chẳng qua là tìm thời điểm mà "Nghiệp" hay Năng lượng vũ trụ tương tác tại các thời điểm khác nhau, gây ra các kết quả khác nhau, mà người nào mà trong mệnh vận có cùng năng lượng, thì chịu tác động và gây ra các kết quả khác nhau.
+ Phân nhóm/ Loại người: Theo trình độ tiến hóa gồm Người kém phát triển/ Trung bình/ Trên trung bình - Trí nguyện/ Người tiến hóa/ Thánh nhân..(Nguồn)
+ Xem số qua sự phát triển của Tâm thức: 3 trình độ: Phàm ngã/ Linh Hồn/ Tinh Thần. Ảnh hưởng của cung hoàng đạo và hành tinh ở 3 cấp độ này - Ba Cung tối quan trọng: Mặt Trăng - Mặt Trời - Cung Mọc để ước định công việc sẽ được thực hiện trong tâm thức mỗi kiếp sống.
- Với Tâm thức: Năng lượng dẫn truyền qua các Cung Hoàng và Hành tinh và chức năng tiến hóa Tâm Thức của các Cung Hoàng Đạo với Người thường/ Chí nguyện (Đệ Tử) / Điểm Đạo Đồ, với sự chỉ dẫn của các Kỳ Công, ta có thể dự đoán.... + Các Cung Hoàng Đạo biểu hiện 3 Cấp Độ Tâm Thức (Chiêm THNM, 332)
+ Chín loại năng lượng vũ trụ, các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người; (Chiêm THNM, tr 24-26).
+ Biết vận mệnh: Nhờ môn chiêm tinh học, y có thể tìm ra vận mệnh của mình và biết những gì y nên làm. (CTHNM, 11)
+ Số phận và Định mệnh: Các ảnh hưởng của Hành tinh cho thấy, với người bình thường và kém tiến hóa, khi lý giải đúng, các ảnh hưởng đó có thể và chắc chắn báo hiệu số phận và định mệnh của phàm ngã (CTHNM, 24)
+ Các nội dung chính về xem số mệnh: - Đoán về bản thân: Xuất thân - Tướng mạo - Sức khỏe - Bệnh nạn - Đạo đức - Trí tuệ và sự tiến hóa của Tâm thức - Tiền tài, danh vọng, chức vụ .... - Đoán về gia đình: Dự đoán tham khảo về vinh nhục của dòng tốc, Sức khỏe hay nghề nghiệp, bệnh nạn hay thọ yểu của bố mẹ...... - Đoán về quan hệ gia đình và xã hội: Khả năng khôn khéo trong giao tiếp, ứng sử trong gia đình và ngoài xã hội, bàn bè thân hữu, làm việc tập thể ....
- Xem số mệnh để Cải mệnh làm cuộc sống tốt đẹp hơn: Có nhiều phương pháp để cải mệnh. Nhưng mạnh mẽ và hữu hiệu và nhiệm mầu nhất là bạn nên Tu hành theo Phật dậy. Thường thực hành Thập thiện nghiệp đạo, thực hành bố thí phóng sinh để có sức khỏe, không bệnh và sống thọ. Bố thí Pháp (Kinh Phật) và chi tiền tài để tạc tượng, đúc chuông để có trí tuệ và được làm vương giả; Bố thí tiền tài và thực phẩm, đồ ăn, thức uống, đồ dùng ... cho tăng ni phật tử và các chúng sinh để được giầu sang phú quý muôn đời.....
+ Biết trước thời điểm chết: Google đã phát triển được thuật toán trí tuệ nhân tạo (AI) có thể dự đoán chính xác tới 95% khi nào bạn sẽ chết. Họ sử dụng dữ liệu của bệnh viện để dự đoán cho bệnh nhân (Xem trên ở Google)
B- CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰ ĐOÁN SỐ MỆNH QUA LÁ SỐ SINH
+ Dự đoán về Tâm Tính/ Đức Tính thiện lành theo Phật giáo:
- Căn cứ vào Tooltip "Lợi ích của người tu tập theo Thập thiện", và
- Căn cứ vào Bát tránh đạo để đánh giá người có các đức tính thiện lành, và
- Căn cứ Tooltip "người đại thiện" theo Đức Phật dậy
=> Làm căn cứ dự đoán số mệnh (Nguồn: Kinh thập thiện)
- Căn cứ vào Tooltip "Sửa tâm tính hay Tính cách hay Nhân cách" để dự đoán hay giúp người sửa tính cách
+ Cắn Cứ Ngũ hành Âm Dương và Mười Thần trong Dự đoán Tứ trụ để suy đoán
+ căn cứ vào các Cung Mặt Trăng, Mặt Trời, Cung Mọc và các hành tinh trong Lá số Chiêm tinh để dự đoán tính cách
+ Ba loại Lá số sinh cho 3 nhóm người:
(1)- Thuần về vật chất bàn đến thể xác và Dĩ thái;
(2)- Chủ yếu về tình cảm, bàn đến tính chất của phàm-ngã và tính nhạy cảm của nó, hoặc trạng thái của ý thức;
(3)- Sẽ là biểu đồ về các xung lực và các tình trạng trí tuệ. - Nghiên cứu 3 biểu đồ này rất hữu ích, khi xếp chồng lên nhau sẽ cung cấp sơ đồ phàm-ngã, mô hình sự sống cá nhân (Chân Sư DK_CTHNM 7)
+ Là lá số vào thời điểm một người sinh ra: Nó bao gồm vị trí của các hành tinh của hệ mặt trời, mặt trời, Mặt trăng, các dấu hiệu của vòng hoàng đạo trên bầu trời. Người ta còn đưa vào lá số sinh các ngôi sao cố định, các tiểu hành tinh của hệ mặt trời như Chiron… Trên là số sinh, vòng tròn ngoài cùng chứa các cung hay dấu hiệu Hoàng Đạo, vòng tròn giữa là các nhà và các hành tinh được vẽ trong đó. Vị trí của các hành tinh (gồm cả mặt trời và Mặt trăng) được xác định so với dấu hiệu hoàng đạo.Xem mục Lá số sinh
+ Lá số Chiêm tinh/ Tử vi: Là hình ảnh của bầu trời (Các Hành Tinh, Ngôi sao) nhìn từ Trái đất, mặt hướng về Phương Nam (CTHNM1).
I- XEM QUA LÁ SỐ TỨ TRỤ (Phương pháp xem theo Công truyền/ Ngoại môn)
Lá số Tứ trụ lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì theo tiết khí - Theo Mặt trời
II- XEM QUA LÁ SỐ TỬ VI (Phương pháp xem theo Công truyền/ Ngoại môn)
Lá số Tứ trụ lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì theo theo Mặt trăng là chủ yếu.
III- XEM CHIÊM TINH QUA LÁ SỐ SINH:
+ Xem Nội môn hay Ngoại môn đề dùng chung 01 Lá số chiêm tinh, nhưng cách giải thích khác nhau (Nguồn)
+ Xem chiêm tinh có hai cách: (i) - Theo Công truyền/ Ngoại môn; (ii) Theo Bí truyền hay Nội môn. Cụ thể:
IV- CÁC PHƯƠNG THỨC XEM KHÁC: Còn nhiều cách xem số mệnh khác
V- TƯ VẤN CẢI MỆNH THEO SỐ MỆNH: Đây là giải pháp toàn diện, lâu dài cho kiếp sống hiện tại và cả vị lai nữa.
* Chúng tôi có dịch vụ XEM THIÊN CƠ có phí bắt buộc hoặc phí tự nguyện hoặc miễn phí tùy việc và tùy thời gian. Bạn có thể vào trang hướng dẫn Xem tại đây để cân nhắc chọn lựa sử dụng các dịch vụ của chúng tôi.
Xem : Tổng hợp về xem Chiêm Tinh
Xem: Nguồn gốc số mệnh - cải mệnh
Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
Xem: TH về Đức tính, kiểu người, sự nghiệp 7 Cung
Xem: Các Động lực của Linh hồn - Phàm ngã
Xem: TH Con người - Cấu tạo - Đường tiến hóa
Xem: Tổng hợp về xem Chiêm tinh học
+ Sách Liễu Phàm Tứ: Cuốn sách tuyệt vời viết về ngài Liễu Phàm Tứ Huấn đã tu đúng chánh pháp để Cải Mệnh mạnh mẽ toàn diện nhiệm mầu, từ mệnh không có con thành có 2 con, từ mệnh không thọ thành mệnh sống đại ...
+ Giảng về Liễu Phàm Tứ Huấn Cải Mệnh
Tôi nhớ đến Yuan Lao Fan, thường gọi là Yuan Hsiao Hai, làm quan trong triều Minh. Sau khi anh ta học xong, người cha bảo anh nên học ngành y, vì làm thầy thuốc có thể cứu người và dễ kiếm sống. Sau khi anh học thuốc xong, anh ta gặp một lão già có bộ râu dài tên K’ung, rất giỏi xem tướng và bói toán. Khi lão già K’ung thấy Yuan Hsiao Hai, lão nói: “Anh nên đi học. Anh sẽ làm quan.”
Yuan Hsiao Hai nói: “Nhưng cha mẹ tôi và toàn gia đình đều mong muốn tôi thành thầy thuốc.”
Lão K’ung đáp: “Đừng học thuốc. Anh nên đi học chữ. Vào chừng ấy năm, anh sẽ đỗ được học vị như vậy như vậy trong kỳ thi Đình, và trong chừng ấy năm anh sẽ trở thành một vị quan lớn. Rồi vào năm đó năm đó, ngày đó tháng đó, anh sẽ trở thành quan án sát, anh sẽ trở nên rất có danh vọng. Khi anh 45 tuổi, vào ngày 14 tháng 8, lúc nửa khuya, vợ anh sẽ qua đời. Anh không có con nối dõi.” Lão già K’ung không những định được ngày tháng cho những sự kiện lúc sinh thời mà còn biết được cả ngày chết của anh ta.
Sau khi gặp lão K’ung, Yuan Hsiao Hai đi học. Chuyện xảy ra chính xác một cách khó tin. Học vị mà anh ta đỗ được trong kỳ thi Đình đúng y như Lão già K’ung đã tiên đoán. Quẻ bói chính xác không sót một mảy may nào. Thực vậy, nó quá chắc chắn đến nỗi Yuan Hsiao Hai không cần đọc sách nữa. Anh ta làm gì? Anh ta đợi. Anh ta ngồi và đợi người ta đưa thức ăn tới. Có câu ngạn ngữ nổi tiếng ở Trung Hoa: “Ngồi chờ sung rụng”, như vậy nghĩa là không làm gì cả, chỉ trông mong vào sự sắp đặt của tự nhiên, chỉ mong số mệnh hiển bày. Đó thật là sai lầm. Yuan Hsiao Hai đã làm như vậy. Anh ta không làm gì cả. Ngay cả chẳng đọc sách. Anh ta nghĩ rằng, bất luận số phận diễn ra như thế nào, chắc chắn ta sẽ không thể nào thi hỏng được. Ta không cần phải học gì cả. Ta chẳng phải mong cầu gì cả. Chắc chắn ta sẽ đạt được mục đích.
Thế nên anh dạo chơi khắp nơi, vui thú thưởng ngoạn sơn thuỷ. Anh ta rong chơi dài ngày và chẳng học hành gì cả. Cuối cùng, cuộc lãng du đưa anh đến núi Ch’i Sha ở Nan Ching, nơi anh nghe có Thiền sư Yuan Ku đang trụ ở đó. Nên anh ta mong đến đó để được gặp. Thiền sư Yuan Ku trao cho anh ta cái bồ đoàn và cả hai cùng ngồi thiền. Cả hai ngồi đối diện nhau bất động suốt 3 ngày. Thiền sư Yuan Ku rất ngạc nhiên.
“Ồ!” –Thiền sư Yuan Ku nói – “Ông thật là bậc pháp khí, có khả năng nhập đạo. Ông đã ngồi thiền suốt ba ngày mà không nhúc nhích hoặc thay đổi tư thế.”
Yuan Hsiao Hai đáp lại: “Tôi biết mọi việc đều do nhân duyên tiền định. Thế nên tôi không mong cầu gì cả. Đó là nguyên nhân khiến tôi không có chút vọng tưởng nào khi ngồi ở đây, thế nên tôi chẳng thấy đau chân chút nào cả.”
Chân nhức mỏi do đâu? Do vọng tưởng, có nghĩa là vọng kiến mà kinh nầy đang nói đến. Vì vọng kiến, nên chân đau. Nếu quý vị không có chút vọng kiến nào, thì chân chẳng đau. Yuan Hsiao Hai nói thế do vì anh ta không có chút tham muốn mong cầu nào, anh ta không có chút vọng tưởng nào, thế nên khi ngồi, anh ta không cần thiết phải cử động.
Thiền sư Yuan Ku nói: “Tôi nghĩ rằng anh là người kỳ đặc. Nhưng như điều anh vừa cho biết, thì anh chỉ là kẻ phàm phu.”
Điều ấy làm cho Yuan Hsiao Hai nổi nóng: “Sao ông nói tôi là phàm phu?” Mọi người ai cũng muốn lên tận đỉnh cao nhất, Yuan Hsiao Hai cũng chẳng muốn rơi xuống hàng thứ hai. Ngay khi nghe mình bị gọi là phàm phu, anh ta liền phẫn nộ.
Thiền sư Yuan Ku nói: “Nếu ông chẳng phải là phàm phu, thì ông đã không bị trói buộc vào số mệnh sẽ xảy ra trong vài chục năm tới. Ông đã bị dính chặt vào định mệnh và chẳng có cách nào thóat ra được cả.”
..... Yuan Hsiao Hai hỏi: “Người ta có thể thóat khỏi số mệnh không? Đừng để cho định mệnh trói buộc được chăng?”
Thiền sư Yuan Ku đáp: “Anh là người có học. Anh không nghe Kinh Dịch nói: “Phát khởi điều tốt lành và tránh việc ác” đó sao?
Sau đó Yuan Hsiao Hai đổi tên mình là Dương Liễu Phàm, “không còn làm kẻ phàm phu nữa”. Ta không phải là kẻ phàm phu nữa. Ta không còn là phàm phu nữa. Sau đó lời tiên đoán của Lão K’ung không còn đúng nữa. Lão ta nói rằng Yuan Hsiao Hai sẽ chết vào ngày 14 tháng 8, lúc 54 tuổi, nhưng đến đó anh ta không chết. Tử vi nói rằng anh ta không có con, nhưng anh ta lại có hai người con. Anh ta sống đến 80 tuổi. Nên số mệnh của con người không phải là nhất định. Làm việc thiện là tất cả những gì quý vị cần phải thực hành, vì ngay khi thay đổi tâm niệm thì mọi thứ đều thay đổi. Tại sao có việc không lành? Vì có tâm niệm không lành của quý vị trong đó. Đó là lý do tại sao quý vị gặp việc chẳng lành. Điều này chứng tỏ rằng vọng kiến làm sinh khởi các nhân duyên hư dối. Nếu quý vị có chánh kiến, thì nhân duyên hư dối kia sẽ biến mất. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Ba Thập Giá ( 3 Thể Thức; 3 Phẩm tính; 3 Tam nguyên; 3 Phương Thức): Dựa trên bộ ba ý chí, ham muốn và hoạt động (ý chí hoặc động lực, mong muốn hoặc ham muốn, hoạt động hoặc khả năng thích ứng); Xem:Chiêm THNM - Thể Thức, Phẩm tính
+ Ba Thập Giá: Khả Biến/ Chung/ Khả chuyển - Cố Định - Cơ Bản/ Chủ yếu/ Chính yếu/ Cốt lõi (Xem: GQ2.1 - Giới thiệu chiêm tinh)
+ Ba Phương Thức: Mô tả cách thức chúng ta hoạt động, phẩm chất vật lý của các Cung. – Chúng thiết lập các trục và thập giá (chữ thập) trong lá số – – Các vấn đề được thực thi qua góc hợp đối nghịch và vuông góc (góc hợp cứng) – – Tất cả chúng ta đều có 12 cung, một số cung được nhấn mạnh hơn các cung khác
1. Các Cung Khả biến có tính thích nghi, linh hoạt, và phục vụ (Song Tử, Xử Nữ, Nhân Mã và Song Ngư) – Nhưng cũng có thể quá bất nhất – Về mặt nội môn chúng giúp phát triển sự sống sắc tướng thông qua kinh nghiệm
2. Các Cung Cố định có tính vững vàng, bướng bỉnh, và quyết (Kim Ngưu, Sư Tử, Hổ Cáp và Bảo Bình) – Nhưng cũng có thể quá cứng nhắc – Về mặt bí truyền chúng phát triển linh hồn thông qua khủng hoảng và thử thách
3. Các Cung Chủ yếu/ Chính: Có tính mạnh mẽ, khởi xướng, và quan trọng (Bạch Dương, Cự Giải, Thiên Bình và Ma Kết) – Nhưng có thể thiếu sự kiên trì – Về mặt bí truyền chúng thể hiện hoạt động có định hướng, được kiểm soát bởi linh hồn
+ Ba Thập Giá của vòng Hoàng đạo phản ánh Tam Nguyên được các tôn giáo công nhận ( Shiva, Vishnu, Brahma), được xem qua các khía cạnh của cuộc sống, diễn dịch thành sinh (ý chí), có, cho, giữ, phát triển (mong muốn), và làm (hoạt động) (Nguồn: Chiêm THNM 17);
+ Ba Thập Giá: Theo Tâm thức phát triển từ thấp đến cao của 12 Cung Hoàng Đạo qua các Kỳ công là: (Khả Biến - Cố Định - Cơ Bản); Xem: GQ2.1-Giới thiệu Chiêm TH);
- Ba Thập giá đều là các dòng năng lượng bắt chéo nhau (CTHNM, 290)
- Mỗi Thấp giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (CTHNM, 380)
- Hành tinh quan trọng ứng thập giá: TG Cố định - Saturn; TG Biến đổi - Mercury TG Cơ bản - Jupiter (CTHNM, 396)
Xem thêm: Tổng hợp về Ba Thập Giá; (Xem nguồn) và CTHNM 4;
Xem thêm: Chiêm THNM 17)
+ Các lợi ích người thọ trì Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
“Năm là y phục, vật thực đầy đủ.” Điều lợi ích thứ năm là không bao giờ bị thiếu thốn về cơm ăn áo mặc. Người đời chỉ vì ba bữa ăn mà làm lụng vất vả, chịu cực chịu khổ. Bởi sợ bị chết đói, chết lạnh, nên lúc nào họ cũng nghĩ đến việc kiếm thêm tiền. Trước kia, lúc chưa có tiền, thì ao ước có được mười ngàn đồng; song đến khi được toại nguyện, có được mười ngàn đồng trong tay rồi thì lại cảm thấy như thế vẫn còn chưa đủ. Bấy giờ lại nghĩ nếu mình có được một trăm ngàn đồng thì sẽ chẳng phải làm lụng gì nữa. Thế rồi, đến khi có được một trăm ngàn đồng, nghĩ tới học phí của con cái thì thấy không đủ, muốn sắm chiếc xe hơi thì thấy chẳng còn được bao nhiêu, mà tính tậu chiếc du thuyền thì lại thiếu trước hụt sau. Càng mơ ước những thứ to lớn hơn, như muốn mua chiếc máy bay chẳng hạn, thì một trăm ngàn đồng cũng chẳng thấm vào đâu! Và thế là lại phải lo kiếm tiền! Kiếm tiền! Phải kiếm cho được một triệu đồng. Đến khi có được một triệu đồng trong tay, những tưởng là phen này có thể làm chủ một chiếc máy bay, thì máy bay lại lên giá!
Ban đầu thì chỉ cần chín trăm chín chục ngàn là có thể mua được một chiếc máy bay, bây giờ giá cả leo thang, tăng vọt lên đắt gấp mười lần, tới chín triệu chín trăm ngàn một chiếc, lại mua không nổi nữa! Cho nên, cứ chạy theo không kịp, càng đeo đuổi thì lại càng cách xa. Đó đều là do lòng tham tác oai tác quái! Trước kia thì chỉ ao ước có được một triệu đồng là thấy đủ rồi, nhất định sẽ về hưu; song đến khi có được một triệu rồi thì lại “lùi mà chưa dứt”—vẫn chưa “tri túc,” vẫn không thấy đủ!
Vậy, điều lợi ích thứ năm là nếu quý vị có thể trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, tụng Kinh Địa Tạng, lễ bái cúng dường Bồ Tát Địa Tạng, thì quý vị sẽ được y phục, vật thực dồi dào, luôn luôn dư dả. Bấy giờ, quý vị chỉ muốn mua một chiếc máy bay, song tiền kiếm được lại nhiều đến nỗi mua hai chiếc cũng còn dư, kỳ diệu như thế đấy!
Có người nói: “Như thế thì tôi cũng mau mau niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng!” Dùng lòng tham lam, muốn mua hai chiếc máy bay để niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, thì e rằng sẽ không linh nghiệm, vì tham vọng quá lớn! Chúng ta chỉ nên hết lòng trì niệm, có được cảm ứng hay không thì cũng chẳng nên so đo, tính toán.
Có người lại nói: “Giảng kinh theo cách của Sư Phụ lại làm cho con bị hố nữa rồi!” Bị hố thì sao? Mà không bị hố thì sao? Cho nên, con người nếu biết đủ thì thường được an vui, biết nhẫn nhục thì luôn được yên ổn (tri túc thường lạc, năng nhẫn tắc an).
“Bảy là xa lìa các tai nạn về nước và lửa.” Quý vị trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thì sẽ không gặp nạn nước, cũng chẳng mắc nạn lửa—vào nước không bị chìm, vào lửa không bị cháy. Thậm chí quý vị có bị té xuống biển, thì tự nhiên sẽ được gặp chỗ cạn, tấp vào bờ bình yên; và nếu bị lửa thiêu đốt thì tự nhiên sẽ có người đến cứu giúp.
“Tám là không bị tai ách trộm cướp.” Tại sao quý vị bị trộm, bị cướp? Đó là do khi trước quý vị đã bất chấp đạo lý, cưỡng đoạt tài sản của người khác làm của riêng mình. Bởi xưa kia đã từng lừa gạt người khác cho nên đời nay phải bị người ta cướp đoạt tài sản, phải trả nợ. Vì thế, chúng ta bị trộm cắp, cướp đoạt đều là có “tiền nhân hậu quả,” chẳng có gì là kỳ lạ cả. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ thì gặp bất cứ cảnh giới nào đều phải nhận ra nhân quả của nó; hễ nhận chân được nhân quả của vấn đề thì sẽ chấm dứt được sự tuần hoàn lẩn quẩn.
“Chín là người khác thấy đều cung kính.” Nếu quý vị thường cung kính niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng, thì những người khác khi gặp quý vị đều cảm thấy có thiện duyên với quý vị và đều tỏ ra kính trọng quý vị. Người ta trông thấy quý vị mà như gặp được người thân đã tám đời nay, có cảm giác thân thiết gần gũi như được về nhà vậy. Cảm giác ấy lại giống như kẻ sống ở hải ngoại đã lâu không có người quen, nay được gặp lại bạn cũ, trong lòng vô cùng hoan hỷ, mừng mừng tủi tủi, vừa khóc vừa cười! Khóc là vì bồi hồi xúc động được gặp lại người thân quen; còn cười ư? Bởi nghĩ rằng phen này quả thật có được sự an ủi, che chở rồi!
Tát cả có 28 lợi ích nhiệm mầu, mời xem tại (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nghe danh hiệu của Địa Tạng, lễ bái hình tượng của Địa Tạng. Lợi ích thọ trì Kinh Địa Tạng - Phật pháp nhiệm mầu.
Lại nữa, này Hư Không Tạng Bồ Tát! Như hàng trời, rồng, quỷ thần ở hiện tại và vị lai, nghe danh hiệu của Địa Tạng, lễ bái hình tượng của Địa Tạng, hoặc nghe các việc về bổn nguyện tu hành của Địa Tạng, mà ngợi khen chiêm lễ, thì sẽ được bảy điều lợi ích.”
“Một là mau vượt thánh địa.” Thế nào gọi là “vượt”? Ví dụ từ địa vị thứ nhất tiến thẳng lên địa vị thứ ba, bỏ qua địa vị thứ nhì ở giữa; từ địa vị thứ ba nhảy vọt lên địa vị thứ năm; hoặc từ địa vị thứ năm tiến luôn đến địa vị thứ tám... –như thế gọi là “vượt,” bỏ quãng mà tiến lên. “Vượt” ngụ ý là tiến rất nhanh, rất mau.
“Hai là ác nghiệp được tiêu trừ.” Mọi người tại sao chưa thành Phật? Đều là vì có ác nghiệp không thanh tịnh. “Ác nghiệp” là nghiệp nhiễm ô, cũng chính là những nghiệp tội không trong sạch mà quý vị đã trót gây ra; và còn gọi là “hắc nghiệp.” “Ác nghiệp” chính là “hắc nghiệp”; “hắc nghiệp” là nghiệp hắc ám, rất đen tối, mờ ám. Phàm người làm việc gì cũng thường hay lén lén lút lút, không muốn cho ai biết đến, nên mới gây ra nghiệp này. Nếu quý vị thành tâm trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng thì ác nghiệp sẽ được tiêu trừ.
“Ba là chư Phật đến ủng hộ.” Điều lợi ích thứ ba là sẽ được chư Phật khắp mười phương giáng lâm đến trước mặt để che chở hộ trì.
“Bốn là Bồ Đề không thối thất.” Tâm Bồ Đề giác đạo của quý vị sẽ càng ngày càng tăng trưởng, càng ngày càng có tiến bộ—chỉ có tiến chứ không có lùi. Tâm Bồ Đề này vừa phát khởi thì quý vị liền hăng hái: “Hôm nay tôi sẽ thọ Ngũ Giới, ngày mai tôi phát nguyện xuất gia; còn ngày mốt ư? Tôi nhất định sẽ làm một vị cao tăng. Ngày kế nữa tôi nhất định sẽ thành vị Tổ Sư. Ngày kế tiếp nữa tôi sẽ hành trì đạo Bồ Tát, và chẳng bao lâu nữa thì tôi sẽ thành Phật!”
Tuy nhiên, điều thiết yếu ở đây là tâm Bồ Đề của quý vị phải không thối chuyển mới được! Quý vị chớ nên hôm nay phát tâm muốn thọ Ngũ Giới, song dùng dằng nghĩ tới nghĩ lui rồi đổi ý: “Thọ giới rồi mà lỡ phạm giới thì thật là xấu hổ. Người ta biết được mình phạm giới thì mất mặt quá! Chi bằng, tốt nhất là mình đừng thọ một giới nào cả!”; và thế là không muốn thọ giới nữa. Nếu lại nghe người ta kháo nhau là đời sống của người xuất gia rất khắc khổ, nên quý vị ngần ngừ, không muốn nghĩ tới chuyện xuất gia nữa; đó cũng là do quý vị chưa có được cái tâm “Bồ Đề không thối thất” vậy
“Năm là bổn lực được tăng trưởng.” “Bổn lực” tức là sức mạnh vốn có của mình, là sức mạnh của bổn lai Phật tánh, là năng lực thành Phật và cơ hội thành Phật vốn có trong mỗi chúng sanh. Thế nhưng, quý vị cứ ngăn che Phật tánh của mình, khiến sanh ra phiền não, vô minh. Bây giờ quý vị phá bỏ được bức màn vô minh rồi thì phiền não cũng đoạn dứt, cho nên bổn lực liền hiện ra và tăng trưởng thêm.
“Sáu là việc đời trước đều rõ biết.” Điều thứ sáu là biết được đời trước mình đã làm gì, đời trước nữa mình ra sao ... Nói chung là quý vị có thể truy cứu và biết rõ được mọi việc xảy ra trong nhiều đời nhiều kiếp, thậm chí đến tám vạn đại kiếp về trước. Những thánh nhân đã chứng quả A-la-hán tuy biết được việc đời trước, nhưng ngoài phạm vi tám vạn đại kiếp thì các ngài không thể biết được. Ở đây, biết rõ được việc đời trước tức là đắc Túc Mạng Thông rồi.
Thí dụ, quý vị có thể biết được rằng: “Tôi đã từng có một đời sanh làm thân kiến! Lúc ấy thì thân thể vô cùng nhỏ bé, đến bây giờ làm thân người thì biến thành to lớn dềnh dàng như thế này. Có lẽ là tôi từ thân kiến biến thành con ong mật, từ ong mật biến thành bươm bướm, từ con bướm biến thành con chim nhỏ, từ con chim nhỏ lại biến thành con chim ưng lớn. Rồi nhờ lúc mang thân chim ưng lớn tôi lại ăn chay chứ không ăn thịt, do đó tu tạo được phước báo, có được cái nhân thành Phật nên nay được làm người—làm người thì trong tương lai sẽ được thành Phật.”
Người đã chứng đắc Túc Mạng Thông thì nếu mình từng làm thân kiến, hoặc làm loài trùng nào, loài cầm thú nào... cũng đều rõ biết được cả. Cho nên, đằng sau cái xác thân hiện tại này, còn có sự biến hóa vô cùng của rất nhiều thân thể.
“Bảy là rốt ráo thành Phật.” Sớm muộn gì rồi quý vị cũng đều được thành Phật cả. Điều này cũng tương tự như điều lợi ích thứ hai mươi tám đã nói ở trước. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chuyển kiếp tái sanh cần nhân duyên đặc biệt:
"Cho nên, Phổ Quảng, khinh chê sự cúng dường của người khác mà còn mắc phải tội báo như thế, huống là tự sanh ác kiến hủy diệt!"
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: "Cho nên, Phổ Quảng, khinh chê sự cúng dường của người khác mà còn mắc phải tội báo như thế..." Khinh chê và hủy báng những người cúng dường Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thì phải nhận lãnh những ác báo nào? Ðó là quả báo phải trải qua một ngàn kiếp đày đọa ở chốn địa ngục, một ngàn kiếp trôi nổi trong đường ngạ quỷ, một ngàn kiếp luẩn quẩn trong chốn súc sanh, rồi sau đó mới được đầu thai làm người mà lại là người bần cùng hạ tiện và các căn không toàn vẹn.
Có người thắc mắc: "Có nhất định là phải trải qua đủ số mấy ngàn kiếp như thế rồi mới được làm người không?" Chính thế! Nhất định là như thế! Ðây là luật pháp của địa ngục do chính Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên nói. Tuy nhiên, trong đó vẫn có sự ngoại lệ đối với những nhân duyên đặc biệt, cho nên có khi lại không nhất định là phải như thế. Nhân duyên đặc biệt như thế nào?
Ví dụ có kẻ đáng lẽ phải làm ngạ quỷ suốt một ngàn kiếp, song trong lúc đang mang thân ngạ quỷ thì kẻ ấy phát tâm từ bi, tự nguyện trợ giúp những người đang tu Ðạo, hoặc thấy người khác lạy Phật, lạy Bồ Tát thì kẻ ấy cũng tùy hỷ phát tâm lễ bái theo và hoan hỷ bảo vệ người tu Ðạo; như vậy là trong thời gian thọ tội, kẻ ấy đã lập được công đức thiện lành, nhờ đó kẻ ấy có thể không cần phải đợi hết một ngàn kiếp mới được đi đầu thai làm súc sanh hoặc làm người. Hoặc là có người trong lúc đang mang thân súc sanh thì được may mắn sống gần gũi với những người tin Phật, như được nuôi trong chùa hoặc trong nhà của các cư sĩ Phật tử, ngày ngày được huân tập huân tu cho nên vô hình trung, cũng sanh tín tâm đối với Phật Pháp. Tin Phật rồi thì tội chướng cũng giảm dần, cho nên người ấy không nhất thiết phải mang thân súc sanh đủ một ngàn kiếp như đã định nữa, mà có thể được thác sanh làm người sớm hơn!
Lúc Hư Vân Lão Hòa Thượng ở Vân Nam (Trung Hoa), có một con gà được mang đến thả nuôi trong chùa, và hằng ngày nó thường lẽo đẽo đi theo những người tu hành ở đó. Khi chư Tăng lên chánh điện niệm Phật thì nó cũng đi theo, và cùng mọi người nhiễu Phật, niệm Phật. Như thế được ba năm thì có một hôm con gà đó đến đứng trước tượng Phật mà vãng sanh. Ðây là một trong những trường hợp nhân duyên đặc biệt vậy.
Như vậy, nếu có nhân duyên đặc biệt, thì kẻ đang mang thân súc sanh nói trên không cần phải trải qua một ngàn kiếp nữa mới được làm người. Lại nữa, nếu trong lúc thọ thân làm người bần cùng hạ tiện, kẻ ấy biết được rằng sở dĩ đời này mình phải chịu quả báo nghèo hèn thấp kém, các căn không đầy đủ như thế, là do vô lượng kiếp về trước mình đã từng hủy báng Tam Bảo, không nghe Phật Pháp, không cung kính Ðịa Tạng Vương Bồ Tát; nên bèn dũng mãnh tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, ăn chay niệm Phật hoặc chăm chỉ tu Ðạo, thậm chí xuất gia làm Tỳ Kheo, thì kẻ ấy sẽ không phải đọa vào ác đạo lại nữa.
Nói tóm lại, tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên cá biệt của từng chúng sanh. Nếu gặp trường hợp có nhân duyên đặc biệt thì thời gian thọ báo không nhất thiết là phải lâu dài như đã định. Cho nên Phật Pháp rất linh động, uyển chuyển và rất hữu lý. Không phải là đã biết sám hối và sửa đổi rồi, mà sau đó vẫn phải chịu khổ báo lâu dài như thế. Không phải như vậy!
Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện (Kinh Hoa Nghiêm) có nói rằng tội lỗi nghiệp chướng của chúng sanh thì không có hình tướng, chứ nếu có hình tướng cụ thể thì nghiệp tội của mỗi một kẻ trong chúng ta đã choán đầy hết cõi hư không từ lâu rồi. May mà nghiệp chướng không có hình tướng, không nhìn thấy được, không cần chuẩn bị nơi để chứa nó, do đó có nhiều đến bao nhiêu đi nữa thì cũng chẳng hề gì! Nếu quý vị biết ăn năn hối cải thì bao nhiêu tội chướng cũng đều có thể tiêu diệt, vì vậy mới có câu:
“Trước Phật lễ bái, tội diệt vô số.”
(Phật tiền đảnh lễ, tội diệt hà sa.)
Quý vị đối trước Phật mà lễ bái, chân thành sám hối, thì bao nhiêu tội chướng (dù nhiều như cát sông Hằng) cũng đều được tiêu tan, không còn nữa. Có câu:
“Buông xả một đồng, phước tăng vô lượng”
(Xả tiền nhất văn, tăng phúc vô lượng.)
Trước Tam Bảo xả bỏ tiền của, dốc lòng bố thí, có bao nhiêu thì hoan hỷ bố thí bấy nhiêu, thì phước báo của quý vị sẽ vô lượng vô biên; song cần phải dốc hết chân tâm, đem lòng chí thành mà cúng dường mới được. Mọi việc đều không có gì là nhất định cả; bởi Pháp không nhất định nên nghiệp chướng của con người cũng không nhất định.
"Huống là tự sanh ác kiến hủy diệt!" Khinh chê người khác cúng dường mà còn phải bị quả báo đọa lạc trong ba đường ác suốt mấy ngàn kiếp, thế thì nếu chính mình nảy sanh ác kiến hủy diệt Tam Bảo, phá hoại Tam Bảo, tội ấy hẳn càng lớn, càng nặng biết bao nhiêu! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Lợi ích thọ trì Kinh Địa Tạng
- “Mười lăm là có thể làm bậc đế vương.” Điều lợi ích thứ mười lăm là có thể được làm vua hoặc hoàng đế. Người nào đọc tụng Kinh Địa Tạng, lễ bái hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, trì niệm thánh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thì sẽ có cơ hội làm hoàng đế “dự khuyết”—điều lợi ích này quả thật không thể nghĩ bàn!
Có người nói: “Thầy ơi! Cho dù được làm hoàng đế, cao sang đẹp đẽ đến thế nào đi nữa, thì con đều không màng cả! Thế giới Ta Bà này thật là quá nhiều đau khổ; con cảm thấy đã ‘đủ’ lắm rồi!” Quý vị thật sự cảm thấy “đủ” rồi sao? Vậy thì quý vị vẫn có cơ hội được thành Phật, và đó chính là điều lợi ích cuối cùng (điều thứ hai mươi tám)—“rốt ráo thành Phật.”
- “Mười sáu là biết rõ việc đời trước.” “Biết rõ việc đời trước” tức là nhớ biết được những gì mình đã làm trong đời trước—như làm quan, làm học trò, hoặc làm lái buôn... Ngoài ra, cũng biết được trong đời trước mình họ gì, tên gì, sinh quán ở đâu, bao nhiêu tuổi thì chết... Có thể nói bây giờ (đời này) thì giống như quý vị dọn sang một ngôi nhà mới, khác hẳn ngôi nhà khi trước (đời trước).
- “Hai mươi mốt là đi đâu cũng tới nơi cả.” Điều lợi ích thứ hai mươi mốt là quý vị đi đến nơi nào cũng đều được thông suốt thuận lợi, may mắn suông sẻ, đại kiết đại lợi, không hề gặp trở ngại.
- “Hai mươi ba là tổ tiên đã mất được lìa khổ.” Điều lợi ích thứ hai mươi ba là cha mẹ, tổ tiên của quý vị từ đời quá khứ cùng lục thân quyến thuộc từ vô thỉ kiếp đến nay, đều được xa lìa khổ não, hưởng sự an vui, liễu thoát sanh tử.
“Tổ tiên đã mất” bao gồm tổ tiên đã mất của đời hiện tại, và tổ tiên đã mất của đời quá khứ của quý vị. Như vậy, tất cả cha mẹ và thân tộc của quý vị trong đời này mà đã chết rồi, đều có thể lìa khổ được vui; đồng thời, hết thảy cha mẹ và tổ tiên của quý vị từ vô lượng kiếp đến nay, trong đời đời kiếp kiếp, cũng đều được ly khổ đắc lạc.
- “Hai mươi sáu là căn tánh thông minh, lanh lợi.” Điều lợi ích thứ hai mươi sáu là quý vị sẽ rất thông minh mẫn tiệp, và có trí nhớ rất tốt. Mắt thì trong sáng tinh anh, có thể nhìn thấy rất xa; tai cũng rất thính, nghe được hết sức rõ ràng—nói chung, cả sáu căn đều rất tinh tường, nhạy bén. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quyến thuộc bất hòa. Pháp tu được Quyến thuộc - Anh em vui vẻ
“Mười tám là quyến thuộc vui vẻ.” Điều lợi ích thứ mười tám là trong gia đình, bà con quyến thuộc, bạn bè thân thích, đều êm ấm hạnh phúc, vui vẻ hòa thuận, không hề cãi cọ hoặc gây gỗ lẫn nhau.
Trong gia đình, mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa anh em, giữa chị em, hoặc giữa chị em dâu, lắm lúc cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Ở đời, thông thường thì thân tình nhất là cha với con, song cũng có những khi cha con bất đồng ý kiến, khiến người con nghĩ: “Ồ! Người già thì đầu óc cũng già, tri thức cũng xưa, cách làm việc lại vô cùng cổ hủ, không theo kịp thời đại tân tiến, không thể ứng phó với thế giới hiện đại hóa ngày nay”; và cho rằng người già là một “chướng ngại”! Tuy nhiên, suy nghĩ như thế là không tốt!
Còn người già thì sao? Đối với con cái, vì quan tâm quá đáng, cho nên dù biết rằng con cái không đúng, bậc cha mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ, lấy lòng bao dung mà đối đãi với con cái. Song le, con cái chẳng biết ơn thì chớ, lại còn dám cho rằng cha mẹ mình không đúng nữa! Tại sao có nhiều người nuôi dưỡng con cái mà lại không dạy dỗ chúng cho đàng hoàng? Đó là bởi những kẻ làm cha làm mẹ này đều thiếu hiểu biết, không am tường đạo lý, cho nên không muốn để ý tới con cái; còn con cái thì lại không biết chăm sóc cho cha mẹ. Vì thế, giữa cha mẹ và con cái nảy sinh nhiều mâu thuẫn, có nhiều vấn đề không giải quyết được.
Quan hệ vợ chồng là một mối quan hệ tương thân tương ái hơn nữa. Khi chưa kết hôn, đôi bên nam nữ đều cố giữ cái “mặt nạ,” không dám cãi cọ cũng chẳng hề gây gỗ lẫn nhau; nhưng sau khi kết hôn rồi thì mỗi người đều để lộ tánh nết của mình—chồng bộc lộ tánh xấu của chồng cho vợ thấy, vợ bộc lộ tánh xấu của vợ cho chồng xem—và thế là cả hai bên đều sanh phiền não!
Thế nhưng, theo điều lợi ích thứ mười tám này, thì nếu quý vị thấy được hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thì trong gia đình và quyến thuộc sẽ luôn được vui vẻ, hòa thuận. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ THẦN HỘ PHÁP BẢO VỆ NGƯỜI TU GIỮ GIỚI
+ Giữ Ngũ giới là năm điều răn đối với hàng cư sĩ tại gia, đó là: Không được giết hại, không được trộm cắp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu.
- Năm giới này không những đưa người mạnh tiến trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự an vui, hoà bình cho gia đình, quốc gia, xã hội. Ngũ giới chính là giềng mối chắc thật tạo hạnh phúc cho cá nhân và đoàn thể, chính là người thầy ngăn ngừa chúng ta làm điều sai trái. Vì thế, đức Phật Thích Ca đã có lời di giáo trước khi Ngài nhập Niết bàn: “Sau khi ta diệt độ, người tu hành phải tôn kính giới luật làm thầy; dầu ta còn tại thế để dạy dỗ các ngươi mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng không thêm điều nào ngoài giới luật”.
+ 25 vị thiện thần hộ giới: Trong kinh Quán đỉnh và bộ Luận Pháp Uyển Châu Lâm có chép danh hiệu 25 vị Giới thần. Mỗi giới có 5 vị thiện thần. Ai giữ đủ năm giới thường có 25 vị thiện thần luôn đi theo ủng hộ thân mình.
- NĂM VỊ THẦN HỘ GIỚI KHÔNG SÁT SINH
1. Sái-xô-tỳ Dũ-xá-ni trừ điều xấu ác xâm phạm.
2. Du-da-lợi Du-dà-ni giữ sáu căn cho hoàn toàn đầy đủ.
3. Tỳ-lâu-già-na-ba điều khiển hòa lành năm tạng (tim, phổi, gan, lá lách và thận).
4. A-đà-long-ma-để làm cho huyết mạch lưu thông, nhuận chảy.
5. Hoàn-ni-hòa-bà bảo hộ cho móng tay, ngón tay, móng chân, ngón chân tốt đẹp.
- NĂM VỊ THẦN HỘ GIỚI KHÔNG TRỘM CẮP
1. Để-ma-a-tỳ-bà-đa gia hộ chúng ta ra vào đi lại được bình yên.
2. A-tu-luần-bà-la-đà gia hộ ăn uống được thọ lạc.
3. Bà-la-ma Dân-hùng-thư ủng hộ ngon giấc khi ta ngủ hoặc khi mộng mị.
4. Bà-la-môn Địa-bệ-đá trừ các loại có nọc độc đến hại ta.
5. Na-ma-hu Đa-gia-ná trừ các thứ sương mù nhiễm hại thân thể.
- NĂM VỊ THẦN HỘ GIỚI KHÔNG TÀ DÂM
1. Phật-đà-tiên Đà-lâu-đá bảo vệ miệng khiến không bị hại.
2. Bệ-xà-gia Tầu-đa-xa trừ các điều xấu do ôn dịch đem tới.
3. Nát-để-hê-đa-da-đa-già trừ các điều hại do sự di chuyển.
4. A-la-đa Lại-độ-gia hộ trì nhà cửa.
5. Ba-la-na Phật-đà bình định tám thần ở trong nhà.
- NĂM VỊ THẦN HỘ GIỚI KHÔNG NÓI DỐI
1. A-đề-phạm Già-san-gia trừ các loài quỷ, vong hồn ở các mồ mã, nghĩa địa làm hại.
2. Nhân-đài-la-ni An-đài-la hộ trì các cửa ngỏ.
3. A-già-lam Thi-bà-đa trừ các loài ngoại khí Thần làm hại.
4. Phật-đàm-ghi Ma-đa-đá trừ hỏa tai làm hại.
5. A-lại-xoa Tam-xát-đà trừ trộm cướp làm hại.
- NĂM VỊ THẦN HỘ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢU
1. A-ma-la Tư-đầu-hy trừ hổ lang, các loài thú dữ làm hại.
2. Na-la-môn Xà-đâu-đế trừ các thần chết tới gây tổn hại bệnh hoạn.
3. Tát-bệ-ni Càn-na-ba trừ các tiếng kêu của các loài chim muông, cú cáo nhiễu loạn.
4. Đề-bệ Xà-tỳ Xá-ni-la trừ các loài chó, chuột xâm phạm.
5. Già-ma Tỳ-na Xá-ni-khư đề phòng các người quyền thế hại.
Những vị thiện thần hộ giới này ngày đêm bảo hộ, gia trì để hành giả sáu thời được an lành mà yên ổn tu tập. Bởi vậy, giới là ngọc báu, là áo giáp chở che. Chúng ta phải luôn luôn thức tỉnh mà trì giữ. (Nguồn: thần hộ pháp)
+ 144. QUỶ THẦN QUẤY NHIỄU VÀ KHÔNG QUẤY NHIỄU
- Quỷ Thần quấy nhiều: Giả như có Phạm-chí ngoại đạo hỏi rằng: ‘Chư hiền! Nếu như tất cả nam nữ khi bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên giữ gìn, ủng hộ; khi người kia sắp chết, quỷ thần giữ gìn ủng hộ kia sẽ thu nhiếp tinh khí họ, thì người này chết. Nhưng tại sao người hiện nay lại có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu?’ Nếu có người hỏi câu này, thì các Thầy nên trả lời cho họ rằng:
‘Người thế gian hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, những người như vậy, thì trong trăm hay nghìn mới có một thần theo bảo hộ thôi. Giống như đàn bò, đàn dê, trong trăm hay nghìn con cũng chỉ có một người chăn giữ; thì việc này cũng như vậy, vì hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, nên những người như vậy, trong trăm hay nghìn người mới có một thần bảo hộ thôi.
- Quỷ Thần Không quấy nhiễu: Nếu có người nào tu hành pháp thiện, chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, chỉ một người như vậy, thì cũng có trăm nghìn thần bảo hộ rồi. Giống như quốc vương, đại thần của quốc vương có trăm nghìn người hộ vệ một người; thì việc này cũng như vậy, người tu hành pháp thiện, đầy đủ mười nghiệp thiện, như một người có trăm nghìn thần hộ vệ. Vì nhân duyên này cho nên, người thế gian có nguời bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu. Nguồn: mục 144 -(Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 8.Đao Lợi Thiên, số 30)
+ Thần Bản Địa (tức Bản Địa Thần) của 12 Đại Tướng Dược Xoa:
Từ Bản Tích Nhị Môn của Kinh Pháp Hoa cùng với Bản Địa Gia Trì của Kinh Đại Nhật đã hình thành tư tưởng “Bản Thể của Phật, Bồ Tát hiện bày mọi loại Thân để tế độ chúng sinh” … như Phẩm Thọ Lượng của Kinh Pháp Hoa, Thai Tạng Giới Tứ Trùng Mạn Trà La của Kinh Đại Nhật đã nói tức hiện đủ tư tưởng này. Trong ba Thân của Phật thì Pháp Thân, Báo Thân là Bản Địa, còn Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) là Thùy Tích.
=> Do đó, 12 vị Dược Xoa Đại Tướng là các vị Hộ Pháp trọng yếu ắt phải có Bản Địa Thần tương ứng để đối ứng. (Nguồn: Kinh Dược Sư_12 Đại Tướng_12 Địa Chi Tý - Sửu ...Tr, 185)
+ “Mười là quỷ thần đều hộ trì.” Khi thọ trì Kinh Địa Tạng, nếu quý vị thật sự có công đức thì cần gì phải tự rêu rao cho chính mình? Bởi bấy giờ các quỷ thần hộ pháp đều sẽ hỗ trợ cho quý vị, bảo vệ quý vị; nếu quý vị gặp khó khăn gì thì vô hình trung họ sẽ đến để giúp quý vị giải quyết vấn đề ngay, quý vị bất tất phải rêu rao!
Vậy, điều lợi ích thứ mười là quý vị sẽ được sự giúp đỡ, phù hộ của loài quỷ (thiện quỷ sẽ đến giúp đỡ quý vị, ác quỷ cũng đến giúp đỡ quý vị), và các thần linh (thiện thần sẽ đến giúp đỡ quý vị, ác thần cũng đến giúp đỡ quý vị). Vì sao ác thần cũng giúp đỡ quý vị? Phải chăng đó là do oai lực của Bồ Tát Địa Tạng? Chính thế! Chính là nhờ oai lực của Bồ Tát Địa Tạng mà tất cả ác quỷ cùng ác thần đều biến thành những vị hộ pháp đắc lực cả!
Có người lại hoài nghi: “Thế tôi niệm danh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ Tát, có thể nào Bồ Tát lại sai người đến trách mắng tôi không?” Không bao giờ! Quý vị thắc mắc vì sao ư?
Tôi nói thật cho quý vị biết: Quý vị chưa đủ trình độ đâu! Quý vị sách vở chưa học đủ, đi thi chắc chắn sẽ bị đánh hỏng; phải đến lúc tốt nghiệp đại học thì mới có thể thi đậu được. Nếu quý vị chưa tốt nghiệp, chỉ vừa mới tập tễnh bước chân vào ngưỡng cửa trường đại học, thì bắt quý vị khảo thí để làm gì? Cho nên, đừng cho rằng trách mắng là không tốt. Trách mắng cũng là một cách để khảo nghiệm, thử thách—chịu đựng được tức là đạt yêu cầu, được thông qua; còn không chịu đựng được tức là chưa đạt yêu cầu, cần phải tu học tinh tấn hơn nữa.
Nói như thế thì có phải là thi đậu, đạt yêu cầu rồi thì không cần phải tu học thêm nữa? Thi đậu rồi thì càng phải nỗ lực tu hành hơn nữa!
Có người hoài nghi: “Thế thì thi đậu có tác dụng gì đâu?”
Thế thì tôi hỏi lại: Quý vị học Tiến Sĩ có tác dụng gì? Đạo lý cũng như nhau thôi! Quý vị hiểu được thì hiểu; không hiểu được thì tôi cũng chẳng có biện pháp nào cả! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tìm các thứ báu - Gặp Nạn gió bão: .... Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu… mà vào biển lớn. Giả sử gió bão thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời các người đó đều thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
HT Tuyên Hóa giảng:
Mà vào biển lớn. Người ta vì muốn tìm của báu mà vào biển cả để kiếm tìm, vì ở đó có rất nhiều của báu. Giả sử gió bão, gió bão là hắc phong, vì gió màu đen. Thứ gió màu đen này ai cũng có. Tại sao gọi là gió màu đen? Vì khi nổi nó lên gương mặt biến thành xạm đen. Người ta vì tức giận nên mới có gió đen, nếu không tức giận thì gió đen không nổi lên.
Biển cả này là gì? Là tánh hải – biển Tự tánh của chúng ta! Gió đen ví như vô minh của chúng sanh. Thứ vô minh này còn gọi là phiền não. Nếu quý vị sanh phiền não, là có gió đen đấy; nếu không còn phiền não thì biển cả tự tánh của quý vị sẽ gió lặng sóng êm. Thế nào mới có thể tìm được của báu? Phải vào ngay trong tự tánh của quý vị đào bới của báu của chính mình. Ðương khi quý vị đào bới của báu của chính mình ấy thì có thể gặp phải ma chướng. Tại sao có ma chướng? Do vì đức hạnh của mình không đủ, đức tánh không đủ, đạo đức không đủ. Vì không có gây tạo công đức nên đức hạnh chưa tròn, vì đức hạnh không tròn đủ nên mới có gió đen, mới bị ma chướng. Nếu đức quý vị lớn thì gió đen sẽ hóa ngay. Hóa thành cái gì? Hóa thành mây lành, điềm lành.
Ngạn ngữ có câu: Ðạo cao rồng cọp nể, đức trọng quỷ thần theo là gì?
- Ðạo cao thần cọp nể nghĩa là người có đạo hạnh cao thì rồng gặp cũng phải khoanh mình lại không nhúc nhích. Rồng xưa nay là một loại rất lợi hại, có thể làm kinh thiên động địa, dời non lấp biển như không, thế lực rất là to lớn. Nhưng nếu quý vị có đạo lực thì tuy rồng có thần thông to lớn cũng không dám thị uy trước mặt quý vị, mà ngoan ngoãn khoanh tròn lại. Còn loài cọp dù hung hãn cách mấy, nếu quý vị không có tâm sân hận thì nó lại biến thành một loại chó mèo thuần dưỡng, khi gặp quý vị sẽ lắc đầu vẫy đuôi mừng rỡ mà không dám ăn thịt. Nhưng quý vị phải có đạo hạnh mới được cảnh giới như vậy, nếu không thì rồng không khoanh, cọp không quỳ đâu!
- Ðức trọng quỷ thần theo: Một khi đức hạnh quý vị đã đủ, đã tròn đầy, thì quỷ thần gặp quý vị sẽ cung kính tôn trọng, cúi đầu đảnh lễ. Cho nên điều quan trọng nhất là đôn phẩm lập đức.
+ Nạn Gió bão giữa biển khơi:
Hoặc trôi dạt biển khơi
Các nạn quỷ, rồng, cá
Nhờ sức niệm Quán Âm
Sóng mòi không chìm được.
Trôi là trôi nổi lênh đênh theo giòng nước. Nếu như ở chỗ cạn hoặc nước đứng thì không có vấn đề gì, người ta sẽ dễ dàng lên bờ. Nhưng nếu trôi ở giữa biển khơi, nhìn ra mù mịt không biết đâu là bến bờ thì rất nguy hiểm. Trong biển cả thường có rồng độc, cũng có quỷ La-sát, và cá mập ăn thịt người nữa nên rất nguy hiểm. Lúc quý vị gặp những tai nạn này, nếu có thể niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì dù sóng to cách mấy cũng không thể nào bị dìm chết được, mà bỗng nhiên quý vị sẽ được đưa vào bờ, hoặc tự nhiên trôi tấp vào chỗ nước cạn, hoặc gặp được thuyền khác đến cứu. Những việc này là do Bồ-tát Quán Thế Âm thị hiện để cứu thủy nạn. Cũng giống như hỏa nạn ở trước, nếu quý vị không biết niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì sẽ rất nguy hiểm.
+ Hóa giải mưa như trút nước - Mưa đá
Mây sấm điện chớp giăng
Tuôn mưa đổ như trút
Nhờ sức niệm Quán Âm
Tức thời được tạnh yên.
Trên trời thường có các thứ tai hại như mây sấm chớp nháng hoặc mưa đá xối xả. Có những lúc mưa đá lớn bằng nắm tay, có khi lớn bằng trứng gà, có khi hạt mưa nặng đến mấy mươi cân, thậm chí mưa rơi trúng mình trâu, trâu té chết ngay. Nếu rơi trúng thân người, chẳng cần phải nói, hậu quả cũng có thể đoán được. Hoặc lúc mưa gió to ấy, nếu quý vị có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì không lâu sau, những hiện tượng ấy sẽ nhanh chóng ngưng bặt, không còn nữa.
Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Pháp tu Miễn nhiễm bệnh dịch - Kinh Địa Tạng
“Sáu là dịch bệnh không đến nơi thân.” “Dịch bệnh” tức là bệnh ôn dịch, bệnh truyền nhiễm. Đáng lẽ ra thì mọi người đều bị truyền nhiễm, mắc phải chứng bệnh nào đó, nhưng nhờ quý vị niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng nên giống như có một ranh giới vô hình, quý vị không bị lây bệnh.
Lúc tôi ở Đông Bắc, có lần bệnh ôn dịch lan tràn, có một gia đình nọ mười một người mà chỉ nội trong ba ngày đã có mười ba người bị chết! Tại sao gia đình mười một người mà lại có tới mười ba người chết? Tại sao lại có thêm hai người nữa? Đó là hai người “đưa tiễn”—bởi vì mười một người có lẽ là chưa đủ số, cho nên phải chết thêm hai người nữa vậy! Hai người này, một người thì làm công cho gia đình nọ, còn người kia là bà con từ xa đến thăm. Cả hai người cùng chết chung với gia đình nọ cho đủ số! Do đó, trong vòng ba ngày mà gia đình mười một người lại có tới mười ba người tử vong, và tất cả đều do bị lây bệnh truyền nhiễm mà ra.
Bấy giờ tôi đang ở địa phương đó, tôi bèn dẫn theo bốn đệ tử nhỏ tuổi và bảo họ rằng: “Chúng ta phải đi cứu người ngay!” Cứu như thế nào ư? Tôi căn dặn các đệ tử: “Chúng ta hãy trì niệm Chú Đại Bi để đối phó với thần ôn dịch!” Chúng tôi đến thôn làng đang có bệnh dịch hoành hành nọ, đi quanh làng ba vòng, vừa đi vừa niệm Chú Đại Bi. Sau khi chúng tôi niệm xong Chú Đại Bi và đi khỏi rồi, thì trong làng không còn bệnh dịch nữa. Thế nên, Chú Đại Bi thật vô cùng linh nghiệm, hết sức nhiệm mầu! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Một phương pháp hóa giải nghiệp xấu ác toàn diện nhiệm mầu:
Hôm nay tôi xin truyền cho quý vị một yếu quyết. Ðó là yếu quyết để áp dụng trong giờ phút thật khẩn cấp. Gặp những trường hợp đó chúng ta phải giữ bình tĩnh, đừng hốt hoảng, chuyện sống chết hãy tạm gác một bên, một lòng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì chắc chắn sự hiểm nguy sẽ hóa thành tốt lành, thoát khỏi ách nạn.
Trong giây phút khẩn trương, chúng ta hãy nghĩ rằng: “Ðàng nào cũng chết, vậy trước khi chết ta hãy dốc lòng niệm Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, biết đâu đó là niềm hy vọng.” Hành động như thế, tức là từ hiểm nguy mà gặp may mắn....
Từ các hoạn nạn đột ngột sảy đến, cho đến các ác duyên như bệnh ác, người ác, oán tặc giặc giã ... có thể chết đến nơi, cái chết khó chánh nhưng nếu nhất tâm niệm Ngài Quán Âm thì chắc chắn được cứu. (Nguồn: Xem hướng dẫn của HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA TẠI ĐÂY)
+ Hóa giải nghiệp xấu - Tai nạn:
- Sống đúng luân thường đạo lý - Thuận theo tự nhiên: Đời sống của ta được vô cùng sung sướng, ta cảm thấy mình là người vui sướng nhất thế gian, người hạnh phúc nhất, người mỹ mãn nhất. Ta không có thứ khác, ta hoàn toàn tuân thủ quy luật của đại tự nhiên, nhất quyết không chống lại quy luật của đại tự nhiên. => Quy luật của đại tự nhiên là chí thiện, chí thiện có thể hóa giải tất cả tai nạn. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
+ Hoá Giải Bệnh: Cho dù tai nạn hiện tiền chúng ta cũng không lo sợ, chúng ta cũng không có bất cứ lo lắng nào, dùng cái tâm bình thường để đối diện, việc này rất cần thiết. Không khiếp không sợ, mãi mãi giữ gìn tâm an định, bình lặng thì bạn mới có trí tuệ, có trí tuệ thì bạn mới có thể hóa giải vấn đề, khi bạn loạn lên, thì phiền phức liền đến.
Thí dụ: Một người bệnh ung thư, bệnh ung thư cùng bệnh cảm mạo không có gì khác nhau, việc nhỏ như nhau, người bị bệnh ung thư chết rất nhiều, đều là do sợ mà chết, các vị phải hiểu được cái đạo lí này,
Nếu như họ bị cái bệnh này, bác sĩ tuyên bố với họ, anh chỉ có thể sống được 1 tháng đến 2 tháng, họ nghe rồi thì thế nào? Họ nghe rồi không hề để ý, cũng không còn nghĩ đến bệnh, cũng không muốn đi bác sĩ, thành thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm qua 1 tháng thì không hề gì, khi đi kiểm tra lại thì không bệnh gì cả. Do nguyên nhân gì? Chuyển đổi được ý niệm, đây chính là dùng tâm để khống chế. Bạn không nên nghĩ đến nó, bạn càng nghĩ thì càng phiền phức, nếu bạn không nghĩ sự tồn tại của nó, cũng không nghĩ nó tốt cũng không nghĩ nó xấu, cả thảy đều không nên nghĩ, vậy thì nó không có bất cứ tác dụng gì.
Bạn xem, đem cái ý niệm này chuyển đổi, chuyển thành A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là ý niệm tốt nhất, quên hết đi ý niệm xấu nhất, căn bản là không để ý đến nó, rất nhanh để chuyển đổi tế bào bệnh tật trở lại bình thường, là dùng ý niệm, việc làm này có đạo lý, có lý luận để làm căn cứ, có rất nhiều kì tích đã chứng minh cho chúng ta thấy, việc này không phải là giả. Cho nên ý niệm là chủ tể tất cả, nếu bạn chân thật hiểu thông rồi, tường tận rồi, thì bạn có thể giữ gìn được thanh xuân dài lâu. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Một cách Hóa giải mọi họa tai bệnh nạn và quỉ thần quấy nhiều bằng Phật Pháp nhiệm mầu: Dùng các loại Thần chú trong Phật giáo, tuy nhiên yêu cầu người hóa giải cần sửa đổi tâm tính, ăn chay trì giới để đạt được Tâm thanh tịnh nhất định thì mới nói đến linh nghiệm, cảm ứng nhiệm mầu được (Xem: Giới thiệu Phương pháp Cải mệnh nhiệm mầu)
288. Hỏi: Chúng ta nên trả nợ (Nghiệp) như thế nào?
Đáp: Hồi hướng công đức mà mình đã làm cho các oan gia, chủ nợ để nguyện cho họ khi cảm thọ được những công đức tất sẽ ly khổ đắc lạc, liễu sanh thoát tử. Không được mắc nợ mà không chịu trả. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hát 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hỏi: Có một vị đồng tu tên là Phạm Sanh Hoa hỏi, bà ngoại anh tin Phật, niệm Phật nhiều năm nay, gần đây bị tai biến trở thành người thực vật, làm thế nào để người mất ý thức vãng sanh Tây Phương? Bản thân bà vô cùng nhàm chán Ta-bà, thích sanh Tịnh Độ. Để giúp bà vãng sanh Tây Phương, anh vì bà niệm Phật và tụng kinh Địa Tạng. Không biết tụng kinh Địa Tạng và kinh Vô Lượng Thọ có gì khác biệt không? Anh ấy lúc nhỏ tụng kinh Địa Tạng, hiện tại học kinh Vô Lượng Thọ.
PS Tịnh Không Đáp: Vấn đề này quả thật vô cùng nghiêm trọng. Vì điều kiện đầu tiên để vãng sanh là thần trí phải tỉnh táo. Người có thể vãng sanh hay không, quyết định ở một niệm cuối cùng. Một niệm cuối cùng rất tỉnh táo, rất sáng suốt, ưa thích vãng sanh thì nhất định được sanh. Một niệm cuối cùng mơ hồ thì rất phiền phức, siêu độ cũng không dễ dàng. Siêu độ Phật sự, lúc họ đang tiếp nhận siêu độ, xem họ có hồi tâm chuyển ý cầu sanh Tây Phương hay không, đây là do bản thân họ quyết định. Nếu như siêu độ Phật sự, bản thân họ vẫn thờ ơ không quan tâm, không chút động lòng thì họ vẫn không thể vãng sanh. Cho nên, vãng sanh khẳng định có phần nắm chắc là một niệm cuối cùng phải thật tỉnh táo. Ở trong Phật pháp, tai biến trở thành người thực vật, chứng sa sút trí tuệ người già đều là thuộc về nghiệp chướng. Con cháu hiếu thuận có thể giúp họ chuyển nghiệp này được hay không? Cần phải học Quang Mục nữ, Bà La Môn nữ ở trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, phải phát tâm lớn như vậy thì sức mạnh đó rất lớn, có thể chuyển nghiệp báo của họ. Nếu như không thể phát được tâm lớn như vậy thì chỉ có thể giảm bớt nỗi đau khổ của họ, chứ vãng sanh thì rất khó khăn. Trong kinh Địa Tạng có ghi rõ ràng, bạn tụng kinh Địa Tạng nhiều như vậy, cần phải hiểu rõ. Bạn nhất định phải phát tâm làm Bồ-tát, phổ độ tất cả chúng sanh khổ nạn ở thế gian, thì bà ngoại bạn sẽ được độ. Nếu bạn không phát tâm lớn như tâm Bồ-tát, thì bạn không thể độ nổi. Bạn làm Bồ-tát thì người thân quyến thuộc của bạn đều được độ. Sự việc này quyết định là ở chính bạn, người khác không thể giúp được, chư Phật Bồ-tát cũng không thể giúp được (Tập 18 - Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Các thần hộ pháp:
- Kim Cang - Thiện Thần - Thiên Long Bát Bộ - Thiên Chúng Cõi Trời/ Đại Mãng Xà - Quỷ Vương hoặc Thần Vương trong Chú Đại Bi
- Các Quỷ Thần trong Kinh Địa Tạng bảo hộ người tu Phật Pháp và thọ trì đọc tụng Kinh Địa Tạng như Nhiều quỷ vương - Thổ thần/ Thần đất ... (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thần Hộ Pháp Bảo Vệ Như Thế nào: ... Tôi muốn hỏi Quả Du về điều này, bởi vì tôi nghĩ ông ta hiểu ý tôi. Thí dụ nếu một người nhân viên ngừng làm việc và tán gẫu với khách, thì ông chủ chắc chắn sẽ không hài lòng. Trong trường hợp này, đức Phật vừa mới có được 2 đệ tử thành tâm, tinh tấn tu hành, nhưng khi ông tới đó thì họ ngừng lại và nghỉ ngơi. Khi những vị hộ pháp thấy mình không còn việc gì để làm ở đó cả thì họ sẽ bỏ đi. Sau khi các vị hộ pháp đi rồi, những hành giả kia chắc chắn sẽ có một khoảng thời gian cực kỳ khó khăn khi họ bắt đầu bái lạy trở lại. Các vị hộ pháp cứ từ tốn và rất uể oải như thể họ đã không ngủ đủ: “Được rồi, chúng ta sẽ quay lại và lại canh chừng các ngươi”. Quý vị thấy không, ngay cả các hộ pháp cũng lười biếng. Làm sao có thể để cho điều đó xảy ra được?
Không phải người ta có nói rằng các tu sĩ này đã nhận được cảm ứng của các vi hộ pháp đến để bảo vệ họ sao? Quý vị không cần thắc mắc các vị hộ pháp có cảm động hay không. Khi một trong những tu sĩ đang bái lạy bị rách quần thì lại tình cờ gặp được một cái quần tốt khác. Khi người ta nhắm ném những chai sô-đa vào đầu họ, những chai này lại chệch khỏi đầu họ cách chỉ có 2 phân. Những người kia lái xe rất gần nên có thể dễ dàng ném mạnh vào đầu họ, làm sao quý vị có thể chắc chắn rằng không phải là các vị hộ pháp đã bảo vệ họ qua khỏi tai họa đó. Qua tất cả những việc này, rõ ràng rằng họ đã nhận được rất nhiều cảm ứng. Vì thế quý vị không nên phá hỏng cơ hội để được cảm ứng đó của họ. Bây giờ thì quý vị hiểu rồi chứ? (Nguồn: Bảo Vệ Hành Giả_HT Tuyên Hóa)
+ Thiên long "Bát Bộ": tức là tám bộ Quỷ Thần Long Chúng-Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ 25 vị thiện thần hộ giới: Trong kinh Quán đỉnh và bộ Luận Pháp Uyển Châu Lâm có chép danh hiệu 25 vị Giới thần. Mỗi giới có 5 vị thiện thần. Ai giữ đủ năm giới thường có 25 vị thiện thần luôn đi theo ủng hộ thân mình. (Nguồn: thần hộ pháp)
+ Thiên Long "Bát Bộ" tức là tám bộ Quỷ Thần Long Chúng-Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ “Một là thiên long thường hộ niệm.” Khi quý vị tụng Kinh Địa Tạng thì loài rồng từ trên trời, và luôn cả loài A-tu-la trên cõi trời, cũng đến bảo hộ quý vị. Loài A-tu-la ở cõi trời tuy có phước trời (thiên phước) song không có quyền hành như một vị trời, và họ cũng phát nguyện muốn đến bảo hộ, che chở người tụng kinh.
Ngoài ra, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già ... cũng đều đến để che chở những người tụng Kinh Địa Tạng. Càn-thát-bà là thần âm nhạc (nhạc thần), có nhiệm vụ tấu nhạc cho Ngọc Hoàng Đại Đế nghe, và còn được gọi là “thần ngửi mùi hương” (văn hương thần). Ngọc Hoàng Đại Đế có một loại hương, khi đem đốt thì tỏa mùi thơm ngào ngạt, thần Càn-thát-bà ngửi được mùi hương thì liền đến hầu. Càn-thát-bà cũng có nam, có nữ. Thần Càn-thát-bà nam thì trên đầu có một cái sừng, giống như con kỳ lân vậy. Khi thần ngửi được mùi hương đó thì sẽ vừa nhảy múa, vừa đàn ca hát xướng, tiếng nhạc réo rắt giữa không trung. Nghe quý vị tụng Kinh Địa Tạng, thì thần Càn-thát-bà cũng ở trên không trung khen ngợi.
Ca-lâu-la chính là đại bàng kim xí điểu, tức là chim đại bàng cánh vàng.
Khẩn-na-la cũng là nhạc thần.
Ma-hầu-la-già là con rắn lớn (đại mãng xà). (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hộ pháp phục dịch - Tận lực kính hộ - Kính phục người có giới đức tu hành chánh đạo
Đức Phật dậy: Người có giới đức thì chư thiên thiện thần tận lực kính hộ, chư thiên hóa hiện để phục dịch, trời rồng quỷ thần đều kính phục. Tôn quý giới luật xưa nay chưa có điều chẳng cát tường, đâu phải lo ngại điều chẳng lành ư?
LỜI GIẢI:
Ở đây đức Phật dạy, tất cả hành vi tâm niệm chỉ có hành vi tâm niệm đạo đức giới hạnh là rất được chư thiên quỷ thần tôn sùng kính hộ. Người có lòng chuyên trì giới pháp của Phật, tâm đắc giới pháp là người đạo đức. Đạo đức tùy thuộc tâm chánh cần tu học, ngày ngày tinh tiến thăng cao, chư thiên thiện thần cùng nhau ra sức ủng hộ người đạo cao dức trọng một lòng giữ giới hoằng đạo, nên kinh nói: “Người có giới đức chư thiên thiện thần tận lực kính hộ”.
Chẳng những được chư thiên thiện thần kính hộ, mà các vị ấy còn hóa hiện thân để hầu hạ phục dịch. Như đời nhà Đường Trung Hoa có cư sĩ Lý Thông Huyền và ngài Thích Đạo Tuyên luật sư là những người được thiện thần hóa thân trường kỳ hộ trì phục dịch. Những chuyện thiên thần hóa hiện hộ trì phục dịch người chuyên trì giới luật đạo đức thì nhiều, có ghi rõ trong bộ Cao Tăng Truyện. Tám bộ quỷ thần sở thuộc Tứ thiên vương vâng lịnh Trời Đế Thích có bổn phận cung kính ủng hộ người tinh nghiêm giới hạnh, nên kinh nói: “Chư thiên hóa hiện phục dịch, trời rồng quỷ thần đều kính phục”.
Đức Phật trước giờ vào Niết bàn còn ân cần dặn dò lần chót: “Giới pháp còn thì đạo pháp còn. Dù cho ta có ở đời ngàn vạn năm mà đệ tử ta không chuyên tâm thọ trì giới pháp, thì sự có mặt của ta trên cõi đời chẳng lợi ích gì. Người tôn trọng thọ trì giới pháp mới thật là đệ tử của ta, sẽ gặp ta trong cảnh giới giải thoát”. Thế nên, giới pháp chính là cương lãnh, là mạng sống của đạo pháp vậy. Nên trong Giới Kinh nói: “Phải kính trọng giữ gìn giới luật như giữ gìn đôi tròng con mắt. Giới như đèn sáng lớn soi sáng đêm tối tăm. Giới như ngọc ma ni cứu giúp kẻ đói nghèo. Giới như thuyền bè tốt đưa người qua biển khổ”. Giới luật có năng lực đưa con người thánh thiện thăng tiến, nên kinh đây nói: “Tôn quý giới luật xưa nay chưa có điều chẳng kiết tường"
Thế mà có người không hiểu năng lực thần diệu của giới luật, nên khi nghe nói thọ trì giới luật Phật chế thì liền nghĩ ngay là thọ giới thì bị gò bó mất tự do. Họ còn trề môi cho rằng, thời đại văn minh nầy giới luật không còn thích hợp nữa. Thực tế nghĩ cho kỹ, không giới luật là không đạo đức, không hạnh phúc tiến bộ. Bằng chứng kẻ trộm cướp, xì ke ma túy là những kẻ không tuân pháp luật, nên tâm trí họ lúc nào cũng lo sợ bị phát giác, hành vi họ lúc nào cũng lén lút, có tự do thanh thản đâu? Cha mẹ con cháu không sống theo luật hiếu hòa tôn ty thì gia đình sẽ tan gia bại sản. Người dân không sống trật tự hỗ tương, không tuân theo luật nước thì quốc gia sẽ loạn lạc thống khổ. Kẻ lái xe trên xa lộ không theo luật sẽ gieo rắc tai nạn tan thân mất mạng. Người học Phật, nhất là người xuất gia mà không tôn trọng giữ gìn giới pháp thì cho dù tận lực hoạt động Phật sự, kết quả chỉ gây đổ vỡ cho Phật pháp và tăng đoàn mà thôi. Thế nên nhớ vâng theo lời Phật dạy, tôn trọng chuyên trì giới luật thì được cát tường, như kinh đây nói: “Tôn quý giới luật... đâu phải lo ngại điều chẳng lành ư?” (Nguồn: Kinh A Nan vấn về Phật sự)
+ Hộ Pháp/ Kim Cang Hộ Pháp bảo hộ người trì tụng Chú Đại Bi
... Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng: ... Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói một bài kệ, ra lệnh cho tất cả các Thiện Thần đều phải che chở, ủng hộ người thọ trì Chú Đại Bi.
“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,/ Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi.” Đây là tên của các vị Kim Cang Hộ Pháp. Mỗi vị Kim Cang đều có thần lực riêng của mình. Có câu “ai có sở trường nấy”—chư vị Hộ Pháp cũng vậy, vị nào cũng có sở trường hoặc đặc điểm của vị ấy.
Thí dụ, có vị Hộ Pháp thì phát nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng Chú Đại Bi được một trăm lẻ tám (108) biến, thì tôi sẽ thường xuyên túc trực để ủng hộ người đó; cho dù phải hy sinh tánh mạng, tôi cũng quyết bảo vệ người trì Chú ấy cho bằng được!”
Trong khi đó, có vị lại nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng được dù chỉ một chữ hoặc một câu của Chú Đại Bi, thì tôi sẽ vĩnh viễn ủng hộ và bảo vệ người đó!”
Cũng có vị Hộ Pháp nguyện rằng: “Nếu có người nào, đừng nói là tụng Chú Đại Bi, cho dù chỉ nghe được danh hiệu ‘Chú Đại Bi’ thôi, thì tôi nguyện sẽ bảo vệ và khiến cho mọi điều mong cầu của người đó đều được thành tựu, muốn gì được nấy.”
Tuy rằng mỗi vị Kim Cang Hộ Pháp đều lập một lời thệ nguyện khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều cùng chung một mục đích—đó là gì? Đó là ủng hộ người trì Chú Đại Bi, ủng hộ người nghe Chú Đại Bi, ủng hộ người có tín tâm chân chánh đối với Chú Đại Bi.
Trong Kinh có nói rằng, nếu chúng ta “còn sanh chút lòng nghi, ắt không được kết quả toại nguyện”; cho nên, nếu quý vị không có tín tâm đối với Chú Đại Bi, thì quý vị sẽ không thể có được sự thành tựu.
Có người nói rằng: “Tôi tụng Chú rất nhiều mà sao chẳng thấy linh nghiệm, chẳng thấy công hiệu gì cả?” Đó không phải là do Chú không công hiệu, mà là vì quý vị thiếu đức tin, thiếu thành khẩn, đầu óc lúc nào cũng lởn vởn những ý tưởng hoài nghi: “Tại sao không linh nghiệm? Tại sao không thấy có công hiệu gì cả?”; vì thế mà công hiệu gì, linh nghiệm gì cũng đều không xảy ra cả! Cho nên, nếu muốn có được sự cảm ứng chân chánh thì thâm tâm quý vị phải hoàn toàn không còn mảy may hoài nghi.
Đúng ra, nếu tụng Chú Đại Bi mà không thấy hiệu nghiệm thì quý vị phải hồi quang phản chiếu, tự hỏi chính mình: “Ồ! Phải chăng vì mình thiếu thành tâm, nên mới không đạt được sự tương ưng với năng lực bất khả tư nghì của Chú?”
Quý vị không được nói rằng: “Chú Đại Bi không linh nghiệm, những điều giảng nói trong Chú đều là hoang đường, không có thật!” Chúng ta tuyệt đối không được có lòng hoài nghi như thế!
Quán Thế Âm Bồ-tát nói rằng: “Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ.” “Sai” tức là sai khiến, ra lệnh. Gọi là “mật tích” (hành tung bí mật, kín đáo) bởi lẽ cho dù những vị Kim Cang Hộ Pháp này đứng ngay bên cạnh quý vị, quý vị cũng không nhìn thấy được và cũng chẳng hề hay biết. Tất cả các vị Kim Cang Lực Sĩ đều có sức mạnh phi thường.
“Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi” là tên của các vị Hộ Pháp phiên âm từ tiếng Phạn và vẫn được giữ nguyên như thế trong bài Chú chứ không phiên dịch ra, cho nên bây giờ chúng ta cũng không cần phải giải thích ý nghĩa của những tên gọi đó. Quý vị chỉ cần nhớ rằng đó là các vị Kim Cang Hộ Pháp đến để bảo vệ người trì tụng Chú Đại Bi, như vậy là đủ rồi! Bởi Kim Cang Tạng Bồ-tát có tới tám vạn bốn ngàn vị, rất đông đảo chứ không phải chỉ có mấy vị trên đây mà thôi đâu! Cho nên, những tên gọi này, nếu quý vị không hiểu thì cũng không sao!
“Bát Bộ Lực Sĩ Thưởng Ca La.” “Bát Bộ” tức là Thiên Long Bát Bộ—trời, rồng, cùng tám bộ chúng. “Thưởng Ca La” là tên của một vị Lực-sĩ thuộc Bát Bộ.
“Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Những vị Hộ Pháp kể trên đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải luôn luôn bảo vệ, trợ giúp những người trì tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Ma Hê Na La Diên.” “Ma Hê Na La Diên” chính là thiên chúng của cõi trời Ma Hê Thủ La. “Na La Diên” có nơi dịch là “đại mãng xà”; tuy nhiên, bất kể đó là ai, nói chung thì tất cả đều cùng một mục đích là hộ Pháp mà thôi.
Quán Thế Âm Bồ-tát cũng phái Ma Hê Na La Diên, cùng với các vị Hộ Pháp như “Kim Tỳ La Đà, Ca Tỳ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
“Ta sai Bà Cấp, Ta Lâu La.” Quán Thế Âm Bồ-tát lại nói tiếp: “Không phải chỉ có các Kim Cang Lực-sĩ nói trên mà thôi đâu, Ta còn ban sắc lệnh, khiến các Kim Cang Lực-sĩ, Thiện Thần Hộ Pháp là Bà Cấp, Ta Lâu La, Mãn Thiện, Xa Bát, Chân Đà La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì. Họ sẽ luôn luôn kề cận để bảo vệ và giúp đỡ những người trì Chú Đại Bi.”
“Ta sai Tát Giá Ma Hòa La,/ Cưu Lan, Đan Tra, Bán Chỉ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Đan Tra” chính là vị “Ca Tra” được nhắc đến ở câu “Ca Tra Bổ Đan Na” trong Chú Lăng Nghiêm. Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải theo dõi để bảo vệ kẻ trì Chú Đại Bi.
“Ta sai Tất Bà, Già La Vương,/ Ưng Đức, Tỳ Đa Tát Hòa La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì,.” Đây là tên của các vị quỷ vương hoặc thần vương. Các vị này cũng được lệnh phải thường xuyên kề cận để che chở cho những kẻ thọ trì, tụng niệm Chú Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp:
“Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,/ Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
“Phạm Ma Tam Bát La” là tên của một vị Hộ Pháp ở cõi trời; còn “Diêm Ma La” là tên của vị Hộ Pháp thuộc Ngũ Bộ ở cung trời Tịnh Cư. Các vị Hộ Pháp này được lệnh phải luôn luôn theo bảo vệ kẻ tụng trì Chú Đại Bi.
“Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,/ Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
“Thích Vương” tức là vua Đế Thích, Thiên Chủ của cõi trời Ba Mươi Ba.
“Đại Biện Công Đức Bà Đát Na” tức là vị Hộ Pháp có tài biện luận và công đức rộng lớn tên Bà Đát Na.
Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được Quán Thế Âm Bồ-tát phái đi phù hộ những người thành tâm trì tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,/ Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
“Đề Đầu Lại Tra Vương” là một trong bốn vị Tứ Đại Thiên Vương.
“Thần Mẫu Nữ” tức là “Quỷ Tử Mẫu” (mẹ của những quỷ con), thống lãnh bộ chúng Đại Lực—các quỷ thần thuộc hạ của bà đều có sức mạnh phi thường, riêng bản thân bà thì không.
Vì sao gọi là “Quỷ Tử Mẫu”? Ban đầu, đáng lẽ bà có thể được gọi là “Thần Tử Mẫu,” nhưng vì bà có hành vi giống như loài quỷ—cứ đi bắt cóc con của người ta để ăn thịt—nên mới bị gọi là “Quỷ Tử Mẫu.” Nhà nào có trẻ sơ sinh là Quỷ Tử Mẫu liền tới bắt về ăn; cả trẻ con chừng hai, ba tuổi cũng bị bà bắt ăn thịt nữa. Bà Quỷ Tử Mẫu có một ngàn (1.000) đứa con trai; những đứa con nít mà bà đi khắp nơi để lùng bắt và mang về không phải chỉ một mình bà mà cả bầy quỷ con cùng xúm lại chia nhau ăn.
Một hôm, chư Hộ Pháp Thiện Thần thấy hành vi của Quỷ Tử Mẫu càng ngày càng quá đáng và không đúng với giáo pháp, bèn quyết định đến bạch với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Bạch Đức Thế Tôn! Hiện nay trẻ con ở thế gian bị Quỷ Tử Mẫu bắt ăn thịt gần hết, chỉ còn lại một số rất ít! Nhân loại ở thế gian sắp bị tuyệt chủng tới nơi rồi; vậy chúng con phải làm gì bây giờ?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: “Không sao, việc này không phải là một vấn đề to tát lắm! Ta đã có cách giải quyết rồi!” Và thế là Đức Phật phái Mật Tích Kim Cang đi bắt đứa nhỏ nhất trong bầy quỷ con một ngàn đứa của Quỷ Tử Mẫu về và đem bỏ vào trong bình bát của Phật. Đức Phật lật úp cái bát lại, khiến đứa nhỏ bị nhốt trong bát, không thoát ra được.
Chú quỷ con bị nhốt một mình trong bát thì sợ hãi khóc òa, Quỷ Tử Mẫu nghe tiếng khóc liền nhận ra đó là tiếng đứa con út của mình, bèn ra lệnh cho chín trăm chín mươi chín (999) đứa con còn lại đến hè nhau nhấc cái bát lên cho chú quỷ út chạy ra, nhưng không thể nào nhấc lên nổi. Thấy thế, Quỷ Tử Mẫu bèn dùng sức thần thông để lật ngửa cái bát lên, song cái bát vẫn chẳng chịu nhúc nhích.
Ban đầu Quỷ Tử Mẫu chỉ nghĩ là lén cướp lại đứa con mà thôi, nhưng bây giờ thấy cướp không được thì chỉ còn cách tới hỏi thẳng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Tại sao Ngài lại bắt cóc con tôi và nhốt nó dưới bình bát của Ngài như thế? Chao ôi! Nó khóc lóc thảm thiết thế kia mà Ngài chẳng động chút lòng từ bi nào cả ư?”
Quý vị xem, bà Quỷ Tử Mẫu này dám chỉ trích người khác là không có lòng từ bi; thế còn bà ăn thịt con của người ta thì thử hỏi bản thân bà có được chút lòng từ bi nào chăng?
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới từ tốn hỏi lại: “À! Ngươi có đông con thế kia thì mất đi một đứa cũng chẳng hề chi! Ngươi có tới một ngàn đứa con lận, nếu bớt đi một đứa bé này thì có sao đâu?”
Quỷ Tử Mẫu đáp: “Không được! Tôi thì một đứa cũng không thể thiếu được!”
Đức Phật ôn tồn hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta, thế thì ngươi có lòng từ bi chăng?”
Quỷ Tử Mẫu phân trần: “Tôi nào muốn như thế đâu! Ngài cho rằng tôi thích ăn thịt con nít lắm sao? Nếu không ăn thì cái thân già nua này chịu đói không nổi! Bởi thịt trẻ con thì mềm mại, thơm ngon vô cùng, mà răng của tôi thì cũng không còn tốt cho lắm, cho nên tôi mới phải ăn thịt của chúng đấy thôi!”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta thì được, còn Ta mới bắt một đứa con út của ngươi thôi mà ngươi đã đau khổ, cuống quýt đến thế kia! Vậy thì ngươi nghĩ tâm trạng của những kẻ làm cha làm mẹ trong thiên hạ mà bị mất con là như thế nào?”
Quỷ Tử Mẫu vẫn bướng bỉnh: “Tôi đâu cần phải bận tâm về họ nhiều như thế! Tôi chỉ lo ăn cho no bụng mình là đủ rồi!”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nghiêm giọng phán: “Thế ư? Nếu thế thì Ta cũng chẳng bận tâm về chuyện của ngươi nữa! Ta chẳng cần biết là ngươi có bị mất con hay không! Ngươi có bản lãnh thì cứ đem nó về đi!”
Quỷ Tử Mẫu nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế thì lại tìm cách lật bát, nhưng không tài nào lật lên được. Chẳng còn cách nào khác, Quỷ Tử Mẫu bèn đến quỳ trước mặt Đức Phật mà khóc lóc năn nỉ, thỉnh cầu Ngài mở lòng từ bi mà thả con bà ra.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Được! Ngươi muốn Ta trả đứa con lại cho ngươi, thì cũng được thôi! Ta không ăn thịt con của ngươi đâu, bởi vì Ta không giống như ngươi—Ta chỉ ăn chay, cho nên, đừng nói là thịt người lớn hay con nít, bất cứ loại thịt nào Ta cũng không ăn cả!”
Quỷ Tử Mẫu nghe nói như thế thì tự nghĩ: “Ồ! Thì ra người này không ăn thịt!”; và thắc mắc: “Thế thì Ngài làm sao sống được?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: “Ta đi hóa duyên các nơi, xin thức ăn chay.”
Quỷ Tử Mẫu nói: “Thế nhưng tôi biết đi đâu để hóa duyên? Ngài là Phật nên có thể đi hóa duyên; còn tôi thì đâu làm như thế được. Tôi nào phải là người xuất gia!”
Đức Phật nói: “Thôi được! Nếu từ rày về sau ngươi sẵn sàng không ăn thịt trẻ con nữa, thì Ta sẽ bảo các đệ tử của Ta mang thức ăn chay bố thí cho ngươi—miễn sao ngươi không ăn thịt trẻ con nữa là được.”
Quỷ Tử Mẫu hớn hở thưa: “Nếu tôi có thức ăn đầy đủ thì đương nhiên là tôi khỏi ăn thịt trẻ con cũng được.”
Thế là, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thả chú quỷ con ra và trả lại cho Quỷ Tử Mẫu. Do nhân duyên này mà những người xuất gia khi thọ trai đều có lệ “thí thực.” “Thí” là bố thí, ban phát; “thực” là phạn thực, cơm ăn. Lúc thí thực, quý Thầy, Cô dành ra một ít thức ăn và xướng rằng:
(Chim đại bàng cánh vàng,
Quỷ thần nơi khoáng dã,
Mẹ con quỷ La-sát,
Đầy đủ nước cam-lồ.)
Rồi họ tụng một bài Chú và mấy mẹ con của bà Quỷ Tử Mẫu thảy đều có được thức ăn no đủ, không còn bị đói khát và do đó không phải ăn thịt con nít nữa.
Cho nên, chúng ta nhờ không bị Quỷ Tử Mẫu ăn thịt nên bây giờ mới còn sống và lớn lên cao ráo, khỏe mạnh, lại có được cơ hội học hành, làm việc. Nếu không nhờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa được Quỷ Tử Mẫu, thì e rằng nhân loại trên thế giới sẽ không được đông đúc như hiện nay. Ngoài ra, từ đó Quỷ Tử Mẫu chẳng những không ăn thịt con nít mà còn trở thành kẻ hộ Pháp đắc lực cho Phật Giáo nữa.
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp:
“Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương, Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Đây đều là tên của các vị Hộ Pháp Thần Vương của Tứ Đại Thiên Vương. Các vị này từng giây từng khắc theo bảo vệ người trì tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương, Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Khổng Tước Vương” chính là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng). “Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng” tức là “nhị thập bát tú”—hai mươi tám vì tinh tú. Lúc giảng Kinh Lăng Nghiêm tôi đã giảng cho quý vị nghe cả rồi.
“Ta sai Ma Ni Bạt Đà La, Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái Ma Ni Bạt Đà La cùng Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, vốn là những vị Kim Cang Hộ Pháp, đến ủng hộ người trì Chú Đại Bi.
“Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà, Bà Già La Long, Y Bát La, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Nan Đà và Bạt Nan Đà đều là những vị Long Vương; còn Bà Già La Long và Y Bát La là Hộ Pháp của Long Vương.
“Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái A Tu La cùng với Nhạc Thần Càn Thát Bà của Ngọc Đế, và luôn cả Ca Lâu Na, Khẩn Na La, Ma Hầu La thuộc Thiên Long Bát Bộ, tất cả phải thường xuyên theo phù hộ người trì tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Thủy, hỏa, lôi điển thần” tức là thủy thần (thần nước), hỏa thần (thần lửa), lôi thần (thần sấm) và điển thần (thần sét). Cưu Bàn Trà và Tỳ Xá Xà vốn là quỷ, nay đều biến thành kẻ hộ pháp và cùng nhau bảo vệ người trì Chú. Cho nên, quý vị chỉ cần niệm Chú Đại Bi thì ngay cả ma cũng đến hộ pháp cho quý vị.
“Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có năm trăm Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc.” Tất cả các vị thiện thần hộ Pháp kể trên—Thiên Long Bát Bộ, Tứ Thiên Vương, cùng hết thảy long chúng, quỷ chúng, thần chúng, và hết thảy Kim Cang Lực Sĩ, thần Long Vương, thần Mẫu Nữ, ...—mỗi một vị đều có năm trăm quyến thuộc. Những quyến thuộc ấy toàn là quỷ Đại Lực Dạ Xoa và tất cả đều “thường theo ủng hộ người trì tụng Thần Chú Đại Bi.”
Bồ Tát Quan Thế Âm dạy:
Nghĩa: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dã ngủ nghỉ một mình, các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ, ngăn trừ tai chướng; nếu ở nơi thâm sơn quên đường lạc lối, tụng trì Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về; nếu ở nơi núi rừng khoáng dã, thiếu thốn nước lửa, Long Vương vì ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dã ngủ nghỉ một mình...” “Không sơn” tức là nơi vắng vẻ, không có người ở. “Khoáng dã” là nơi rất hoang vu, rất ít người lai vãng. Như vậy, giả sử người trì Chú Đại Bi đó sống đơn độc một mình ở chốn núi rừng hoang vắng để tu hành, thì “các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ.”
“Thay phiên (phiên đại)” tức là luân phiên, lần lượt thay phiên nhau. Chẳng hạn vị thiện thần này tức trực bảo vệ trong hai tiếng đồng hồ, sau đó có vị khác đến thay thế; vị mới đến này canh gác được hai tiếng đồng hồ thì lại có một vị khác nữa đến gác thay. Hoặc là, vị rồng này đến túc trực bảo vệ được hai giờ đồng hồ thì có vị thần đến bảo: “Hết phiên của ngài rồi, ngài hãy về nghỉ đi. Bây giờ đến lượt tôi bảo vệ người này!” Rồi hai tiếng đồng hồ sau thì có thể là đứa con trai lớn của Quỷ Tử Mẫu xuất hiện và nói: “Hết phiên trực của ngài rồi đấy, chắc ngài cũng tired lắm rồi. Ngài hãy về nghỉ ngơi đi, tôi sẽ ở đây tiếp tục bảo vệ người này!” Đó gọi là “phiên đại túc vệ,” tức là thay phiên nhau túc trực để sẵn sàng bảo vệ người trì Chú Đại Bi.
“Ngăn trừ tai chướng.” Người trì Chú Đại Bi đó nếu có tai nạn gì thì đều được tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, bình an vô sự; nếu có chướng ngại gì thì cũng được hóa giải, không thể xảy ra.
“Nếu ở nơi thâm sơn mà quên đường lạc lối, tụng trì Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về.” Giả sử quý vị đi vào sâu trong núi và bị lạc đường, mất phương hướng, không phân biệt được đông tây nam bắc là đâu với đâu; lại thêm cây cối um tùm rậm rạp che khuất ánh sáng mặt trời, khiến cho quý vị càng thêm hoang mang bối rối, không biết phải theo hướng nào mà đi cho đúng. Bấy giờ, nếu quý vị có thể tụng niệm Chú Đại Bi thì chư thiện thần cùng Long Vương sẽ biến thành người để chỉ đường cho quý vị: “Hãy đi về phía này!” và dẫn đường cho quý vị.
“Nếu ở nơi núi rừng khoáng dã, thiếu thốn nước lửa, Long Vương vì ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.” Giả sử người trì tụng Chú Đại Bi phải ở chốn thâm sơn cùng cốc, hoang vu vắng vẻ, chịu thiếu thốn mọi bề, hoàn toàn không có nước và cũng chẳng có lửa, thì Long Vương vì muốn bảo vệ và giúp đỡ người đó, sẽ biến hóa ra nước và lửa cho người đó dùng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Kiên Lao Địa Thần - Kiên Lao Thổ Thần - Địa Thần Kiên Lao - Thổ Thần Kiên Lao
Lúc đó Kiên Lao Ðịa Thần bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ trước đến nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, đều là những bậc đại thần thông trí huệ không thể nghĩ bàn, quảng độ chúng sanh. Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây so với chư Bồ Tát, thì thệ nguyện thâm trọng.
Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đây có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Ðề. Như các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc cũng hóa hiện trăm ngàn thân hình để độ Lục Ðạo, nhưng nguyện của các ngài còn có lúc hoàn mãn; còn Bồ Tát Ðịa Tạng đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong Lục Ðạo, trải đến kiếp số như số cát của trăm ngàn ức sông Hằng."
Lược giảng:
Lúc đó Kiên Lao Ðịa Thần, tức là vị Hộ Pháp Kiên Lao Ðịa Thần đã từng phát nguyện hộ trì Chánh Pháp, bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ trước đến nay, trải qua vô lượng kiếp về trước cho đến hiện nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát." "Chiêm ngưỡng" có nghĩa là chăm chú ngắm nhìn, không rời mắt. "Ðảnh lễ" tức là cúi rạp đầu sát đất mà lạy.
Hộ Pháp Kiên Lao Ðịa Thần đã từng được gặp rất nhiều Bồ Tát, đã từng cúi đầu lễ lạy rất nhiều Bồ Tát, mà các vị Bồ Tát đó đều là những bậc Ðại Bồ Tát, và "đều là những bậc đại thần thông trí huệ không thể nghĩ bàn." Những bậc Ðại Bồ Tát này đều có trí huệ rộng lớn, vĩ đại. Phải có đại trí huệ thì mới có thể hành trì Pháp Ðại Thừa; vậy Pháp Ðại Thừa là gì? Ðó là thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn! Thần thông và trí huệ của chư Ðại Bồ Tát này đều là vô lượng vô biên, cao thâm khó lường!
"Quảng độ chúng sanh." Các bậc Ðại Bồ Tát thảy đều rộng độ tất cả chúng sanh.
"Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây so với chư Bồ Tát thì thệ nguyện thâm trọng." Những vị Ðại Bồ Tát này tuy là rộng độ khắp mọi loài chúng sanh, song trong các bậc Ðại Bồ Tát thì thệ nguyện của Bồ Tát Ðịa Tạng vốn thâm sâu, rộng lớn hơn cả. Ngài đã lập nguyện rằng:
"Ðịa ngục chưa trống không, tôi thề chưa thành Phật,
Chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ Ðề."
Sức nguyện lớn lao này đặc biệt sâu rộng, không có sự cùng tận.
Hộ Pháp Kiên Lao Ðịa Thần lại bạch tiếp: "Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đây có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Ðề. Như các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc cũng hóa hiện trăm ngàn thân hình để độ Lục Ðạo—trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—nhưng nguyện của các ngài còn có lúc hoàn mãn."
Ðịa Tạng Vương Bồ Tát có nhân duyên lớn với tất cả chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề. Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Quán Âm, và Bồ Tát Di Lặc cũng hóa hiện ra cả trăm ngàn thân hình, và các ngài cũng phát nguyện độ thoát hết thảy chúng sanh trong sáu đường được thành Phật Ðạo. Thế nhưng, nguyện lực của các vị Bồ Tát đó tuy quảng đại song cũng còn có ngày hoàn mãn rốt ráo, các ngài cũng có lúc được mãn nguyện.
"Còn Bồ Tát Ðịa Tạng đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong Lục Ðạo, trải đến kiếp số như số cát của trăm ngàn ức sông Hằng." Trong khi đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát phát tâm giáo hóa hết thảy chúng sanh trong sáu đường, mà những thệ nguyện Ngài đã lập và kiếp số đã trải qua thì nhiều như số cát trong cả trăm ngàn ức sông Hằng vậy. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Địa Thần - Thổ thần hộ pháp trong Kinh Địa Tạng
Vị địa thần (thần đất) được đề cập đến trong phẩm này có tên là Kiên Lao Ðịa Thần. "Kiên lao" có nghĩa là vừa kiên cố, vừa bền vững. Cái gì kiên cố? Ðất kiên cố. Cái gì bền vững? Cũng là đất—đất rất vững chắc. Chúng ta hiện nay ở trên mặt đất ví như những con kiến trên chiếc thuyền lớn—cả đàn kiến mấy ngàn vạn con cũng chẳng thể làm cho thuyền bị chòng chành, chao đảo được, bởi vì chúng không đủ sức để làm chuyện đó. Ðịa cầu nằm chơi vơi giữa không gian, nhưng nhờ có tầng đại khí quyển cùng không khí giữ hút, cho nên không bị rớt bể, mà như chiếc thuyền lớn trôi nổi giữa biển khơi vậy.
Có rất nhiều vị thần đất. Khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Kinh A Hàm, Thần Ðất Kiên Lao hiện thân đến nghe Pháp, nhưng vị thần đất này rất kiêu căng ngạo mạn. Kiêu căng ngạo mạn như thế nào? Thần đất nói: "Khắp cả vũ trụ này chỉ có một mình thần đất ta đây mà thôi; ngoài ta ra, chẳng có vị thần nào khác nữa!"
Thế nhưng, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: "Chẳng phải chỉ có một mình thần đất ông thôi đâu, mà còn có thần nước, thần lửa, thần gió nữa!"
Vị thần đất nghe vậy liền sanh lòng "đại ngã mạn," vô cùng kiêu ngạo nói rằng: "Làm sao có thể có thần nào khác nữa được? Tất cả mọi sự trên thế gian này đều là do thần đất tôi đây gánh vác cả, bọn họ đều không phải là thần linh!"
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni phải giảng giải cặn kẽ—thần nước thì ra sao, thần lửa thì như thế nào, thần gió ra làm sao—rồi lại dùng nhiều phương pháp nữa mới thuyết phục được thần đất. Về sau, vị thần đất này quy y Tam Bảo, từ bỏ thói kiêu căng ngã mạn.
Trong hư không, có các vị thần tứ đại là thần đất, thần nước, thần lửa và thần gió. Con người là do "tứ đại giả hợp" mà thành—tức là do bốn vị thần này phân chia, san sẻ cho mỗi người một chút nước, một chút lửa, một chút gió, một chút đất, rồi gộp lại mà hình thành một thân thể.
Ở đây, "đất" bao hàm hai ý nghĩa. Ý thứ nhất của chữ "đất," thì về mặt sự, đất có thể trưởng dưỡng vạn vật, muôn loài đều nương nhờ nơi đất mà sinh tồn; còn xét theo mặt lý, thì đất cũng có tứ đức—thường, lạc, tịnh, ngã.
1) Thường. Thế nào gọi là "thường"? " đất vĩnh viễn chẳng biến thiên” (Ðịa dĩ chế độ vi môn)—, mãi mãi không dời đổi, do đó gọi là "thường." Vậy, thần đất có đức "thường."
2) Lạc. " Đất có thể gánh vác vạn vật” (Ðịa năng phụ hà vạn vật)—, muôn loài đều nhờ vào sức mạnh của đất mà được tồn tại; cho nên đây là đức "lạc," đất vô cùng vui sướng.
3) Tịnh. "Ðất sanh trưởng vạn vật” (Địa năng sanh trưởng vạn vật)—muôn vật đều do đất sanh ra và lúc sanh ra thì tất cả đều thanh tịnh, không ô nhiễm; đây là đức "tịnh."
4) Ngã. "Cái Nghĩa của đất thì vô cùng tự tại” (Ðịa nghĩa phi thường tự tại) —, sự tự tại này thuộc về đức "ngã."
Vậy, thường, lạc, tịnh, ngã là bốn đức tánh của thần đất.
Ý nghĩa thứ hai của chữ "đất" là nói về phương diện "pháp." Lúc Ðức Phật thuyết Kinh Ðịa Tạng phẩm thứ mười một này, thì thần đất phát nguyện sẽ ủng hộ tất cả những người trì niệm danh hiệu của Ðịa Tạng Bồ Tát cũng như những người trì tụng Kinh Ðịa Tạng và hết thảy chúng sanh có thiện căn; cho nên đây gọi là "Phẩm Ðịa Thần Hộ Pháp," phẩm thứ mười một. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Pháp tu Cải mệnh nghèo đói - Khổ đau cùng cực - Pháp tu Cải mệnh nhiệm mầu. Tu niệm Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có những người nào ăn mặc không đủ, cầu gì cũng trái nguyện, hoặc nhiều bệnh tật, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc bị phân tán, hoặc các hoạnh sự cứ xảy đến làm thiệt thân, khi ngủ thường mộng thấy điều kinh sợ; những người như thế, khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, mà chí tâm cung kính niệm đủ một vạn biến, thì những sự không như ý sẽ tiêu sạch lần lần, liền được an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an vui.”
Lược giảng:
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có những người nào ăn mặc không đủ ...” Có nhiều người thích mặc áo quần mới nhưng không có tiền để mua sắm. Cũng có người chịu mặc đồ cũ song tất cả lại đều rách rưới, muốn tìm một bộ đồ cũ không vá mà chẳng thể nào tìm ra được. Đã vậy, họ ăn bữa nay lo bữa mai, không biết bao nhiêu ngày mới được một bữa no—thường xuyên bị thiếu ăn thiếu mặc.
Lại có những người “cầu gì cũng trái nguyện.” “Trái nguyện” tức là trái ngược với nguyện vọng. Họ cầu xin bất cứ điều gì cũng không được toại nguyện. Ngay cả áo quần, các thức ăn uống đều không có, thì quý vị nghĩ xem, những việc khác càng không thể nào toại ý được!
“Hoặc nhiều bệnh tật.” Có nhiều người thì cứ bị ốm đau bệnh hoạn liên miên. Họ đi làm công, buôn bán, hoặc bằng cách nào đó đã kiếm được một ít tiền, tính ra thì cũng đủ sống trong vài tháng; nhưng không may lại bị ngã bệnh bất ngờ. Thế là phải tốn tiền đi khám bác sĩ, rồi tiền mua thuốc, và cả tiền nằm bệnh viện nữa. Vì không có tiền để mua bảo hiểm, cho nên họ không có bảo hiểm về sức khỏe; do đó, hễ có bệnh thì bao nhiêu tiền bạc dành dụm được đều phải đem ra để trang trải. May mắn lắm thì vừa hết tiền thì bệnh cũng vừa khỏi; khỏi bệnh rồi thì lại phải tìm cách kiếm tiền. Kiếm được tiền rồi thì lại ngã bệnh nữa; đó gọi là “nhiều bệnh tật.” Vì sao lại như thế ư? Đó chính là nghiệp chướng!
“Hoặc nhiều sự hung suy.” “Hung” là hung tướng, không tốt lành; “suy” cũng là không tốt lành. “Hung suy” tức là việc dữ, không tốt đẹp gì cả.
“Nhà cửa không yên ổn.” Trong nhà cũng không được êm ấm. Không phải là ngôi nhà không an ổn, mà là những người sống trong nhà không được an ổn.
“Quyến thuộc bị phân tán.” Bà con ruột thịt trong gia đình bị chia lìa, không thể thường xuyên gặp gỡ.
“Hoặc các hoạnh sự cứ xảy đến làm thiệt thân.” Có nhiều người thường gặp phải những chuyện rủi ro bất ngờ, không tốt cho thân thể. Nhiều việc trái nghịch xảy đến nơi thân thể, không thuận cho thân thể; thí dụ như quý vị muốn không bị bệnh, thì cơ thể lại cứ ốm đau quặt quẹo.
“Khi ngủ thường mộng thấy điều kinh sợ.” Có người trong lúc ngủ thường mộng mị thấy những việc đáng sợ—chẳng hạn nằm mơ thấy có người đến giết mình, có người cầm súng bắn mình; hoặc thấy mình đang đi dưới chân một ngọn núi thì bỗng dưng có những tảng đá lớn, nặng đến cả mấy ngàn tấn từ trên đỉnh núi ào ào lăn xuống, tưởng chừng như sắp đè chết mình; hoặc thấy mình đang đứng dưới một bức tường, bỗng dưng tường đổ sụp xuống, suýt bị đè chết. Bấy giờ, trong giấc mộng, người ấy sợ hãi, khiếp đảm đến nỗi toàn thân đều toát mồ hôi.
“Những người như thế—những người thiếu ăn thiếu mặc, cầu gì cũng không được toại nguyện, lại thường đau ốm, gặp nhiều sự không may, gia đình không êm ấm thuận hòa, thân thuộc bị chia cách, luôn bị ác mộng—khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, mà chí tâm cung kính niệm đủ một vạn biến, thiết tha thành khẩn trì niệm danh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ Tát cho được một vạn lần, thì những sự không như ý sẽ tiêu sạch lần lần, liền được an vui.” Trước kia thì họ không được an vui, bây giờ niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng đủ một vạn lần, trong lòng cảm thấy an vui, thư thái.
“Đồ ăn mặc dư dật.” Lúc trước thì không đủ cơm ăn áo mặc, không có áo quần cũng không có gì để ăn, song nay thì cái ăn cái mặc đều sung túc, dư dả, cái gì cũng có cả, nên họ cảm thấy rất an vui, “cho đến trong giấc mộng thảy đều an vui.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hai mươi tám lợi ích khi tu trì Kinh Địa Tạng
Lúc nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con đến cung trời Đao Lợi nghe Đức Như Lai ngợi khen oai thần thế lực không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng. Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, cho đến tất cả hàng trời, rồng, nghe kinh điển này cùng danh tự của Ngài Địa Tạng, hoặc chiêm lễ hình tượng, thì sẽ được bao nhiêu điều phước lợi? Cúi mong Đức Thế Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà lược nói việc ấy cho.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Hư Không Tạng: “Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói rõ. Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào trông thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe Kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, đồ ăn thức uống, y phục, châu báu, mà bố thí cúng dường, ngợi khen chiêm lễ, thì sẽ được hai mươi tám điều lợi ích.”
“Một là thiên long thường hộ niệm;
Hai là thiện quả ngày càng tăng;
Ba là tích tập các nhân thánh thượng;
Bốn là tâm Bồ Đề không thối chuyển;
Năm là y phục, thực phẩm đầy đủ;
Sáu là dịch bệnh không đến nơi thân;
Bảy là xa lìa các tai nạn về nước và lửa;
Tám là không bị tai ách trộm cướp;
Chín là người khác thấy đều cung kính;
Mười là quỷ thần đều hộ trì.”
“Mười một là thân nữ chuyển thành thân nam;
Mười hai là làm con gái hàng vương giả, đại thần;
Mười ba là tướng mạo đoan chánh, tốt đẹp;
Mười bốn là phần nhiều được sanh lên cõi trời;
Mười lăm là có thể làm bậc đế vương;
Mười sáu là biết rõ việc đời trước;
Mười bảy là có mong cầu thì đều được toại ý;
Mười tám là quyến thuộc an vui;
Mười chín là các hoạnh sự đều dứt sạch;
Hai mươi là các nghiệp đạo đều trừ hẳn;
Hai mươi mốt là đi đâu cũng tới nơi cả;
Hai mươi hai là đêm nằm mộng được an ổn, vui vẻ;
Hai mươi ba là tổ tiên đã mất được lìa khổ;
Hai mươi bốn là nhờ phước đời trước mà thọ sanh;
Hai mươi lăm là chư thánh đều khen ngợi;
Hai mươi sáu là căn tánh thông minh, lanh lợi;
Hai mươi bảy là giàu lòng từ mẫn;
Hai mươi tám là rốt ráo thành Phật.
“Một là mau vượt thánh địa;
Hai là ác nghiệp được tiêu trừ;
Ba là chư Phật đến ủng hộ;
Bốn là Bồ Đề không thối thất;
Năm là bổn lực được tăng trưởng;
Sáu là việc đời trước đều rõ biết;
Bảy là rốt ráo thành Phật.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Lược trích vài điều lợi ích:
- Dung mạo xấu xí:
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật, đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ trong chừng một bữa ăn, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn. Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân gái, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ, cho đến Vương Phi, hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả, đoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn.
Do chí tâm chiêm lễ hình tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế."
"Giả sử có người nữ nào nhàm chán nữ thân, hết lòng cúng dường tượng vẽ của Bồ Tát Ðịa Tạng, cùng những tượng bằng đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v..., ngày ngày như thế, không hề thối chuyển; lại thường đem hoa, hương, đồ ăn, thức uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật báu v.v... cúng dường; thì người thiện nữ đó sau khi mãn một báo thân nữ hiện tại, thời đến trăm ngàn muôn kiếp còn không sanh vào thế giới có người nữ, huống hồ là thọ lại nữ thân! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
- Pháp tu Cải mệnh nghèo đói - Khổ đau cùng cực - Pháp tu Cải mệnh nhiệm mầu. Tu niệm Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có những người nào ăn mặc không đủ, cầu gì cũng trái nguyện, hoặc nhiều bệnh tật, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc bị phân tán, hoặc các hoạnh sự cứ xảy đến làm thiệt thân, khi ngủ thường mộng thấy điều kinh sợ; những người như thế, khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, mà chí tâm cung kính niệm đủ một vạn biến, thì những sự không như ý sẽ tiêu sạch lần lần, liền được an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an vui.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Sắp bị đọa Tam ác đạo - Phương Pháp Phá tan địa ngục cứu giúp chúng sinh đọa ác đạo
“Lại nữa, này Địa Tạng! Trong đời vị lai, hoặc trời hoặc người, phải tùy theo nghiệp mà thọ báo ứng, đọa lạc vào ác đạo; lúc sắp bị đọa ác đạo hoặc vừa đến ngưỡng cửa, những chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, cùng một câu kinh một bài kệ của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lực, phương tiện để cứu vớt các chúng sanh đó; ở chỗ của các người đó hiện thân vô biên, vì họ mà phá tan địa ngục, làm cho họ được sanh thiên, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng...
Lược giảng:
“Lại nữa, này Địa Tạng! Ta lại bảo thêm cho ông rõ một đôi điều nữa. Trong đời vị lai, hoặc trời hoặc người, phải tùy theo nghiệp mà thọ báo ứng, đọa lạc vào ác đạo; lúc sắp bị đọa ác đạo hoặc vừa đến ngưỡng cửa ...”
Giả sử vào đời sau, có những thiên nhân trên cõi trời hoặc những người ở cõi nhân gian, vì nghiệp chướng mình trót gây tạo nên phải chịu quả báo bị đọa vào ba đường ác, thì ngay khi họ sắp sửa đọa lạc trong đường ác hoặc vừa đến trước cửa địa ngục, “những chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, cùng một câu kinh một bài kệ của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lực, phương tiện để cứu vớt các chúng sanh đó. Ông hãy vận dụng sức thần thông của mình đồng thời khéo dùng các quyền xảo phương tiện để cứu độ họ.”
Đồng thời, “ở chỗ của các người đó hiện thân vô biên. Ngay tại nơi mà những người đó đang cư ngụ, ông hãy hiển bày thân vô biên, thị hiện thần thông với đại oai thần, đại oai đức vô biên của mình. Ông hãy vì họ mà phá tan địa ngục, làm cho họ được sanh thiên. Ông hãy vung tích trượng, mở toang cửa địa ngục, phóng thích loài ngạ quỷ, khiến những chúng sanh đang chịu tội khổ đều được sinh về cõi trời, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng... Lúc đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng kệ tụng để trùng tuyên lại nghĩa trên như sau:
“Hiện tại, vị lai chúng thiên, nhân,
Nay Ta ân cần dặn bảo ông:
Dùng đại thần thông phương tiện độ,
Chớ để đọa vào các ác đạo.”
(Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Accident - Chết đột ngột/ Bất Đắc Kỳ Tử.
+ Hoạnh sự - Hoạnh tử: “Mười chín là các hoạnh sự đều dứt sạch.” Tất cả những tai nạn rủi ro, những việc không như ý, những việc không tốt lành, ... đều gọi là “hoạnh sự” (sự việc bất ngờ, đột ngột). “Hoạnh tử” tức là những cái chết đột ngột, rủi ro bất ngờ như treo cổ tự tử, bị chìm thuyền, máy bay rớt, bị xe đụng, hoặc uống thuốc độc tự sát... Thế nhưng, nhờ Bồ Tát Địa Tạng, “các hoạnh sự đều dứt sạch”—tất cả tai nạn đều tiêu tan, mọi vấn đề bất ngờ hoặc nguy cơ bị thương tật cũng không còn. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Minh triết mới - Chết đột ngột: Những kẻ “bất đắc kỳ tử” tốt bụng và trong sạch (khi bị chết đột ngột sẽ giống như –ND) ngủ trong Akasa (chất dĩ thái không gian, v..v..-ND) không biết gì đến tình trạng thay đổi của họ. Những kẻ rất hung ác và không thanh tịnh (impure), phải chịu mọi hành hạ (tortures) của một loại ác mộng kinh khiếp. Đa số kẻ bất đắc kỳ tử – không thật tốt mà cũng không thật xấu, các nạn nhân của tai nạn hoặc bạo hành (kể cả kẻ bị ám sát) – thì có một số ở trạng thái ngủ, một số khác trở thành các loại quỉ trong Thiên Nhiên (Nature pisachas) – xem mục từ “Quỉ” –ND), trong khi đó một thiểu số có thể trở thành nạn nhân cho hạng đồng cốt, và rút ra một tập hợp các uẩn (Skandhas) mới nơi đồng tử nào thu hút chúng. Số này có thể không nhiều, số phận của chúng có thể là đau buồn nhất. (Thư của Ch. S. 239)
+ Làm sao để tránh chết uổng - Chết chưa hết số, còn gọi là Hoạnh tử:
Chín cái Chết uổng (Tuy vẫn là do Nghiệp báo. Quả báo đến thời thì trổ, nhưng có thể hóa giải, tiêu trừ Nghiệp chướng này nếu chịu tu hành tinh tấn như trong Kinh dạy):
1. A-nan hỏi rằng: Chín loại chết uổng là như thế nào? Bồ-tát Cứu Thoát đáp lại như sau:
Nếu các hữu tình, bệnh tuy không nặng, nhưng không gặp thầy, và không có thuốc, hoặc có gặp thầy, lại bị lầm thuốc, bệnh không đáng chết, mà bị chết uổng;
Lại như tin theo bọn thầy yêu nghiệt, tà ma ngoại đạo, nói bậy họa phước, sinh ra sợ hãi, lòng những hoang mang, coi bói tìm họa, giết các chúng sanh, để cầu thần giúp, gọi các yêu quái, nhờ chúng phù hộ, kéo dài mạng sống, rốt cuộc chẳng được, ngu si mê hoặc, tin điều tà vạy, đầu óc điên đảo, bèn chết bất kỳ, đọa vào địa ngục, chẳng biết ngày ra, đây là thứ nhất trong loại chết uổng.
2. Hai là luật vua, bắt tội tử hình,
3. Ba là săn bắn, làm thú vui chơi, hoặc mê tửu sắc, chơi bời vô độ, bị loài phi nhân, đoạt mất tinh khí,
4. Bốn là hỏa tai,
5. Năm bị chết đuối,
6. Sáu là các loại ác thú cắn chết,
7. Bảy là sẩy chân từ các vách núi,
8. Tám bị thuốc độc, bị phải bùa ngải, hoặc quỷ thây ma,
9. Chín là gặp cảnh đói khát mà chết.
Đó là chín loại, Như Lai đã nói. Ngoài ra chết uổng còn nhiều loại nữa không thể kể hết.
Giảng giải
+ Phần trên nói về trường hợp chết uổng vì đau ốm mà không gặp thầy, không có thuốc, hoặc được thầy thuốc trị bệnh nhưng lại cho lầm thuốc, châm cứu hay mổ xẻ không đúng cách mà phải mạng vong.
+ Bây giờ, nói đến “hai là luật vua, bắt tội tử hình”, loại thứ hai là trường hợp những người, chẳng biết có tội hay không có tội, chẳng biết oan hay ưng, nhưng bị pháp luật xử phải chết. Chẳng qua đấy là quả báo, cái quả của chín loại chết uổng.
+ “Ba là săn bắn, làm thú vui chơi”, thứ ba nói đến những kẻ săn bắn, đi vào núi săn hươu, nai, các con thú rừng, hoặc giả bắn các thứ chim, coi đó là một thú tiêu khiển, hoặc là những kẻ “ham mê tửu sắc, chơi bời vô độ, bị loài phi nhân, đoạt mất tinh khí”, tham đắm sắc dục, không biết tiết chế, còn rượu thì uống vô chừng, đến khi đã say còn lái xe, rủi xe gặp nạn thì mình cũng uổng mạng. Bởi không có chừng mực, không biết tự chế, nên dễ bị các loài phi nhân cướp mất tinh khí. Phi nhân là chỉ các giống yêu tinh, như sơn tinh thủy quái; chúng chẳng kể gì đạo lý, chúng đoạt lấy tinh khí của người để tu luyện nhằm kéo dài sanh mạng của chúng.
“Bốn là hỏa tai”, thứ tư là chết vì lửa đốt, có thể là cháy nhà rồi bị nạn.
“Năm bị chết đuối”, thứ năm là chết đuối.
“Sáu là các loại ác thú cắn chết”, thứ sáu là trường hợp bị ác thú cắn, hoặc giả bị chó sói ăn thịt, bị hổ vồ, bị rắn cắn.
“Bảy là sẩy chân từ các vách núi”, thứ bảy là sẩy chân trên vách đá và rớt xuống chết uổng.
“Tám bị thuốc độc, bị phải bùa ngải, hoặc quỷ thây ma”, thứ tám là những trường hợp như uống phải chất độc, hoặc bị người ta làm pháp yểm. Đại khái pháp yểm như sau: người ta làm một hình nộm bằng rơm, lấy một tờ giấy ghi rõ giờ, ngày, tháng và năm sanh của nạn nhân rồi dán vào hình nộm. Sau đó người ta bắn tên vào người nộm, cứ như vậy trong suốt một trăm ngày thì nạn nhân sẽ chết; có người mắc bùa chú cũng bị chết uổng (hoạnh tử); đây là tà chú, khi niệm những chú đó để làm hại người nào thì tâm thần của nạn nhân không còn làm chủ được mình, thường thường đi tới chỗ tự sát; lại có những câu chú sai khiến con quỷ dựng được các thây ma đứng dậy rồi đi lại trong đêm khuya, đó là trường hợp quỷ thây ma (thi quỷ).
“Chín là gặp cảnh đói khát mà chết”, thứ chín là chết vì đói khát. Đói mà không có gì để ăn, khát không có gì để uống, bởi cơ sự đó mà bị chết uổng.
“Đó là chín loại, Như Lai đã nói. Ngoài ra chết uổng còn nhiều loại nữa không thể kể hết”, đó là những điều Phật tóm lược về chín loại chết uổng, còn như nói rộng ra nữa thì còn nhiều các nạn khác, không sao kể cho đủ được.
Nói về chín loại chết uổng (hoạnh tử) thì ngày nay trên thế gian không thiếu gì nạn nhân đã mắc phải cảnh này. Đó chẳng phải là điều ngẫu nhiên, mà là kết quả của những hành động coi thường nhân quả của họ ngày trước. Tỷ dụ trường hợp uống lầm thuốc chẳng hạn. Cớ làm sao lại xảy ra chuyện đó? Chính là trong một kiếp nào đó, họ đã dùng thuốc độc để hại người. Đã từng gieo cái nhân hại người như vậy thời kiếp này phải chết uổng vì lầm thuốc, vì giải phẫu không đúng cách, vì châm cứu sai.
Lại như kẻ tử tội. Đây là do phán quyết của luật pháp. Lý ưng pháp luật phải công bằng, nhưng trong trường hợp chết uổng này thì có thể là oan, nên cho tới lúc chết mà nạn nhân cũng không biết lý do tại sao.
Thứ ba nói về thú đi săn. Người ta kéo vào núi để săn bắn. Các loại cầm thú đều chạy một cách điên cuồng, chạy thục mạng, nhưng không chạy khỏi cái chết. Ai mà nhẫn tâm khi chứng kiến thảm trạng như vậy! Lại coi đó là một thứ tiêu khiển, lấy sanh mạng chúng sanh làm trò du hý, thực là vô lý hết sức!
Lại như đam mê tửu sắc, ham rượu và sắc dục một cách phóng đãng quá độ, dẫn tới sự say sưa, mất tự chủ rồi làm mồi cho loại phi nhân. Phi nhân nghĩa là không phải giống người, là loại yêu quái, chuyên hút lấy tinh khí của người. Một khi quý vị bị đoạt tinh khí thì quý vị đã mất hết “xăng nhớt” (gasoline) của quý vị rồi còn gì!
Thứ tư là hỏa tai, nạn nhân bị lửa thiêu chết. Nguyên nhân nào vậy? Chỉ vì trước đây quý vị thích ăn thịt “barbecue”, thịt nướng. Nướng thịt kẻ khác thì bây giờ mình bị nướng lại.
Thứ năm là thủy tai, bị chết đuối. Đó là quả báo về những hành động thuở trước đã dìm các sinh linh chết ngộp dưới nước. Tỷ dụ quý vị cho đàn kiến chết chìm dưới nước, rồi một ngày nào đó đích thân quý vị cũng sẽ có dịp được thí nghiệm cảnh bị dìm dưới nước nó ra sao. Lúc đó, khi bị nếm mùi rồi, thân quý vị chìm sâu dưới nước, quý vị chỉ còn uống nước cho bụng quý vị trương lên, vậy là xong cuộc đời.
Thứ sáu là bị ác thú cắn. Quả báo này phát sinh từ kiếp xưa ở cái nết độc ác thích ăn thịt các loãi dã thú như chồn, óc khỉ, chân gấu nướng trên lửa v.v.. nên kiếp này bị dã thú ăn thịt lại. Lại nói ăn cá, phải chọn cá còn đương quậy nhẩy, ăn tươi như vậy mới ngon! Kết quả bây giờ mới đổi thành nạn nhân của các con thú. Súc vật cũng có loại ngôn ngữ của súc vật và biết đâu, khi ăn thịt nạn nhân chúng cũng nhấm nháp, khen ngon: “Ồ! Thịt anh này ngon ghê! Món tiết canh cũng ngon nữa!” Và chúng cũng xúm lại tranh nhau ăn.
Thứ bảy là sẩy chân nơi vách núi. Cớ làm sao ra cơ sự này? Đó là quả báo của hành động cướp giật năm xưa. Lấy túi tiền của người ta chưa đủ, còn thừa lúc sơ ý, xô người ta xuống vực sâu. Tôi có một số người bạn đồng học hồi đó cũng có người bị kẻ gian xô xuống vách núi, may mà họ tin Phật nên không bị rớt xuống vực sâu. Sau đó họ leo lên được thoát nạn. Chuyện này tôi biết rõ lắm.
Thứ tám là bị đầu độc. Lý do chết uổng này là do kiếp trước quý vị đã tìm cách đầu độc người khác, quý vị muốn khống chế người ta, nay thì quý vị bị người khác khống chế lại. Chúng ta có câu: “nhân nào thì quả ấy”, quý vị gây ra nghiệp nào thì lãnh quả của nghiệp ấy. Bởi vậy cho nên mới xảy ra chuyện bùa ếm. Người ta làm những hình nộm, trong đó họ để sợi tóc hay móng tay của nạn nhân, hay họ ghim một tờ giấy trên có ghi tám chữ (bát tự) thuộc về năm sanh, tháng sanh, ngày sanh và giờ sanh của nạn nhân (theo âm lịch, năm tháng ngày giờ đều được ghi bằng can và chi như Giáp tý, Ất sửu v.v..). Người ta trù ếm bằng cách bắn tên, hoặc đốt, hoặc chôn hình nộm này, đại khái tượng trưng cách chết uổng của nạn nhân.
Còn quỷ thây ma (thi quỷ) là nói tới trường hợp có người niệm chú làm cho một thây ma đứng dậy và làm theo đúng sự sai khiến của người đó, ví dụ họ nói như sau: “Vào đêm nay, ngươi phải đi cho ta một trăm dặm, ta sẽ có mặt ở chỗ ấy, chỗ ấy... đợi ngươi”. Dưới hiệu lực của câu chú thây ma cứ theo đúng lệnh, đứng dậy rồi đi giống như một người còn sống vậy.
Loại thứ chín là chết đói, chết khát, chết lạnh, chết nóng. Có những địa phương gặp nạn đói, không có gì để ăn, nên rất đông người bị đói mà chết. Những người đó cứ há miệng ra cười khanh khách, họ cười xong là chết. Tại sao họ cười vậy? Như là họ muốn nói: “Bà con hãy coi tôi đây! Kiếp xưa tôi đã bỏ đói mọi người nên bây giờ tôi gặp quả báo này. Các người biết chưa?” Đại khái là như vậy, họ muốn bảo: “Các người hãy coi tôi làm gương, đừng có bắt chước tôi.” Thật là nhân nào quả ấy, không sai mảy may. (Nguồn: Kinh Dược Sư - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chết bất đắc kỳ tử - Hồn phách Diêm Vương không biết: Ai cũng có thể sanh ra nhưng không ai tránh khỏi cái chết. Mọi người tương lai đều phải chết, có người chết lành có người chết dữ, mỗi người đều có một cách chết, không ai giống ai. Có người chết vì bịnh, có người chết vì đói, có người làm công việc quá sức mà chết, có người bị xe cán chết, có người bị đá núi lăn đè chết, hoặc theo người đi đánh lộn bị người đánh chết, hoặc đi tác chiến bị chết ở mặt trận, hoặc ngộ độc mà chết, hoặc là tự sát mà chết. Có người không muốn chết mà chết, có khi muốn chết lại không chết. Cho nên, đồng là một tiếng "chết" mà cách chết không giống nhau. Tuy cách chết không đồng mà quả báo trong tương lai sau khi chết thì sao? Cũng không giống nhau! Ví như có người chết đột ngột, như bị xe tông, bị nước cuốn, bị lửa thiêu - tức là bất đắc kỳ tử - thì hồn phách của họ Diêm Vương không biết đến, quỷ cũng không biết đến, vậy họ được tự do sao? Nói là tự do nhưng là tự do của quỷ chớ không phải là tự do của người. Người được tự do có lúc còn không theo quy củ huống là quỷ? Quỷ được tự do cũng có thể không theo quy củ; người chết đột ngột (bất đắc kỳ tử) lại bắt kẻ khác thế chỗ cho mình.
Ví dụ, tại một đoạn nào đó trên xa lộ từng xảy ra tai nạn đụng xe chết người thì trong vòng ba năm thế nào cũng có người bị tông chết ở đó. Tại sao thế? Tại vì hồn quỷ chết bất đắc kỳ tử kia đang chực sẵn ở đó, nó nhất định phải làm cho người khác bị tông chết để nó được đi đầu thai, nếu không như thế nó phải ở mãi chỗ đó, không được thác sanh. Nếu là người tự sát hay uống thuốc độc mà chết thì phải vào địa ngục chịu những hình phạt cực kỳ đau đớn. Chịu những hình phạt nào? Khi còn sống nếu uống thuốc độc mà chết, thì xuống địa ngục phải uống thứ nước sắt nấu chảy. Thứ nước đó rót vào bụng, tới đâu ruột gan cháy tới đó. Sau khi bị cháy chết rồi, gặp luồng gió mát thổi qua lại được hồi sinh. Sống lại rồi lại phải uống thứ nước sắt ấy cháy ruột gan chết đi, rồi gặp gió sống lại. Cứ thế, chết đi sống lại để tiếp tục thọ khổ, lại chết đi, liên miên không ngớt. Nếu quý vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì các khổ não về sanh, già, bịnh, chết sẽ dần dần tiêu tan. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Chúng sanh cõi Trời - Người Phát thiện tâm thì ít, trong chốc lát - Phát ác tâm thì nhiều, lại kiên cố
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới, mà giao phó cho ông.
Ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi!
Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
Lược giảng:
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng...”
Trong Phật Giáo, xoa đảnh là một cử chỉ biểu lộ lòng từ bi ái hộ. Ở phẩm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã xoa đảnh Bồ Tát Địa Tạng rồi, bây giờ Đức Phật lại đặc biệt xoa đảnh vị Đại Bồ Tát này thêm một lần nữa, rồi nói rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông khó thể nghĩ bàn.” Thần thông của ông, năng lực của ông, thật không có vị Bồ Tát nào có thể sánh bằng! Sức thần thông này vốn chẳng thể suy lường, chẳng thể luận bàn—có thể nói rằng trội hơn tất cả và là một sự đặc biệt trong những sự đặc biệt—thần lực của Bồ Tát Địa Tạng thật chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được!
“Đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn.” Lòng từ bi của Bồ Tát Địa Tạng đối với chúng sanh cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được. Ngài từng phát nguyện rằng:
“Địa ngục chưa trống không, tôi thề chưa thành Phật,
Chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ Đề.”
Tâm lượng đại từ đại bi bao la như thế rất hiếm có. Các vị Bồ Tát khác, không có vị nào phát đại nguyện lực lớn lao dường ấy, chỉ có Bồ Tát Địa Tạng mới có nguyện lực đại từ đại bi như vậy.
“Trí huệ của ông không thể nghĩ bàn.” Trí huệ rộng lớn của Bồ Tát Địa Tạng cũng rất ít Bồ Tát có thể sánh kịp—cho đến đại trí đại huệ của Ngài cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được.
“Biện tài của ông không thể nghĩ bàn.” Có bốn loại biện tài vô ngại là Từ vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Nhạo thuyết vô ngại biện, và Pháp vô ngại biện. Tài biện luận không hề bị trở ngại của Bồ Tát Địa Tạng cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được.
“Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được!” Giả sử có thỉnh mời chư Phật trong khắp mười phương ngợi khen những kỳ tích bất khả tư nghị cũng như những sự vi diệu về thần lực, đức từ bi, trí huệ, cùng biện tài của Bồ Tát Địa Tạng, thì cho dù trải qua một ngàn đại kiếp, một vạn đại kiếp cũng không thể nào kể cho xiết, nói cho cùng được!
“Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ—trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, cùng nhân và phi nhân, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người—những chúng sanh ở cõi người và những chúng sanh trên cõi trời, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới—Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, mà giao phó cho ông. Ta nay phó thác, gởi gắm những chúng sanh này cho ông!”
Vậy, “ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi! Ông cần phải bảo hộ tất cả những chúng sanh đó, làm cho họ không bị đọa lạc vào ác đạo.”
“A-tỳ” cũng gọi là “vô gián”; địa ngục Đại A-Tỳ chính là địa ngục Đại Vô Gián.
Quý vị nên biết, một ngày một đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương dài bằng năm mươi năm ở cõi nhân gian của chúng ta; còn một ngày một đêm ở cõi nhân gian chúng ta thì dài bằng năm trăm năm ở chốn địa ngục. Tại sao như vậy? Bởi vì đời sống ở cõi trời vô cùng vui sướng, mà khi vui vẻ sung sướng thì người ta cảm thấy thời giờ trôi qua rất nhanh! Ở cõi nhân gian vì có khổ não, cho nên năm mươi năm của chúng ta là một thời gian rất dài, song đó chẳng qua chỉ bằng một ngày một đêm trên cõi trời mà thôi.
Lại nữa, một ngày một đêm ở cõi nhân gian của chúng ta thì tương đương với năm trăm năm ở chốn địa ngục. Nếu so với cõi nhân gian thì ở địa ngục còn thống khổ hơn nhiều, mà khi phải chịu thống khổ thì người ta cảm thấy thời giờ trôi qua rất chậm chạp. Như khi chúng ta phải làm một việc gì đó chẳng hạn, nếu trong lòng cứ đắn đo, phiền muộn, thì sẽ thấy ngày dài lê thê; còn nếu tâm trí thơ thới, vui vẻ, thì lại thấy thời giờ trôi qua vùn vụt, hết một ngày lúc nào không hay!
Sau khi căn dặn Bồ Tát Địa Tạng chớ để cho các chúng sanh đó bị đọa vào địa ngục Vô Gián dù chỉ trong một ngày một đêm, huống hồ là vĩnh viễn không có ngày được thoát ra, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi: “Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
Chí khí và tâm tánh của tất cả chúng sanh ở thế giới “kham nhẫn,” tức cõi Ta Bà ở Nam Thiệm Bộ Châu, đều không được an định, có lúc họ tin có lúc họ lại không tin, cứ luôn thay đổi. Đã thế, đa số lại tiêm nhiễm nhiều thói ác. Ví dụ có nhiều người, nếu quý vị mời họ đến nghe kinh, thì họ lại có vẻ không thích, không hăng hái lắm; đặc biệt là họ còn lo sợ rằng nghe kinh rồi thì bao nhiêu tội ác của họ sẽ biến mất hết!!! Vì sao ư? Đó là vì họ đã quen làm điều ác, lại còn tìm cách che đậy tội lỗi của mình, không muốn sửa đổi, chẳng chịu hối cải.
Ví dụ trò cờ bạc, nhiều người chẳng cần phải có ai bày vẽ cho cả, chỉ đến sòng bài nhìn lướt qua một lượt là tự nhiên biết cách bấm máy, thắng hay thua, được hay mất, thì từ từ tự rút kinh nghiệm. Những người thường đến các sòng bài ở Reno, Las Vegas, đều rất thông minh—họ chỉ nhìn thoáng qua là biết cách chơi ngay, chẳng cần ai chỉ dẫn mà vẫn rất thành thạo. Tuy nhiên, nếu quý vị bảo họ học điều hay lẽ phải, thì dù có tận tâm dạy dỗ đến thế nào đi nữa, họ cũng không lãnh hội được; cho nên nói “kẻ theo thói ác thì nhiều.”
Đức Phật đã sớm biết rõ mọi thói hư tật xấu của chúng sanh chúng ta; nhìn chúng sanh chúng ta, Ngài thấu rõ được đến tận xương tủy, biết được những gì đang tiềm ẩn trong tận cùng tâm tánh của chúng ta!
Kinh văn:
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất; nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ.”
Lược giảng:
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất.” “Chốc lát” là khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi—chỉ trong một thoáng là liền thối thất thiện tâm, không còn gì cả.
Có nhiều người phát tâm làm việc thiện nhưng chẳng được bao lâu lại hối tiếc: “Ôi! Tôi bố thí nhiều như vậy, chẳng biết có được đền bù cái gì không?” Như vua Lương Võ Đế cũng đã từng thắc mắc: “Tôi cất biết bao nhiêu là cảnh chùa, giúp độ được biết bao nhiêu là Tăng sĩ, lại từng bố thí cúng dường nhiều vô số kể; vậy chẳng hay công đức của tôi to lớn đến cỡ nào? Chẳng hay tôi có được công đức hay chăng?” Và sau đó thì nhà vua lại sanh lòng thối chuyển.
“Nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng.” “Ác duyên” tức là duyên bất tịnh, mà duyên bất tịnh lại chính là nhân duyên đọa lạc! Phàm quý vị gây ra những nhân duyên đọa lạc thì đều được xem như là gây tạo ác duyên, chẳng hạn như làm những việc ngu xuẩn, khởi lòng sân hận, hoặc sanh lòng tham vậy. Nếu quý vị có tâm tham dục thì sẽ tham tài, tham sắc; có tâm sân hận thì sẽ muốn giết người, đốt nhà; có tâm ngu si thì sẽ muốn đạt được những điều không thể đạt được. Đó đều là những ác duyên. Một khi gặp phải ác duyên thì thói ác mỗi niệm mỗi tăng trưởng—cái niệm xấu ác, cái tâm xấu ác mỗi lúc mỗi lớn mạnh hơn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ. Bởi chúng sanh khó độ như vậy, dầu họ có phát thiện tâm đi nữa thì cũng chỉ trong khoảnh khắc là liền thối thất, nếu lại gặp ác duyên thì tâm ác càng lúc càng tăng trưởng; cho nên Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, phải phân chia thân hình của Ta, dùng trăm ngàn vạn ức pháp môn phương tiện để giáo hóa chúng sanh, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ, khiến cho tất cả đều được ly khổ đắc lạc.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sanh cõi Trời - Người Phát thiện tâm thì ít, trong chốc lát - Phát ác tâm thì nhiều, lại kiên cố
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới, mà giao phó cho ông.
Ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi!
Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất; nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ.”
“Này Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng trời, người giao phó cho ông. Vào đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam thiện nữ nào, ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, thì ông nên dùng Đạo lực mà ủng hộ người đó, làm cho lần lần tu Đạo Vô Thượng, chớ để thối thất.”
Lược giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói: “Này Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng trời, người giao phó cho ông. Ta kỳ vọng rất lớn nơi ông. Ta đem hết thảy chúng sanh trên cõi trời và ở cõi nhân gian mà phó thác, gởi gắm cho ông.”
“Vào đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam thiện nữ nào ...” “Đời vị lai” tức là chỉ cho thế hệ chúng ta, bao gồm tất cả quý vị và tôi hiện nay. Đương thời, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni “ký hiệp ước,” phó thác chúng sanh cho Bồ Tát Địa Tạng; trong số các chúng sanh đó thì có cả quý vị và tôi nữa, bởi Đức Phật có nói là các “thiện nam thiện nữ”!
Quý vị đều là những “thiện nam tử, thiện nữ nhân,” mà tôi cũng là một trong những “thiện nam tử, thiện nữ nhân”; chúng ta tuyệt đối không phải là các “ác nam tử, ác nữ nhân”! “Ác nam tử, ác nữ nhân” thì không thể nào ngồi yên ở đây được; bởi nếu đến đây, họ sẽ ngồi trên ghế nệm êm ái mà cứ thấy xốn xang như ngồi trên bàn đinh, chỉ chực nhổm dậy bỏ chạy. Còn quý vị là những “thiện nam tử, thiện nữ nhân,” hễ đến được chốn này thì ngồi xuống rồi là không muốn bỏ đi nữa, càng nghe giảng càng thấy thích thú, càng thấy thấm thía, có ý nghĩa, cho nên chẳng muốn ra về.
“Ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn ...” Quý vị xem, chúng ta có hy vọng rồi đó! Tất cả chúng ta đều không nên lo lắng bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Địa Tạng đã “ký hiệp ước” với nhau rồi, đã “bàn giao” hết sức rõ ràng rồi! Đức Phật nói rằng: “Trong Phật Pháp, nếu có kẻ nào chỉ cần trồng một chút căn lành, chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, thì ông—Bồ Tát Địa Tạng—nên dùng Đạo lực mà ủng hộ người đó. Tuy rằng việc thiện mà họ làm được còn ít ỏi, nhưng đều phát xuất từ thiện tâm, ông phải dùng Đạo nhãn để quán sát, vận dụng Đạo lực—thần thông, thần lực, đức từ bi, trí huệ, biện tài—của mình để bảo vệ ủng hộ những người mới trồng được đôi chút thiện căn này, làm cho lần lần tu Đạo Vô Thượng, chớ để thối thất. Ông phải khiến cho họ mỗi ngày mỗi tu nhiều thêm một chút, mỗi ngày mỗi hiểu rõ về Đạo Vô Thượng hơn một chút, đừng để cho họ thối thất tâm Bồ Đề.”
Có người hoài nghi: “Trong kinh nói rằng mặc dù trồng ít căn lành như vậy mà vẫn được Bồ Tát Địa Tạng ủng hộ; song chúng con làm rất nhiều việc thiện mà sao lại không thấy có được sự ủng hộ của Ngài? Vì sao chúng con chưa thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát đến ủng hộ mình?”
Quý vị chưa thấy Bồ Tát Địa Tạng ủng hộ quý vị ư? Quý vị có biết được không? Quý vị thử nghĩ lại xem, quý vị có từng bị xe đụng đáng lẽ phải chết, thế mà quý vị chỉ bị thương xoàng thôi chứ không nguy đến tánh mạng? Đó chính là nhờ Bồ Tát Địa Tạng âm thầm che chở cho quý vị vậy! Hoặc là quý vị có lúc đang đau nặng thì bỗng dưng được thuyên giảm, bình phục; nếu không phải nhờ Bồ Tát Địa Tạng che chở thì quý vị có thể có được sự cảm ứng như thế chăng?
Lại có người nói: “Con chưa hề bị xe đụng, cũng chẳng hề đau ốm, thế thì Bồ Tát Địa Tạng không che chở cho con sao?” Ồ! Thế ông còn nhớ không, có một lần ông đi biển, thuyền chòng chành cơ hồ sắp lật úp vậy, nhưng Bồ Tát Địa Tạng đã phù hộ ông, khiến thuyền không bị lật, có điều là ông không hay không biết gì cả đó thôi!
Lại có người nói: “Con chưa hề đi thuyền!” Thì ông có đi máy bay rồi, và máy bay chẳng gặp rủi ro—đó cũng là nhờ được sự bảo hộ của Bồ Tát Địa Tạng đấy!
Lại cũng có nhiều người ngồi trên máy bay mà cứ nơm nớp lo sợ: “Chẳng biết máy bay có bị rớt hay không? Bay cao đến thế kia!” Tại sao họ sợ? Đó là do trong quá khứ họ đã gây tạo nghiệp chướng quá nặng nề, cho nên bây giờ sợ rằng nghiệp chướng này sẽ hại mình bị đọa thêm, vì thế mới sanh lòng sợ hãi. May thay, họ đã học Phật Pháp, cho nên phi cơ không bị rớt!
Có người lại nói: “Tôi không sợ gì cả!” Ông không sợ gì cả ư? Đó là nhờ Bồ Tát Địa Tạng phù hộ và ban cho ông lòng can đảm đấy!
Trên đây là một vài trường hợp điển hình về sự linh cảm của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bất luận quý vị là ai, tất cả quý vị đều nên tin tưởng Địa Tạng Vương Bồ Tát bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài đã “ký hiệp ước” tại cung trời Đao Lợi—Ngài sẽ bảo hộ quý vị, tôi và tất cả chúng sanh đời hiện tại, bởi vì đó là trách nhiệm của Ngài, quý vị không thể không tin tưởng! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sanh cõi Trời - Người Phát thiện tâm thì ít, trong chốc lát - Phát ác tâm thì nhiều, lại kiên cố
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàn của ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới, mà giao phó cho ông.
Ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi!
Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất; nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ.”
Lược giảng:
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất.” “Chốc lát” là khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi—chỉ trong một thoáng là liền thối thất thiện tâm, không còn gì cả.
Có nhiều người phát tâm làm việc thiện nhưng chẳng được bao lâu lại hối tiếc: “Ôi! Tôi bố thí nhiều như vậy, chẳng biết có được đền bù cái gì không?” Như vua Lương Võ Đế cũng đã từng thắc mắc: “Tôi cất biết bao nhiêu là cảnh chùa, giúp độ được biết bao nhiêu là Tăng sĩ, lại từng bố thí cúng dường nhiều vô số kể; vậy chẳng hay công đức của tôi to lớn đến cỡ nào? Chẳng hay tôi có được công đức hay chăng?” Và sau đó thì nhà vua lại sanh lòng thối chuyển.
“Nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng.” “Ác duyên” tức là duyên bất tịnh, mà duyên bất tịnh lại chính là nhân duyên đọa lạc! Phàm quý vị gây ra những nhân duyên đọa lạc thì đều được xem như là gây tạo ác duyên, chẳng hạn như làm những việc ngu xuẩn, khởi lòng sân hận, hoặc sanh lòng tham vậy. Nếu quý vị có tâm tham dục thì sẽ tham tài, tham sắc; có tâm sân hận thì sẽ muốn giết người, đốt nhà; có tâm ngu si thì sẽ muốn đạt được những điều không thể đạt được. Đó đều là những ác duyên. Một khi gặp phải ác duyên thì thói ác mỗi niệm mỗi tăng trưởng—cái niệm xấu ác, cái tâm xấu ác mỗi lúc mỗi lớn mạnh hơn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ. Bởi chúng sanh khó độ như vậy, dầu họ có phát thiện tâm đi nữa thì cũng chỉ trong khoảnh khắc là liền thối thất, nếu lại gặp ác duyên thì tâm ác càng lúc càng tăng trưởng; cho nên Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, phải phân chia thân hình của Ta, dùng trăm ngàn vạn ức pháp môn phương tiện để giáo hóa chúng sanh, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ, khiến cho tất cả đều được ly khổ đắc lạc.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cõi Địa ngục được cảm ra bởi ác nghiệp của chúng sinh. Cõi này là nơi mà nỗi thống khổ của chúng sinh lên đến cùng cực và kéo dài vô tận, với hai loại điển hình là địa ngục nóng và lạnh. Những ác nghiệp được tạo bởi tâm hận thù, sân giận tột độ là nguyên nhân dẫn tới cõi này.
Nhân sinh vào cõi này là phạm 5 trọng nghiệp (giết cha, giết mẹ, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu) và 10 ác nghiệp (sát đạo, dâm vọng, ác khẩu, hai lưỡi, thêu dệt, nói dối, tham, sân, si).(Xem nguồn)
+ Thời gian ở Cõi địa ngục: .... Đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát: “ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi! Ông cần phải bảo hộ tất cả những chúng sanh đó, làm cho họ không bị đọa lạc vào ác đạo.”
“A-tỳ” cũng gọi là “vô gián”; địa ngục Đại A-Tỳ chính là địa ngục Đại Vô Gián.
Quý vị nên biết, một ngày một đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương dài bằng năm mươi năm ở cõi nhân gian của chúng ta; còn một ngày một đêm ở cõi nhân gian chúng ta thì dài bằng năm trăm năm ở chốn địa ngục. Tại sao như vậy? Bởi vì đời sống ở cõi trời vô cùng vui sướng, mà khi vui vẻ sung sướng thì người ta cảm thấy thời giờ trôi qua rất nhanh! Ở cõi nhân gian vì có khổ não, cho nên năm mươi năm của chúng ta là một thời gian rất dài, song đó chẳng qua chỉ bằng một ngày một đêm trên cõi trời mà thôi.
Lại nữa, một ngày một đêm ở cõi nhân gian của chúng ta thì tương đương với năm trăm năm ở chốn địa ngục. Nếu so với cõi nhân gian thì ở địa ngục còn thống khổ hơn nhiều, mà khi phải chịu thống khổ thì người ta cảm thấy thời giờ trôi qua rất chậm chạp. Như khi chúng ta phải làm một việc gì đó chẳng hạn, nếu trong lòng cứ đắn đo, phiền muộn, thì sẽ thấy ngày dài lê thê; còn nếu tâm trí thơ thới, vui vẻ, thì lại thấy thời giờ trôi qua vùn vụt, hết một ngày lúc nào không hay! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P13 - Kinh Địa Tạng)
+ Địa ngục vô gián:
Ma Da Phu Nhân, mẫu thân của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, lại bạch cùng Bồ Tát Ðịa Tạng: "Thế nào gọi là địa ngục Vô Gián? Vì sao địa ngục đó lại có tên là ‘vô gián’?"
Ngài Ðịa Tạng thưa rằng: "Thánh Mẫu! Tất cả địa ngục đều ở trong núi Ðại Thiết Vi. Trong số đó, địa ngục lớn có mười tám chỗ—có mười tám sở ngục thuộc loại lớn nhất; thứ kế có năm trăm chỗ, danh hiệu đều khác nhau; thứ kế nữa lại có đến ngàn trăm, danh hiệu cũng đều khác nhau."
"Chỉ có một ngục tên là Vô Gián. Ngục này chu vi một vạn tám ngàn dặm; tường ngục cao một ngàn dặm, toàn bằng sắt và có lửa cháy suốt trên suốt dưới. Trên tường ngục có rắn sắt, chó sắt phun lửa đuổi nhau chạy bên này sang bên kia."
"Trong ngục có giường rộng khắp muôn dặm; một người thọ tội thì tự thấy thân mình nằm chật cả giường, ngàn muôn người thọ tội thì mỗi người cũng đều tự thấy thân mình đầy chật cả giường. Ðó là do các nghiệp chiêu cảm mà gặt lấy quả báo như thế."
"Lại nữa, các tội nhân còn phải chịu đủ sự khổ sở; như có cả ngàn trăm Dạ-xoa cùng các ác quỷ, răng nanh như đao kiếm, mắt như ánh điện chớp, tay có móng đồng, lôi kéo người tội.
Lại có quỷ Dạ-xoa cầm cây kích sắt lớn đâm vào mình người tội, hoặc đâm trúng miệng mũi, hoặc đâm trúng bụng lưng, rồi hất tung lên trên không và hứng lấy, hoặc để lại trên giường.
Lại có chim ưng bằng sắt mổ ăn mắt người tội.
Lại có rắn sắt quấn cổ người tội.
Tội nhân còn bị đóng đinh dài vào các khớp xương và lóng đốt trong thân, kéo lưỡi cày bừa, móc ruột bằm chặt, rót nước đồng vào miệng, quấn sắt nóng quanh thân; muôn lần chết đi sống lại.
Nghiệp cảm như thế, trải qua ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được."
"Lúc thế giới này hư hoại thì sanh nhờ qua thế giới khác; thế giới khác đó hư hoại thì chuyển sang phương khác; lúc phương khác đó hư hoại thì lại lần lượt chuyển đi; rồi sau khi thế giới này thành thì trở về lại. Những sự tội báo trong ngục Vô Gián là như thế.
Lại do có năm sự nghiệp cảm, nên gọi là Vô Gián. Những gì là năm?
Một là ngày đêm thọ tội, cho đến bao kiếp, không lúc nào dứt, nên gọi là Vô Gián.
Hai là một người cũng đầy chật, nhiều người cũng đầy chật, nên gọi là Vô Gián.
Ba là có những khí cụ hành hình người tội như cái chỉa, gậy, chim ưng, rắn, chó sói, chó, cối, cưa, đục, giũa, búa rìu, vạc dầu sôi, lưới sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống niềng đầu, nước sắt nóng rưới thân; và khi đói thì nuốt viên sắt, khát uống nước sắt ...; quanh năm suốt kiếp, cho đến na-do-tha kiếp, khổ sở triền miên, không hề gián đoạn, nên gọi là Vô Gián.
Bốn là bất luận kẻ nam người nữ, Khương Hồ di địch, người già trẻ nhỏ, kẻ sang người hèn, hoặc rồng hoặc thần, hoặc trời hoặc quỷ, hễ gây tội ác thì chiêu cảm lấy nghiệp, tất cả đồng chịu như nhau, nên gọi là Vô Gián.
Năm là nếu bị đọa vào địa ngục này, thì từ khi mới vào cho tới trăm ngàn kiếp, mỗi ngày mỗi đêm đều muôn lần chết đi muôn lần sống lại, muốn cầu tạm ngừng trong chừng một niệm cũng không được, trừ phi nghiệp tội tiêu hết mới được thọ sanh; do cứ liên miên như thế nên gọi là Vô Gián."
Ðịa Tạng Bồ Tát thưa với Thánh Mẫu rằng: "Nói sơ lược về địa ngục Vô Gián là như thế. Nếu nói rộng ra về tên của những khí cụ hành tội cùng những sự thống khổ trong địa ngục đó, thì trong suốt một kiếp cũng không thể nào nói hết được!"
Ma Da Phu Nhân nghe xong, ưu sầu chắp tay đảnh lễ mà lui ra. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tán thán Địa Tạng Vương Bồ Tát
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Bồ Tát Địa Tạng có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Đề. Nếu nói về những việc lợi ích nhờ được thấy, được nghe của chư chúng sanh, thì trong cả trăm ngàn kiếp cũng không thể nói hết được.
Vì thế, này Quán Thế Âm! Ông hãy dùng thần lực mà lưu bố kinh này, làm cho chúng sanh ở thế giới Ta Bà trong trăm ngàn vạn kiếp luôn được hưởng sự an lạc.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Ta xem Địa Tạng sức oai thần,
Hằng hà sa kiếp nói chẳng cùng.
Thấy, nghe, một niệm chiêm ngưỡng lễ,
Lợi ích trời, người vô lượng sự.
Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc rồng, thần,
Báo tận sẽ sa vào đường ác,
Chí tâm quy y thân Đại Sĩ,
Thọ mạng chuyển tăng, tội chướng trừ.”
“Trẻ thơ sớm mất tình phụ mẫu,
Chẳng rõ thần hồn lạc nơi đâu,
Anh em chị em cùng thân thuộc,
Sanh trưởng đến nay chẳng biết nhau.
Hoặc nặn hoặc vẽ hình Đại Sĩ,
Cảm thương chiêm lễ chẳng muốn rời,
Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu,
Bồ Tát tất hiện thân vô biên,
Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nao,
Dầu sa ác thú cũng ra mau;
Nếu được sơ tâm chẳng thối thất,
Liền đặng xoa đảnh, thọ Thánh ký.”
“Bồ Đề vô thượng muốn tu hành,
Thậm chí lìa xa khổ Tam Giới,
Người này đã phát đại bi tâm,
Trước nên chiêm lễ tượng Đại Sĩ,
Hết thảy nguyện ước chóng thành tựu,
Nghiệp chướng vĩnh viễn chẳng ngăn đặng.
Có người phát tâm tụng kinh điển,
Muốn độ quần mê vượt bỉ ngạn,
Dầu lập thệ nguyện chẳng nghĩ bàn,
Đọc rồi liền quên, luôn sót mất.
Người này nghiệp chướng khiến u mê,
Học Đại Thừa kinh chẳng nhớ được.
Cúng dường Địa Tạng với hương hoa,
Y phục, uống ăn, cùng ngoạn cụ,
Bày chén nước trong trước Đại Sĩ,
Cách một ngày sau bưng lấy uống.
Sanh lòng trân trọng, cữ ngũ tân,
Rượu, thịt, tà dâm, cùng vọng ngữ.
Hăm mốt ngày liền chớ sát sanh,
Chí tâm nhớ tưởng Đại Sĩ danh.
Trong mộng tất thấy thân vô biên,
Thức giấc nhĩ căn liền lanh lợi,
Đại Thừa kinh giáo nghe qua tai,
Suốt ngàn vạn đời mãi chẳng quên.
Chính nhờ Đại Sĩ bất tư nghì,
Thầm giúp người kia được huệ tài.”
“Chúng sanh nghèo khổ lại bệnh tật,
Nhà cửa hung suy, quyến thuộc lìa,
Ngủ mê mộng mị không an giấc,
Cầu chi cũng hỏng, chẳng toại lòng,
Chí tâm chiêm lễ tượng Địa Tạng,
Tất cả việc ác thảy tiêu trừ,
Cho đến mộng mị đều an ổn,
Quỷ thần ủng hộ, dư ăn mặc.
Muốn vào núi rừng, qua sông biển,
Cầm thú độc dữ cùng người ác,
Ác thần, ác quỷ, với ác phong,
Hết thảy tai nạn, mọi khổ não,
Chỉ cần chiêm lễ cùng cúng dường,
Địa Tạng Bồ Tát Đại Sĩ tượng,
Núi rừng biển cả dẫu có vào,
Tất cả sự ác đều tiêu sạch.
Quán Âm hãy lắng nghe Ta nói,
Địa Tạng vô tận không nghĩ bàn,
Trăm ngàn muôn kiếp chẳng kể xiết,
Rộng tuyên Đại Sĩ sức như vậy!
Như người nghe đến Địa Tạng danh,
Thậm chí thấy hình cùng chiêm lễ,
Hương hoa, thực phẩm, và y phục,
Cúng dường trăm ngàn hưởng diệu lạc.
Nếu đem hồi hướng khắp Pháp Giới,
Rốt ráo thành Phật, thoát sanh tử.
Vì thế, Quán Âm, ông hãy nên,
Bảo khắp Hằng sa các cõi nước!”
* Mời xem Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng giải Kinh văn rất sâu sắc. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người trí nhớ kém Tu vẫn giác ngộ.
Châu-lợi-bàn-đà-già (Tiểu Ðịa Ðạo) cùng với Bàn-đà-già (Ðịa Ðạo) là hai anh em. ... Anh sanh ra như thế nào thì em cũng sanh ra đúng như thế đó, cách sanh thì giống nhau, nhưng trí huệ thì lại khác nhau xa. Người anh thì thông minh tuyệt đỉnh, còn người em thì ngu si quá mức. Ngu si đến cỡ nào? Ngu si đến nỗi nửa bài kệ học cũng không thuộc. Phật bảo năm trăm vị La-hán dạy cho ông một bài kệ:
Giữ miệng, nhiếp tâm, thân không phạm,
Chớ hại tất cả loài hữu tình,
Khổ hạnh vô ích nên xa lánh,
Hành giả như thế mới độ sanh.
Giữ miệng, nhiếp tâm không cho buông lung, thân không phạm giới, đó là giữ ba nghiệp thanh tịnh. Ðối với bất cứ chúng sanh nào cũng không nên làm cho họ sanh phiền não, là chẳng nên để cho họ vì mình mà sanh phiền não....
Năm trăm vị La-hán mỗi ngày thay phiên nhau dạy Châu-lợi-bàn-đà-già học bài kệ tụng này, học rất lâu mà ông vẫn không thuộc. Dù năm trăm vị La-hán đều có thần thông dạy ông đọc một lần, hai lần, ba lần, bốn lần, năm lần, sáu lần..., dạy rồi hỏi ông, ông lại cũng không nhớ. Vì thế người anh ông nổi giận mới bảo ông hoàn tục, không nên đi tu nữa. Nhưng Tiểu Ðịa Ðạo trí nhớ quá kém cõi mà tánh giận hờn lại quá lớn, mới nói với anh rằng: "Anh không cho tôi xuất gia thì tôi chết cho anh xem!" Nhơn đó ông ra sau vườn hoa định treo cổ. Bấy giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni biến thành vị thần cây, nói với ông: "Anh là phần anh, còn ông ở đây tu hành có sao đâu."
Tiểu Ðịa Ðạo nghe nói nghĩ thầm: "Phải đấy! Anh là anh, ta là ta. Anh không có quyền bảo ta không thể xuất gia."
Ðức Phật lại nói: "Bây giờ ta dạy ông một câu Chửu tảo, tức là quét đất, quét tâm của ông, quét sạch những bụi bặm trong tâm của ông."
Tiểu Ðịa Ðạo nghe nói nghĩ thầm: "Phải đó! Quét những bụi dơ trong tâm mình cho sạch." Tuy nhiên, ông nhớ được chữ Chửu thì quên mất chữ Tảo; nhớ được chữ Tảo lại quên mất chữ Chửu; giống như chúng ta niệm Phật, càng niệm vọng tưởng càng nhiều. Nhưng ông ta là người cố gắng không biếng lười, từ sáng tới chiều "Chửu tảo" quét tâm mình. Niệm tới niệm lui mãi, không đầy một tuần lễ, được hoát nhiên khai ngộ. Một khi đã khai ngộ thì cái gì cũng rõ biết hết, thông đạt được thật tướng các pháp, so với anh ông thì ông thông minh gấp nhiều lần. Cho nên người ngu si chỉ cần dụng công tu hành thì ai cũng có thể khai ngộ được. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Pháp tu cho người trí nhớ kém - Nghiệp chướng sâu dày => Thành trí sáng - Nhớ dai:
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng, dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được; những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng.”
Lược giảng:
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa—các sách kinh Phật và điển chương—sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng ...” “Đọc” tức là nhìn vào sách mà đọc; còn “tụng” là đọc mà không cần nhìn vào sách bởi đã thuộc nằm lòng.
Những người đó vừa nhìn thấy các kinh điển Đại Thừa thì nâng niu, trân quý hơn bất kỳ báu vật nào khác, và liền phát tâm Đại Thừa không thể nghĩ bàn mà lập nguyện rằng: “Tôi nhất quyết phải đọc tụng bộ kinh này. Bất luận thế nào tôi cũng phải học thuộc bộ kinh này!” Thế nhưng, “dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được.” Những người đó phát tâm bất khả tư nghì, có chí nguyện muốn đọc tụng các kinh điển Đại Thừa, và còn gặp được bậc minh sư tận tâm dạy cho cách đọc kinh, xem kinh nữa. Tuy nhiên, họ cứ học thuộc rồi lại quên. Mặc dù họ chăm chỉ cần cù học tập trong suốt một thời gian dài—có thể là trong vài tháng mà cũng có thể là trong một năm hoặc nhiều năm—họ vẫn không thể nào đọc cho trôi chảy, tụng cho nhuần nhuyễn được! Vì sao họ cứ học rồi lại quên, phải học đi học lại mãi như thế?
“Những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch ...” Đó là do bị nghiệp chướng từ đời trước ngăn che, khiến họ không thể nào thuộc được kinh điển. Vì nghiệp chướng, mà họ cảm thấy lười biếng, không muốn tụng kinh. Vì nghiệp chướng, mà lúc họ học kinh thì cơn buồn ngủ ập đến. Vì nghiệp chướng, mà lúc họ muốn đọc tụng thì đầu óc lại hôn trầm. Tuy nhiên, cũng thật là kỳ lạ, khi không tụng kinh thì họ thấy đầu óc rất tỉnh táo, nhưng hễ tụng kinh thì họ lại cảm thấy buồn ngủ—cứ đặt quyển kinh xuống, không tụng nữa, thì con ma ngủ bỏ đi; mà hễ cầm quyển kinh lên để tụng thì con ma ngủ lại kéo tới!
Tôi tin rằng vài người trong quý vị đã có kinh nghiệm về việc này. Quý vị muốn nghe kinh ư? Ngay tức khắc cơn buồn ngủ xâm chiếm quý vị! Ngược lại, nếu quý vị nói chuyện thị phi, nói những chuyện vô ích, thì càng nói càng hăng say, càng nói càng hào hứng, nói đến nỗi nước miếng văng tới tấp như mưa vậy mà cũng chẳng thấy mệt mỏi hoặc buồn ngủ chút nào!
“Cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng.” Do vì nghiệp chướng chưa được tiêu trừ nên họ không có khả năng đọc tụng, không có được sức nhớ dai, không thể học thuộc kinh điển Đại Thừa.
Kinh văn:
“Những hạng người này, khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thì nên đem hết bổn tâm mà cung kính bày tỏ; rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, cùng tất cả đồ chơi cúng dường Bồ Tát. Lại đem một chén nước trong đặt trước Bồ Tát một ngày một đêm, sau đó chắp tay thỉnh để uống, mặt day về hướng Nam; khi nước sắp vào miệng phải chí tâm trịnh trọng. Uống nước xong, phải kiêng cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày. Những người thiện nam thiện nữ này, trong giấc chiêm bao sẽ thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên đến chỗ họ ở mà rưới nước quán đảnh cho. Những người này thức dậy liền được thông minh, các kinh điển một phen lọt vào nhĩ căn thì liền nhớ mãi, không còn quên một câu kinh hay một bài kệ nữa!”
Lược giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Những hạng người này, khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thì nên đem hết bổn tâm mà cung kính bày tỏ ...” “Bày tỏ” tức là trình bày, nói rõ ý kiến của mình. Bày tỏ ý kiến gì?
Những người đó chớ nên buồn bã ưu sầu vì sự kém nhớ dễ quên, học đâu quên đó của mình, chỉ cần khi họ nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, trông thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, họ nên dốc trọn vẹn bổn tâm—tức là “diệu minh chân tâm,” cái tâm chân thật, vi diệu, sáng suốt của chính mình chứ không phải cái tâm gian dối xảo trá— mà cung kính thưa trình với Địa Tạng Vương Bồ Tát, khấn nguyện rằng: “Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát! Xin Ngài từ bi giúp con dẹp trừ con ma ngủ, xua tan mọi ma chướng đang ngăn che trí nhớ của con, để cho đầu óc con được sáng suốt minh mẫn, có khả năng ghi nhớ thật tốt!”
“Rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, cùng tất cả đồ chơi cúng dường Bồ Tát.” “Thức uống” ở đây không phải là rượu, mà là nước lọc, nước đã đun sôi để uống. Quý vị chớ lầm “thức uống” này là rượu; không phải vậy đâu! Nếu quý vị uống rượu thì trí nhớ của quý vị sẽ càng tệ hại hơn nữa đấy!
Quý vị đem các món đồ chơi cúng dường Bồ Tát để làm gì? Bồ Tát cũng cần đồ chơi sao? Bồ Tát cũng thích đồ chơi sao? Thật ra, ngay cả các đồ chơi, như trái banh của trẻ con, đều có thể đem cúng dường cho Bồ Tát Địa Tạng được cả. Địa Tạng Vương Bồ Tát không nhất thiết là sẽ chơi đá banh, nhưng nếu quý vị đem những đồ vật mà mình yêu thích đến cúng dường Ngài, thì Ngài rất hoan hỷ.
“Lại đem một chén nước trong—phải là thứ nước thật tinh khiết, không được dùng nước dơ—đặt trước Bồ Tát một ngày một đêm. Những người đó nên lấy một chén nước trong đặt trước mặt Địa Tạng Vương Bồ Tát để cúng dường suốt một ngày và một đêm. Sau đó chắp tay thỉnh để uống, mặt day về hướng Nam; khi nước sắp vào miệng phải chí tâm trịnh trọng.” Lúc uống chén nước này, họ phải ngoảnh mặt về hướng Nam và phải hết sức cung kính, trân trọng, phải đem lòng chí thành khẩn thiết mà quán tưởng rằng Địa Tạng Vương Bồ Tát đã gia trì chén nước này—tôi nhận thấy rằng điều này vô cùng quan trọng.
“Uống nước xong, phải cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ cùng các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày.” Sau khi uống chén nước đó rồi, thì đừng ăn năm thứ có mùi vị hăng nồng gọi là “ngũ tân”—tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén (hưng cừ). Năm thứ này đều làm gia tăng sự hôn trầm, khiến con người trở nên ngu si thêm và tâm dâm dục càng lớn mạnh hơn, cho nên chúng ta cần phải kiêng cữ. “Cữ” tức là kiêng cữ, không nên dùng—những người đó phải cẩn thận tránh dùng năm món hăng nồng này, đừng dùng rượu thịt, đừng có hành vi sắc dục, đừng nói dối, và đừng làm những việc giết hại.
Sau khi kiêng cữ, ngăn ngừa như thế trong một tuần lễ hoặc ba tuần lễ, “những người thiện nam thiện nữ này, trong giấc chiêm bao sẽ thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên—Pháp thân vô biên—đến chỗ họ ở mà rưới nước quán đảnh cho.” “Rưới nước quán đảnh cho” tức là Bồ Tát Địa Tạng rưới nước cam lồ trên đỉnh đầu của các thiện nam tín nữ đó.
Trong Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn có một ấn pháp gọi là “Tay Cam Lồ” (Cam Lồ Thủ)—đây chính là ấn pháp Bồ Tát dùng để quán đảnh cho quý vị. Tay Cam Lồ này hễ duỗi ra thì quý vị sẽ cảm thấy như được tắm mát, có nước xối xuống đầu mình gột rửa mọi cấu trược, trừ sạch hết thảy nghiệp chướng. Nếu quý vị tu tập ấn pháp Tay Cam Lồ đến chỗ thành tựu, thì trong tương lai quý vị cũng có thể quán đảnh cho người khác. Người tu tập theo pháp môn này quyết không được lười biếng—một ngày cũng không được gián đoạn, một ngày cũng không được trễ nãi việc tu tập; nếu bỏ sót một ngày không tu, thì phải lập lại lần nữa.
“Những người này thức dậy liền được thông minh.” Quý vị thấy có kỳ lạ không? Họ ngủ một giấc, nằm mộng thấy mình được quán đảnh, và khi thức dậy thì trở nên thông minh mẫn tiệp; quý vị nói có tuyệt diệu hay không chứ? Quý vị có muốn mình cũng được như thế không? Nếu muốn được như thế thì quý vị hãy làm thử xem sao!
“Các kinh điển một phen lọt vào nhĩ căn thì liền nhớ mãi, không còn quên một câu kinh hay một bài kệ nữa!” Trước kia thì họ hay quên, song bây giờ thì không còn quên nữa; cho dù họ muốn quên cũng chẳng thể nào quên được! Những người này ngay cả một câu kinh, một bài kệ tụng cũng không hề quên. Quý vị xem đấy, thật là mầu nhiệm không thể nói được!
Cũng như có người tìm cách để đừng đến Phật Giáo Giảng Đường nữa, song không nghĩ ra cách nào cả, nên vẫn cứ đến đều đặn—kỳ lạ như thế đấy! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Pháp tu xa lìa Ác duyên hiểm nguy - Giữ được Tánh mạng an toàn - Yên ổn.
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì việc công chuyện tư, hoặc vì sự sanh sự tử, hoặc vì việc khẩn cấp, mà phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn hoặc đi ngang hiểm đạo; người đó trước tiên nên niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến, thì đi qua nơi nào cũng có các vị quỷ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi mãi mãi được an lạc, cho đến dẫu gặp cọp, sói, sư tử... cùng tất cả mọi thứ độc hại, cũng đều không thể làm thương tổn đến được.”
Lược giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì việc công chuyện tư, hoặc vì sự sanh sự tử—như có kẻ gặp phải vấn đề sống chết, cần phải báo tin cho một ai đó—hoặc vì việc khẩn cấp, mà phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn hoặc đi ngang hiểm đạo ...” “Hiểm đạo” tức là nơi vô cùng nguy hiểm, thường có các thú dữ như chó sói, cọp, beo... rình rập, hoặc bọn thổ phỉ chực sẵn để cướp bóc.
“Người đó trước tiên nên niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến.” Những người vì công việc phải dấn thân vào những chốn hiểm nguy như thế, thì trước khi lên đường, họ nên thành tâm trì niệm danh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ Tát đủ số mười ngàn lần; vì sao? Bởi nếu họ làm được như thế “thì đi qua nơi nào cũng có các vị quỷ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi mãi mãi được an lạc.”
“Cho đến dẫu gặp cọp, sói, sư tử..., các mãnh thú có thể ăn thịt người, cùng tất cả mọi thứ độc hại, cũng đều không thể làm thương tổn đến được.” Ngay cả những mãnh thú hay ăn thịt người cũng như các thứ độc hại khác, thảy dều không thể nào gây tổn hại cho người đó được.
Nay những người sắp sang Đài Loan (thọ Cụ Túc Giới, 1969) cũng chớ nên lo lắng thái quá, đi bằng máy bay cũng không có việc gì đâu! Chỉ cần quý vị dụng công tu tập Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn và trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thì tôi có thể bảo đảm cho sự an toàn của quý vị. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Gợi lại tiền kiếp, nguy hiểm: (Recall the past lives, dangerous). Khi con người trở nên tiến hóa, mối liên kết giữa phàm ngã với Chân Ngã trở nên chặt chẽ hơn, tất nhiên là các kinh nghiệm của tiền kiếp có thể được liên kết một cách rõ ràng hơn với các sự việc tương tự xảy ra trong hiện tại; vì lẽ cảm giác tái xuất hiện dựa trên các rung động giống nhau, nhờ đó ký ức được gợi trở lại. Thế nên khi quá khứ và hiện tại trở nên được liên kết rất chặt chẽ, tất nhiên là hành động này giống như một nam châm, lôi cuốn các nguyên nhân ra khỏi trạng thái tiềm tàng (latency), tạm gọi thế; để rồi tự động đưa các món nợ của quá khứ đặc biệt đó ra thanh toán. Đây là một lý do vững chắc giải thích tại sao con người không nên được phép gợi lại tiền kiếp một cách tùy tiện; việc đó quá nguy hiểm vì nó có thể làm xuất hiện đột ngột nơi con người loại karma (quả báo) mà người đó chưa sẵn sàng để trả, đồng thời cũng không thể mong rằng họ sẽ cố gắng đối phó với karma đó một cách có hiệu quả. (VLH, 204).
+ Đọc tụng Kinh Pháp: Đọc là đọc Kinh và hay đọc Sách - Tụng là đã học thuộc Kinh văn, đọc mà không cần nhìn vào Kinh. Đọc tụng là chưa học thuộc, phải nhìn Kinh mà đọc. (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Xưng niệm - Đọc tụng Kinh Chú lớn tiếng có nhiều Công đức - Cách thức tụng đọc chú đại bi :
Chú Đại Bi phải nên được trì tụng lớn tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là ta phải la lớn lên, nhưng giọng đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng.
Kinh “Nghiệp Báo Sai Biệt” cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn tiếng có mười công đức sau đây :
1. Dẹp được sự buồn ngủ ám ảnh
2. Thiên ma hoảng sợ.
3. Tiếng vang khắp mười phương
4. Ba đường hết khổ
5. Tiếng đời chẳng lọt vào tai
6. Lòng không tán loạn
7. Dõng mãnh tinh tấn
8. Chư Phật vui mừng
9. Tam muội hiện ra trước mắt
10. Vãng sanh Tịnh Độ
+ Đọc tụng - Phát Âm theo ngôn ngữ nào: Đọc tụng là ở Tín Tâm chân thành, cung kính mới có cảm ứng nhiệm mầu
Hỏi: Trong Kinh Phật có rất nhiều chữ tiếng Phạn, vậy lên phát âm theo giọng Đài Loan hay theo giọng Quan Thoại mới là chính xác?
Đáp: "Nếu lấy sắc để thấy Ta, dùng âm thanh mà cầu Ta, thì là người đó hành tà đạo, cho nên không thấy được Như Lai" (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc cực hay)
+ Lựa chọn ngôn ngữ: Với người bắt đầu, rất nên cố gắng lựa chọn ngôn ngữ không thuộc quốc gia, chủng tộc nào cả là tốt nhất. Trường hợp sử dụng tiếng mẹ đẻ thì cũng nên mở rộng tâm thức bao trùm, hiểu rằng dù tiếng nào cũng không có phân biệt. (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Trong Phật Giáo: Thần chú được sử dụng nhiều nhất đó là: Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi và Thập Chú. Các Chú này có ý nghĩa như sau (Xem Giá trị và Ý nghĩa Thần Chú)
II- XƯNG NIỆM - ĐỌC TỤNG - TRÌ TỤNG
+ Trì tụng Mật Chú: Mật Chú có nhiều quyền lực trong việc chữa trị bệnh tật khi tụng bằng tâm chân thành, tập trung sâu sắc, và ý định chính đáng. Chú Đại Bi và Chú Phật Dược là hai ví dụ như vậy. Khi tụng, mỗi Mật Chú tạo ra số lượng công đức to tát và có tác dụng chữa bệnh và biến đổi tuyệt vời (Nguồn: Phật giáo với y học)
+ Tụng Trì Chú Đại Bi đúng như Pháp - Y Pháp thọ trì: Kinh văn nghĩa: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thì lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên mình, như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát dạy tiếp: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp... ” Thứ “pháp” mà Quán Thế Âm Bồ-tát nói đến ở đây là pháp gì? Đó là pháp “Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn”—pháp môn Bốn mươi hai bàn tay Ấn pháp! Quý vị phải biết rằng: Hiện tại tôi giảng Kinh Đại Bi bởi vì quý vị cần phải hiểu rõ mọi chỉ dẫn để có thể tu tập cho đúng pháp.
“Y pháp thọ trì” tức là tu tập và hành trì đúng theo những gì đã dạy trong pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, và đó không phải chỉ tụng làu làu một mạch từ “Nam Mô Hắc Ra .....” cho đến hết bài Chú Đại Bi là đủ. Không phải đơn thuần như thế! Cho nên, đối với pháp môn này, quý vị cần phải được “chân truyền,” tức là phải được chính thức và thật sự truyền dạy một cách đúng đắn thì mới được; bằng không, nếu không được chân truyền, mà chỉ toàn là nói suông và xem kinh nghĩa thôi, thì chẳng thể nào hiểu nổi! (Nguồn: Giảng Chú Đại Bi_HT Tuyên Hóa)
III- HỎI ĐÁP
+ Đọc Kinh Chú: Câu Hỏi 27: Trong kinh Phật có rất nhiều chữ là tiếng Phạn, vậy nên phát âm theo giọng Đài Loan hay theo giọng Quan Thoại mới là chính xác?
Đáp: “Nếu lấy sắc để thấy Ta, dùng âm thanh mà cầu Ta, thì là người hành tà đạo, cho nên không thấy được Như Lai.” [Ghi chú Ban Phiên Dịch Việt Ngữ: Câu kệ trong Kinh Kim Cang.]
+ Đọc Tụng Thần Chú với Tâm Sùng tín - Tin tưởng Tuyệt đối vào Phật, Bồ Tát là quan trọng nhất:
Hỏi: Nếu trì chú mà phát âm không đúng thì có linh nghiệm không?
Đáp: Lúc trước có một lão tu hành thường tụng sáu chữ Đại Minh Chú, nhưng vì ông tự tụng theo cách của mình, chớ không hỏi người khác, hoặc là vì trí nhớ kém cỏi, nên dù có người dạy, ông cũng quên mất. Ông đoán là: chữ khẩu dù có thêm chữ nào thì sẽ đọc theo âm chữ đó. Thí dụ như chữ Khẩu 口 mà thêm chữ Bát 八kề bên thì đọc là bát 八. Chữ Khẩu 口mà thêm chữ Di 彌 thì đọc là di 彌. Chữ khẩu 口mà thêm chữ Ngưu 牛kề bên thì chắc cũng đọc là ngưu 牛, tức là trâu vậy. Bởi thế mà ông niệm thành Án Ma Ni Bát Di Ngưu. Ông niệm rất thành tâm, rất hăng hái với chữ Ngưu đó. Mỗi ngày ông ta niệm đến cả trăm vạn biến Án Ma Ni Bát Di Ngưu. Rồi ông nghĩ, nếu dùng xâu chuỗi tràng để đếm thì rất là phí công, nên ông dùng một trăm vạn hột đậu nành để đếm số. Khi niệm một câu thì ông lấy một hột đậu bỏ qua một bên. Dần dần ông không cần lấy tay bóc, mà hột đậu nành cũng tự động nhảy qua. Sau đó có người bảo ông nên niệm là “Án Ma Ni Bát Di Hồng” mới đúng. Do đó, ông đổi lại niệm thành Án Ma Ni Bát Di Hồng. Nhưng kỳ quái thay, đậu nành không tự động nhảy qua nữa. Sau đó ông lại niệm Án Ma Ni Bát Di Ngưu, mà hột đậu cũng chẳng chịu nhảy qua. Đó chẳng qua là do lòng tin của ông đã bị dao động, vì tự biết là mình đã niệm sai. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 356)
+ Cầu được ước thấy - Cầu nguyện như ý: Là nói với người tu hành Chánh đạo - Tức người thiện lành như trong Kinh Phật thường nói Thiện nam tử - Thiện nữ nhân, cầu nguyện vạn sự chánh đáng, không hại người lợi mình .... Cũng tức là người tu giữ ngũ giới hay tu Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, hành thập thiện, thường bố thí không phân biệt và cúng dường Tam Bảo, Phật, Bồ Tát, Bậc Thánh hiện, Tăng chúng .... Đây gọi là Tâm tương ứng với Đạo.
+ Cầu gì được ấy - Cần phân biệt chánh tà
Lại còn có loại tiểu ác quỷ nữa. Các tiểu ác quỷ thường nương náu trên cây cối và thị hiện thần thông, khiến cho người ta tin tưởng chúng. Ðiển hình là chuyện thọ Giới của cây long não (chương thọ) ở Chùa Nam Hoa (Trung Hoa). Lúc chưa thọ Giới, vị thần cây thường hiển thị thần thông—hễ ai có việc gì mà đến thắp nhang khẩn cầu thần cây thì đều được cảm ứng; cảm ứng như thế nào? Ví dụ như người bị đau ốm đến cầu xin, thì chỉ cần thắp nén nhang là liền được khỏi bệnh ngay; hoặc có người bị mất đồ, bèn thắp hương cầu khẩn, thì liền tìm lại được những đồ đã mất—những chuyện "linh ứng" như vậy xảy ra rất nhiều. Những người đến cầu xin tưởng rằng đó thật là sự linh cảm, là Bồ Tát hiển linh, nên họ liền giết gà, mổ heo, mang thịt của đủ loại súc sanh đến cúng tế để tạ ơn, và thế là thần cây được hưởng "lộc ăn." Song, thật ra, đó là một loại tiểu ác quỷ tác quái.
Trên thế gian này có rất nhiều chuyện kỳ lạ, cho nên nếu quý vị không hiểu rõ Phật Pháp thì rất dễ nhận lầm các loại ác thần ác quỷ này là Bồ Tát, tưởng rằng có sự linh cảm thật sự. Do vậy, người học Phật Pháp chớ nên nghĩ rằng hễ nơi nào có sự linh ứng mầu nhiệm xảy ra thì đều là Phật Pháp—hoàn toàn không phải như vậy. Quý vị cần phải thông hiểu các đạo lý Phật Pháp một cách chân chánh, thấu đáo, thì mới không dễ bị lầm lẫn. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Sở cầu - Sở nguyện như ý: “Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức điều nguyện, trăm ngàn vạn ức sự việc về hiện tại cùng vị lai, thì nên chỉ quy y, chiêm lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; thì các điều sở nguyện sở cầu như thế tất đều thành tựu cả.
Nếu lại cầu mong Bồ Tát Địa Tạng, đấng đầy đủ lòng đại từ bi, mãi mãi ủng hộ cho mình, thì người đó trong giấc chiêm bao liền được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
Lược giảng:
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức điều nguyện, trăm ngàn vạn ức sự việc—chứ chẳng phải vỏn vẹn một điều hay một việc mà thôi đâu—về hiện tại cùng vị lai, thì nên chỉ quy y, chiêm lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; thì các điều sở nguyện sở cầu như thế tất đều thành tựu cả.”
“Điều nguyện” tức là điều mà quý vị ao ước, mong muốn đạt được. Quý vị mong ước cái gì, muốn xin việc gì, đều có thể được toại nguyện cả, song quý vị phải làm một việc; đó là việc gì? Đó là quý vị phải quy y Bồ Tát Địa Tạng, chiêm ngưỡng đảnh lễ Bồ Tát Địa Tạng, cúng dường Bồ Tát Địa Tạng và khen ngợi hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng. Nếu quý vị làm được như thế thì mọi nguyện vọng, mọi mong cầu của quý vị đều được tùy tâm mãn nguyện, đều được thành tựu.
“Nếu lại cầu mong Bồ Tát Địa Tạng, đấng đầy đủ lòng đại từ bi, mãi mãi ủng hộ cho mình, thì người đó trong giấc chiêm bao liền được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.” Nếu quý vị muốn cầu xin Bồ Tát Địa Tạng rũ lòng từ bi bao la mà phù hộ cho quý vị mãi mãi, thì khi quý vị đang say ngủ, Ngài sẽ thị hiện trong giấc mộng mà xoa đảnh thọ ký cho quý vị. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ I- Nghe đọc - Giảng Kinh Chú
+ Đoan nghiêm (端嚴 decorous): Đức Phật lúc nào cũng đoan chính và trang nghiêm. Chúng ta phải học theo hạnh nầy. Khi nghe giảng kinh, chúng ta phải ngồi trong tư thế ngay thẳng và cung kính. Đừng ngồi với tư thế uể oải, xiêu vẹo, hoặc duỗi người ra. Vì chính trước mặt quý vị là Đức Phật đang giảng pháp. Vì chúng ta tin vào Đức Phật, nên chúng ta phải kính trọng ngài. Chúng ta không nên giải đãi ngay trước mặt ngài. Khi nghe kinh, quý vị không được nằm hoặc ngủ. Không được nằm mà đọc kinh. Tôi đã giảng cho quý vị nghe rằng, nếu làm như vậy thì đời sau sẽ bị đoạ làm thân rắn. Rắn thì luôn luôn nằm dù khi di chuyển từ nơi nầy đến nơi khác. Nó không đứng dậy được. Khi đọc kinh, quý vị nên ngồi thẳng người và đặt kinh trên mặt bàn phía trước mặt mình. Nếu quý vị có một phần kính trọng, thì sẽ phát triển trí huệ một phần; Nếu quý vị có mười phần kính trọng, thì sẽ phát triển trí huệ mười phần. Nếu quý vị có một trăm, ngàn, vạn phần kính trọng, thì sẽ phát triển trí huệ trăm, ngàn, vạn phần, trí huệ tăng trưởng dần theo mức độ tôn kính. Quý vị cũng được tăng trưởng thiện căn. Kinh Kim Cang có nói rất rõ: “Ở nơi nào có kinh nầy, tức nơi đó có Đức Phật hoặc như các vị đệ tử được tôn trọng của Đức Phật.” Nếu quý vị có tâm tôn kính, thì quý vị sẽ có được quả báo tốt lành, nếu không kính trọng thì không có được quả báo ấy. Quý vị hãy xem như chính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang giảng pháp và ngài A-nan đang ngồi bên cạnh. Chung quanh quý vị trong hội chúng là các vị Đại Bồ-tát. Hãy tưởng tượng pháp hội đang diễn ra trên núi Diệu cao. Nếu quý vị đã có tâm kính trọng như thế nầy, chắc chắn sẽ đến lúc quý vị được giác ngộ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Nên dùng Chân Tâm nghe Pháp mới đúng NHƯ PHẤP TU HÀNH:
Trích ngài A Nan thưa Đức Phật: ... “Cúi mong Đức Phật thương xót, tuyên dạy viên âm, nhổ sạch gốc nghi ngờ trong con, để quay về đạo vô thượng.”
HT Tuyên Hóa giảng:
A-nan nói rằng khi nghe Đức Phật giảng pháp, A-nan đã dùng tâm phan duyên để nghe pháp. A-nan lầm tưởng rằng chẳng có tâm phan duyên, chẳng có pháp để được nghe. Đây là một sai lầm lớn. Sai lầm nầy A-nan đã mắc phải cũng như nhiều cư sĩ khác.
A-nan nói: “Thật đúng là con phải loại bỏ tâm phan duyên đi, nhưng khi con đã không còn tâm phan duyên nữa, thì lấy gì để nghe pháp? Con sẽ không còn tâm nữa hay sao?” A-nan vẫn tin rằng tâm phan duyên chính là chân tâm mình. A-nan không biết rằng tâm phan duyên của mình, là tâm đã tạo nên mọi phân biệt, kế chấp, là thức tâm, là đối tượng của sinh diệt. Nếu quý vị loại bỏ tâm phan duyên mà nghe pháp, thì mới gọi là chân chính nghe pháp. Nếu quý vị nghe pháp bằng chân tâm, thì tất cả các pháp đều là chính pháp. Nếu quý vị nghe pháp bằng tâm phan duyên, bất luận quý vị có nghe nhiều bao nhiêu, thì dường như luôn luôn có cái đúng và có cái chưa đúng. Đó là tâm nghi ngờ tương tục. Quý vị nên nghe pháp bằng chân tâm.
Nhưng A-nan đã biết vậy, nên A-nan không dám nhận những gì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói về chân tâm. A-nan sợ rằng nếu mình nhận ra chân tâm, thì mình không còn nghe pháp được nữa, vì nghe pháp là điều quan trọng nhất đối với ông. A-nan nghĩ: “Đối với tôi, tâm sinh diệt hay tâm gì đó chẳng thành vấn đề, điều quan trọng là tôi được nghe pháp.” Đó chính là điểm mà A-nan không hiểu được và khiến cho A-nan nghi ngờ.
Do vì A-nan không nhận ra đạo lý nầy, nên bạch Phật: “”
“Cúi mong Đức Phật thương xót, tuyên dạy lời viên âm.” Viên âm là âm thanh viên dung không ngăn ngại. Viên âm tức là nhất âm. Nên nói rằng: “Đức Phật chỉ dùng một âm thanh mà thuyết pháp, chúng sinh tuỳ theo căn cơ nghiệp lực mình đều được hiểu.” Khi loài người nghe nhất âm, họ cũng hiểu được; khi chư thiên nghe nhất âm, chư thiên cũng hiểu được; khi loài ngạ quỷ nghe nhất âm, ngạ quỷ cũng hiểu được; ngay cả khi loài súc sinh nghe nhất âm, loài súc sinh cũng hiểu được. Mọi loài chúng sinh– người, trời, Bồ-tát, A-la-hán, đại tỷ-khưu, loài vật, loài ở địa ngục, quỷ đói–mỗi loài đều hiểu được giáo lý Đức Phật giảng giải bằng nhất âm. Khi Đức Phật giảng pháp, chúng sinh chỉ cần có duyên với Đức Phật, bất luận họ ở xa Đức Phật bao nhiêu, họ đều có thể nghe lời nói của Đức Phật như thể họ đang ở ngay bên cạnh Ngài vậy. Không cần bận tâm đến khoảng cách. Quý vị xem đó có vi diệu không?
Thế nên A-nan cầu thỉnh Đức Phật dùng viên âm chỉ dạy, để “nhổ sạch gốc nghi ngờ trong con, để quay về đạo vô thượng. Con chưa giải trừ được mối nghi trong lòng. Cội gốc nghi ngờ vẫn còn trong tâm con. Nếu Đức Phật giúp cho con nhổ sạch gốc rễ ấy, thì con mới có thể nhận ra đạo vô thượng.”
Đức Phật bảo A-nan: “Các ông vẫn còn dùng tâm phan duyên để nghe pháp, thì pháp ấy chỉ là sở duyên (hư vọng), chẳng phải là pháp tánh.”
Giảng:
Đáp lời cầu thỉnh của A-nan để giải trừ mối nghi của ông, Đức Phật bảo: “Các ông vẫn còn dùng tâm phan duyên để nghe pháp, thì pháp ấy chỉ là sở duyên (hư vọng), chẳng phải là pháp tánh.”
Các ông vẫn còn tâm phan duyên, thế nên khi các ông nghe pháp thì pháp ấy cũng sẽ thành pháp sở duyên. Nó trở thành pháp sinh diệt, chẳng phải là pháp tánh. Các ông chưa nhận ra được bản thể chân tánh của các pháp.”
Như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác xem, người kia phải nhờ ngón tay mới thấy được mặt trăng.
Giảng:
“Như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác xem, người kia phải nhờ ngón tay mới thấy được mặt trăng. Như Lai sẽ cho ông một ví dụ. Tôi chỉ mặt trăng rồi hỏi ông: ‘ Đó là mặt trăng. Ông có thấy không?’ Việc ấy cốt là để cho ông nhìn thấy mặt trăng.”
Nếu lại nhìn ngón tay nhận là mặt trăng, thì người ấy không những quên mất mặt trăng mà còn mất luôn cả ngón tay. Vì sao? Vì cho ngón tay là mặt trăng sáng.
Giảng:
“Nếu lại nhìn ngón tay nhận là mặt trăng, thì người ấy không những quên mất mặt trăng mà còn mất luôn cả ngón tay.
Nhưng ông không chịu nhìn mặt trăng mà Như Lai đã chỉ; ông lại nhìn vào ngón tay rồi nói: ‘A! Đó là mặt trăng. Mặt trăng là giống như vậy.’ Ông đã nhận ngón tay làm mặt trăng, thế nên ông bỏ quên mất mặt trăng. Ông đã bỏ quên mất rồi!”
Trong đoạn kinh văn trước đã có nói: “bỏ quên mất bản tâm”, ở đây có người nhìn ngón tay và nhận nó làm mặt trăng, thế nên không những họ không nhìn thấy mặt trăng, mà còn không nhận ra ngón tay của người kia.
Vì sao? Vì lầm cho ngón tay là mặt trăng sáng. Họ không nhận ra được cả mặt trăng lẫn ngón tay. Họ là ai? A-nan cũng như vậy. Mặt trăng là chân tâm. Ngón tay được ví như pháp được giảng nói, vì Đức Phật giảng pháp là để chỉ bày chân tâm. Thế nên khi ánh sáng chân tâm bị bỏ quên mất, thì ngay cả pháp cũng không lĩnh hội được. Thế nên Đức Phật bảo: “Các ông vẫn còn dùng tâm phan duyên để nghe pháp, thì pháp ấy cũng là sở duyên” Quý vị xem một người như thế thì thật có đáng thương xót không? Tôi cho rằng những người như vậy rất đáng thương.
Không những quên mất ngón tay, mà còn không biết đến tối và sáng. Sao vậy? Vì cho ngón tay là tánh sáng của mặt trăng. Thế là không rõ được tánh sáng và tối. Các ông cũng như vậy.
Giảng:
“Không những quên mất ngón tay, mà còn không biết đến tối và sáng.”
Họ không nhận ra được mặt trăng và ngón tay là gì, thế nên cả ngón tay và mặt trăng đều bị bỏ quên mất. Nhưng tuy vậy, không có gì bị mất cả. Nó vẫn còn đó. Chỉ vì họ không hiểu. Anh ta không hiểu hoặc nhận ra được cái sáng và cái tối. Nói cách khác, người nầy cơ bản là không hiểu được gì là giác ngộ và đâu là mê lầm; cái gì là vô minh và cái gì là chánh kiến.
“Sao vậy? Vì cho ngón tay là tánh sáng của mặt trăng.”
Anh ta nhận lầm cho thể dạng của ngón tay là tánh sáng tối của mặt trăng. Vậy có điên đảo không? Mọi người đều biết như vậy. Nhưng dù sao anh ta cũng muốn như thế.
“Thế là không rõ được tánh sáng và tối.” Ngay cả anh ta chưa hiểu được ý niệm sáng và tối. Thật là u mê, có phải vậy không? “Các ông cũng như vậy. A-nan, ông cũng giống như người nhận lầm ngón tay cho là mặt trăng và hòan toàn không hiểu được cái gì là sáng và tối. Ông nghe pháp với tâm phan duyên, và ông sợ rằng nếu ông nhận ra giáo lý về chân tâm thì ông sẽ không còn nghe pháp được nữa. Ông cho rằng chân tâm chỉ là ở trong giáo pháp, thế nên ông lầm cho ngón tay là mặt trăng. Ông không thể nào chỉ ra ánh sáng từ trong bóng tối, có nghĩa là ông chưa có được trí huệ chân chính. Hãy đi mà nghe pháp với tâm phan duyên cho nhiều nếu ông cần, nhưng càng nghe ông càng trở nên ngu muội hơn. Ông càng rong ruổi tìm cầu, càng xa chân tâm.”
Không ai biết được khi ấy A-nan cảm nhận như thế nào. Trước đó, khi A-nan lạc mất dấu tích tâm mình, ông ta bối rối không biết phải làm gì. A-nan nhấp nhổm trên chỗ ngồi. Nay Đức Phật bảo ông bỏ quên mất cả ngón tay lẫn mặt trăng, không biết A-nan suy nghĩ thế nào.
Đức Phật nói pháp là để chỉ bày chân tâm. Nhưng A-nan hiểu lầm rằng chân tâm chỉ là giáo pháp. Thế nên Đức Phật đã dùng thí dụ ngón tay và mặt trăng để chỉ bày điều nầy cho A-nan.
(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q2)
+ Thấy nghe đều được lợi ích.
Trích Phẩm thứ 12, “Thấy, Nghe Đều Được Lợi Ích.”
- Nếu những chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa. Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phụcv. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài. Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.”
- Trẻ 10 tuổi trở xuống có Cha mẹ anh em chết sớm: Khi trưởng thành nghe, chiêm ngưỡng, đắp vẽ ... tượng Địa Tạng Bồ tát ... quyến thuộc được giải cứu các đường ác ....; Đọc vạn biến Danh hiệu Ngài => Bồ tát hiện thân/ Trong mơ chỉ dẫn ... Còn nhiều lợi ích nữa, (Nguồn: Lợi ích của Học - Nhìn - Nghe Kinh và Tượng Phật và Bồ Tát)
+ Nghe Kinh - Nghe Thuyết Pháp: .... Khi giảng Mười hai hạnh Ðầu-đà là việc tu hành của người xuất gia, có một số người tại gia nói: "Mười hai hạnh Ðầu-đà là để cho người xuất gia tu, chứ nói với người tại gia chúng tôi để làm gì?"
Câu nói này mới nghe dường như rất đúng, nhưng xét kỹ lại một chút thật là quá mê si! Tại sao biết được mình trước kia không phải là người tu hành, chưa từng tu hạnh Ðầu-đà? Có thể là các vị quên mất đấy, nên bây giờ tôi xin nhắc lại.
Làm sao mình biết đời sau mình không xuất gia? Hoặc là đời sau hạt giống Bồ-đề của mình được thành thục, công đức viên mãn, mình sẽ xuất gia? Nếu vào đời sau sẽ tu mười hai hạnh Ðầu-đà, thì sẽ cảm thấy rất quen thuộc, rất tương ưng, đó là do đời nay được nghe đến, cho nên đời sau mới rất thích thú mà tu hành. Ðó cũng là do quá khứ gieo trồng nhơn lành nên đời nay kết được quả lành vậy. Hoặc là đời nay gieo trồng nhơn lành này, đời sau kết được quả lành kia. Ai dám chắc mình mãi mãi là người tại gia? Ai dám chắc mình mãi mãi không là người xuất gia? Ai cũng không thể nói mình mãi mãi là phàm phu. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Pháp Sư Tịnh Không đọc sách: Cho nên 86 tuổi mỗi ngày tôi vẫn là đọc sách 4 giờ đồng hồ, người xưa nói "sống đến già, học đến già, học ko hết”. Tôi có thể nói với mọi người, ngày nay tôi tất cả buông bỏ chỉ học "Kinh Vô Lượng Thọ", chỉ học Khoa Chú của lão Niệm Tổ, mục đích chính là cầu sanh Tịnh Độ, đây là thật (Nguồn)
+ Cách đọc sách - Chân Sư dậy: Trước tiên ta phải đọc qua một lượt để nắm những nét chính của quyển sách, tìm ra ba hay bốn tiên đề mà quyển sách dựa vào đó. Sau đó, chúng ta quay trở lại đọc nhiều lần để bổ sung những điểm chi tiết giải lý những điểm chính trên. Tốt nhất là chúng ta làm một bản tóm tắt những điểm chính của từng chương trong quyển sách. Cách làm như vậy giúp chúng ta hệ thống hoá kiến thức và khi quay trở để đọc sau nầy, chúng ta dễ dàng ôn lại những gì chúng ta đã đọc. (Nguồn: Hãy suy ngẫm kỹ_Chân Sư DK)
+ Cầu nguyện: Thân này là giả. Người tu hành không cầu không bịnh, vì nếu không bịnh thì sẽ sanh lòng tham dục. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 385)
+ Pháp Cầu Nguyện: Hướng tâm mình đến một đối tượng Phật, Bồ Tát Linh Thiêng để cầu nguyện một điều gì đó được thành tựu. Trong trường hợp nào thì cũng cần có LÒNG THÀNH KÍNH với Tín Tâm/ Lòng sùng tín không chút nghi ngờ, lòng vị tha, bác ái và KHÔNG CẦU VIỆC XẤU ÁC thì sẽ có sự nhiệm mầu. Có 2 loại:
- Cầu cho mình: Người người thường thì không mấy linh nghiệm, vì năng lượng cầu nguyện hướng vào mình này thường đi với Tâm lượng nhỏ, do đó năng lượng cầu từ Tâm phát ra để đến được Phật, Bồ Tát là rất khó để có được sự cảm ứng. Cho nên, cần phải có tín tâm tin tưởng tuyệt đối không nghi ngờ, và không cầu việc xấu ác thì mới mong có sự ứng nghiệm.
- Cầu cho người khác, cho chúng sinh: Năng lượng này bản thân nó gắn với Tâm rộng mở, nó có sự tương đồng với Tâm Đại Từ Đại Bi của Phật, Bồ Tát, do đó rễ có cảm ứng hơn nhiều, theo đó điều mong cầu cũng rễ thành tựu viên mãn. Nó cũng biểu thị cho sự lưu thông của năng lượng sanh hóa vạn vật.
* Cầu nguyện tập thể: Tất cả cầu nguyện vì một người, vì chúng sinh, sự nhiệm mầu tăng lên gấp bội phần, cầu gì được ấy. (Nguồn: Clip 06, phút 61_Thầy Hăng Trường dạy)
+ Mong cầu như Pháp để có sự nhiệm mầu:
Trích Kinh văn: Vì những chúng-sanh đó không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, không có tướng pháp, cũng không có tướng phi-pháp. Tại vì sao? Vì những chúng-sanh đó, nếu trong lòng chấp tướng, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả.
Nếu chấp tướng pháp, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả, và vì nếu chấp tướng phi-pháp, thời cũng chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả, vì thế cho nên, chẳng nên chấp pháp, và cũng chẳng nên chấp phi-pháp. Đức Phật dạy:
Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng tiếng tăm cầu ta,
Người ấy tu đạo tà!
Chẳng thấy được Như-Lai.
Nhiều lời dạy đáng ghi nhớ trong tu hành, mời quí vị đọc. (Nguồn: Kinh Kim Cang Bát Nhã ba La Mật)
+ Thấy Nghe hoặc niệm Danh Bồ Tát Quán Thế Âm được lợi ích thù thắng:
Vậy, lúc bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ trên đảnh môn phóng ra những luồng hào quang rực rỡ chiếu sáng như thế xong, lại thốt ra thứ tiếng rất vi diệu mà bảo đại chúng, Thiên Long Bát Bộ, nhân cùng phi nhân v.v... hiện đang có mặt tại Đao Lợi thiên cung rằng: “Hãy lắng nghe hôm nay Ta, tại cung trời Đao Lợi, tuyên bày ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng về những sự lợi ích trong hàng trời, người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự siêu vượt nhân Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không thối chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”
Nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát hiệu là Quán Thế Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay mà bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây đầy đủ đức đại từ bi, thương xót chúng sanh mắc tội khổ. Bồ Tát ở trong ngàn vạn ức thế giới hóa hiện ra ngàn vạn ức thân, tất cả công đức cùng sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn.
Con được nghe Đức Thế Tôn cùng vô lượng chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng lời ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng rằng dầu cho chư Phật trong thuở quá khứ, hiện tại và vị lai đều tuyên nói về công đức đó, vẫn chẳng thể nói hết được.
Vừa rồi lại được Đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng rằng muốn tuyên nói các sự lợi ích của Bồ Tát Địa Tạng. Cúi mong Đức Thế Tôn, vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai, mà tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng, khiến cho Thiên Long Bát Bộ chiêm lễ được phước.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Ông có đại nhân duyên với thế giới Ta Bà. Nếu hàng trời hoặc rồng, hoặc kẻ nam người nữ, hoặc thần hoặc quỷ, cho đến các chúng sanh tội khổ trong Lục Đạo nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, mến tưởng đến ông, khen ngợi ông, thì những chúng sanh ấy đều ở nơi Đạo Vô Thượng quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng đủ sự vui vi diệu; khi nhân quả sắp thành thục liền được gặp Phật thọ ký cho.
Nay ông sẵn lòng đại từ bi, thương xót các chúng sanh cùng Thiên Long Bát Bộ, mà muốn nghe Ta tuyên nói những sự lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng. Ông hãy lắng nghe, nay Ta sẽ nói rõ.”
Ngài Quán Thế Âm bạch rằng: “Vâng, bạch Đức Thế Tôn! Con xin ưa muốn nghe.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đức Phật phóng Hào quang
Lúc đó, từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
Lược giảng:
Lúc đó—lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói chuyện với Kiên Lao Địa Thần và căn dặn Địa Thần hãy ủng hộ các chúng sanh trong đời vị lai xong—từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
“Đảnh môn” (cửa đỉnh đầu) nằm ở đâu? Ở ngay trên đỉnh đầu. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có tướng “vô kiến đảnh” (tướng đỉnh đầu không thấy được) chính là ở “đảnh môn” này vậy.
Chúng ta mỗi người đều có “đảnh môn.” Nếu quý vị tinh tấn dụng công, chân chánh có công phu tu hành, thì khi chết, Phật tánh của quý vị sẽ từ “đảnh môn” ở trên đỉnh đầu mà đi ra, và sau đó quý vị có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn. Tuy nhiên, quý vị cần phải chăm chỉ tu hành, nỗ lực dụng công cho thật tốt mới được; chứ dụng công hời hợt thì không thể nào có được cảnh giới đó.
Như là: Tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn; tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn; tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn; tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn; tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn; tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn; tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn; tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn; tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn; tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn; tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn; tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn; tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn; tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn; tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn; tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn.
Từ trên đảnh môn phóng ra những tướng tia sáng như thế xong, lại nói ra tiếng vi diệu mà bảo đại chúng, Thiên Long Bát Bộ, nhân cùng phi nhân v.v... rằng: “Hãy lắng nghe hôm nay Ta, tại cung trời Đao Lợi, tuyên bày ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng về những sự lợi ích trong hàng trời, người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự siêu vượt nhân Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không thối chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”
Lược giảng:
Vậy, lúc bấy giờ từ trên đỉnh đầu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra những tia sáng như là:
1) tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng hào quang màu trắng soi sáng tất cả những nơi tối tăm; ngụ ý rằng Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng có thể chiếu dọi, xua tan mọi hắc ám tăm tối của thế gian.
2) Tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn.
3) Tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn. Có loại hào quang trông giống như ngọc thạch vậy.
4) Tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn.
5) Tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn. Lại có những đạo hào quang màu xanh, và nhiều hào quang lớn cũng có màu xanh như thế nữa.
6) Tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn.
7) Tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn.
8) Tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn.
9) Tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn. Lại có tia sáng có màu vàng như vàng ròng vậy.
10) Tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn.
11) Tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn. Bàn chân của Đức Phật có tướng “thiên bức luân” (chỉ dưới bàn chân có ngàn cái xoay tròn); và đạo hào quang này trông giống như cả ngàn cái vòng xoáy tròn ở trong vậy.
12) Tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn. Lại có hào quang hình tròn và sáng lấp lánh như châu báu tạo thành.
13) Tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn. Lại có những đạo hào quang rực rỡ như ánh sáng của cả trăm ngàn vầng mặt trời.
14) Tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn. Lại có đạo hào quang tỏa ra ánh sáng như của mặt trăng.
15) Tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn. Trong đạo hào quang này hiện ra nhiều cung điện làm bằng bảy thứ báu rất trang nghiêm.
16) Tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn. Lại có những đạo hào quang trông giống như đám mây vọt lên từ mặt biển. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ví dụ giải thích quả vị Phật - Quả vị Bồ Tát
“A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Sự giác ngộ của hàng Nhị Thừa thì khác với hạng phàm phu; tuy nhiên, mặc dù hàng Nhị Thừa được giác ngộ rồi song họ vẫn chưa đạt được sự “chánh đẳng.” “Chánh đẳng” là thế nào? “Chánh đẳng” chính là Bồ Tát; Bồ Tát là “chánh đẳng” đối với Phật. Tuy rằng “chánh đẳng” đối với Phật và không đồng với hàng Nhị Thừa, nhưng bậc Bồ Tát vẫn chưa đạt đến địa vị “vô thượng”— duy chỉ có Phật mới được tôn xưng là “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”!
“Vô thượng” với Bồ Tát cũng không đồng; cho nên gọi “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” chính là quả vị của Phật. Địa Tạng Vương Bồ Tát hiện tại tuy chưa thành Phật, song quả vị của Ngài cũng giống như Phật vậy; do đó mà ở đây Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng muốn tuyên thuyết về nhân duyên Bồ Tát Địa Tạng đắc được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nhất bổn tán vi vạn thù - Vạn thù nhưng quy nhất bổn - Một gốc chia làm muôn thứ - Muôn thứ vẫn về cùng một gốc. Đạo quy về một
Bấy giờ, sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ trên đảnh môn phóng ra những tướng tia sáng như thế xong, lại nói ra tiếng vi diệu. Đức Phật có Tứ Biện, Bát Âm. “Tứ Biện” là gì? Đó là Tứ Vô Ngại Biện, tức là bốn khả năng biện luận lưu loát, không hề gặp trở ngại; và gồm có: Biện luận Nghĩa không trở ngại Biện luận Pháp không trở ngại, Biện luận Từ không trở ngại, và Biện luận Vui Thuyết không trở ngại (Nghĩa vô ngại biện, Pháp vô ngại biện, Từ vô ngại biện, và Nhạo thuyết vô ngại biện).
1) Biện luận Nghĩa không trở ngại (Nghĩa Vô Ngại Biện – giải bày nghĩa lý một cách trôi chảy, không trở ngại). “Nghĩa” là nghĩa lý, ý tứ. Ví như xưa nay chưa có nghĩa lý, nhưng khi Đức Phật vừa thuyết pháp thì nghĩa lý, ý tứ tuôn trào vô cùng vô tận.
2) Biện luận Pháp không trở ngại (Pháp Vô Ngại Biện – giảng nói pháp lý một cách trôi chảy, không trở ngại). Xưa nay chỉ có một thứ giáo pháp, nhưng Đức Phật từ trong một giáo pháp làm nảy sanh ra vô lượng vô biên pháp, và từ vô lượng vô biên pháp lại quy nạp về thành một pháp. Cho nên nói:
Một gốc chia làm muôn thứ,
Muôn thứ vẫn về cùng một gốc.
(Nhất bổn tán vi vạn thù,
Vạn thù nhưng quy nhất bổn.)
Từ một gốc mà biến thành muôn dạng, từ muôn dạng mà gom về thành một pháp; cho nên cũng nói là:
Một là vô lượng, vô lượng là một.
(Nhất vi vô lượng, vô lượng vi nhất.)
3) Biện luận Từ không trở ngại (Từ Vô Ngại Biện - giảng nói lưu loát, không trở ngại về ngôn từ). “Từ” tức là ngôn từ. Có nhiều người muốn nói về một vấn đề gì đó nhưng chỉ mới nói có mấy câu thì đã cạn lời hết ý, không đủ ngôn từ để diễn đạt. Đức Phật khi giảng đạo lý thì có thể nói thao thao bất tuyệt, miên man bất tận, như nước sông nước biển tuôn chảy không ngừng.
4) Biện luận Vui Thuyết không trở ngại (Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện - hoan hỷ thuyết pháp, không trở ngại). “Nhạo thuyết” là vui thích việc giảng kinh thuyết pháp, rất hoan hỷ nói pháp để giáo hóa chúng sanh, mỗi khi nói pháp là trong lòng thấy hân hoan, vui vẻ.
Đó là nói về Tứ Biện; còn Bát Âm (tám thứ tiếng) là gì? Trước đây tôi cũng đã nhiều lần giảng về Tứ Vô Ngại Biện, nhưng chưa hề nói tới Bát Âm. Mặc dù chưa giảng tới nhưng những người chịu khó dụng công có lẽ đều biết cả rồi. Đức Phật có tám thứ âm thanh dùng để thuyết pháp:
1) Tiếng tối hảo (tiếng tốt nhất). Loại âm thanh thứ nhất của Phật là như thế nào? Đó là loại âm thanh hay nhất, tốt nhất, tốt đến cực điểm, và cũng gọi là “cực hảo âm.” Giọng nói của Phật thì càng nghe càng thấy thích thú, càng muốn lắng nghe; chứ chẳng phải như nhiều người nói nghe rền rĩ như tiếng kéo cưa vậy. Giọng nói của Phật thì trong trẻo, thánh thót.
2) Tiếng nhu nhuyễn (tiếng êm dịu). Giọng nói của Phật âm vang êm tai như tiếng nước chảy dịu dàng, uyển chuyển.
3) Tiếng hòa thích (tiếng thích hợp). “Thích” là thích hợp, vừa đúng. Thứ âm thanh này rất ôn nhu, mềm mỏng, hài hòa; người nào đã được nghe rồi thì chẳng còn ao ước nghe tiếng gì khác nữa.
4) Tiếng tôn huệ (tiếng tôn kính, trí huệ). Âm thanh của Phật rất tôn quý. Đừng nói là nghe rõ từng lời từng chữ, chỉ cần nghe được âm vang tiếng nói của Phật thì chúng ta cũng có được vô lượng trí huệ rồi.
5) Tiếng bất âm (tiếng chẳng có âm tính). Có nhiều người giọng nói mang đầy âm tính, tức là giọng nói như phái nữ, thường là the thé hoặc uốn éo, nũng nịu. Giọng của Phật thì không phải là giọng âm.
6) Tiếng bất ngu (tiếng chẳng đùa giỡn). Cho dù là khi nói chuyện vui, giọng nói của Phật khiến người nghe cảm thấy vô cùng chánh đáng, đúng đắn, không đượm vẻ giỡn hớt đùa cợt.
7) Tiếng thâm viễn (tiếng vang sâu và xa). Âm vang tiếng nói của Đức Phật vọng đi rất xa, đến nỗi không thể biết rõ là sâu lắng bao nhiêu và truyền đi bao xa. Có một lần nọ, Tôn Giả Mục Kiền Liên dùng thần thông đi về hướng vô lượng ức cõi Phật ở phương Đông. Ngài cứ dõi theo tiếng nói của Đức Phật mà đi, đi, đi mãi, để xem thử đến bao xa thì không còn nghe thấy nữa. Song, Ngài vượt qua vô lượng cõi Phật mà tiếng nói của Đức Phật vẫn cứ sang sảng bên tai. Thần thông quảng đại như Tôn Giả Mục Kiền Liên mà cũng không thể tìm thấu nơi dứt bặt âm thanh của Đức Phật!
8) Tiếng bất kiệt. “Bất kiệt” tức là không bao giờ hết, chẳng hề cùng kiệt. Âm thanh tiếng nói của Đức Phật thì liên tiếp miên mật, không bao giờ bị gián đoạn hoặc ngưng bặt.
Vậy, Đức Phật dùng tám loại âm thanh này để thuyết pháp. Tám loại âm thanh này, có lúc thì một người có thể nghe được một loại, hoặc hai, ba, bốn, năm loại; song cũng có lúc một người chỉ nghe được một loại—người này nghe được tiếng thâm viễn, người kia nghe được tiếng nhu hòa ...—đó là bởi căn tánh của mỗi người vốn bất đồng nên cái nghe cũng khác nhau. Tám loại âm thanh này đều được gọi là “vi diệu âm.” Quý vị hãy học và ghi nhớ tám loại âm thanh này để về sau có thể thuyết giảng lại cho người khác. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bất thối chuyển - Bất thoái chuyển: fjgj
+ Tâm Bồ Đề Kiên Cố: Nếu bỏ mất tâm Bồ đề mà mong ngày thành đạo thì không khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việc ma vậy”.
Về bất thối chuyển, có ba dạng:
- Thứ nhất là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A la hán tồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa, Nếu hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn rơi lại hàng A la hán nữa. Nếu hành giả đã chứng đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi muốn hiện thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn toàn đúng.
- Thứ hai là niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma vương rất vui khi người tu hành khởi niệm lui sụt.
Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.
Niệm bất thối là tâm lượng của hành giả không còn bị trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”, không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn luôn đi với hạnh bất thối.
- Thứ ba là hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối. Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không thể nghĩ bàn.
Đứng trên nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn ấn pháp (Tay Ấn số 38 trong 42 Tay Ấn của Chú Đại Bi), thì từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành trì! (Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi, câu chú số 46. Bồ đề dạ - Bồ đề dạ)
+ Lợi ích thờ Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện hay đọc tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát
"Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng sanh trong đời vị lai cùng hiện tại, nếu có thể ở nơi mình trú ngụ mà làm ra sự cúng dường (Địa Tạng Vương Bồ Tát) như thế, thì sẽ được sự lợi ích như vậy."
Lại bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Trong đời vị lai, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, ở nơi mình cư ngụ mà có kinh điển này cùng hình tượng của Bồ Tát, người đó lại có thể đọc tụng kinh điển này và cúng dường hình tượng của Bồ Tát, thì con thường ngày đêm dùng thần lực của mình hộ vệ người đó, cho đến tất cả ác sự, các nạn nước, lửa, trộm cướp, và các tai họa bất trắc lớn nhỏ thảy đều tiêu sạch."
Lược giảng:
Kiên Lao Ðịa Thần lại bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng sanh trong đời vị lai cùng hiện tại, nếu có thể ở nơi mình trú ngụ mà làm ra sự cúng dường như thế— tức là chọn nơi sạch sẽ thanh tịnh trong nhà mình về hướng Nam mà trần thiết hình tượng Bồ Tát Ðịa Tạng rồi cúng dường—thì sẽ được sự lợi ích như vậy. Các chúng sanh ấy sẽ được mười điều lợi ích kể trên."
Kiên Lao Ðịa Thần lại bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Trong đời vị lai, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, ở nơi mình cư ngụ mà có kinh điển này—Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện—cùng hình tượng của Bồ Tát—Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát—người đó lại có thể đọc tụng kinh điển này và cúng dường hình tượng của Bồ Tát ..."
Nếu người đó không những có được bộ Kinh Ðịa Tạng và tượng của Bồ Tát Ðịa Tạng, mà còn có thể đọc tụng bộ kinh này đồng thời đảnh lễ và cúng dường Bồ Tát Ðịa Tạng nữa, "thì con thường ngày đêm dùng thần lực—sức thần thông—của mình hộ vệ người đó, cho đến tất cả ác sự, các nạn nước, lửa, trộm cướp, và các tai họa bất trắc lớn nhỏ thảy đều tiêu sạch." Như thí dụ bị xe đụng tôi vừa nêu ra, có người bị xe đụng thì mất mạng, đó gọi là tai họa lớn (đại hoạnh); có người thì chỉ bị thương nhẹ, trầy sướt sơ sài, đó gọi là tai họa nhỏ (tiểu hoạnh).
Thời đại hiện nay không được tốt đẹp lắm, đến đâu cũng có những chuyện phiền phức xảy ra, không cướp giật thì cũng trộm cắp ngang nhiên giữa ban ngày ban mặt. Cho nên, quý vị cần phải cẩn thận, đề phòng bọn ăn cướp này. Người Trung Hoa có câu:
"Chậm giấu của cuốn lôi kẻ trộm
Chuốt dung nhan lôi cuốn dâm ô.
(Mạn tàng hối đạo,
Dã dung hối dâm.)
(Chậm cất giấu tiền của thì cuốn hút người khác vào đường trộm cắp; trau chuốt lẳng lơ thì lôi cuốn người ta vào đường dâm ô.)
"Mạn tàng" có nghĩa là cất giấu không cẩn thận, thiếu kín đáo. Như quý vị có báu vật thì phải mau mau cất giấu cho kỹ lưỡng, kẻo chậm trễ, bọn cướp trông thấy sẽ sanh lòng tham và đến cướp đi mất. Tại sao quý vị bị cướp? Bởi vì quý vị cất giấu quá chậm, cho nên mới dẫn đường cho bọn cướp đến đánh cắp.
Ðó là nói về tài sản vật chất bên ngoài. Ðối với tài sản bên trong của chúng ta—tức là tự tánh của chính mình—chúng ta cũng cần phải cất giấu. Nếu chúng ta cất giấu chậm thì cũng bị bọn yêu ma quỷ quái đến cướp mất vậy. Chúng cướp mất cái gì của quý vị? Cướp đi "trân bảo vô thượng" của quý vị. Nói như thế thì chúng ta phải cất giấu món "trân bảo" tự tánh của mình như thế nào? Cách cất giấu này thì không giống như cách cất giấu những tài sản có hình có tướng—như đem chôn ở một nơi bí mật, hoặc cất giữ trong két bảo hiểm—không phải như thế!
Thế thì phải cất giấu "tài sản quý báu" tự tánh như thế nào? Phải chính mình không sanh vô minh! Quý vị phải biết rằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đều thuộc loại "đại tặc," là những tên giặc rất lợi hại. Ðừng tưởng rằng con mắt giúp đỡ chúng ta—sở dĩ hiện nay quý vị chưa thể thành Phật cũng chính là vì bị con mắt này tác oai tác quái. Không những mắt là giặc, mà tai cũng là giặc, mũi cũng là giặc, lưỡi cũng là giặc, thân thể cũng là giặc, ý cũng là giặc. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chính là sáu tên giặc; chỉ có linh tánh của quý vị là "pháp bảo," là bảo bối vô cùng trân quý.
Nếu mắt mà phân tán đi một chút thì quý vị bị thiếu mất một chút, tai mà phân tán đi một chút thì thiếu mất một chút, mũi mà phân tán đi một chút thì thiếu mất một chút, lưỡi mà phân tán đi một chút thì thiếu mất một chút, thân mà chia bớt đi một bộ phận thì lại thiếu mất một chút, ý mà chia bớt đi một phần thì quý vị lại thiếu mất một chút.
Ðối với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nếu quý vị không thâu nhiếp chúng trở về được, tức là quý vị "thả lỏng" chúng đấy! Mỗi tên chạy rông mỗi nơi lo những chuyện không liên can. Mắt trông thấy vật gì đều muốn thấy cho tận tường thêm nữa, đó gọi là lo chuyện tào lao. Tai nghe thấy việc gì dù chẳng liên quan tới mình cũng tò mò muốn nghe lần nữa cho thỏa thích; như thế cũng gọi là bị cảnh giới lay chuyển, đều do "bọn giặc" gây ra! Thế nên, quý vị đừng để cho sáu tên giặc này thừa cơ cướp đoạt mất "bảo bối" tự tánh của mình! Nếu hằng ngày quý vị cứ tùy theo sáu căn này mà hành sự, thì chúng đích thị là những tên giặc chực cướp đi tự tánh của quý vị.
Bây giờ tôi giảng đạo lý này thì có thể quý vị chưa hoàn toàn am hiểu, hoặc chưa thể lãnh hội thấu đáo được. Song, nếu quý vị chịu khó dụng công, thì sau một thời gian quý vị sẽ vỡ lẽ: "À! Thì ra cái này thật là xấu xa, tệ hại!" Bấy giờ, biết được mắt tác hại như thế nào, tai chẳng vâng lời ra sao, thì quý vị sẽ thấy rằng hóa ra bọn chúng đều là "giặc" cả!
"Dã dung hối dâm" có nghĩa là chải chuốt hình dáng là khiến kẻ khác sanh lòng dâm. Ví dụ như người con gái bôi phấn thoa son, trang điểm thật lộng lẫy, đây chính là khêu gợi, khiến người khác trông thấy liền sanh lòng tà vạy. Thế nên người nữ tốt nhất là để dung mạo tự nhiên, không cần phải tô son điểm phấn. Nếu bôi son trét phấn vào môi vào má hồng hồng đỏ đỏ, cho rằng làm như vậy rất có ý nghĩa, song thật ra thì chẳng có ý nghĩa gì cả, mà chỉ là thể hiện sự điên đảo của chúng sanh—sự điên đảo của chúng sanh chính là ở điểm này vậy!
Sở dĩ nói sáu căn là bọn giặc chẳng qua là vì chúng ta không biết cách vận dụng chúng (nên chúng mới biến thành "giặc") mà thôi. Nếu quý vị biết vận dụng, thì không những chúng không biến thành "giặc" mà còn trở thành "hộ pháp" nữa là đằng khác! Do vậy, trong Kinh Lăng Nghiêm có chép rằng: Chúng sanh bị luân hồi khổ sở trong sáu nẻo là vì sáu căn này; nhưng nếu chúng sanh có thể "hồi quang phản chiếu," thanh tịnh tự tâm, thì thành Phật được cũng là nhờ ở sáu căn này chứ chẳng phải đâu xa lạ. Quý vị biết vận dụng chúng thì chúng chính là "hộ pháp"; còn không biết vận dụng chúng thì chúng chính là "giặc" vậy. Thí dụ, quý vị trông thấy đồ vật mà trong lòng sanh khởi chánh niệm thì đây chính là hộ pháp, còn nếu như sanh tà niệm thì đó là ma quỷ vậy. Lục Tổ Ðại Sư đã từng dạy:
"Lúc tà mê là ma choán chỗ,
Khi chánh niệm là Phật tại nhà."
(Tà niệm chi thời, ma tại xá,
Chánh niệm chi thời, Phật tại đường.)
Do đó, nếu bất cứ lúc nào quý vị cũng có thể đề khởi chánh niệm, thì sáu căn sẽ biến thành hộ pháp của quý vị—chúng trợ giúp quý vị rất đắc lực. Khi mắt nhìn thấy hình sắc thì liền chạy theo sắc trần; tai vừa nghe lọt âm thanh thì liền chạy theo thanh trần; mũi vừa ngửi thấy mùi liền chạy theo hương trần; lưỡi vừa nếm biết vị liền chạy theo vị trần; thân cảm nhận có sự tiếp xúc, đụng chạm liền chạy theo xúc trần—thì bấy giờ sáu căn là những tên giặc ghê gớm, lợi hại. Vì sao nói là "chạy theo"? Chính là vì quý vị cảm thấy thích thú, ưa muốn; tự trong lòng nảy sanh sự ham thích, thì đó chính là "chạy theo" vậy. Bởi chưa có định lực cho nên ý nghĩ của quý vị sau khi tiếp xúc với pháp thì liền chạy theo pháp trần, đuổi theo ngoại cảnh. Lại cũng vì ý nghĩ còn tà vạy, không được chân chánh, nên mới bị cảnh giới lay chuyển; nếu ý nghĩ chân chánh thì sẽ xoay chuyển được cảnh giới. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Lợi ích chiêm bái lễ lạy Địa Tạng Vương Bồ tát
"Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất; ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích. Những gì là mười?
Một là đất đai mầu mỡ;
Hai là nhà cửa yên ổn mãi mãi;
Ba là người đã mất được sanh thiên;
Bốn là người hiện còn được tăng tuổi thọ;
Năm là mọi mong cầu đều được toại ý;
Sáu là không có tai họa về nước và lửa;
Bảy là trừ sạch việc hư hao;
Tám là dứt hẳn ác mộng;
Chín là ra vào đều có thần theo hộ vệ;
Mười là thường gặp nhân Thánh."
Lược giảng:
Kiên Lao Ðịa Thần lại bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất—để thờ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát ..."
Trong đời này và đời sau, có những chúng sanh cất cái khám thờ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, bằng đất, bằng đá, bằng gỗ, hay bằng tre... ngay trên một khoảnh đất sạch sẽ, thanh tịnh về phía Nam của nơi mình cư ngụ. Rồi họ ở trong cái khám đó mà tô vẽ hình của Bồ Tát Ðịa Tạng, hoặc là dùng vàng, dùng đồng, dùng bạc, thậm chí có thể dùng cả thứ vật liệu rất rẻ tiền như sắt, để đúc thành tượng Bồ Tát Ðịa Tạng; và họ lại ở trước hình tượng của Bồ Tát mà chí thành "đốt hương cúng dường, chiêm lễ—nhìn ngắm, luyến mộ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích."
Tôi lấy một ví dụ—chẳng hạn khi một người nam thích một người nữ thì cậu ta cứ hết nhìn lại ngắm, hết ngắm lại nhìn cô ta; hoặc như lúc một người nữ thích một người nam cũng vậy, cô ta cứ hết ngó lại nhìn, hết nhìn lại ngó cậu ta. Song le, cái "nhìn" đó có tính cách không thanh tịnh—một cái "nhìn" chứa chan dục niệm. Quý vị cần phải chuyển dục niệm thành trí huệ, phải dùng cái niệm thanh tịnh của trí huệ để chiêm ngưỡng và đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng. Chúng ta phải nhìn ngài Ðịa Tạng với sức thanh tịnh tự nhiên như thế, chứ chẳng phải như cách nhìn đắm đuối của một đôi nam nữ yêu nhau; cho nên ở đây nói là "chiêm lễ khen ngợi."
Quý vị có thể chiêm ngưỡng, đảnh lễ, và ca ngợi như vầy: "Nguyện lực của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thật vô cùng to lớn! Mọi người chúng ta đều nên tin tưởng vào Bồ Tát Ðịa Tạng! Chúng ta hãy cùng nhau tụng Kinh Ðịa Tạng, đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng."
Cho nên, nay tôi tặng quý vị hình tượng Bồ Tát Ðịa Tạng, quý vị mang về nhà có thể suốt ngày nhìn ngắm, chiêm ngưỡng hoài mãi cho đến lúc quý vị thành Phật, giống như Bồ Tát Ðịa Tạng vậy!
Thế thì, ở ngay nơi những người này cư ngụ sẽ được mười điều lợi ích; "những gì là mười?
Một là đất đai mầu mỡ." Ðất cát nơi những người ấy sinh sống đều rất tốt, rất phì nhiêu; trồng bất cứ loại cây gì cũng đều tươi tốt, lớn mạnh. Như ở tiểu bang Alaska chẳng hạn, đất đai phì nhiêu, ruộng vườn trù phú, người ta trồng được giống bí đỏ trái rất lớn.
"Hai là nhà cửa yên ổn mãi mãi." Ngoài việc đất đai được trù phú ra, nơi cư ngụ còn cần phải được yên vui; bởi nơi ăn chốn ở mà không được an ổn vui vẻ, thì đất đai có mầu mỡ cũng chẳng trồng trọt gì được! Cho nên nhà cửa được xây cất trên những sở đất như thế này thì không phải lo nạn động đất! Nhà cửa luôn an ổn tức là nơi ăn chốn ở mãi mãi được bình yên.
"Ba là người đã mất được sanh thiên." Ðiều lợi ích thứ ba là cha mẹ đã qua đời hoặc là cha mẹ trong bảy đời của những người ấy đều được sanh lên cõi trời. Vì sao họ được sanh lên cõi trời? Chính là nhờ con cái của họ chiêm ngưỡng Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, đảnh lễ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, tín ngưỡng Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.
"Bốn là người hiện còn được tăng tuổi thọ." Ðây là điều lợi ích thứ tư.
Có người hoài nghi rằng: "Về việc người đã chết được sanh lên cõi trời, tôi vẫn còn có chỗ hoài nghi, không thấy là chắc chắn lắm. Có sanh thiên hay không—điều này vẫn còn rất đáng ngờ. Ðây chẳng qua là Thầy giảng như vậy mà thôi, chứ còn chuyện sanh thiên hoặc không sanh thiên thì tôi cũng chưa hề thấy!"
Quý vị muốn thấy ư? Thế thì hãy dụng công tu tập, khi nào đắc Thiên Nhãn Thông thì quý vị sẽ nhìn thấy được ngay! Những việc mà quý vị không thấy được thì hãy khoan nói tới; bây giờ tôi sẽ nói tới điều mà quý vị có thể nhìn thấy được. Lấy thí dụ, cha mẹ của quý vị rõ ràng là mạng số chỉ tới năm mươi tuổi mà bây giờ sống được tám mươi tuổi, hoặc rõ ràng mạng số là tám mươi tuổi mà nay sống tới một trăm tuổi—như vậy là thọ mạng được gia tăng!
Ðể tôi kể cho quý vị nghe một sự việc có thật. Ðó là chuyện của thân sinh ông cư sĩ họ Ðàm. Năm ông cụ được bảy mươi chín tuổi thì bói toán nói rằng nội trong năm đó cụ nhất định sẽ tạ thế. Thế là ông cụ sợ hãi, bèn chạy đến xin quy y với tôi. Lúc quy y, cụ còn ra điều kiện với tôi—vì sao cụ chịu quy y ư? Ông cụ muốn tôi bảo đảm là cụ sẽ được sống thêm mười năm nữa!
Tôi nói: "Ðược, mười năm! Chuyện nhỏ thôi!" Và, thế là tôi nhận lời. Sau khi tôi hứa nhận, ông ta sống tới bao nhiêu tuổi? Chín mươi mốt tuổi, tức là sống thêm được mười hai năm!
Lúc nhận lời cho ông cụ sống thêm mười hai năm, tôi có nói: "Ðược thôi! Chỉ cần ông nghe lời tôi, y giáo phụng hành, thì tôi có thể bảo đảm là ông sẽ sống thêm mười hai năm nữa!" Tôi tuyên bố như thế, cũng không biết là thật hay giả, nhưng quả nhiên ông cụ không chết vào năm bảy mươi chín tuổi, mà còn thọ thêm được mười hai năm nữa—ông cụ qua đời ở tuổi chín mươi mốt! Sau đó, vợ ông ta cùng hai người con gái đều tin theo đạo Phật.
"Năm là mọi mong cầu đều được toại ý." Quý vị nói rằng từ nãy đến giờ chỉ thấy nói đến những điều lợi ích cho tha nhân, chứ chưa thấy đề cập đến bản thân mình gì cả ư? Thế thì bây giờ điều này là lợi ích cho bản thân quý vị đây—quý vị muốn gì được nấy, mọi điều mong cầu đều được toại nguyện.
Hãy nói về một vấn đề thường tình nhất đối với người đời như chuyện hôn nhân chẳng hạn—một người con gái mơ gặp được một người chồng tốt, một người con trai mong cưới được một người vợ tốt—nhất định đều được toại nguyện. Ðó là nói về người tại gia. Còn đối với người xuất gia thì sao? Nếu người ấy cầu mong được trở thành một vị Sư giỏi hoặc một Ni Sư tốt, thì chắc chắn cũng sẽ được toại tâm mãn nguyện.
"Sáu là không có tai họa về nước và lửa." Ðiều lợi ích thứ sáu là không bị nước lụt cuốn trôi, cũng không bị hỏa hoạn thiêu đốt.
Vừa rồi tôi có đề cập đến bốn vị thần tứ đại trong hư không, song tôi chưa nói về hình dạng của họ; bây giờ nhân nhắc đến thần lửa, chúng ta hãy tìm hiểu đôi chút về vị thần này. Thần lửa có hình dáng như thế nào? Thần lửa trông giống như loài chim sẻ, toàn thân đều màu đỏ và chỉ có một chân.
Thần lửa tuy có tên, nhưng khi quý vị gọi đến tên ấy thì thần sẽ bỏ chạy mất dạng; không như chúng ta, hễ gọi tên ai thì người đó liền đến! Thần có tên là Phương Miễn—họ Phương, tên Miễn. Hễ nghe quý vị gọi "Phương Miễn" thì thần lửa sẽ bỏ đi nơi khác, không ở đây nữa; còn nếu quý vị không gọi đến tên của thần, thì thần cứ ở lại đây, bảo thế nào cũng không đi. Vị thần lửa này thật lạ đời như thế!
Lại nói về thần đất, thần đất có hình dáng như thế nào? Thần đất trông giống như một cậu bé có cặp mắt màu đỏ, tai dài thậm thượt chấm đất; quý vị đã từng trông thấy đứa bé nào giống như thế chưa? Ðó là thần đất đấy!
Thần đất cũng có tên, là gì ư? Thần đất tên là Võng Tượng. Rất khó mà gặp mặt vị thần đất này; nhưng khi gặp được thần, nếu quý vị có thể bắt giữ thần lại mà đem nấu chín rồi ăn thịt của thần, thì quý vị sẽ biến thành vị thần đất kế tiếp. Ðây là việc có thật chứ chẳng phải chuyện đùa đâu!
"Bảy là trừ sạch việc hư hao." Ðiều lợi ích thứ bảy là không có các thứ hư hao. "Hư hao" tức là "hư kinh quái dị," các thứ tai nạn, các sự việc kinh khủng mà quý vị không tưởng tượng ra được, không ngờ tới được. Ðiều lợi ích thứ bảy là những việc hư hao này đều tiêu trừ, không còn nữa.
"Tám là dứt hẳn ác mộng." Có nhiều người lúc ngủ thường mơ thấy những việc dữ—mộng thấy có người đánh mình, giết mình, hoặc có con cọp muốn ăn thịt mình, hoặc là quỷ "vô thường" muốn bắt mình đến gặp Diêm La Vương... Có người thì mộng thấy quỷ yểm mỵ—Cưu-bàn-trà—đè trên mình, ú ớ nói không ra tiếng, toàn thân cứng đơ, không nhúc nhích được. Song le, nếu quý vị cúng dường Bồ Tát Ðịa Tạng, trì niệm danh hiệu của Ngài, thì những việc như thế sẽ không còn xảy ra nữa.
"Dứt hẳn ác mộng" tức là cắt đứt hẳn, dứt tuyệt, hoàn toàn không còn chiêm bao thấy ác mộng nữa.
"Chín là ra vào đều có thần theo hộ vệ." Ví dụ quý vị đi trên đường phố, rõ ràng bị xe đụng hất văng ra xa cả mấy thước; thế mà, quý vị không hề hấn gì cả, đứng dậy đi tiếp như không có chuyện gì xảy ra! Lẽ thường hễ bị xe đụng văng ra xa như thế thì nhất định sẽ bị gãy xương đứt gân, thế mà quý vị lại không việc gì cả, vẫn có thể đứng dậy phủi phủi áo quần rồi đi tiếp như thường, không cần phải đến bệnh viện; đó là vì sao? Chính là nhờ có thần linh che chở, phù hộ. "Ra vào đều có thần theo hộ vệ" có nghĩa là khi quý vị ra đường hoặc lúc ở nhà, khi ra lúc vào đều có thần linh âm thầm đi theo bảo hộ.
"Mười là thường gặp nhân Thánh." "Nhân Thánh" là gì? Là cái mầm mống để trở thành bậc Thánh, cái nhân hạnh dẫn đến Thánh quả.
Như khóa tu học hè của chúng ta ở đây chẳng hạn—đây chính là "nhân Thánh" vậy. Cho nên, trong sáu tuần lễ này chúng ta chuyên chú giảng kinh thuyết pháp, chăm chỉ cần cù dụng công tu hành—có thể nói quý vị tìm khắp cả thế giới cũng không thể nào tìm ra được một khóa tu học hè cam go như thế này. Nếu quý vị nói rằng mình không muốn bản thân phải phấn đấu cực khổ vất vả đến thế, thì quý vị sẽ không thể nào gặp được "nhân Thánh"! Quý vị hiện nay tuy có vất vả, có chịu khổ chịu cực, song đây chính là cơ hội để gieo trồng "nhân Thánh." Và, đây là lợi ích thứ mười vậy. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ “Chiêm lễ” nghĩa là chiêm ngưỡng lễ kính/ Đảnh lễ: Biểu hiện trên sự đối đãi cha mẹ, đối đãi sư trưởng. Tinh thần của Ðịa Tạng Bồ Tát tức là “hiếu thân tôn sư”, sau đó khuếch đại tâm hiếu thân tôn sư này đến hiếu kính hết thảy chúng sanh, đây là Ðịa Tạng bổn nguyện, như vậy thì mới chiêm lễ đến viên mãn. Còn tâm khinh mạn bất kỳ chúng sanh nào thì chẳng phải tu hạnh Ðịa Tạng. Nói đến chiêm lễ cứ tưởng là cúng một tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, mỗi ngày khấu đầu lạy Ngài, đâu phải là đơn giản như vậy! Ðó là hoàn toàn giải sai ý nghĩa chân thật của Như Lai, Phật nói chẳng sai mà bạn đã hiểu sai rồi. (Nguồn: Địa tạng bồ tát bổn nguyện kinh giảng ký - T6 - Q. Thương - Tra 126 - HT Tịnh Không giang)
+ Chiêm ngưỡng - Đảnh lễ: Lúc đó Kiên Lao Ðịa Thần, tức là vị Hộ Pháp Kiên Lao Ðịa Thần đã từng phát nguyện hộ trì Chánh Pháp, bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ trước đến nay, trải qua vô lượng kiếp về trước cho đến hiện nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát." "Chiêm ngưỡng" có nghĩa là chăm chú ngắm nhìn, không rời mắt. "Ðảnh lễ" tức là cúi rạp đầu sát đất mà lạy......
.... Trong đời này và đời sau, có những chúng sanh cất cái khám thờ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, bằng đất, bằng đá, bằng gỗ, hay bằng tre... ngay trên một khoảnh đất sạch sẽ, thanh tịnh về phía Nam của nơi mình cư ngụ. Rồi họ ở trong cái khám đó mà tô vẽ hình của Bồ Tát Ðịa Tạng, hoặc là dùng vàng, dùng đồng, dùng bạc, thậm chí có thể dùng cả thứ vật liệu rất rẻ tiền như sắt, để đúc thành tượng Bồ Tát Ðịa Tạng; và họ lại ở trước hình tượng của Bồ Tát mà chí thành "đốt hương cúng dường, chiêm lễ—nhìn ngắm, luyến mộ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích."
Tôi lấy một ví dụ—chẳng hạn khi một người nam thích một người nữ thì cậu ta cứ hết nhìn lại ngắm, hết ngắm lại nhìn cô ta; hoặc như lúc một người nữ thích một người nam cũng vậy, cô ta cứ hết ngó lại nhìn, hết nhìn lại ngó cậu ta. Song le, cái "nhìn" đó có tính cách không thanh tịnh—một cái "nhìn" chứa chan dục niệm. Quý vị cần phải chuyển dục niệm thành trí huệ, phải dùng cái niệm thanh tịnh của trí huệ để chiêm ngưỡng và đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng. Chúng ta phải nhìn ngài Ðịa Tạng với sức thanh tịnh tự nhiên như thế, chứ chẳng phải như cách nhìn đắm đuối của một đôi nam nữ yêu nhau; cho nên ở đây nói là "chiêm lễ khen ngợi."
Quý vị có thể chiêm ngưỡng, đảnh lễ, và ca ngợi như vầy: "Nguyện lực của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thật vô cùng to lớn! Mọi người chúng ta đều nên tin tưởng vào Bồ Tát Ðịa Tạng! Chúng ta hãy cùng nhau tụng Kinh Ðịa Tạng, đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng."
Cho nên, nay tôi tặng quý vị hình tượng Bồ Tát Ðịa Tạng, quý vị mang về nhà có thể suốt ngày nhìn ngắm, chiêm ngưỡng hoài mãi cho đến lúc quý vị thành Phật, giống như Bồ Tát Ðịa Tạng vậy! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nơi đặt ảnh hay tượng thờ phụng Địa Tạng Vương Bồ Tát
"Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất; ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích.
Lược giảng:
Kiên Lao Ðịa Thần lại bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất—để thờ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát ..."
Trong đời này và đời sau, có những chúng sanh cất cái khám thờ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, bằng đất, bằng đá, bằng gỗ, hay bằng tre... ngay trên một khoảnh đất sạch sẽ, thanh tịnh về phía Nam của nơi mình cư ngụ. Rồi họ ở trong cái khám đó mà tô vẽ hình của Bồ Tát Ðịa Tạng, hoặc là dùng vàng, dùng đồng, dùng bạc, thậm chí có thể dùng cả thứ vật liệu rất rẻ tiền như sắt, để đúc thành tượng Bồ Tát Ðịa Tạng; và họ lại ở trước hình tượng của Bồ Tát mà chí thành "đốt hương cúng dường, chiêm lễ—nhìn ngắm, luyến mộ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích."......
Tôi lấy một ví dụ—chẳng hạn khi một người nam thích một người nữ thì cậu ta cứ hết nhìn lại ngắm, hết ngắm lại nhìn cô ta; hoặc như lúc một người nữ thích một người nam cũng vậy, cô ta cứ hết ngó lại nhìn, hết nhìn lại ngó cậu ta. Song le, cái "nhìn" đó có tính cách không thanh tịnh—một cái "nhìn" chứa chan dục niệm. Quý vị cần phải chuyển dục niệm thành trí huệ, phải dùng cái niệm thanh tịnh của trí huệ để chiêm ngưỡng và đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng. Chúng ta phải nhìn ngài Ðịa Tạng với sức thanh tịnh tự nhiên như thế, chứ chẳng phải như cách nhìn đắm đuối của một đôi nam nữ yêu nhau; cho nên ở đây nói là "chiêm lễ khen ngợi."
Quý vị có thể chiêm ngưỡng, đảnh lễ, và ca ngợi như vầy: "Nguyện lực của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thật vô cùng to lớn! Mọi người chúng ta đều nên tin tưởng vào Bồ Tát Ðịa Tạng! Chúng ta hãy cùng nhau tụng Kinh Ðịa Tạng, đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng."
Cho nên, nay tôi tặng quý vị hình tượng Bồ Tát Ðịa Tạng, quý vị mang về nhà có thể suốt ngày nhìn ngắm, chiêm ngưỡng hoài mãi cho đến lúc quý vị thành Phật, giống như Bồ Tát Ðịa Tạng vậy! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Gieo trồng Nhân Thánh - Nhân thiện lành - Nhân cát tường: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất; ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích., trong đó điều thứ 10 là
"Mười là thường gặp nhân Thánh." "Nhân Thánh" là gì? Là cái mầm mống để trở thành bậc Thánh, cái nhân hạnh dẫn đến Thánh quả.
Như khóa tu học hè của chúng ta ở đây chẳng hạn—đây chính là "nhân Thánh" vậy. Cho nên, trong sáu tuần lễ này chúng ta chuyên chú giảng kinh thuyết pháp, chăm chỉ cần cù dụng công tu hành—có thể nói quý vị tìm khắp cả thế giới cũng không thể nào tìm ra được một khóa tu học hè cam go như thế này. Nếu quý vị nói rằng mình không muốn bản thân phải phấn đấu cực khổ vất vả đến thế, thì quý vị sẽ không thể nào gặp được "nhân Thánh"! Quý vị hiện nay tuy có vất vả, có chịu khổ chịu cực, song đây chính là cơ hội để gieo trồng "nhân Thánh." Và, đây là lợi ích thứ mười vậy. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chướng ngại: Có hai loại Phiền Lão chướng và Sở chi chướng
+ Phiền não chướng sinh khởi do chấp ngã. Khi chấp ngã, sẽ làm sinh khởi nên phiền não chướng.
* Phiền não là ma quỷ: ... Hễ có phiền não là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại, kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu.
+ Sở tri chướng sinh khởi do chấp pháp. Về sở tri chướng, nếu quý vị nghĩ: “Tôi biết rất nhiều” thì đó là một chướng ngại. Ngay khi tâm kiêu mạn này trổi dậy thì đó chính là sở tri chướng. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn)
+ Chướng ngại không thấy Đạo: Chỉ cần Bạn có 1 trong 6 thứ sau thì bạn chẳng thể thấy đạo, đừng nói là chứng đạo, thấy cũng thấy không được: ‘Tham, sân, si, mạn, nghi’, sau đó là ‘ác kiến’, tức là ‘thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến’, hợp lại gọi là ác kiến, 6 phiền não căn bản là chướng ngại lớn nhất (Nguồn)
* Kiêu mạn (Kiêu hãnh - Ngã mạn hay Kiêu căng - Ngạo mạn): Tự cao - Tự Đại - Tự tôn - Tự mãn - Tự phụ
+ Ba chướng: Thứ tư là luận bàn về dụng.
"Lực dụng khu trừ tam trược, (dùng lực dẹp trừ ba chướng trược".
Dùng lực gì ? Ðể làm gì ? Dùng tâm kinh bát nhã ba la mật đa để làm chi ?
Tức là dùng lực dụng của kinh này để phá trừ ba chướng.
Một là báo chướng. Hai là nghiệp chướng. Ba là phiền não chướng. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chướng Ngại - Là Thói quen, tập khí nhiều kiếp trước = > Có thể thay đổi:
Hỏi : Rinpoche nói rằng phạm các giới khinh là do nơi nghiệp của các đời trước. Rinpoche có thể vui lòng cho các thí dụ về việc phạm các giới trung tội và trọng tội, và có phải chăng chúng cũng đều do nghiệp của các đời trước ?
Rinpoche: Có hai điều cần phải lìa xa: các nghiệp ác và các chướng nạn. Nếu các nghiệp thân, khẩu, và ý của chúng ta làm hại các hữu tình khác, dù trực tiếp hay gián tiếp, các nghiệp này là các nghiệp ác bất thiện. Các nghiệp này chẳng có liên quan gì với karma đời trước hay tập khí đời trước, mà đúng hơn chúng có liên hệ với các ý muốn hiện tại. Khởi lên một ý muốn sát hay trộm là chỉ tùy theo chính mình và chúng ta có công năng để ngưng mình lại không cho làm các hành động ấy.
Các chướng ngại, vốn thuộc về tâm, cũng không hề do nơi karma, mà do nơi các thói quen của chúng ta. Từ vô thủy đến nay, tất cả chúng ta quen thói các phiền não tham, sân, và si. Có người thì tham mạnh, có người sân mạnh, và có người thì si mạnh, tùy theo họ quen thói các phiền não ấy nhiều ít thế nào. Các thói quen này cần phải được lìa bỏ. Có hai chữ mà hầu như là đồng nghĩa với nhau trong Tạng ngữ. Đó là chữ gom (viết theo Tạng ngữ là sgom) có nghĩa là tu tập hay thiền định, và chữ khom (viết là goms) có nghĩa là các thói quen tập khí. Khi chúng ta tu tập hết sức tinh cần và sự tu tập của chúng ta có lực, thì đó là gom, tức thiền định. Khi chúng ta không hết lòng tu tập, không ra sức tu tập, thì nó trở thành khom, tức chỉ là một thói quen. Vì thế để lìa xa các chướng ngại, chúng ta phải thay thế khom bằng gom.
Về ba cấp độ phạm giới thì phạm giới khinh đôi khi chưa chín thành ác nghiệp nhưng sau đó có thể trở thành chủng tử của ác nghiệp. Chẳng hạn, vài vị tu sĩ không mặc y dưới, sham thab cho đàng hoàng. Vào lúc ấy, nó không phải là một ác nghiệp, nhưng nó có thể từ từ chín dần thành một ác nghiệp thực sự.
+ Hỏi Chướng ngại: Ngài có thể nói đôi chút về các chướng ngại bí mật được không ?
Rinpoche : Trước đây, nhiều dịch giả đã dịch chữ sang của Tạng ngữ là "bí mật" thế nên vajrayana được dịch là "mantrayana bí mật". Nhưng dịch thế không được đúng lắm. Con đường tắt đưa chúng ta đến chỗ mình muốn đến được gọi là sang lam, có nghĩa là "một lối tắt" hay "một con đường nhanh hơn". Vì thế sang ngụ ý nói cho lối thoát chính yếu của vấn đề. Ví dụ như, nếu chúng ta muốn bật đèn, chúng ta phải đi bật nó lên, chúng ta không thể cứ loay hoay với bóng đèn mà bật đèn được. Vì vậy cách chính yếu để làm sao đèn được bật lên được gọi là sang theo Tạng ngữ. Khi sang được dịch ra Anh ngữ là "bí mật" (secret), nó gây ra nhiều bối rối. Lấy thí dụ khác như chiếc xe hơi, bộ máy là chìa khóa chính, là phần quan trọng nhất. Nếu chúng ta muốn lái xe hay muốn dừng lại hay muốn bất cứ gì, thì đều phải làm qua máy. Thế nên bộ máy xe chính là sang pa.(Nguồn: Xem tại đây)
+ Chướng ngại - Thử thách trong tu hành:
Nay tôi muốn nói với quý vị về một vấn đề rất kỳ lạ—trong nhiều gia đình, mặc dù con cái có khuynh hướng học đòi, bắt chước những điều không tốt, nhưng các bậc làm cha mẹ lại chẳng hề lo âu ngăn cản; họ cho rằng: "Không sao! Ðể chúng được tự do, tùy ý chúng!"
Thoạt nhìn thì thấy các bậc cha mẹ ấy chẳng có gì gọi là khắt khe cả, đối đãi với con cái dường như rất cảm thông, dễ dãi. Ðợi đến khi con cái họ muốn học điều tốt, vừa muốn học Phật Pháp, thì họ lại đùng đùng nổi giận, la mắng con cái rằng thế này là không đúng, thế kia là không phải... Trước kia, lúc con cái họ dùng ma-túy, uống rượu (rượu mê hồn), hút cần sa, con người lúc nào cũng lừ đừ dã dượi, yếu ớt bạc nhược, thì họ đều có thể "nhìn mà không thấy," cứ nghĩ rằng để từ từ chờ cơ hội, từ từ rồi con cái mình sẽ biết theo điều tốt. Song le, đến khi con cái của họ biết tu tỉnh, biết theo điều hay lẽ phải rồi, thì họ lại nổi nóng, trách mắng: "Các cô các cậu muốn học làm điều tốt chứ gì? Vậy thì phải biết ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ. Bây giờ tao phải mắng chúng mày, đánh chúng mày một trận nên thân mới được!"
Quý vị nói xem, phen này có phải là sẽ có chuyện phiền phức xảy ra không? Ðó chẳng qua là để thử thách quý vị - Những kẻ làm con - Là khảo nghiệm quý vị, xem rốt ráo quý vị có phải là chân thật muốn học điều tốt hay không mà thôi! Nếu quý vị chân thật muốn học làm người tốt thì càng bị mắng quý vị càng phải vui mừng, càng bị đòn quý vị càng phải hoan hỷ, và nhớ đừng khóc lóc than van. Các bậc cha mẹ ấy thấy quý vị tươi cười hoan hỷ, thì bao nhiêu hờn giận phiền muộn trong lòng đều tiêu tan cả; còn nếu quý vị không làm được như vậy, thì phiền não của quý vị sẽ càng gia tăng mà thôi.
Quý vị cần phải thấy được rằng hết thảy mọi việc đều là thử thách, đều là để khảo nghiệm bản thân mình, xem mình rốt cuộc có áp dụng được những kiến thức Phật Pháp đã học hay không—có thực hành hạnh nhẫn nhục, có trì giới, có bố thí, có tinh tấn, có thiền định, có trí huệ Bát Nhã hay không. Tất cả đều là thử thách—nếu đạt yêu cầu, vượt qua được thử thách, thì sẽ được lợi ích vô cùng; nếu không vượt qua được, thì lại phải cần cù học thêm nữa.
Phải nhớ rằng:
"Ma Ha Tát, chẳng biết người khác,
Di Ðà Phật, thân ai nấy lo!"
Vậy, quý vị hãy tự kiểm soát chính mình, OK? (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ 44. CHÍN PHÁP TĂNG NHẤT
Chín nan giải pháp - Cấp Độ Thuyết Pháp:
1) Có tín nhưng không trì giới;
2) Có tín, có giới, nhưng không có đa văn;
3) Có tín, có giới, có đa văn nhưng không thể thuyết pháp;
4) Có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, nhưng không thể nuôi chúng;
5) Có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, nhưng giữa đại chúng không thể quảng diễn pháp ngôn;
6) Có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, có thể quảng diễn pháp ngôn giữa đại chúng nhưng không chứng đắc tứ thiền;
7) Có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, có thể quảng diễn pháp ngôn giữa đại chúng, đắc tứ thiền, nhưng đối với tám giải thoát không thể thuận nghịch du hành;
8) Có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, có thể quảng diễn pháp ngôn giữa đại chúng, đắc tứ thiền, đối với tám giải thoát có thể thuận nghịch du hành, nhưng không thể diệt tận các lậu;
9) Có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, có thể quảng diễn pháp ngôn giữa đại chúng, đắc tứ thiền, đối với tám giải thoát có thể thuận nghịch du hành, có thể diệt tận các lậu, thành vô lậu tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa, thì phạm hạnh đầy đủ. (Nguồn: mục 44 (Trường A Hàm, Kinh Tăng Nhất, số 11)
+ ĐỨC PHẬT CÓ GIẢNG PHÁP KHÔNG? Trích đoạn Đức Phật giảng cho ngài Phú Lâu Na trong Kinh:
HT Tuyên Hóa giảng: Đức Phật giảng pháp tuỳ duyên có lúc nói pháp và có lúc quét sạch tất cả pháp. Khi Đức Phật sắp nhập niết-bàn, có đệ tử hỏi, “Bạch Thế tôn, giáo pháp mà ngài đã tuyên thuyết, vào đời sau, chúng con sẽ phải lưu thông như thế nào?”
Ngài trả lời, “Như Lai chưa từng thuyết pháp.” Nay quý vị đừng nghĩ rằng qua câu trả lời nầy, Đức Phật đã bị chút ít lẩm cẩm khi gần nhập niết-bàn. Hoàn toàn không phải như vậy. Ngài nói rằng, “Nếu có người bảo rằng Như Lai đã từng thuyết pháp dù chỉ một chữ, tức là huỷ báng Như Lai.”
Thế là ngài đã giảng pháp suốt 49 năm, khai mở hơn 300 hội giảng kinh nhưng chưa từng nói một lời nào! Vậy là như thế nào? Cơ bản là Đức Phật giảng pháp, nhưng sau khi ngài giảng xong thì chúng biến mất.
Đó là để dạy mọi người không nên chấp cứng vào pháp. Là để ngăn ngừa những người sẽ nói, “Tôi phải y cứ đúng như pháp Đức Phật đã dạy.” Nếu có người nói như vậy, tức là vướng vào pháp chấp, tức họ sẽ khó đạt được pháp không. Để cho mọi người đều đạt được cả nhân không và pháp không, nên trong đoạn văn nầy, Đức Phật phủ nhận mọi điều ngài đã nói.
Kinh Kim Cương nói rằng pháp Đức Phật giảng nói giống như chiếc bè. Quý vị phải lìa bỏ nó khi đã đến bờ rồi.
Chúng ta học tập giáo pháp là để dứt trừ phiền não.
“Vì sao các ngài nói rằng Phật pháp vốn không có cái ‘phải’ và cái ‘chẳng phải’?”
Chẳng nghĩ thiện, đó chính là không có cái ‘phải.’ Chẳng nghĩ ác, đó chính là không có cái ‘chẳng phải.’ Quý vị có tất cả pháp bảo trong Như Lai tạng. Mà quý vị chẳng có gì hết thảy; Trong Như Lai tạng có rất nhiều phiền não cũng như có rất nhiều pháp bảo. Nếu mọi phiền não đều được chuyển hoá, thì chính nó là nước pháp; đó chân thật là pháp tánh của quý vị.
Đừng có sợ rằng mình có quá nhiều tập khí. Tập khí càng nhiều, thì pháp tánh càng lớn. Nhưng đừng để nó chuyển thành tập khí, vì nếu quý vị để mặc như vậy, thì sẽ làm mất tác dụng tánh linh của mình. Quý vị sẽ khởi đầu bằng trí thông minh và kết thúc bằng ngu muội nếu quý vị làm như vậy. Phật pháp dạy quý vị dứt trừ phiền não, rồi những phiền não nầy sẽ chuyển thành bồ-đề, như băng tan thành nước. Khi nước đông lại, băng chính là phiền não của quý vị; khi băng tan, phiền não hết, ngay đó chính là bồ-đề. Chẳng có gì quá khó hiểu về chuyện nầy. Toàn bộ những gì quý vị cần phải làm là thay đổi, và quý vị sẽ thành tựu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương II)
+ Các Cấp Trình Độ Người Giảng Phật Pháp/ Thuyết Pháp: Quí vị rất cần tìm đúng vị Thầy thiện lành mà mình cần - Rất quan trọng.
+ Thời điểm giảng kinh thuyết pháp: Hiện tại, công việc hoằng Pháp vẫn là giảng kinh vào mỗi buổi tối, tức là trở lại với nếp sinh hoạt như trước. Ðó là mỗi Thứ Bảy thì mười hai giờ rưỡi trưa đến Hội Cư Sĩ Lâm giảng Kinh Ðịa Tạng. Chủ Nhật thì buổi trưa từ mười hai giờ rưỡi đến hai giờ rưỡi là giảng Kinh Ðại Bi Tâm Ðà La Ni; còn buổi tối thì giảng Kinh Ðịa Tạng. Tối nay cũng giảng Kinh Ðịa Tạng.
Trước kia thì mỗi tối Thứ Hai, Thứ Ba và Thứ Tư là giảng Kinh Pháp Hoa, song bây giờ thì đều giảng Kinh Ðịa Tạng cả. Tính luôn cả phẩm thứ mười một này, thì Kinh Ðịa Tạng vẫn còn ba phẩm chưa giảng xong. Tôi hy vọng sẽ hoàn tất việc giảng Kinh Ðịa Tạng trước khi năm người Sa Di và Sa Di Ni lên đường sang Ðài Loan cầu Giới. Nếu vẫn giảng Kinh Pháp Hoa thì e rằng không kịp; cho nên bây giờ tôi chuyên chú giảng Kinh Ðịa Tạng cho xong trước, rồi sau đó mới giảng tiếp Kinh Pháp Hoa. Còn Kinh Hoa Nghiêm thì vẫn chưa đến lúc, cần phải chờ xem.
Lúc trước, mỗi tối Thứ Năm là do các đệ tử luân phiên phụ trách giảng thuyết. Nói tóm lại, các tối Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy thì quý vị chia nhau đảm nhiệm một số công việc; như thế, một mặt là quý vị có cơ hội thực tập giảng giải kinh điển, mặt khác là để chia xẻ gánh vác bớt công việc giùm tôi. Ðừng bắt tôi cán đáng nhiều việc như thế, đừng làm cho tôi mệt nhọc quá sức, để tóc tôi lại bạc trắng cả. Tóc tôi vừa đen lại chưa được bao lâu, tôi không muốn thấy tóc mình bạc trắng trở lại nữa! Vậy, chúng ta vẫn giảng kinh mỗi buổi tối như thường lệ. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Danh chính - Ngôn thuận: Cổ nhân có câu: “Không tại vị, đừng mưu chánh sự”, dùng Phật pháp để nói, nhiều người có tài ba, trí tuệ nhưng không có phước báo, phước báo không đủ. Tuy họ có đức hạnh, có học vấn, có trí tuệ, nhưng họ không tại vị, không có quyền, nên họ không thể thúc đẩy sự nghiệp lớn được, vì thế họ chỉ có thể đi dạy ở trong trường học, rất khó phát huy năng lực của họ. Do không có quyền thế tương ưng, cho nên tuy thời hiện tại họ không khởi tác dụng sự nghiệp lớn được, nhưng không thể nói họ không tài ba, trí tuệ được. Họ sẽ đào tạo nên lớp người đệ tử - Người kế thừa. Cho nên hoằng pháp với hộ pháp phải phối hợp thật mật thiết thì Phật pháp mới có thể phát huy mạnh mẽ. Ở trong đây đều phải có trí tuệ chân thật, người hoằng pháp có trí tuệ, người hộ pháp cũng phải có trí tuệ. Người hộ pháp không có trí tuệ thì không biết tốt xấu, không biết nhìn người. (Kinh TTNĐ-Tập 61_PS Tịnh Không)
+ Đức Phật giảng về nhiều thuật ngữ trong Phật Pháp cần đọc:
Trong Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận, Đức Phật giảng về nhiều chủ đề như: phân biệt phàm nhân và thánh nhân, các cấp Tâm thức, ngũ nhãn là gì, Chánh đạo và hắc đạo, Thiện chi thức là gì, các mức thành tựu đắc quả, làm sao sinh thiên; Tà sư ngoại đạo; Lục sư ngoại đạo; (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
+ Giảng Về Phật Pháp: ..... Những gì được giảng giải trước đây đều là pháp phương tiện. Pháp đang được giảng nói bây giờ là Đệ nhất nghĩa đế, là giáo lý rốt ráo của Trung đạo, hoàn toàn khác với pháp môn được giảng nói trước đây. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới–tất cả các pháp nầy đều không sinh khởi do nhân duyên, cũng chẳng sinh khởi do tự nhiên. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ Người được hồi hướng nhận được bao nhiêu phần?
Kinh Địa Tạng dạy: “Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.”
+ Phật dạy Minh Thiên về Hồi Hướng:
- Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Và ở chỗ tất cả chúng sanh đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Được quả báo công đức, hồi hướng Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Minh Thiên ! Bồ tát nào hồi hướng như vậy, gọi là Bồ tát tu thiện ít mà được quả báo to lớn, tạo nhiều công đức, phước báo vô lượng.
- Khi Bồ tát này thành tựu vô lượng công đức, đem công đức ấy hồi hướng trí huệ vô lượng. Lại cùng tất cả chúng sanh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề. Ba loại công đức này có ba loại hồi hướng. Những gì là ba? Là quá khứ không, đương lai không, hiện tại không. Không có người hồi hướng, không có pháp hồi hướng, không có chỗ hồi hướng. Đại Bồ tát nên làm hồi hướng này. Khi làm việc hồi hướng này, ba chỗ đều thanh tịnh. Đem công đức thanh tịnh này hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Làm việc hồi hướng này, không có phàm phu và pháp phàm phu, cũng không có tín hành, cũng không có pháp hành, không có tám hạng người, không có Tu đà hoàn hướng, Tu đà hoàn, không có Tư đà hàm hướng, Tư đà hàm, không có A na hàm hướng, A na hàm, không có A la hán hướng, A la hán, không có Bích Chi Phật hướng, Bích Chi Phật, không có Phật và người hướng Phật. Vì sao? Vì pháp tánh không duyên bất sanh bất diệt, không chỗ trú. Cho nên Đại Bồ tát dùng ba loại hồi hướng này ba loại công đức thanh tịnh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Bồ tát này hồi hướng rồi, lại nguyện: “Tôi sanh ra chỗ nào cũng thường gặp tam muội thậm thâm của chư Phật, thấy vô lượng Phật, thành tựu đa văn, trí huệ thanh tịnh. Thề không bỏ tất cả chúng sanh”. Khi thuyết như vậy, trăm ngàn trời người đều nguyện muốn vãng sanh về nước Phật A Súc.
- Nếu có thiện nam, thiện nữ nào học kinh hồi hướng này, nên biết người này ắt đắc pháp Vô sanh nhẫn, có thể độ người chưa độ, trăm ngàn vô lượng chúng sanh an lạc. (Nguồn: Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng)
+ Hồi hướng: Là đem công đức tu học của mình phân ra cho tất cả chúng sanh cùng hưởng. Bản thân ta không cần nữa thì phân ra cho tất cả chúng sanh hưởng. Bản thân ta nếu vẫn có một chút “ta cùng hưởng chung với tất cả chúng sanh”, thì “ngã” vẫn chưa xả hết, vẫn còn chấp ngã ở bên trong. Nếu chúng ta đem công đức phân cho tất cả chúng sanh hưởng, bên trong không có “ngã”, thì bạn mới có thể đi trên đường Bồ-đề. (Nguồn: Xem Kinh Thập thiện - Tập 40 - PS Tịnh Không giảng)
+ Thệ nguyện hồi hướng
Phật dạy Bát quan trai xong, lại dạy thính chúng phát nguyện: “Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào ba đường dữ, không rơi vào bát nạn, không ở biên địa, không rơi vào chỗ hung ác, không theo ác tri thức, thờ phụng cha mẹ, không tu tập tà kiến, sinh vào trung tâm quốc gia nghe pháp lành này. Phân biệt suy nghĩ thành tựu từng pháp. Đem công đức giữ gìn trai pháp này nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sinh. Đem công đức này bố thí cho người, khiến cho tất cả cùng thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Cũng đem phước báu thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam thừa, khiến không thối chuyển nửa chừng” (Xem nguồn)
+ Hồi hướng công đức đúng: Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào ở trong Phật Pháp đã gieo trồng thiện căn—hoặc là bố thí cúng dường, hoặc là tu bổ chùa tháp, hoặc sửa sang kinh điển, cho đến chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước...; những thiện sự như thế mà đều có thể đem hồi hướng cho Pháp Giới, thì công đức của người này sẽ là trong trăm ngàn đời đều được hưởng sự vui sướng vi diệu, tối thượng.
Còn như chỉ hồi hướng cho thân quyến trong gia đình hoặc cho lợi ích của riêng mình, thì quả báo là sẽ được hưởng sự vui sướng trong ba đời, cứ thí xả một thì được báo đáp vạn lần trội hơn.
Cho nên, này Ðịa Tạng! Những nhân duyên của sự bố thí là như thế!" (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P10 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bảy đức Phật gần nhất - Các đức Tổ sư của Phật Thích Ca mâu Ni
Hỏi rằng: "Chẳng biết từ trên Phật tổ ứng hiện tới nay, đã nay truyền thọ được mấy đời? Xin Tổ Sư chỉ dạy."
Sư nói: "Cổ Phật ra đời đã vô số, không thể kể hết được. Nay kể bảy vị Phật làm đầu mà thôi.
Đời quá khứ Trang Nghiêm kiếp có: Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật.
Đời hiện tại Hiền kiếp có: Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Văn Phật.
Ấy là bảy vị Phật.
Giảng:
Đại chúng lại khấu đầu đảnh lễ hỏi:
–Chúng con không biết từ lúc đức Phật đầu tiên ứng hóa cho đến hôm nay thì đã truyền thọ được bao nhiêu đời rồi? Cúi mong Tổ Sư vì chúng con khai thị.
Lục Tổ Đại sư nói:
–Từ xưa đến nay Chư Phật ứng hiện giữa đời đã vô số vô lượng, nhiều đến nổi đếm không xiết, huống chi tôi lại không biết chữ, nay chỉ lược nói bảy Đức Phật quá khứ lúc ban đầu. Kiếp quá khứ Trang Nghiêm có một ngàn Đức Phật ra đời, Đức Phật thứ chín trăm chín mươi tám tên là Tỳ Bà Thi Phật, dịch là Thắng Quán, Chủng Chủng Quán, Thắng Kiến hoặc Chủng Chủng Kiến. Vị Đức Phật thứ hai là Thi Khí Phật, dịch là Ly Hỏa, là vị Phật thứ chín trăm chín mươi chín. Vị Phật thứ ba là Tỳ Xá Phù Phật, là vị Phật cuối cùng trong kiếp Trang Nghiêm. Kiếp tiếp theo tên là Hiền kiếp. Sao gọi là Hiền kiếp? Vì trong kiếp này có rất nhiều bậc Thánh hiền, có ngàn Đức Phật ra đời. Vị Phật đầu tiên là Câu Lưu Tôn Phật, dịch là Sở Ứng Cúng, là bậc đáng cho trời người cúng dường, còn dịch là Trang Nghiêm. Vị Phật thứ hai là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. Vị thứ ba là Ca Diếp Phật. Vị thứ tư là Thích Ca Mâu Ni Phật, tức Giáo chủ cõi thế giới Ta-bà hiện nay. Trên đây là bảy vị Phật gần nhất.
Trước hết Thích Ca Văn Phật truyền cho Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp Tôn giả. Ma Ha Ca Diếp Tôn giả truyền cho Nhị Tổ A Nan Tôn giả, A Nan Tôn giả truyền cho…
Giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền cho đệ nhứt Tổ Sư – Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Một lần nọ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong pháp hội, trăm vạn người trời bao quanh, tay cầm hoa Kim Đàn Mộc do Đại Phạm Thiên Vương cúng dường, những người khác đều không biết ý gì, chỉ có Tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Phật nói: "Ta có Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết Bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, giáo ngoại biệt truyền, pháp môn dùng tâm ấn tâm, đã phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp." Sau truyền cho đệ Nhị Tổ – Tôn giả A Nan. Đệ Tam Tổ là Tôn giả Thương Na Hòa Tu. Tôn giả này lúc mới sanh ra trên mình đã khoát một bộ y phục, Ngài lớn lên bao nhiêu thì y phục cũng lớn theo Ngài bấy nhiêu. Tôn giả A Nan sau khi độ Ngài xuất gia, y phục trên thân Ngài liền biến thành Pháp phục. Sau khi thọ Cụ túc giới, y đó lại biến thành y Tăng-già-hội. Lúc viên tịch, Ngài lưu lại y này nói: "Lúc Phật pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt tận, thì y này mới hoại. Nếu pháp chưa diệt thì y này vẫn còn tồn tại."
Đệ Thập Tổ Hiếp Tôn giả, Tôn giả này ở trong thai mẹ hơn sáu mươi năm, sau khi sanh ra râu tóc đều bạc trắng. Sau khi chào đời liền thích tu hành, gặp Đệ Cửu Tổ Tôn giả Phục Đà Mật Đa, truyền cho Ngài pháp môn Phật tâm ấn.
Thập nhất Phú Na Dạ Xa Tôn giả, thập nhị Mã Minh Đại Sĩ, thập tam Ca Tỳ Ma La Tôn giả, thập tứ Long Thọ Đại Sĩ, thập ngũ Ca Na Đề Bà Tôn giả, thập lục La Hầu La Đa Tôn giả, thập thất Tăng Già Nan Đề Tôn giả, thập bát Già Da Xá Đa Tôn giả, thập cửu Cưu Ma La Đa Tôn giả, nhị thập Xà Da Đa Tôn giả.
Huệ Năng này là Tổ thứ ba mươi ba. Từ trên các vị Tổ mỗi vị đều có vâng mạng truyền kế nhau. Ngày sau, các ông phải thay thế nhau mà lưu truyền, đừng làm trái nghịch và sai lầm. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các Danh Phật Thep Kinh Địa Tạng Bồ Tát:
Hiệu là Vô Biên Thân Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà tạm thời sanh lòng cung kính, thì liền được vượt thoát tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp; huống là vẽ đắp hình tượng, cúng dường, tán thán! Người này sẽ được vô lượng vô biên phước báo."
Hiệu là Bảo Tánh Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này và trong khoảnh khắc bằng khảy móng tay liền phát tâm quy y, người đó sẽ vĩnh viễn không còn thối chuyển nơi Ðạo Vô Thượng.
Hiệu là Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này thoáng qua lỗ tai, người đó sẽ được một ngàn lần sanh trong Lục Dục Thiên, huống chi là chí tâm xưng niệm!"
Hiệu là Sư Tử Hống Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà nhất niệm quy y, người ấy sẽ được gặp vô lượng chư đức Phật xoa đảnh thọ ký cho.
Hiệu là Câu Lưu Tôn Phật. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà chí tâm chiêm lễ hoặc lại tán thán, người ấy nơi pháp hội của một ngàn đức Phật trong thời Hiền Kiếp sẽ làm vị Ðại Phạm Vương, được thọ thượng ký.
Hiệu là Tỳ Bà Thi Phật. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì vĩnh viễn không đọa vào ác đạo, thường được sanh vào chốn trời, người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Hiệu là Bảo Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì sẽ không bao giờ bị đọa vào ác đạo, mà thường ở trên cõi trời, hưởng sự vui thù thắng vi diệu
Hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này bèn sanh lòng cung kính, thì người ấy không bao lâu sẽ đắc quả A La Hán.
Hiệu là Ca Sa Tràng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì sẽ siêu thoát tội sanh tử trong một trăm đại kiếp."
Hiệu là Ðại Thông Sơn Vương Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì người ấy sẽ được gặp chư Phật nhiều như cát sông Hằng quảng thuyết giáo pháp cho và tất thành Ðạo Bồ Ðề.
Lại về thuở quá khứ có Ðức Tịnh Nguyệt Phật, Ðức Sơn Vương Phật, Ðức Trí Thắng Phật, Ðức Tịnh Danh Vương Phật, Ðức Trí Thành Tựu Phật, Ðức Vô Thượng Phật, Ðức Diệu Thanh Phật, Ðức Mãn Nguyệt Phật, Ðức Nguyệt Diện Phật, và các đức Phật như thế không thể nói hết đươc.
Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh trong thời hiện tại cùng vị lai, hoặc trời hoặc người, hoặc nam hoặc nữ, chỉ niệm được danh hiệu của một đức Phật thôi, thì sẽ được vô lượng công đức, huống là niệm được nhiều danh hiệu! Những chúng sanh đó lúc sanh lúc tử đều được lợi ích lớn lao, cuối cùng không phải đọa vào ác đạo.
Như có người nào sắp mạng chung, hàng quyến thuộc trong nhà dù chỉ một người, vì người bệnh đó mà cất cao tiếng niệm một danh hiệu Phật, thì người sắp chết đó, trừ năm tội Vô Gián, còn các nghiệp báo khác đều được tiêu tan.
Năm tội Vô Gián kia dầu rất nặng nề, trải qua ức kiếp không được ra khỏi, nhưng nhờ lúc lâm chung được người khác vì mình mà xưng niệm danh hiệu của Phật, cho nên những tội đó cũng lần lần tiêu sạch; huống hồ chúng sanh tự xưng tự niệm, tất sẽ được vô lượng phước báo, trừ diệt vô lượng nghiệp tội."
Giảng: Ví dụ danh hiệu đức Phật Tỳ Bà Thi
Hiện nay chúng ta nghe giảng Kinh Ðịa Tạng, được nghe đến danh hiệu của Ðức Phật Tỳ Bà Thi rồi, như vậy thì chúng ta sẽ vĩnh viễn không còn bị đọa vào ác đạo. Tuy nhiên, quý vị phải vĩnh viễn không bao giờ làm việc ác nữa mới được; bằng không, nếu sau khi được nghe tới danh hiệu của Ðức Phật này rồi mà vẫn cứ làm điều ác như trước, thì quý vị vẫn bị đọa lạc như thường! Vì sao ư? Bởi vì quý vị chẳng thể bỏ ác theo thiện, chẳng chịu sửa đổi sai lầm! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P9 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Xuất gia:
Kinh nói xuất gia, là chỉ “tâm xuất gia”. Thân không xuất gia không cần thiết, không cần hình thức, tâm phải xuất gia.
“Xuất gia”: Đối với thế gian danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần không tiêm nhiễm, đây là xuất rồi.
+ Duyên xuất gia: Bây giờ tôi kể cho quý vị nghe một công án. Vào thời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni còn trụ thế, có một cụ già nọ muốn xuất gia tu hành. Hôm ấy, cụ đến Kỳ Hoàn Tinh Xá để xin gặp Phật thì lại nhằm lúc Phật đi vắng. Bấy giờ, các đệ tử của Phật thấy ông cụ già nua tuổi tác thì có vẻ không thích lắm—tuổi đã cao, vừa già lại vừa nghèo, đã vậy còn lôi thôi lếch thếch nữa, như thế mà còn muốn xuất gia để làm gì chứ? Khi ấy, các vị đệ tử đã chứng quả A La Hán nhập Ðịnh quán sát thì thấy cụ già này chẳng có một chút căn lành nào cả, trong suốt tám vạn đại kiếp cụ chưa hề trồng được một mảy may thiện căn; mà như thế thì cụ không thể nào xuất gia, vì muốn xuất gia thì nhất định phải có thiện căn mới được! Có câu:
Chớ bảo xuất gia là chuyện dễ,
Ấy do nhiều kiếp trồng Bồ Ðề!
(Mạc đạo xuất gia dung dị đắc,
Giai nhân lũy thế chủng Bồ Ðề.)
Quývị thấy đó, xuất gia không phải là chuyện đơn giản! Phải là người mà đời đời kiếp kiếp đều gieo trồng rất nhiều thiện căn, thì mới có thể được xuất gia. Những người không có thiện căn mà muốn xuất gia tu hành, thì cũng khó thành công. Có người, niệm trước mới hăng hái muốn xuất gia tu tập, thì niệm sau lại do dự phân vân: "Ði tu sao thấy khó khăn, vất vả quá! Thôi, thôi, tôi không muốn xuất gia tu hành nữa!" Rồi chính mình lại thuyết phục mình bỏ cuộc: "Thôi, đừng! Ðừng đi tu nữa!"
Lại nói về cụ già nọ, bởi các đệ tử A La Hán của Phật đều thấy cụ không có thiện căn, cho nên không nhận cho cụ xuất gia. Cụ già này vốn nghèo đến nỗi không đủ cơm ăn áo mặc và đã ngoài chín mươi hoặc xấp xỉ một trăm tuổi rồi, đi đứng cũng rất khó khăn, chậm chạp. Bấy giờ, cụ bị khước từ, không được xuất gia, nên buồn rầu than thở: "Tôi già nua tuổi tác như vầy rồi, chỉ muốn xuất gia để được an lạc thanh thản đôi chút lúc tuổi già sức yếu, nào ngờ đệ tử của Phật lại khăng khăng chẳng chịu thâu nhận!" Rồi cụ bật khóc, vừa đi vừa khóc lóc sụt sùi rất thảm thiết. Bất chợt, trong lòng cụ nảy ra một ý định; ý định gì? Cụ thở dài tự nhủ: "Thôi thì mình đi tự vẫn cho rồi! Chỉ việc nhảy xuống sông Hằng là xong chuyện!" Và thế là cụ thất thểu lê gót về phía sông Hằng.
Khi cụ còn cách sông Hằng không bao xa, sắp sửa lao mình xuống dòng nước xiết, thì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đi đến và hỏi rằng: "Ôi! Này ông lão, ông đang làm gì thế ? Ông định nhảy xuống sông ư? Tuổi cao như thế mà vẫn còn muốn bơi lội sao? Ôi! Tuổi tác của ông đã quá cao rồi, tay chân đều vụng về chậm chạp, đâu còn nhanh nhẹn để có thể bơi lội được nữa!"
Cụ già đau khổ đáp: "Không phải như thế! Tôi chỉ muốn chết, tôi muốn kết liễu đời mình cho rồi. Tôi không còn muốn sống nữa. Sự sống bây giờ đối với tôi không có ý nghĩa gì cả!"
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ôn tồn gặng hỏi: "Tại sao ông lại bảo rằng cuộc sống của ông không có ý nghĩa? Ông có thể nói cho Ta rõ nguyên nhân được chăng?"
Cụ già bèn kể lể: "Tôi vì cảm thấy cuộc đời này không có ý nghĩa, cho nên muốn xuất gia, theo Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành. Hôm nay tôi đến Tinh Xá để xin được xuất gia đi tu, nhưng các đệ tử của Phật nói rằng tôi không có thiện căn, cho nên họ không thể thâu nhận tôi được. Tâm trí tôi tha thiết muốn xuất gia, song lại xuất gia không được, thế thì tôi còn sống làm gì nữa? Tôi thà chết đi còn hơn! Do đó, tôi muốn nhảy xuống sông Hằng, uống no một bụng nước mà chết, rồi kiếp sau đầu thai làm người trai trẻ để xuất gia tu hành. Chứ bây giờ các đệ tử của Phật đều không thích người già nua, lại thấy mặt mày tôi có lẽ cũng xấu xí cằn cỗi, nên không ai thích tôi cả!"
Nghe qua tự sự, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dịu dàng bảo: "Ồ! Ông lão muốn xuất gia ư? Thế thì ông khỏi cần nhảy xuống sông nữa! Ta sẽ thâu nhận ông làm đệ tử, vậy ông hãy theo Ta trở về Tinh Xá!"
Cụ già lấy làm ngạc nhiên vội hỏi: "Thật ư? Thế ... chẳng hay Ngài là ai vậy?"
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: "Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đây!"
Cụ già mừng rỡ hỏi lại: "Ôi! Ngài là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ư? Ngài bằng lòng thâu nhận con làm đệ tử sao?"
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni gật đầu: "Phải, Ta thấy ông than khóc rất đáng thương, thôi thì Ta nhận ông làm ‘lão đệ tử’ vậy!"
Sau đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dẫn cụ già về Kỳ Hoàn Tinh Xá và thuyết pháp cho nghe; vừa nghe Phật thuyết pháp cụ lập tức chứng được quả vị A La Hán. (Lúc Phật còn trụ thế, có rất nhiều người chứng được A La Hán quả. Bởi Ðức Phật xem xét nhân duyên của họ mà thuyết pháp, cho nên Phật vừa giảng là họ liền tỉnh ngộ và chứng đắc quả vị.)
Bấy giờ, có một số đệ tử của Phật thầm nghĩ rằng: "Thật là kỳ lạ! Ông cụ này đã già như vậy, lại không có thiện căn gì cả, thì làm thế nào lại chứng quả vị được?" Do đó, họ sanh lòng hoài nghi đối với Phật Pháp, và tức tốc đến thỉnh vấn Phật: "Bạch Ðức Thế Tôn! Ông lão này lẽ ra không thể xuất gia được; nay ông ta được Ðức Thế Tôn cho phép xuất gia, rồi lại chứng được quả vị nữa. Thật là vô cùng kỳ lạ! Việc này khiến chúng con sanh lòng hoài nghi đối với Phật Pháp."
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng giải: "Hàng A La Hán các ông chỉ biết được những việc nhân quả, thiện ác, nội trong tám vạn đại kiếp trở lại mà thôi; còn nếu lâu xa hơn nữa, tức là ở ngoài tám vạn đại kiếp, thì các ông không thể thấy được. Cũng như các ông ở trong căn phòng này, thì những việc xảy ra trong phòng các ông đều rõ biết, còn việc ở ngoài phòng thì các ông không thể nào biết được. Các ông phải biết, hơn tám vạn đại kiếp về trước, ông lão này vốn là một tiều phu thường lên núi đốn củi. Một hôm, ông tiều phu gặp phải một con cọp chực vồ lấy ông để ăn thịt. Ngay chính lúc tánh mạng đang bị đe dọa đó, ông tiều phu buột miệng niệm lên một tiếng ‘Nam mô Phật.’ Một tiếng niệm ‘Nam mô Phật’ trong khoảnh khắc đó cho đến hôm nay thì vừa chín muồi, do đó ông ấy được xuất gia và có thể chứng được quả vị."
Vì thế, những người hiện tại được xuất gia thì không phải là việc ngẫu nhiên hay tình cờ, mà là nhờ trong quá khứ họ đã từng niệm rất nhiều tiếng "Nam mô Phật"; bằng không, tôi cũng chẳng thể thâu nhận họ làm đệ tử! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P9 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quỷ Vương Ác Độc - Quyến thuộc Quỷ Vương - Thần Thổ địa
Bấy giờ, Quỷ Vương Ác Ðộc chắp tay cung kính bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Hàng Quỷ Vương chúng con số đông vô lượng, ở cõi Diêm Phù Ðề hoặc làm lợi ích cho người, hoặc làm tổn hại cho người, mỗi mỗi không giống nhau. Nhưng vì nghiệp báo khiến quyến thuộc chúng con đi khắp thế giới làm ác nhiều, làm thiện ít.
“Ði qua sân nhà người ta, hoặc thành phố, xóm làng, trang trại, vườn cây, buồng nhà, trong đó như có người nam kẻ nữ nào tu được thiện sự bằng mảy lông sợi tóc; cho đến treo một tràng phan, một bảo cái và dâng chút hương, chút hoa cúng dường tượng Phật cùng tượng Bồ Tát, hoặc chuyển đọc tôn kinh, đốt hương cúng dường cho một bài kệ, một câu kinh; thì hàng Quỷ Vương chúng con sẽ kính lễ người đó như kính lễ các đức Phật thuở quá khứ, hiện tại cùng vị lai.
“Chúng con ra lệnh cho các tiểu quỷ có oai lực lớn và thần Thổ Ðịa đều phải bảo vệ, che chở, chẳng để cho các việc dữ, các tai nạn bất kỳ, hoặc bệnh nan y, bệnh hiểm nghèo bất kỳ, cho đến những việc không vừa ý đến gần chỗ của các nhà đó, huống là để cho vào cửa!”
Lược giảng:
Bấy giờ, Quỷ Vương Ác Ðộc... Vị Quỷ Vương này tuy rất độc ác, chuyên trừng trị những người ác độc, song giờ đây, đến trước mặt Ðức Phật thì dù có ác cách mấy cũng không còn ác, có độc đến đâu cũng không còn độc nữa!
Vậy, Quỷ Vương Ác Ðộc đến trước mặt Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, rồi chắp tay cung kính bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Hàng Quỷ Vương chúng con số đông vô lượng.” Mỗi thế giới đều có vô lượng vô biên Quỷ Vương, mà thế giới thì nhiều đến vô lượng vô biên, cho nên sĩ số Quỷ Vương cũng đông đảo đến vô lượng vô biên.
Các Quỷ Vương này đều cư ngụ “ở cõi Diêm Phù Ðề, hoặc làm lợi ích cho người, hoặc làm tổn hại cho người, mỗi mỗi không giống nhau.” Ở cõi Nam Diêm Phù Ðề thì tuy có những Quỷ Vương thường làm lợi ích cho loài người, song cũng có các Quỷ Vương chỉ gây tổn hại cho nhân loại mà thôi—mỗi vị Quỷ Vương đều coi sóc mỗi công việc khác nhau. Có vị thì chuyên làm những việc hại người, có vị thì chỉ làm các việc lợi người; tại sao lại như thế? Ở đây, Quỷ Vương nói “hại người” ngụ ý là điều phục người có lòng dạ ác độc, và “lợi người” tức là đem sự lợi ích đến cho người hiền lương.
Quỷ Vương Ác Ðộc bạch tiếp: “Nhưng vì nghiệp báo khiến quyến thuộc chúng con đi khắp thế giới làm ác nhiều, làm thiện ít.” Tại sao các Quỷ Vương phải làm những công việc này? Chính vì nghiệp báo mà họ đã trót gây tạo trong quá khứ khiến nay họ phải làm Quỷ Vương, và cũng do nghiệp báo mà loài quỷ quyến thuộc của họ đi khắp nơi gieo rắc phần lớn là điều xấu, việc ác.
Tuy rằng loài quỷ thường “làm ác nhiều, làm thiện ít,” nhưng khi họ “đi qua sân nhà người ta, hoặc thành phố, xóm làng, trang trại, vườn cây, buồng nhà, trong đó như có người nam kẻ nữ nào tu được thiện sự bằng mảy lông sợi tóc; cho đến treo một tràng phan, một bảo cái và dâng chút hương, chút hoa cúng dường tượng Phật cùng tượng Bồ Tát, hoặc chuyển đọc tôn kinh—đọc tụng Kinh Ðịa Tạng hoặc các kinh điển Ðại Thừa khác như Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Kim Cang—hoặc đối trước tượng Phật mà đốt hương cúng dường cho một bài kệ, một câu kinh; thì hàng Quỷ Vương chúng con sẽ kính lễ người đó như kính lễ các đức Phật thuở quá khứ, hiện tại cùng vị lai.”
Cho nên, hàng Quỷ Vương “chúng con ra lệnh cho các tiểu quỷ có oai lực lớn—tuy gọi là “tiểu quỷ” nhưng đã là loài quỷ thì đều có sức đại thần thông—và thần Thổ Ðịa đều phải bảo vệ, che chở những người như thế! Ngoài ra, còn phải chẳng để cho các việc dữ, các tai nạn bất kỳ, hoặc bệnh nan y, bệnh hiểm nghèo bất kỳ, cho đến những việc không vừa ý đến gần chỗ của các nhà đó, huống là để cho vào cửa!”
Thế nào gọi là “việc dữ”? “Việc dữ” tức là những việc không như ý, chẳng hạn như cháy nhà, hoặc bỗng dưng lại xảy ra những việc ngoài ý muốn.
“Tai nạn bất kỳ” (hoạnh sự) là những sự rủi ro mà mình không ngờ tới, như bị xe đụng, máy bay rớt, xe lửa trật đường rầy ...
“Bệnh nan y” là những căn bệnh không trị lành được.
“Bệnh hiểm nghèo bất kỳ” (hoạnh bệnh) là thình lình mắc bệnh nặng, lây lất chưa được một tiếng đồng hồ là chết.
“Những việc không vừa ý” tức là những việc không may mắn, không kiết tường như mình hằng mong đợi. Các Quỷ Vương còn chẳng để cho những việc không may xảy ra ở gần những nhà có người tu hành như thế, huống chi là các việc dữ, các tai nạn rủi ro, hoặc các bệnh tật hiểm nghèo đột ngột! Cho nên, các Quỷ Vương cùng quyến thuộc của họ thường bảo hộ những người như thế, khiến cho mọi việc của những người ấy đều được kiết tường. Vì sao tất cả mọi việc của những người đó đều được tốt lành? Bởi họ đã cúng dường Tam Bảo, biết tu hành, làm nhiều thiện sự, do đó những việc dữ không thể xảy đến cho họ được!
Ðức Phật khen ngợi Quỷ Vương rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông cùng với Vua Diêm La có thể ủng hộ các thiện nam thiện nữ như thế! Ta cũng bảo Phạm Vương, Ðế Thích hộ vệ các ông!” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tự mình đọc hoặc thỉnh nhờ đọc tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện hộ:
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Như những chúng sanh ở đời vị lai, hoặc trong mộng trong mị, trông thấy các quỷ thần cùng các hình bóng khác, hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt; đây đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ, còn đang bị đọa lạc trong ác đạo, chưa được ra khỏi, lại không trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt, nên mới mách bảo với kẻ có tình cốt nhục trong đời trước, khiến làm phương tiện hầu mong được thoát khỏi ác đạo.
Này Phổ Quảng! Ông nên dùng thần lực khiến hàng quyến thuộc đó đối trước tượng của chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc Kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc, đủ số ba biến hoặc bảy biến. Như vậy, kẻ quyến thuộc đang ở trong ác đạo kia, khi tiếng tụng kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, cho đến trong mộng trong mị không thấy hiện về nữa."
Giảng:
Nếu hàng quyến thuộc vì lý do nào đó nên không thể tự đọc tụng được, thì họ có thể bỏ tiền ra nhờ người khác tụng Kinh Ðịa Tạng giúp cho vong linh. Bất luận là ai, người đó đều phải tụng "đủ số ba biến hoặc bảy biến." "Ba" và "bảy" đều là số dương. Những số 1, 3, 5, 7, 9 đều thuộc dương và là số lẻ; còn những số 2, 4, 6, 8 thì thuộc âm và là số chẵn. Số dương là biểu hiện của sự phá trừ nghiệp tội địa ngục.
"Như vậy, kẻ quyến thuộc đang ở trong ác đạo kia, khi tiếng tụng Kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, cho đến trong mộng trong mị không thấy hiện về nữa." Khi tụng xong Kinh Ðịa Tạng, đủ số ba biến hoặc bảy biến, tiếng tụng Kinh vừa dứt thì những vong linh quyến thuộc đang trầm luân trong ác đạo kia cũng đều được giải thoát, và trong mộng lẫn trong mị, quý vị đều vĩnh viễn không còn thấy họ hiện về như thế nữa. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thỉnh mởi chư tăng: Quỷ Vương Chủ Mạng lại bạch với Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Những kẻ nam người nữ ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội.” Lúc con người sắp chết thì khí ấm (noãn), hơi thở (tức) và các thức (sự hiểu biết) đều lìa khỏi cơ thể—xác thân không còn hơi ấm, hô hấp ngừng bặt và Thức Thứ Tám (thức A-lại-da) cũng lìa khỏi thân, đây gọi là “mạng chung” (sanh mạng hết). Khi vừa mới chết thì thần thức (tức là Thân Trung Ấm) rơi vào trạng thái hôn trầm mê muội, không còn sáng suốt tỉnh táo, không còn rõ biết gì nữa cả; đó là vì thần thức mới vừa tách rời khỏi cơ thể, chính mình vẫn chưa biết là mình đã chết.
“Không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều không còn thấy nghe gì nữa.” “Không phân biệt được thiện ác” tức là không còn khả năng biện biệt, không thể biết được rõ ràng thế nào là thiện, thế nào là ác nữa. Lúc bấy giờ, kẻ lâm chung không còn nhìn thấy và cũng chẳng thể nghe thấy gì cả—tri giác về thấy và nghe đều không còn.
Vì thế, “hàng quyến thuộc phải nên thiết đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật cùng Bồ Tát.” Tất cả bà con thân thích bấy giờ nên vì người sắp chết mà làm những việc công đức tạo phước lành lớn, như thỉnh chư Tăng đến tụng kinh, hoặc tự mình tụng kinh cho người ấy.
Do đó, ở Trung Hoa khi trong gia đình có người vừa qua đời, hàng quyến thuộc thường thỉnh cầu chư Tăng tụng kinh trong suốt bảy thất (bốn mươi chín ngày), là cũng vì lẽ ấy. Như lúc Lão Hòa Thượng Hư Vân viên tịch (1959), Phật Giáo Giảng Ðường tại Hương Cảng đã làm công đức tụng Kinh Ðại Bát Nhã trong suốt một trăm sáu mươi ngày ròng rã. Ðây là việc xưa nay chưa từng xảy ra—từ thời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cho đến nay, chưa có vị Tổ Sư nào viên tịch mà được tụng Kinh Ðại Bát Nhã cả. Tổ chức một pháp hội lớn lao như vậy gọi là “thiết đại cúng dường.”
“Chuyển đọc tôn kinh” tức là trì tụng bộ kinh này—Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện.
“Những thiện duyên như thế có thể khiến cho người chết thoát khỏi các đường ác, và các ma quỷ, ác thần đều phải rút lui hoặc giải tán.” Bởi hàng quyến thuộc vì người chết mà làm các việc công đức, cho nên những nhân duyên thiện lành đó có thể hỗ trợ, giúp cho người chết xa lìa các ác đạo. Lại nữa, “đức đại tắc oan nghiệt tiêu”—kẻ có công đức lớn thì tội nghiệt cũng được giảm nhẹ hoặc tiêu tan; do đó tất cả ma quỷ và ác thần thảy đều thối lui, bỏ chạy hết, không còn đeo đuổi người ấy nữa. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quỷ Vương Chủ Mạng - Quỷ Vương Chủ về sanh tử
Ðức Phật nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Quỷ Vương tên là Chủ Mạng bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nghiệp duyên căn bản của con là chủ về nhân mạng ở cõi Diêm Phù Ðề, khi sanh khi tử đều do con làm chủ. Bổn nguyện của con thì rất muốn làm lợi ích, nhưng vì chúng sanh không hiểu ý con nên đến nỗi khi sanh khi tử đều không được an ổn; tại sao thế?
“Người cõi Diêm Phù Ðề lúc mới sanh xong, không kể là con trai hay con gái, hoặc khi sắp sanh, chỉ nên làm thiện sự để thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thì tự nhiên Thần Thổ Ðịa sẽ vô cùng hoan hỷ, ủng hộ cho cả mẹ lẫn con đều được sự an lạc lớn, hàng quyến thuộc cũng được lợi ích.
“Hoặc khi đã sanh rồi thì nên cẩn thận, chớ giết hại để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản mẫu, cùng nhóm họp hàng quyến thuộc lại để uống rượu, ăn thịt, ca hát, đánh đàn, thổi sáo; vì có thể khiến cho cả mẹ lẫn con chẳng được an lạc.”
“Vì sao thế? Bởi vì lúc sanh nở khó khăn đó, có vô số ác quỷ cùng vọng lượng, tinh mỵ, muốn tới ăn huyết tanh. Chính con sớm đã sai các thần linh của nhà cửa đất đai phải bảo hộ người mẹ và đứa con, làm cho họ được an vui mà hưởng nhiều sự lợi ích.
“Những người này thấy sự an ổn vui vẻ thì nên tạo phước để báo đáp các thần Thổ Ðịa, thế mà trái lại, họ còn giết hại, tụ tập quyến thuộc; vì lẽ này, hễ phạm tội tất phải tự gánh chịu, người mẹ và đứa con đều bị tổn hại!
“Lại ở cõi Diêm Phù Ðề, những người sắp mạng chung, bất luận là thiện hay ác, con đều muốn cho họ không bị đọa lạc vào đường ác; huống chi là kẻ tự tu thiện căn, làm tăng oai lực của con!
“Những người làm thiện ở cõi Diêm Phù Ðề, đến lúc lâm chung cũng còn có trăm ngàn quỷ thần trong ác đạo hoặc biến làm cha mẹ, cho đến hàng quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến cho lạc vào ác đạo; huống chi là những kẻ vốn đã tạo ác!”
Lược giảng:
Chủ Mạng Quỷ Vương lại bạch: “Vì sao thế? Nguyên nhân nào khiến cho cả người mẹ và đứa bé sơ sinh đều không được yên ổn? Vì lúc sanh nở khó khăn đó, có vô số ác quỷ cùng vọng lượng, tinh mỵ, các loài sơn yêu thủy quái, muốn tới ăn huyết tanh. Chúng thường nhân lúc người sản phụ đang sanh nở, máu me lênh láng, bèn tìm đến để ăn huyết tanh. Chính con—Chủ Mạng Quỷ Vương—sớm đã sai các thần linh của nhà cửa đất đai phải bảo hộ người mẹ và đứa con, làm cho họ được an vui mà hưởng nhiều sự lợi ích.” “Thần linh” ở đây tức là Thần Thổ Ðịa.
“Những người này thấy sự an ổn vui vẻ thì nên tạo phước để báo đáp các thần Thổ Ðịa.” Những người chung quanh thấy cả mẹ lẫn con đều được an ổn vui vẻ thì lẽ ra nên tu phước, làm những việc công đức hầu đáp tạ hết thảy các thần Thổ Ðịa mới phải; “thế mà trái lại, họ còn giết hại, tụ tập quyến thuộc.” Họ chẳng những không đáp tạ công ơn của chư vị thần linh mà còn sát hại sinh vật, tụ họp bạn bè thân quyến lại để ăn uống vui chơi, tiệc tùng đình đám; “vì lẽ này, hễ phạm tội tất phải tự gánh chịu, người mẹ và đứa con đều bị tổn hại!” Một khi đã phạm tội thì nhất định phải tự lãnh lấy quả báo, do đó, luôn cả người mẹ cùng đứa bé sơ sinh đều bị tổn hại.
Chủ Mạng Quỷ Vương bạch tiếp: “Lại ở cõi Diêm Phù Ðề, những người sắp mạng chung, bất luận là thiện hay ác, là người hiền lành hay kẻ hung dữ, con đều muốn cho họ không bị đọa lạc vào đường ác, chẳng phải sa vào ba ác đạo; huống chi là kẻ tự tu thiện căn, làm tăng oai lực của con! Nếu kẻ sắp chết là người đã từng tự mình tu thiện căn, thì con không cần phải hao tổn sức lực gì để bảo hộ cho người ấy cả!”
“Những người làm thiện ở cõi Diêm Phù Ðề, đến lúc lâm chung cũng còn có trăm ngàn quỷ thần trong ác đạo hoặc biến làm cha mẹ, cho đến hàng quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến cho lạc vào ác đạo.” Con người, cho dù quý vị là người thường hay làm việc thiện, thì lúc hấp hối gần kề cái chết thế nào cũng có loài ác quỷ đến dụ dỗ, muốn làm cho quý vị bị đọa lạc vào đường ác. Bấy giờ, các ác quỷ đó có thể biến ra hình dạng giống hệt cha mẹ hoặc bạn bè thân thuộc của quý vị, và hiện đến để đón quý vị, khiến cho quý vị bị đọa vào đường ác.
Vậy, những người làm thiện sự mà còn bị ác quỷ đến lừa gạt, dụ dỗ vào ác đạo như thế, thì “huống chi là những kẻ vốn đã tạo ác, chẳng làm mảy may thiện sự nào?” Cho nên, nếu gặp những người đã quen làm ác thì các ác quỷ lại càng muốn lôi kéo họ vào đường ác hơn nữa!
“Bạch Ðức Thế Tôn! Những kẻ nam người nữ ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội, không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều không còn thấy nghe gì nữa.
“Hàng quyến thuộc phải nên thiết đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật cùng Bồ Tát; những thiện duyên như thế có thể khiến cho người chết thoát khỏi các đường ác, và các ma quỷ, ác thần đều phải rút lui hoặc giải tán.
“Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh lúc lâm chung nếu được nghe đến danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, hoặc một câu hay một bài kệ trong kinh điển Ðại Thừa, con xem xét thấy hạng người ấy, trừ năm tội Vô Gián và tội sát hại, còn những nghiệp ác nho nhỏ đáng phải đọa vào đường ác thì chẳng bao lâu đều được thoát khỏi cả.”
Ðức Phật bảo Chủ Mạng Quỷ Vương rằng: “Ông vì lòng đại từ nên có thể phát đại nguyện, ở trong sanh tử cứu hộ chúng sanh như thế. Như trong đời sau có kẻ nam người nữ nào đến thời điểm sanh tử, thì ông chớ rút lại lời nguyện đó, mà nên làm cho họ thảy đều được giải thoát, mãi mãi được an vui.”
Lược giảng:
Quỷ Vương Chủ Mạng lại bạch với Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Những kẻ nam người nữ ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội.” Lúc con người sắp chết thì khí ấm (noãn), hơi thở (tức) và các thức (sự hiểu biết) đều lìa khỏi cơ thể—xác thân không còn hơi ấm, hô hấp ngừng bặt và Thức Thứ Tám (thức A-lại-da) cũng lìa khỏi thân, đây gọi là “mạng chung” (sanh mạng hết). Khi vừa mới chết thì thần thức (tức là Thân Trung Ấm) rơi vào trạng thái hôn trầm mê muội, không còn sáng suốt tỉnh táo, không còn rõ biết gì nữa cả; đó là vì thần thức mới vừa tách rời khỏi cơ thể, chính mình vẫn chưa biết là mình đã chết.
“Không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều không còn thấy nghe gì nữa.” “Không phân biệt được thiện ác” tức là không còn khả năng biện biệt, không thể biết được rõ ràng thế nào là thiện, thế nào là ác nữa. Lúc bấy giờ, kẻ lâm chung không còn nhìn thấy và cũng chẳng thể nghe thấy gì cả—tri giác về thấy và nghe đều không còn.
Vì thế, “hàng quyến thuộc phải nên thiết đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật cùng Bồ Tát.” Tất cả bà con thân thích bấy giờ nên vì người sắp chết mà làm những việc công đức tạo phước lành lớn, như thỉnh chư Tăng đến tụng kinh, hoặc tự mình tụng kinh cho người ấy.
Do đó, ở Trung Hoa khi trong gia đình có người vừa qua đời, hàng quyến thuộc thường thỉnh cầu chư Tăng tụng kinh trong suốt bảy thất (bốn mươi chín ngày), là cũng vì lẽ ấy. Như lúc Lão Hòa Thượng Hư Vân viên tịch (1959), Phật Giáo Giảng Ðường tại Hương Cảng đã làm công đức tụng Kinh Ðại Bát Nhã trong suốt một trăm sáu mươi ngày ròng rã. Ðây là việc xưa nay chưa từng xảy ra—từ thời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cho đến nay, chưa có vị Tổ Sư nào viên tịch mà được tụng Kinh Ðại Bát Nhã cả. Tổ chức một pháp hội lớn lao như vậy gọi là “thiết đại cúng dường.”
“Chuyển đọc tôn kinh” tức là trì tụng bộ kinh này—Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện.
“Những thiện duyên như thế có thể khiến cho người chết thoát khỏi các đường ác, và các ma quỷ, ác thần đều phải rút lui hoặc giải tán.” Bởi hàng quyến thuộc vì người chết mà làm các việc công đức, cho nên những nhân duyên thiện lành đó có thể hỗ trợ, giúp cho người chết xa lìa các ác đạo. Lại nữa, “đức đại tắc oan nghiệt tiêu”—kẻ có công đức lớn thì tội nghiệt cũng được giảm nhẹ hoặc tiêu tan; do đó tất cả ma quỷ và ác thần thảy đều thối lui, bỏ chạy hết, không còn đeo đuổi người ấy nữa.
Quỷ Vương Chủ Mạng lại bạch tiếp: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh ở Nam Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung nếu được nghe đến danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát—không cần nhiều, chỉ cần được nghe vỏn vẹn danh hiệu của một vị Phật hoặc một vị Bồ Tát mà thôi—hoặc một câu hay một bài kệ trong kinh điển Ðại Thừa, con xem xét thấy hạng người ấy, trừ năm tội Vô Gián và tội sát hại, còn những nghiệp ác nho nhỏ đáng phải đọa vào đường ác thì chẳng bao lâu đều được thoát khỏi cả.”
Theo phần kinh văn trên, nếu có những người lúc lâm chung được nghe danh hiệu của một đức Phật hay của một tôn Bồ Tát, một câu hoặc một bài kệ của kinh điển Ðại Thừa mà thôi, thì có thể được tiêu trừ tất cả mọi nghiệp tội, ngoại trừ năm tội Vô Gián và tội sát hại. Năm tội Vô Gián (năm tội nghịch đáng phải đọa địa ngục Vô Gián) và tội sát hại thì vốn chẳng thể tiêu trừ được. Trong trường hợp những chúng sanh đó chỉ gây các nghiệp ác nho nhỏ, nhẹ hơn năm tội Vô Gián và tội sát hại một chút, song vẫn đáng phải đọa ác đạo, thì chẳng bao lâu Chủ Mạng Quỷ Vương cũng sẽ khiến cho họ được giải thoát, khỏi phải chịu tội.
Tuy nhiên, phần kinh văn trên cũng có thể được hiểu là cho dù các người đó có mắc năm tội Vô Gián hoặc tội sát hại thì cũng đều được giải trừ cả. Bởi nếu trong lúc cận kề cái chết, những người ấy có thể khởi lòng thành tâm đến cực điểm, thì mọi nghiệp chướng đều có thể rũ sạch; tuy nhiên, vấn đề là rất khó mà giữ được chánh niệm trong giờ phút tối hậu đó!
Ðức Phật bảo Quỷ Vương Chủ Mạng rằng: “Ông vì lòng đại từ nên có thể phát đại nguyện, ở trong sanh tử cứu hộ chúng sanh như thế. Ông quả thật là có lòng đại từ bi nên mới lập thệ nguyện lớn lao này, chịu ở trong sự sanh tử của chúng sanh mà bảo hộ hết thảy chúng sanh! Như trong đời sau có kẻ nam người nữ nào đến thời điểm sanh tử, thì ông chớ rút lại lời nguyện đó, mà nên làm cho họ thảy đều được giải thoát, mãi mãi được an vui.”
Kinh văn:
Quỷ Vương bạch cùng Ðức Phật rằng: “Xin Ðức Thế Tôn chớ lo! Trọn đời con luôn luôn ủng hộ chúng sanh ở cõi Diêm Phù Ðề, làm cho lúc sanh lúc tử đều được an vui. Chỉ mong các chúng sanh trong lúc sanh cùng lúc tử đều tin theo lời con, thì không ai là không được giải thoát và được lợi ích lớn cả!”
Bấy giờ, Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: “Vị Ðại Quỷ Vương chủ về sanh mạng đây, đã từng trải qua trăm ngàn đời làm vị Ðại Quỷ Vương, ủng hộ chúng sanh trong lúc sanh và lúc tử. Bậc Ðại Sĩ này vì lòng từ bi phát nguyện hiện thân đại quỷ, chớ thật ra không phải quỷ.
“Quá một trăm bảy mươi kiếp sau, ông ấy sẽ được thành Phật hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp tên là An Lạc, thế giới tên là Tịnh Trụ, thọ mạng của Ðức Phật đó đến số kiếp không thể tính đếm được.
“Này Ðịa Tạng Bồ Tát! Những việc của vị Ðại Quỷ Vương đó thì không thể nghĩ bàn như thế; hàng trời, người được độ thoát cũng đến số không thể hạn lượng.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sinh cõi Diêm Phù Đề cang cường, khó dạy - Thường lấy Tam ác đạo làm nhà:
Bấy giờ, Thiên Tử Diêm La chiêm lễ Ðức Thế Tôn và ngoái nhìn Bồ Tát Ðịa Tạng, rồi bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét Bồ Tát Ðịa Tạng ở trong sáu đường dùng trăm ngàn phương chước để cứu độ những chúng sanh mắc phải tội khổ, chẳng từ mệt nhọc. Vị Ðại Bồ Tát này có những sự thần thông bất khả tư nghì như thế, nhưng chư chúng sanh vừa được thoát khỏi tội báo, chẳng bao lâu lại phải đọa vào ác đạo nữa.
“Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đã có thần lực bất khả tư nghì như thế, cớ sao hàng chúng sanh chẳng chịu nương về thiện đạo để được giải thoát mãi mãi? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy rõ việc đó cho chúng con.”
Ðức Phật bảo Thiên Tử Diêm La: “Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề tánh tình cang cường, khó điều khó phục. Ðại Bồ Tát đây trong trăm ngàn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó, làm cho họ sớm được giải thoát.
“Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường đại ác, Bồ Tát dùng sức phương tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, làm cho họ hiểu được các việc đời trước. Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng, vừa ra khỏi lại trở vào, làm nhọc cho Bồ Tát phải trải qua nhiều số kiếp để độ thoát.
“Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào đường hiểm; trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp. Người mê muội đó ở trong đường hiểm chỉ chừng giây lát là sẽ gặp các thứ độc.”
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Thiên Tử Diêm La: “Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề tánh tình cang cường, khó điều khó phục.” Chúng sanh ở Nam Thiệm Bộ Châu tánh tình đều rất ương ngạnh bướng bỉnh, chứ không được nhu hòa hiền dịu, cho nên rất khó điều phục, khó uốn nắn. Do đó, muốn dạy dỗ, khiến cho họ chịu tuân theo quy củ phép tắc hoặc giữ gìn giới luật, là một việc không dễ dàng chút nào!
Hiện nay có nhiều người nói rằng việc tuân thủ quy củ là không hay, không tốt; vì sao họ nói như thế? Bởi vì bản thân họ không muốn tuân giữ quy củ, nên họ mới “xướng” lên như vậy. Kỳ thật, không có khuôn tròn và thước vuông thì không thể nào vẽ được hình tròn, ô vuông; cũng vậy, con người nếu không có quy luật phép tắc thì chẳng thể nào thành mẫu mực được!
Ở phần trước, Quỷ Vương và Thiên Tử Diêm La thắc mắc rằng Bồ Tát Ðịa Tạng đã có sức thần thông lớn lao đến thế, cớ sao chúng sanh không nghe theo lời khuyên răn, dạy bảo của Ngài; thậm chí có kẻ đã được ra khỏi ác đạo rồi nhưng sau đó lại bị đọa vào ác đạo lần nữa. Cho nên, bây giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích rằng: “Ðại Bồ Tát đây trong trăm ngàn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó, làm cho họ sớm được giải thoát.” Trải qua thời gian lâu dài có đến trăm ngàn vạn kiếp, Ðại Bồ Tát Ðịa Tạng cứ hết lần này sang lần khác, lần nọ đến lần kia mải miết cứu độ chúng sanh—cứu xong một lần này rồi lại cứu lần nữa. Hạng chúng sanh như thế đã sớm được Bồ Tát Ðịa Tạng giúp cho giải thoát từ lâu lắm rồi!
“Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường đại ác, Bồ Tát dùng sức phương tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, làm cho họ hiểu được các việc đời trước.” Những chúng sanh có ác nghiệp tội báo, thậm chí do khởi hoặc, tạo nghiệp mà thọ báo, thì sẽ bị đọa vào đường đại ác. “Ðường đại ác” tức là ba ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bồ Tát Ðịa Tạng dùng vô số pháp môn phương tiện, cùng sức phương tiện, để trừ sạch nguyên nhân căn bản của sự gây tạo nghiệp tội của các chúng sanh ấy, tức là nhổ bật gốc rễ của nhân duyên “khởi hoặc, tạo nghiệp,” khiến cho họ trở nên giác ngộ, hiểu rõ việc đời trước của mình.
“Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng.” “Kết” tức là dồn lại, kết dính lại với nhau. Nghiệp từ đời trước liên kết với nghiệp của đời này, nghiệp của đời này lại dây dưa liên lụy tới đời sau—đời đời kiếp kiếp, các nghiệp báo này nối kết nhau liên miên không dứt, giống như sợi dây kết liền thành một mối vậy; nên gọi là “kết ác tập nặng.” Những “ác tập” (thói quen xấu ác) này là những gì? Có mười tập khí xấu ác gọi là Thập Ác Tập:
1) Dâm dục. Thói xấu thứ nhất là dâm dục. Tất cả chúng sanh đều như nhau—ai nấy đều có lòng dâm dục. Ðây là mối phiền toái thứ nhất, cũng là điều rất khó đoạn trừ. Việc đoạn dứt dâm dục còn khó hơn lên trời nữa! Do đó, nếu chúng ta điều phục được lòng dâm dục—tức là người nữ thấy người nam thì không khởi tâm ham muốn, và người nam thấy người nữ thì chẳng sanh lòng tà vạy—thì gọi là “hàng hổ” hoặc “phục hổ,” tức là đã đánh thắng loài cọp dữ, khiến chúng phải đầu hàng quy phục. Lại thêm, nếu chúng ta cũng không còn phiền não, thì có thể nói rằng chúng ta đã hàng phục được cả loài rồng rồi vậy. Phiền não vô minh thì giống như con rồng vậy—rồng có khả năng biến hóa vô cùng, không thể đoán trước được lúc nào nó sẽ thình lình xuất hiện.
Vậy, việc phải làm trước nhất là đoạn trừ lòng dâm dục. Qua sự việc này có thể thấy được quý vị có công phu tu hành, có đạo đức, có thật sự dụng công hay không. Quý vị có thể tự thử nghiệm chính mình, tự tìm hiểu chính mình. Nếu quý vị đã đoạn trừ được dâm tâm rồi tức là quý vị có công phu tu tập; lòng dâm chưa dứt thì quý vị vẫn còn lậu thoát. Cho nên, tu “vô lậu” tức là dứt bỏ lòng dâm dục—còn dâm tâm là còn “hữu lậu,” hết dâm tâm mới là “vô lậu.”
2) Tham. Ác tập thứ hai là tham lam. Vì sao có lòng dâm dục? Chính là vì có lòng tham—ham muốn cảm giác, khao khát thỏa mãn dục niệm của chính mình.
3) Mạn. “Mạn” tức là kiêu mạn, và đây là thói xấu thứ ba. Thế nào gọi là “kiêu mạn”? Bản thân mình vốn chưa hẳn là thông minh hơn người, nhưng lúc nào cũng cho rằng mình thông minh xuất chúng, khinh thường tất cả những người khác, đến đâu cũng muốn mình là “số một”; đó chính là lòng kiêu mạn đang tác quái!
4) Sân. Ðây là thói xấu thứ tư. Kẻ mang lòng sân hận thì đối với bất cứ ai cũng sanh tâm oán ghét, lúc nào cũng hằn học: “Mày không tốt với tao, tao phải tìm cách giết mày để báo thù!”
5) Trá. Ác tập thứ năm là “trá,” tức là xảo trá, lường gạt, làm những việc giả dối hư ngụy.
6) Cuống. “Cuống” tức là nói dối, vọng ngữ. “Trá” tức là bản thân vốn là người xấu, song bề ngoài lại làm ra vẻ người tốt, khéo che đậy khiến kẻ khác không nhận ra được. Còn “cuống” tức là nói dối, bịp bợm, nói sai sự thật, bất cứ chuyện gì cũng nói dối một cách trơn tru, trót lọt được cả.
7) Oán. “Oán” tức là việc gì cũng oán trách người khác; rõ ràng là mình sai, là lỗi của mình, nhưng lại đổ lỗi cho người khác: “Nếu hắn không bảo tôi làm như thế thì tôi đâu có làm. Chuyện này không thể trách tôi được. Ðó là lỗi của hắn. Hắn mới là người có lỗi.” Cho nên, kẻ ôm lòng hờn oán thì bất cứ tội lỗi gì cũng trút lên đầu lên cổ người khác cả!
8) Tà kiến. Ðây là thói xấu thứ tám. “Tà kiến” tức là tà tri tà kiến, cái nhìn sai lầm hoặc sự hiểu biết lệch lạc, dẫn dắt con người đi vào con đường bất chánh, tà vạy.
9) Uổng. “Uổng” có nghĩa là cong vạy, không ngay thẳng.
10) Tụng. Ác tập thứ mười là tố tụng, tức là thích kiện cáo, tranh cãi hơn thua. Có những kẻ vốn sai quấy, có lỗi, thế mà lại muốn kiện cáo, thưa với quan tòa là lỗi của người khác, rồi buộc đối phương phải bồi thường tiền bạc cho mình. Nói tóm lại, bản thân mình vốn là vô lý mà lại vu khống, tìm cách làm cho người khác bị hàm oan, đó gọi là “tụng.”
Mười thói quen xấu hay Mười Ác Tập này trong Kinh Lăng Nghiêm (quyển tám) gọi là Mười Tập Nhân, tức là mười nguyên nhân tập khí xấu dẫn đến các quả báo khổ sở trong sáu đường (Lục Giao Báo). Chính vì chúng sanh tiêm nhiễm mười tập khí này nên nói là “kết ác tập nặng.”
“Vừa ra khỏi lại trở vào.” Chính vì ác nghiệp của Mười Tập Nhân mà chúng sanh gây ra vô số tội lỗi, nên mới vừa thoát khỏi ba ác đạo chưa được bao lâu thì liền bị đọa về lại. Ðời này được ra khỏi ba ác đạo thì đời sau lại trở vào lần nữa; đợi đến đời sau nữa được ra khỏi ba nẻo ác rồi thì đời kế sau đó nữa cũng quay về lại—đó gọi là “vừa ra khỏi lại trở vào” vậy. Chúng sanh cứ lẩn quẩn như vậy, được thoát ra rồi lại trở vào, “làm nhọc cho Bồ Tát phải trải qua nhiều số kiếp để độ thoát.” Các chúng sanh như thế làm cho Bồ Tát Ðịa Tạng vô cùng vất vả, phải nhọc nhằn lo việc cứu độ trong rất nhiều kiếp.
“Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào đường hiểm; trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ Dạ-xoa.” Ðến đây, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa ra một tỷ dụ. Ðức Phật ví dụ rằng có một người bị lạc đường, tìm không ra nhà của mình; người đó vì không thông thạo đường sá nên lạc bước vào một con đường đầy dẫy những sự nguy hiểm—trong con đường ấy có rất nhiều quỷ Dạ-xoa đang rình rập. “Dạ-xoa” ở đây là dụ cho mối “nghi” trong Ngũ Ðộn Sử. “Nghi” tức là không có lòng tin, việc gì cũng hoài nghi, ngờ vực cả.
“Cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.” Trong con đường ấy, ngoài quỷ Dạ-xoa ra còn có cả cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp cũng đang rình chờ nữa. “Cọp” là dụ cho lòng tham, tham lam như cọp. Do đó, điều phục được lòng dâm dục tức là thuần phục được cọp; điều phục không nổi lòng dâm dục tức là chưa hàng phục được cọp vậy.
“Sói” là dụ cho cái gì? Ðó là dụ cho lòng sân hận. Loài sói rất lợi hại; lòng sân hận và loài lang sói thì đều đáng sợ như nhau.
“Sư tử” là dụ cho sự ngu si.
“Rắn độc, bò cạp” là dụ cho tánh kiêu mạn.
“Tham, sân, si, mạn, nghi,” gọi chung là Ngũ Ðộn Sử.
“Người mê muội đó ở trong đường hiểm chỉ chừng giây lát là sẽ gặp các thứ độc.” Hạng người mê muội thì chẳng mấy chốc sẽ bị Ngũ Ðộn Sử—tham, sân si, mạn, nghi—tác hại, khiến họ tạo ra nhiều nghiệp tội, phải đọa vào ba đường ác. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngũ độn sử: Tham - Sân - Si - Kiêu mạn - Nghi ẩn dụ như Cọp, Sói, Sư tử, Rắn độc, Bọ cạp.
“Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào đường hiểm; trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ Dạ-xoa.” Ðến đây, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa ra một tỷ dụ. Ðức Phật ví dụ rằng có một người bị lạc đường, tìm không ra nhà của mình; người đó vì không thông thạo đường sá nên lạc bước vào một con đường đầy dẫy những sự nguy hiểm—trong con đường ấy có rất nhiều quỷ Dạ-xoa đang rình rập. “Dạ-xoa” ở đây là dụ cho mối “nghi” trong Ngũ Ðộn Sử. “Nghi” tức là không có lòng tin, việc gì cũng hoài nghi, ngờ vực cả.
“Cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.” Trong con đường ấy, ngoài quỷ Dạ-xoa ra còn có cả cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp cũng đang rình chờ nữa. “Cọp” là dụ cho lòng tham, tham lam như cọp. Do đó, điều phục được lòng dâm dục tức là thuần phục được cọp; điều phục không nổi lòng dâm dục tức là chưa hàng phục được cọp vậy.
“Sói” là dụ cho cái gì? Ðó là dụ cho lòng sân hận. Loài sói rất lợi hại; lòng sân hận và loài lang sói thì đều đáng sợ như nhau.
“Sư tử” là dụ cho sự ngu si.
“Rắn độc, bò cạp” là dụ cho tánh kiêu mạn và nghi ngờ
“Tham, sân, si, mạn, nghi,” gọi chung là Ngũ Ðộn Sử.
“Người mê muội đó ở trong đường hiểm chỉ chừng giây lát là sẽ gặp các thứ độc.” Hạng người mê muội thì chẳng mấy chốc sẽ bị Ngũ Ðộn Sử—tham, sân si, mạn, nghi—tác hại, khiến họ tạo ra nhiều nghiệp tội, phải đọa vào ba đường ác. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các loại quỷ vương - Các loại vua Diêm La
Lúc đó, trong dãy núi Thiết Vi có vô lượng Quỷ Vương cùng với Thiên Tử Diêm La đồng lên cung trời Ðao Lợi, đến chỗ của Ðức Phật. Ðó là:
Quỷ Vương Ác Ðộc,
Quỷ Vương Ða Ác,
Quỷ Vương Ðại Tranh,
Quỷ Vương Bạch Hổ,
Quỷ Vương Huyết Hổ,
Quỷ Vương Xích Hổ,
Quỷ Vương Tán Ương,
Quỷ Vương Phi Thân,
Quỷ Vương Ðiển Quang,
Quỷ Vương Lang Nha,
Quỷ Vương Thiên Nhãn,
Quỷ Vương Ðạm Thú,
Quỷ Vương Phụ Thạch,
Quỷ Vương Chủ Hao,
Quỷ Vương Chủ Họa,
Quỷ Vương Chủ Thực,
Quỷ Vương Chủ Tài,
Quỷ Vương Chủ Súc,
Quỷ Vương Chủ Cầm,
Quỷ Vương Chủ Thú,
Quỷ Vương Chủ Mỵ,
Quỷ Vương Chủ Sản,
Quỷ Vương Chủ Mạng,
Quỷ Vương Chủ Tật,
Quỷ Vương Chủ Hiểm,
Quỷ Vương Tam Mục,
Quỷ Vương Tứ Mục,
Quỷ Vương Ngũ Mục,
Kỳ Lợi Thất Vương,
Ðại Kỳ Lợi Thất Vương,
Kỳ Lợi Xoa Vương,
Ðại Kỳ Lợi Xoa Vương,
A Na Tra Vương,
Ðại A Na Tra Vương.
Những vị Ðại Quỷ Vương như thế, mỗi vị cùng với trăm ngàn tiểu quỷ vương, toàn cư ngụ ở cõi Diêm Phù Ðề, ai nấy đều có chức trách, đều có phần chủ trị riêng.
Lược giảng:
Lúc đó, trong dãy núi Thiết Vi có vô lượng Quỷ Vương cùng với Thiên Tử Diêm La... Trong Biển Hoa Tạng Thế Giới , nơi nhân loại chúng ta đang sống là tầng thứ mười ba của Thế Giới Liên Hoa Tràng. Bên ngoài Thế Giới Liên Hoa Tràng có bảy lớp núi vàng bao bọc, bên ngoài bảy lớp núi vàng lại có bảy lớp biển Hương Thủy, và bên ngoài bảy biển Hương Thủy là núi Thiết Vi. Núi Thiết Vi này là một hòn núi do chất sắt tích tụ thành, trong núi có vô lượng Quỷ Vương và Diêm La Vương.
Các vị vua Diêm La cũng tự xưng mình là “thiên tử” (con của Trời), giống như Chúa Giê-su vậy! Và, luôn cả các vị hoàng đế ở nhân gian cũng xưng mình là “thiên tử”! Ðều là con cái của Trời cả, thế thì vị nào là lớn, vị nào là nhỏ? Chẳng có vị nào lớn, cũng chẳng có vị nào nhỏ cả. Ai gọi họ là “thiên tử”? Vua Diêm La được Ðức Phật thừa nhận là “thiên tử” Diêm La; và hoàng đế cũng được Phật thừa nhận, có thể được gọi là “thiên tử.” Duy chỉ có Chúa Giê-su là tự đặt “quốc hiệu,” tự phong cho mình làm “con của Trời” mà thôi!
Tôi cũng có thể tự xưng mình là “thiên tử” mà chẳng sợ bị ai phản đối, nhưng tôi lại chẳng thích làm thiên tử chút nào cả, bởi đó là chuyện không đáng! Thế thì tại sao vua Diêm La lại thích cái danh xưng “không đáng” này? Bởi vì vua Diêm La là kẻ có trách nhiệm quản lý công việc đó! Theo quan điểm của Phật Giáo, người xuất gia sau khi thọ giới Tỳ Kheo là trở thành một vị sư phụ của nhân thiên, là bậc thầy của cõi trời và cõi người. Như thế, bậc Tỳ Kheo chẳng những có thể làm thiên tử, mà còn có thể làm “ông sư phụ” của thiên tử nữa; cho nên tôi mới nói cái danh xưng “thiên tử” đối với tôi là không đáng!
Ðồng lên cung trời Ðao Lợi, đến chỗ của Ðức Phật. Nhân dịp Ðức Phật đến Ðao Lợi thiên cung thuyết Pháp cho Phật Mẫu, các Diêm La Vương cùng các Quỷ Vương cũng tới đó để nghe Phật giảng kinh thuyết Pháp.
1) Ðó là Quỷ Vương Ác Ðộc (chúa loài quỷ ác độc). Trong số các Quỷ Vương cùng đến cung trời Ðao Lợi có một vị tên là Quỷ Vương Ác Ðộc; và đây là vị Quỷ Vương xấu xa nhất. Làm sao biết được vị Quỷ Vương này là xấu xa nhất? Vì ông ta rất “ác độc”! “Ác độc” tức là xấu xa đến cực điểm—vừa ác lại vừa độc.
Quỷ Vương Ác Ðộc hễ trông thấy bất cứ chúng sanh nào là chỉ muốn há miệng ra nuốt chửng chúng sanh đó vào bụng ngay. Quý vị thấy vị Quỷ Vương này có lợi hại hay không? Lòng dạ thì ác, miệng lại độc nữa—vậy sự ác độc ấy biểu thị cái gì? Sự ác độc của Quỷ Vương Ác Ðộc không phải để đối phó với người hiền lành lương thiện, mà là để đối phó với kẻ xấu xa độc ác. Người ác thì lòng dạ hung dữ, miệng lưỡi hiểm độc; do đó, để đối phó với họ thì chúng ta chỉ có cách “lấy độc trị độc,” tức là dùng cái ác để chế ngự cái ác mà thôi! Quý vị tàn ác, thì vị Quỷ Vương này sẽ tàn ác hơn quý vị; quý vị hiểm độc, thì ông ta càng hiểm độc hơn cả quý vị nữa!
Tuy nhiên, quý vị chớ vội lầm tưởng rằng Quỷ Vương Ác Ðộc là một kẻ ác độc mà sanh lòng khiếp sợ. Quý vị đừng sợ vị chúa quỷ này—chỉ cần quý vị thành tâm niệm Phật thì ông ấy sẽ cung kính lễ bái quý vị; còn nếu quý vị không niệm Phật thì tâm sân hận của ông ta sẽ bộc phát! Quý vị niệm Phật thì ông ta sẽ không hung ác, quý vị tụng kinh thì ông ta lập tức hướng thiện—do đó, chúng ta không nên sợ vị Quỷ Vương này! Quý vị chỉ cần tinh tấn niệm Phật, chí thành tụng kinh, phát tâm Bồ Ðề, thì Quỷ Vương dù ác đến đâu cũng không còn ác nữa, dù độc cách mấy cũng chẳng thể độc nữa, mà sẽ trở thành một vị Hộ Pháp đắc lực; vì sao? Bởi Quỷ Vương Ác Ðộc vốn là:
“Ngoài hiện tướng Quỷ Vương ác độc,
Trong giữ lòng Bồ Tát từ bi
(Ngoại hiện ác độc Quỷ Vương tướng,
Nội tồn Bồ Tát từ bi tâm.)
Trong thâm tâm, Quỷ Vương Ác Ðộc muốn dùng phương pháp “ác độc” để độ chúng sanh (nếu không thì làm sao Quỷ Vương lại có thể đi chung với Thiên Tử Diêm La được!). Thiên Tử Diêm La cũng làm cùng một công việc như Quỷ Vương Ác Ðộc vậy—tuy mang danh là Quỷ Vương Ác Ðộc, song thực chất thì vị Quỷ Vương này không ác độc chút nào cả.
Quỷ Vương Ác Ðộc rất kính trọng những người tin theo Phật, vì vậy quý vị đừng khiếp sợ ông ấy. Ðặc biệt là nếu khi gặp ông ấy, quý Phật tử kể tên tôi ra và nói rằng tôi là sư phụ của quý vị, thì Quỷ Vương Ác Ðộc nhất định sẽ “nể” mặt quý vị! Tại sao ư? Vì tôi và ông ấy đã ký điều ước thỏa thuận với nhau, tôi căn dặn ông ấy rằng: “Bất cứ đệ tử nào của tôi đến chỗ ông, chỉ cần họ nhắc đến tên tôi, thì xin ông hãy trút tất cả tội lỗi của họ sang cho tôi!” Do đó, chỉ cần quý vị nhắc tới tên tôi, tôi bảo đảm rằng ông ta sẽ không tỏ ra ác độc với quý vị.
2) Quỷ Vương Ða Ác (chúa loài quỷ nhiều hung ác). Quỷ Vương Ác Ðộc tuy là ác độc nhưng cái ác của ông ta còn chưa nhiều, cái độc của ông ta cũng chưa sâu lắm; bởi Quỷ Vương Ða Ác mới đúng là “tác ác đa đoan,” luôn luôn bận rộn làm nhiều việc tàn ác. Ðây là vị Quỷ Vương chuyên môn đối phó với những chúng sanh quen thói ác, làm nhiều điều ác. Tôi tin rằng mọi người hiện diện ở đây đều bỏ ác làm lành hết rồi, không đến nỗi hung dữ, độc ác lắm nữa. Quỷ Vương Ða Ác chuyên trừng trị hạng người nào? Ðó là những kẻ phạm các tội ác tày trời như giết cha, giết mẹ, giết bậc A La Hán, phá sự hòa hợp của Tăng đoàn, hoặc làm thân Phật chảy máu.
3) Quỷ Vương Ðại Tranh (chúa loài quỷ ưa tranh cãi). Ðây là vị Quỷ Vương luôn luôn thích biện luận—chuyện không có lý, ông ta vẫn có thể biện giải, lập luận nghe rất hữu lý! Quỷ Vương Ðại Tranh chuyên đối phó với những kẻ ưa biện luận, thích tranh cãi, những kẻ tuy làm chuyện không hợp đạo lý mà cứ nằng nặc nói là có đạo lý, rõ ràng là phá giới song lại khăng khăng nói là mình không phạm giới, tự nói dối để lừa gạt chính mình. Cho nên, quý vị cần phải cẩn thận, hãy nhớ là đừng đi tìm gặp Quỷ Vương Ðại Tranh, bởi hễ gặp vị Quỷ Vương này thì có lý cũng thành vô lý, vì về mặt tranh luận thì ông ấy là hơn ai hết!
4) Quỷ Vương Bạch Hổ (chúa loài quỷ cọp trắng). Vị Quỷ Vương này tuy thân mình là quỷ nhưng lại có đầu là đầu cọp trắng.
5) Quỷ Vương Huyết Hổ (chúa loài quỷ cọp huyết). Vị Quỷ Vương này có đầu cọp, máu me đầm đìa.
6) Quỷ Vương Xích Hổ (chúa loài quỷ cọp đỏ). Toàn thân của vị Quỷ Vương này đều màu đỏ, và đầu là đầu cọp.
Thế thì, những Quỷ Vương này— Quỷ Vương Bạch Hổ, Quỷ Vương Huyết Hổ, Quỷ Vương Xích Hổ—vì sao lại mang đầu cọp? Vì họ muốn dùng vẻ hung ác dữ dằn để khiến cho những người phạm tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, nhác trông thấy đều phải khiếp vía, run sợ.
7) Quỷ Vương Tán Ương (chúa loài quỷ gieo rắc tai ương). “Ương” là tai họa rủi ro, những việc không may mắn. Vị Quỷ Vương này mang những sự không tốt lành, không kiết tường, giáng xuống thân người tội. Những tai bay vạ gió, cướp bóc, hỏa hoạn, ... xảy ra đều là có nhân quả cả—bất luận sự việc gì cũng đều có nhân quả của nó—gieo nhân nào thì gặt quả nấy.
8) Quỷ Vương Phi Thân (chúa loài quỷ biết bay). Ðây là vị Quỷ Vương có khả năng “phi thân,” có thể bay đến bất cứ nơi nào mình muốn mà không phải mua vé máy bay, cũng chẳng cần dùng tới hỏa tiễn. Vị Quỷ Vương này phi thân còn nhanh hơn cả hỏa tiễn, cho nên ai muốn học phép “phi thân” thì hãy tìm tới Quỷ Vương Phi Thân để thọ giáo, bởi ông ta rất có bản lãnh về mặt này!
9) Quỷ Vương Ðiện Quang (chúa loài quỷ điện chớp). Vị Quỷ Vương này có mắt sáng loang loáng như ánh điện chớp.
10) Quỷ Vương Lang Nha (chúa loài quỷ răng nanh). Vị Quỷ Vương này có răng mọc chìa ra ngoài miệng, rất đáng sợ và lợi hại như răng chó sói vậy.
11) Quỷ Vương Thiên Nhãn (chúa loài quỷ ngàn mắt). Ðây là vị Quỷ Vương có một ngàn con mắt; tuy nhiên, một ngàn con mắt của Quỷ Vương này thì không nằm trong một ngàn bàn tay như của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát. Cũng có một loài quỷ toàn thân mọc ra tua tủa rất nhiều sừng giống như sừng trâu vậy, và trên mỗi cái sừng bén nhọn ấy đều có một con mắt.
Thế thì, những con mắt của Quỷ Vương Thiên Nhãn nằm ở vị trí nào? Mỗi con mắt của Quỷ Vương nằm trong một hốc xương, ngay chỗ xương lõm vào và hoàn toàn không có thịt; cho nên toàn thân Quỷ Vương là những con mắt lọt thỏm vào trong, khiến quý vị thoáng nhìn thì thấy chớp sáng nhấp nháy như ánh đèn pin vậy.
12) Quỷ Vương Ðạm Thú (chúa loài quỷ ăn thịt thú vật). Vị Quỷ Vương này chuyên môn ăn gì? Chuyên môn ăn thịt thú vật! Ăn thịt của loại thú vật nào? Loài thú nào hung dữ, lợi hại—như loài cọp chẳng hạn—thì Quỷ Vương Ðạm Thú ăn thịt của loài thú đó!
13) Quỷ Vương Phụ Thạch (chúa loài quỷ vác đá). Vị Quỷ Vương này phô trương sức lực của mình bằng cách vác trên lưng một tảng đá lớn, nặng tới mấy vạn cân anh , và khi thấy tội nhân đến thì liền đem tảng đá này đè lên mình tội nhân, khiến toàn thân người tội bị dẹp lép như cái bánh chiên!
14) Quỷ Vương Chủ Hao (chúa quỷ chủ về tin xấu). “Hao” nghĩa là hao tán, hao tổn; “ách hao” là tin buồn, tin xấu. Quỷ Vương Chủ Hao chỉ đưa toàn những tin không tốt tới cho quý vị. Ví dụ trong lúc quý vị ngủ, Quỷ Vương có thể báo mộng, hỏi rằng quý vị có biết rằng ngày mai mình sẽ chết hay không, và cho biết quý vị chỉ còn sống ngày hôm nay nữa mà thôi. Quỷ Vương Chủ Hao chuyên mang đến cho quý vị những tin xấu, khiến quý vị gặp ác mộng, chiêm bao thấy những điều không tốt.
15) Quỷ Vương Chủ Họa (chúa quỷ chủ về tai họa). Vị Quỷ Vương này chẳng những chuyên đưa tin xấu mà còn mang lại cho quý vị những tai họa rủi ro, như bị xe đụng, đắm thuyền, hoặc rớt máy bay...
16) Quỷ Vương Chủ Thực (chúa quỷ chủ về ăn uống). Mỗi ngày quý vị ăn những thức ăn gì đều có sự quy định trước cả. Những điều mà trước kia tôi đã giảng liên quan đến vị “chủ thực” đều là có thật! Hôm nay quý vị sẽ được ăn món gì, dùng những thức gì để nấu, rồi ngày mai đáng phải ăn món gì thức gì ... tất cả đều được quy định—trong sự âm thầm lặng lẽ, đều có sự phân phối, sắp đặt cho quý vị.
17) Quỷ Vương Chủ Tài (chúa quỷ chủ về tài lộc). Như hôm nay có người đến cúng dường cho tôi, đó là do Quỷ Vương Chủ Tài đã âm thầm mách bảo người ấy—những điều này đều có liên quan với nhau. Thật đấy! Ðiều này không mảy may sai chạy. Những việc ở thế gian chẳng có việc gì là có “quả” mà không có “nhân”; do đó, hiện nay quý vị làm đệ tử của tôi cũng là do trước kia đã trồng cái nhân này, chứ không ai có thể ép buộc chuyện nhân quả được cả. Bác bỏ nhân quả, không thừa nhận nhân quả—đó là điều vô cùng nguy hiểm. Vì vậy, quý vị chớ nên không tin nhân quả!
18) Quỷ Vương Chủ Súc (chúa quỷ cai quản súc vật). Vị Quỷ Vương này cai quản hết thảy các loài vật nuôi trong nhà.
19) Quỷ Vương Chủ Cầm (chúa quỷ cai quản loài chim). Vị Quỷ Vương này cai quản tất cả chim muông.
20) Quỷ Vương Chủ Thú (chúa quỷ cai quản loài thú). Ở trên có đề cập tới Chủ Súc Quỷ Vương, vị chúa quỷ chuyên cai quản súc vật. “Súc” là súc vật và gồm có súc vật nuôi trong nhà (gia súc), và súc vật sống ở đồng hoang (dã súc). Còn bây giờ là nói về Quỷ Vương Chủ Thú, tức là vị chúa quỷ chuyên cai quản thú vật. “Thú” thì đa số là thú vật sống ở nơi hoang dã (dã thú), chứ không có thú vật nuôi trong nhà (gia thú).
Ở phương Ðông có núi Lưu Ly, trên núi này có vị Quỷ Vương Chủ Thú—thế ông ta cai quản những loài thú nào? Ðó là loài cọp, thỏ và rồng. Ở phương Nam thì có núi Pha Lê, và vị Quỷ Vương Chủ Thú ở đây cai quản loài rắn, ngựa và dê. Ở phương Tây thì có núi Bạch Ngân, vị Quỷ Vương của núi này cai quản loài khỉ, gà và chó. Ở phương Bắc thì có núi Huỳnh Kim, trên núi toàn là vàng huỳnh kim, thế nhưng quý vị chớ nên đến đó khai thác mỏ vàng. Núi đó không phải là nơi người ta có thể đào lấy vàng như núi vàng Cựu Kim Sơn hoặc Tân Kim Sơn được, bởi núi vàng ấy là “bất động,” không ai có thể đến được; và trên núi có vị Quỷ Vương Chủ Thú chuyên cai quản các loài heo, chuột và trâu bò.
Như vậy, Quỷ Vương Chủ Thú và Quỷ Vương Chủ Cầm cai quản các phương khác nhau, mỗi vị đều có khu vực giới hạn riêng và đều làm chủ tể các loài khác nhau.
21) Quỷ Vương Chủ Mỵ (chúa quỷ cai quản loài yêu mỵ). “Mỵ” tức là lỵ mỵ, vọng lượng. Chủ Mỵ Quỷ Vương là vị chúa quỷ chuyên cai quản loài lỵ mỵ, vọng lượng thường tác oai tác quái ở chốn núi rừng.
Trong phần đệ tam hội của Chú Lăng Nghiêm có những câu: “Ra Xà Bà Dạ, Chủ Ra Bạt Dạ, A Kỳ Ni Bà Dạ, Ô Ðà Ca Bà Dạ, Tỳ Sa Bà Dạ, Xá Tát Ða Ra Bà Dạ, Bà Ra Chước Yết Ra Bà Dạ, Ðột Sắt Xoa Bà Dạ”—đó đều là tên của các vị Quỷ Vương coi sóc loài lỵ mỵ, vọng lượng.
22) Quỷ Vương Chủ Sản (chúa quỷ chủ về sự sinh sản). Ðây là vị Quỷ Vương chủ tể, trông coi việc sanh nở của con người. Nếu sản phụ là người hiền lành lương thiện thì khi lâm bồn, Quỷ Vương Chủ Sản sẽ khiến cho việc sanh nở của người ấy được bình yên thuận lợi; còn nếu là người hung ác thì sẽ bị Quỷ Vương gây khó dễ, làm cho đau đớn, hoặc sanh không được. Trong sự vô hình, Quỷ Vương âm thầm răn dạy và khiến cho người sản phụ sanh tâm giác ngộ, biết hướng thiện và sửa đổi tánh nết.
23) Quỷ Vương Chủ Mạng (chúa quỷ chủ về sanh mạng). Tất cả những sanh mạng có khí huyết đều do vị Quỷ Vương này trông coi.
24) Quỷ Vương Chủ Tật (chúa quỷ chủ về tật bệnh). Bất cứ bệnh tật gì mà con người mắc phải đều do vị Quỷ Vương này cai quản.
25) Quỷ Vương Chủ Hiểm (chúa quỷ chủ về sự nguy hiểm). Vị Quỷ Vương này làm chủ tể, trông coi những việc nguy hiểm đáng sợ.
26) Quỷ Vương Tam Mục (chúa loài quỷ ba mắt). Vị Quỷ Vương này có ba con mắt; ba con mắt này nằm ở vị trí như thế nào? Con mắt này thì khác với “con mắt trời” (thiên nhãn) của Ngũ Nhãn Lục Thông. Quỷ Vương này có một con mắt nằm ngang ở giữa, còn hai con mắt kia thì nằm hai bên; ba con mắt này hợp lại thành một hình tam giác—quý vị đã từng trông thấy lần nào chưa?
27) Quỷ Vương Tứ Mục (chúa loài quỷ bốn mắt). Vị Quỷ Vương này có bốn con mắt nằm ở bốn phía, làm thành một hình vuông. Nói chung, những con mắt này sắp xếp rất kỳ quái, khiến người ta nhác trông thấy là khiếp sợ ngay, chứ không giống như Ngũ Nhãn của bậc Bồ Tát.
28) Quỷ Vương Ngũ Mục (chúa loài quỷ năm mắt). Lại có loài Quỷ Vương có đến năm con mắt.
29) Kỳ Lợi Thất Vương. Kỳ Lợi Thất Vương thì ở phương Nam , và trông coi về lửa.
30) Ðại Kỳ Lợi Thất Vương. Ðây là vị Quỷ Vương cai quản những ngọn lửa lớn (đại hỏa). Kỳ Lợi Thất Vương thì ở phía Nam ; xa hơn nữa về phía Nam có một ngọn núi và Ðại Kỳ Lợi Thất Vương làm Quỷ Vương ở núi đó.
31) Kỳ Lợi Xoa Vương.
32) Ðại Kỳ Lợi Xoa Vương.
33) A Na Tra Vương. A Na Tra vốn là con trai của Tứ Ðại Thiên Vương. A Na Tra Vương cũng là một vị Hộ Pháp, tuy ở trong loài quỷ song không thuộc về quỷ, cho nên gọi là A Na Tra Vương.
Ngoài ra còn có
34) Ðại A Na Tra Vương. Những vị Ðại Quỷ Vương như thế, mỗi vị cùng với trăm ngàn tiểu quỷ vương... Lúc trước, khi giảng về “tiểu quỷ” tôi đã nói rằng có “quỷ lớn” thì cũng có “quỷ nhỏ,” và chúa quỷ cũng có bà con quyến thuộc như quỷ mẹ, quỷ con, quỷ cháu, quỷ chắt...
Những vị Ðại Quỷ Vương kể trên, mỗi vị đều có dẫn theo đông đảo tiểu quỷ vương; họ toàn cư ngụ ở cõi Diêm Phù Ðề, ai nấy đều có chức trách, đều có phần chủ trị riêng. Tất cả có đến cả trăm ngàn vị, họ đều trú ngụ ở cõi Nam Diêm Phù Ðề, và vị quỷ nào cũng đều có phận sự và quyền làm chủ tể của vị quỷ đó. Mỗi người đều có quyền lực riêng của con người thì quỷ cũng có quyền lực riêng của loài quỷ! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Vua Diêm La - Diêm La Vương cai quản loài quỷ
Thoạt nghe tới mấy tiếng “vua Diêm La” hẳn là mọi người ai nấy đều có cảm giác sờ sợ! “Diêm La” là phiên âm từ chữ “yama” của tiếng Ấn Ðộ; “vua Diêm La” là vị vua cai quản loài quỷ.
Chúng ta thường nghe nói tới “thập điện Diêm La,” tức là mười vị vua cai quản mười điện ở địa ngục. Tuy nhiên, theo văn nghĩa của bản kinh này thì ở đây không phải chỉ đề cập đến “thập điện Diêm La” của Nam Thiệm Bộ Châu, mà là bao gồm hết thảy vua Diêm La trên toàn vũ trụ. Mỗi thế giới đều có vua Diêm La, do đó có đến vô lượng vô biên vị vua Diêm La—vô cùng đông đảo. Có những vị vua Diêm La đến từ các thế giới khác như mặt trăng, các vì tinh tú ...; và cũng có những vị đến từ các núi Thiết Vi của những nơi khác.
Nói tóm lại, ở đâu có con người thì ở đó có vua Diêm La, nơi nào không có con người thì nơi ấy không có vua Diêm La; vì sao? Bởi vì nếu không có loài người thì sẽ không có loài quỷ, mà không có quỷ thì cũng không có Phật, và đó chính là “vô Phật thế giới”—thế giới không có Phật. Mà, vì là thế giới không có Phật cho nên cũng không có vua Diêm La!
Do đó, chủ yếu là ở con người, nếu không có con người thì cái gì cũng không hiện hữu cả. Trên thế giới này con người chi phối mọi thứ, tạo dựng ra mọi thứ, có nhu cầu về mọi thứ và sử dụng mọi thứ—tất cả đều do con người mà ra. Nếu không có con người thì thế giới này sẽ không có Phật, không có Bồ Tát, và cũng chẳng có ngạ quỷ, chẳng có địa ngục, chẳng có súc sanh—hoàn toàn không có gì cả! Cho nên, tất cả đều do con người mà ra, vì con người mà có!
Thế thì, con người là do cái gì tạo thành? Con người là do “tâm” tạo thành! Tâm không chỉ tạo ra con người mà còn có thể tạo ra mọi thứ—thiên đường, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ...; vì thế mà nói rằng mười Pháp Giới đều do tâm tạo thành. Song, tâm tạo ra mười Pháp Giới thì tâm cũng có thể hủy diệt mười Pháp Giới[1]! Trong Kinh Hoa Nghiêm có chép:
“Nếu ai muốn rõ biết,
Tất cả Phật ba đời,
Nên quán tánh Pháp Giới,
Hết thảy do tâm tạo.”
(Nhược nhân dục liễu tri,
Tam thế nhất thiết Phật,
Ưng quán Pháp Giới tánh,
Nhất thiết duy tâm tạo.)
Tất cả đều do cái “tâm” này tạo thành! Trong tâm của chúng ta có rất nhiều tạp niệm—những tạp niệm này thì nhiều như sóng nước và được biểu hiện nơi sơn hà đại địa trên thế giới. Mọi thứ đều do tâm vọng tưởng của con người tạo ra—cái tâm vọng tưởng ấy vốn nhiều như bụi bặm, và chính vì trong thâm tâm chúng ta có vọng tưởng cho nên bên ngoài mới có nhiều bụi bặm. Nếu vọng tưởng bên trong không còn thì bụi bặm bên ngoài cũng chẳng hiện hữu, và ngay cả “lân hư trần” cũng chẳng tồn tại. Phàm hễ nơi nào có con người thì nơi đó cũng sẽ có quỷ, có Phật, và do đó, có sự hiện diện của các vua Diêm La.
Theo bản Hán văn, phẩm này có tựa đề là “Diêm La Vương Chúng Tán Thán”; trong đó chữ “chúng” là ám chỉ quyến thuộc của các vua Diêm La. Lúc bấy giờ, trong Pháp Hội không phải chỉ có các vua Diêm La mà luôn cả bà con thân thuộc của họ cũng đều hiện diện, và hết thảy đều đồng lòng khen ngợi. Các vua Diêm La cùng quyến thuộc của họ khen ngợi việc gì? Họ khen ngợi đại oai thần lực, trí huệ bất khả tư nghì, cảnh giới bất khả tư nghì của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. Và, đây là phẩm thứ tám của bản kinh này. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kết ác tập nghiệp - Thập ác tập: Nghiệp kết tập sâu nặng
“Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng.” “Kết” tức là dồn lại, kết dính lại với nhau. Nghiệp từ đời trước liên kết với nghiệp của đời này, nghiệp của đời này lại dây dưa liên lụy tới đời sau—đời đời kiếp kiếp, các nghiệp báo này nối kết nhau liên miên không dứt, giống như sợi dây kết liền thành một mối vậy; nên gọi là “kết ác tập nặng.” Những “ác tập” (thói quen xấu ác) này là những gì? Có mười tập khí xấu ác gọi là Thập Ác Tập:
1) Dâm dục. Thói xấu thứ nhất là dâm dục. Tất cả chúng sanh đều như nhau—ai nấy đều có lòng dâm dục. Ðây là mối phiền toái thứ nhất, cũng là điều rất khó đoạn trừ. Việc đoạn dứt dâm dục còn khó hơn lên trời nữa! Do đó, nếu chúng ta điều phục được lòng dâm dục—tức là người nữ thấy người nam thì không khởi tâm ham muốn, và người nam thấy người nữ thì chẳng sanh lòng tà vạy—thì gọi là “hàng hổ” hoặc “phục hổ,” tức là đã đánh thắng loài cọp dữ, khiến chúng phải đầu hàng quy phục. Lại thêm, nếu chúng ta cũng không còn phiền não, thì có thể nói rằng chúng ta đã hàng phục được cả loài rồng rồi vậy. Phiền não vô minh thì giống như con rồng vậy—rồng có khả năng biến hóa vô cùng, không thể đoán trước được lúc nào nó sẽ thình lình xuất hiện.
Vậy, việc phải làm trước nhất là đoạn trừ lòng dâm dục. Qua sự việc này có thể thấy được quý vị có công phu tu hành, có đạo đức, có thật sự dụng công hay không. Quý vị có thể tự thử nghiệm chính mình, tự tìm hiểu chính mình. Nếu quý vị đã đoạn trừ được dâm tâm rồi tức là quý vị có công phu tu tập; lòng dâm chưa dứt thì quý vị vẫn còn lậu thoát. Cho nên, tu “vô lậu” tức là dứt bỏ lòng dâm dục—còn dâm tâm là còn “hữu lậu,” hết dâm tâm mới là “vô lậu.”
2) Tham. Ác tập thứ hai là tham lam. Vì sao có lòng dâm dục? Chính là vì có lòng tham—ham muốn cảm giác, khao khát thỏa mãn dục niệm của chính mình.
3) Mạn. “Mạn” tức là kiêu mạn, và đây là thói xấu thứ ba. Thế nào gọi là “kiêu mạn”? Bản thân mình vốn chưa hẳn là thông minh hơn người, nhưng lúc nào cũng cho rằng mình thông minh xuất chúng, khinh thường tất cả những người khác, đến đâu cũng muốn mình là “số một”; đó chính là lòng kiêu mạn đang tác quái!
4) Sân. Ðây là thói xấu thứ tư. Kẻ mang lòng sân hận thì đối với bất cứ ai cũng sanh tâm oán ghét, lúc nào cũng hằn học: “Mày không tốt với tao, tao phải tìm cách giết mày để báo thù!”
5) Trá. Ác tập thứ năm là “trá,” tức là xảo trá, lường gạt, làm những việc giả dối hư ngụy.
6) Cuống. “Cuống” tức là nói dối, vọng ngữ. “Trá” tức là bản thân vốn là người xấu, song bề ngoài lại làm ra vẻ người tốt, khéo che đậy khiến kẻ khác không nhận ra được. Còn “cuống” tức là nói dối, bịp bợm, nói sai sự thật, bất cứ chuyện gì cũng nói dối một cách trơn tru, trót lọt được cả.
7) Oán. “Oán” tức là việc gì cũng oán trách người khác; rõ ràng là mình sai, là lỗi của mình, nhưng lại đổ lỗi cho người khác: “Nếu hắn không bảo tôi làm như thế thì tôi đâu có làm. Chuyện này không thể trách tôi được. Ðó là lỗi của hắn. Hắn mới là người có lỗi.” Cho nên, kẻ ôm lòng hờn oán thì bất cứ tội lỗi gì cũng trút lên đầu lên cổ người khác cả!
8) Tà kiến. Ðây là thói xấu thứ tám. “Tà kiến” tức là tà tri tà kiến, cái nhìn sai lầm hoặc sự hiểu biết lệch lạc, dẫn dắt con người đi vào con đường bất chánh, tà vạy.
9) Uổng. “Uổng” có nghĩa là cong vạy, không ngay thẳng.
10) Tụng. Ác tập thứ mười là tố tụng, tức là thích kiện cáo, tranh cãi hơn thua. Có những kẻ vốn sai quấy, có lỗi, thế mà lại muốn kiện cáo, thưa với quan tòa là lỗi của người khác, rồi buộc đối phương phải bồi thường tiền bạc cho mình. Nói tóm lại, bản thân mình vốn là vô lý mà lại vu khống, tìm cách làm cho người khác bị hàm oan, đó gọi là “tụng.”
Mười thói quen xấu hay Mười Ác Tập này trong Kinh Lăng Nghiêm (quyển tám) gọi là Mười Tập Nhân, tức là mười nguyên nhân tập khí xấu dẫn đến các quả báo khổ sở trong sáu đường (Lục Giao Báo). Chính vì chúng sanh tiêm nhiễm mười tập khí này nên nói là “kết ác tập nặng.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Luân Thường đạo lý
- Ngũ Luân: Đạo của tự nhiên, ở người cái gì là đạo? Vợ chồng là đạo, cha con là đạo, anh em là đạo, bè bạn là đạo, vua tôi là đạo, (vua là người lãnh đạo, tôi là người bị lãnh đạo), đây là “ngũ luân”. Hỏi bạn năm thứ này do ai đặc ra? Là ai phát minh? Là ai quy định? Không có! Đây là nguyên tắc tự nhiên. Cho dù bạn có văn hóa hay không, người mọi rợ họ cũng có, người văn minh cũng Đạọ làm người, bạn không thể nào thoát khỏi năm cái này, cho nên năm cái này là nguyên tắc tự nhiên, đây là "đạo", đạo của tự nhiên. -> Trái ngược với đạo thì tai nạn sẽ đến ngay. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
- Ngũ Thường: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín
* Tám đức: Chi tiết đó là 8 đức. Tám đức ở Trung Quốc có hai cách nói, hai cách nói trừ đi những cái giống nhau trong đó còn lại 12 chữ. “Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ, Nhân, Ái, Hòa, Bình”.
=> 12 chữ này là hoàn toàn tương ưng với đạo, tương ưng với nguyên tắc của tự nhiên. Không có nó - Thế giới liền loạn thôi, bạn sẽ khổ.
* Khi gia đình và xã hội sống đúng Đạo, thì vạn sự theo Đạo chẳng cần nhắc đến. Nhưng khi bất hòa phát sinh mới nói đến chữ hiếu - Đạo nghĩa - Trung thần ... Đạo lý trong đoạn kinh nầy cũng giống như điều của Lão Tử muốn nói. Nếu chỉ có một yếu tố, thì sẽ không có gì trở nên hỗn trược. Nhưng vì chúng kết hợp với nhau và hình thành một khối, nên hư vọng sanh khởi. Điều nầy chứng minh rằng trong mọi pháp, đều có cái chân cái nguỵ, cái giả cái thật. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chữ lý trong luân lý: Hệ thống luật pháp và quy tắc để bảo vệ điều tốt, loại bỏ điều xấu trong xã hội.
=> Đạo lý: Là những đức tính tốt đẹp của con người cần có, có nó thì con người sẽ thành tựu Đạo làm người.
==>> Đức tính căn bản của đạo làm người lương thiện gồm tối thiểu bốn đức: Nhân - Nghĩa - Lễ - Tín.
==>> Đức tính căn bản của đạo làm người quân tử - Thiện tri thức gồm tối thiểu năm yếu tố: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín.
* Ngoài ra còn có các nhóm tiêu chuẩn chung hay phân theo giới tính Nam - Nữ: Tam cương - Ngũ thường; Tam tòng - Tứ đức; Công Dung Ngôn hạnh ...
+ Luân thường đại đạo: ... Khi bình tâm lại, chúng ta có thể cảm nhận được Luân Thường Đại Đạo ở ngay bên cạnh chúng ta. Tại sao con người phải tuân thủ quan hệ Ngũ Luân? Bởi vì Ngũ Luân là “Đạo”. Nòng cốt của Văn Hóa Truyền Thống là hai chữ “Đạo Đức”. Đạo là đạo của Ngũ Luân. Trời đất vạn vật đều có quỹ đạo vận hành của nó. Con người có đạo của con người, trời có đạo của trời. Thậm chí sông ngòi cũng có đường nước chảy của nó. Giả sử sông ngòi không chảy theo dòng thì có thể nó sẽ làm vỡ đê, sẽ chảy tràn ra ngoài. Cũng giống vậy, những thiên thể vận hành trên trời chắc chắn có quỹ đạo của nó. Nếu không theo quỹ đạo thì chắc chắn thiên thể này sẽ va chạm với thiên thể kia. Văn Hóa Truyền Thống là trời và người hợp nhất, cho nên phải noi theo đạo trời với quỹ đạo, quy tắc, quy luật của nó.
Lão Tử có nói: “Tri thường viết minh, bất tri thường, vọng tác, hung”. Biết được luân thường đạo lý của cách làm người, không vượt quá giới hạn thực hiện những đức hạnh này thì người này là người hiểu biết, đó là “tri thường viết minh”. “Bất tri thường” là không biết những luân thường đạo lý của cách làm người thì sẽ xuất hiện rất nhiều việc không may trong cuộc sống. Những việc không may này không chỉ sẽ hại bản thân mình mà thậm chí còn hại cả đời sau.(Nguồn: Ngũ luân đại đạo - TS Thái Lễ Húc)
+ Đạo làm người: Là trung hiếu nhân nghĩa, còn như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là không phải người (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Đạo làm Người rất hay: Xem 28 Điều Lời Khai thị của Ấn Quang Đại Sư
+ Giáo dục của Nho gia xem trọng luân thường - Ngũ luân: Các quan hệ vợ chồng, cha con, anh em, bạn bè, vua tôi. Cho nên, bạn bè là một trong ngũ luân, có mối quan hệ hết sức mật thiết với bản thân ta.
Để chu toàn đạo nghĩa với bạn bè, đức Phật dạy chúng ta năm việc.
Thứ nhất, nếu bạn làm chuyện xấu ác, tạo nghiệp ác, phải khuyên bảo để bạn chấm dứt. Cho nên, bạn bè có nghĩa vụ giúp nhau sửa lỗi. Nếu thấy bạn mình làm chuyện sai trái mà không nói ra thì chưa đủ gọi là bạn bè, đó không phải bạn bè. Tuy nhiên, khuyên bảo uốn nắn cũng phải theo lễ nghi, nhất định phải giữ lễ, phải hiểu biết lễ nghi thích hợp. Lúc nói lỗi để khuyên bảo tuyệt đối không được có mặt người khác. Phải khuyên bảo trong chỗ riêng tư. Như vậy mới là bạn bè. Cha mẹ dạy con thì có thể dạy dỗ [sửa lỗi] lúc có mặt anh chị em. Đó là cha mẹ hay anh chị dạy dỗ [sửa lỗi] con em. Nhưng nếu có người ngoài, cha mẹ, anh chị cũng không nên nói ra. Đó là vì giữ thể diện cho con em mình. Thầy dạy dỗ [sửa lỗi] học trò, có thể nói ra trước mặt các bạn đồng học. Vì sao vậy? Vì chúng ta là bạn đồng học, thầy không chỉ dạy riêng một người, đó là dạy dỗ tất cả học sinh của thầy. Nhưng bạn bè với nhau thì không được. Bạn bè chỉ có thể khuyên bảo nói lỗi ở chỗ riêng tư kín đáo. Cho nên, ý nghĩa này chúng ta phải hiểu thật rõ ràng.
Khuyên bảo lẫn nhau để dứt trừ lỗi, đó là nói có sự giúp đỡ qua lại với nhau. Trong Phật pháp, thực sự rõ biết rằng nhân quả [báo ứng] tương quan trong cả ba đời: [quá khứ, hiện tại và tương lai], cho nên việc khuyên bảo sửa lỗi là quan trọng thiết yếu hơn hết.
Chỉ khuyên can không quá 3 lần: Tập khí xấu ác rất nặng nề, trong sách Luận ngữ có nói đến. Sách Luận ngữ là do Khổng tử nói ra. “Bạn bè [khuyên can] quá nhiều lần thì thành ra xa cách”. Cho nên, hiện nay so [với thời trước] khó khăn hơn rất nhiều. Khuyên bảo sửa lỗi không được quá ba lần. [Khuyên can] ba lần trở lên thì đã thành kẻ ác rồi, tình bạn bè thành ra xa cách. Không chỉ là xa cách, mà còn kết thành oán thù. Do đó có thể biết rằng, việc khó nhất trong đời này là [hiểu được] lòng người. Đó gọi là: “Thành tựu công việc đã khó, làm người còn khó hơn.”
Người thực sự thấu tình đạt lý, Nho gia gọi là người quân tử, là người thực sự thông hiểu ý nghĩa [thích hợp] lòng người. Thấu tình đạt lý đến mức rốt ráo thì đó là bậc thánh nhân, trong Phật pháp chúng ta tôn xưng là Phật, Bồ Tát. Chúng ta ngày nay tội lỗi đầy mình, khởi tâm động niệm, nói năng hành động đều là bất thiện, chư Phật, Bồ Tát vì sao không đến khuyên bảo sửa lỗi cho ta? Vì sao không thể đến dạy dỗ chúng ta?
Chúng ta tự mình suy ngẫm xem, chư Phật, Bồ Tát đến dạy dỗ, liệu chúng ta có tiếp nhận hay không? Không thể tiếp nhận. [Khuyên bảo] quá ba lần liền thấy phiền toái, ghét giận, rồi cũng sẽ xem chư Phật, Bồ Tát là kẻ oan gia thù nghịch. Cho nên chư Phật, Bồ Tát vì lòng từ bi mà không đến với chúng ta. Các ngài không đến là từ bi, là bảo vệ mối quan hệ tốt, không để quan hệ tốt hiện nay với quý vị phải hóa thành xa cách. Đợi khi nào quý vị thực sự giác ngộ, thực sự muốn quay đầu, ở trong sáu đường đã chịu đựng đủ mọi khổ não, bừng lên được một ý niệm giác ngộ, một niệm quay đầu hướng thượng, khi ấy [chư Phật, Bồ Tát] sẽ đến [giúp quý vị] như những người bạn tốt. Phương thức của chư Phật, Bồ Tát là như vậy, rất đáng cho chúng ta tham khảo.
[Nếu người ta] không chịu nghe lời khuyên thẳng thắn, không chịu nghe lời hiền thiện, thì hãy tạm thời rời xa. Nhất định phải đợi khi họ muốn quay đầu hướng thiện mới quay lại tiếp cận. Như thế là ý nghĩa cảm ứng giao hòa trong đạo hết sức lớn lao.
(Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 20 tháng 9 năm 1999 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 101, số hồ sơ: 19-012-0101)
+ Làm việc ngay thẳng: ... Lục tổ dạy: Làm việc ngay há phải tu thiền: Hành vi công bình chính trực, đó chính là thiền, thiền cũng chính là dạy quý vị trừ đi tất cả tập khí tật xấu. Có người nói: "Tâm bình không cần trì giới, vậy tôi không trì giới nữa," nhưng tâm của quý vị đã bình hay chưa? Quý vị không kể tâm mình bình hay chưa, liền không trì giới. Tâm của quý vị cần phải bình mới có thể không trì giới, nếu tâm không bình thì làm sao có thể không trì giới? Nếu dối gạt người nói tâm tôi đã bình rồi, nhưng khi làm việc gì thì không công bình, lại tự tư, tự lợi, ích kỷ, tật đố chướng ngại, loại người này tâm làm sao có thể bình được.
Nghĩa, huynh đệ dưới trên tương ái: Như Cha Mẹ thương con cái, đó chính là lòng từ bi lân mẫn, thuộc về nghĩa.
Nhượng, hòa mục tôn ti đối đãi: Cùng nhau khiêm tốn nhường nhịn thì trên dưới hòa hiệp, nhìn thấy kẻ tôn quý người hạ tiện đều bình đẳng như nhau, hòa hòa hiệp hiệp thì không có tranh chấp phát sanh. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bậc trung thần - Trung thành:
“Trung thần xuất ư hiếu tử chi môn” (Bậc trung thần xuất phát từ con người có hiếu). Lời nói này của Tổ Tiên cũng đã được ấn chứng mấy nghìn năm lịch sử. Lòng hiếu thảo, lòng yêu thương của con người đều từ những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống mà được hình thành, ảnh hưởng ngấm ngầm một cách tự nhiên.
+ Việc thiện lành: Làm việc thiện mà muốn người thấy, thì chẳng phải là chân thiện; Làm việc ác mà sợ người biết, thì là đại ác (HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Làm việc thiện: Nên kinh có dạy “Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm - Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”. Vị Bồ Tát siêng năng làm các việc thiện (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phật đối với Bồ-tát nói sáu điều nguyên tắc tu hành này là có thứ lớp, dứt khoát không được đảo lộn. Điều thứ nhất là bố thí, là dạy bạn buông xả. Nếu bạn không thể buông xả thì bạn sẽ không giữ luật nghi (là trì giới). Bạn không thể giữ luật nghi thì bạn chắc chắn không thể nhẫn nhục. Bạn không thể nhẫn nhục thì bạn chắc chắn sẽ không có tiến bộ (tinh tấn). Không có tiến bộ thì làm sao có thể đắc thiền định? (Kinh TTNĐ - PS Tịnh Không)
+ Đức Phật dậy Bồ Tát nào nương theo nghiệp thiện trong lúc tu đạo:
1. Thân nghiệp - Sát Đạo Dâm
- Do có thể xa lìa sự sát sinh mà thực hành bố thí nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt được, sống lâu không chết yểu, chẳng bị tất cả kẻ oán thù làm tổn hại.
- Do xa lìa việc trộm cướp mà thực hành bố thí, nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt được, có thể chứa nhóm đầy đủ tạng pháp của Chư Phật hơn hết không ai sánh bằng.
- Do xa lìa việc làm tà dâm mà thực hành bố thí, nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt được, gia đình trinh thuận, mẹ và vợ con, không ai có thể nhìn ngắm họ bằng tâm dâm dục.
2. Khẩu nghiệp:
- Do xa lìa lời nói dối trá mà thực hành bố thí, nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt được, xa lìa các sự hủy báng, giữ gìn chánh pháp, làm gì cũng chắc chắn, đạt được kết quả giống như nguyện ước.
- Vì xa lìa lời nói hai chiều ly gián mà thực hành bố thí, nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt, quyến thuộc hòa thuận, cùng một chí hướng, thường vui vẻ không chống trái, tranh chấp.
- Vì xa lìa lời nói thô ác mà thường thực hành bố thí nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt, tất cả chúng hội đều vui vẻ quy ngưỡng, nói ra điều gì cũng được tin tưởng, tiếp nhận, không ai chống cự.
- Do xa lìa lời nói thêu dệt mà thực hành bố thí nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt, lời nói luôn không dối gạt, mọi người đều kính trọng, tiếp nhận, có thể dùng phương tiện khéo léo để dứt hẳn các sự nghi ngờ lầm lạc.
3. Ý nghiệp - Tham Sân Si:
- Do xa lìa tâm tham lam mà thực hành bố thí nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt, có tất cả vật gì cũng đều đem bố thí, xả bỏ, có sự tin hiểu vững chắc, đầy đủ oai lực lớn.
- Vì xa lìa tâm sân hận mà thực hành bố thí, nên thường được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt, sớm tự thành tựu tâm trí vô ngại, các căn trang nghiêm, đẹp đẽ, ai thấy cũng kính mến.
- Vì xa lìa tâm ngu si tà kiến, điên đảo mà thực hành bố thí, nên thường có được của báu, giàu sang, không ai có thể chiếm đoạt, luôn được sinh vào trong nhà chánh kiến và chánh tín, gặp Phật, nghe pháp, cúng dường chúng Tăng, thường không quên tâm đại Bồ Đề.
* Đó là lúc tu đạo Bồ Tát, Đại Sĩ thực hành 10 nghiệp thiện, bằng việc bố thí trang nghiêm mà được lợi ích lớn như vậy.
Nguồn: Kinh Thập Thiện
+ Chuẩn bị cho lúc sắp chết - Sắp mạng chung: ... Đức Phật bảo: “Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại và vị lai, nếu những chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa.
Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phục v. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài.
Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Lúc sắp mạng chung - Việc cực quan trọng cần làm: ông trưởng giả chắp tay cung kính hỏi Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có chúng sanh nào sau khi mạng chung mà hàng quyến thuộc kẻ lớn người nhỏ, đều vì người chết đó mà tu công đức, cho đến thiết trai, tạo những thiện nhân, thì người chết đó có được lợi ích lớn và được giải thoát chăng?"
Ðịa Tạng Bồ Tát đáp rằng: "Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại cùng vị lai, nương oai lực của Ðức Phật mà lược nói về việc đó.
Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, danh hiệu của một vị Bích Chi Phật, thì bất luận là có tội hay không tội, thảy đều được giải thoát cả."
Lược giảng:
Ông Trưởng Giả Ðại Biện bấy giờ chắp tay cung kính hỏi Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có chúng sanh nào sau khi mạng chung mà hàng quyến thuộc kẻ lớn người nhỏ, đều vì người chết đó mà tu công đức, cho đến thiết trai, làm cơm chay để cúng dường Tam Bảo, tạo những thiện nhân, gieo trồng những chủng tử thiện lành, thì người chết đó có được lợi ích lớn và được giải thoát chăng? Chẳng hay người chết đó có thể đạt được sự lợi ích to lớn, hoặc có thể thoát khỏi mọi nghiệp tội hay không?"
Ðịa Tạng Bồ Tát đáp rằng: "Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại cùng vị lai, nương oai lực của Ðức Phật mà lược nói về việc đó. Tôi sẽ mượn đại oai thần lực của Phật mà nói sơ lược đôi điều về việc đó!"
Quý vị xem! Bồ Tát Ðịa Tạng không nói là dùng sức oai thần của chính mình, mà lại nói là nương vào đại oai thần lực của Phật; đó là vì sao? Ðó là biểu thị lòng tôn kính của Ngài đối với Ðức Phật, và cũng chính vì thế mà lúc nào Ngài cũng nhắc đến Phật trước tiên.
Bồ Tát Ðịa Tạng nói tiếp: "Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, danh hiệu của một vị Bích Chi Phật hoặc Duyên Giác, thì bất luận là có tội hay không tội, thảy đều được giải thoát cả."
Tại sao lúc sắp mạng chung mà nghe được một danh hiệu của Phật, Bồ Tát, hoặc Bích Chi Phật, thì bao nhiêu tội chướng đều có thể tiêu trừ?
Lúc sắp mạng chung tức là lúc mà mạng căn của con người sắp sửa đoạn dứt. Mạng căn vốn do ba yếu tố là "noãn" (hơi ấm), "tức" (hơi thở), và "thức" (sự hiểu biết) hợp lại mà thành; con người chết, tức là mạng căn đứt đoạn. Mạng căn khi đoạn thì đầu tiên là cơ thể mất dần hơi ấm (noãn khí), kế đến là không còn hô hấp (tức), và sau đó là đến lượt thần thức ra đi. Ba thứ "noãn, tức, thức" đều đoạn hết, tức là mạng chung—mạng căn đã đứt, không còn nữa. Có câu:
“Chim sắp chết thì tiếng kêu bi thảm,
Người sắp chết thì lời nói thiện lành.”
(Ðiểu chi tương tử, kỳ điểu dã ai,
Nhân chi tương vong, kỳ ngôn dã thiện.)
Con người, khi sắp chết thì thiên lương trỗi dậy, lương tâm có thể nhận ra được những gì mình đã làm trong suốt một đời này, là đúng hoặc là không đúng. Ðó là một sự "phản tỉnh." Lúc bấy giờ, kẻ lâm chung chân chánh nhìn nhận những việc làm không đúng của mình; do đó mà sanh lòng ăn năn sám hối. Một khi đã khởi tâm sám hối rồi, thì cho dù chỉ nghe thấy danh hiệu của một đức Phật, một tôn Bồ Tát, hoặc một tôn Bích Chi Phật, cũng đều có thể diệt được vô lượng tội chướng, gieo trồng vô lượng thiện căn! Vì thế, lúc sắp mạng chung là một thời điểm tối quan trọng; đồng thời, đó cũng là thời điểm khó phát khởi thiện tâm cầu sám hối nhất!
Vì sao thường ngày chúng ta cần phải niệm Phật? Thường ngày niệm "Nam Mô A Di Ðà Phật," là chuẩn bị cho lúc lâm chung không bị quên mất. Nếu ngày ngày đều niệm Phật, thì đến lúc sắp mạng chung chúng ta sẽ không thể nào quên câu niệm Phật được. Nếu quý vị suy nghĩ một cách đơn giản, cho rằng đợi đến lúc sắp mạng chung rồi hãy niệm Phật, hãy sanh thiện tâm, thì e rằng tới lúc đó mới biết là không dễ dàng chút nào, và cũng đã quá muộn màng! Tuy nhiên, nếu lúc lâm chung mà sanh được thiện tâm thì vô cùng vi diệu— chỉ cần một niệm sám hối là có thể tiêu trừ hết thảy nghiệp tội! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Sắm và Bày lễ cúng dường bàn thờ Tam bảo - Bàn thờ Phật.
"Thì khi thức ăn chưa làm xong cùng trong lúc đang làm, chớ có đem nước gạo, lá rau đổ vung vãi nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dâng cúng cho Phật và chư Tăng thì chẳng được ăn trước." Trước lúc thọ trai hoặc sau khi làm xong các thức ăn, quý vị không nên tùy tiện đổ bỏ nước gạo và vất bỏ rau cải một cách bừa bãi. Lại nữa, khi các thức ăn chay đã nấu nướng xong, nếu chưa đem cúng Phật và chư Tăng chưa dùng tới, thì quý vị không được tự mình ăn trước. Do đó tại chùa chiền hoặc Phật Ðường, bất luận quý vị làm món ăn gì dể cúng dường, thì đều phải dâng lên cúng Phật trước. Thông thường, vào ngày đản sanh của Ðức Phật, thì mọi người nấu vài món ăn chay tinh khiết, thanh đạm để cúng dường Phật; sau khi cúng Phật xong thì mọi người mới cùng nhau ăn.
Ở Trung Hoa, cúng Phật thì thường là sắp ba chén cơm đầy và thức ăn trước tượng Phật, và cần phải sắp đặt cho đàng hoàng ngay ngắn, chứ không được tùy tiện để sang một bên, hoặc muốn đặt đâu thì đặt! Ví dụ, cúng ba chén cơm thì phải trang trọng đặt ngay ngắn ở chính giữa bàn thờ và ngay trước tượng Phật; ba chén nằm thẳng hàng, khoảng cách đều nhau, tươm tất trịnh trọng. Cúng trái cây cũng phải trịnh trọng như vậy. Phía trước tượng Phật, nơi để sắp đồ cúng, thì không được để đồ bừa bãi. Ðó là biểu thị lòng cung kính.
Nếu quý vị tùy tiện để đồ vật trên bàn thờ Phật tức là không cung kính Phật; vì sao? Lấy thí dụ, nếu quý vị để một đống đồ ngổn ngang, bừa bãi ngay trước mặt một người nào đó, thì hẳn nhiên là người ấy sẽ cảm thấy bực bội, không vui rồi! Nếu gặp những kẻ quen thói bê bối cẩu thả như heo như chó, thì không nói làm gì; song nếu nhằm người thích ngăn nắp sạch sẽ mà quý vị để đồ đạc lung tung trước mặt họ, thì họ sẽ bực bội ngay. Hơn nữa, Phật là một người thanh tịnh nhất, do đó việc quý vị đặt để các vật phẩm bừa bãi, thiếu tôn kính trước mặt Phật là điều không nên! Trước mặt Phật chỉ nên thiết đặt các cúng phẩm như hoa quả, thức ăn mà thôi, ngoài ra không nên có đồ gì khác.
Ngoài thông lệ dâng ba chén cơm và thức ăn cúng Phật, có khi người ta dâng cúng năm chén, bảy chén, chín chén, hoặc nhiều hơn nữa tùy theo tính cách của dịp lễ. Như vào dịp Lễ Cúng Thiên chẳng hạn—mấy cái bàn đặt trước mặt tượng Phật đều toàn là thức ăn chay được sắp đặt từng chén từng chén một rất đàng hoàng tươm tất, đâu ra đó cả; chứ không phải là dùng một cái bát thật lớn rồi bỏ chung mọi thứ vào đó để cúng, hoặc mua một hộp bánh rồi thờ ơ để lên bàn thờ cho xong chuyện, chẳng buồn mở ra, bởi như thế không phải là cúng Phật mà là ô nhục Phật! Các phẩm vật dâng cúng cho Phật thì phải được mở ra cho đàng hoàng, không nên để nguyên cả bao bì giấy gói như thế mà đặt trên bàn thờ; bằng không, đó không phải là cúng Phật! Ðây là những vấn đề mà tất cả mọi người đều nên biết. Nếu quý vị dâng đồ cúng trước tượng Phật mà không mở ra, chỉ thuận tay đặt bừa một gói trên bàn thờ rồi quay lưng bỏ đi, thì đó là một hành vi bất kính, vô lễ! Bởi cho dù đem thức ăn cho bất cứ một người nào, quý vị cũng không đến nỗi dằn mạnh cái chén trước mặt người đó rồi nói cộc lốc: "Nè, ăn đi!"; vì làm như thế người ta sẽ không ăn nổi!
Ở Trung Hoa có câu: " Người quân tử không ăn cơm thí” (Quân tử bất thực ta lai thực). Ngay cả đối với người ăn xin, khi quý vị cho họ chén cơm mà không nói được một câu tử tế: "Mời ông dùng tạm bát cơm này," thì họ cũng chẳng ăn đâu! Ðó gọi là " không ăn cơm thí" Thế thì, huống gì là việc cúng Phật? Có nhiều người để nguyên cả gói quà lên bàn thờ, không mở ra. Tôi bắt gặp rất nhiều lần như thế rồi, có điều tôi không có nhiều thì giờ để giảng về vấn đề này
Bây giờ Phật Giáo truyền bá đến phương Tây, quý vị cần phải biết về các nghi thức hành lễ. Các chén cơm Thượng Cúng (cúng ngọ) nhất định phải sắp cho ngay ngắn tươm tất, đúng nơi đúng chỗ, không được bạ đâu để đó, muốn đặt đâu thì đặt. Cúng hoa quả trái cây cũng vậy—bình hoa chưng trên bàn thờ cũng phải cân xứng, trang trọng; nếu đặt để không đúng vị trí, đáng lẽ ở góc này thì quý vị lại dời nó sang góc kia, thì sẽ không đẹp, thiếu cân đối. Mọi việc đều cần phải có quy củ phép tắc. Nếu nói rằng có quá nhiều quy củ như thế làm sao mà nhớ cho hết được ư? Không nhớ được thì quý vị khỏi phải tu hành! Bởi tu hành tức là ở mọi nơi mọi lúc đều phải đúng với giáo pháp, luôn luôn tuân theo khuôn phép, nền nềp.
Lại nữa, xuất gia thì có quy củ của xuất gia, tại gia thì có quy củ của tại gia. Vị đại đệ tử xuất gia trước nhất thì phải vâng lời Sư Phụ; kỳ dư, vị đệ tử thứ nhì phải nghe lời của đại đệ tử, vị đệ tử thứ ba thì phải nghe lời của đại đệ tử và nhị đệ tử, không được "mục vô sư trưởng," xem thường sư phụ cùng các sư huynh. Làm đại đệ tử mà không nghe theo sự giáo hóa của Sư Phụ, thì gọi là "mục vô sư trưởng," không xem ai ra gì cả! Còn vị nhị đệ tử thì nhất định phải nghe theo sự giáo hóa của sư huynh, không được khinh mạn sư huynh.
Nếu quý vị ở vào cương vị của vị tam đệ tử thì nhất định phải nghe lời của vị đệ tử thứ nhất và thứ nhì. Vị thứ nhất và vị thứ nhì sai bảo việc gì thì quý vị nhất định phải vâng lời; không vâng lời tức là không tuân quy củ. Không bảo quý vị làm gì cả thì quý vị phải nhất định đừng làm; bằng không, đó cũng là bất tuân quy củ vậy!
Trong đoàn thể Phật Giáo nhất định là có nhiều bậc sư trưởng, trưởng bối, quý vị không được "mục vô sư trưởng." Hễ quý vị xuất gia sau người ta dù chỉ một ngày thì quý vị cũng phải làm "sư đệ"; còn nếu quý vị xuất gia trước người ta một ngày thì quý vị sẽ thành "sư huynh." Người nào xuất gia trước thì người đó là lớn hơn, người nào xuất gia sau thì người đó vai vế nhỏ hơn. Bất luận là tuổi tác chênh lệch bao nhiêu, cho dầu quý vị có một trăm tuổi đi chăng nữa, mà xuất gia sau thì cũng phải là "sư đệ" như thường. Lại nữa, mặc dù quý vị mới một tuổi, song nếu xuất gia trước, thì quý vị sẽ thành "sư huynh."
Người xuất gia lấy ngày mình xuất gia làm ngày sinh nhật cho cuộc đời xuất gia của mình; rồi đến lúc lâm chung thì tính lại xem "tăng lạp" (tuổi xuất gia) của mình được bao nhiêu năm. Thí dụ, có người "thế thọ" là sáu mươi và "tăng thọ" là bốn mươi, có nghĩa là người ấy tuổi đời sống được đến sáu mươi tuổi và xuất gia được bốn mươi năm.
Ðặc biệt là lúc thọ Giới của người xuất gia—hễ ai thọ Giới trước thì người đó làm "sư huynh." Mặc dù là cùng đi thọ Giới với nhau, quý vị vẫn phải gọi người vừa bước lên đàn thọ Giới trước quý vị là "Giới huynh," và người thọ Giới trễ hơn quý vị là "Giới đệ." Tuy nhiên, trong Giới Ðàn thì mọi người đều xưng hô với nhau là "Giới huynh" cả. Quý vị gọi tôi là "Giới huynh," tôi cũng kêu quý vị là "Giới huynh"; không dùng danh xưng "Giới đệ" nữa. Ðó là vì mọi người đều lễ phép lịch sự, cho dù "Giới đệ" cũng được gọi là "Giới huynh."
Ngoài ra, những vị xuất gia làm "tiểu" Sa Di trong chùa, thì nhất định là phải nghe lời chỉ huy của các "đại" Sa Di; nếu không nghe theo tức là "phạm thượng," ngỗ nghịch bất hiếu, là "phạm thượng tác loạn" vậy. Quy củ của người xuất gia trong Phật Giáo thì rất chú trọng đến trật tự trên dưới, chứ không tùy tiện, suồng sã như người tại gia được.
Tôi bình thường cũng không có thì giờ để giảng về các quy củ cúng Phật, cho nên cũng xuề xòa, thấy tạm được thì cũng thông qua, để xem coi quý vị rốt ráo là ngu si hay có trí huệ! Nếu quý vị là người có trí huệ thì không cần phải đợi có người dạy bảo mới biết được. Từ trước tới nay không có ai dạy cho tôi cả, song tôi chỉ cần nhìn qua một thoáng là hiểu được ngay. Ðối với những kẻ ngu si, cho dù quý vị tận tâm dạy dỗ, thì họ cũng không thể nào nhớ được. Vì thế, qua cách xử sự mọi việc, trong mọi lúc, ở mọi nơi của một người đều thể hiện được là người đó có trí huệ hay không.
Như vậy, thức ăn chưa được dâng cúng cho Ðức Phật cùng chư Tăng, thì mọi người không được ăn trước. Do đó khi ăn uống ở chùa, cần phải đợi cúng Phật xong và người xuất gia cũng đã thọ dụng rồi, thì người tại gia mới nên cùng nhau ngồi ăn. Người tại gia tuyệt đối không được ăn trước người xuất gia. Không riêng gì việc cúng Phật, mà luôn cả việc cúng dường Tam Bảo, mọi người đều phải theo đúng phép tắc như thế.
"Nếu ăn trái phép và không được tinh sạch kỹ lưỡng, thì người chết đó trọn không được trợ lực nào cả." Giả sử quý vị không tuân giữ quy củ này mà ăn trước, hoặc là lúc nấu nướng lại cẩu thả lơ đễnh, không chú ý, không làm đàng hoàng, đó gọi là "bất tinh cần"—không được tinh sạch kỹ lưỡng. Cúng dường Tam Bảo thì không được lơ đễnh; bởi nếu quý vị cúng dường Tam Bảo một cách qua loa cẩu thả, thì người chết sẽ chẳng hưởng được một mảy phước nào cả.
"Nếu có thể kỹ lưỡng giữ gìn tinh sạch đem dâng cúng cho Phật cùng Tăng ..." Nếu quý vị có thể đặc biệt chú ý, hết sức cẩn thận giữ gìn những thức ăn này được tinh sạch, rồi cung cung kính kính đem dâng cúng cho Ðức Phật và chư Tăng, thì trong bảy phần công đức, người chết hưởng được một phần."
Năm ngoái chúng ta có tổ chức Lễ Truyền Cúng, hôm đó tất cả đại chúng đều quỳ xuống và cùng nhau dâng thức ăn cúng Phật. Những món ăn chay được múc ra từng dĩa hoặc chén, rồi mọi người tuần tự chuyền tay nhau dâng cúng và đặt lên bàn thờ Phật. Chùa đã thận trọng nấu nướng nhiều món chay để cúng Phật; có tới cả trăm món khác nhau được đặt trong các khay vuông để mọi người chuyền tay nhau dâng cúng. Cũng có khi người ta dâng cúng Phật các xâu chuỗi tràng hạt hoặc y phục.
Bất cứ thứ gì cũng có thể cúng dường cho Phật được cả; có điều, đó phải là đồ mới, tốt đẹp, chứ không được đem những thứ mà mình không thích hoặc cũ kỹ hư hoại dâng cúng cho Phật! Như có một người nọ, ông ta mua bó rau mùi đến cúng dường Tam Bảo, thế mà ông ta lặt lấy phần tươi tốt để ở nhà dùng, rồi đem phần già và dai đến cúng dường tôi, để tỏ ra rằng ông ta cũng biết cúng dường—như thế thì hoàn toàn chẳng được chút công đức nào cả.
Vậy, nếu quý vị có thể vì người chết mà chuẩn bị các món ăn chay một cách thận trọng, tinh khiết để cúng dường cho Phật cùng chư Tăng, thì trong bảy phần công đức, người chết sẽ hưởng được một phần, kỳ dư, sáu phần còn lại thì thuộc về người sống.
"Này ông Trưởng Giả! Vì thế nên những chúng sanh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người quyến thuộc chết, nếu có thể thiết trai cúng dường, chí tâm cầu khẩn, thì những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều được lợi ích cả." "Thiết trai" tức là thiết lập, bày biện các thức ăn chay để cúng dường Tam Bảo. "Chí tâm" tức là thành khẩn, thiết tha đến cực điểm, không có gì hơn được nữa.
Chính vì những lý do nói trên, cho nên tất cả chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề nếu có thể vì cha mẹ hoặc bà con thân thích của mình đã qua đời mà làm chay để cúng dường Tam Bảo và thiết tha dốc lòng cầu khẩn, thì chẳng những người còn sống được sự lợi ích, mà luôn cả người đã chết cũng được lợi lạc.
Nói lời này xong, tại cung trời Ðao Lợi có ngàn muôn ức na-do-tha quỷ thần của cõi Diêm Phù Ðề đều phát tâm Bồ Ðề vô lượng. Lúc Ðịa Tạng Vương Bồ Tát dứt lời, đông đảo quỷ thần của thế giới Diêm Phù hiện diện tại Ðao Lợi thiên cung đều phát tâm A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
Ông Trưởng Giả Ðại Biện làm lễ mà lui ra. Ông Trưởng Giả Ðại Biện hướng về Bồ Tát Ðịa Tạng mà cúi lạy, hướng về Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng cúi đầu đảnh lễ, rồi lui vào đứng sang một bên.
Người xuất gia, không chỉ có đệ tử lạy Sư Phụ, mà ngay cả sư đệ cũng nên lạy sư huynh. Ðừng như người Mỹ, cha mẹ anh em đều không tương can, chẳng ai để ý tới ai cả. Chúng ta không nên như thế. Làm thân sư đệ thì phải như vậy, ai biểu quý vị chịu làm sư đệ làm chi? Ai biểu quý vị xuất gia trễ, sau người khác làm chi? Quý vị xuất gia sau thì phải làm sư đệ, mà sư đệ thì phải kính trọng sư huynh; không kính trọng sư huynh tức là phạm sai lầm, phạm quy củ của Phật đã dạy, về sau sẽ bị lửa thiêu chết! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Công đức bố thí cúng dường kẻ số người chết
"Như có người nam hoặc người nữ nào, lúc sống đã không tu thiện nhân mà lại tạo nhiều nghiệp tội, sau khi mạng chung lại được hàng quyến thuộc vì người chết mà tu tạo phước lợi lớn nhỏ; thì tất cả Thánh sự, trong bảy phần công đức, người chết được một phần, còn sáu phần thuộc về người sống hiện lo tu tạo đó.
Vì thế cho nên, các thiện nam thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng tự tu hành, thì được hưởng trọn phần công đức.
Ðại quỷ Vô Thường không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ, chưa rõ là tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở tại các ty sở để biện luận về nghiệp quả, sau khi thẩm định xong thì cứ y theo nghiệp mà thọ sanh.
Trong lúc chưa biết ra sao đó thì đã ngàn muôn sầu khổ, huống là phải bị đọa vào các ác đạo!
Người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục quyến thuộc tu tạo phước lực để cứu vớt cho. Quá ngày ấy rồi thì cứ theo nghiệp mà thọ báo.
Nếu là tội nhân thì phải trải qua trong trăm ngàn năm, không có ngày được giải thoát; còn nếu là tội Ngũ Vô Gián thì phải đọa vào đại địa ngục, chịu mãi những sự đau khổ trong ngàn kiếp muôn kiếp."
"Lại nữa, này ông Trưởng Giả! Sau khi những chúng sanh gây nghiệp tội như thế mạng chung, hàng cốt nhục quyến thuộc vì họ mà làm chay cúng dường để trợ giúp nghiệp đạo, thì khi thức ăn chưa làm xong cùng trong lúc đang làm, chớ có đem nước gạo, lá rau đổ vung vãi nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dâng cúng cho Phật và chư Tăng thì chẳng được ăn trước.
Nếu ăn trái phép và không được tinh sạch kỹ lưỡng, thì người chết đó trọn không được trợ lực nào cả.
Nếu có thể kỹ lưỡng giữ gìn tinh sạch đem dâng cúng cho Phật cùng Tăng, thì trong bảy phần công đức, người chết hưởng được một phần.
Này ông Trưởng Giả! Vì thế nên những chúng sanh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người quyến thuộc chết, nếu có thể thiết trai cúng dường, chí tâm cầu khẩn, thì những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều được lợi ích cả."
Nói lời này xong, tại cung trời Ðao Lợi có ngàn muôn ức na-do-tha quỷ thần của cõi Diêm Phù Ðề đều phát tâm Bồ Ðề vô lượng.
Ông Trưởng Giả Ðại Biện làm lễ mà lui ra. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu hộ người thân còn sống hay đã chết
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Sau khi Ta diệt độ, trong đời ác năm trược, nếu có chúng sanh nào sau khi mạng chung, lại được hàng quyến thuộc vì người chết ấy mà tu tạo các phước lành từ 7 ngày cho đến 49 ngày, thì trong bảy phần công đức, người chết chỉ được một phần. Nhưng nếu có thể trong 49 ngày ở lúc sanh thời, họ ngưng tất cả chuyện nhà để biên chép Kinh này, rồi cúng dường hương hoa, đảnh lễ Phật, và thỉnh chư Tăng đến để thiết chay cúng dường bảy lần, thì công đức có được sẽ nhiều như cát sông Hằng. Ở đời hiện tại, người ấy sẽ được trường thọ và vĩnh viễn lìa xa khổ ách của ba đường ác. Còn nếu người ấy đã chết, người thân cốt nhục có thể mang tài sản của họ mà tu tạo phước đức, thì người chết sẽ hưởng trọn bảy phần công đức. (Nguồn: Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé)
+ Tu họ người bị ác nghiệp sâu dầy nằm liệt giường - Sống dở chết dở:
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu trong đời sau có người nam hay người nữ nào nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay cầu chết đều không được, hoặc đêm mộng thấy ác quỷ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc đi trên đường hiểm, hoặc nhiều lần bị bóng đè, hoặc cùng quỷ thần dạo chơi..."
"Trải qua nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm, trở nên gầy mòn, lao sái; trong giấc ngủ kêu gào khổ sở, thảm thiết không vui. Ðây đều là do nơi nghiệp đạo còn đang luận đối, chưa quyết định là nhẹ hay nặng, nên hoặc là khó chết, hoặc là khó lành.
Mắt phàm tục của kẻ nam, người nữ không thể biện rõ việc đó, chỉ nên đối trước tượng của chư Phật, chư Bồ Tát, lớn tiếng đọc tụng Kinh này một biến; hoặc lấy những vật ưa thích của người bệnh như y phục, đồ quý báu, nhà cửa, ruộng vườn..., đối trước người bệnh mà lớn tiếng xướng rằng:
‘Chúng con, tên đó họ đó, xin vì người bệnh này mà đối trước kinh, tượng, thí xả những vật này để hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo hình tượng của Phật, Bồ Tát, hoặc xây dựng chùa tháp, hoặc sắm đèn dầu thắp cúng, hoặc cúng vào Thường Trụ.’
Xướng lên như vậy ba lần để cho người bệnh được nghe biết.
Giả sử các thức của người bệnh đã phân tán, đến hơi thở đã dứt, thì hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến bảy ngày, cứ lớn tiếng xướng bạch như trên và lớn tiếng tụng Kinh này. Sau khi người bệnh đó mạng chung, thời dẫu cho từ trước có tội nặng, thậm chí năm tội Vô Gián, cũng được thoát khỏi hẳn, thọ sanh nơi nào cũng thường nhớ biết việc đời trước.
Huống nữa là người thiện nam, người thiện nữ nào tự mình biên chép Kinh này, hoặc bảo người biên chép, hoặc tự mình đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát, cho đến bảo người khác đắp vẽ, thì quả báo mà người đó thọ nhận tất được lợi ích lớn.
Vì thế, Phổ Quảng, nếu thấy có người nào đọc tụng Kinh này, cho đến chỉ trong một niệm tán thán Kinh này hoặc tỏ lòng cung kính, thì ông phải dùng trăm ngàn phương tiện khuyến hóa người đó phát lòng siêng năng, chứ đừng thối thất, thì sẽ được trăm ngàn vạn ức công đức không thể nghĩ bàn ở hiện tại và vị lai." (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Vì người sắp mạng chung: "Bạch Ðức Thế Tôn! Những chúng sanh tập khí xấu ác, bắt đầu từ mảy mún rồi lần đến nhiều vô lượng.
Ðến khi những chúng sanh có tập khí như thế sắp sửa mạng chung, thì cha mẹ cùng quyến thuộc nên vì họ mà tạo phước đức, để giúp cho lộ trình phía trước của họ. Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc tôn kinh, hoặc cúng dường tượng Phật cùng tượng của chư Thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật, Bồ Tát cùng Bích Chi Phật, làm cho mỗi danh mỗi hiệu đều thấu vào nhĩ căn của người sắp mạng chung, hoặc nơi bổn thức nghe biết.
Các chúng sanh đó, cứ theo nghiệp ác đã gây tạo mà suy lường quả báo chiêu cảm, tất phải đọa vào ác đạo; song nhờ quyến thuộc vì kẻ lâm chung mà tu nhân Thánh này, các tội đó thảy đều tiêu sạch.
Như sau khi người ấy đã chết, nếu lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thì có thể làm cho người chết đó vĩnh viễn xa lìa chốn ác đạo, được sanh vào cõi trời hoặc cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu; quyến thuộc hiện tại cũng được vô lượng lợi ích."
Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, danh hiệu của một vị Bích Chi Phật, thì bất luận là có tội hay không tội, thảy đều được giải thoát cả."
Con người, khi sắp chết thì thiện lương trỗi dậy, lương tâm có thể nhận ra được những gì mình đã làm trong suốt một đời này, là đúng hoặc là không đúng. Ðó là một sự "phản tỉnh." Lúc bấy giờ, kẻ lâm chung chân chánh nhìn nhận những việc làm không đúng của mình; do đó mà sanh lòng ăn năn sám hối. Một khi đã khởi tâm sám hối rồi, thì cho dù chỉ nghe thấy danh hiệu của một đức Phật, một tôn Bồ Tát, hoặc một tôn Bích Chi Phật, cũng đều có thể diệt được vô lượng tội chướng, gieo trồng vô lượng thiện căn! Vì thế, lúc sắp mạng chung là một thời điểm tối quan trọng; đồng thời, đó cũng là thời điểm khó phát khởi thiện tâm cầu sám hối nhất! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Linh hồn - Phật giáo gọi là Thức/ Nghiệp Thức: Thức - Đi đầu thai; gồm có 9 thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức và 7 là: Mạt na Thức; 8 là: A Lại Gia Thức là năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực; 9 là Thanh Tịnh Thức/ Như Lai Tạng Thức ...là Thức thanh tịnh, vô nhiễm (Sự tái sinh của Linh hồn)
+ A Lại Gia Thức hay Tàng Thức: Hãy nghe lời giải thích của Bồ tát Thế Thân về A-lại-da thức như sau: “Dòng chảy của các biến cố tâm thần mà bạn trải nghiệm, để lại hạt mầm (chủng tử) của nghiệp trong thức lưu trử nên gọi là Tàng thức (A-lại-da thức). Các hạt mầm được tồn trử trong nhà kho đó cho tới sau cùng, khi hội đủ các điều kiện thích đáng, chúng chín muồi và rồi ảnh hưởng lên các biến cố về sau”. - A-lại-da thức chứa đựng mọi kinh nghiệm trong kiếp sống của mỗi con người và nguồn gốc của tất cả các quan niệm tinh thần. Theo quan niệm của Pháp tướng tông thì A-lại-da thức là nơi tập hợp mọi nghiệp quá khứ rồi tới một thời đểm nhất định, tác động lên kiếp tái sinh. Và cá thể thật ra chỉ là dòng sinh diệt tiếp nối của vô số chủng tử của nghiệp. Do đó, trong ta không có một bản ngã cố định....... (Nguồn: Sự tái sinh của Linh hồn)
+ 684. THỨC VÀ DANH SẮC - Thế Tôn Hỏi, A Nan đáp
- Thức không vào thai mẹ mà chỉ có danh sắc, thì có thành thân này chăng? Đáp: Không
- Thức mới vào thai, liền ra tức khắc thì danh sắc hợp với tinh chăng? Đáp: Không
- Thức của trẻ nhỏ, con trai hay con gái, bị đoạn hoại không còn, thì danh sắc tăng trưởng dần được chăng? Đáp: Không
=> A-nan, cho nên biết rằng Nhân/ Tập khởi/ Bản/ Duyên của Danh Sắc gọi đó là thức. Vì duyên thức nên có danh sắc.
- Nếu thức không có danh sắc, nếu thức không an lập, không dựa vào danh sắc thì thức có sanh, có già, có bệnh, có chết, khổ chăng? Đáp: Không. (Nguồn: mục 684- Tại đây)
+ A lại gia thức (Alaya, tàng thức, toàn linh thức, Alaya Vijnana): - Alaya Vijnna tức là tri thức ẩn tàng (hidden knowledge). (Thư của Ch. S. 361)
+ Đại Hồn (Master–Soul) là Alaya, linh hồn vũ trụ hay Atma, mỗi con người đều có trong mình một tia (ray) của nó và được giả định là có thể đồng nhất hóa chính mình với nó và hòa hợp chính mình vào nó. (LVLCK, 137)
+ Thứ Thứ 8 - Phát Quang minh/ Ánh sáng: Trích đoạn Phật bảo A Nan ...
A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng.
Giảng giải:
Vậy nên, do giáo lý đã được giải thích ở đoạn trên, là không cần phải soi lại tánh giác minh; chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà tánh giác ấy biến thành vọng giác và vọng minh– kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
* Thức thứ 8: HT Tuyên Hóa giảng: Phật tánh là tự tánh mà mỗi chúng sinh đều vốn có đầy đủ. Am-ma-la thức là vô cấu thức. Trước khi giác ngộ, thức nầy gọi là thức thứ tám, tức A-lại-da thức, có nghĩa là tàng thức, tên gọi cho ta biết trong đó chứa đựng mọi thứ. Am-ma-la thức là sự chuyển hoá của thức thứ tám thành thanh tịnh thức. Không Như Lai tạng là một tên gọi khác và Đại viên cảnh trí cũng chỉ là một tên. Bảy danh hiệu ấy tên gọi tuy khác, dù trong quả địa danh xưng có khác, mà thể tánh thanh tịnh. Mà đạo lý của nó, về phương diện bản thể, vẫn là thanh tịnh viên mãn vững chắc như kim cương vương, thường trụ bất hoại. Không bao giờ bị biến hoại. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương V)
+ Linh Hồn: Lên gọi là Linh Tánh (PS Tịnh Không)
+ Linh hồn - Phật giáo gọi là Thức/ Nghiệp Thức: Thức thứ 8 đi đầu thai. Gồm có 9 thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức và 7 là: Mạt na Thức; 8 là: A Lại Gia Thức là năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực; 9 là Thanh Tịnh Thức/ Như Lai Tạng Thức ... là Thức thanh tịnh, vô nhiễm; (Nguồn: Sự tái sinh của Linh hồn)
+ Thức thứ tám - Bổn thức hay Thần thức: "Bổn thức" hay "thần thức," là chỉ cho Thức Thứ Tám (đệ bát thức). Thức Thứ Tám này thì "khứ hậu lai tiên," đến trước nhưng lại đi sau; do đó có bài kệ nói rằng:
Tam Tàng mênh mông không cùng tận,
Vực sâu bảy sóng đùa trước gió,
Giữ gìn chủng tử căn thân khí,
"Ðến trước đi sau," làm "ông chủ"!
“Tam Tàng mênh mông không cùng tận”,(Hạo hạo Tam Tàng bất khả cùng.) "Hạo hạo" có nghĩa là rộng lớn, mênh mông. "Tam Tàng" là chỉ cho Thức Thứ Tám—tức là A-lại-da thức, hay còn gọi là "tàng thức" (thức chứa). Vì sao gọi là "Tam Tàng"? "Tam Tàng" ngụ ý rằng các chủng tử của ba đời —quá khứ, hiện tại và vị lai—đều được tàng trữ, giữ lại trong Thức Thứ Tám này. Các chủng tử ấy—niệm tâm của chúng ta—ví như những đợt sóng trên biển cả vậy, vô cùng vô tận, nên nói là "bất khả cùng."
“Vực sâu bảy sóng đùa trước gió " (Uyên thâm thất lãng cảnh tiền phong) " bảy sóng” (thất lãng) là chỉ cho Thức Thứ Bảy. Thức Thứ Bảy còn được gọi là "truyền tống thức," vì thức này có chức năng chuyển đạt ý tứ của sáu thức trước tới cho Thức Thứ Tám. "cảnh trước gió” (cảnh tiền phong)—tức là giống như ngọn gió từ phía trước thổi tới.
“Giữ gìn chủng tử căn thân khí " (Thọ huân trì chủng căn thân khí") Do vì Thức Thứ Tám nhận sự "truyền tống," chuyển giao ý tứ từ Thức Thứ Bảy, nên gọi là "giữ “ (thọ huân.) "gìn chủng tử” (trì chủng) có nghĩa là gìn giữ các chủng tử ở bên trong. "Căn thân khí" tức là "căn thân khí giới" đều ở trong các chủng tử đó. Thức Thứ Tám có công năng duy trì chủng tử của tất cả các pháp, thân căn, thế giới.
"Ðến trước đi sau," làm "ông chủ"! (Khứ hậu lai tiên tác chủ ông). Con người, khi sanh ra thì Thức Thứ Tám đến trước nhất, và lúc chết thì Thức Thứ Tám là thức đi sau cùng. Quý vị khởi vọng tưởng muốn làm điều gì thì đều do Thức Thứ Tám làm chủ tể ủng hộ, trợ giúp; cho nên nói thức này là "Ðến trước đi sau," làm "ông chủ"!
Trong phần kinh văn này, "bổn thức" là chỉ cho Thức Thứ Tám. Khi vừa mới chết, tuy các thức đã phân tán, đã rời khỏi xác thân rồi—nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức đều không còn—song Thức Thứ Tám thì vẫn còn nán lại, chưa đi hẳn. Ngay lúc này, nếu quý vị vì người chết mà tụng Kinh niệm Phật hoặc làm việc công đức, thì phải lớn tiếng tụng niệm và kể ra để cho Thức Thứ Tám của người ấy nghe biết—đó gọi là "nơi bổn thức nghe biết" (văn tại bổn thức) vậy. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Giúp người lâm chung - Hại người lâm chung
"Vì lẽ đó nên nay con đối trước Ðức Phật Thế Tôn, cùng Thiên Long Bát Bộ, nhân và phi nhân v.v... mà khuyên bảo các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề: Vào ngày lâm chung, cần phải cẩn thận, chớ giết hại và chớ gây tạo ác duyên, cũng đừng bái tế quỷ thần, cầu xin vọng lượng.
Vì sao thế? Vì việc sát hại cho đến tế bái đó không có mảy may năng lực lợi ích cho người mất, mà chỉ kết thêm tội duyên, làm cho thâm trọng hơn thôi.
Giả sử người chết đó, trong đời vị lai hoặc hiện tại sanh, đắc được phần Thánh Quả, sẽ sanh vào cõi trời, cõi người; nhưng vì lúc lâm chung bị hàng quyến thuộc gây tạo ác nhân, làm cho người chết cũng mắc lấy ương lụy, phải đối biện, chậm sanh vào chốn tốt lành.
Huống chi là người sắp chết lúc sống chưa từng có chút thiện căn, phải y theo bổn nghiệp mà tự đọa ác đạo! Hàng quyến thuộc nỡ nào làm tăng nghiệp tội của người ấy?!
Ví như có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, lại vác theo đồ vật nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận gởi ít món đồ nữa, vì thế mà càng khốn đốn, nặng nề thêm."
Lược giảng:
Ðịa Tạng Vương Bồ Tát lại bạch tiếp: "Vì lẽ đó nên nay con đối trước Ðức Phật Thế Tôn, cùng Thiên Long Bát Boä— Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già—nhân và phi nhân v.v... mà khuyên bảo các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề, vào ngày lâm chung, cần phải cẩn thận, chớ giết hại và chớ gây tạo ác duyên, đừng gây ra những nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng bái tế quỷ thần, cầu xin vọng lượng, cũng không nên tế lễ cầu xin nơi những quỷ thần, ngoại đạo, cùng tất cả sơn yêu thủy quái." (Vọng lượng là thuộc loài sơn tinh thủy quái.)
Giảng đến đây, tôi nhớ có một bài kệ nói rằng:
Có người mê muội chẳng an khang,
Hứa giết heo dê tế quỷ thần,
Oan nghiệp sát sanh bao đời trước,
Khác nào trên tuyết phủ thêm sương?
Chớ tưởng heo dê thú vật mãi,
Hình dung biến đổi đã muôn lần,
Luân hồi xoay chuyển vay rồi trả,
Ðất trời lồng lộng trốn được đâu!
“Có người mê muội chẳng an khang,” (Hữu đẳng mê nhân bất an khang). Ở đây, "chẳng an khang" tức là bất ổn, không ổn thỏa, làm không được tốt.
“Hứa giết heo dê tế quỷ thần,” (Ðối thần kỳ hứa tái trư dương). Ở Trung Hoa có một phong tục sai lầm mà chúng ta không hề thấy xảy ra ở các nước phương Tây. Người Trung Hoa thường gọi việc tang ma cho người chết là "bạch sự" (việc trắng), còn việc kết hôn là "hồng sự" (việc đỏ). "Bạch sự" tức là "tang sự," là chuyện buồn; "hồng sự" thì là "hỷ sự," là chuyện vui. Bất luận là trong nhà gặp phải tang sự hay hỷ sự, người ta đều giết heo giết dê để cúng tế quỷ thần; hoặc muốn cầu xin thần linh việc gì đó, họ cũng đem gà đem vịt đến tế lễ. Quý vị chưa thấy cảnh người ta đem gà đến các nơi như miếu Thành Hoàng để cúng tế sao? Hạng người này chính là " mê muội chẳng an khang "—do mê tín, chẳng hiểu quy củ phép tắc nên không thấy "an khang," và vì thế mà làm việc gì cũng không thỏa đáng, không hợp lý cả!
Vậy, những kẻ ngu muội mê tín đó đến trước tượng của thần linh mà vái van cầu khẩn: "Xin Ngài phù hộ cho cha (hoặc mẹ, hoặc anh, hoặc em...) của con sau khi chết không bị đọa địa ngục; được vậy thì vài hôm nữa con sẽ giết heo, giết dê và đem đến cúng tế cho Ngài, để Ngài thọ dụng." Họ đem heo đem dê tới để "đánh bạc" với quỷ thần!
"Oan nghiệp sát sanh bao đời trước” (Sát sanh oan nghiệp tiền sanh sự") . "Sát sanh" là một thứ nghiệp oán thù. Ðời trước, quý vị đã có sát sanh, đã từng gây tạo oan nghiệp; nay trong đời hiện tại nếu quý vị lại tiếp tục sát sanh nữa, thì thế nào? Thì chẳng khác nào trên tuyết lại phủ thêm một lớp sương nữa vậy!
“Khác nào trên tuyết phủ thêm sương?” (Như hà tuyết thượng hựu gia sương?") Có tuyết xuống thì trời đã rét lạnh rồi, thế mà bây giờ lại thêm một lớp sương nữa, thì thời tiết lại càng băng giá, rét lạnh thêm nhiều; tương tự như thế, đời trước quý vị đã từng gây oan nghiệp rồi, nay lại tiếp tục tạo tội thì oan nghiệp lại càng chồng chất thêm vậy.
“Chớ tưởng heo dê thú vật mãi,” (Hưu vật nhận định thị trư dương) . Quý vị chớ nên cố chấp, khăng khăng cho rằng loài vật muôn kiếp vẫn là loài vật, đừng tưởng rằng heo mãi mãi là heo và dê mãi mãi vẫn là dê!
“Hình dung biến đổi đã muôn lần,” (Cải đầu hoán diện kỷ thiên trường) . Con người có thể đầu thai làm heo, và heo cũng có thể thác sanh làm người.
Quý vị có nhận thấy không? Dân tộc nào thích ăn thịt heo thì dân tộc đó đều có vẻ hao hao giống heo; quốc gia nào thích ăn thịt bò thì dân chúng trong quốc gia đó đều có cặp mắt từa tựa như mắt bò. Có nơi thì dân chúng đều không thích thịt heo hay thịt dê, mà chỉ thích ăn ếch nhái nên toàn quốc ai nấy đều có cặp mắt tương tự như mắt ếch vậy. Nói tóm lại, người dân của một nước mà thích ăn thịt của loài động vật nào, thì dân chúng trong nước đều có những nét đặc trưng giống loài động vật đó; cho nên, mỗi quốc gia đều có một chủng loại riêng biệt!
“Luân hồi xoay chuyển vay rồi trả,” (Như xa luân chuyển tương hoàn báo). Chúng ta vẫn như cái bánh xe, cứ tiếp tục lăn chuyển, tuần hoàn vay trả.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép rằng: "Dương phục vi nhân," có nghĩa là "dê lại làm người." Dê có thể làm người, thế thì heo không thể làm người sao? Chẳng những heo, dê có thể làm người, mà bất cứ sinh vật nào cũng đều có thể làm người được cả; đó chẳng qua chỉ là một sự "đổi xác" mà thôi. Một khi đã thay đổi thể xác rồi, thì quý vị sẽ không thể nhận ra được nữa. Linh tánh từ thân người có thể "dọn" sang thân heo, và linh tánh từ thân heo cũng có thể "dọn" sang thân người—người và vật đều có thể hỗ tương "dọn nhà" như thế. Hiện tại chúng ta được làm người, thì có thể ví như chúng ta đang ở nơi nhà cao cửa rộng; và đến khi chúng ta chạy vào con đường làm heo làm dê, thì chẳng khác nào đang từ nhà cao cửa rộng mà dọn sang nhà tranh vách đất, hoặc một nơi tồi tàn lụp xụp nhất để ở vậy; cho nên nói "như xa luân chuyển tương hoàn báo."
“Ðất trời lồng lộng trốn được đâu!” (Vân hải đằng không vô xứ tàng) . Kẻ không hiểu rõ thì cho rằng chúng sanh là mỗi loài mỗi khác; còn người đã đắc Túc Mạng Thông thì biết rằng giữa con người và các loài chúng sanh có một mối quan hệ liên đới. Trong âm thầm lặng lẽ, và cho dù ở những nơi mà con người không nhìn thấy được, như ngoài biển cả hoặc trong hư không, chẳng ai trốn thoát được nhân quả, mà cũng chẳng có chỗ nào để ẩn thân hầu trốn tránh nhân quả được cả! Luật Nhân Quả vĩnh viễn tồn tại trong khắp cõi hư không, thái không. Bởi "gieo nhân nào thì gặt quả nấy," cho nên nếu sát sanh thì phải chịu sự báo ứng của sát sanh. Quý vị gây tạo bất cứ nghiệp gì thì nghiệp đó đều tồn tại và chiêu cảm sự báo ứng; vì vậy không nên cầu xin nơi loài vọng lượng hoặc yêu tinh quỷ thần.
Bấy giờ, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát nói tiếp: "Vì sao thế? Vì việc sát hại cho đến tế bái đó không có mảy may năng lực lợi ích cho người mất." Việc hàng quyến thuộc của người chết giết heo giết dê để cúng tế các ác quỷ tà thần, chẳng mang lại chút năng lực nào có thể trợ giúp hoặc làm lợi ích cho người ấy cả; "mà chỉ kết thêm tội duyên, làm cho thâm trọng hơn thôi!" Việc sát sanh và tế lễ đó chỉ khiến cho tội chướng của người chết càng sâu nặng thêm mà thôi!
"Giả sử người chết đó, trong đời vị lai hoặc hiện tại sanh, đắc được phần Thánh Quả, sẽ sanh vào cõi trời, cõi người." Người ấy đã từng làm những việc công đức nên được phước báo, đáng được sanh vào cõi người hoặc cõi trời.
"Nhưng vì lúc lâm chung bị hàng quyến thuộc gây tạo ác nhân, gieo trồng ác nghiệp, làm cho người chết cũng mắc lấy ương lụy, phải đối biện."
"Ương lụy" tức là liên lụy, ảnh hưởng, làm cho kết quả trở thành không tốt đẹp.
Ở đây, "đối biện" tức là đối chất biện luận với Diêm La Vương. Ví dụ, Diêm La Vương có thể phán bảo: "Hiện nay người nhà của ông đã vì ông mà giết rất nhiều heo để cúng tế quỷ thần rồi đấy!"
Bấy giờ, người chết kia hẳn sẽ tự bào chữa: "Việc đó không liên quan gì tới tôi cả. Tôi nào có bảo họ giết heo giết bò gì đâu! Ðó là họ tự ý làm, tôi làm sao ngăn cản họ được!" Ðáng tiếc là ở địa ngục không có luật sư biện hộ, thành ra tự mình phải bào chữa cho mình vậy!
"Chậm sanh vào chốn tốt lành." Lẽ ra, người ấy đáng được sanh lên cõi trời sớm hơn, nhưng vì còn phải mất thì giờ để biện luận, nên việc vãng sanh bị chậm trễ rất nhiều.
"Huống chi là người sắp chết lúc sống chưa từng có chút thiện căn, phải y theo bổn nghiệp mà tự đọa ác đạo! Hàng quyến thuộc nỡ nào làm tăng nghiệp tội của người ấy?!" Trong trường hợp kẻ lâm chung trước kia chưa từng tạo được chút phước lành nào cả, thì căn cứ theo ác nghiệp đã gây ra, kẻ ấy phải đọa vào đường ác; thế thì, những bà con thân thích sao còn nhẫn tâm làm cho nghiệp tội của người đó nặng nề thêm? Cho nên, quý vị đừng vì người chết mà sát sanh, hoặc làm những việc tàn ác; mà hãy ăn chay, niệm Phật, tụng Kinh hồi hướng cho họ.
Ở đây có một tỷ dụ; tỷ dụ như thế nào? "Ví như có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày. Ðã ba hôm rồi người ấy chưa được ăn uống gì cả, thế mà lại vác theo đồ vật nặng hơn trăm cân. Ðã vậy, người đó bỗng gặp kẻ lân cận gởi ít món đồ nữa, vì thế mà càng khốn đốn, nặng nề thêm."
Tỷ dụ này ngụ ý rằng người đó vốn đã có tội rồi, lẽ ra hàng quyến thuộc nên vì người đó mà làm việc phước thiện hầu giảm bớt nghiệp tội; thế nhưng họ chẳng những không làm việc phước lành, mà còn nhân danh người đó để giết hại chúng sanh nữa!
Trong tỷ dụ trên, người từ xứ xa đến nọ vốn đã ba ngày trời không ăn không uống, trên lưng lại phải vác đồ rất nặng, cho nên đã kiệt sức, đi không muốn nổi rồi; thế mà hàng xóm lân cận lại còn gởi thêm vài món đồ nữa, vì vậy càng nặng và vất vả hơn trước nhiều. Ðiều này biểu thị cho việc người đó vốn đáng tội phải đọa địa ngục rồi, quý vị lại còn vì người đó mà sát sanh hại vật, gây thêm tội lỗi nữa, cho nên thời gian người đó phải ở trong địa ngục càng lâu dài hơn; vì thế mà nói là "càng khốn đốn, nặng nề thêm."
Trong tỷ dụ trên, "đồ vật nặng" là dụ cho Ngũ Uẩn; "nặng hơn trăm cân" là dụ cho Thập Ác; "kẻ lân cận" là chỉ cho gia quyến của người chết; "gởi ít món đồ nữa" là chỉ cho việc quyến thuộc vì người chết mà giết hại heo dê, làm cho nghiệp tội của người đó càng thâm trọng thêm. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Con người tạo nghiệp - Nhân loại tạo nghiệp:
Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong cõi Diêm Phù, cử tâm động niệm không chi là chẳng phải tội. Họ từ bỏ những thiện lợi có được và phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu, nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Những hạng người này như kẻ đi trong bùn lầy mà còn mang đá nặng, nên càng khốn đốn, nặng thêm dần, chân càng lún xuống sâu.
Nếu được gặp hàng Tri Thức thì sẽ được gánh vác giùm bớt, hoặc gánh hết cho. Vì hàng Tri Thức đó có sức rất mạnh, lại dìu đỡ, khuyến khích làm cho mạnh chân lên. Nếu đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thì phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy, không đi vào đó nữa."
Lược giảng:
Lúc đó, khi nói phẩm thứ bảy "Lợi Ích Cho Cả Kẻ Còn Người Mất" này, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong cõi Diêm Phù, cử tâm động niệm không chi là chẳng phải tội."
"Cử tâm động niệm" tức là trong lòng dấy khởi vọng tưởng, tâm trí dao động xôn xao. "Cử" có nghĩa là dấy lên, làm nổi dậy. Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề thường khởi những tâm niệm gì? Họ thường khởi tà niệm, dục niệm, tham niệm! "Ðộng niệm" tức là sanh lòng ích kỷ, đố kỵ, ganh ghét, chướng ngại.
Có nhiều người hễ thấy ai hơn mình thì sanh lòng ganh ghét, còn gặp kẻ thua mình thì lại có tâm coi thường. Bởi họ cho rằng người ta rất ngu xuẩn, không giỏi giang tài trí bằng họ, nên đem lòng khinh rẻ người ta; rồi đến khi gặp người nào thông minh tài giỏi hơn họ thì họ lại sanh lòng tỵ hiềm, ghen ghét. Quý vị xem, như thế thì phải làm sao?
Ðối với kẻ ngu si kém cỏi thì quý vị chớ nên cất nhắc đề bạt; và đối với người thông minh trí tuệ thì quý vị cũng đừng ganh ghét tỵ hiềm. Ðáng lý ra, đối với những kẻ u mê ngu tối thì chúng ta cần phải phát tâm giáo hóa, giúp họ mở mang trí tuệ, khiến họ trở nên thông minh sáng suốt mới đúng; tuy nhiên, phần nhiều chúng ta lại không chịu làm như thế!
Cho nên, chúng ta "cử tâm động niệm, không chi là chẳng phải tội," đó cũng là vì chúng ta chưa phát khởi tâm Bồ Tát vậy. Tâm lượng Bồ Tát là nếu có người nào hơn mình thì mình càng vui mừng và càng kính trọng người ấy thêm, chứ chẳng mảy may hờn ghen ganh tỵ; còn nếu có người nào kém thua mình thì mình càng cần phải tìm cách để làm cho người ấy được bằng mình—như thế mới là phát tâm của bậc Bồ Tát. Song le, chúng sanh chúng ta chưa phát tâm Bồ Tát, do đó "cử tâm động niệm," tất cả đều là tội lỗi.
"Họ, các chúng sanh ấy, từ bỏ những thiện lợi có được và phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu." "Từ bỏ những thiện lợi có được" tức là vất bỏ những lợi ích tốt lành mà mình đang sở hữu. Thí dụ, quý vị muốn gieo trồng thiện căn nên sốt sắng làm việc thiện, nhưng lại làm không được lâu dài; hoặc là chăm chỉ học Phật Pháp nhưng học được một năm hoặc hai năm rồi thôi, không hăng hái học nữa; hoặc là gặp một hoàn cảnh nào đó làm quý vị thối thất Ðạo tâm—như thế là quý vị đã "từ bỏ những thiện lợi có được" vậy.
Giả sử có người, tâm nguyện lúc ban sơ là muốn học Phật Pháp, muốn xuất gia đi tu; thế nhưng, xuất gia được một năm, hai năm, rồi ba năm, lại nghĩ rằng: "Ôi! Xuất gia cũng chẳng là gì cả, tu tới tu lui ròng rã đã ba năm trời mà vẫn chưa thấy khai ngộ, chưa chứng quả vị, có lẽ là hết hy vọng rồi!"; và thế là thối tâm nản chí, bèn hoàn tục, không làm người xuất gia nữa.
Ðó là nói về người xuất gia; còn người tại gia học Phật Pháp thì sao? Có người trong một năm đầu thì cảm thấy Phật ở ngay trước mặt mình, rất gần gũi với mình; học được hai năm thì cảm thấy Phật ở cách xa mình tới mười vạn tám ngàn dặm; và học được ba năm thì thế nào? Thì cảm thấy "Phật đáo Tây Thiên," thấy Phật ở xa tít tận chốn trời tây! Ðó gọi là "thối thất sơ tâm." Có câu:
“Học Đạo đừng mất tâm nguyện ban đầu, sẽ sớm thành Phật.”
(Học Ðạo bất phụ sơ tâm, thành Phật hữu dư.)
Trong việc tu hành, nếu quý vị có thể không đánh mất tâm nguyện ban đầu của mình, như muốn học Phật Pháp hoặc muốn xuất gia, thì sẽ sớm được thành Phật!
Người xuất gia chúng ta phải thường xuyên tự hỏi chính mình: "Vì sao mình muốn xuất gia?"; bởi người xuất gia thì phải khác với người tại gia, khác như thế nào? Ví dụ, người tại gia suốt ngày thích tỉ tê chuyện trò, nói chuyện phiếm; người xuất gia thì trái lại, cần phải nói ít lại, bớt nói chuyện—nếu là những lời có ích, hữu dụng thì nói được; bằng không thì chớ nên nói nhiều. Có câu:
“Mở miệng, tổn thần khí
Nói nhiều, sanh thị phi.”
(Khẩu khai, thần khí tán,
Thiệt động, thị phi sanh.)
Chúng ta hễ mở miệng là thần khí liền phân tán, thần hao khí tổn; nói nhiều thì lại sanh thị phi, lôi thôi lắm chuyện, không "thị" thì cũng "phi," chẳng "phải" thì cũng "quấy." Một khi đã có "thị phi" thì sẽ không tương ưng với Ðạo; mà thần khí bị phân tán thì đối với Ðạo cũng chẳng thể tương ưng. Cho nên, chúng ta tu Ðạo thì phải luôn luôn tự kiểm điểm chính mình. Ðừng soi mói chuyện của người khác, chỉ cần tự mình tu tâm dưỡng tánh cho hoàn hảo—như thế gọi là không "thối thất sơ tâm." Nói tóm lại, nếu ban đầu thì phát lời thệ nguyện rất kiên cố, rất thành khẩn, nhưng được một thời gian thì trở nên lơ là xao lãng, rồi dần dần quên bẵng đi, thì đó chính là "thối thất sơ tâm" vậy.
"Nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng." Nếu các chúng sanh đang thối thất sơ tâm mà gặp phải nhân duyên xấu ác, quý vị nói xem, thì sẽ thế nào? Thì họ chẳng những không lùi bước trước ác duyên mà còn mỗi niệm mỗi gia tăng, ác duyên càng lúc càng lấn lướt, lớn mạnh. Tôi gặp rất nhiều người ban đầu tu hành hết sức thành tâm tinh tấn, về sau gặp phải ma cảnh rồi bị "chuyển" theo ma quỷ; đây là trường hợp gặp phải ác duyên vậy. Nói chung, những việc không tương ưng với Ðạo, khiến cho quý vị không thể tu tập, đều gọi là "ác duyên," hay duyên sự chẳng lành.
"Tăng trưởng" chính là "tăng ích"—có nghĩa là càng ngày càng nhiều hơn, mỗi lúc mỗi lớn mạnh hơn. Chúng ta tu hành thì cần phải "tu tập" tâm Bồ Ðề lại, khiến cho tâm Bồ Ðề của mình mỗi ngày mỗi gia tăng; đó gọi là "tăng ích." Nếu tâm Bồ Ðề của quý vị cứ mỗi ngày mỗi sút giảm, ít dần đi, thì gọi là "táng thất" (đánh mất). Thế nhưng tâm Bồ Ðề của chúng ta thông thường không phải mỗi lúc một gia tăng, trong khi đó, những ác duyên mà chúng ta gặp phải thì càng ngày lại càng nhiều thêm.
"Những hạng người này như kẻ đi trong bùn lầy mà còn mang đá nặng." Ở đây, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát đưa ra một tỷ dụ. Thí dụ có một người đang đi trên đường thì gặp phải vũng bùn lầy lội chắn mất lối đi. Lội qua vũng bùn thì cũng chưa đến nỗi nào, nhưng người này còn phải vác một tảng đá nặng trên lưng nữa.
"Ðá nặng," chữ Hán là "trọng thạch"; chữ "thạch" này còn có thể hiểu là thạch, một đơn vị đo lường dung tích của người Trung Hoa (một thạch tương đương với một trăm lít, hoặc mười đấu). Do đó, "trọng thạch" có thể hiểu là "đá nặng," đồng thời cũng có thể hiểu là "vật rất nặng."
Vậy, giả sử có người đã mang trên lưng những vật rất nặng (chừng một trăm cân hoặc hai trăm pounds chẳng hạn), mà còn phải lội qua bùn lầy nữa. Người ấy, hễ cứ nhấc được chân này lên thì chân kia lại lún xuống, rút được chân kia lên thì chân này bị lún xuống trở lại, cho nên tới lui đều trở ngại, vô cùng khó khăn vất vả—đó gọi là "sa lầy." Trong hoàn cảnh này, người ấy nếu không mang đồ vật nặng nề thì còn có thể gắng gượng lội qua được bãi lầy, nhưng nay còn phải vác thêm vật nặng trên người nữa, "nên càng khốn đốn, nặng thêm dần, chân càng lún xuống sâu."
"Vật nặng" này là dụ cho cái gì? Chính là ác nghiệp của chúng ta. Còn "bùn lầy" thì sao? "Bùn lầy" tiêu biểu cho ba đường ác—địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Trong chốn bùn sình lầy lội, mỗi bước là mỗi khó khăn gian khổ, và gánh nặng trên lưng như càng lúc càng đè nặng thêm, khiến chân càng lúc càng lún sâu hơn; quý vị nghĩ xem, làm thế nào bây giờ?
"Nếu được gặp hàng Tri Thức ..." Giả sử kẻ đang vác nặng lội đi trong bùn ấy may mắn gặp được bậc Thiện Tri Thức như chư Phật, chư Bồ Tát, hoặc người có đại trí huệ chẳng hạn; thì sẽ như thế nào? "Thì sẽ được gánh vác giùm bớt, hoặc gánh hết cho." Vì phải mang vác nặng nề nên người ấy càng lúc càng bị sa lầy sâu hơn, không thể tự mình lội ra được; chỉ có hàng Thiện Tri Thức mới có năng lực gánh bớt giùm người ấy một phần hay một nửa, hoặc nguyên cả gánh nặng đó.
"Vì hàng Tri Thức đó có sức rất mạnh, lại dìu đỡ, khuyến khích làm cho mạnh chân lên." Bậc Thiện Tri Thức có sức lực mạnh mẽ, có thể nâng đỡ dìu dắt và chỉ bày cho kẻ gánh nặng đang đi trong bùn đó cách thoát ra khỏi vũng bùn. Chẳng những thế, các bậc Thiện Tri Thức còn khuyên bảo, nhắc nhở: "Hãy cẩn thận, nhớ đi đứng phải cho vững vàng một chút!"; khiến cho kẻ ấy mạnh chân vững lòng mà đi tiếp.
"Nếu đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thì phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy, không đi vào đó nữa." Một khi đã ra khỏi nơi bùn lầy và đến được chỗ đất bằng phẳng rồi, thì quý vị phải giác ngộ, phải biết rằng con đường mình vừa vượt qua ban nãy là một con đường hiểm trở, đầy bất trắc. Biết được như thế rồi thì từ nay chớ lội đi trong bùn sình, chớ dại dột mà dấn thân vào hiểm lộ thêm lần nữa! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Samsara: X. Vòng luân hồi.
I- VÒNG LUÂN HỒI THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Vòng luân hồi - Chỉ bánh xe vĩ đại của kiếp sống vô thường mà con người bị cuốn vào trong đó…(LVLCK, 1083).
+ Việc xoay chuyển của vòng luân hồi tức là việc một thực thể đi xuống luân hồi xuyên qua ba cõi thấp rồi quay trở lên.(LVLCK, 277)
+ Vòng tái sinh/ luân hồi: Trên vòng tái sinh, linh hồn được đưa xuống lâm phàm, sau đó trở lên và ra khỏi tù ngục của linh hồn. Nhờ việc xoay chuyển vòng luân hồi, con người học được các bài học cần thiết cho mình, theo chu kỳ, tạo ra các hiện thể biểu lộ của mình trong ba cõi thấp và theo cách này, ở dưới sự dẫn dắt của linh hồn và được Thánh Đoàn và các trường của Thánh Đoàn giúp đỡ, con người đạt được sự hoàn thiện (CVĐĐ, 92)
II- VÒNG LUÂN HỒI THEO PHẬT GIÁO
1. Vòng luân hồi - 12 nhân duyên cho ta biết:
* Hai nhân gốc của Nhân luân hồi:
- Quá khứ Vô Minh khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hành).
- Hiện tại Ái dục cũng khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hữu) Vô Minh là cha, Ái dục là mẹ, khổ đau là con.(sư Giác Tuệ)
* Hai sự thật: Theo chiều thuận từ Vô Minh đến Lão Tử: - Vô Minh, Hành => là Tập Đế quá khứ; - Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ => là Khổ Đế hiện tại; - Ái, Thủ, Hữu => là Tập Đế hiện tại; - Sanh, Lão Tử => là Khổ Đế vị lai; (Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục...)
+ NGUYÊN NHÂN CỦA LUÂN HỒI VÀ SỰ TRỞ VỀ CHÂN TÂM - NHƯ LAI TẠNG - MINH GIÁC DIỆU MINH ... Đức Phật cũng như muôn chúng sinh, ban đầu từ Hư không do mê lầm muốn lấy "Cái Sáng chồng lên cái Sáng diệu minh đã sẵn có trong Hư không" nên sinh ra Mê mờ điên đảo trong Luân hồi sinh tử.
Trích đoạn trong Kinh ngài Phú Lâu Na hỏi Đức Phật khi Minh Giác - Trở về Chân Tâm/ Như Lai Tạng ... rồi thì còn phải tiếp tục vòng luân hồi mới không như dưới đây:
Đức Phật bảo: Chính ba thứ sát đạo dâm là căn bản. Do nhân duyên đó, nghiệp quả tương tục.
Phú-lâu-na, ba thứ tương tục điên đảo ấy, đều là do tánh sáng hư vọng muốn soi rõ tánh giác. Nhân cái liễu tri mà phát ra cảnh tướng, theo vọng tưởng mà kiến chấp phát sinh. Các tướng núi sông đất liền thứ lớp dời đổi. Do hư vọng nầy mà xoay vần không cùng tận.
Nếu cái diệu giác dó, vốn bản tính là diệu minh, cùng với tâm Như Lai không tăng không diệt. Không có cớ gì bỗng nhiên phát sanh các tướng hữu vi, núi sông đất liền. Như Lai nay đã chứng được bản giác diệu không, thế thì núi sông đất liền, các tập khí hữu lậu hữu vi, có còn sanh khởi trở lại hay không?
Đức Phật bảo Phú-lâu-na, ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm hướng nam thành hướng bắc, thì cái mê nầy do mê mà có, hay do ngộ mà ra? Phú-lâu-na bạch: “Người mê như vậy, cũng không do nơi mê, cũng chẳng do nơi ngộ. Sao vậy? Mê vốn không có gốc, làm sao do nơi mê được? Ngộ chẳng sinh ra mê, làm sao lại do nơi ngộ?”
Đức Phật dạy, “Nếu người mê kia, chính lúc đang mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ sao? Người ấy qua được cái mê, đối với xóm làng đó, có còn sanh mê nữa không?” Bạch Thế tôn, không.
Phú-lâu-na, các Đức Như Lai trong cả mười phương cũng đều như vậy. Cái mê ấy không có gốc, tánh nó rốt ráo là không. Xưa vốn chẳng có mê, tựa như có mê có giác. Giác ngộ được cái mê rồi thì cái mê ấy không còn nữa, cái giác ấy không sinh ra cái mê.(Xem nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)
Xem chi tiết tại trang: Tổng hợp về Luân hồi - Chết và Tái sinh
+ A Lại Da Thức - Thức thứ 8 DO ĐÂU MÀ CÓ: "Do nương nơi chân mà khởi vọng, nên tánh Như Lai tạng biến thành A-lại-da thức, tức là thức thứ 8, còn gọi là tàng thức. Thức thứ 8 là cơ sở hiện hữu của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức (Thức này phân thành 3 thức 6- 7- 8)..."
Trích giảng giải trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm của HT Tuyên Hóa:
... Mở nút phải theo thứ lớp. Nhất thiết phải theo thứ tự khi mở các nút.
Quý vị sẽ hỏi: “Làm thế nào để mở theo thứ tự từng nút? Nút đầu tiên bị thắt lại như thế nào?”
Để bắt đầu, tánh Như Lai tạng vốn chẳng phải là đối tượng của sinh diệt. Nhưng tối tăm mê muội làm thành hư không (hối muội vi không). Ngay tại đó mà vô minh sinh khởi. Thế nên, mặc dù tánh Như Lai tạng là bất sinh bất diệt, nhưng nương nơi chân mà khởi vọng, theo đó là tâm đối tượng của sinh diệt phát sinh – đó là thức. Thức nầy phân thành thức thứ sáu, thức thứ 7 , và thức thứ 8. Nhưng cội nguồn của thức thứ 8 vốn phát khởi từ vô minh, tạo ra các thứ sinh diệt, lại là tánh của Như Lai tạng, tánh Như Lai tạng nầy lại chẳng phải là đối tượng của sinh diệt. Căn nguyên của nó chính là chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể.
Do nương nơi chân mà khởi vọng, nên tánh Như Lai tạng biến thành A-lại-da thức, tức là thức thứ 8, còn gọi là tàng thức.
Thức thứ 8 là cơ sở hiện hữu của ngũ uẩn - 5 Uẩn gồm: (1. SẮC) - (2. THỌ/ Thứ 5) - (3. TƯỞNG/ Ý thức/ Thứ 6) - (4. HÀNH/ Mạt na Thức/ Thứ 7 - Lập lên Hành Uẩn) - (5. THỨC/ Thứ 8). Do Thức uẩn sinh khởi đầu tiên mà có HÀNH UẨN. Đây là thức thứ 7, tức Mạt-na thức, còn gọi là truyền tống thức. Thức nầy truyền đạt những thông tin từ thức thứ sáu vào thức thứ 8. Chính nó lập nên HÀNH UẨN.
Uẩn tiếp theo là tưởng uẩn; đây là thức thứ sáu, còn gọi là ý thức. Thọ uẩn là một trong năm thức đầu tiên: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức. Thọ uẩn - Tưởng uẩn - Hành uẩn - Thức uẩn (Thức thứ 8), mỗi thứ tương ứng với một nút thắt (Trong 6 nút thắt). Sắc uẩn được kể là 2 nút, vì nó thô trọng hơn (Vậy tổng là 6 nút tương ứng 5 Uẩn: Sắc (2 nút) - Thọ - Tưởng - Hành - Thức). Như vậy, sáu nút bắt đầu với thức thứ 8 và hoạt dụng thông qua thức thứ 7 và thức thứ sáu rồi thông qua năm thức giác quan. Với sự hiện hữu của ngũ uẩn mà ngũ trược được hình thành, tạo ra không biết bao nhiêu chướng ngại.
Nếu chúng ta muốn mở những nút nầy, trước hết, chúng ta phải dừng lại không đuổi theo sắc uẩn nữa. Một khi hai nút nầy đã được mở ra, thì các uẩn khác như thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng được dừng lại, sáu nút đều được mở. “Các nút phải được mở theo thứ tự,” bởi vì sắc uẩn là gồm những nút thô trọng, trong khi những uẩn khác, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là cực kỳ vi tế.
“Thế tại sao chúng bắt đầu sự tạo thành từ bên trong rồi tiến hành sang bên ngoài?” Quý vị sẽ thắc mắc.
Vì thức thứ 8 là thức đầu tiên khởi niệm tưởng phân biệt. Tất cả đều bắt nguồn từ thức thứ 8. Ngũ uẩn và thức thứ 8 kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành nút buộc luân hồi sinh tử. Vì nó bắt đầu từ thức thứ 8, nên khi mở, phải bắt đầu từ sắc uẩn. Thứ tự nầy cũng giống như khi cởi áo quần, phải cởi từ lớp ngoài trước rồi lớp trong. Theo cách nầy, quý vị cởi từng lớp cho đến hết, như các nút được mở ra vậy. Đó là cách giải thích, nhưng thực tế là nếu quý vị cởi được một nút, thì năm nút kia cũng được mở ra luôn.
* Xin lưu ý: Thức A-đà-na rất vi tế, thậm chí còn hơn cả thức thứ 8. Thức A-đà-na còn gọi là ‘Bạch tịnh thức.’ Đó chính là chủng tử thanh tịnh. Thức tinh nhạy và vi tế nầy đặc biệt tạo nên những tập khí cuồn cuộn chảy như dòng nước xiết. Đây chính là cội nguồn luân hồi sinh tử. Ngay khi một niệm hư vọng sinh khởi trong phương diện nhất chân của thức vi tế nầy, thì đó là một niệm vô minh; trở lại, nó khiến cho tập khí cuồn cuộn dấy lên và chảy như dòng nước xiết. Không có gì có thể ngăn cản được dòng tập khí nầy. Dòng nước chảy xiết ở đây dụ cho luân hồi sinh tử của chúng ta. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Sự chết: Công việc của Thượng Đế Ngôi Hai chấm dứt và công cuộc hoá thân thiêng liêng của Ngôi 3 - Ngôi Con kết thúc. (LVLCK, 168)
+ Chết: Là sự triệt thoái ra khỏi tim và đầu, 2 luồng năng lượng – giác tuyến và sinh mệnh tuyến – do đó tạo ra sự mất ý thức hoàn toàn và sự tan rã của thể xác. (CTNM, 454)
+ Chết là sự triệt thoái một cách hữu thức hay vô thức của thực thể sinh động bên trong ra khỏi lớp vỏ ngoài của nó, sự tương ứng sinh động bên trong của nó, và sau cùng, chính là sự từ bỏ của thể tinh anh hay các thể tùy theo trình độ tiến hóa của con người. (CTNM, 478)
+ Sự chết chỉ là giải thoát cho linh hồn ra khỏi các xiềng xích nặng nề nhất, là việc hóa sinh vào một sự sống bao la hơn, một sự trở về trú sở đích thực của linh hồn sau cuộc sống tha hương ngắn trên cõi trần, một sự chuyển đổi từ bầu khí ngục tù sang bầu khí tự do khoáng đạt hơn. Sự chết là ảo tưởng lớn nhất trong số các ảo tưởng ở cõi trần. Không có sự chết mà chỉ có các thay đổi trong các điều kiện sống. Sự sống vẫn liên tục, không gián đoạn, không đứt đoạn; “bất sinh, vĩnh hằng, có tự nghìn xưa, thường tồn”. Sự sống không bị hủy diệt cùng với sự hủy diệt của các thể bao phủ nó. Cho rằng linh hồn bị hủy diệt khi thể xác tan rã thì cũng như nghĩ rằng bầu trời sập xuống khi cái lọ bị vỡ. (MTNX, 174)
+ Xem: Chết và Tái sinh (Nói về việc Tu thập thiện nghiệp với nhân quả của việc chết và tái sanh. Việc tái sanh phụ thuộc rất lớn vào Nghiệp chướng và Tâm thức con người tại thời điểm lúc chết rất quan trọng)
+ Chết uổng: Đức Phật dậy 9 cái chết uổng. (Nguồn: Kinh Công Đức Dược Sư Phật_Trang 351/ 389)
+ Chuẩn bị cho cái chết để tái sinh:.... Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng rằng bất cứ một hiện tượng cấu hợp nào cũng đều là vô thường. .... Ngày nay thì khoa học và kỹ thuật có thể sử dụng các phương pháp thực nghiệm để chứng minh điều đó một cách dễ dàng.
Đối với một người chấp nhận sự tái sinh thì khi cái chết gần kề sẽ hiểu rằng tâm thức của mình sẽ rời bỏ cơ sở vật chất của nó. .... Có phải là thân xác mình, của cải, gia đình, danh vọng hay uy quyền...? Tất cả những thứ ấy không có một giá trị nào cả, vì người sắp ra đi sẽ bỏ lại tất cả những thứ ấy.
Chỉ có dòng tiếp nối liên tục tâm thần là tồn tại và những gì mà nó có thể mang theo là những vết hằn (của nghiệp) đã in sâu vào nó. Những gì tiếp tục tồn tại và kéo dài từ kiếp sống này sang kiếp sống khác trên dòng liên tục tâm thần chính là nghiệp của chúng ta.
Chúng sẽ phải chết bởi vì chúng ta là những hiện tượng cấu hợp, tạo ra từ sự kết hợp của nhiều thành phần, sự kết hợp ấy liên hệ đến một số nguyên nhân và điều kiện nào đó. Trong từng giây phút một, các cấu hợp biến đổi không ngừng, và các biến đổi ấy một lúc nào đó sẽ kết thúc bằng một hiện tượng mà người ta gọi là cái chết. (Nguồn: Chuẩn bị cho cái chết... )
+ Hiểu về cái chết - Hiểu về sự chết - Chuẩn bị cho cái chết để tái sinh hay tái sanh tốt đẹp hơn
Tất cả chúng ta đều biết rằng cái chết là một cái gì đó chúng ta sẽ gặp vào cuối chu kỳ sống ở cõi trần của mình. Nhưng nhiều người tránh nói về cái chết hoặc nghĩ về nó, cho đến khi họ hoặc một thành viên gia đình hoặc người bạn gần gũi đang cận kề cái chết. Chủ đề về cái chết có thể đáng sợ đối với nhiều người. Video này hy vọng sẽ cung cấp một vài sáng tỏ về cái chết, và hiểu hơn quá trình làm thế nào chúng ta có thể chết một cách tốt đẹp. Cũng hy vọng rằng thông qua sự hiểu biết này, chúng ta có thể đạt được nhiều hơn sự bình an trong trí, sự thoải mái và yên tâm. Chúng ta cũng chiếu ánh sáng vào sự chết để giúp đời sống hiện tại của chúng ta trên Trái Đất trọn vẹn và vui vẻ hơn. (Nguồn: Xem Clip giảng về hiểu về cái chết và chuẩn bị tái sinh (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tôi (Chân Sư DK) nói về Cái Chết như là một người hiểu biết vấn đề từ cả kinh nghiệm về thế giới bên ngoài lẫn sự biểu hiện của đời sống nội tâm:
− Không hề có cái chết nào cả. Như bạn biết, chỉ có sự tiến nhập vào sự sống sung mãn hơn. Có sự giải thoát khỏi các cản trở của hiện thể nhục thân. Diễn trình giằng xé quá khủng khiếp như thế không có, ngoại trừ trong các trường hợp của cái chết dữ dội và cái chết đột ngột, lúc đó có các khó chịu thật sự duy nhất là một cảm giác ngắn ngủi và lấn át về tình trạng nguy hiểm và sự hủy diệt sắp xảy ra, và một cái gì đó rất giống như một cú sốc điện. Không còn gì nữa.
Đối với người kém tiến hóa, cái chết thật ra là một giấc ngủ và một lãng quên, vì thể trí không đủ thức tỉnh để phản ứng, và kho ký ức cho đến nay thực tế là trống rỗng.
Đối với công dân tốt lành bậc trung, cái chết là một sự tiếp tục của diễn trình sinh hoạt trong tâm thức của y và là một sự sang trang của các mối quan tâm và các xu hướng của cuộc sống. Tâm thức và cảm thức của y cũng vậy và không thay đổi. Y không cảm thấy nhiều sự dị biệt, được chăm sóc chu đáo, và thường không biết là mình đã trải qua giai đoạn chết.
Đối với những kẻ độc ác và ích kỷ một cách tàn nhẫn, đối với kẻ tội phạm, và đối với một số người sống chỉ vì khía cạnh vật chất, điều đó dẫn tới tình trạng mà chúng ta gọi là “lụy trần” (“earth-bound”). Các mắt xích mà họ đã rèn nên với trái đất và khuynh hướng về phía trần gian của tất cả các ham muốn của họ bắt buộc họ vẫn ở gần cõi trần và thúc đẩy sự xếp đặt cuối cùng của họ quanh quẩn nơi cõi trần. Họ tìm kiếm một cách tuyệt vọng và bằng mọi phương tiện có thể có để tiếp xúc trở lại với cõi trần và để tái nhập. Trong vài trường hợp, tình yêu cá nhân quá mạnh đối với những người bị bỏ lại sau, hoặc việc không hoàn thành một bổn phận cấp thiết được thừa nhận đã lưu giữ những người tốt đẹp trong một tình trạng gần như tương tự.
Đối với người có đạo tâm, cái chết là một sự tiến nhập ngay lập tức vào một lĩnh vực phụng sự và biểu lộ mà y rất quen thuộc; và y tức khắc nhận ra là không có gì mới mẻ. Trong những giờ ngủ của mình, y đã phát triển một lĩnh vực phụng sự tích cực và học tập. Bây giờ chỉ là y hoạt động trong đó toàn bộ hai mươi bốn giờ (nói bằng thuật ngữ thời gian cõi trần) thay vì vài giờ thông thường của giấc ngủ của y ở cõi trần.
Theo thời gian qua và trước khi kết thúc thế kỷ sắp tới, cuối cùng cái chết sẽ được xem là không tồn tại theo ý nghĩa mà bây giờ nó được hiểu (LVHLT, 300)
+ Sợ chết: Là do bởi:
1. Nỗi kinh khủng của các diễn tiến tách ra cuối cùng bằng tác động của chính cái chết.
2. Khiếp sợ cái không biết và cái mơ hồ (the indefinable)
3. Hoài nghi về sự bất tử cuối cùng.
4. Lo lắng khi lìa xa những kẻ thân thuộc hay vì bị bỏ lại sau.
5. Các phản ứng xưa cũ đối với những lần chết dữ dội trong quá khứ còn đang nằm sâu trong tiềm thức.
6. Bám víu vào đời sống sắc tướng, vì thoạt đầu đã đồng nhất hóa với nó trong tâm thức.
7. Giáo lý sai lầm cổ xưa về Thiên đàng và Địa ngục, cả hai đều không có viễn ảnh tốt đẹp nào cả. (LVHLT, 300)
+ Theo đạo Phật có 4 cách chết:
a/ Chết vì hết tuổi thọ: Tuổi thọ của mỗi loài sinh vật đã được định trước theo những định luật di truyền và những điều kiện sinh sống của mỗi loài, mỗi cá thể. Tuổi thọ của con người có nhiều người sống trên 100 tuổi khi đời sống văn minh.
b/ Chết vì hết nghiệp: Nghiệp ở đây có thể được hiểu là sinh nghiệp của kiếp sống đó hoặc nghiệp của toàn bộ kiếp sống của một chúng sinh, như vậy chúng sinh nầy đã đắt đạo quả A la Hán, đã thoát khỏi dòng sinh tử luân hồi.
c/ Chết vì hết tuổi thọ và hết nghiệp: Đây là cái chết của người lớn tuổi, đã sống hết tuổi thọ sinh học và đồng thời hết nghiệp của kiếp sống đó - hoặc là cái chết của một vị A la Hán đã hết tuổi thọ. Những vị nầy đã chết vì hết tuổi thọ và đồng thời cũng chấm dứt mọi nghiệp báu từ những tiền kiếp.
d/ Chết vì một Đoạn nghiệp: Có những Đoạn nghiệp cho quả làm cắt đứt thình lình dòng sinh nghiệp trước kỳ hạn của kiếp sống. Đây là cái chết bất đắc kỳ tử do tai nạn, bịnh tật, hoặc tự tử. (Sinh nghiệp là năng lực có thể làm phát sinh và duy trì tâm và sắc trong đời sống hiện tại, đồng thời lúc vừa chết có khả năng tái tạo một đời sống mới, nó là sức mạnh để đưa đi tái ). (Nguồn: Thuyết Nhân Duyên)
+ Có chín nguyên nhân, mạng sống chưa diệt tận mà bị chết bất ngờ:
1. Không nên ăn cơm mà ăn cơm: Tức là ăn những thứ không ưa ý, ăn không theo thời tiết bốn mùa và ăn những thứ đã bỏ đi mà lấy lại ăn.
2. Ăn cơm không chừng mực: Ăn uống vô độ tức là không biết tiết độ trong khi ăn, ăn quá nhiều, ăn quá no.
3. Không tập cách ăn: Ăn những thứ không quen tức là khi đi đến một nước khác, do không biết tập tục ăn uống của người ta, ăn phải những thức ăn không quen và ăn uống trái giờ thường lệ, không chịu tập ăn chút chút trước cho quen dần thức ăn.
4. Không xuất ra: Không kịp tiêu hoá nghĩa là mới ăn xong, thức ăn chưa tiêu hoá đã ăn thêm thứ khác, hoặc khi uống thuốc xổ mà chưa xổ hết liền ăn trở lại.
5. Làm cho dừng lại: Nín đại tiểu tiện nghĩa là lúc cơ thể muốn đại tiểu tiện mà không đi liền, kiềm chế quá lâu, hoặc kiềm chế hạ phong.
6. Không giữ giới tức là phạm vào năm giới cấm, sống đời gian dâm, xâm phạm vợ con người khác, bị luật pháp trừng trị bỏ tù hoặc xử tử, hoặc bị tra tấn đến chết, hoặc bỏ đói đến chết, hoặc vượt ngục trốn thoát ra ngoài bị oán gia hại chết, hoặc lo sợ buồn sầu đến chết.
7. Gần gũi với ác tri thức: Gần gũi người ác nghĩa là người ta làm điều ác mà mình cũng đến gần gũi, chơi thân.
8. Vào trong nhà không đúng thời, không hành đúng như pháp: Nhập cư bất hợp pháp và không biết luật pháp sở tại để thi hành nghĩa là sáng sớm hoặc chiều tối đi qua nước khác, hoặc đi vào vùng chiến sự, bị quan phủ truy bắt mà không trốn; hoặc vào nhà người ta, trông thấy những điều không đáng thấy, nghe được những điều không đáng nghe, phạm vào những điều không đáng phạm, nhớ những điều không đáng nhớ…
9. Có thể tránh mà không tránh: đó là khi gặp những trâu điên, ngựa chứng, chó dại, rắn độc, hoặc gặp nước dữ, lửa lớn, hoặc hầm hố vực sâu, hoặc xe ngựa chạy quá nhanh, hoặc gặp người say, người ác cầm đao đâm chém nhau lại ra can gián… đó là những trường hợp tránh được mà không chịu tránh, để rồi lâm nạn vong thân.
Người có trí nên biết, những điều gì tránh được thì hãy tránh để có được hai điều lợi. Thứ nhất là được trường thọ. Thứ hai là được nghe chánh pháp, cũng được tu tập lâu dài. (Nguồn: Phật Thuyết Phật Y Kinh)
+ Chết trốn đau đớn
Một số đạo sinh bận tâm về việc cố gắng sắp xếp để hợp pháp hóa việc chết trốn đau và thắc mắc về việc đặt mãnh lực của sự sống và cái chết trong tay của người thầy thuốc. Đồng thời họ biết rằng trong đó cũng bao hàm yếu tố nhân đạo trong trường hợp không thể ngưng được sự đau đớn kéo dài. Tôi xin nói: việc nghiên cứu thực hành để chết trốn đau được đưa ra sẽ không thành vấn đề nữa khi có sự liên tục của ý thức (nó phủ nhận cái chết). Điều đó có nghĩa là, do sự tiến hóa của nhân loại, sẽ đến lúc linh hồn biết được rằng kỳ hạn của kiếp sống trần gian chấm dứt và sẽ tự chuẩn bị để triệt thoái ra khỏi hình hài với đầy đủ ý thức. Linh hồn sẽ biết rằng việc phụng sự của hình hài không còn cần thiết nữa và hình hài phải bị vứt bỏ. Linh hồn sẽ biết rằng ý thức về sự hiểu biết của nó đang tập trung trong bản chất trí tuệ hãy còn đủ mạnh và đủ sinh lực để đưa nó vượt qua tiến trình và giai đoạn xuất ra. Khi ý thức đó đã phát triển trong con người và tiến trình xảy ra phải được nhà chuyên môn y khoa và các đạo sinh có kiến thức khoa học về cơ cấu con người nhận biết, thì bấy giờ toàn bộ thái độ đối với cái chết và các diễn tiến của sự chết, đi kèm với nỗi đau đớn, sẽ được thay đổi về mặt vật chất. Lúc bấy giờ, người nào khi đến lúc lìa trần đều có thể có được trong chính mình một vài phương pháp để thoát ra mà theo quan điểm thường nhân, có thể được xem như liên hệ đến việc chết trốn đau. Các cách thức xuất ra (của linh hồn–ND) sẽ được nghiên cứu và áp dụng khi gần đến lúc từ giã cõi trần, và tiến trình sẽ được xem như là sự triệt thoái của linh hồn, như là một tiến trình giải thoát và giải phóng. Thời kỳ đó không còn xa lắm như bạn nghĩ. … Tuy nhiên, khi nào xảy ra cơn đau khủng khiếp và tuyệt đối không có hy vọng trợ giúp thực sự hay là phục hồi, và khi nào bệnh nhân mong muốn (hay nếu bệnh nhân quá yếu và gia đình mong muốn), bấy giờ, dưới các biện pháp an toàn thích hợp, một điều gì đó (something) nên làm. Nhưng việc sắp xếp thời gian ra đi này sẽ không được căn cứ vào tình cảm và vào lòng từ ái, mà là dựa vào sự hiểu biết đúng đắn về các khả năng tâm linh của sự chết (CTNM, 318–320)
+ Các loại chết - Giai đoạn chết:
Chết lần thứ nhất (First death): Cái chết của thể xác (còn gọi “cái chết của thể xác–thể dĩ thái)
Chết lần thứ hai (Second death): Cái chết lần hai có liên quan đến cái chết hay sự tan biến của linh hồn thể vào lúc điểm đạo lần 4. Cái chết này đánh dấu việc hoàn tất của công cuộc kiến tạo giác tuyến và lập được mối liên hệ trực tiếp, thông suốt và liên tục giữa Chân Thần với Phàm Ngã. … “Chết lần hai” được dùng để chỉ cái chết hay sự tiêu tan của linh hồn thể mà từ trước đến giờ, hồn tinh thần đã hoạt động trong đó. Tuy nhiên, nó cũng có thể được dùng một cách sát nghĩa hơn và có thể được dùng để nói tới giai đoạn hai của tiến trình chết trong ba cõi thấp. Do đó, nó chỉ liên quan tới hình hài và được gắn liền với các thể biểu lộ nằm dưới các phân cảnh vô sắc tướng của cõi hồng trần vũ trụ.
Chết lần thứ ba (Third death): Cái chết lần ba xảy ra khi vị đạo đồ, sau rốt và không có triển vọng trở lại, bỏ lại đàng sau mình mọi liên hệ với cõi hồng trần vũ trụ. Tất nhiên cái chết này còn ở xa phía trước đối với tất cả các vị trong Thánh Đoàn, và hiện nay chỉ có thể xảy ra và chấp nhận được đối với một vài vị trong Huyền linh Nội điện ở Shamballa. Tuy nhiên, đó không phải là một tiến trình mà Đức Sanat Kumara sẽ vượt qua. Ngài đã vượt qua sự “chuyển hóa” này nhiều thiên kỷ trước đây, trong kỳ đại biến đã khai mở kỷ nguyên Lemuria và đã được tạo ra bằng kinh nghiệm vũ trụ của Ngài và cần có một dòng năng lượng lưu nhập từ các Đấng ngoài hành tinh. (CTNM, 406–408)
+ Pháp Hóa giải: Nếu ngủ gặp Ác mộng - Mộng ác - Mộng xấu ác hay bỗng thấy Điềm chẳng lành nơi sinh sống
“Lại hễ có người, bỗng thấy mộng ác”, nghĩa là giả dụ có người bỗng nhiên gặp ác mộng, trong giấc mộng thấy chuyện chẳng lành, chẳng hạn thấy mình chết, thấy người khác chết, mình bị đụng xe, thấy người nhảy xuống biển, đại khái những điều chẳng lành v.v..; “những hình tướng ác”, như thấy một con quỷ la-sát dữ tợn, một con yêu miệng rộng giơ nanh, hoặc ông thiên lôi đương cầm búa lăm le bổ xuống, nói chung là các cảnh đất động, núi lở, sóng thần, những sự việc kinh khủng mà người ta gặp trong cơn ác mộng; “hoặc chim quái ác, ở đâu đến đậu”, hoặc giả các loại chim kỳ quái đến tụ tập trên nóc nhà, như loại cú đầu mèo, cú vọ, quạ; “hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, tại ngay chỗ ở”, hoặc nơi cư ngụ có cả trăm loài yêu quái xuất hiện, ban ngày thấy quỷ, ban đêm thấy ma, như thấy cây chổi quét nhà tự nó đi đi lại lại, cái bầu nước bay lơ lửng trên không, nói chung là trăm ngàn sự việc kỳ quái xuất hiện.
“Thử nhân” nghĩa là người ấy, hay gia đình ấy, “nếu đem các thứ quý giá”, nếu dùng các đồ quý giá, thuộc loại đắt tiền; “cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình tướng ác, những điều chẳng lành, đều biến mất hết”, đem những thứ đó để cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai một cách cung kính, thời những mộng ác, tướng ác, tỷ dụ như trong mộng thấy rắn, thấy hổ, sói, beo, sâu bọ, tất cả những thứ chẳng lành đó, bỗng dưng tiêu tan hết. Cho nên bất kể người nào trong chúng ta, nếu trong nhà xảy ra những sự tình chẳng lành, chúng ta nên gấp gáp cúng dường đức Phật Dược Sư một cách cung kính, thì ắt sẽ có điều cát tường đến, mọi rắc rối sẽ biết mất; “chẳng làm hại được”, không còn lo ngại vấn đề gì nữa;
“Hoặc có sợ hãi tai nạn thủy hỏa, đao binh độc chất, cheo leo hiểm nghèo”, hoặc bị nước nhấn chìm, bị lửa đốt, bị dao chém, gặp chất độc, hoặc ở chỗ cheo leo hiểm nghèo; “voi dữ sư tử, hùm sói gấu bi, rắn độc bọ cạp, rết độc sâu bọ, ruồi muỗi các loại”, các loại voi dữ, sư tử, hổ, báo, gấu đen, bi – “bi” cũng là một loại ác thú - rắn độc, bọ cạp, rết, sâu du diên, tức là loài sâu chuyên hút tủy não trong đầu, ruồi muỗi hay các loại sâu bọ có hại, nói chung các thứ gây nên sợ hãi; “nếu dốc một lòng, niệm đức Phật kia, cung kính cúng dường, thời các sợ hãi, đều được giải hết”, nếu như dốc lòng nhớ tới đức Phật Dược Sư, rồi cúng dường một cách cung kính, thì tất cả mọi thứ sợ hãi đều được giải trừ;
“Nếu có nước khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thời người cung kính, niệm đức Phật kia, cũng đều giải thoát”, nếu có một nước khác đến xâm lược, hay là trong nước đạo tặc hay phản loạn nổi lên, song trong lòng luôn luôn nhớ tới đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì các nạn này cũng được giải trừ. Tóm lại, hết thảy các tai nạn đều nhất loạt tiêu tan, xấu đổi thành tốt, điều chẳng lành biến thành điều may mắn. (Nguồn: Kinh Dược Sư - HT Tuyên Hóa giảng)
+ "Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu trong đời sau có người nam hay người nữ nào nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay cầu chết đều không được, hoặc đêm mộng thấy ác quỷ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc đi trên đường hiểm, hoặc nhiều lần bị bóng đè, hoặc cùng quỷ thần dạo chơi..."
Lược giảng:
Giả sử trong đời vị lai, có thiện nam tín nữ nào đó đã thọ Ngũ Giới và biết hành Thập Thiện mà cứ phải nằm một chỗ suốt một thời gian dài.
Chính vì ốm đau lâu ngày không ngồi dậy được, nên bị chứng tê bại. Nguyên do của căn bệnh này là bởi lòng dâm dục quá nặng nề. Triệu chứng của bệnh liệt là không đi đứng được. Bởi chân thuộc về thận, nếu dâm dục quá nhiều thì chân bị yếu, đi đứng khó khăn; cũng như quý vị thường thấy ở ngoài đường phố, có rất nhiều người chân bị sưng vù lên, bước đi không được vững vàng, cần phải chống gậy rồi lê từng bước. Tất nhiên, ở đây không phải nói tới những người không đi đứng được bởi chân bị thương tích hoặc què quặt do tai nạn hay bom đạn chiến tranh. Những người được đề cập đến trong phần kinh văn này là những kẻ bẩm sinh lành lặn, không hề bị thương tật cũng không bị tai nạn xe cộ, song không thể đi đứng được. Ðây là hạng người có lòng dâm dục quá nặng nề, dâm dục quá nhiều!
Quý vị cũng thấy đó, ở nước Mỹ có rất nhiều người mắc phải bệnh liệt; vì sao ư? Vì họ không biết gì về những tác hại của vấn đề sắc dục, cho nên nay họ phải chịu khổ sở bởi chứng bệnh này; e rằng cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, họ cũng chẳng biết do đâu mà chân của họ lại bị như thế!
"Cầu sống hay cầu chết đều không được." Giả sử có người ốm đau phải nằm một chỗ đến liệt giường liệt chiếu, không nhúc nhích được, muốn sống nhưng chẳng được sống yên vui, mà muốn chết thì lại không được chết liền ngay! Quý vị thấy như thế có đau khổ không chứ? Bệnh nhân đớn đau khổ sở, sống không ra sống, chết không ra chết—thật là dở sống dở chết!
"Hoặc đêm mộng thấy ác quỷ." Bệnh nhân đêm ngủ thường chiêm bao thấy ác quỷ và thấy mình đi theo các ác quỷ đó làm những việc không tốt, và làm càng nhiều thì bệnh càng nặng. Người bệnh ấỵ nằm mộng thấy ác quỷ và biết rõ ràng đó là ác quỷ, song vẫn cứ đi theo chúng mà ăn những đồ bất tịnh và làm những việc xấu xa, thậm chí hành dâm cả trong mộng nữa.
"Cho đến kẻ thân thích trong nhà." Hoặc là bệnh nhân chiêm bao thấy những người thân đã quá vãng, chẳng hạn như nếu cha đã qua đời thì mộng thấy cha, hoặc mẹ đã qua đời thì mộng thấy mẹ, ... nói chung là thường nằm mộng thấy những bà con thân thuộc đã chết—và đó là hiện tượng không tốt. Bởi vì người bà con đã chết này có quen biết người bệnh, nên có thể dẫn dắt loài quỷ ở ngoài vào nhà của người ấy, rồi kẻ đã chết đó lại bỏ đi. Bấy giờ, loài quỷ được dẫn vào nhà rồi bèn dùng các phép thuật độc hại để làm cho bệnh tình của bệnh nhân càng ngày càng trầm trọng hơn.
"Hoặc đi trên đường hiểm." Hoặc là bệnh nhân nằm mơ thấy mình đi lạc vào con đường hiểm trở—như chạy lên đỉnh núi cheo leo, hễ sẩy chân té xuống là tan xương nát thịt—khiến trong lòng sanh ra hoảng sợ. Trong giấc mơ, người bệnh thường thấy nhiều sự việc không tốt lành, khiến cho mình luôn có cảm giác phập phồng lo sợ, hễ nhớ tới tình cảnh đó là trong lòng vô cùng hoảng hốt, sợ hãi. Cũng có khi người bệnh nằm mơ thấy mình đang đi thì gặp phải hổ, sói hay yêu quái ... hiện ra chận đường. Nói tóm lại là người bệnh cứ chiêm bao thấy xảy ra những việc rất đáng sợ.
"Hoặc nhiều lần bị bóng đè." Hoặc trong giấc mơ, bệnh nhân thấy loài yểm mỵ quỷ Cưu Bàn Trà thường xuyên lui tới, một đêm có khi đến ba lần hoặc năm lần, không nhất định. Nếu đến một lần rồi song cảm thấy nhân duyên của chúng với người bệnh chưa hết, thì chúng lại đến lần nữa, rồi lại thêm lần nữa, và đè người ấy đến nỗi thốt không ra tiếng và cũng không thở, không động đậy gì được cả. Người bệnh bấy giờ hai mắt trợn trừng như nhập "ma định" vậy, và đó là thứ "tà định" chứ không phải là Chánh Ðịnh. "Ðịnh" cũng có chánh có tà; chúng ta không nên nhập loại "tà định" này.
"Hoặc cùng quỷ thần dạo chơi..." Hoặc là người bệnh chiêm bao thấy mình kết bạn với quỷ thần; mặc dù biết rõ ràng đó là quỷ nhưng vẫn cứ theo chúng đi du ngoạn. Trong giấc mơ thì không thấy sợ quỷ, thức dậy rồi mới cảm thấy sợ hãi. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện: Có 13 Phẩm
Phần Duyên Khởi
Phẩm 1 - Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi: Trang 1, 2, 3
Phẩm 2 - Phân Thân Tập Hội
Phẩm 3 - Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên
Phẩm 4: Nghiệp Cảm Của Chúng Sanh Ở Cõi Diêm Phù
Phẩm 5: Danh Hiệu Của Ðịa Ngục
Phẩm 6: Như Lai Tán Thán
Phẩm 7: Lợi Ích Cho Cả Kẻ Còn Người Mất
Phẩm 8: Các Vua Diêm La và Quyến Thuộc Khen Ngợi
Phẩm 9: Xưng Danh Hiệu Chư Phật
Phẩm 10: Nhân Duyên và So sánh Công Đức Bố Thí
Phẩm 11: Địa Thần Hộ Pháp
Phẩm 12: Thấy, Nghe Đều Được Lợi Ích
Phẩm 13: Giao Phó Cho Trời Người
Phần Phụ Lục. (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát - HT Tuyên Hóa giảng)
+ III) Nêu Rõ Tông Chỉ Kinh (Biện Ðịnh Tông Chỉ)
Bộ Kinh này lấy gì làm tông chỉ? Tông chỉ của bộ Kinh này gồm có bốn điều và được bao hàm trong tám chữ "Hiếu Ðạo, Ðộ Sanh, Bạt Khổ, Báo Ân." Tám chữ này nói lên điều gì? Ðó là "tinh nghiên hiếu đạo" - đạo lý hiếu thảo với cha mẹ. Con người nếu biết giữ hiếu đạo thì trời đất sáng ngời rạng rỡ. Ðiều khiến cho trời đất cảm động cũng chính là lòng hiếu thảo, nên nói: ""Thiên địa trọng hiếu, hiếu đương tiên" (trời đất đều xem trọng đạo hiếu, hiếu là trước nhất).
1) Hiếu Ðạo. Chữ "hiếu" này vô cùng quan trọng. Chỉ cần có một chữ "hiếu" là toàn gia được yên vui, êm ấm. Có câu:
Hiếu thuận lại sanh con hiếu thuận
(Hiếu thuận hoàn sanh hiếu thuận tử.)
Nếu quý vị hiếu thuận với cha mẹ mình thì sau này con cái của quý vị cũng sẽ hiếu thuận với quý vị. Còn nếu quý vị không hiếu thảo với song thân, thì con cái của quý vị rồi cũng sẽ không hiếu thảo với quý vị!
Vì sao chúng ta phải học cách làm người? Làm người có ý nghĩa gì? Có người nói rằng: "Tôi làm người một cách hồ đồ như vầy thì cũng xong thôi!" Nói như thế là không phải! Bổn phận của kẻ làm người là phải hiếu thảo với cha mẹ, bởi cha mẹ chính là trời đất, là sư trưởng, và cũng là chư Phật. Có cha mẹ mới có mình; nếu không có cha mẹ thì mình không có được thân thể này, mà không có thân này để tu hành thì mình sẽ chẳng bao giờ thành Phật được cả! Cho nên, muốn thành Phật thì trước tiên là phải trọn hiếu với cha mẹ. Vậy, tông chỉ thứ nhất là "Hiếu Ðạọ"
2) Ðộ Sanh. Tông chỉ thứ hai của bộ kinh này là "Ðộ Sanh."
Thế nào gọi là "độ sanh"? Từ bờ bên này vượt sang bờ bên kia, gọi là "độ." Từ sanh tử đến Niết Bàn cũng gọi là "độ." Từ phiền não mà được Bồ Ðề cũng gọi là "độ." "Ðộ sanh" ở đây có nghĩa là cứu độ chúng sanh. "Cứu độ chúng sanh" thì không phải là chỉ cứu một hoặc hai người, cũng không phải là ba người hoặc năm người. "Ðộ chúng sanh" là độ thoát tất cả mười hai loại chúng sanh. Phải phát tâm giáo hóa hết thảy chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh đều sớm được thành Phật; như thế mới gọi là "độ chúng sanh."
3) Bạt Khổ. Ðây là tông chỉ thứ ba. Bộ Kinh này có công năng "nhổ sạch khổ não," dứt trừ mọi nỗi khổ của chúng sanh.
4) Báo Ân. "Báo ân" ở đây chính là báo đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.
Vậy, tám chữ "Hiếu Ðạo, Bạt Khổ, Ðộ Sanh, Báo Ân" là tông chỉ của Kinh Ðịa Tạng. Nếu giảng cặn kẽ thì quá nhiều, cho nên tôi chỉ đề cập đến những điểm trọng yếu; sau khi hiểu rõ các ý chính, quý vị sẽ thông suốt được tất cả.
Nghe nhắc đến đạo hiếu, có nhiều người liền nghĩ: "Mình phải về để hầu hạ, báo hiếu cho cha mẹ!" Nhưng về đến nhà, gặp cha mẹ, thì họ lại chứng nào tật nấy, quên mất bổn phận hiếu thảo. Vì sao họ quên? Vì họ không hiểu hiếu đạo chân chánh là như thế nào. Tu học Phật Pháp tức là chân chánh hiếu thảo vậỵ Chớ nói rằng về nhà quanh quẩn bên cha mẹ mới là có hiếu, rồi về tới nhà thì lại quên mất bổn phận hiếu thảo! Qúy vị ở đây nghiên cứu Phật Pháp, học làm người tốt - điều này đối với thế giới rất có lợi. Mang lại lợi ích cho thế giới cũng chính là báo hiếu cha mẹ vậy.
"Hiếu" được phân làm bốn loại: Tiểu Hiếu, Ðại Hiếu, Viễn Hiếu và Cận Hiếu.
"Tiểu Hiếu" là hiếu đạo trong phạm vi gia đình, tức là chỉ hiếu thảo với cha mẹ ruột của mình, chứ không hiếu thảo với tất cả mọi người, chưa có được lòng hiếu thảo bao la, quảng đại.
"Hiếu Quảng Ðại" là gì? Ðó chính là Ðại Hiếu - hiếu thuận với khắp thiên hạ, xem tất cả các bậc cha mẹ trên đời như là cha mẹ của mình. Ðây gọi là hiếu thuận với tất cả mọi người. Thế nhưng, Ðại Hiếu vẫn chưa phải là hiếu thuận chân chánh.
Thế nào là "hiếu thuận chân chánh"? Chỉ khi nào quý vị thành Phật mới gọi là có lòng hiếu thảo chân chánh, mới là "Chân Hiếụ" Ðây là một loại hiếu thảo đích thực, rốt ráo, vượt hẳn bốn loại hiếu kia. Ðức Phật Thích Ca xưa kia, mặc dù vua cha không cho phép xuất gia, muốn cầm giữ Ngài ở mãi trong cung, nhưng Ngài đã trốn khỏi hoàng thành, lén đi xuất gia tu hành. Sau sáu năm ròng rã tu khổ hạnh trên ngọn Tuyết Sơn, Ngài đã ngộ Ðạo thành Phật dưới cội Bồ Ðề. Thành Phật rồi, Ngài đến cung trời Ðao Lợi, vì mẹ mà thuyết Pháp. Qúy vị xem, đó chẳng phải là chân chánh hiếu thảo sao?
Thế nào gọi là "Cận Hiếu"? Noi gương những người con chí hiếu thời cận đại, học cách hiếu thuận cha mẹ của họ - đó gọi là "Cận Hiếu". Có câu:
Viễn hiếu, hiếu muôn đời
Cận hiếu, hiếu đương thời.
(Viễn Hiếu, hiệu ư vạn cổ;
Cận Hiếu, hiệu ư đương thời)
Viễn Hiếu là gương hiếu thảo được muôn thế hệ truyền tụng và noi theo; còn Cận Hiếu là sự hiếu thuận đương thời. Cận Hiếu cũng có thể gọi là Tiểu Hiếu, mặc dù vẫn có vài điểm bất đồng. Viễn Hiếu là hiếu thuận muôn đời, điển hình là Nhị Thập Tứ Hiếu (hai mươi bốn gương hiếu tử) của Trung Hoa. Gương hiếu thảo của họ được muôn đời truyền tụng, lưu lại tiếng thơm cho hàng vạn thế hệ sau.
Trong Nhị Thập Tứ Hiếu của Trung Hoa có một Ðổng Vĩnh. Ðổng Vĩnh, còn gọi là Ðổng Ảm, là một người con chí hiếu. Gia đình Ðổng Vĩnh rất nghèo, cảnh nhà thiếu trước hụt sau; còn hàng xóm của anh ta là Vương Kỳ thì lại rất giàu có, sung túc. Mẹ của Ðổng Vĩnh nhờ con hiếu thảo nên hồng hào khỏe mạnh; tuy tuổi đã cao mà vẫn còn linh hoạt và lúc nào cũng tươi vui. Trong khi đó, mẹ của Vương Kỳ mặc dù tiền bạc dư dả, ăn toàn những món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị, nhưng lại gầy gò ốm yếu, và trông có vẻ buồn phiền áo não, chẳng chút vui tươi thanh thản.
Một hôm, nhân lúc Ðổng Vĩnh và Vương Kỳ đều vắng nhà, bà mẹ của Vương Kỳ mới sang chơi và hỏi mẹ của Ðổng Vĩnh: "Bà chị tuổi tác cũng đã cao, cảnh nhà lại thanh bần, chẳng thuốc thang tẩm bổ, mà sao trông bà lúc nào cũng vui vẻ, khoẻ mạnh?"
Mẹ của Ðổng Vĩnh đáp: "Bởi vì con trai tôi rất hiếu thảo. Nó không dám làm việc gì xấu cả, lại rất thật thà đúng đắn, cần cù làm việc; cho nên tôi rất hài lòng, không có điều chi lo nghĩ hoặc buồn bực cả. Có lẽ nhờ tâm trí thư thái, trong lòng thanh thản, nên thân thể được khỏe mạnh đấy thôi."
Rồi bà hỏi lại mẹ của Vương Kỳ: "Nhà bà chị giàu có thế kia, ăn uống toàn là món ngon vật lạ, mà sao lại gầy ốm như vậy? Bà chị gầy như cây sậy ấy, có mắc bệnh gì không?"
Mẹ của Vương Kỳ thở dài ngao ngán: "Tôi ư? Giàu thì cũng có giàu đấy, ăn uống thì cũng toàn là những thức ngon lành, bổ báo; nhưng khổ nỗi lại gặp phải thằng con ngỗ nghịch, toàn làm những chuyện phi pháp, khiến tôi rất đau lòng. Hôm nay phạm pháp, ngày mai phạm luật; hôm nay không bị sai nha truy lùng, thì ngày mai cũng có lệnh của phủ đường đòi đến tra hỏi. Tôi từ sáng đến tối cứ vì thế mà thấp thỏm âu lo, thức ăn dù ngon cách mấy cũng nuốt không xuống, không thấy vui. Bởi suốt ngày cứ rầu rĩ phiền muộn, cho nên tôi càng ngày càng gầy mòn đấy thôi!"
"Hiếu" tuy có Viễn Hiếu, Cận Hiếu, Ðại Hiếu, Tiểu Hiếu, nhưng nếu nói đến sự hiếu thảo chân chánh thì chính là tu hành để sau này thành Phật vậy. Hôm nay quý vị ở lại nghiên cứu Phật Pháp, không bỏ về, đó chính là Chân Hiếu vậy. Chân chánh nghiên cứu, hành trì Phật Pháp mới là sự hiếu thảo đúng đắn, rốt ráo nhất.
Ðịa Tạng Vương Bồ Tát đích thực là ai? Ngài chính là Tôn Giả Ma Ha Mục Kiền Liên, nguyện ở trong địa ngục làm Bồ Tát. Vì sao Ngài muốn làm Bồ Tát ở địa ngục? Bởi vì Ngài thấu hiểu và cảm thông được mọi đau khổ mà thân mẫu Ngài đã chịu đựng, nên Ngài liên tưởng: "Nếu mẹ mình chịu khổ như vậy, thì tất cả những bà mẹ trên cõi đời này cũng đều chịu khổ như thế!" Cho nên Ngài dùng tâm hiếu đạo bình đẳng, không phân biệt, mà độ thoát tất cả chúng sanh trong địa ngục, khiến họ lìa khổ được vui.
Vừa rồi là nói về "bổn nguyện" của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát; bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu chữ "địa (đất)." "Ðịa" có mười nghĩa, nhưng mười ý nghĩa này cũng chưa diễn đạt hết được công năng của "Ðịa," tuy vậy tôi sẽ giảng sơ lược:
1) Rộng Lớn (Quảng Ðại). Ý nghĩa thứ nhất là "quảng đại." Qúy vị thấy Ðất có quảng đại, rộng lớn không? Có lẽ trong quý vị có người đang nghĩ: "Thầy ơi, Thầy không cần giảng nữa, ý nghĩa rộng lớn của Ðất ai mà chẳng biết!" Thì chính vì ai ai cũng biết nên tôi càng cần phải giảng hơn nữa, để mọi người có thể biết được nhiều thêm một chút nữa!
2) Nơi Nương Tựa Của Chúng Sanh (Chúng Sanh Y). Ðất là nơi nương tựa của mọi chúng sanh; tất cả chúng sanh đều nhờ vào Ðất mà sinh trưởng. Qúy vị nghĩ xem, có chúng sanh nào mà chẳng sống nhờ trên Ðất hay không? Thật vậy, không một chúng sanh nào sống trong hư không cả! Ðó là ý nghĩa thứ hai của "Ðịa."
3) Đất Không Ưa Ghét (Ðịa Vô Hảo Ố). Ðất không ưa thích, cũng chẳng ghét bỏ ai. Ðất không hề phân biệt, lựa chọn: "Ê, tên chúng sanh này, ta cho ngươi ở chỗ đó. Còn tên chúng sanh kia, hãy cút đi, ta không thích ngươi!" Bất luận chúng sanh nào, dù tốt hay xấu, thiện hay ác, dù là cọp, beo hay hươu, nai... tất cả đều sống trên Ðất, đều nhờ Ðất mà sinh tồn. Ngoài ra, Ðất không sinh tâm tốt, cũng chẳng nảy tâm xấu. Có người nói: "Tôi hiểu điều đó - Ðất hoàn toàn không có tri giác!" Qúy vị cho rằng Ðất không có tri giác sao? Tri giác của Ðất không phải là điều mà tri giác chúng ta có thể hay biết được. Ðất cũng có tri giác của Ðất, và Ðất cũng là một trong những chúng sanh vậy.
4) Tiếp Thọ Mưa Lớn (Thọ Ðại Vũ). Ðất có thể tiếp thọ những cơn mưa lớn. Trời mưa lớn cách mấy, Ðất cũng đều tiếp nhận, hấp thụ được cả.
5) Sanh Cỏ Cây (Sanh Thảo Mộc). Ðất có thể sản sinh mọi thứ cỏ, cây.
6) Chủng Tử Nương Gởi (Chủng Sở Y Ký). "Chủng" là chủng tử, hạt giống. Tất cả hạt giống đều được vùi trong lòng đất, cho nên Ðất là nơi ký thác, nương nhờ của mọi chủng tử.
7) Sanh Châu Báu (Sanh Chúng Bảo). Ý nghĩa thứ bảy là gì? Ðiều này lẽ ra không nên nói, vì e rằng nghe xong thì ai nấy đều đổ xô đi tìm châu báu! Ý nghĩa thứ bảy của Ðất chính là "sanh chúng bảo"- trong lòng đất có chứa rất nhiều thứ quý báu.
8) Sản Sanh Thuốc (Sản Chư Dược). Tất cả mọi dược phẩm, mọi thứ thuốc, đều do Ðất sản sanh.
9) Gió Thổi Không Động (Phong Xuy Bất Ðộng). Gió không bao giờ lay động được Ðất; dù gió lốc mạnh cách mấy cũng chẳng thể nào thổi Ðất đi được. Thế động đất thì sao? Ðộng đất không phải là do gió thổi!
10) Không Sợ Sư Tử Gầm (Sư Tử Hống Bất Kinh). Ðây là ý nghĩa thứ mười của Ðất. Sư tử gầm lên một tiếng thì muôn loài đều run sợ, duy có Ðất là chẳng mảy may kinh động.
Trên đây là mười ý nghĩa của chữ "Ðịa" trong danh hiệu của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.
HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện gồm 13 phẩm.
Trong Kinh, phẩm 12 nói rõ, người nào thấy nghe, thờ phụng, trì niệm danh Bồ tát Địa Tạng được vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. Xin mời xem chi tiết trong Kinh.
Ðức Phật bảo Ngài Phổ Quảng: "Kinh này có ba danh hiệu: Một là Ðịa Tạng Bổn Nguyện, cũng gọi là Ðịa Tạng Bổn Hạnh, cũng gọi là Ðịa Tạng Bổn Thệ Lực Kinh. Do vì Bồ Tát này từ thuở kiếp lâu xa đến nay từng phát đại trọng nguyện làm lợi ích cho chúng sanh, cho nên các Ông phải y theo tâm nguyện mà lưu hành rộng ra." (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Xem thêm bản Kinh gộp: Mời xem tại đây
+ Hình Tư Tưởng Và Việc Mang Thai Thai Nhi: Hình Tư Tưởng...... Điều này diễn ra khá sớm trong công việc và sau khi diễn trình định hướng công việc kiến tạo tiến hành, vì hình tư-tưởng vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc sống độc lập. Có một tương đồng thực sự giữa thời kỳ thai nghén của trẻ sơ sinh, với thời kỳ phát triển của một hình-tư-tưởng. Tầm quan trọng của việc sắp xếp đúng đắn đứa trẻ trong dạ-con không bao giờ bị bỏ sót bởi một bác sĩ giỏi, và một cách tương tự, khi có vị trí sai trên con đường phải được noi theo trong sự sống biểu lộ, thì cái chết và sự rắc rối thường hay xảy ra. (LVHLT, 273)
+ Lợi ích của đọc tụng Kinh Địa Tạng hoặc niệm danh hiệu Ngài:
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Như trong đời vị lai, nơi cõi Diêm Phù Ðề, trong hàng Sát Lợi, Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ, tất cả các hạng người và những chủng tộc dòng họ khác, có người nào mới sinh được con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ đó mà tụng Kinh điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Bồ Tát đủ một vạn biến; thì đứa trẻ mới sinh đó, hoặc trai hoặc gái, nếu đời trước có ương báo thì đều được giải trừ, lại thêm an ổn, vui vẻ, dễ nuôi, thọ mạng tăng trưởng, còn nếu là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thì đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn."
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bồ Tát Phổ Quảng rằng: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Như trong đời vị lai, nơi cõi Diêm Phù Ðề..." Cõi Diêm Phù Ðề còn có tên là Nam Thiệm Bộ Châu, và là một trong bốn châu thuộc Tứ Ðại Bộ Châu. Con người ở Bắc Câu Lô Châu được sinh ra dưới gốc cây, và người mẹ sinh nở rất dễ dàng, giống như con gà đẻ trứng vậy, không đau đớn gì cả; khác hẳn với cõi Nam Diêm Phù Ðề là người mẹ phải chịu nhiều đau đớn. Còn ở Ðông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu thì người ta hoàn toàn không chú trọng đến việc sinh đẻ, mức sanh sản ở đây rất thấp. Ðó là vì lòng dâm dục của con người ở hai châu này rất nhẹ; bởi dục niệm ít cho nên mức độ sanh sản cũng rất thấp. Duy chỉ có chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề là muốn con cái đông đúc, cho rằng con đàn cháu đống là tốt, mặc dù việc sinh nở vô cùng đau đớn cho người mẹ.
"Trong hàng Sát Lợi, Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ, tất cả các hạng người và những chủng tộc dòng họ khác..."
"Sát Lợi" hay "Sát Ðế Lợi" là một dòng dõi quý tộc ở Ấn Ðộ. "Bà La Môn" cũng là dòng dõi quý tộc, và được gọi là "Tịnh Duệ," có nghĩa là dòng dõi thanh tịnh, trong sạch. "Trưởng giả" là người giàu có lớn. Ở đây, trưởng giả và cư sĩ là những người có tiền của mà không có lộc vị, vì họ không ra làm quan nên họ có "phú" (giàu) mà không có "quý" (sang). Còn dòng Bà La Môn và Sát Ðế Lợi thì vừa có "quý" lại vừa có "phú."
Như vậy, ở đời sau, trong toàn thể nhân loại, bao gồm tất cả những người thuộc mọi quốc gia và mọi chủng tộc, giả sử "có người nào mới sinh được con trai hoặc con gái..." Ở cõi Diêm Phù Ðề của chúng ta thì người mẹ phải chịu nhiều đau đớn khi sinh nở, lắm lúc còn nguy hiểm tới tánh mạng, đặc biệt là trong các trường hợp sanh khó như đẻ ngang, đẻ ngược. "Ðẻ ngang" tức là đứa bé ra đời trong tư thế nằm ngang (mông đít ra trước); còn "đẻ ngược" tức là đứa bé được sanh ra trong tư thế lộn ngược (hai chân ra trước). Lại có một trường hợp sanh nở khác cũng rất khó khăn, đó là một chân của đứa bé thò ra trước. Ngoài ra, có trường hợp sanh khó gọi là "bàn tràng" (nhao quấn), tức là khi đứa bé lọt lòng mẹ thì kéo cả dạ con của người mẹ ra theo.
Các trường hợp sanh khó thì rất nhiều, tuy nhiên, cho dù khó khăn trắc trở thế nào chăng nữa, nếu trước khi sanh, "nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ đó mà tụng Kinh điển không thể nghĩ bàn này—Kinh Ðịa Tạng, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Bồ Tát—Nam mô Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát—đủ một vạn biến, thì đứa trẻ mới sinh đó, hoặc trai hoặc gái, nếu đời trước có ương báo—nghiệp tội, quả báo xấu ác—thì đều được giải trừ, lại thêm an ổn, vui vẻ, dễ nuôi, thọ mạng tăng trưởng."
"Còn nếu là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thì đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn." Giả sử đứa bé sơ sinh đó không có tội báo, được sinh ra là nhờ ở phước báo, thì đời của đứa bé đó càng được an lạc và thọ mạng càng lâu dài hơn.
Cho nên, cái khổ cái sướng của đời người thì không nhất định, tuổi thọ của con người cũng chẳng có gì nhất định cả. Như có người được thầy tướng số đoán là chỉ sống đến ba mươi tuổi, thế mà đến bốn mươi tuổi anh ta vẫn còn sống nhăn; vì sao? Bởi vì thọ mạng của con người thì linh động, chứ không cứng nhắc cố định—nếu quý vị làm việc tốt thì thọ mạng của quý vị được lâu dài hơn, còn làm việc xấu thì tuổi thọ bị thu ngắn lại. Do đó, hết thảy mọi việc đều không có gì là nhất định cả.
Như trong Kinh đã nói, một người vốn đã gây nhiều tội lỗi, sanh ra trong đời này đáng phải gánh chịu nhiều đau khổ, thế nhưng, nhờ được người khác đọc tụng Kinh Ðịa Tạng và niệm danh hiệu của Bồ Tát Ðịa Tạng để trợ giúp cho, nên bao nhiêu thống khổ người ấy đáng phải nhận lãnh đều được tiêu tan. Chẳng những thế, người ấy sẽ là một đứa bé vui vẻ, dễ nuôi, tuổi thọ cũng gia tăng. Từ những điều này, quý vị có thể suy biết rằng đời người chẳng có gì là nhất định—tất cả đều tùy theo cách hành xử của chính mình mà thôi!
Tốt nhất là ngay lúc mang thai bèn đọc. Mỗi ngày đọc một bộ Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh, hoặc niệm một ngàn danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, phải dùng tâm chân thành, cung kính để tụng niệm thì phước báo sẽ rất lớn. Cho dù đứa con trong thai đến để báo oán, là oán gia chủ nợ đến, nếu bạn có thể chăm sóc nó như vậy thì oán kết ấy sẽ được hóa giải.
Bạn có ân đối với nó thì nó sẽ chẳng báo oán, nó sẽ đến cảm ơn, chuyển biến phải bắt đầu từ lúc ban đầu. Ở đây nói ít nhất phải là 7 ngày trước khi sanh, đương nhiên càng sớm thì càng tốt. Cho nên khi chúng ta hiểu đạo lý này, biết phương Pháp này, tốt nhất là khi mang thai bèn đọc, bèn tu tập theo phương Pháp này.
Người làm mẹ, tâm bình khí hòa, chân thành cung kính, thanh tịnh bình đẳng, khởi tâm động niệm gì cũng tuyệt đối sẽ ảnh hưởng đến đứa bé trong thai. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mười ngày trai giới - Mười ngày Kết tập tội nghiệp
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng, ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi là những ngày kết tập các nghiệp tội, thẩm định nặng nhẹ. Tất cả mọi cử chỉ, động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không chi là không nghiệp, không chi là không tội, huống hồ là buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, trăm ngàn tội trạng.
Nếu sau này trong đời vị lai, có chúng sanh nào trong mười ngày trai này có thể đối trước hình tượng của Phật, Bồ Tát, cùng chư Hiền Thánh mà đọc tụng Kinh này một biến, thì chung quanh chỗ người đó ở, bốn hướng Ðông Tây Nam Bắc, trong khoảng một trăm do-tuần, sẽ không có các tai nạn. Còn ở chính nhà của người đó, hoặc già hoặc trẻ, về hiện tại và vị lai, trong trăm ngàn năm được vĩnh viễn xa lìa ác đạo.
Nếu trong mười ngày trai này có thể mỗi ngày đều tụng một biến thì ngay đời hiện tại, những người trong nhà không bị tai ương hoặc bệnh tật, đồ ăn đồ mặc lại được dư dật."
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bồ Tát Phổ Quảng rằng: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng, ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi là những ngày kết tập các nghiệp tội, thẩm định nặng nhẹ."
Mỗi tháng, cứ vào mười ngày—mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm (rằm), mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi là tất cả quỷ thần đều tụ họp lại để điều tra tội lỗi của chúng sanh, cho nên mười ngày này chính là những ngày xét xử nghiệp tội. "Kết tập các nghiệp tội" tức là đắn đo cân nhắc tội lỗi của mỗi người, xét xem người này phạm bao nhiêu tội, người kia gây bao nhiêu lỗi. "Thẩm định nặng nhẹ" tức là đưa ra phán quyết, định tội người này nặng như thế nào hoặc tội người kia nhẹ ra sao.
"Tất cả mọi cử chỉ, động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không chi là không nghiệp, không chi là không tội, huống hồ là buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, trăm ngàn tội trạng."
"Cử chỉ động niệm"—"cử" tức là "động," và "chỉ" tức là "tĩnh"—trong cả "động" lẫn "tĩnh" đều sanh khởi cái niệm nghĩ suy, mà những niệm này không có cái nào không là tội lỗi cả. Tất cả mọi cử chỉ động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề (tức Nam Thiệm Bộ Châu) đều là tội lỗi—dấy động cái niệm này là nghiệp tội, dấy động cái niệm kia cũng là nghiệp tội—không gì là không nghiệp, không gì là không tội cả. Dù cho quý vị không có hành động sát sanh hại mạng, nhưng chỉ khởi tâm động niệm, dấy lên cái ý muốn sát hại thôi thì cũng đủ để tạo nghiệp tội rồi, huống chi là lại tự ý làm càn, cố tình giết hại chúng sanh?
Trộm cắp đồ vật và tà dâm đều là những hành vi bất chánh. Ðối với đa số người Tây phương thì tà dâm không phải là một vấn đề nghiêm trọng lắm, nhưng trong kinh sách nhà Phật thì đã nói ngay từ đầu: Phạm tà dâm thì mang tội rất lớn, bởi "vạn ác dâm vi thủ" (trong vạn điều xấu thì dâm dục đứng hàng đầu).
"Vọng ngữ" là nói những lời huênh hoang, dối trá, không thật.
Trên đây chỉ kể ra một vài tội trạng đại khái như thế thôi, nếu kê khai cho tường tận thì có đến cả trăm ngàn vạn thứ.
"Nếu sau này trong đời vị lai, có chúng sanh nào trong mười ngày trai này có thể đối trước hình tượng của Phật, Bồ Tát, cùng chư Hiền Thánh mà đọc tụng Kinh này—Kinh Ðịa Tạng—một biến, thì chung quanh chỗ người đó ở, bốn hướng Ðông Tây Nam Bắc, trong khoảng một trăm do-tuần, sẽ không có các tai nạn."
"Trai" có nghĩa là "tịnh," tức là chay tịnh. "Mười ngày trai" tức là vào những ngày này thì chỉ ăn những thứ thanh tịnh, sạch sẽ; tuyệt đối không ăn những thức ăn có mùi tanh như thịt, cá ... và những thứ có mùi hôi nồng như hành, hẹ, tỏi, nén ...
"Do-tuần" là đơn vị đo chiều dài của Ấn Ðộ; và được phân làm đại, trung và tiểu do-tuần. Một đại do-tuần tương đương với tám mươi dặm (lý), một trung do-tuần là sáu mươi dặm (lý), và một tiểu do tuần là bốn mươi dặm (lý).
"Còn ở chính nhà của người đó, hoặc già hoặc trẻ, về hiện tại và vị lai, trong trăm ngàn năm được vĩnh viễn xa lìa ác đạo." Ngoài ra, tất cả những người đang sống trong nhà người tụng Kinh Ðịa Tạng đó, bất luận là người lớn hay trẻ con, người già hay người trẻ, ngay trong đời này hoặc trăm ngàn năm về sau, sẽ thoát khỏi hẳn mọi quả báo của các chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và A Tu La.
"Nếu trong mười ngày trai này có thể mỗi ngày đều tụng một biến thì ngay đời hiện tại, những người trong nhà không bị tai ương hoặc bệnh tật, đồ ăn đồ mặc lại được dư dật." Trong suốt mười ngày trai của mỗi tháng kể trên nếu quý vị đều đặn tụng mỗi ngày một biến Kinh Ðịa Tạng, thì ngay đời này có thể khiến cho gia đình của quý vị được đồ ăn đồ mặc sung túc, không ai bị gặp chuyện rủi ro, cũng không ai bị ốm đau bệnh hoạn. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ A Tu La: Các tinh linh có hình người, về sau thành người.(LVLCK, 615)
+ A Tu La: Thiên chúng ở các cõi trời trên đây (ngoại trừ ở 5 cõi Bất-hoàn), đều là người phàm phu được hưởng thọ phước báo; khi hưởng phước hết rồi thì trở lại luân hồi. Riêng các vị thiên vương của các cõi trời kia thì đều là Bồ-tát, luôn trụ trong chánh định, dần dà tiến lên trên đường tu tập hướng tới Phật đạo. Tất cả thiên chúng đó đều do không rõ biết tánh giác sáng suốt nhiệm mầu vốn có nơi mình, cho nên vọng niệm tích tụ, rồi vọng sinh ba cõi; trong đó, các loài hữu tình, mỗi mỗi lại tùy theo vọng nghiệp mà chìm đắm trong 7 nẻo (Địa- ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Người, Tiên, A-tu-la, và Trời), thọ báo theo loại của mình. Trong 3 cõi ấy còn có 4 loài A-tu-la: Có loài nguyên từ loài Quỉ, do phước lực hộ trì Phật pháp mà có được thần thông, nhập vào hư không; loài A-tu-la này sinh ra từ trứng, thuộc về loài Quỉ. Có loài nguyên từ loài Trời, vì kém phước đức mà bị đọa lạc, ở gần mặt trời mặt trăng; loài A-tu-la này sinh ra từ bào thai, thuộc về loài Người. Có A-tu-la vương nắm giữ thế giới, sức mạnh suốt khắp chư thiên, không hề sợ ai, hay tranh quyền mà gây chiến với các trời Phạm Vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương; loại A-tu-la này do biến hóa mà sinh ra, thuộc về loài Trời. Lại có loài A-tu-la thấp kém, sinh trong lòng biển cả, lặn dưới vực sâu, ban ngày dạo đi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; loại A-tu-la này do thấp khí sinh ra, thuộc về loài Súc-sinh.
+ Cõi Atula có đặc điểm là tâm đố kỵ dày vò, vì vậy, chúng sinh ở cõi này luôn tranh đấu nhưng luôn bị thua cuộc. Hình ảnh minh họa thú vị là cây Như ý (cây Đời sống) mọc lên ở cõi Atula nhưng lại trổ quả Trường thọ ở cõi Trời, điều đó khiến loài Atula ganh ghét, luôn gây chiến với chư Thiên. Nhân dẫn đến tái sinh ở cõi Atula là sự tạo tác các thiện nghiệp nhưng vẫn còn tâm ganh đua, đố kỵ. (Xem nguồn-Trang 124)
+ 614. TÁM PHÁP TẰNG HỮU CỦA A-TU-LA
Vua A-tu-la là Bà-la-la con trai của Mâu-lê-già A-tu-la trả lời rằng:
Bạch Thế Tôn. Các A-tu-la của con ở trong đại hải không bị các sự suy thối này, là tuổi thọ của A-tu-la, sắc tướng của A-tu-la, sự hoan lạc của A-tu-la, sức mạnh của A-tu-la. Các A-tu-la thích sống trong đại hải.
Thế Tôn lại hỏi: Này Bà-la-la, trong đại hải có mấy pháp vị tằng hữu, khiến cho các A-tu-la thấy vậy nên thích sống trong ấy?
Bà-la-la trả lời rằng: Trong đại hải của con có tám pháp vị tằng hữu, khiến cho các A-tu-la thấy vậy nên thích sống trong ấy.
1) Đại hải của con từ đáy lên trên, chu vi dần dần rộng hơn, nghiêng chênh chếch lên dần mãi tạo thành bờ biển. Nước trong ấy luôn luôn đầy, chưa từng chảy ra ngoài.
2) Thủy triều trong đại hải của con chưa từng sai thời.
3) Nước trong đại hải của con rất sâu không có đáy, rất rộng không thấy bờ. Bạch Thế Tôn, nếu nước trong đại hải của con rất không sâu có đáy, rất rộng không thấy bờ; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ ba trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
4) Nước trong đại hải của con đều cùng một vị. Bạch Thế Tôn, nếu nước trong đại hải của con cùng một vị; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ tư trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
5) Trong đại hải của con có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu. Bạch Thế Tôn, nếu trong đại hải của con có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ năm trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
6) Đại hải là chỗ cư trú của các vị thần lớn. Những vị thần đó tên là A-tu-la, Kiền-thấp-hòa, La-sát, cá kình, rùa, cá sấu, Bà-lưu-nê, Đế-nghê, Đế-nghê-già-la, Đề-đế-nghê-già-la. Lại nữa, trong đại hải, rất kỳ lạ, rất đặc biệt, có chúng sanh thân thể tới một trăm do-diên, hai trăm do-diên, cho đến ba trăm do-diên, bảy trăm do-diên mà thân vẫn ở trong đại hải.
7) Đại hải của con thanh tịnh không dung chứa tử thi. Nếu có người nào mạng chung thì qua một đêm gió liền thổi tấp vào bờ.
8) Trong đại hải của con thuộc về châu Diêm-phù có năm sông lớn, là Hằng-già, Diêu-vưu-na, Xa-lao-phù, A-di-la-ba-đề, Ma-xí. Tất cả đều chảy vào đại hải. Chảy vào đó rồi, thảy đều bỏ tên cũ, gọi chung là đại hải. Đó là pháp vị tằng hữu thứ tám trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó. Nguồn: mục 614- (Trung A Hàm, Kinh A-Tu-La, Phẩm 4, số 35)
+ Thí Dụ Về Biển Cả, Kinh Tăng Chi Bộ _ Đức Phật dậy
... Đức Thế Tôn sau đó nói chuyện với thần Pahārāda như sau: "Pahārāda, ta nghĩ rằng các A-tu-la đã có nhiều vui thích về biển cả." - "Bạch Thế Tôn, đúng như thế." - "Pahārāda, có bao nhiêu phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu về biển cả, mà các A-tu-la đã nhận ra và nhiều lần vui thích?"
"Bạch Thế Tôn, có tất cả là tám phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu về biển cả, mà các A-tu-la đã nhiều lần vui thích. Đây là tám phẩm chất:
(1) Bạch Thế Tôn, biển cả dốc xuống dần dần, và nghiêng xuống từ từ, chứ không phải đột ngột dốc xuống thẳng tắp như vực thẳm. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu đầu tiên mà các A-tu-la nhận ra về biển cả và đó là lý do mà họ đã vui thích.
(2) Biển cả thì ổn định và nước không tràn lan ra khỏi ranh giới của nó. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ hai....
(3) Biển cả không dung chứa một xác chết hay một thây ma; nếu có một xác chết, biển cả sẽ nhanh chóng đẩy xác vào bờ rồi xô nó lên mặt đất. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ ba....
(4) Sau khi những con sông mạnh mẽ - như sông Hằng, Yamuna, Aciravatī, Sarabhū và sông Mahi - đổ ra biển cả, không còn ai gọi tên những con sông nầy nữa, vì tên chúng nay được thay thế bằng biển cả. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ tư....
(5) Dù tất cả các dòng nước, dòng sông trên thế giới chảy ra biển cả, cộng với nước mưa từ trên trời rơi xuống, nhưng nước biển dường như không thấy tăng hay giảm. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ năm....
(6) Biển cả chỉ có một vị, đó là vị mặn của muối. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ sáu....
(7) Biển cả có nhiều vật quý giá, khác nhau về thể loại và mầu sắc như: ngọc trai, đá quý, ngọc lưu ly, vỏ sò, đá thạch anh, san hô, bạc, vàng, hồng ngọc, và ốc mắt-mèo (cats-eyes). Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ bẩy....
(8) Biển cả là nơi trú ngụ của những sinh vật khổng lồ: cá timi, cá timiṅgala, cá timirapiṅgala, A-tu-la, long thần, và gandhabbas [demi-god, nửa thần, nửa người]. Có sinh vật dài một trăm do-tuần, hoặc dài hai, ba, bốn hoặc năm trăm do-tuần [1 do-tuần dài khoảng 6 miles tức gần 10 km]. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ tám mà các vị A-tu-la nhận ra về biển cả và đó là lý do mà họ đã vui thích.
"Bạch Thế Tôn, đây là tám phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu mà các A-tu-la đã nhiều lần vui thích về biển cả. Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng các Tỳ Kheo cũng vui thích trong Giáo Pháp và Giới Luật, có phải không?"
"Họ đã vui thích, Pahārāda."
"Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu mà các Tỳ Kheo đã nhận ra về Giáo Pháp và Giới Luật, mà họ đã nhiều lần vui thích?"
"Pahārāda, có tám phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu trong Giáo Pháp và Giới Luật, mà các Tỳ Kheo đã nhiều lần nhận ra, và đó là lý do mà họ đã vui thích. Đây là tám phẩm chất:
ĐỨC PHẬT DẬY: TÁM PHẨM CHẤT TUYỆT VỜI VÀ KỲ DIỆU CỦA PHẬT PHÁP
(1) Giống như là biển cả dốc xuống dần dần, và nghiêng xuống từ từ, chứ không phải đột ngột dốc xuống thẳng tắp như vực thẳm; Pahārāda, cũng như thế về Giáo Pháp và Giới Luật: Đây là một sự huấn luyện, thực tập dần dần, rồi tiến bộ từ từ; vì không có cách nào hiểu rõ một cách đột ngột chân lý tột cùng. [Nghĩa là, sẽ không có sự đột nhiên hiểu ra chân lý tột cùng, nhanh chóng như bước chân nhẩy vọt của một con ếch. Ngay từ lúc bắt đầu đi tu, nếu không sống hoàn toàn đạo đức, từ bi v.v., thì không thể đạt được quả A-la-hán. Chỉ bằng cách tu hành sống đời đức hạnh, tập trung tâm ý và dùng trí tuệ, rồi tu theo một thứ tự thích hợp - tức là giới, định, tuệ - mà người tu có thể đạt được quả A-la-hán.] Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu đầu tiên mà các Tỳ Kheo nhận ra trong Giáo Pháp và Giới Luật và đó là lý do mà họ đã vui thích.
(2) Giống như biển cả là sự ổn định và nước không tràn lan ra khỏi ranh giới của nó; cũng như thế, khi Như Lai dạy các đệ tử học hỏi về giới luật, họ sẽ không vi phạm vì họ xem giới luật là mục đích sống của đời họ. [Thí dụ như đối với các đệ tử cao quý như các vị Tu-Đà-Hoàn v.v., thì giới luật không thể nào làm cho tan vỡ.] Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ hai của Giáo Pháp và Giới Luật....
(3) Giống như là biển cả không dung chứa một xác chết hay một thây ma, biển sẽ nhanh chóng đẩy xác vào bờ rồi xô nó lên mặt đất; cũng như thế, Tăng Đoàn sẽ không dung chứa một tăng sĩ vô đạo đức trong hàng ngũ của mình, người mà có tính tình xấu xa, bất tịnh, có hành vi đáng ngờ vực, có những hành động bí mật, sống không đúng như một tăng sĩ khổ hạnh mà sống như một tăng sĩ giả hiệu, không trong sạch nhưng giả vờ sống trong sạch, thối tha đến tận lõi, nhiều dục vọng và có hành vi ghê tởm. Trong trường hợp nầy, Tăng Đoàn sẽ nhanh chóng tập họp và khai trừ ngay tăng sĩ đó. Mặc dù lúc tăng sĩ nầy hãy còn ngồi tập họp chung với Tăng Đoàn, nhưng người nầy cách xa Tăng Đoàn, cũng như Tăng đoàn cách xa người nầy. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ ba của Giáo Pháp và Giới Luật....
(4) Giống như những con sông mạnh mẽ sau khi đã đổ ra biển cả, không còn ai gọi tên những con sông nầy nữa, vì tên chúng nay được thay thế bằng biển cả; cũng như thế, khi những người thuộc bốn giai cấp - quý tộc, Bà la môn, thường dân và kẻ hầu hạ - khi xuất gia đi tu trở thành tăng sĩ, rồi tuân theo Giáo Pháp và Giới Luật lập nên bởi Như Lai, không còn ai gọi tên cũ và giai cấp của những người nầy, vì những vị tăng sĩ nầy nay được gọi là Những Người Con Thuộc Dòng Họ Đức Phật Thích Ca. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ tư của Giáo Pháp và Giới Luật....
(5) Giống như là biển cả, nước biển không tăng cũng không giảm, dù tất cả các dòng nước, dòng sông trên thế giới chảy ra biển cả, cộng với nước mưa từ trên trời rơi xuống; cũng như thế, dù có nhiều tăng sĩ tu hành đạt đến Niết Bàn, yếu tố Niết Bàn không có để lại "phần còn dư", nghĩa là không có tăng hay giảm trong yếu tố Niết Bàn. [Giả dụ như trong nhiều tỷ năm, vào thời không có Đức Phật xuất hiện, không có một người nào tu đạt đến Niết Bàn, ta cũng không thể nói Niết Bàn hoàn toàn trống chỗ. Nói một cách khác, trong cuộc đời Đức Phật, mỗi lần khi ngài giảng Pháp, có vô số người đạt đến Niết Bàn, ta cũng không thể nói Niết Bàn đã đầy hết chỗ.] Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ năm của Giáo Pháp và Giới Luật ....
(6) Giống như biển cả chỉ có một vị, đó là vị mặn của muối; cũng như thế, Giáo Pháp và Giới Luật chỉ có một vị, đó là hương vị giải thoát. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ sáu của Giáo Pháp và Giới Luật....
(7) Giống như biển cả, có nhiều vật quý giá khác nhau về thể loại và mầu sắc như: ngọc trai, đá quý v.v.; cũng như thế, trong Giáo Pháp và Giới Luật có nhiều điều quý báu. Sau đây là những điều quý báu: bốn nền tảng chánh niệm hay tứ niệm xứ, bốn nỗ lực đúng, bốn cơ sở thành công, năm khả năng thiêng liêng, năm thần thông, bẩy yếu tố giác ngộ, và Bát Chánh Đạo. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ bẩy của Giáo Pháp và Giới Luật....
(8) Giống như biển cả là nơi trú ngụ của những sinh vật khổng lồ; cũng như thế, Giáo Pháp và Giới Luật là nơi cư trú của những người sống đời cao thượng: các vị Tu-Đà-Hoàn và các vị tu hành để đạt được quả Nhập Lưu [còn tái sinh từ 1 đến 7 lần vào cõi dục giới]; các vị Tư-Đà-Hàm và các vị tu hành để đạt được quả Nhất Lai [còn tái sinh 1 lần vào cõi dục giới]; các vị A-Na-Hàm và các vị tu hành và đạt được quả Bất Lai [không còn tái sinh vào cõi dục giới]; các vị A-La-Hán và các vị tu hành để đạt được quả A-La-Hán [không còn luân hồi, sinh tử]. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ tám của Giáo Pháp và Giới Luật, mà các Tỳ Kheo đã nhiều lần nhận ra và đó là lý do mà họ đã vui thích.
"Pahārāda, đây là tám phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu trong Giáo Pháp và Giới Luật, mà các Tỳ Kheo đã nhiều lần nhận ra và đó là lý do mà họ đã vui thích." (Nguồn: Xem tại đây)
+ 615. TÁM PHÁP TẰNG HỮU CỦA CHƯ TỲ KHEO
- Tương Tự Như Tám Pháp Đại hại: Này Bà-la-la, trong Chánh pháp luật của ta (Đức Phật) cũng có tám pháp vị tằng hữu, khiến cho các Tỳ-kheo thấy được bèn hoan lạc trong đó. Những gì là tám? Nguồn: mục 615- (Trung A Hàm, Kinh A-Tu-La, Phẩm 4, số 35)
+ Ăn Chay Hay Không Ăn Chay - (Hòa thượng Tuyên Hóa)
Thuở ban sơ khi Phật còn tại thế, Ngài chủ trương con người nên ăn chay chứ không bắt buộc người ta phải ăn chay. Vì sao? Bởi có số người rất thích mùi vị thơm ngon, nếu Ngài kiên quyết bắt họ phải ăn chay thì e là họ sẽ không dám xuất gia. Nhân vì lúc bấy giờ có một số đệ tử của Phật thích ăn thịt mà Ngài cũng không nói gì. Người xuất gia là đi khất thực theo thứ lớp tuần tự. Người không ham ăn thì sẽ nói: “Người ta cúng dường thứ gì thì mình ăn thứ đó.” Còn người tham ăn thì có sự lựa chọn hơn.
Rốt cuộc thì ăn thịt và không ăn thịt có chỗ nào không giống nhau? Ăn thịt khiến cho con người có dục niệm nhiều, vọng tưởng nhiều và không dễ được an định. Nếu không ăn thịt thì con người sẽ thiểu dục tri túc, không có vọng tưởng gì nhiều, bởi vì khí huyết của họ thanh khiết, không bị vẩn đục nhiễm ô. Trong thịt có chứa khí dơ, vì nó xuất sanh từ những thứ rất ô uế. Bởi vậy người ăn thịt thì khó trì giới, khó khai mở trí tuệ và khó chứng được tam muội. Muốn giữ giới mà vọng tưởng cứ chập chờn, chung quy họ không giữ được nề nếp quy củ. Thành thử họ không có được định lực, lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều cũng không yên. Người mà đã không thể định được, tức sẽ không có trí huệ chân chánh. Vì người có trí huệ chân chánh, tức sẽ không phát sanh bất cứ vấn đề nào. Ăn thịt là đi vào con đường ngu si, không ăn thịt là đi trên con đường trí tuệ. Đây là chỗ không giống nhau giữa ăn chay và không ăn chay.
Ai muốn có trí huệ chân chánh thì phải thiểu dục tri túc, tức là ít ham muốn và biết đủ. Đừng nên ăn thịt nhiều quá. Nếu ta ăn nhiều thịt heo, như đem thịt của chính mình và thịt heo hợp thành công ty hữu hạn. Cho nên trong tương lai nếu ta không biến thành heo thì mới là lạ đấy! Mình mà ăn nhiều thịt bò, mình sẽ cùng bò hợp thành công ty hữu hạn thịt bò và vì vẫn còn tồn tại nhân duyên với bò bên trong, nên tương lai cũng có thể sanh làm bò. Cho đến ăn thịt chó sẽ biến thành chó. Ăn thịt chuột biến thành chuột. Mình ăn thịt gì thì thân thể của mình, do nhân duyên từ thịt đó sanh tồn nên lâu dần mình sẽ biến thành loài đó. Bởi vì phần khí trong thân thể mình đều đã biến thành khí heo, khí bò rồi. Máu huyết của mình cũng biến thành máu huyết của loài đó, cho nên thịt của mình cũng sẽ biến thành thịt của loài đó. Người có trí nên suy nghĩ kỹ về điều nầy! (Nguồn: Ăn chay hay không ăn chay - HT Tuyên Hóa)
+ Hỏi cách người tu ăn chay cùng gia đình: Sau cùng còn 1 vấn đề, họ nói khi tôi chưa tiếp xúc Phật pháp thì đời sống đơn giản an vui, thế nhưng từ sau khi tiếp xúc học Phật qua, phát hiện khi cùng ở chung với mọi người, đời sống thay đổi quá phức tạp, thậm chí ngay đến nồi chén cũng đều không thể đụng chạm, cái này không thể ăn, cái kia không đúng pháp, tôi đang do dự có nên bước vào của Phật hay không?
Người mới học Phật có những vấn đề này, trường hợp của cư sĩ Hồ Tiểu Lâm giảng nói được rất rõ ràng, khi ông mới bắt đầu học Phật, ông làm cho người cả nhà đều lo sợ, việc này không thể làm, việc kia không thể làm, nói người nhà ông đều đang tạo nghiệp, tương lai đều là quả báo của ba đường ác, làm cho cha mẹ ông cũng đều lo sợ, xem ông như là một ác thần vậy. Nghe nói ông sắp đến, đồ ăn ở trên bàn có cá thịt phải mau đậy kín lại, không để cho ông nhìn thấy.
Cho nên về sau, cũng là 1 cơ duyên ngẫu nhiên, ông đến Hong Kong, xem thấy tấm hình của mẫu thân và tôi, bức hình lần đầu tiên chúng tôi gặp lại nhau sau 36 năm xa cách. Khi đó tôi liền nói với Hồ Tiểu Lâm, tôi nói: “Lão thái thái rất khó được, rất định tĩnh, gặp lại tôi sau thời gian lâu như vậy mà bà vẫn không hề kích động, tôi đang giảng Kinh, bà nghe Kinh, sau khi nghe xong thái độ rất an tường, tôi nói thật rất là khó được, bà sống ở ngay trong đạo tràng, khi ăn cơm tôi hỏi bà muốn ăn thứ gì? Bà nói muốn ăn cá. Tôi liền bảo nhà bếp mua cá, mỗi bữa ăn đều dọn ra trước mặt bà, trong lúc bà ăn, bà xem thấy mọi người chúng tôi đều ăn chay, bà ở qua 1 tuần, sau đó trở về Thượng Hải, từ đó trở về sau bà liền ăn trường chay. Phải chính bà tự động phát tâm, chúng tôi không thể khuyên bà, khổ cực cả 1 đời, muốn ăn 1 chút cá cũng không ăn được , vậy thì làm sao được ?”
Hồ Tiểu Lâm nghe những lời nói này rồi, thì mới khai ngộ, thì ra là như vậy. Tôi nói anh quay về nhà vạn nhất không gây chướng ngại cha mẹ anh, họ muốn ăn cái gì thì anh cho họ ăn cái đó, cho nên về sau quan hệ của họ rất tốt, cha mẹ đều rất cảm kích đối với Phật pháp, không hề nghĩ đến học Phật tốt đến như vậy, học truyền thống văn hóa tốt đến như vậy. Họ ở ngay trong bạn bè cũng truyền nói với nhau. Không hề có chướng ngại, làm gì có những chướng ngại như vậy chứ.
Phật pháp ở nơi ăn uống có khai duyên, nhất định phải nên biết, tại vì sao không bảo bạn ăn? Ăn thịt là sát sanh, không phải chúng nó cam tâm tình nguyện để cúng dường, nếu chúng ta không ăn thịt thì người ta sẽ không sát sanh. Khi họ sát sanh cái nghiệp đó của họ chúng ta phải gánh lấy 1 phần, hiểu rõ cái đạo lí này thì tự nhiên không thể ăn thịt. Ăn chay, ăn chay rất tốt! Tôi học Phật đại khái nữa năm tôi liền ăn trường chay. Đọc qua mấy biến Kinh Địa Tạng thì ăn trường chay. Trước khi chưa học Phật, lúc nhỏ, đại khái là năm 17, 18, 19 tuổi, đi săn bắn hết 3 năm, giết không ít chúng sanh, chân thật cầu sám hối, quả báo của sát sanh này, phụ thân tôi đã biểu diễn cho tôi thấy, khi phụ thân tôi chết, tình trạng khi lúc bệnh nặng hoàn toàn giống y như trên Kinh Địa Tạng, để cho tôi chính mắt xem thấy. Trước đó tôi không hề biết, vì sao ra đi thảm đến như vậy? Thật thê thảm. Về sau khi tôi học Phật mới biết đó là quả báo của săn bắn sát sanh, việc này có 1 sự cảnh tỉnh đối với tôi rất lớn, tôi liền đoạn dứt ăn thịt, liền đổi qua ăn chay. Khi ở nhà ăn cơ quan chúng tôi yêu cầu họ làm đồ chay, họ đặc biệt làm cho tôi, cơ quan của chúng tôi người ăn chay không nhiều, có 7- 8 người cũng vừa đủ 1 bàn.
Trong thức ăn rau cải, các vị phải nên biết, hành tỏi là rau cải, không phải là thịt, trên chữ Huân là bộ Thảo, nhục là gì? là tanh, gọi là huân tanh, tanh là ăn thịt. Cho nên trong rau cải có 5 loại rau cũng là năm loại không nên ăn: hành, hẹ, tỏi, nén, xà cừ. Vì sao vậy? Tánh chất của 5 loại này không tốt, ăn sống rất dễ khởi can hỏa, dễ tức giận, vậy thì không tốt, ăn quen 5 loại này nó sẽ sanh ra can hỏa, dễ dàng khởi tánh xung động. Phật do nguyên nhân này mà định giới luật, bạn phải hiểu rõ vì sao Ngài định ra giới luật này. Cho nên những thứ này có thể dùng làm hương liệu, phối liệu thì không vấn đề, đều có thể dùng. Vì sao vậy? số lượng ít, sẽ không sanh ra tác dụng thì có thể dùng. Cho nên có một số người hoàn toàn đoạn tuyệt hết, hoàn toàn không dùng. Nếu hoàn toàn không dùng những thứ này thì một số người không muốn ăn chay. Bạn dùng phối vị này, đồ ăn rất ngon, đều có thể dùng được, đặc biệt là với người tại gia.
Cho nên bạn phải hiểu rõ cái đạo lý này, phải thấu hiểu Phật chế định giới luật này dụng ý ở chỗ nào, phải áp dụng thế nào. Vậy mới thật biết, hiểu đạo lý! Khi bị bệnh thì có thể dùng, nếu như bác sĩ ra phương thuốc dùng những thứ này làm thuốc dẫn, thảy đều có thể dùng, thậm chí có rất nhiều xương cốt động vật có ở trong thuốc trung dược, tất cả đều có thể dùng, không có kỵ húy, dùng để trị bệnh. Còn có một việc, người 70 tuổi trở lên, thân thể suy yếu, cần phải có những thứ này để trở giúp thì có thể dùng, đều có khai duyên.
Phật pháp là linh động hoạt bát, không có pháp nào khô cứng. Cho nên nếu bạn không hiểu được đạo lý của nó, bạn trì giới sẽ không biết trì, nên khai mà không khai cũng gọi là phạm giới, không nên khai mà bạn khai cũng gọi là phạm giới. Cho nên giới luật bạn không cố gắng học thì bạn sẽ không biết trì, bạn không biết được cách làm như thế nào. Cho nên học Phật ngay trong đời sống không có được pháp hỷ. (Pháp Sư Tịnh Không giảng)
+ Sám Hối?
Sám nghĩa là ăn năn các tội trước của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét, đã tạo ra từ trước, tất cả đều ăn năn, hằng chẳng gây lại nữa. Ấy gọi là Sám.
Hối nghĩa là ăn năn các lỗi sau của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét tạo ra, nay đã giác ngộ rồi, tất cả đều dứt bỏ đời đời, ngày sau chẳng gây ra nữa. Ấy gọi là Hối. Cho nên kêu là Sám hối.
Các người phàm phu ngu muội chỉ biết ăn năn tội trước của mình, mà chẳng biết ăn năn lỗi sau. Bởi chẳng ăn năn, nên tội trước chẳng dứt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại sanh, thì sao gọi là Sám hối được?
Chư Thiện tri thức! Đã sám hối rồi, bây giờ ta cho các ngươi lập Bốn điều thề nguyền lớn (tứ hoằng thệ nguyện). Mỗi người phải dùng tâm chơn chánh mà nghe ta dạy:
Cả thảy chúng sanh không giới hạn trong tâm mình đều thề nguyền hóa độ.
Cả thảy các điều phiền não chẳng xiết kể trong tâm mình đều thề dứt bỏ.
Cả thảy các pháp môn kể trong tánh mình đều thề nguyện học cả.
Đạo Phật cao hơn hết trong tánh mình thề nguyền tu đến thành công.
Chư Thiện tri thức! Cả thảy chúng ngươi há chẳng nói: "Cả thảy chúng sanh không giới hạn, mà tự mình đều thề nguyền hóa độ, thế thì chẳng phải Sư Huệ Năng độ!"
- Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ.
- Tất cả các điều phiền não chẳng xiết kể đều thề nguyền dứt bỏ, nghĩa là đem Trí Bát nhã của tánh mình mà dứt bỏ lòng nghĩ tưởng giả dối. Thế mới gọi là thiệt độ.
- Tất cả các pháp môn kể không hết đều thề nguyền học cả, nghĩa là tự mình phải thấy tánh, thường thực hành các chánh pháp. Thế mới gọi là thiệt học.
- Đạo Phật cao hơn hết thề nguyền tu đến thành công, nghĩa là đã thường hạ được cái tâm (giữ hạnh khiêm cung), làm việc chơn chánh, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát nhã, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo.
Thường thường tưởng đến việc tu hành là cái chánh pháp tạo nên mạnh của thệ nguyện (nguyện lực) vậy. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Sám hối hàng ngày: "Hoặc tớ trai, hoặc tớ gái, cho đến những kẻ không được quyền tự do..." "Không được quyền tự do" có nghĩa là cái thân thể này của mình bị lệ thuộc, mình là kẻ nô lệ và phải nghe theo sự sai khiến của chủ nhân, không được tùy tiện muốn đi đâu thì đi hoặc muốn làm gì thì làm nữa.
"Rõ biết là do túc nghiệp, cần phải sám hối..." Những người mà hiện đời phải thuộc hàng hạ tiện, bị mất tự do, hoặc phải đem thân làm nô tỳ tôi tớ cho kẻ khác, đều là do đời trước họ đã gây ra nghiệp tội rất lớn rất nặng, vì vậy bây giờ họ cần phải thành tâm ăn năn hối cải. Họ có thể lạy Sám Ðại Bi, Sám Tịnh Ðộ, hoặc các loại sám khác, để sám hối các tội lỗi của mình. Tại sao hằng ngày chúng ta đều lạy Sám Ðại Bi? Bởi chúng ta cũng không biết rõ được đời trước mình đã gây ra bao nhiêu nghiệp tội, cho nên lúc nào cũng phải sám hối hết thảy mọi tội lỗi. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đối trước tượng Phật - Bồ tát lễ lạy đọc tụng Kinh Chú hay thực hành tu hộ người thân:
"Mắt phàm tục của kẻ nam người nữ không thể biện rõ việc đó." Người thế gian, cả nam lẫn nữ, bởi chưa đắc Thiên Nhãn Thông, cũng chưa chứng Túc Mạng Thông, nên không hiểu được vì sao bệnh nhân lại ra nông nỗi như thế. Người đời không thể hiểu được, thế thì có biện pháp gì có thể cứu giúp bệnh nhân không? Có chứ! Bấy giờ, những người thân thuộc của bệnh nhân "chỉ nên đối trước tượng của chư Phật, chư Bồ Tát, lớn tiếng đọc tụng Kinh này một biến..." Nếu không có tượng của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thì cứ đối trước tượng của Bồ Tát khác mà cất cao giọng tụng Kinh Ðịa Tạng đủ một biến cũng được.
"Hoặc lấy những vật ưa thích của người bệnh như y phục, đồ quý báu, nhà cửa, ruộng vườn..., đối trước người bệnh lớn tiếng xướng rằng: ‘Chúng con, tên đó họ đó, xin vì người bệnh này—nêu rõ họ tên của bệnh nhân—mà đối trước kinh, tượng, thí xả những vật này ..." "Những vật này" tức là những của cải của riêng người bệnh, những thứ mà người bệnh yêu chuộng nhất, luyến tiếc nhất—nhà cửa, ruộng vườn, áo quần, vàng bạc..., nói chung là của cải vật chất của người bệnh.
Thân nhân của người bệnh nên lớn tiếng khấn nguyện rằng: "Chúng con (họ, tên) nay thay mặt người bệnh (họ, tên) mà đối trước Kinh Ðịa Tạng và tượng của Bồ Tát Ðịa Tạng (hoặc tượng của Ðức Phật hay Bồ Tát khác), xin được cúng dường những của cải này để hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo hình tượng của Phật, Bồ Tát, hoặc xây dựng chùa tháp, hoặc sắm đèn dầu thắp cúng, hoặc cúng vào Thường Trụ."
Những người thân thuộc có thể bán đi gia sản của bệnh nhân để lấy tiền mà đúc tượng Phật, tượng Bồ Tát, bởi công đức này là to lớn nhất. Lại nữa, họ cũng có thể dùng tiền ấy để xây chùa dựng tháp, mua dầu đốt đèn thắp cúng trước tượng Phật, hoặc cúng dường cho chùa chiền, tự viện.
"Xướng lên như vậy ba lần cho người bệnh được nghe biết." Cứ thế mà lập đi lập lại ba lần trước mặt bệnh nhân, và mỗi lần phải chắc chắn là bệnh nhân đều lắng nghe và đều hiểu rõ. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Trong giấc mộng - Giấc mỵ mơ thấy quỷ thần - Mơ thấy ma quỷ - Mơ thấy vong linh - Mơ thấy vong hồn người đã chết
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Như những chúng sanh ở đời vị lai, hoặc trong mộng trong mị, trông thấy các quỷ thần cùng các hình bóng khác, hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt; đây đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ, còn đang bị đọa lạc trong ác đạo, chưa được ra khỏi, lại không trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt, nên mới mách bảo với kẻ có tình cốt nhục trong đời trước, khiến làm phương tiện hầu mong được thoát khỏi ác đạo.
Này Phổ Quảng! Ông nên dùng thần lực khiến hàng quyến thuộc đó đối trước tượng của chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc Kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc, đủ số ba biến hoặc bảy biến. Như vậy, kẻ quyến thuộc đang ở trong ác đạo kia, khi tiếng tụng kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, cho đến trong mộng trong mị không thấy hiện về nữa."
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi Bồ Tát Phổ Quảng mà bảo rằng: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Như những chúng sanh ở đời vị lai, hoặc trong mộng trong mị..."
"Mộng" là giấc mộng xảy đến khi chúng ta ngủ say rồi; còn "mị" là lúc chúng ta mới chập chờn, chưa thật sự đi vào giấc ngủ. Không phải là tỉnh hẳn mà cũng không phải là ngủ hẳn, thì gọi là "mị"; nếu hoàn toàn tỉnh táo thì gọi là "ngộ" (thức, tỉnh ngủ) chứ không phải là "mị." "Giả mị" tức là lúc mắt nhắm lại, lim dim sắp ngủ.
"Mộng" thì có rất nhiều loại:
1) Giấc mộng do tập khí vô minh (Vô minh tập khí mộng). Bởi vô minh nên có thói quen hồ đồ, rồi vì thế mà những việc thấy trong mộng cũng lộn xộn, không mạch lạc rõ ràng, đến khi ngủ dậy thì chẳng còn nhớ gì cả.
2) Giấc mộng báo trước việc lành hay dữ (Thiện ác tiên trưng mộng), cũng gọi là " giấc mộng dự đoán việc may hoặc rủi (kiết hung dự cáo mộng)" . Ðây là loại mộng báo điềm, mách cho người nằm mộng biết trước là sẽ có chuyện tốt hay xấu, lành hay dữ, may hay rủi, sắp xảy ra.
Có lần, Hư Vân Lão Hòa Thượng mộng thấy Ðức Lục Tổ dạy rằng: "Ông hãy trở về đi! Hãy về bên đó làm một vài công việc!" Lão Hòa Thượng nghe nói như thế thì cứ đinh ninh là mình sắp chết tới nơi rồi, cho nên Lục Tổ mới bảo "trở về"; về sau mới vỡ lẽ là Lục Tổ dặn Ngài đến Nam Hoa Tự để tu bổ chùa chiền! Ðây là thuộc loại mộng báo điềm lành; sự việc chưa xảy ra song Ngài Hư Vân được Ðức Lục Tổ báo mộng, mách bảo cho biết trước.
Có người mộng thấy được mách bảo rằng: "Anh cần phải cẩn thận một chút, coi chừng ngày mai bị đụng xe mà chết đấy!" Anh ta chẳng tin, thế nhưng ngày hôm sau quả nhiên anh ta bị đụng xe mà chết thật! Ðây gọi là "kiết hung tiên trưng mộng," hoặc "thiện ác tiên trưng mộng," tức là giấc mộng báo trước việc may rủi, lành dữ sắp xảy ra.
3) Giấc mộng do Tứ Ðại chênh lệch (Tứ Ðại thiên tăng mộng). "Tứ Ðại" là địa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa), phong (gió). Theo các sách y học của Trung Hoa thì có bốn trăm bốn mươi (440) chứng bệnh, và tám trăm tám mươi (880) phương thuốc để chữa trị. Kỳ thật, con người có tới tám vạn bốn ngàn (84.000) chứng bệnh, cho nên Ðức Phật mới nói ra tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn để đối trị tám vạn bốn ngàn chứng bệnh đó.
Khi Tứ Ðại—địa, thủy, hỏa, phong—chênh lệch, tăng giảm không đồng nhau, thì cơ thể sẽ sanh bệnh. Chẳng hạn, nếu "địa" nhiều ("địa" thuộc về "thổ") thì xung khắc với "thủy," thế là sanh bệnh; "hỏa" nhiều thì khắc "thủy," thế là cũng sanh bệnh; "phong" nhiều thì khắc "địa," thế là cũng sanh bệnh. Những loại bệnh này được gọi là "Tứ Ðại thiên tăng bệnh" (bệnh do Tứ Ðại chênh lệch) hoặc "Tứ Ðại bất điều bệnh" (bệnh do Tứ Ðại không điều hòa). Người bị bệnh do Tứ Ðại mất quân bình cũng có thể nằm mộng, và đó gọi là "Giấc mộng do Tứ Ðại chênh lệch".
4) Giấc mộng tìm gặp bạn cũ (Tầm hữu cựu thời mộng). Thí dụ trước kia quý vị có quen một người nào đó song đã lâu rồi không gặp mặt, đến lúc chiêm bao thấy người đó tới chơi thì tay bắt mặt mừng, rất là vui vẻ; nhưng sau khi tỉnh giấc mới vỡ lẽ ra tất cả đều là giả—đó gọi là " Giấc mộng tìm gặp bạn cũ" vậy.
Trên đây là nói về một vài loại "mộng."
Như vậy, nếu có người nào trong mộng, trong mị, hoặc trong lúc mơ màng sắp ngủ, "trông thấy các quỷ thần cùng các hình bóng khác, hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt..." Các quỷ thần này hiện ra với đủ thứ hình tướng kỳ dị—mặt xanh, tóc đỏ, miệng to, răng nanh dài như ngà voi chìa ra khỏi miệng... Ngoài ra, trong cơn mộng mị, người này còn trông thấy vô số hình bóng ma quái đáng sợ khác hiện ra, và khi vừa trông thấy người này thì các bóng ma ấy liền òa khóc tức tưởi, nước mắt nước mũi đầm đìa. Các bóng ma đó dáng điệu rất thiểu não, vừa nhìn là thấy ngay vẻ u ám ủ dột, rầu rĩ không vui, hoặc khiến cho người khác vô cùng kinh hãi. Có bóng ma lại cứ thở dài não nuột: "Ôi chao! Than ôi! Ôi!"
"Ðây đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ." Những quỷ thần hoặc hình bóng lạ mà quý vị thường gặp trong mộng hoặc trong mị có thể là cha mẹ của quý vị trong các đời trước. Cho nên, quý vị phải xem tất cả chúng sanh như là cha mẹ của mình trong đời quá khứ và là chư Phật trong đời vị lai. Và chính vì thế, quý vị cần phải chu toàn hiếu đạo, chớ nên quấy nhiễu, não loạn chúng sanh.
Như vậy, trong mộng hoặc trong mị quý vị có thể thấy vong linh của cha mẹ, anh em, chị em, vợ chồng, hoặc thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời trước "còn đang bị đọa lạc trong ác đạo, chưa được ra khỏi." Vì đã trót gây ra tội lỗi nên họ bị đọa vào các ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—và cho đến nay vẫn chưa được thoát ra. Thêm vào đó, họ "lại không trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt." Các vong linh này lại chẳng có nơi nào để bám víu với hy vọng là sẽ có người lo tụng Kinh và làm việc công đức để giúp cho họ được siêu độ, "nên mới mách bảo với kẻ có tình cốt nhục trong đời trước, khiến làm phương tiện hầu mong được thoát khỏi ác đạo."
Theo Phật Giáo, tại sao lại có lệ tụng Kinh cho người đã quá vãng và ngay cả người còn sống? Bởi vì trong Kinh Ðịa Tạng đã dạy như thế! "Phước lực" ở đây tức là công đức tụng Kinh. Thế thì, vì những vong linh đó không có nơi nào để kỳ vọng là mình sẽ được cứu vớt, nên họ bèn báo mộng, nói cho những kẻ có tình cốt nhục với họ từ đời trước được biết; cầu mong rằng những người ấy sẽ vì họ mà dùng nhiều phương tiện để làm việc công đức, giúp họ thoát khỏi các ác đạo.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi: "Này Phổ Quảng! Ông nên dùng thần lực—sức thần thông—khiến hàng quyến thuộc đó đối trước tượng của chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc Kinh này. Ông hãy làm cho thân nhân đời trước của các vong linh đó đem lòng chí thành khẩn thiết mà tự đọc tụng Kinh Ðịa Tạng, hoặc thỉnh người khác đọc."
Nếu hàng quyến thuộc vì lý do nào đó nên không thể tự đọc tụng được, thì họ có thể bỏ tiền ra nhờ người khác tụng Kinh Ðịa Tạng giúp cho vong linh. Bất luận là ai, người đó đều phải tụng "đủ số ba biến hoặc bảy biến." "Ba" và "bảy" đều là số dương. Những số 1, 3, 5, 7, 9 đều thuộc dương và là số lẻ; còn những số 2, 4, 6, 8 thì thuộc âm và là số chẵn. Số dương là biểu hiện của sự phá trừ nghiệp tội địa ngục.
"Như vậy, kẻ quyến thuộc đang ở trong ác đạo kia, khi tiếng tụng Kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, cho đến trong mộng trong mị không thấy hiện về nữa." Khi tụng xong Kinh Ðịa Tạng, đủ số ba biến hoặc bảy biến, tiếng tụng Kinh vừa dứt thì những vong linh quyến thuộc đang trầm luân trong ác đạo kia cũng đều được giải thoát, và trong mộng lẫn trong mị, quý vị đều vĩnh viễn không còn thấy họ hiện về như thế nữa. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hóa giải - Tiêu trừ nghiệp: ...Nên biết rằng mang nghiệp chỉ mang nghiệp cũ, không mang nghiệp mới. Không nên nghĩ rằng mang nghiệp vãng sanh thì ta mỗi ngày chúng ta có thể tạo nghiệp đều có thể mang theo. Làm gì có đạo lý như vậy, quá khứ đã tạo nghiệp có thể mang theo, hiện tại tạo nghiệp không thể mang theo. Phải hiểu rõ cái đạo lý này. PS Tịnh Không giảng về Sám hối tiêu trừ nghiệp chướng. (Nguồn: Giảng về Sám hối - PS Tịnh Không)
+ Thần Chú Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại:
Bấy giờ Đức Thế Tôn thương xót chúng sinh, muốn che hộ tất cả nên lại thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát nói Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Chú
Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Đại Bi xông ướp Tâm, nương theo Thần Lực của Đức Phật mà nói Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Chú.
“Nam mô Phật Đà
Nam mô Đạt Ma
Nam mô Tăng Già
Nam mô Bậc Đại Từ Đại Bi là Quán Thế Âm Bồ Đề Tát Đỏa, ma ha tát đỏa”
Nguyện xin xót thương con mà cứu hộ khổ não, cũng cứu tất cả chúng sinh đang bị sợ hãi khiến cho được Đại Hộ.
Đa điệt tha: Đà hô nị (Gọi là Đại Quỷ) Mạc hô nị (Gọi là Thủy Quỷ) Diêm bà nị đam bà nị a bà hy (Hư Đề Phản gọi là Nhân Sân Quỷ) Mạc hô nị (Miệng của loài Quỷ này tuôn ra lửa gọi là Quang Quỷ) An trà lê (Gọi là Hoa Quỷ) Bát trà lê (Thân của Quỷ này màu trắng nên gọi là Bạch Quỷ) Du bệ đế (Gọi là Cực Bạch Quỷ) Bát trà la bà tư nị hưu hưu lâu lâu (Tam Đầu Quỷ _ Quỷ 3 đầu) An trà lê đâu đâu lâu lâu (Tam Đầu Nhi Quỷ _ Quỷ hình con nít có 3 đầu) Bát trà lê (Gọi là Mẫu Hắc Nhi Bạch Quỷ) Chu chu lâu lâu (Vào trong núi đi chẳng giết. Chu chu lâu lâu gọi là Hảo Dụ Nhân Tiểu Nhi Sơn Trung Trú Quỷ _ Quỷ khéo dụ con nít vào trong núi ở) Nị bàn trà lê (Gọi là Xuất Bạch Quỷ) Đậu đậu phú phú [Đậu đậu gọi là Dục Tiện Khứ Quỷ (Quỷ khiến đi ngay) Phú phú gọi là Bất Canh Lai Quỷ (Quỷ đến chẳng thay đổi)] Bát trà la bà tư nị thần tri (Tấn Tư Phản gọi là Ức Quỷ) Chẩn trì (Gọi là Bất Ức Quỷ) Nị chẩn trì (Gọi là Tối Ức Quỷ) Tát bà a bà gia yết đa tát bà niết bà bà đà gia (Mạc trước nghi nhân _ Người không vướng nghi ngờ) A bà gia (Mạc tác Quỷ _ Quỷ đừng làm) Tỳ ly đà (Nói là Ngạ Quỷ _ Quỷ đói) Bế điện, sa ha (Ẩn đi đừng đến)
Tất cả loài gây sự sợ hãi, tất cả loài tạo sự độc hại, tất cả loài Quỷ ác, cọp, sói, sư tử nghe thấy Chú này thì miệng bị bế tắc, chẳng có thể gây hại được.
Người phá Phạm Hạnh làm 10 nghiệp ác nghe được Chú này thì khử trừ phẩn uế (phân dơ) trở lại được thanh tịnh. Giả sử có nghiệp chướng độc ác chẳng lành, nếu xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát và trì tụng Chú này liền phá nghiệp chướng, đời này được gặp Phật.
Đức Phật bảo A Nan: “Nếu có Đệ Tử trong 4 Bộ thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng niệm Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni thì người hành Chú này, thân thường không có hoạn nạn, Tâm cũng không có tật bệnh.
Giả sử có nạn lửa lớn từ 4 mặt đến thiêu đốt thân mình, do trì tụng Chú này cho nên Long Vương giáng mưa liền được giải thoát.
Giả sử bị lửa đốt thân làm cho mỗi một chi tiết đau đớn mà nhất tâm xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, 3 lần tụng Chú này thì liền được trừ khỏi.
Giả sử gặp lúc đói kém, lúa gạo quý hiếm, nạn vua chúa, thú dữ, trộm cướp, bị mê man trên đường xá. Hoặc bị giam cầm trong lao ngục, bị gông cùm xiềng xích, 5 sự trói buộc. Hoặc vào trong biển lớn gặp gió bão (Hắc Phong) sóng đập vào núi tạo thành màu của nước. Hoặc bị nạn Dạ Xoa, La Sát. Hoặc bị thuốc độc, đao kiếm, sắp bị chém chết. Hoặc nghiệp duyên của đời quá khứ, hoặc đời này tạo ra mọi điều ác, do Nhân Duyên đó phải chịu tất cả sự khổ và điều rất sợ hãi. Khi ấy cần phải nhất Tâm xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và trì tụng Chú này 1 biến cho đến 7 biến sẽ tiêu phục độc hại, hạnh ác, nhóm ác chẳng lành giống như lửa thiêu đốt củi hết sạch không còn sót. Bởi nhân duyên ấy mà Thần Chú do Quán Thế Âm Bồ Tát nói, được gọi là: Ban cho tất cả chúng sinh thuốc Cam Lộ màu nhiệm, được không có bệnh sợ hãi, chẳng sợ chết đột ngột, chẳng sợ bị trói buộc với các nỗi sợ hãi về 3 Độc tham dục, giận dữ, ngu si. Chính vì thế cho nên ở Thế Giới Sa Bà (Saha Loka) này đều xưng tán Quán Thế Âm Bồ tát là Bậc ban cho sự không sợ hãi (Thí Vô Úy Giả _ Abhayamïdada)
_ Đà La Ni (Dhàranïì) là chương cú Quán Đỉnh, Phạm Hạnh vô thượng, quyết định Cát Tường, biển Công Đức lớn, chúng sinh nghe qua được đại an lạc cho nên cần phải tụng âm thầm (Ám Tụng).
Nếu muốn Tụng cần phải Trì Trai, chẳng uống rượu chẳng ăn thịt. Dùng tro xoa bôi thân thể rồi tắm gội sạch sẽ. Chẳng ăn Hưng Cừ, ngũ tân, vật hay xông hơi đều chẳng được ăn, cũng chẳng qua lại với phụ nữ ô uế. Thường niệm mười phương Phật với 7 vị Phật Thế Tôn, nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng trì Chú này thì thân này được thấy Quán Thế Âm Bồ Tát và đều được thành tựu tất cả Nguyện lành, đời sau được sinh trước mặt Phật chẳng còn bị khổ khác”
Đức Phật bảo: “Này A Nan! Đại thành Vương Xá có một nữ nhân bị ác quỷ nhiếp tên là Chiên Đà Lợi (Canïdïari). Ngày đêm Quỷ đó hiện thành hình người chồng đến quấy nhiễu cô gái này. Vì thân bị vướng tinh của con Quỷ nên sinh ra 500 Quỷ con. Ông còn nhớ chuyện đó không? Vào lúc ấy, Ta dạy cho cô gái này xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhờ Tâm lành tiếp nối mà được vào cảnh giới lành.
Này A Nan! Nên biết sức uy thần của Bồ Tát này khiến Ác Quỷ bị tiêu phục, được thấy sắc tượng không thể sánh của thân Ta. Vào lúc ấy mỗi mỗi lỗ chân lông của Ta hiện ra hoa sen báu, vô số vị Hóa Phật khác miệng cùng lời xưng tán Bậc Đại Bi Thí Vô Úy khiến cho người nữ thọ trì đọc tụng thông suốt. Công Đức của Chú này dứt sạch 3 Chướng, thoát khỏi lửa của ngục Tam Giới, chẳng thọ mọi khổ, 404 bệnh một Thời chẳng khởi.
Đề nghị xem kỹ Kinh văn gốc. Nếu thọ trì đọc tụng đúng như lý như pháp sẽ có được sự nhiệm mầu. (Nguồn: Kinh chú Đà La Ni Thỉnh Bồ Tát Quán Thế Âm Tiêu Phục Độc Hại)
+ Tiêu trừ nghiệp chướng: Phương Pháp tốt nhất để tiêu trừ nghiệp Chướng là đoạn ác, tu thiện, tích lũy công đức, nhất tâm hướng về Phật.
Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý, biết làm thế nào có thể khắc phục bệnh khổ, bệnh chắc chắn là nghiệp Chướng, khi nghiệp Chướng khởi lên thì phải biết làm cách nào tiêu trừ nghiệp Chướng.
Phật là chí thiện, hết thảy thiện Pháp thế gian và xuất thế gian chẳng có gì thiện hơn Phật, niệm Phật là việc thiện lành hạng nhất. Niệm Phật đích thật có thể giải quyết hết thảy vấn đề, tại sao không niệm?
- Bố thí là phương pháp tiêu tai giải nạn tốt cho người người gặp bệnh nạn khổ đau, ví như người bệnh sống dở chết dở, người nhà đem tài sản của người đó đi bố thí đúng pháp thì hiệu quả rất tuyệt. (Xem nguồn: PS Tịnh Không)
+ Hỏi: Như thế nào mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng?
Hòa Thượng Tịnh Không trả lời: Tiêu trừ nghiệp chướng, quan trọng nhất là sám hối, biết chính mình đã làm sai, sám hối quan trọng nhất là “về sau không tạo nữa”. Sám hối rồi, ngày mai tái phạm nữa, như vậy không được, như vậy nghiệp chướng vĩnh viễn không thể tiêu trừ. Vấn đề này cũng có nhiều người hỏi đến. Về sau không tạo nữa, giống như Nhan Hồi, học trò của Khổng Tử, Khổng Tử chỉ tán thán người học trò này, người học trò này tốt ở chỗ nào? “Không mắc lỗi hai lần”, chỉ mắc lỗi một lần, ông sẽ không lập lại lỗi lầm của mình nữa. Đây chính là chân thật cầu sám hối, biết lỗi rồi, về sau ông không mắc nữa.
Ngoài ra định có thể tiêu trừ nghiệp chướng, định có thể tiêu nghiệp, định là tâm thanh tịnh. Tiểu định thì phục được nghiệp chướng, [nghiệp chướng] không khởi tác dụng, đè phục được. Đại định thì mới có thể tiêu trừ, đại định là định gì? Là Cửu thứ đệ định của của A La Hán, họ tiêu trừ được nghiệp chướng trong lục đạo luân hồi, nên họ không đến lục đạo nữa, nhân của lục đạo không còn. Thiền định của thế gian, tứ thiền bát định, bạn có thể sanh đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, định này chỉ phục [được nghiệp chướng], không thật sự tiêu trừ được nghiệp chướng, chỉ là đè phục. Nhưng khi mất định công, không phục được nữa thì nghiệp chướng lại hiện tiền, chính là phiền não tập khí lại hiện tiền. Cho nên, [dùng] định tiêu nghiệp chướng có phục đoạn, và thật sự có đoạn diệt. Sau khi khai trí huệ thì nghiệp chướng chân thật tiêu rồi. Từ trong thiền định mà khai trí huệ, thiền định đến công phu nhất định thì trí huệ hiện tiền, trí huệ hiện tiền, nghiệp chướng thảy đều chuyển thành Bồ Đề, phiền não tức Bồ Đề, đó là thật. Cho nên mục tiêu cuối cùng của học Phật là phải khai trí huệ, không thể không khai trí huệ, không khai trí huệ thì không thể giải quyết được vấn đề.(Nguồn: facebook Ngọc Diệp)
+ Tiêu Trừ Nghiệp Chướng: Câu Hỏi 113 - Phật giáo bảo là: “Định nghiệp thì không thể chuyển đổi được,” vậy nếu đã tạo ác nghiệp rồi thì nhất định là phải thọ quả báo phải không?
Đáp: Tuy nói, không thể thay đổi được định nghiệp, nhưng nhờ vào lực tam muội gia trì của Phật và Bồ Tát thì tội nghiệp cũng có thể được tiêu trừ. Nhưng chúng ta cần phải đặt hết lòng tin, sanh tâm hết sức chân thành sám hối và phải thật dũng cảm để sửa đổi các tội lỗi. Cho nên nói: “Lúc nóng giận mà có thể vui vẻ được, thì người chết sẽ sống trở lại. Nếu cho lời nói đây là giả, thì nên biết chư Phật không nói dối bao giờ?”
Tội lỗi dù ngập trời, nhưng một khi chúng ta sám hối thì tội lỗi liền tan. Bất luận là tội nghiệp có nặng nề bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu chúng ta thật có thể phát đại Bồ-đề tâm cùng hết lòng tín ngưỡng Tam Bảo và thiện tri thức để tu công chuộc tội. Lúc tu hành tích tụ công đức một cách đầy đủ rồi thì tự nhiên chúng ta sẽ miễn trừ được hết các tai nạn, và bịnh đau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Phá trừ ba Chướng trược:
Thứ tư là luận bàn về dụng.(Của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa)
"Lực dụng khu trừ tam trược, (dùng lực dẹp trừ ba chướng trược".
Dùng lực gì ? Ðể làm gì ? Dùng tâm kinh bát nhã ba la mật đa để làm chi ?
Tức là dùng lực dụng của kinh này để phá trừ ba chướng. Ba chướng là gì ?
Một là báo chướng. Hai là nghiệp chướng. Ba là phiền não chướng.
1. Báo chướng có hai loại là chánh báo và y báo.
2. Bàn về nghiệp chướng thì nghiệp tức là sự nghiệp, công nghiệp. Không luận người xuất gia hay tại gia, nhất định đều có sự nghiệp. Tạo ra sự nghiệp rồi thì nhiều vấn đề khó khăn phát sanh. Khi có khó khăn thì liền sanh phiền não, rồi gặp bao việc không vui. Ðó gọi là nghiệp chướng.
3. Nói về phiền não chướng thì chúng ta ai ai cũng có ít nhất một loại phiền não. Phiền não này phát sanh từ đâu ?... Vì vậy, phiền não do tâm tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, tà kiến phát khởi lên.
Bộ tâm kinh này năng phá trừ được ba chướng là báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng. Làm sao phá trừ được ? Do có trí huệ chân chánh, trí huệ vi diệu, tâm như như bất động, và chân tâm nên phá trừ được ba chướng. Chúng ta hiểu rõ giáo nghĩa tâm kinh bát nhã ba la mật đa thì mới có trí huệ chân chánh, dẹp trừ được ba chướng.... (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Diệt trừ Giải thoát ác nghiệp khổ đau:
Chết, ai ai cũng đều không thích chết. Những loại khổ này đều gọi là khổ. Nay chúng ta tu hành nên phải dẹp trừ ba khổ, tám khổ, vô lượng khổ, nên gọi là độ thoát tất cả khổ ách.
Mọi khổ đều nằm trong biển khổ. Nếu chư vị vượt qua hết tất cả khổ ách thì chắc chắn sẽ thoát khỏi sáu nẻo luân hồi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, người, trời.
Pháp bốn diệu đế : Khổ, tập, diệt, đạo. Khi chứng đắc diệt đế thì thành đạo, đắc vô dư Niết Bàn, không đợi trải qua tám muôn bốn ngàn kiếp, mà mau chứng đắc vô dư Niết Bàn.
Nay, Bồ Tát Quán Thế Âm đã cắt đứt được biến dịch sanh tử.
"Ngũ trụ tận (tận hết năm trụ)". Nghĩa là năm trụ phiền não. Chúng là gì ?
Thứ nhất, kiến trụ phiền não, là trụ ái kiến.
Thứ hai, trụ ái dục.
Thứ ba, trụ sắc ái.
Thứ tư, trụ vô sắc ái.
Thứ năm, trụ vô minh ái.
Vì năm trụ ái này mà chúng ta sanh chấp trước, biến thành năm loại phiền não.
Bồ Tát Quán Thế Âm dẹp trừ hết năm loại phiền não này. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh -1- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tiêu trừ Nghiệp:
HỎI : Con nghe nói theo như Phật giáo phá thai là việc làm không đúng. Nhưng trước đây vì con không biết nên đã phạm lỗi. Vậy kể từ nay về sau, con phải nên làm sao để bù đắp lại tội xưa ?.
ĐÁP : Có lỗi mà biết sửa, như vậy không phải là đại thiện rồi sao ? Vì tội lỗi dù ngập trời, một khi sám hối, tội lỗi liền tiêu. (HT Tuyên Hóa khai thị - Nguồn Nguyên Minh)
+ Thời gian trên trời - Thời gian các cõi trời
Nay lược giới thiệu về thời gian, thọ mạng, thân cao, trọng lượng y phục, của sáu cõi trời thuộc về dục giới.
- Thời gian trên trời:
Tại nhân gian năm mươi năm, thì bằng một ngày một đêm, ở cõi trời Tứ Thiên Vương.
Tại nhân gian một trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Đao Lợi.
Tại nhân gian hai trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Dạ Ma.
Tại nhân gian bốn trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Đâu Suất.
Tại nhân gian tám trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Hóa Lạc.
Tại nhân gian một ngàn sáu trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
- Thọ mạng của chư Thiên:
Thọ mạng của Tứ Thiên Vương là năm trăm tuổi.
Thọ Mạng của chư thiên trời Đao Lợi là một ngàn tuổi.
Thọ mạng của chư thiên trời Dạ Ma là hai ngàn tuổi.
Thọ mạng của chư thiên trời Đâu Suất là bốn ngàn tuổi.
Thọ mạng của chư thiên trời Hóa Lạc là tám ngàn tuổi.
Thọ mạng của chư thiên trời Tha Hóa Tự Tại là một vạn sáu ngàn tuổi.
- Thân của chư thiên: Thân của Tứ Thiên Vương cao nửa dặm. Thân của chư thiên trời Đao Lợi cao một dặm. Thân của chư thiên trời Dạ Ma cao một dặm rưỡi. Thân của chư thiên trời Đâu Suất cao hai dặm. Thân của chư thiên trời Hóa Lạc cao hai dặm rưỡi. Thân của chư thiên trời Tha Hóa Tự Tại cao ba dặm.
- Trọng lượng y phục của các cõi trời : Y phục của trời Tứ Thiên Vương nặng hai mươi lạng. Y phục của trời Đao Lợi sáu lạng. Y phục của trời Dạ Ma ba lạng. Y phục của trời Đâu Suất một lạng rưỡi. Y phục của trời Hóa Lạc một lạng. Y phục của trời Tha Hóa Tự Tại nửa lạng.
- Thân cao và thọ mạng của chư thiên sắc giới mười tám cõi trời: Trời thứ nhất là Trời Phạm Chúng, thân cao nửa tiểu do tuần (20 dặm), tuổi thọ nửa tiểu kiếp (tám vạn ba ngàn chín trăm chín mươi tuổi). Trời thứ hai là trời Phạm Phụ, thân cao một tiểu do tuần, thọ mạng một tiểu kiếp. Trời thứ ba trời Đại Phạm, thân cao một do tuần rưỡi, thọ mạng một kiếp rưỡi. Các cõi trời còn lại lấy đây làm tiêu chuẩn.
Vô sắc giới bốn cõi trời, chư Thiên cõi này chẳng có thân thể, chỉ có tư tưởng, nhưng có thọ mạng: Trời thứ nhất: Trời Không Vô Biên Xứ, thọ mạng hai vạn đại kiếp, còn ba cõi trời còn lại là bốn vạn đại kiếp, tám vạn đại kiếp và mười sáu vạn đại kiếp. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm-T1)
+ Thời gian cõi nhân gian và Địa ngục A tỳ: Kỳ kiếp hiện tại của chúng ta gọi là Hiền Kiếp; Bởi vì trong thời kỳ này có rất nhiều bậc Thánh Hiền—thánh nhân, hiền nhân—xuất hiện ở thế gian. Kỳ Hiền Kiếp có một ngàn (1.000) đức Phật xuất thế, trong đó, Phật Thích Ca Mâu Ni là đức Phật thứ tư; như vậy là còn chín trăm chín mươi sáu (996) đức Phật nữa sẽ xuất thế. Sau khi có một đức Phật xuất thế, phải qua một thời kỳ rất lâu rất dài mới lại có một đức Phật nữa xuất thế; do đó nếu phải đợi cho đến khi chín trăm chín mươi sáu đức Phật đều xuất thế và diệt độ cả, thì thời gian chờ đợi dài biết chừng nào! Vậy mà trải qua suốt kỳ kiếp dài đăng đẳng đó, những kẻ mắc tội báo khinh chê phá hoại Phật Pháp vẫn còn phải thọ tội ở địa ngục A Tỳ.
Quý vị nên biết rằng một ngày một đêm của thế giới chúng ta đang sống thì lâu bằng sáu mươi (60) tiểu kiếp ở địa ngục A Tỳ. Lại nữa, năm mươi (50) năm ở nhân gian thì đối với cõi trời Tứ Thiên Vương chỉ là một ngày một đêm; và một trăm (100) năm ở nhân gian chỉ bằng một ngày một đêm ở cung trời Ðao Lợi. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ác quỷ:
"Ác quỷ" thì có đại ác quỷ và tiểu ác quỷ. Ðại ác quỷ chính là quỷ Cưu Bàn Trà, hình thù tựa như trái bí đao. Loài quỷ này còn được gọi là quỷ "yểm mỵ," bởi chúng thường thừa lúc người nào đó đang say ngủ bèn đè lên thân người ấy, khiến cho người ấy cứ nằm cứng đơ, không nhúc nhích được mà miệng thì ú ớ, thốt không ra tiếng. Ðó là một trong những loại đại ác quỷ.
Lại còn có loại tiểu ác quỷ nữa. Các tiểu ác quỷ thường nương náu trên cây cối và thị hiện thần thông, khiến cho người ta tin tưởng chúng. Ðiển hình là chuyện thọ Giới của cây long não (chương thọ) ở Chùa Nam Hoa (Trung Hoa). Lúc chưa thọ Giới, vị thần cây thường hiển thị thần thông—hễ ai có việc gì mà đến thắp nhang khẩn cầu thần cây thì đều được cảm ứng; cảm ứng như thế nào? Ví dụ như người bị đau ốm đến cầu xin, thì chỉ cần thắp nén nhang là liền được khỏi bệnh ngay; hoặc có người bị mất đồ, bèn thắp hương cầu khẩn, thì liền tìm lại được những đồ đã mất—những chuyện "linh ứng" như vậy xảy ra rất nhiều. Những người đến cầu xin tưởng rằng đó thật là sự linh cảm, là Bồ Tát hiển linh, nên họ liền giết gà, mổ heo, mang thịt của đủ loại súc sanh đến cúng tế để tạ ơn, và thế là thần cây được hưởng "lộc ăn." Song, thật ra, đó là một loại tiểu ác quỷ tác quái.
Trên thế gian này có rất nhiều chuyện kỳ lạ, cho nên nếu quý vị không hiểu rõ Phật Pháp thì rất dễ nhận lầm các loại ác thần ác quỷ này là Bồ Tát, tưởng rằng có sự linh cảm thật sự. Do vậy, người học Phật Pháp chớ nên nghĩ rằng hễ nơi nào có sự linh ứng mầu nhiệm xảy ra thì đều là Phật Pháp—hoàn toàn không phải như vậy. Quý vị cần phải thông hiểu các đạo lý Phật Pháp một cách chân chánh, thấu đáo, thì mới không dễ bị lầm lẫn. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quỷ ăn tinh khí - Quỷ bóng đè - Làm người tê liệt - Bị Ma đè:
Bây giờ mọi người đang để tâm nghiên cứu chú Lăng Nghiêm, mới biết là quỷ cũng có đủ hình đủ dạng, muôn ngàn loài khác nhau. Chúng nó đều là do cảm quả mà thọ báo, tùy theo loài mà hiện. Trong chú Lăng Nghiêm có nêu danh nhiều vị vua của quỷ thần, trong đó có quỷ dạ xoa (nhanh lẹ), quỷ la sát (kinh sợ), quỷ thủ hồn, quỷ thủ thi, quỷ tỳ xá xá (hớp tinh khí), quỷ cưu bàn trà (làm người tê liệt, còn gọi là bóng đè, ma đè), quỷ đại thân, quỷ điên, quỷ xú (thối), quỷ phú đan na (có mùi hôi độc), quỷ nhiệt, quỷ hàn, quỷ ảnh, quỷ âm nhạc... Ngoài ra còn có quỷ ăn hoa, quỷ ăn nhau sanh sản, quỷ ăn thai, quỷ ăn hài nhi, quỷ ăn mỡ, quỷ ăn đèn, quỷ ăn ngũ cốc... Sự biến hóa của chúng, quả là vô cùng vô tận, vô lượng vô biên.
Trước đây khi chưa nghe chú Lăng Nghiêm, chúng ta đâu biết có nhiều loại quỷ như thế. Nhưng sau khi chúng ta nghe rồi, mới biết là quỷ cũng có rất nhiều chủng loại. Đương nhiên quỷ so với người thì chúng nó đông hơn nhiều. Người tạo nghiệp tội thì bị đọa xuống cảnh giới quỷ, không thể tự mình thoát ra được.
Trước đây khi chưa nghe chú Lăng Nghiêm, chúng ta đâu biết có nhiều loại quỷ như thế. Nhưng sau khi chúng ta nghe rồi, mới biết là quỷ cũng có rất nhiều chủng loại. Đương nhiên quỷ so với người thì chúng nó đông hơn nhiều. Người tạo nghiệp tội thì bị đọa xuống cảnh giới quỷ, không thể tự mình thoát ra được.
Quỷ cũng có quyến thuộc và bằng hữu. Nếu nó biết chỗ nào có ăn, nó sẽ mời bạn bè nó cùng tới ăn. Ví như loại quỷ ăn hoa có thể hóa làm ong mật hay bươm bướm, chúng đến đâu thì ăn nhụy hoa, uống sương hoa đến đó. Quỷ đói là do chỗ cảm nhận của quả báo, cho nên thường bị lửa đốt chẳng lúc nào ngừng. Thân thể nó cũng có lửa, bên ngoài, bên trong cũng có lửa. Lửa trong lửa ngoài giao nhau hừng hừng thiêu đốt, thống khổ khó tả. Vì sao bị quả báo như thế? Vì khi làm người lại có tánh giận dữ quá lớn, nên sau khi chết biến thành quỷ cũng chẳng được thoải mái, ngày đêm lại bị thiêu đốt, vĩnh viễn không mãn kỳ hạn, muốn trốn cũng trốn không khỏi. Nhưng nếu chúng ăn được một ít mật hoa, sương hoa là chúng giảm bớt được chút nhiệt não nóng bức. Dù chúng có cầu được mát mẻ chỉ một giây lát thôi cũng không được. Cho nên thiện ác, nhân quả, như bóng theo hình, không bao giờ sai chạy.
HT Tuyên Hóa giảng rất dài về các loài Quỷ, mời xem: HT Tuyên Hóa Khai thị 6
+ Về mười điều xấu (Thập Ác) của người nữ, bây giờ tôi chỉ nói sơ lược thôi, chứ không giảng giải cho cặn kẽ được, vì e rằng chúng ta không có đủ thì giờ.
- Ðiều xấu thứ nhất là ngay từ khi vừa lọt lòng, đứa con gái liền làm cho cha mẹ không vui rồi—bởi đó là con gái, nếu là con trai thì cha mẹ rất vui mừng. Tuy rằng không phải là cha mẹ nào cũng đều như thế cả, song có thể nói rằng hầu hết mọi quốc gia đều có một phong khí tương đồng—đó là thích sinh con trai, không thích sinh con gái. Vì thế, vừa mở mắt chào đời, đứa con gái đã gây cho cha mẹ một ấn tượng không vui rồi.
- Ðiều thứ hai là cha mẹ cảm thấy việc nuôi dưỡng con gái là không có ý nghĩa, không thấy vui.
- Thứ ba, con gái thường có tính rụt rè, nhút nhát, hay sợ sệt. Con trai thì không sợ xấu, trong khi đa số con gái đều sợ xấu, sợ người.
- Thứ tư, cha mẹ thường vì chuyện hôn nhân của con gái mà nhọc lòng lo lắng. Khác với người Mỹ là cha mẹ không bận tâm lắm về chuyện hôn nhân của con cái, tại nhiều quốc gia, như Trung Hoa chẳng hạn, lại có phong khí là cha mẹ đặc biệt quan tâm về việc cưới gả của con cái, nhất là việc tìm cho con gái mình một người chồng tốt.
- Thứ năm, con gái rồi sẽ sống xa cha mẹ. Trong tương lai, nhất định con gái sẽ rời bỏ cha mẹ.
- Thứ sáu, con gái sau khi kết hôn thì nể sợ chồng, thận trọng từng li từng tí đối với sự vui buồn của chồng—chồng vui vẻ thì vợ vui theo, chồng nổi nóng thì vợ khép nép sợ hãi.
- Thứ bảy, từ khi thai nghén cho đến lúc sinh nở còn rất nhiều khó khăn trắc trở, người con gái cảm thấy rất lo âu, sợ hãi.
- Thứ tám, khi người con gái phạm lỗi lầm thì mọi người đều trách móc cha mẹ cô ta, rằng họ đã sinh ra một đứa con gái hư hỏng. Cho nên, con gái nết na đức hạnh thì không nói làm gì; rủi mà ăn ở vụng về thì cha mẹ sẽ bị mang tiếng xấu.
- Thứ chín, người con gái thường bị chồng quản chế, không cho phép làm việc này việc nọ. Có rất nhiều phép tắc hạn chế mà người vợ phải tuân theo; bằng không, nếu không phục tòng thì sẽ bị chồng bỏ, buộc phải ly hôn.
Quý vị xem, thật là quá nhiều rắc rối phiền phức, có phải không? Trên đây là chín điều không tốt có thể xảy ra lúc người nữ còn trẻ.
- Thứ mười, người nữ đến khi già cả thì lại bị con cái, cháu chắt xem thường. Con trai, con gái, hoặc cháu nội cháu ngoại, nghĩ rằng: "Bà đã già yếu đến thế rồi mà vẫn chưa chịu chết!" Có câu: "Già mà chưa chết thì thành kẻ cắp"—ngay cả con cái cũng mắng mẹ nữa, quý vị xem có đáng thương không?
Cho nên, người nữ có rất nhiều sự phiền toái phức tạp. Trên đây là mười điều xấu (Thập Ác) của thân nữ; ngoài ra còn có hai mươi điều nữa, nếu kể ra nữa thì nhiều quá, nói không hết được. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người đàn bà ác nhân có những triệu chứng - Dấu hiệu:
- Người đàn bà xinh đẹp, nói năng khôn khéo, êm tai, mà trong thì tội ác ngoại dâm thì căn cứ vào đâu mà hiểu họ được?
Có mười triệu chứng sẽ hiển hiện cho ta thấy:
Một là đầu tóc rối và bới tóc nghiêng một bên;
Hai là mặt hay đổi sắc và mồ hôi tự nhiên chảy;
Ba là lớn tiếng nói cười;
Bốn là hay liếc ngó không đoan chính;
Năm là trang sức lộng lẫy;
Sáu là hay nhìn trộm kẻ vách;
Bảy là ngồi không yên;
Tám là hay dạo chơi trong xóm làng;
Chín là hay đi dạo chơi ngoài đồng vắng;
Mười là hay giao thiệp với hạng dâm nữ.
Kinh chép: "Đàn bà con gái thật khó tin, lời nói khôn khéo của họ rất dễ hại người. Vì thế bậc cao sĩ lánh xa không muốn thân cận." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Người nữ tu với Địa Tạng Bồ tát:
"Giả sử có người nữ nào nhàm chán nữ thân, hết lòng cúng dường tượng vẽ của Bồ Tát Ðịa Tạng, cùng những tượng bằng đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v..., ngày ngày như thế, không hề thối chuyển; lại thường đem hoa, hương, đồ ăn, thức uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật báu v.v... cúng dường; thì người thiện nữ đó sau khi mãn một báo thân nữ hiện tại, thời đến trăm ngàn muôn kiếp còn không sanh vào thế giới có người nữ, huống hồ là thọ lại nữ thân!
Trừ phi vì nguyện lực từ bi, muốn thọ nữ thân để độ thoát chúng sanh, còn thì nương nơi sức cúng dường Ngài Ðịa Tạng cùng sức công đức, trong trăm ngàn muôn kiếp chẳng còn phải thọ nữ thân nữa."
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật, đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ trong chừng một bữa ăn, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn. Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân gái, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ, cho đến Vương Phi, hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả, đoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn.
Do chí tâm chiêm lễ hình tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế." (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Núi Thiết Vi và các Địa ngục phương đông
Ngài Ðịa Tạng đáp rằng: "Thưa Nhân Giả! Nay tôi nương oai thần của Ðức Phật cùng oai lực của Ðại Sĩ, mà lược nói danh hiệu của các địa ngục, cùng những sự về tội báo và ác báo.
"Thưa Nhân Giả! Phương Ðông của cõi Diêm Phù Ðề có dãy núi tên là Thiết Vi. Dãy núi đó tối thẫm, không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng; trong đó có địa ngục lớn tên là Cực Vô Gián, lại có địa ngục tên là Ðại A Tỳ, lại có địa ngục tên là Bốn Sừng , lại có địa ngục tên là Dao Bay .."
"Lại có địa ngục tên là Tên Lửa , lại có địa ngục tên là Núi Ép, lại có địa ngục tên là Giáo Đâm, lại có địa ngục tên là Xe Sắt, lại có địa ngục tên là Giường Sắt, lại có địa ngục tên là Trâu Sắt, lại có địa ngục tên là Áo Sắt..."
"Lại có địa ngục tên là Ngàn Mũi Nhọn, lại có địa ngục tên là Lừa Sắt, lại có địa ngục tên là Nước Đồng Sôi, lại có địa ngục tên là Ôm Trụ Đồng, lại có địa ngục tên là Lửa Chảy, lại có địa ngục tên là Cày Lưỡi, lại có địa ngục tên là Chém Đầu, lại có địa ngục tên là Đốt Chân, lại có địa ngục tên là Móc Mắt, lại có địa ngục tên là Viên Sắt..."
"Lại có địa ngục tên là Cãi Cọ, lại có địa ngục tên là Rìu Sắt, lại có địa ngục tên là Nhiều Nóng Giận."
Ngài Ðịa Tạng nói rằng: "Thưa Nhân Giả! Trong dãy núi Thiết Vi có những địa ngục như thế, số nhiều vô hạn. Lại có địa ngục Kêu Gào, địa ngục Rút Lưỡi, địa ngục Phân và Nước Tiểu, địa ngục Khóa Đồng, địa ngục Voi Lửa, địa ngục Chó Lửa, địa ngục Ngựa Lửa, địa ngục Trâu Bò Lửa, địa ngục Núi Lửa, địa ngục Đá Lửa, địa ngục Giường Lửa, địa ngục Rường Lửa, địa ngục Chim Ưng Lửa, địa ngục Cưa Răng, địa ngục Lột Da, địa ngục Uống Máu, địa ngục Đốt Tay, địa ngục Đốt Chân, địa ngục Đâm Ngược, địa ngục Nhà Lửa, địa ngục Nhà Sắt, địa ngục Chó Sói Lửa.
"Các thứ địa ngục như thế, trong mỗi thứ lại có những địa ngục nhỏ, hoặc một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến trăm, ngàn; trong số đó danh hiệu đều chẳng đồng nhau."
Ðịa Tạng Bồ Tát nói với Phổ Hiền Bồ Tát rằng: "Thưa Nhân Giả! Ðây đều là do chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề làm điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra như thế. Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu Di, có thể sâu dường biển cả, có thể chướng ngăn Thánh Ðạo. Vì thế, chúng sanh chớ khinh điều ác nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo, dầu mảy mún đều phải thọ chịu. Chí thân như cha với con, mỗi người đều mỗi ngả đường khác nhau, dầu có gặp gỡ cũng chẳng bằng lòng chịu khổ thay cho nhau. Nay tôi nương oai lực của Ðức Phật mà lược nói những sự tội báo nơi địa ngục; mong Nhân Giả tạm nghe lời đó."
Ngài Phổ Hiền đáp rằng: "Tôi từ lâu đã rõ tội báo nơi Tam Ác Ðạo. Tôi mong Nhân Giả nói ra để khiến cho tất cả chúng sanh ác hạnh trong đời Mạt Pháp sau này, nghe được lời dạy của Nhân Giả mà quay về với Phật."
"Nhân Giả! Những quả báo như thế, trong mỗi ngục có trăm ngàn thứ khí cụ nghiệp đạo đều là bằng đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng lửa; bốn thứ này là do các hành nghiệp cảm vời ra. Nếu nói rộng ra về những sự tội báo ở địa ngục, thì trong mỗi ngục còn có cả trăm ngàn thứ khổ sở, huống chi là nhiều ngục!
Nay tôi nương sức oai thần của Ðức Phật và vì Nhân Giả hỏi đến mà nói sơ lược như thế; nếu nói rộng ra thì cùng kiếp nói cũng không hết được!" (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phúc Lộc Thọ - Tam tinh chiếu:
Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn bảo Bồ Tát Phổ Quảng cùng tứ chúng—Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, bao gồm cả Thiên Long Bát Bộ, rằng: "Lắng nghe! Lắng nghe! Tất cả các Ông hãy chăm chú lắng nghe cho kỹ. Ta sẽ vì các Ông mà lược nói về những sự phước đức của Ðịa Tạng Bồ Tát làm lợi ích cho hàng Trời, Người."
"Phước đức" là gì? Trong Kinh Thư, ở thiên "Hoằng Phạm" có giảng về chữ "phúc" và phân ra năm loại (Ngũ Phúc) là phúc thọ, phú quý, khang ninh, tu hiếu đức, và khảo chung mạng.
1) Phúc thọ (phước sống lâu). Loại phước thứ nhất là "phúc thọ," nghĩa là "có phước, có thọ"—một người vừa được phước lại vừa được thọ nữa. Thế nào gọi là "phước"? "Phước" tức là hết thảy đều rất tự nhiên, tự tại. "Thọ" là thọ mạng, tuổi thọ.
Người Trung Hoa thường dùng chữ "thọ" này theo nghĩa "trường thọ" (sống lâu). "Thọ" thì vốn có "trường thọ" và "đoản thọ" (sống ngắn ngủi); song nếu chỉ nói "thọ" mà thôi thì được hiểu là "trường thọ," chứ không phải là "đoản thọ"; vì thế ở đây dùng chữ "phúc thọ."
Có câu: " Phước Lộc Thọ ba sao chiếu quanh” (Phúc, Lộc, Thọ tam tinh củng chiếu). "Tam tinh" có nghĩa là ba ngôi sao—Phúc tinh (sao Phước), Lộc tinh (sao Lộc) và Thọ tinh (sao Thọ). "Phúc" là sự tốt lành may mắn rất tự nhiên tự tại của riêng mình. "Lộc" là bổng lộc, lợi tức. Nếu quý vị làm việc cho chính phủ, thì tiền lương quý vị lãnh được hằng tháng gọi là "bổng lộc" vậy. "Thọ" là thọ mạng, sự sống lâu.
Theo người Trung Hoa, Thọ Tinh Công là một ông tiên quắc thước, trán cao, không có tóc, chỉ có chòm râu dài bạc trắng như cước, và còn được gọi là Nam Cực Tử. Tương truyền, Nam Cực Tử chính là Nam Cực Tiên Ông của Ðạo Giáo, trong đầu có ba quyển "thiên thư" (sách của trời) là quyển thượng, quyển trung và quyển hạ. Bởi có được "thiên thư" nên việc gì Tiên Ông cũng biết rõ cả.
2) Giàu Sang (Phú quý). Loại phước thứ hai là "phú quý," tức là vừa giàu có lại vừa sang trọng, tôn quý.
3) Khỏe mạnh bình yên (Khang ninh). Loại phước thứ ba là "khang ninh," tức là thân thể vừa khỏe mạnh lại vừa yên ổn.
4) Thích làm điều lành (Tu hiếu đức). Loại phước thứ tư là "tu hiếu đức," tức là thích làm việc tốt, thích hướng theo phương diện đạo đức mà xử sự.
5) Chết an lành (Khảo chung mạng). Loại phước thứ năm là sống đến già (chết già, không do tai nạn).
"Ðức" cũng có năm loại (Ngũ Ðức) là ôn, lương, cung, kiệm, nhượng. Có người nào hội đủ được năm đức hạnh này chăng? Ðó chính là Ðức Khổng Tử!
1) Ôn hòa( Ôn). "Ôn" tức là ôn hòa, không nóng không lạnh, ấm áp vừa chừng. Nếu quý vị suốt ngày cứ như Quan Ðế Công, chẳng nói chẳng cười, thì là người quá lạnh lùng, lãnh đạm; còn nếu suốt ngày cứ cười đùa hi hi ha ha, thì lại thành ra quá nhiệt tình, quá niềm nở. Ðức Khổng Phu Tử thì ôn hòa, mẫu mực—đáng cười mới cười, đáng nói mới nói; không đáng cười thì không cười, không đáng nói thì không nói.
2) Lương thiện (Lương). Loại đức hạnh thứ hai là "lương thiện," nghĩa là có lương tâm, lòng dạ hiền lành, tốt bụng.
3) Cung kính (Cung). "Cung" tức là đối với bất cứ ai chúng ta cũng cung kính lễ độ, không có thói khinh người.
4) Tiết kiệm (Kiệm). "Kiệm" tức là "kiệm phác"; có nghĩa là tiết kiệm, không làm hư hại, không lãng phí của cải vật chất. Thí dụ về vấn đề ăn uống, đáng lẽ phải ăn năm chén cơm mới thật no, nhưng bây giờ mình chỉ ăn ba chén mà thôi, bớt đi hai chén để dành cho những người đói kém hơn; như thế là tự kiềm chế để tiết kiệm cho chính mình. Có câu:
Cho mình thì nên cần kiệm
Đãi khách thì cần rộng rãi.
(Tự phụng tất tu giản ước,
Yến khách thiết kỵ lưu liên.)
Ðối với riêng bản thân mình thì phải cần kiệm, đơn giản, bớt ăn bớt tiêu; những sự chi dụng về đồ ăn thức uống, áo quần giày dép, nơi ăn chốn ở..., thảy đều không nên cầu kỳ, xa xỉ, bày vẽ thái quá. Cho nên, chữ "kiệm" (cần kiệm) này vô cùng quan trọng.
5) Nhường nhịn (Nhượng). Ðây là loại đức hạnh thứ năm. "Nhượng" tức là khiêm nhường, nhường nhịn—đối với bất cứ việc gì chúng ta cũng không tranh giành để được ưu tiên, chẳng e sợ về sau mình bị thiệt thòi. "Nhượng" cũng là nhường cho người khác được "đệ nhất"—cái gì tốt thì để cho người ta được trước, còn cái gì không tốt thì chính mình lãnh lấy, đó gọi là "nhượng." Chúng ta cần phải học tánh khiêm nhượng, nhường nhịn một cách lễ phép, lịch sự. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quả báo của Tâm hướng thiện - Tâm theo ác:
Ở nước Trung Hoa, mỗi khi một triều đại thay đổi thì đều có những điềm bất tường xảy ra. Có lần, một vị Hoàng Ðế thấy điềm bất tường nơi một ngôi sao, liền triệu quan Thiên Văn đến để hỏi sẽ xảy ra điềm tốt hay xấu.
- Vị Khâm Thiên Giám tâu rằng: "Ðây là điềm hết sức bất tường, Bệ Hạ có thể sẽ tử vong, nhưng thần có cách làm cho vị Tể Tướng chịu điều hung dữ ấy thay cho Bệ Hạ, Bệ Hạ có bằng lòng không?"
- Nhà vua trả lời: "Tể Tướng lo liệu quốc gia đại sự thì làm sao có thể chết thay cho ta được."
- Viên quan lại hỏi: "Có thể chuyển tai họa đến nhân dân chăng?"
- "Dân là gốc của nước, ta vì dân mà làm, có thể nào để dân chết thay cho ta được."
- "Nếu vậy thì chuyển tai họa này đến mùa màng được chăng?"
- "Mùa màng mà mất thì dân sẽ chết đói, đó là chuyện ta không thể làm được!"
Quan Khâm Thiên Giám nghe xong liền sụp lạy mà tâu rằng: "Hoàng Thượng đúng là bậc minh quân có lòng nhân từ, thì nhất định sẽ chuyển được điều hung dữ thành điều kiết tường; Hoàng Thượng nhất định không thể chết được!"
Quả nhiên, ngày hôm sau điềm xấu trên trời biến mất, không còn thấy nữa. Việc đó chứng minh rằng không có chuyện gì là cố định, chỉ do tâm mình mà chuyển biến thôi. Nếu tâm thiện thì có thể chuyển điều xấu thành điều tốt; cho nên Lão Tử nói rằng:
"Hồi tâm thú thiện,
Thiện tuy vị vi nhi Thiện Thần tùy chi.
Hồi tâm hướng ác,
Ác tuy vị vi nhi Ác Thần tùy chi."
Dịch là:
"Quay tâm hướng thiện,
Ðiều thiện tuy chưa làm mà Thiện Thần đã theo sát.
Chuyển tâm về ác,
Ðiều ác tuy chưa làm mà Ác thần đã kề bên."
Thần thì có thiện có ác; Thiện thần thì bảo hộ thiện nhân, Ác thần thì trừng phạt kẻ ác, cho nên nói rằng: "Họa, phước vô môn, Duy nhân tự chiêu." (Họa, phước không cửa vào, Chỉ do mình tự chuốc lấy.)Nếu trong tâm mình không làm điều ác thì điều bất tường (không lành) không thể phát sinh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hai Mặt Trời - Hai Mặt Trăng
A-nan, lại nếu trong đó, một châu nhỏ chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước cùng chiêu cảm ác duyên, thì tất cả chúng sinh trong nước đó đều xem thấy hết thảy cảnh giới không lành; hoặc họ thấy 2 mặt trời, hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng như vựng, thích, bội, quyết, tuệ, bột, phi lưu, phụ nhĩ, hồng nghê.
Giảng:
Đức Phật gọi A-nan một lần nữa,
“A-nan, lại nếu trong đó, một châu nhỏ chỉ có hai nước.”
Giả sử như châu Diêm-phù-đề là một châu nhỏ, là một đại lục nhỏ, trong đó chỉ có hai nước. Mặc dù hai nước nầy đều nằm chung trong một châu, nhưng có chung một đường ranh giới giữa hai nước, nên nghiệp báo mà cư dân hiện sống trên đó nhận chịu lại khác nhau.
“Mà riêng người trong một nước cùng chiêu cảm ác duyên.”
Người trong một nước phải chịu chung một nghiệp báo, và họ cùng chiêu cảm ác duyên. “Ác duyên” chỉ cho những hiện tượng có điềm xấu cùng nhiều loại thiên tai hoạn nạn– như cuồng phong hoặc mưa đá chẳng hạn. Gần đây ở Mỹ có một cơn lốc xoáy cuốn người lên không trung, sát hại chừng vài trăm người. Đó là một ví dụ của những hiện tượng có điềm xấu. Đó là nghĩa của “ác duyên.” Quý vị thấy đó, trong một nước, có một số người phải chịu quả báo xấu, một số người khác lại không. Cũng vậy, người dân ở Cựu-kim-sơn (San Francisco) lại không chịu quả báo ác duyên của cơn lốc xoáy, và họ không bị khổ nạn ấy. Nhưng ở miền Trung tây, nhà cửa bị cuốn bay lên không, cây cối bị bật rễ và bị thổi văng ra xa, còn có lụt lội và hoả hoạn. Những thiên tai như thế là rất thường thấy.
“Thì tất cả chúng sinh trong nước đó đều xem thấy hết thảy cảnh giới không lành.”
Họ thấy cái gì?
Đôi khi cây cối biết nói. Cây cối nghe người nói chuyện, và nó hóa thành cây, chẳng có người nào quanh đó cả. Đó là một điềm không lành. Trong những sự kiện siêu nhiên, có rất nhiều hiện tượng không lành.
“Hoặc họ thấy 2 mặt trời.”
Có khi người trong cùng một nước thấy có hai mặt trời, điềm báo có một sự biến động lớn trong nước ấy. Đó là điềm không lành. Có khi nguyên thủ quốc gia bị chết hoặc bị ám sát để chiếm đoạt quyền bính. Đó là vì:
Thiên vô nhị nhật
Quốc vô nhị quân.
Một thái dương hệ không thể có hai mặt trời. Đất nước không thể có hai vua.
Không thể có hai mặt trời trên không trung. Nếu quý vị thấy có hai mặt trời, đó là điềm xấu. Hoặc có thể vua nầy giết hại vua kia.
“Hai mặt trăng.” Bất luận đất nước đó như thế nào, thì cũng chỉ có một mặt trời và một mặt trăng. Nhưng người trong nước nầy thấy có hai mặt trăng xuất hiện. Đó cũng là biểu hiện của điềm không lành trong nước sẽ xảy đến trong tương lai.
Nhiều Ác Tướng khác: ... hắc khí bao quanh mặt trăng, mặt trời. Hay như Sao chổi, Sao băng, Cầu vồng... Nếu quốc gia thịnh vượng, thì mọi hiện tượng nhỏ nhặt đều là tốt lành. Nếu đất nước suy thóai, thì mọi hiện tượng dù nhỏ nhặt đều là không lành. Nếu chỉ một người có được phước báo, thì những người còn lại đều được hưởng ánh sáng lành ấy. Nếu người dân sống dưới sự dẫn dắt của người thiếu phước báo, thì họ phải chịu nhiều đau khổ. Hãy nhìn vào người lãnh đạo quốc gia, tổng thống của một nước, nếu ông ta có phước báo, thì người dân sẽ tuân hành theo ông ta và đều hưởng được phước báo. Nếu ông ta không có phước báo, thì người dân theo ông ta đều phải chịu đau khổ. Nên có thể nói rằng vị nguyên thủ quốc gia là phải chịu trách nhiệm về mọi hòan cảnh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Điềm lành giữ: .Hoặc có kẻ thấy hai mặt trời hay hai mặt trăng thì đều là những điềm bất tường; người xưa nói: "Thiên vô nhị nhật, Dân vô nhị quân." (Trên, không có hai mặt trời; Nước, không có hai vua.)
Ở Trung Hoa, về đời nhà Hạ, vua Kiệt là người bạo ngược, trên không trung bỗng nhiên hiện ra hai mặt trời, nhà Hạ nhân đó mà diệt vong. Ðó là điềm hung dữ được báo trước.Ngoài ra còn có những điềm gọi là Vựng, Thích, Bội, Quyết. Những ác khí bao quanh mặt trăng làm mờ mặt trăng thì gọi là Vựng; khí đen che lấp mặt trăng gọi là Thích; khí trắng ở bên cạnh mặt trăng gọi là Bội, mà che đi một nửa thì gọi là Quyết. Ðó là những điềm xấu thuộc về mặt trăng.
Lịch sử Trung Hoa có chép rằng khi mặt trăng bị che lấp bảy lần thì Hán Cao Tổ ở Bành Thành bị giặc Hung Nô vây khốn. Ngôi sao có ánh sáng dài sau đuôi gọi là Tuệ, tức là sao chổi; hào quang ngắn hơn quét đi bốn phía thì gọi là Bột Tinh; ở trên không trung xẹt xuống gọi là Phi Tinh; ở dưới mà vọt lên gọi là Lưu Tinh; đó đều là những điềm xấu thuộc về các ngôi sao.
Sách Xuân Thu có chép rằng vua Tống Nhượng Công không có nhân nghĩa nên sao xẹt xuống như mưa, vua Tần Thủy Hoàng hết sức bạo ngược thì sao chổi xuất hiện; đó cũng là những điềm không lành. Ác khí ở phía trên mặt trời gọi là Phụ, ở bên cạnh mặt trời gọi là Nhĩ. Sau khi trời mưa mà xuất hiện cầu vồng thì gọi là Hồng Nghê, buổi sáng gọi là Hồng, buổi chiều gọi là Nghê; đó đều là những điềm xấu của mặt trời. Tóm lại, bên cạnh mặt trời, mặt trăng có hiện ra những khí đó đều là những điềm báo trước sự bất tường.
Ở nước Trung Hoa, mỗi khi một triều đại thay đổi thì đều có những điềm bất tường xảy ra. Có lần, một vị Hoàng Ðế thấy điềm bất tường nơi một ngôi sao, liền triệu quan Thiên Văn đến để hỏi sẽ xảy ra điềm tốt hay xấu.
- Vị Khâm Thiên Giám tâu rằng: "Ðây là điềm hết sức bất tường, Bệ Hạ có thể sẽ tử vong, nhưng thần có cách làm cho vị Tể Tướng chịu điều hung dữ ấy thay cho Bệ Hạ, Bệ Hạ có bằng lòng không?".... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Song Ngư/ Pisces: Cung hoàng đạo đầu tiên vì nó chi phối chu kỳ chiêm tinh 25.000 năm của thế giới, Cung có ưu thế, có ảnh hưởng đến hành tinh chúng ta vào lúc biệt ngã hóa khi giới nhân loại xuất hiện. Về căn bản, cung đó có liên quan với Huyền Giai Sáng Tạo thứ 1 hay cao nhất, mà đến phiên nó có liên quan với Cung 3, Cung Thông Tuệ Linh Hoạt. Đó là sản phẩm của thái dương hệ thứ nhất. Sự phát triển của sự giác ngộ nhờ một trí tuệ được khơi hoạt là mục tiêu đầu tiên của nhân loại. (CTHNM, 47)
- Hành Thủy (Xem); (Dẫn truyền Cung 2 - Cung 6; Xem)
- Trực quan, nhạy cảm, khả năng nghệ thuật và nhân văn, toàn diện, hy sinh; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà 12, có đặc tính: Lương tâm, tội lỗi, phụng sự cộng đồng
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: * Mộc Tinh/ Jupiter; Cung 2 (CTHNM, 80);
(CTH Cổ dùng Mộc Tinh; Cung 2); (GQ1.6 dùng Hải Vương tinh; Cung 6)
- Khẩu hiệu: Hãy đi vào vật chất.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Diêm Vương Tinh; Cung 1 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi rời Nhà Cha và khi quay lại, tôi cứu rỗi.
Xem: CTHNM - Giới thiệu về Song Ngư
Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
Xem Tóm lược Kỳ công và Đức Phật, Đức Christ
Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo
Xem: Giới thiệu Tâm lý học - Tâm thức - Bảy Cung NL (GQ1.6)
Xem Năng khiếu của Cung, Cung Hoàng Đạo và Hành Tinh
+ Vọng tưởng hay Khách trần: Chữ “khách trần” cũng có nghĩa là vọng tưởng của quý vị. Vọng tưởng chính là khách trần và phiền não. Quý vị cũng có thể gọi khách trần là hai món hoặc (惑) kiến hoặc và tư hoặc. Phiền não cũng còn được gọi là vô minh hoặc hay là trần sa hoặc. ... Ví như Ông chủ (Nhà trọ) với Khách trọ. Ông chủ nghĩa là thể tánh thanh tịnh thường trụ chân tâm. “Khách” nghĩa là vọng tưởng, phiền não, khách trần. Tại sao vọng tưởng phiền não lại được so sánh với khách trần? Vì đối với chúng ta vọng tưởng phiền não là một thứ gì đó không chắc chắn, không bền vững. Phiền não vọng tưởng ấy không thực sự hiện hữu. Người khách chính là phiền não và vô minh, phiền não chướng và sở tri chướng, là kiến hoặc và tư hoặc. Đây đang nói về Thân xác là Khách và Linh hồn đầu thai/Là chủ (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần chánh văn-Mục 116)
+ Vọng Tưởng: Trích lời giảng của HT Tuyên Hóa trong câu Thần Chú Đại Bi số 37. Thất na thất na:
Câu chú này được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô minh.
Quang minh là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn.
Những người có trí tuệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt được trí tuệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy.
Nhưng quý vị không thể nào biết rõ việc làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị không thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự non yếu trí tuệ.
Ồ! Không – Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!
Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.
Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không có trí tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.
Khi trong công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì nước trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực vậy, khi một người không còn bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại trí tuệ.
Người có trí tuệ thường thành công trong bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí tuệ thường bị thất bại trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ là vô cùng quan trọng.
Ngu muội là gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì rõ:
- Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời: Tôi không rõ nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:
- Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì không có trí tuệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn được ví như thanh gươm.
Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý vị đã cầm lên rồi!
Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy, thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái gì là thế giới y báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi sự vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đã tụng một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ của quý vị chiếu sáng như một đài gương trong.
Người có trí tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Mặc dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí tuệ chân chính thì rất hiếm.
Quý vị cũng nên phân biệt rõ trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thế gian. Trí tuệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”. Thực ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.
Cũng vậy, trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người như vậy.
Khi quan sát người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt hay không. Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí tuệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là trí tuệ. Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.
Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng.
Thất na thất na là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.
Thật chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên quý vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông.
Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến.
Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.
Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Phát âm trong đọc tụng và trì niệm Kinh Chú:
356. Hỏi: Nếu trì chú mà phát âm không đúng thì có linh nghiệm không?
Đáp: Lúc trước có một lão tu hành thường tụng sáu chữ Đại Minh Chú, nhưng vì ông tự tụng theo cách của mình, chớ không hỏi người khác, hoặc là vì trí nhớ kém cỏi, nên dù có người dạy, ông cũng quên mất. Ông đoán là: chữ khẩu dù có thêm chữ nào thì sẽ đọc theo âm chữ đó. Thí dụ như chữ Khẩu 口 mà thêm chữ Bát 八kề bên thì đọc là bát 八. Chữ Khẩu 口 mà thêm chữ Di 彌 thì đọc là di 彌. Chữ khẩu 口mà thêm chữ Ngưu 牛kề bên thì chắc cũng đọc là ngưu 牛, tức là trâu vậy. Bởi thế mà ông niệm thành Án Ma Ni Bát Di Ngưu. Ông niệm rất thành tâm, rất hăng hái với chữ Ngưu đó. Mỗi ngày ông ta niệm đến cả trăm vạn biến Án Ma Ni Bát Di Ngưu. Rồi ông nghĩ, nếu dùng xâu chuỗi tràng để đếm thì rất là phí công, nên ông dùng một trăm vạn hột đậu nành để đếm số. Khi niệm một câu thì ông lấy một hột đậu bỏ qua một bên. Dần dần ông không cần lấy tay bóc, mà hột đậu nành cũng tự động nhảy qua. Sau đó có người bảo ông nên niệm là "Án Ma Ni Bát Di Hồng” mới đúng. Do đó, ông đổi lại niệm thành Án Ma Ni Bát Di Hồng. Nhưng kỳ quái thay, đậu nành không tự động nhảy qua nữa. Sau đó ông lại niệm Án Ma Ni Bát Di Ngưu, mà hột đậu cũng chẳng chịu nhảy qua. Đó chẳng qua là do lòng tin của ông đã bị dao động, vì tự biết là mình đã niệm sai.===> Tin tưởng tuyệt đối là quan trọng nhất trong tu tập. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hát 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
3. Sau khi tinh tấn được rồi thì có thiền duyệt (vui trong thiền định). Thiền duyệt tức là hỷ giác phần. Ví như, khi ngồi thiền, công phu ngồi đến một giờ thì tự cảm giác an lạc, tự tại, vừa ý vô cùng; hút thuốc á phiện chỉ vui thích trong chốc lát, còn khi ấy làm bất cứ việc gì chư vị đều cảm giác an lạc vui thích hết cả. Đạt đến an lạc này, gọi là hỷ giác phần.
4. Trừ giác phần- Lại nữa, khi ngồi thiền, đạt đến cảnh giới khinh an thì tâm rất là an lạc. Nhưng cảnh giới này có lúc thì sanh khởi giống như trên, có lúc thì dễ dàng sanh tẩu hỏa nhập ma. Tại sao tẩu hỏa nhập ma ? Khi sanh tâm chấp trước, tức truy cầu nắm giữ cảnh giới vừa thấy, thì ma vương liền nhập vào tâm. Nếu chư vị không chấp trước, thì ma vương không có cách nào để nhập vào. Chư vị nếu chấp vào cảnh giới nào thì ma liền hiện ra cảnh giới đó. Làm thế nào để giải ? Lúc đó phải dùng trừ giác phần. Trừ tức là thẩm tra, dọ xét các ác giác quán. Phải tẩy trừ các ác giác quán, còn chánh giác quán thì phải bảo tồn. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ HT Tuyên Hóa giải đáp:
* Thân Thể Chuyển Động khi Ngồi Thiền: Câu Hỏi 79: Trong lúc tụng công phu khuya, con vừa tụng vừa niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Bỗng thân thể con tự nhiên lắc lư qua phải, qua trái, ra trước, ra sau. Xin hỏi với hiện tượng như vậy thì con có thể ngồi thiền ở nhà được không?
Đáp: Thân thể mà lắc qua lắc lại như vậy là có hiện tượng nguy hiểm và rất dễ bị loài phi tinh nhập vào thân.
* Nghe thấy âm thanh: 342. Hỏi: Con đã từng học qua thiền Siêu Giác. Trong lúc tĩnh tọa con nghe một thứ âm thanh, lại tưởng tượng ra phong cảnh ở biển. Lúc đầu con cảm thấy rất tập trung, cảnh giới rất khoái lạc. Nhưng trải qua một thời gian, lại cảm thấy càng lúc càng mơ hồ, có một chút hơi hỗn độn. Con không biết, cách thức thiền Siêu Giác này là tốt hay không tốt?
Đáp: Nếu con muốn nghe một thứ âm thanh, hoặc là muốn nghe một cái gì, thì đó đều là vọng niệm. Đấy là một loại vọng giác, chớ không phải là Siêu Giác. Vì Siêu Giác thì rất tự nhiên, không có tham, không có cầu, không có trông mong bất cứ cái gì. Nếu con còn có cầu mong, thì không phải là siêu giác, mà có thể nói là vô giác đó.
* Phải tưởng tượng - Không đúng: 343. Hỏi: Thầy hướng dẫn thiền Siêu Giác dạy chúng con phải tưởng tượng ra một thứ âm thanh chi đó.
Đáp: Như vậy là trên đầu lại chồng thêm cái đầu và cưỡi lừa lại đi tìm lừa, là làm một chuyện thừa thải vô ích.
- Vậy tức là không nghĩ tới cái gì hết, phải không?
- Niệm động thì trăm sự sanh, Ngừng niệm thì vạn sự không – không còn vọng tưởng (tức thanh tịnh) thì sẽ không có chuyện gì cả (tức an lạc). Tâm dừng niệm tuyệt là chân phú quý, Tư dục đoạn tận là chân phước điền. Quý vị mà muốn nghe một thứ âm thanh thì đó là hướng ra ngoài để tìm cầu.
* Thiền siêu giác: 344. Hỏi: Vậy rốt cuộc thì phương thức tĩnh tọa Siêu Giác này là tốt hay không tốt? Vì hiện nay loại thiền này thì rất thịnh thành trên khắp thế giới.
Đáp: Đó là vì có số người không cách gì ngồi kiết già cho được, nên người ta mới nghĩ ra một phương pháp khác biệt thôi. Thật ra, muốn tĩnh tọa thì trước tiên phải học ngồi kiết già. Không luyện tập ngồi kiết già, không ra chút công phu mà muốn đắc đạo. Đó là chuyện không thể có được.
402. Hỏi: Trải qua nhiều ngày ngồi thiền, chân con càng ngày càng đau nhức, nhất là đầu gối trái. Cơn đau đó từ từ cuộn tròn như trái banh, rồi ngưng đọng nơi đầu gối của con. Hôm qua đang lúc đau dữ dội, nó bỗng nổ bùng và biến thành một luồng khí thanh tịnh, ấm áp màu vàng, rồi chuyển từ đầu gối dọc theo xương sống lên đến phần trên của thân con. Luồng khí ấm này khiến con cảm thấy tự tại, thích thú mà không bị hôn trầm. Sau đó con thấy tòa ngồi hình tròn, có hoa sen trắng. Phần vành hoa thì lờ mờ không thấy rõ, nhưng chính giữa thì hiển hiện nhụy hoa tím, tựa hồ như úp ngược cái tách rộng vành. Hốt nhiên lại hiện ra ngọn núi bảo chiếu sáng rực, mà từ trước đến nay con chưa từng thấy, lại giống như các dãy thành trì ở Âu châu, lại cũng giống như có các vị Bồ Tát ngồi trên tòa hoa sen và từ phía sau có con rắn đầu giẹp đang cuộn mình lên phía trên đỉnh núi. Có khi thấy như cảnh điện ảnh chiếu sáng lấp lánh thoáng thấu qua, nên con không nhớ rõ được. Con chỉ nhớ là hình như con một mình đi bộ trên bờ biển, nơi mà chưa từng có vết chân người đi qua. Cảnh trí yên tĩnh tuyệt đẹp, khiến cho tinh thần con người sảng khoái, và chỉ có tiếng chim hải âu là thường phá tan đi sự trầm tĩnh, thanh tịch mà thôi. Xin hỏi làm sao để con biết hiện tượng khác biệt giữa cảnh thật và sự tác dụng của tâm thức?
Đáp: Còn có các vọng tưởng tham muốn thấy Phật, thấy hoa thì đó là giả. Nghĩ tưởng thấy gì thì con sẽ thấy cái đó, nhưng cũng là giả. Chủ yếu là ở một niệm trước chưa sanh mà thấy cảnh giới thì đó mới là thật, mới là có ý nghĩa, nhưng có lúc nó lại vẫn là thuộc về huyễn hóa. Tham thiền thì tốt nhất là không nên có cảnh giới, cái gì cũng không có, vì chỉ là không. Cũng đừng kinh sợ, hay vui thích. Vì sợ hoặc thích đều là có thể bị ma nhập, như trong kinh Lăng Nghiêm có nói về 50 loại ngũ ấm ma. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hát 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các chướng nạn trong tu thiền định: Có một người nói rằng trong lúc tọa Thiền, anh ta luôn có cảm giác như mình sắp bị rớt xuống khe núi, cho nên rất sợ hãi. Ðúng thế, đó là khởi đầu của sự đắc Ðịnh; và lúc bấy giờ, quý vị chớ sanh lòng sợ hãi! Hôm nay, nhân Pháp Hội này, tôi sẽ giảng thêm đôi chút.
Trước đây, tôi có nói là trong khi ngồi tĩnh tọa, lắm lúc quý vị cảm thấy như có dĩa mực đen hoặc tấm sắt lớn lơ lửng trên không và cứ chực rớt xuống đầu mình, hoặc là đạn nguyên tử sắp nổ tung ngay trên đầu mình. Thế thì, lúc đó quý vị phải làm gì? Lúc đó, quý vị không nên chấp tướng, không nên bám trụ vào cảnh giới, bởi nếu chấp tướng thì quý vị sẽ dễ bị rơi vào ma cảnh. Hễ quý vị chấp tướng thì sẽ có đạn nguyên tử nổ tung trên đầu quý vị thật; còn nếu không chấp tướng thì sao? Thì tất cả sẽ rất tĩnh lặng, yên ổn, không việc gì, và nhất định quý vị sẽ thắng được chúng ma! Quý vị có Ðịnh, thì ma quỷ nào cũng chạy trốn hết!
Cảm giác thấy mình như sắp bị rớt xuống vực sâu muôn trượng chỉ là thứ vọng cảnh hư dối, không có thật. Tại sao lại là vực sâu thăm thẳm? Ðó là biểu thị nghiệp chướng của quý vị—nghiệp chướng mà quý vị đã tạo tác từ những đời trước cho đến nay còn thâm sâu hơn cả vực thẳm đó nữa. Vậy, nay biết được là mình nghiệp chướng nặng nề, sâu dày như thế nào rồi, thì quý vị hãy mau mau tu tập, chớ nên sanh tâm sợ hãi nữa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Cầu Siêu - Siêu Độ Vong Linh Thai Nhi:
Câu Hỏi 176: Lần này Hòa Thượng trở về đây, Ngài có thể khai thị, chỉ bảo cho tín đồ Đài Loan chúng con không?
Đáp: Muốn cho quốc gia được thái bình, thế giới được hòa bình thì nam nữ không được tà loạn mất căn gốc. Nếu chồng không ra chồng, vợ chẳng ra vợ, con chẳng là con, thì các vị nói đi, thiên hạ sẽ không loạn sao? Tôi xin khuyên các vị nên thủ đạo phu thê, đừng ly dị và nên lo chăm nom con cái của mình cho đàng hoàng. Nếu gia đình đều được hòa thuận vui vẻ, thì đất nước tự nhiên sẽ thái bình. Còn một việc nữa là tôi khuyên quý vị chớ nên phá thai. Quý vị thử nghĩ xem, một sanh mạng chưa ra đời mà đã trở thành oan hồn thì chúng tiểu quỷ đó sẽ đi khắp nơi để tìm mạng sống. Quý vị nói đi, như vậy thì xã hội sẽ được an ổn sao? Cần phải có vị tu đạo hạnh và không tham tài lợi mới có thể siêu độ được chúng quỷ nhỏ này. Bọn tiểu quỷ khó chịu lắm đấy, rất khó mà trị được chúng. Tội lỗi, nghiệp báo khắp nơi như vậy, thì quý vị nói là có thể an ổn được sao? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ 412. Hỏi: Xin hỏi làm sao mới có thể siêu độ được tổ tiên và cô hồn?
Đáp: Cần có bậc chân tu đại đức cao tăng, có định lực tu trì mới có thể hóa giải sự đau khổ của các linh hồn được siêu thăng thiên giới. Như vào thời Minh Triều thiền sư Long Khố siêu độ cho mẹ của vua Vạn Lịch. Trong ngày đăng đàn làm lễ cầu siêu, Ngài bảo rằng: “Ta vốn không đến, nhưng bà cứ thích ta đến, một niệm không sanh, thoát khỏi tam giới.” Chỉ với bốn câu pháp ngữ đó, mà mẹ của vua liền được siêu thăng lên trời. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hát 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chân Sư Jesus là điểm hội tụ của năng lượng đang lưu chuyển qua nhiều Giáo hội Cơ Đốc. Hiện nay, Ngài đang sống trong một thể xác người Syrya và ngự đâu đó trong vùng Thánh Địa (Holy Land). Ngài đi hoằng khai đạo pháp ở nhiều nơi của Châu Âu. Ngài chuyên hoạt động với quần chúng hơn là với cá nhân, mặc dù Ngài quy tụ được quanh Ngài rất đông đệ tử. Ngài thuộc Cung 6, Cung Sùng Tín hay Lý Tưởng Trừu Tượng (Abstract Idealism) và các môn đồ của Ngài thường được nhận ra bằng sự cuồng tín và sùng tín lộ rõ trong các thời kỳ đầu của Cơ Đốc Giáo trong số người tử đạo. Chính Ngài là một nhân vật uy dũng, một người đề cao kỹ luật và một người có luật lệ và ý chí sắt đá. Ngài có dáng dấp cao lớn và xương xương, gương mặt dài và không được đầy đặn, tóc đen, nước da tái, với đôi mắt xanh sắc sảo. Hiện nay, công việc của Ngài cực kỳ quan trọng vì Ngài được giao cho việc lèo lái tư tưởng của Tây Phương ra khỏi tình trạng bất ỗn hiện nay vào dòng nước an bình của xác tín và tri thức, và chuẩn bị con đường ở Âu Châu và Mỹ Châu cho sự tái lâm sau rốt của Đức Chưởng Giáo. Ngài nổi tiếng trong câu chuyện Thánh Kinh, trước tiên xuất hiện dưới tên Joshua, con trai của Nun, tái hiện vào thời Ezra dưới tên Jeshua, được điểm đạo lần ba dưới tên Joshua, như đã được nhắc đến trong sách Zechariah. Trong câu chuyện Phúc Âm, Ngài được biết tới do hai hy sinh lớn, cuộc hy sinh mà trong đó, Ngài nhường thể xác cho Đức Christ sử dụng, và cuộc đại từ bỏ vốn là đặc điểm của lần điểm đạo thứ tư. Dưới tên là Appolonius ở Tyana, Ngài được điểm đạo lần 5 và trở thành một Chân Sư Minh triết. Kể từ đó, Ngài đã ở lại và làm việc với Giáo Hội Cơ Đốc, nuôi dưỡng mầm mống của sự sống tinh thần đích thực có trong các thành viên của mọi chi phái và môn phái, cố gắng làm trung hòa các sai sót và lỗi lầm của các giáo sĩ và các nhà thần học. Rõ ràng Ngài là vị Đại Lãnh Đạo, vị Tướng Lĩnh và nhà hành pháp khôn khéo. Trong các vấn đề Giáo Hội, Ngài cộng tác chặt chẽ với Đức Christ, như thế đỡ đần cho Đức Christ nhiều việc và đóng vai trò trung gian cho Đức Christ khi có thể được. Không ai hiểu biết các vấn đề của Phương Tây một cách sáng suốt bằng Ngài, không ai tiếp xúc một cách mật thiết với những người tiêu biểu cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trong giáo lý Cơ Đốc bằng Ngài và không ai biết rõ bằng Ngài về nhu cầu của thời hiện tại. Một số vị đại Giám Mục của Giáo Hội Anh Giáo và Cơ Đốc Giáo là các nhân viên sáng suốt của Ngài. – Đức Jesus là vị Chohan trên cung 6. (LVLCK, 439)
10. Các Chân Sư (EP II 208): Là những người đã đạt được sự giải thoát khỏi tất cả những giới hạn của bản chất sắc tướng và an trú vĩnh viễn trong tâm thức của Linh Hồn Duy Nhất, đã thoát khỏi sự đồng nhất hóa với bất cứ khát vọng nào của sự sống sắc tướng, bất kể phát triển cao như thế nào. Các Ngài có thể và vẫn sử dụng hình tướng tùy ý cho các mục đích công ích chung. Đây là những Chân Sư của Sự Sống, những vị adepts hoàn thiện.(GQ1.1, tr 24,Trích dẫn TLHNM)
+ Một Chân Sư hay một người đã vượt qua con đường tiến hóa và đi vào giai đoạn cuối cùng của thánh đạo, tức Con đường Điểm đạo, đủ được 5 lần điểm đạo và do đó, đã bước vào giới thứ năm hay giới Tinh thần, chỉ còn nhận thêm 2 cuộc điểm đạo nữa. (ĐĐNLVTD, 215)
+ Một Chân Sư là một vị sáng tạo bằng chất liệu cõi trí, một vị phát khởi các xung lực trên cõi trí, nhờ đó tạo được các kết quả trong biểu hiện ở cõi cảm dục hoặc cõi hồng trần. Các kết quả này mạnh mẽ và hữu hiệu, do đó vị phát khởi phải có tư tưởng thanh khiết, lời nói chính xác và hành động khéo léo. (ĐĐNLVTD, 198–199)
+ Các Chân Sư chuyên về khoa học thị giác và âm thanh là một số Chân Sư thông thái nhất và tiến hóa nhất trong Thánh Đoàn.
+ Vị Chân Sư có được tự do hoàn toàn để hoạt động trong 3 cõi thấp cộng với cõi Bồ Đề (buddhic realm), trong khi Đức Christ và các Vị cùng cấp điểm đạo với Ngài có được tự do hoạt động trong 5 năm cõi tiến hóa của con người. (ASCLH, 354, 356)
+ Trạng thái nhận thức bằng trực giác. Chúng ta nhận thấy các Chân Sư Minh-Triết (Masters of Wisdom) tiến hành công việc của các Ngài ở trình độ tâm thức này, và chính trong phạm vi ảnh hưởng này mà các Ngài hoạt động một cách thoải mái và dễ dàng nhất, cũng như người thông minh bình thường hoạt động trên cõi trần. . Thể trí của các Ngài luôn luôn giao tiếp với các thể trí ở cõi nguyên-hình (archetypal minds), vốn là những vị bảo quản những công thức, và các Ngài – sau khi tiếp nhận các bản thiết kế (Tôi lại nói theo cách biểu tượng nữa rồi) − xử lý các đặc điểm kỹ thuật (specifications), tìm kiếm những người thích hợp để kiểm soát công việc, và tập hợp nhân sự cần thiết (LVHLT, 459)
Xem thêm về các Chân Sư Minh Triết
Xem thêm về các tác phẩm của Chân Sư DK
+ CHÂN SƯ TIẾP XÚC VỚI ĐỆ TỬ
Những người dành cho công việc rơi vào ba nhóm:
a/ Những người có thể cảm nhận được thiên-cơ và được giao nhiệm vụ để thực hiện thiên-cơ đó.
b/ Những người có thể được sử dụng nhưng họ không thấy được những vấn đề lớn hơn.
c/ Những người không thể cảm nhận được gì ngoài những điều có liên quan đến những quyền lợi ích kỷ của riêng họ.
- Các Chân Sư có thể tiếp xúc với nhóm thứ nhất. Các Ngài làm việc với các đơn vị này của gia đình nhân loại, và hy vọng triển vọng tốt đẹp về sự thành công ở mức trung bình. Cả hai nhóm này đều nghe được linh-âm, và thấy được Thiên Cơ (Plan).
- Nhóm thứ hai phải được các đệ tử trên thế gian sử dụng một cách tốt nhất có thể được.
- Nhóm cuối cùng thì thường xuyên bị đặt ra ngoài theo quan điểm về năng lượng, và chỉ được sử dụng khi cần thiết.
=> Một trong những điều kiện chủ yếu mà một đệ tử phải trau dồi, để cảm nhận được thiên-cơ, và được Chân Sư sử dụng, là sự cô độc (solitude). Trong sự cô độc, hoa hồng của linh hồn mới phát triển; trong sự cô độc, linh-ngã (divine self) mới có thể lên tiếng; trong sự cô độc, các năng lực và những ân sủng của Chân Ngã mới có thể bén rễ và nở hoa trong phàm-ngã. Cũng trong cô độc, Chân Sư mới có thể tiếp cận và ghi khắc lên linh hồn tĩnh-lặng (quiescent soul) tri thức mà Ngài tìm cách truyền đạt, bài học phải được học, phương pháp và kế hoạch cho công việc mà đệ tử phải nắm vững. Trong sự cô độc, diệu-âm được nghe thấy. Các Đấng Cao Cả phải làm việc qua các công cụ là con người, vì vậy kế hoạch và tầm nhìn bị trở ngại nhiều bởi sự không thích hợp về phía những công cụ này.
Thứ ba: Điều này đưa Tôi đến điểm thứ ba, những vấn đề và những khó khăn mà các Chân Sư phải đấu tranh với chúng, khi các Ngài muốn xúc tiến các kế hoạch tiến hóa qua trung gian các con của nhân loại. Theo cách mật nghị (conclave wise), các Ngài soạn thảo các kế hoạch của các Ngài; sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, các Ngài phân chia công việc một cách có suy xét; sau đó, các Ngài tìm cách truyền đạt càng nhiều về kế hoạch càng tốt cho những người tự hiến mình cho việc phụng sự và có sự tiếp xúc với linh hồn ở một mức độ nào đó. Các Ngài ghi khắc kế hoạch và một gợi ý nào đó về phạm vi của nó vào trí của một người nam hoặc một người nữ nào đó trên cõi trần. Nếu thể trí đó không ổn định hoặc quá thỏa mãn (oversatisfied), nếu nó tràn đầy kiêu hãnh, đầy thất vọng, hoặc đầy sự tự ti (self depreciation), tầm nhìn không tiếp nhận được thông tin liên lạc với độ rõ ràng về đường nét; nếu thể tình cảm đang rung động dữ dội với một nhịp điệu nào đó do phàm ngã dựng nên, hoặc nếu thể xác đang đau ốm và do đó việc tập trung chú ý bị ngăn chận, điều gì sẽ xảy ra? Chân Sư sẽ buồn bã quay đi, đau buồn khi nghĩ đến cơ hội phụng sự mà người phụng sự đã đánh mất do khuyết điểm của chính họ, và Ngài sẽ tìm một người khác để lấp đầy nhu cầu, một người mà có lẽ về cơ bản không thích hợp lắm, nhưng là người duy nhất có thể dùng được do sự thất bại của người được tiếp cận đầu tiên. (LVHLT, 132)
+ Đức Djwhal Khul hay là Đức D.K. như Ngài thường được gọi, là một Chân Sư thuộc Cung 2, Cung Bác ái–Minh Triết. Ngài là vị Chân Sư được điểm đạo gần đây nhất, Ngài được điểm đạo lần 5 vào năm 1875, và do đó đang ngự trong chính thể xác lúc Ngài được điểm đạo. Đa số các Chân Sư khác được điểm đạo lần 5 trong khi đang ngự trong các thể trước kia. Thể xác Ngài không còn trẻ và Ngài là người Tây Tạng. Ngài rất tận tụy với Đức Thầy K.H. và ngự nơi một ngôi nhà nhỏ không xa với ngôi nhà lớn hơn của Sư Phụ, và vì Ngài sẵn sàng phụng sự và làm bất cứ điều gì cần làm. Ngài được gọi là “Vị Sứ Giả của các Chân Sư”. Ngài có kiến thức uyên bác và biết nhiều về các Cung và các Huyền Giai hành tinh của Thái Dương Hệ hơn là bất cứ vị nào khác trong cấp đẳng các Chân Sư. Ngài hoạt động với những người chữa bệnh và cộng tác một cách vô vi (unknown and unseen) với những người tìm tòi chân lý trong các phòng thí nghiệm lớn trên thế giới, với tất cả những người chắc chắn nhắm vào việc chữa trị và vỗ về thế gian, và với các phong trào từ thiện lớn trên thế giới như Hồng Thập Tự. Ngài chăm nom đến những đệ tử nào của các Chân Sư khác có thể tận dụng được giáo huấn của Ngài. Trong vòng 10 năm qua, Ngài đã gánh vác cho cả Đức M. lẫn Đức K.H. một số lớn công việc giảng dạy, tiếp nhận từ các Đấng này một số môn đồ dành cho một vài thời kỳ đã định trước. Ngài cũng làm việc ở mức độ lớn với một vài nhóm thiên thần dĩ thái, vốn là các thiên thần chữa trị, và như thế họ cộng tác với Ngài trong việc chữa một số bệnh thuộc xác thân của nhân loại. Chính Ngài đọc cho viết một phần lớn bộ sách quan trọng là Giáo Lý Bí Nhiệm và Ngài đã chỉ cho Bà H.B. Blavatsky nhiều hình ảnh và đem lại cho Bà nhiều dữ liệu (data) chứa trong bộ sách này.
+ Chân Sư P. làm việc theo Chân Sư R. ở Bắc Mỹ. Chính Ngài có liên quan nhiều về mặt huyền môn với các khoa học về trí tuệ, như là Khoa học Cơ Đốc Giáo và Tân Tư Tưởng, cả hai đều là các nỗ lực được Thiên Đình đưa ra với cố gắng giảng dạy cho con người biết được sự thật về những gì vô hình và quyền năng sáng tạo của thể trí. Chân Sư này có thể xác người Ái Nhĩ Lan, thuộc Cung 4, chỗ ngự của Ngài không được phép tiết lộ. Ngài đảm nhận nhiều công việc của Đức Serapis khi Đấng này chuyển chú tâm vào cuộc tiến hóa của thiên thần.
+ Chân Sư Koot Humi rất nổi tiếng ở phương Tây và có nhiều đệ tử ở khắp nơi. Ngài gốc ở Kashmir, mặc dù thoạt đầu gia đình Ngài từ Ấn Độ đến. Ngài cũng là điểm đạo đồ cao cấp thuộc cung hai, Cung Bác ái– Minh triết. Ngài có dáng vẻ quý phái, cao, mặc dù hơi mảnh khảnh hơn Chân Sư M.. Ngài có nước da đẹp, râu tóc nâu vàng, mắt xanh thẳm tuyệt diệu, dường như qua đó bác ái và minh triết vô thủy tuôn tràn ra. Ngài có kinh nghiệm và học vấn rộng, trước kia có theo học ở Đại học nước Anh, và nói tiếng Anh lưu loát. Ngài đọc nhiều và bao quát, tất cả các sách vở và văn học hiện có bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau đều được Ngài đem đến Hi Mã Lạp Sơn để nghiên cứu. Phần lớn Ngài để tâm đến việc làm sinh động một vài triết thuyết lớn và chính Ngài cũng chú ý đến một số cơ quan từ thiện. Ngài được giao phó công việc mà chính phần lớn là kích thích sự biểu lộ đức bác ái đang tiềm tàng trong tâm mọi người và khơi dậy trong tâm thức việc nhận ra sự kiện căn bản lớn lao là tình huynh đệ. Đặc biệt là vào lúc này Chân Sư M., Chân Sư K.H. và Chân Sư Jesus đang lưu tâm chặt chẽ đến việc hợp nhất tối đa tư tưởng Đông và Tây, ngõ hầu các tôn giáo lớn ở Đông phương với sự phát triển sau này của Cơ Đốc Giáo với tất cả các chi phái của nó, có thể giúp ích cho nhau. Có được như thế thì sau rốt mới hy vọng Giáo Hội đại đồng vĩ đại duy nhất xuất hiện. – Chân Sư K.H. là Đế Quân (Chohan) của cung giáo huấn (teaching ray). (SHLCTĐ, 505)
+ Có thể nói ít điều về hai Chân Sư người Anh. Không một vị nào thu nhận đệ tử theo cùng ý nghĩa thu nhận đệ tử của Đức K.H. hay Đức M.. Một trong hai Ngài ngự tại nước Anh, đảm trách việc dẫn dắt chủng tộc Anglo–Saxon, Ngài đề ra các kế hoạch cho sự phát triển và tiến hóa trong tương lai của chủng tộc này. Ngài đứng sau phong trào Lao động trên khắp thế giới, chuyển hóa và hướng dẫn , trào lưu dân chủ đang lên hiện nay có bàn tay điều khiển của Ngài trong đó. Do sự bất ỗn của chế độ dân chủ, do tình trạng xáo trộn và hỗn loạn hiện nay, sẽ nảy sinh tình hình thế giới sau này với chủ âm là sự hợp tác chứ không phải tranh chấp, phân phối chứ không tập trung. (ĐĐNLVTD, 53–60)
+ Tam thân Phật: Sư nói: "Ba thân là Thanh Tịnh Pháp Thân, đó là tánh của ngươi, Viên Mãn Báo Thân là trí của ngươi, Thiên Bách Ức Hóa Thân là hạnh của ngươi vậy. Nếu ngươi lìa Bổn tánh mà nói riêng ba thân, tức gọi là có thân mà không trí. Bằng ngộ được ba thân không có tự tánh riêng, tức gọi là tứ trí Bồ đề. Hãy nghe ta kệ:
Tự tánh đủ ba thân,
Phát minh thành tứ trí.
Chẳng lìa duyên thấy nghe,
Siêu nhiên lên quả Phật.
Nay tôi vì ông nói,
Tin chắc hằng không mê.
Chớ học người tìm cầu,
Trọn ngày nói Bồ đề."
Trí Thông lại bạch rằng: "Cái nghĩa tứ trí có thể được nghe chăng?"
Sư nói: "Đã hiểu ba thân thì rõ tứ trí, sao lại hỏi nữa? Nếu lìa ba thân mà nói riêng tứ trí, ấy gọi là có trí mà không thân, tức là có trí trở lại thành không trí."
Sư lại nói kệ rằng:
Đại Viên Cảnh Trí, tánh thanh tịnh.
Bình Đẳng Tánh Trí, tâm vô bịnh.
Diệu Quán Sát Trí, kiến phi công,
Thành Sở Tác Trí, đồng viên cảnh.
Ngũ Bát quả, Lục Thất nhơn, chuyển,
Chỉ dùng danh ngôn không thật tánh.
Nếu ngay chỗ chuyển chẳng lưu tình,
Ngay nơi ồn náo, Na-già định.
HT Tuyên Hóa giảng:
Phật có tứ trí tức Đại Viên Cảnh Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quan Sát Trí, Thành Sở Tác Trí.
- Đại Viên Cảnh Trí là gì? Là do thức thứ tám chuyển, cho nên nói chuyển thức thành trí. Lúc ông không biết dụng đó là thức, lúc ông phản bổn hoàn nguyên tức chuyển thức thứ tám mà thành Đại Viên Cảnh Trí, cho nên bổn tánh của nó thanh tịnh không có ô nhiễm, vì thế nói Đại Viên Cảnh Trí tánh thanh tịnh.
- Bình Đẳng Tánh Trí là do thức thứ bảy chuyển. Lúc ông chưa hiểu rõ thì gọi là thức thứ bảy, sau khi khai ngộ thì gọi là Bình Đẳng Tánh Trí. Thức thứ bảy cũng gọi là Mạt na da thức, cũng gọi là truyền tống thức, nó do thức thứ sáu truyền cho thức thức tám, cho nên gọi là truyền tống thức, mà thức thứ tám còn gọi là hàm tàng thức, Phạn ngữ là A lại da thức. Những hột giống thiện ác, đều chứa trong thức thứ tám, cho nên trồng thiện nhân liền kết quả thiện, trồng nhân ác liền kết quả ác, cho nên gọi bát thức điền. Thức này giống như một mảnh ruộng, quý vị trồng cái gì thì nó liền sanh cái đó. Bình Đẳng Tánh Trí tâm vô bệnh, bình đẳng tức tâm Chư Phật và chúng sanh thì bình đẳng, vô bệnh tức không có chướng ngại, tật đố, tham sân si. Nếu quý vị không có chướng ngại, tật đố, tham sân si thì có thể chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí.
- Diệu Quán Sát Trí kiến phi công: Diệu Quán Sát Trí thì do ý thức thứ sáu chuyển, thức thứ sáu này cái gì cũng đều phân biệt, phân biệt thiện ác, thị phi, nam nữ, cho nên xem ra thì rất thông minh, thực tế đã biến thành ý thức. Nếu đã chuyển thức thành trí, thành Diệu Quán Sát Trí – Nó nhìn thấy mọi cảnh giới mà không cần phân biệt vẫn có thể hiểu rõ. Diệu quán sát và tâm phân biệt không giống nhau, cho nên chứng quả A la hán cần phải tác ý quan sát, tác ý chính là từ trong tịnh quan sát, mà có thể biết được những sự việc trong tám vạn đại kiếp. Chính là sử dụng Diệu Quán Sát Trí này mà có thể biết được, nhưng nếu quý vị không tác ý quan sát, vẫn là dùng ý thức, tức là người thường đều có.
- Thành Sở Tác Trí đồng viên cảnh: Thành Sở Tác Trí là do năm thức đầu: tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thành tựu, giống như một cái gương tròn.
- Ngũ Bát, Lục Thất quả nhân chuyển: Ngũ chính là năm thức đầu, Bát chính là thức thứ tám; Ngũ Bát quả chuyển tức là năm thức đầu và thức thứ tám được chuyển ở giai đoạn gặt quả, thành Đại Viên Cảnh Trí và Thành Sở Tác Trí. Lục Thất nhân chuyển tức là thức thứ sáu và thức thứ bảy được chuyển trước trong thời kỳ gieo nhân, thành Diệu Quán Sát Trí và Bình Đẳng Tánh Trí. Trong việc chuyển bát thức thành tứ trí, thức thứ sáu và bảy chuyển trước ở giai đoạn gieo nhân, kế sau là chuyển năm thức đầu và thức thứ tám ở thời kỳ gặt quả.
- Đản dụng danh ngôn vô thực tánh: Tuy nói trên nhân chuyển, trên quả chuyển, thực tế thì không có thực tánh nào, chỉ là một số danh từ mà thôi.
- Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình: Nếu ông đang ở chỗ (tình thức) chuyển không ngừng, mà ông không dùng tâm tình phàm phu lại suy tính đo lường.
- Phồn hưng vĩnh xứ Na-già định: Phồn có nghĩa là nhiều, Hưng có nghĩa hưng khởi, tức là thường ở trong Na già định – Na già (Naga) định chính là định của rồng. Tại sao rồng có thể lớn có thể nhỏ? Chính là từ trong định biến hóa, cho nên rồng gọi là Thần Long, vì nó có thể biến hóa vô cùng. Giống như lời tựa đã nói: Lục Tổ Đại sư dùng bát hàng phục rồng, rồng này chắc có vô minh và tính nóng giận. Nó nghĩ: "Thầy nói tôi không dám vào trong bát của thầy à? Xem nè!" Vì thế bèn nhảy vào trong bát, nhưng khi đã nhảy vào rồi thì không có cách nào nhảy ra. Rồng này sau khi nghe Lục Tổ Đại sư thuyết pháp liền được vãng sanh. Tuy rồng này thường ở trong định, nhưng chưa phá vô minh, cho nên vẫn còn nổi nóng, muốn hiển thần thông. Nếu nó có định lực, dù có nghe Lục Tổ nói: "Ngươi không thể hóa thành thân nhỏ," thì cũng không bị dao động. Na-già định là thứ định bất khả tư nghì. Do đâu mà trở thành rồng? Do là lúc trước, ở nhân địa, học Phật pháp rất tinh tấn, nhưng lại không giữ giới luật. Nghĩ rằng: "Người thường cần giữ giới luật nhưng tôi có thể không giữ." Cho nên nói: "Tu hành thì siêng năng nhưng giới luật thì buông thả (thừa cấp giới hoãn)," vì thế nên biến thành rồng.
Lưu Ý (Nguyên chú): phần nói về chuyển thức thành trí: "Chuyển tiền ngũ thức là Thành Sở Tác Trí. Chuyển thức thứ sáu làm Diệu Quán Sát Trí. Chuyển thức thứ bảy làm Bình Đẳng Tánh Trí. Chuyển thức thứ tám thành Đại Viên Cảnh Trí. Tuy thức thứ sáu thứ bảy ở trong nhân chuyển, năm thức trước và thức thứ tám ở trên quả chuyển, nhưng chỉ chuyển trên danh tướng mà không chuyển bản thể của nó" theo bản khắc Đại Tạng Kinh, cùng với bản khắc đời Minh, đều là chữ nhỏ. Chỉ có bản khắc gần đây khắc lầm là chữ lớn, lẫn lộn với nguyên văn của Đàn Kinh. Như vậy không đúng! Cho nên vẫn làm chữ nhỏ mà viết thêm hai chữ "nguyên chú" (tức là lưu ý) để phân biệt. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tám Thức hoạt động: 346. Hỏi: Con thường nghe nói rằng: tất cả những hành động của chúng ta đều sẽ trở thành chủng tử trong thức thứ tám. Con không biết giữa thức thứ tám này và bảy thức trước có mối quan hệ ra sao?
Đáp: Bảy thức trước là cùng làm việc với nhau trong thân thể chúng ta. Bảy thức đó đều chịu sự chi phối của thức thứ tám. Nếu phân tách ra thì bảy thức đó cũng không có trách nhiệm gì mà lãnh trách nhiệm lại là thức thứ tám. Nhưng đến lúc cuối cùng, khi thức thứ tám không thể điều khiển được bảy thức trước thì con người sẽ chết. Lúc chết, thức thứ tám rời khỏi thân thể sau hết, nhưng lúc nhập thai thì nó lại đến trước tiên. Cho nên nói: “Đi sau tới trước làm chủ ông.” Thức thứ tám là chủ nhân ông, nếu y không tới thì bảy thức kia cũng không có tác dụng gì. Bảy thức đều do thức thứ tám mà có, nếu nó bị hư hoại thì bảy thức kia cũng bị hoại luôn. Giống như bộ phận tống dầu trong đầu máy xe mà bị hư thì các bộ phận còn lại đều không có tác dụng gì cả! (Nguồn: Gậy Kim Cang Hát 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đức Tin: Kinh Hoa Nghiêm dạy: Ðức tin là nguồn đạo, là mẹ của mọi công đức; HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Quyển 1) nói rằng: Niềm tin chưa đầy đủ cũng đồng nghĩa với không có niềm tin;
+ Phật nói: "Tin là mẹ đẻ của công đức", ý này rất sâu rất rộng. Chúng ta luôn luôn là qua loa sơ ý xem qua, việc này dường như là rất thông thường. Việc thường hay nói, trẻ nhỏ ba tuổi đều biết thì việc này có gì hiếm lạ đâu? Chúng ta không biết được, then chốt của thành công hay thất bại chính ngay trong đó....chữ Tín trong “Tín-Nguyện-Hạnh” => Cầu nguyện đượi lợi ích. Có tín mà không có nguyện, hạnh thì đều là giả. Đây cũng giống như tòa lầu ba tầng, tin là tầng thứ nhất, nguyện là tầng thứ hai, hạnh là tầng thứ ba.....Phương pháp duy nhất có thể giúp chúng ta đoạn những ô nhiễm này chính là "đọc tụng đại thừa, vì người diễn nói". (Kinh Thập Thiện - Tập 36_PS Tịnh Không)
+ Tín Tâm - Tin Phật Pháp: Tỷ kheo có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Tỷ-kheo ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn. Tỷ-kheo ấy không lừa đảo, dối gạt, nêu rõ tự mình như chân đối với bậc Ðạo sư, đối với các vị sáng suốt, hay đối với các vị đồng Phạm hạnh. Tỷ-kheo ấy sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu với các thiện pháp. Tỷ-kheo ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sanh diệt các pháp, Thành tựu sự thể nhập thuộc bậc Thánh, đưa đến chân chánh đoạn diệt khổ đau. - Vị ấy suy nghĩ như trên: “Ta có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán,…Phật, Thế Tôn; Tỷ-kheo ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa....”, tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc?”(Xem phẩm Vua - Tỷ Kheo)
+ NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN TÂM
1. Tin căn bản, tức là ưa nghĩ nhớ pháp chơn như.
2. Tin Phật có vô lượng công đức; hành giả thường phải nghĩ tưởng, gần gũi, cung kính và cúng dường chư Phật, để pháp khởi căn lành và nguyện cầu đặng "Nhứt thế trí".
3. Tin Pháp của Phật có lợi ích lớn; hành giả phải thường nhớ tu hành các pháp Ba la mật.
4. Tin Tăng là người chơn chánh tu hành, tự lợi lợi tha, và hành giả thường ưa thân cận các vị Bồ Tát để cầu học cái hạnh chơn thật. (Nguồn: Giảng về Tín Tâm trong Tu hành)
+ Đức tin (Faith): Sức mạnh của đức tin có thể làm khởi động (set in motion) các năng lượng cao siêu (superior energies), các năng lượng này có thể vô hiệu hóa (negate) hay làm cản trở (retard) bệnh tật. Toàn thể chủ đề về đức tin, ý nghĩa thiết yếu và mãnh lực của nó đều ít được hiểu, giống như là Luật Nghiệp Quả. Đây là một chủ đề bao la và tôi không thể quảng diễn thêm nữa. Nhưng tôi đã nói đủ để giúp bạn tài liệu suy đoán. (CTNM, 350)
+ Đức tin chân chính: (Real faith, pistis). Đức tin chân chính tức là pistis của người Hy Lạp, là “đức tin dựa vào tri thức” (“ belief based on knowledge”) dù cho tri thức đó được cung cấp bởi bằng chứng của các giác quan vật chất hay tinh thần. (CKMTTL, 169)
+ Đức tin - Lòng tin: "Đức Phật có nói: Rằng chúng ta đừng nên tin vào một điều gì được nói ra chỉ vì nó được nói mà thôi; đừng tin vào các truyền thống vì chúng đã được truyền xuống từ thời xa xưa; đừng tin vào các đồn đãi như thế; cũng không tin vào các câu viết của các vị thánh, vì các thánh đó đã viết ra các câu ấy; cũng đừng tưởng rằng chúng ta có thể nghi ngờ khi được một Thiên Thần gợi hứng nơi chúng ta (nghĩa là, trong những gì được cho là có chứa hứng cảm tâm linh); cũng đừng tin vào các suy đoán được rút ra từ một giả định không cẩn trọng nào đó mà chúng ta có thể đưa ra; cũng như không vì những gì có vẻ như một sự tương đồng tất yếu; cũng không chỉ dựa vào thẩm quyền của các huấn sư hoặc các bậc thầy của chúng ta. Nhưng chúng ta PHẢI TIN khi nào bài viết, lý thuyết hoặc châm ngôn được chứng thực bằng chính lý lẽ và ý thức của chúng ta. Để kết luận, Ngài nói: “Vì lẽ đó, ta khuyên con đừng nên tin chỉ vì con đã nghe, mà hãy NÊN TIN vào ý thức của con, rồi hãy hành động cho thật phù hợp với điều đã biết”. (Trích: Giáo Lý Bí Nhiệm III, 401")
Xem thêm: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạo - Điểm đạo
+ Âm thanh (sound, âm) Thật là điều hiển nhiên khi nói rằng âm thanh là màu sắc và màu sắc là âm thanh... Xin bạn luôn luôn nhớ rằng mọi âm thanh đều tự biểu hiện thành màu sắc. (TVTTHL, 205)
+ Âm thanh sản sinh ra, hay đúng hơn là thu hút các nguyên tố lại để tạo ra một ozone, việc chế tạo chất này ở ngoài tìm tay của ngành hóa học, nhưng ở trong các ranh giới (limits) của khoa luyện kim đan (alchemy). Âm thanh có thể làm hồi sinh (resurrect) ngay cả một người hoặc một con thú mà thể dĩ thái (astral “vital body”) chưa hoàn toàn tách ra khỏi thể xác bởi sự gián đoạn của tuyến từ điển (magnetic or odic chord). Với tư cách một người được cứu sống ba lần bằng quyền năng này, tác giả (tức bà H.P.Blavatsky–ND) có đủ uy tín để nói là bản thân mình biết được ít nhiều về điều đó. (GLBN II, 279)
+ Tọa thế (Posture, Asana, tư thế ngồi thiền): Tư thế tốt nhất là tư thế làm cho người tìm đạo có thể sớm quên rằng mình đang có một thể xác. Người ta thường đưa ra tư thế ngồi thẳng lưng (upright position) thoải mái trên một cái ghế, chân đặt tréo tự nhiên, tay đặt trên đùi, mắt nhắm lại, cằm hơi cúi xuống, đó là tọa thế tốt nhất cho người tìm đạo Tây phương. Ở Đông phương, có một môn học về các tọa thế và có khoảng 84 cách ngồi khác nhau, một số rất phức tạp và gây nhiều đau đớn. Môn học này là một nhánh của Hatha Yoga và căn chủng thứ năm không cần tuân theo. Đó là tàn tích của môn Yoga chỉ cần và đủ cho căn chủng Lemuria, vì họ cần học cách kềm chế thể xác. … Cần nên nhớ rằng nỗ lực để đạt tới việc quên đi thể xác bằng tọa thế đúng cách được mang lại nhờ việc kiên trì thực hành với sự thoải mái hơn là nhờ áp đặt mạnh bạo lên cơ thể những tư thế và phong thái xa lạ và không thoải mái. (ASCLH, 215)
+ Tư thế khi Tham Thiền:
- Tư thế trên cõi hồng trần – một vị thế vững vàng và bất động của thể xác khi tham thiền.
- Tư thế trên cõi cảm dục – một tình trạng vững mạnh, ổn định, không lay chuyển của thể tình cảm trong đời sống ở cõi trần.
- Tư thế trên cõi trí – một thể trí ổn cố, không xao động, hoàn toàn được chế ngự.
+ Tư thế ngồi thiền: ... Hôm nay là ngày đầu thiền thất. Hy vọng quý-vị chớ lãng phí cơ hội khai ngộ.
Ðả thất thì phải khắc kỳ thủ chứng. Không thể ngồi trên thiền sàng mà khởi lên vọng tưởng. Như vậy thì chỉ cô phụ công việc tham thiền của mình mà thôi.
Bây giờ nói về tư thế tọa thiền, mình cần phải ngồi cho đúng mới có ích lợi cho thân tâm. Nếu không, tọa thiền không có giá trị gì. Trong khi tọa thiền, trước hết phải để thân tâm mình tự nhiên nhẹ nhàng, không nên gấp rút khẩn trương. Tốt nhất là ngồi thế kiết già, đó là thế căn bản của pháp ngồi thiền.
Thế kiết già phu tọa (hoặc là thế kiết già) là gì? Tức là lấy chân trái để lên chân mặt, sau đó để chân mặt lên đùi trái. Ðó là thế Kim-cang tọa, nghĩa là thế kiên cố bất động. Trong quá khứ chư Phật đã ngồi thế Kim-cang tọa mà thành Phật; tư thế này có thể hàng phục thiên ma và chế chỉ ngoại đạo. Khi chúng thấy mình ngồi trong tư thế này thì chúng liền thối lui, không dám lại quấy phá.
Sau khi đã ngồi kiết già rồi, mắt phải nhìn vào chóp mũi, không được nhìn phía đông cũng không được nhìn phía tây. Ðó gọi là:
Mắt nhìn mũi, mũi hướng về miệng, miệng hướng về tâm.
Như vậy thì mình mới có thể nhiếp trì được thân tâm; đem tâm đang chạy loạn xạ đó mà định trụ lại, không cho nó chạy ra bên ngoài nữa. Khi được như vậy thì gọi là:
Tâm chuyên nhất, mới linh cảm.
Tâm phân tán, thì bế tắc.
Mình cần phải đoan nghiêm chính tọa, xương sống phải thẳng, đầu phải ngay, không cúi về trước cũng chẳng ngã ra sau; không nghiên bên trái hoặc ngã bên phải. Mình phải ngồi như cái chuông lớn, vững vàng không động đậy. Ðừng ngồi giống như cái chuông treo, lắc qua bên đông lắc qua bên tây. Ngồi kiết già là tư thế thích hợp nhất để tham thiền.
Người sơ học sẽ cảm thấy không quen, nào là đau chân, mỏi lưng, không nên coi đó là quan trọng. Mình cần phải cắn răng chịu đựng, nhẫn nại một thời gian lâu dài thì tự nhiên hiện tượng đó không còn nữa. Ðó gọi là "cửu tọa hữu thiền" nghĩa là ngồi lâu tự nhiên sẽ có thiền, tự nhiên sẽ đắc được thiền vị.
Thân thể của mình cũng giống như căn phòng vậy. Muốn du hành ra ngoài, muốn đến chỗ nào thì tự do mà làm. Muốn hóa thân thành trăm ngàn vạn ức tới tận hư không biến Pháp-giới để giáo hóa chúng sinh thì tùy ý nhậm vận. Nếu không muốn đi du hành thì mình vẫn ở trong căn phòng, không ai có thể tới làm phiền mình cả. Nên hiểu rằng tận hư không biến Pháp-giới, tất cả mọi thứ đều ở trong pháp thân, không có gì chạy ra khỏi pháp thân này.
Quý-vị hết sức siêng năng cần khổ lại tham thiền, ngày đêm không ngừng dụng công, là chỉ vì muốn được tự do trong sinh tử, khống chế được sinh mạng của chính mình, làm chủ chuyện sinh tử. Khi đã làm chủ được thì đó là mình đã tới được cảnh giới sinh tử tự do.
Người tham thiền tham đến chỗ trên không biết có trời, dưới không biết có đất, giữa cũng không thấy có người, cùng với hư không hợp thành một. Tới cảnh giới như vậy sẽ có cơ hội khai ngộ. Lúc ngồi lúc đi đều là cơ duyên để khai trí huệ.
Mình tham câu: "Niệm Phật là Ai?" Niệm Phật là người nào? Người nào đang niệm Phật? Ai là người đang ngồi đây? Người ngồi đây là Ai? Lúc ăn cơm, Ai là người ăn cơm? Lúc ngủ, Ai là người đang ngủ? Phải tìm ra kẻ đó. Tìm tất cả là Tham; tham đến lúc thủy cùng sơn tận thì với một sự chuyển thân mình sẽ khai ngộ. Rằng ... (Nguồn: Đả thiền thất phải khắc kỳ thủ chứng - HT Tuyên Hóa)
+ Ngồi Kiết già và Bán già: Ngồi trong tư thế kiết già là ngồi với tư thế hai chân đan chéo vào nhau. Ngồi với tư thế kiết già này sẽ được phát sinh vô lượng công đức.
... Ông ta ngồi suy nghĩ: “Nếu ta ngồi trong tư thế kiết già thì đó là ngôi chùa bằng vàng, nếu ta ngồi với tư thế bán già thì đó là ngôi chùa bằng bạc, còn nếu ta không ngồi với hai tư thế ấy thì chẳng có gì khác ngoài một vũng bùn. Tốt hơn là nên bắt đầu tu tập, không nên xoay xở tụng kinh đám nữa.” Rồi ông ta vùi mình trong đề tài ấy ngay và công phu tham cứu rất nghiêm mật. Sau một thời gian, ông được ngộ đạo, được tặng danh hiệu “Quỷ Bức Thiền Sư.” Vì nếu vị ấy không bị hai con quỷ dọa đánh, vị ấy chắc hẳn sẽ còn trì hoãn công phu và sẽ không bao giờ thành công trong việc tu tập. (Nguồn: Xem tư thế ngối thiền - HT Tuyên Hóa)
+ Tư Thế và Giữ Tâm trong thiền định
Bây giờ tâm trong nhân địa tu hành phải trở về với cội nguồn thanh tịnh, trong sạch; điều nầy giống như lắng nước đục bằng cách để yên trong bình chứa. Lặng yên mãi không lay động. Bình chứa yên tĩnh ấy là gì? Đó là hình ảnh biểu tượng cho quý vị khi ngồi thiền. Khi chúng ta ngồi thiền và tu tập thiền định, có nghĩa là chúng ta đang làm cho đất bùn lắng đọng bằng cách ngồi yên tĩnh. Khi chúng ta đã phát triển được định lực, nghĩa là ta rót nước trong của định lực vào trong tự tánh mình. Thân quý vị giống như cái bình chứa yên tĩnh. Nhưng quý vị phải hoàn toàn không được lay động. Không được duỗi chân ngay khi vừa thấy đau, hoặc dựa lưng nghỉ ngơi khi vừa thấy đau lưng. Ai trong quý vị vừa duỗi chân ra dù chỉ chút ít hoặc chồng gối phía sau lưng để đỡ mình thì vẫn chưa hiểu được thế nào là trưởng dưỡng công đức. Quý vị luôn luôn nhìn quanh để tìm kiếm sự thuận tiện cho mình. Ở Mỹ, người ta luôn luôn quan tâm đến tiện nghi, dù trong ngôi nhà nghèo nhất cũng có cái máy truyền hình. Chúng ta không thể nói rằng đây là ‘hoàn toàn yên tĩnh và bất động’ được. Người mà hoàn toàn yên tĩnh và bất động thì không bao giờ lo sợ cái gì cả. Chân đau một chút không nghĩa lý gì cả..... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ Tu là Pháp trung đạo:
Làm Vừa Ðủ là Trung-Ðạo
Pháp môn tham thiền, cần hồi quang phản chiếu ở mọi thời mọi lúc một cách tự nhiên. Mình không được quá gấp rút, cũng không được quá chậm chạp; nên có câu nói rằng:
Gấp thì đứt, chậm thì lỏng
Không chậm, không gấp mới thành công.
Không gấp không chậm là trung đạo; đi đứng nằm ngồi đều không rời "cái nầy," xa rời khỏi "cái nầy" tức là sai lầm. "Cái nầy" là cái gì? Ðó chính là Trung-đạo liễu nghĩa.
Tham thiền không được đi vào cực đoan, không được quá lố cũng không được thiếu hụt; quá lố hay thiếu hụt đều không phải là Trung-đạo. Không rơi vào "không," cũng không rơi vào "hữu," không rơi vào hai biên tế, mới gọi là Trung-đạo. Nên nói rằng: "Trung-đạo chính là phi không phi hữu" (chẳng không mà cũng chẳng có), cũng có nghĩa là chân không diệu hữu. Không chấp trước chân không, nhưng cũng đừng quái ngại diệu hữu. Chân không diệu hữu đều không thể nắm bắt, cũng không thể xả bỏ. Nắm cũng không được, bỏ cũng không xong, đó chính là cảnh giới của chân không diệu hữu.
Người dụng công cần phải có thủy có chung (có đầu có đuôi) thì mới thành tựu được. Rằng: "Quán triệt thủy chung." Không thể một ngày tu rồi mười ngày nghỉ Ố nhất bộc thập hàn Ố nghĩa là một ngày hơ ấm, mười ngày bỏ lạnh. Không được gặp chuyện khó khăn liền thối lui, đi được nửa đường rồi bỏ cuộc, người như vậy là kẻ không có chí khí. Cổ nhân nói:
Tu Ðạo bất phạ mạn, chỉ phạ trạm.
Nghĩa là:
Người tu đạo không sợ chậm, chỉ sợ đứng một chỗ.
Lúc thường dụng công tham thiền, mình nên chú ý vào thoại đầu, dùng Kim-cang bảo kiếm (tức là trí huệ) để chặt hết vọng tưởng. Vọng tưởng hết, thì trí huệ hiện tiền. Có trí huệ quang minh, mới phá tan vô minh hắc ám. Vô minh phá trừ rồi, mình thoát khỏi Tam-giới, hết sinh tử, lúc đó mới ra khỏi vòng tròn định mạng (thập nhị nhân duyên).
Người dụng công tu đạo cần có tâm nhẫn nại. Bất luận trường hợp khó khăn gian khổ nào, cũng cần nhẫn thọ. Nhẫn nại thì mới tới được bờ bên kia. Vì vậy trong khi đả thiền thất đừng nên sợ khổ. "Khổ tận cam lai" nghĩa là đắng hết, ngọt lại. Nếu mình chưa lặn xuống tận đáy, mình sẽ không bao giờ vươn lên tận chóp đỉnh. Căn nhà cao hằng ngàn trượng đều từ nơi mặt đất xây lên, không phải xây lên trong hư không. Bởi thế cần hạ thủ tham thiền nơi chốn căn bản, tức là trừ bỏ vọng tưởng. Nếu mình có thể ngừng vọng tưởng, thì lúc đó:
Lòng trong suốt, trăng hiện bóng nước.
Ý an định, trời xanh không mây.
Khi lòng thơi thản, trăm nạn tiêu hết. Ý yên định, mọi chuyện an bình. Rằng:
Tâm ngừng, niệm dứt là giàu sang thật.
Lòng tư dục cạn, ruộng phước mới chân.
Tham thiền tức là dứt hết vọng, chỉ còn sự chân thật (khử vọng tồn chân). Cũng giống như sàng cát đãi vàng vậy; ở trong cát mà tìm vàng đó là chuyện rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu mình muốn tìm vàng thì phải tìm trong cát, tất phải có lòng nhẫn nại. Quý-vị có muốn hiểu rõ Phật tánh của mình không? Muốn được minh tâm kiến tánh chăng? Vậy thì phải nhẫn nại tu hành, nhẫn nại tham thiền, nghiên cứu, lâu dần thì tất nhiên sẽ quán thông, sẽ khai ngộ; "ồ! Thì ra là vậy."
Khi tham thiền thì mình đừng để ý đến chuyện khác, cứ một mực tham câu "Niệm Phật là Ai?" Phải tìm cho ra "Ai" đó, chỉ khi nào tìm ra rồi thì lúc đó mới ngừng tham. Công phu mình đã đến chỗ thuần thục rồi, thì tự nhiên sẽ gặt hái được kết quả tốt.
Khi ngồi trong thế kiết già, đem chân trái gác lên đùi phải, đem chân phải gác lên đùi trái. Ðó là vì chân trái thuộc về dương, chân phải thuộc về âm. Cho nên khi ngồi thiền, chân trái (dương) thì ở phía trên, chân phải (âm) thì ở phía dưới, đó cũng giống như là vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (tức là âm và dương). Tuy ý nghĩa như vậy; nhưng để cho tiện, quý-vị muốn bỏ chân trái ở dưới, chân phải ở trên cũng được; bởi vì Pháp thì không nhất định, tùy theo thói quen của mỗi người, không cần phải chấp trước một phương pháp, một tư thế cố định nào cả. Ðể chân trái ở trên chân phải là một phương pháp mà thôi, không phải là một quy luật tuyệt đối; rằng quý-vị phải tuân theo như vậy.
Nói tóm lại, kiết già phu tọa là thế mình dễ nhập định nhất. Nếu mình có thể nhập định trong lúc đi thì ngồi hay không ngồi đều không thành vấn đề. Cảnh giới lúc nhập định thì không có một chút vọng tưởng nào, trong tâm một niệm chẳng nẩy sinh, bụi trần chẳng nhiễm. Nếu có thể đi đứng nằm ngồi không sinh một niệm nào, không nhiễm ô bụi trần thì đó là lúc dụng công đấy. Không nhất định ngồi mới gọi là dụng công tham thiền. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Nhập môn ngồi thiền: 328. Hỏi: Xin Ngài lược giảng chút ít về phương pháp ngồi thiền ở chùa Kim Sơn để con có thể nhập môn?
Đáp: Chú tới chùa Kim Sơn (San Francisco) thì biết liền. Muốn nhập môn, vào cửa trước tiên phải tập ngồi kiết già. Hòa Thượng Trái Cây (Thủy Quả), tức là Ngài Quảng Khâm cũng tréo chân ngồi như thế. Đó gọi là Kim Cang tọa. Ngồi như vậy thì có thể hàng phục được ma quân.
332. Hỏi: Tại sao nhất định phải ngồi kiết già mới nhập định được? Dùng phương pháp khác có được không? Nếu như hai chân không xếp bằng lại được như vậy thì có thể ngồi yên tĩnh tọa không?
Đáp: Vậy cũng được. Thế ngồi kiết già này gọi là Kim Cang tọa, thành thử giúp ta ngồi được kiên cố hơn một chút.
344. Hỏi: Vậy rốt cuộc thì phương thức tĩnh tọa Siêu Giác này là tốt hay không tốt? Vì hiện nay loại thiền này thì rất thịnh thành trên khắp thế giới.
Đáp: Đó là vì có số người không cách gì ngồi kiết già cho được, nên người ta mới nghĩ ra một phương pháp khác biệt thôi. Thật ra, muốn tĩnh tọa thì trước tiên phải học ngồi kiết già. Không luyện tập ngồi kiết già, không ra chút công phu mà muốn đắc đạo. Đó là chuyện không thể có được. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hét1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu định lực: Ngoài ra, trên bước đường tu học, quý vị nhớ là đừng lo nghĩ về chuyện mình đã một ngày chưa ăn, hoặc hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày chưa ăn - hãy gạt bỏ chuyện đó ra khỏi tâm trí. Ăn rồi với chưa ăn đều như nhau, chưa ăn hay ăn rồi thì cũng thế—đừng nhớ là mình đã ăn hay chưa ăn nữa. Phải quên đi chuyện ăn rồi hay chưa ăn—như thế mới là chân chánh tu Ðạo! Song, nếu không chân chánh tu Ðạo, thì quý vị sẽ quên không nổi!
Nếu chân chánh tu Ðạo, thật sự dụng công, thì quý vị sẽ có được Ðịnh lực chân chánh. Một khi quý vị đã có Ðịnh lực chân chánh rồi, thì đừng nói là bị tôi la mắng, mà dù có bị tôi đánh đập đi chăng nữa, quý vị cũng không hề hay biết và cũng chẳng thắc mắc: "Ai đánh tôi thế? Tôi đang ở đâu vậy?" Vì sao ư? Bởi vì bấy giờ quý vị không thấy có cái "tôi" nữa! Khi quý vị không còn cái "ngã," không còn thấy có sự hiện hữu của một cái "tôi" to tướng nữa, thì lúc đó mới thật là có Ðịnh lực chân chánh! Nếu quý vị vẫn còn cái "tôi," vẫn còn nhớ rõ: "Hừ! Ông đánh tôi! Ông mắng tôi! Ông nói xấu tôi! Tôi đói, tôi chưa ăn cơm!..." Quý vị chưa quên được điều này, thì Ðịnh lực chưa thể nảy sanh. Nhất định phải quên nó đi thì Ðịnh lực mới có thể nảy sanh; Ðịnh lực nảy sanh rồi tức là có được công phu chân chánh vậy! .........
"Ðịnh" là do tham Thiền, tĩnh tọa tu tập mà có được. Muốn có Ðịnh thì phải tu tập, không tu tập thì không thể có Ðịnh. Vì sao người tu hành phải thường xuyên tọa Thiền? Thường xuyên tọa Thiền tức là cách tu Ðịnh từng chút một. Lúc mới bắt đầu tĩnh tọa thì quý vị chưa có Ðịnh, cho nên cái tâm của quý vị cứ chạy lăng xăng—hết lên trời thì lại xuống địa ngục, không đến chỗ Phật thì cũng vào chỗ Bồ Tát, hoặc có khi lại vào cả chuồng ngựa, trâu, dê, gà, chó, heo... Cái tâm này, quý vị thấy đó, không cần mua vé mà bất cứ nơi đâu—thiên đường hay địa ngục—nó cũng đều có thể đến được cả. Vì sao cái tâm này cứ chạy lung tung khắp nơi như thế? Bởi vì quý vị chưa có Ðịnh! Bây giờ quý vị tu Ðịnh, tức là thâu nhiếp cái tâm ấy, tập cho nó hết chạy tới chạy lui, không còn lăng xăng lên Nam xuống Bắc hoặc vào Ðông ra Tây nữa.
Có người thắc mắc: "Vì sao cần phải tu Ðịnh? Không có Ðịnh thì cũng đâu có sao? Quý vị xem kìa, khiêu vũ, múa hát chẳng phải là thú vị hơn sao? ‘Ðịnh’ là nghĩa lý gì? Cứ ngồi yên một chỗ như khúc gỗ thế kia thì có gì lý thú đâu? Các tượng gỗ tượng đất ngồi trơ trơ ở?đó thì có ích lợi gì? Tôi thấy như thế quá khô khan, thiếu tình cảm; tu Ðịnh thì có lợi ích gì kia chứ?"
Thật ra, tu Ðịnh vốn không có lợi điểm nào cả, chẳng qua là nếu muốn có trí huệ thì trước hết quý vị cần phải có Ðịnh—không có Ðịnh thì không có được trí huệ. Nếu tâm mà quá tán loạn thì không thể có Ðịnh; không có Ðịnh tất sẽ không có trí huệ. Bởi trí huệ có được là nhờ Ðịnh; do đó, quý vị muốn không còn si mê thì cần phải tu Ðịnh.
Có một người nói rằng trong lúc tọa Thiền, anh ta luôn có cảm giác như mình sắp bị rớt xuống khe núi, cho nên rất sợ hãi. Ðúng thế, đó là khởi đầu của sự đắc Ðịnh; và lúc bấy giờ, quý vị chớ sanh lòng sợ hãi! Hôm nay, nhân Pháp Hội này, tôi sẽ giảng thêm đôi chút.
Trước đây, tôi có nói là trong khi ngồi tĩnh tọa, lắm lúc quý vị cảm thấy như có dĩa mực đen hoặc tấm sắt lớn lơ lửng trên không và cứ chực rớt xuống đầu mình, hoặc là đạn nguyên tử sắp nổ tung ngay trên đầu mình. Thế thì, lúc đó quý vị phải làm gì? Lúc đó, quý vị không nên chấp tướng, không nên bám trụ vào cảnh giới, bởi nếu chấp tướng thì quý vị sẽ dễ bị rơi vào ma cảnh. Hễ quý vị chấp tướng thì sẽ có đạn nguyên tử nổ tung trên đầu quý vị thật; còn nếu không chấp tướng thì sao? Thì tất cả sẽ rất tĩnh lặng, yên ổn, không việc gì, và nhất định quý vị sẽ thắng được chúng ma! Quý vị có Ðịnh, thì ma quỷ nào cũng chạy trốn hết!
Cảm giác thấy mình như sắp bị rớt xuống vực sâu muôn trượng chỉ là thứ vọng cảnh hư dối, không có thật. Tại sao lại là vực sâu thăm thẳm? Ðó là biểu thị nghiệp chướng của quý vị—nghiệp chướng mà quý vị đã tạo tác từ những đời trước cho đến nay còn thâm sâu hơn cả vực thẳm đó nữa. Vậy, nay biết được là mình nghiệp chướng nặng nề, sâu dày như thế nào rồi, thì quý vị hãy mau mau tu tập, chớ nên sanh tâm sợ hãi nữa.
Lại nữa, đôi khi đang ngồi tĩnh tọa quý vị bỗng cảm thấy rất tự tại—tự tại, tự tại, chân tự tại—một thứ tự tại rất khó hình dung, rất khó diễn tả; và nếu đạt được cảnh giới tự tại này thì quý vị sẽ quên tất cả! Bởi "Sắc Giới trước vị Thiền"—chúng sanh ở cõi Sắc Giới chấp trước vào Thiền vị vì hương vị của Thiền Na đem lại niềm vui sướng không gì sánh bằng, hơn hẳn mọi loại ma-túy! Cảnh giới đó thật khó mà diễn tả bằng lời được, chỉ có thể nói đó là thứ:
"Tự tại, tự tại, chân tự tại;
Khó thể hình dung, nói không lại";
và:
"Như người uống nước, ấm lạnh tự biết."
Ví dụ quý vị uống nước trà, nước nóng hay nguội thì chỉ có một mình quý vị là biết rõ thôi; trường hợp này cũng vậy, cảnh giới tự tại này chỉ có những người từng trải mới hiểu được mà thôi. Thế nào gọi là "người từng trải"? Ðó là những người đã từng đi qua con đường này, đã có kinh nghiệm về cảnh giới này; nhờ vậy, quý vị vừa nói ra là họ liền biết quý vị đang ở giai đoạn nào hoặc đã đạt tới trình độ nào ngay!
Hiện nay, trong số quý vị, có người đã dụng công tu tập và sắp đạt tới cảnh giới Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa của Tứ Thiền. Tuy nhiên, cảnh giới ấy cũng không đáng kể lắm, quý vị chớ cho rằng như thế là tài giỏi, bởi đó là chuyện rất bình thường. Tu Thiền, chỉ cần có thành tâm và chuyên cần thì ai ai cũng có thể đạt được cảnh giới như nhau. Vì cảnh giới tự tại, vui sướng đó vốn không gì sánh bằng, cho nên được gọi là "Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa"—sắp xa lìa mọi phiền não, đạt được sự vui sướng; và đó cũng là một trong các thứ Ðịnh vậy.
"Huệ" tức là trí huệ. Có trí huệ thì có ích lợi gì? Có trí huệ thì sẽ không bị lầm đường lạc lối. Tại sao hiện nay có nhiều người sống một cách điên điên đảo đảo, cứ "lấy khổ làm vui"? Ðó là do họ "bội giác hợp trần"—họ thờ ơ quay lưng lại với đạo lý giác ngộ để hợp cùng đạo lý Lục Trần. Tại sao họ hành động như vậy? Bởi họ không có trí huệ; chính vì si mê nên họ mới lầm lẫn "lấy khổ làm vui" mà lại không biết rằng như thế là si mê nhất!
Quý vị nghe giảng Kinh, không cần phải nghe cho nhiều, chỉ cần nghe hiểu một chữ then chốt rồi đem áp dụng, thì sẽ thấy được sự lợi ích bất tận của chữ đó. Như trong câu "cần tu Giới Ðịnh Huệ," thì chỉ cần nắm được một chữ "cần" thôi là đủ rồi—cần mẫn tu Giới, cần mẫn tu Ðịnh, cần mẫn tu Huệ. Phải cần mẫn tu tập thì mới có sự thu hoạch, có sự chứng đắc; không cần mẫn tu tập thì không chứng đắc được gì cả. Do đó, quý vị nhất định phải cần mẫn tu tập, phải vâng lời và tuân theo sự giáo hóa của Sư Phụ mình.
Bây giờ nói đến chữ "tức" trong câu "tức diệt tham sân si" (dứt bỏ tham sân si). Vừa rồi tôi có nói chữ "tức" này còn có nghĩa là lười biếng; vì sao ư? Chữ "tức" này vốn có nghĩa là đình chỉ, hoặc nghỉ ngơi; mà "nghỉ ngơi" không phải là lười biếng thì là gì? "Nghỉ ngơi" tức là lười biếng; "lười biếng" tức là đình chỉ, là ngừng lại, không tiến thêm nữa. "Ðình chỉ" cái gì? "Ðình chỉ" cái tâm tham, tâm sân, tâm si; cho tham, sân, si được "nghỉ ngơi," được "về hưu"—chúng ta không cần dùng đến chúng nữa. Hãy khiến cho tâm tham, tâm sân, tâm si đều đình chỉ! Quý vị không nên tham muốn gì nữa, ngay cả mọi vật chất hưởng thụ của thế gian. Cũng đừng giận dữ, đừng nổi nóng, đừng để cho "lửa" giận bùng lên; hãy đem tánh nóng nảy, đem "lửa" giận ấy ra bố thí đi; bố thí cho ai? Hãy bố thí cho tôi, bố thí cho Sư Phụ. Sư Phụ cần có những ngọn "lửa" giận thật lớn, cần phải rất nóng tánh, để khiến cho đệ tử nể sợ, chứ nếu Sư Phụ cứ hiền hòa, dịu dàng như cái gối bông thì các đệ tử sẽ không kiêng sợ. Không sợ Thầy thì họ sẽ không chịu tu hành; mà không tu hành tức là lười biếng vậy! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Pháp Thuật Hắc Đạo “Trù yếm thư chú kết oán thù.”
“Yếm mị chú thư” tức là tà chú, tà thuật thư ếm hại người. Có phái ngoại đạo dường như có một loại chú thư. Trong Mật Tông chẳng hạn, có một loại chú mà kẻ nào niệm được bài chú này, tu luyện được thứ phép thuật này, thì nội trong bảy ngày, kẻ ấy bảo quý vị chết thì quý vị sẽ chết, bảo quý vị sống thì quý vị được sống. Cho nên, Mật Tông xem ra cũng rất lợi hại! Quý vị nào có bạn bè theo Mật Tông thì cần phải cẩn thận một chút! Nếu quý vi có ý đắc tội với họ, thì coi chừng họ sẽ niệm chú cho quý vị chết! Thế nhưng, đây chính là một thứ tánh nết của A tu la, không có tâm từ bi. Như vậy tức là “yếm mị.”
Họ làm một “tiểu nhân” tức là một hình nhân nho nhỏ, trên đó có ghi rõ “sanh thần bát tự” [năm tháng ngày giờ sinh viết theo can chi] của quý vị; rồi hôm nay thì lấy kim chọc vào mắt hình nhân cho mù, ngày mai dùng kim đâm vào tai hình nhân cho điếc, ngày mốt lấy kim châm vào cổ họng hình nhân và bấy giờ quý vị sẽ bị đứt hơi mà chết! Đây là phép thuật của bàng môn tả đạo.
Tuy nhiên, quý vị chớ nên sợ hãi, chỉ cần quý vị có thể niệm Chú Đại Bi, thì họ có dùng phép thuật gì cũng đều không công hiệu cả.
“Kết oán thù.” “Kết” tức là cột vào với nhau; “oán thù” tức là thù hận vô cùng sâu nặng.
“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi.” Bấy giờ, quý vị chí thành khẩn thiết xưng tụng Thần chú Đại Bi, thì “trù ếm trở về nơi bổn nhân.” Họ muốn ám hại người khác, nhưng các phép thuật độc ác đó lại trở về nơi thân họ, khiến họ tự thọ quả báo! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Ứng Dụng Của Pháp thuật Hành Đạo Với Hắc Đạo Và Quỷ Thần
Hỏi: Dùng bùa chú như thế nào để đối phó với ma quỷ yêu tinh?
Đáp: Pháp thuật của ngoại đạo, của các loài yêu ma quỷ quái có lúc làm cho quý vị nhức đầu, đau răng, đau mắt, hoặc khiến cho quý vị không thể đi đứng, bị chóng mặt, hay phát cuồng nói bậy. Lúc đó các vị tụng chú thì sẽ phá được pháp thuật của chúng nó, khiến pháp thuật của chúng không còn linh nghiệm, chớ không phải là vô cớ bảo quý vị đi đối phó loài yêu ma quỷ quái đâu! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 270)
+ Pháp thuật (Magic, SD–I, 284)
1. Pháp thuật là một khoa học thiêng liêng đưa đến việc tham gia vào các đặc điểm tiêu biểu của chính thánh linh.
2. Mọi hoạt động pháp thuật bao gồm trong việc giải thoát chính con người ra khỏi các khúc cuộn của con rắn xưa cũ.
3. Mục tiêu của kỹ xảo pháp thuật là sự hoàn thiện của con người.
4. Pháp thuật khám phá ra tinh hoa và khả năng của mọi sự việc.
5. Pháp thuật và từ lực (magnetism) là các thuật ngữ đồng nghĩa.
6. Pháp thuật là toàn thể tri thức thiên nhiên.
7. Pháp thuật không hàm ý việc vi phạm các định luật của thiên nhiên.
+ Pháp thuật (magic): Kỹ xảo của pháp thuật thiêng liêng bao gồm trong khả năng nhận thức tinh hoa của các sự vật dưới ánh sáng của thiên nhiên (cảm dục quang) và – bằng cách dùng các năng lực linh hồn của Tinh thần – để tạo ra các sự việc vật chất từ vũ trụ vô hình, và trong các hoạt động như thế, cái Trên và cái Dưới phải được mang lại chung với nhau và để tác động một cách hài hòa. Pháp thuật là cái thứ nhì trong 4 minh triết cổ đại và là đại minh triết pháp thuật (great maha Vidya) trong văn liệu Vạn Pháp Kỳ thư. Nó cần ánh sáng của minh triết cổ đại thứ tư (Atma Vidya) chiếu rọi vào để trở thành huyền linh thuật (White magic) – SD–I, 192.(LVLCK, 984)
+ Nền tảng của pháp thuật:
1. Pháp thuật dựa vào các năng lực nội tại trong linh hồn của con người.
2. Tam bộ của thiên nhiên là ổ khóa của pháp thuật. Tam bộ của con người là chìa khóa hợp với ổ khóa đó.
3. Pháp thuật là tâm lý học huyền linh.
Cảm dục quang là tác nhân chính của pháp thuật (LVLCK, 982)
+ Tôn chỉ mục đích của Phật giáo: ... Người theo Phật Giáo không có kẻ thù, không tìm người để trả thù. Ðối với kẻ cố ý hại mình, mình phải nhẫn nại, tu hạnh Nhẫn Nhục Ba-la-mật; không sinh tâm báo thù. Ðó là chỗ cao siêu, là ưu điểm của Phật Giáo mà các tôn giáo khác thiếu sót.
Tôn chỉ hết sức trọng yếu của Phật Giáo là: Nếu bạn là ma quỷ thì tôi tuyệt đối không làm tổn hại bạn, không sinh lòng đối kháng, mà ngược lại, sẽ tìm cách để nhiếp thọ bạn. Ðây là giáo nghĩa đặc biệt nhất của đạo Phật. Ðối với chúng sinh luôn phát tâm từ bi, không làm hại kẻ khác.
Khổng Tử nói rằng: "Ngôn tất trung tín, Hành tất đốc kính, Tuy man mạch chi bang, hành hỹ." (Lời nói chân thật, Hành động chắc thật, cung kính, thì dù ở nơi nguy hiểm cũng vẫn được an toàn.). Xem nguồn: Trì chú theo Chánh pháp và Thành ý.
+ Học Phật Pháp: HT Thanh Từ giảng, Chư Tổ nói "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan" có nghĩa là chấp chặt nơi văn tự mà giải nghĩa, thì oan cho ba đời đức Phật, mà rời bỏ kinh điển thì lại lạc vào những tà thuyết của ma vương". Vì lời nói của chư Phật như trên đã trình bày chỉ là phương tiện tạm thời, nghĩa là tùy bệnh cho thuốc. Thuốc trị bệnh của Phật là thuốc phá chấp, nếu chiếu theo văn tự để giải nghĩa, hễ Phật nói Có thì mình chấp cái Có đó là thật, hễ Phật nói Không thì lại chấp cái Không đó là thật, ấy là oan cho Phật.
- Kinh là phá chấp, nếu lìa kinh tức còn chấp, còn chấp là ma, không thể giải thoát được.
- Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy: Giáo pháp của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng, là phương tiện để đạt đến chân lý, cho nên đừng lầm ngón tay là mặt trăng, chân lý không nằm trong kinh điển. Nếu y theo kinh điển để giải nghĩa, để tìm chân lý trong những giòng chữ, thì đó chính là chỉ biết nhìn ngón tay mà chưa biết nhìn mặt trăng. Nhưng rời bỏ hẳn kinh điển đi thì lại có thể rơi vào những điên đảo vọng tưởng. Cũng vì không muốn cho môn đệ chấp chặt rằng kinh điển là chân lý mà thật ra chỉ là phương tiện chỉ bày chân lý cho nên đức Phật đã nói: "trong bốn mươi chín năm thuyết pháp ta chưa từng thuyết một chữ." Và chấp lấy phương tiện làm cứu cánh tức là làm oan ức cho chư Phật, mà bỏ mất phương tiện đi thì cũng không có cách gì đạt đến cứu cánh.
+ Học Phật pháp: PS Tịnh Không giảng, nhà Phật thường nói “y văn giải tự, tam thế Phật oan” nghĩa là y theo câu văn hiểu nghĩa theo mặt chữ, thì ba đời Phật bị oan. Cứ chiếu theo văn tự để nghiên cứu, giải thích thì tam thế chư Phật là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật đều kêu oan uổng, quý vị hiểu lầm ý Phật mất rồi!
Trong bài kệ Khai Kinh có câu “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, tôi nói con người hiện tại hiểu sai lệch, nên trở thành “khúc giải Như Lai chân thật nghĩa” tức là hiểu cong vạy ý nghĩa chân thật của Như Lai, hoặc “ngộ giải Như Lai chân thật nghĩa” là hiểu lầm lạc ý nghĩa chân thật của Như Lai.
- Quý vị xem: Học Phật pháp phải quy về tự tánh, điều này khẩn yếu lắm, giúp cho chúng ta đạt được tâm thanh tịnh, mở mang trí huệ, đấy chính là Phật pháp. ....”Nguồn: Y Kinh Giải Nghĩa ...
+ Phật dạy A Nan rằng: "Chỉ học thuộc lòng và nhiều kiếp nhớ ghi Kinh Văn diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian..."..
- A Nan là một điển hình cho chúng sinh tập khí giỏi văn chương, giàu ngôn từ, nhưng không chịu tham thiền, nhập định nên không bao giờ thấy được Pháp thân thanh tịnh của mình. Tuy Phật pháp cao siêu mầu nhiệm và được dung chứa trong 12 bộ kinh, nhưng Đức Phật giáo hóa chúng sinh dựa theo 8 phương thức (tám khoa) khác nhau:
1) Tạng giáo: là các pháp môn tu học có dạy chung trong tam tạng kinh (Kinh tạng, Luận tạng và Luật tạng).
2) Thông giáo: là giáo pháp dạy chung cho tất cả ba hạng căn cơ : Thượng, Hạ, Trung và ba thừa : Tiểu, Trung và Đại.
3) Biệt giáo: là giáo pháp dạy riêng cho mỗi căn cơ hoặc Thượng, hoặc Trung, hoặc Hạ, hoặc riêng cho Tiểu thừa, hoặc riêng cho Trung thừa, Duyên giác, hoặc riêng cho Đại thừa Bồ-tát.
4) Viên giáo: là giáo pháp viên tròn, đầy đủ cũng còn gọi là “liễu nghĩa”. Thí dụ như kinh Hoa Nghiêm chỉ chuyên dạy cho các hàng Bồ-tát Đại sĩ Pháp thân (từ Thập trụ đến Thập Địa Bồ-tát).
5) Đốn giáo: là giáo pháp đốn ngộ tức là giác ngộ nhanh chóng. Đây là pháp môn trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật hay là “Trực chỉ Thiền” của Tổ Bồ-đề Đạt Ma hay Lục Tổ Huệ Năng.
6) Tiệm giáo: là giáo pháp dạy tu chứng dần dần, từ bậc thấp lên đến bậc cao. Thiền thì có Ngài Thần Tú và cũng là Tịnh độ pháp môn.
7) Bí mật giáo: là dạy vế cách bắt ấn, trì chú, tam mật tương ưng tức thân thành Phật. Nói cách khác thân, khẩu, ý của mình tương ứng với thân, khẩu, ý của Phật. Đây là Mật tông.
8) Bất định giáo: là giáo pháp mà Đức Phật tùy theo cơ nghi thuyết dạy chớ không nhất định là phải thuộc riêng về một căn cơ nào cả. (Nguồn: Mục Lại rơi vào thuyết nhân duyên đối đãi ....)
+ Vọng niệm:...Vọng niệm chính là những niệm không chân, không thật, không thực tại, chỉ là hư vọng, vọng tưởng. Điên đảo chính là hiểu rõ việc này không đúng mà cứ làm, lại cãi chày cãi cối cho nó là đúng. Những điều quý vị ưa thích tuy không hợp với Phật pháp nhưng vẫn làm theo ý mình, đó là điên đảo. Không những chính quý vị làm như vậy mà còn ảnh hưởng đến người khác học theo tánh xấu của quý vị, đây là điên đảo. Người muốn học Phật pháp nhất định cần phải không điên đảo, không tà mê mới có chỗ thành tựu. Tuy có thầy sáng, bạn hiền giáo hóa, nếu quý vị không nghe, họ cũng không có cách nào giúp được. Thiện tri thức không giống cảnh sát thấy quý vị không tôn trọng pháp luật, liền bắt đem bỏ vào tù. Thiện tri thức không có nhà tù. Nếu quý vị không nghe lời dạy bảo, vị Thiện tri thức vẫn hy vọng quý vị từ từ sửa đổi những lỗi lầm quay về con đường thiện lành. Đối với những chúng sanh biết nghe lời, Thiện tri thức cũng không sanh lòng hoan hỷ; đối với những chúng sanh không nghe lời giáo hóa, Thiện tri thức cũng không vì đó mà phiền não tức giận, trong tâm chỉ có chút buồn bã, không vui lắm mà thôi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Lục Đàn Kinh)
+ Vọng niệm và ứng sử:
Hỏi: Lúc niệm khởi lên thì làm sao khống chế được nó? Làm sao để không bị lôi cuốn theo niệm bậy?
Đáp: Vừa khởi niệm mà biết được ngay, thì đó là giác. Giác rồi liền không còn nó nữa. Nếu chú giác ngộ, biết nó là niệm bậy thì nó sẽ biến mất. Còn nếu chú chạy theo niệm xấu và không nhận ra đó là niệm xấu thì không ai cứu nổi chú đâu. Niệm khởi liền giác, giác rồi liền không. Khi đã giác ngộ thì chú sẽ không còn theo vọng niệm nữa. Vọng niệm là không có căn gốc, vậy chú đi đâu tìm gốc rễ của vọng niệm đó chứ? Chú không chạy theo vọng niệm, nhưng nếu niệm có nổi lên thì chú đừng hợp tác với chúng là được rồi. (Nguồn: Cây gậy Kim Cang Het - HT Tuyên Hóa)
+ Nhà Nho/ Nho giáo/ Tứ thư: Thật sự là thánh nhân, họ nhìn thấy, họ hiểu rõ, rất sáng tỏ, cho nên ở trong “Học ký” nêu ra “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”, (“quân” nghĩa là lãnh đạo). Bồi dưỡng nhân tài, xây dựng một quốc gia, xây dựng một chính quyền, thống trị nhân dân, lãnh đạo nhân dân, cái gì là quan trọng nhất, là ưu tiên nhất? Giáo dục, “Giáo học vi tiên” (Kinh TTNĐ-Tập 51_PS Tịnh Không)
+ Đạo Nho với Phật Pháp: Phật là gì? “Phật” là tự tánh của bản thân chúng ta, là tự tánh của mỗi người. Không những Phật Thích Ca Mâu Ni như vậy, mà Khổng Tử, Mạnh Tử cũng như vậy. Học thuyết của nhà Nho hiện nay lưu truyền phổ biến nhất là “Tứ Thư”, “Đại Học”, “Trung Dung”, “Luận Ngữ”, “Mạnh Tử”. Đây có phải là tư tưởng của Khổng Tử, của Mạnh Tử không? Không phải! Tất cả cũng là tự tánh, là trí tuệ, đức năng vốn có trong tự tánh của mỗi người. Chúng ta phải có sự nhận thức này, thì sau đó chúng ta mới thật sự có thể có sở đắc. Sở đắc là gì vậy? Là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, chúng ta được là cái này; (Nguồn: Kinh Thập thiện - Tập 59 - PS Tịnh Không giảng)
+ Đạo Nho gia xem trọng luân thường - Ngũ luân: Các quan hệ vợ chồng, cha con, anh em, bạn bè, vua tôi. Cho nên, bạn bè là một trong ngũ luân, có mối quan hệ hết sức mật thiết với bản thân ta. Để chu toàn đạo nghĩa với bạn bè, đức Phật dạy chúng ta năm việc.
Thứ nhất, nếu bạn làm chuyện xấu ác, tạo nghiệp ác, phải khuyên bảo để bạn chấm dứt. Cho nên, bạn bè có nghĩa vụ giúp nhau sửa lỗi. Nếu thấy bạn mình làm chuyện sai trái mà không nói ra thì chưa đủ gọi là bạn bè, đó không phải bạn bè. Tuy nhiên, khuyên bảo uốn nắn cũng phải theo lễ nghi, nhất định phải giữ lễ, phải hiểu biết lễ nghi thích hợp. Lúc nói lỗi để khuyên bảo tuyệt đối không được có mặt người khác. Phải khuyên bảo trong chỗ riêng tư. Như vậy mới là bạn bè. Cha mẹ dạy con thì có thể dạy dỗ [sửa lỗi] lúc có mặt anh chị em. Đó là cha mẹ hay anh chị dạy dỗ [sửa lỗi] con em. Nhưng nếu có người ngoài, cha mẹ, anh chị cũng không nên nói ra. Đó là vì giữ thể diện cho con em mình. Thầy dạy dỗ [sửa lỗi] học trò, có thể nói ra trước mặt các bạn đồng học. Vì sao vậy? Vì chúng ta là bạn đồng học, thầy không chỉ dạy riêng một người, đó là dạy dỗ tất cả học sinh của thầy. Nhưng bạn bè với nhau thì không được. Bạn bè chỉ có thể khuyên bảo nói lỗi ở chỗ riêng tư kín đáo. Cho nên, ý nghĩa này chúng ta phải hiểu thật rõ ràng.
Khuyên bảo lẫn nhau để dứt trừ lỗi, đó là nói có sự giúp đỡ qua lại với nhau. Trong Phật pháp, thực sự rõ biết rằng nhân quả [báo ứng] tương quan trong cả ba đời: [quá khứ, hiện tại và tương lai], cho nên việc khuyên bảo sửa lỗi là quan trọng thiết yếu hơn hết. ... Bạn bè cũng chỉ nên khuyên bảo không quá ba lần. (Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 20 tháng 9 năm 1999 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 101, số hồ sơ: 19-012-0101)
+ Đạo Giáo - Tu Luyện Hợp Nhất Thân Tâm: Là trường phái tu học chánh đạo khó nhất, thuật ngữ là “Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, và luyện Thần nhập hư”. Do đó họ thiết lập ra được cái quan hệ giữa thân và luyện thân này như thế nào để mà khắc phục cái Vọng Tâm và đạt tới cái Chân Tâm/ Giải thoát. Đó là một sự phát minh độc đáo nhất ở trong văn học của Đạo giáo; Nhưng đến nay không còn người có khả năng tu đạo giải thoát này. Với sự kết hợp của Thân và Tâm không phải Phật giáo mới có mà thôi, mà chính trong Đạo giáo đã nói rồi.(Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Tinh Khí Thần: Nếu tinh đầy đủ, bạn chẳng cảm thấy lạnh; nếu khí đầy đủ, bạn chẳng thấy đói; nếu thần đầy đủ, bạn chẳng buồn ngủ. Tinh, khí, thần (theo Ðạo giáo) gọi là Tam Bảo. Lý này cũng tương tợ như Phật Pháp Tăng của nhà Phật.
Nếu mình không hao tán tinh khí thần thì có hay không có ăn uống không thành vấn đề nữa. Chính bởi vì mình ngày ngày cứ xoay chuyển trong cảnh giới hữu lậu nên mới cần phải ăn uống.
Năm mới tới, mình hãy tiếp đón thần tài, thần hỉ, thần quý. Sao gọi là thần tài? Nếu bạn đừng đem tinh khí vất đi thì đó là thần tài. Sao gọi là thần quý? Nếu một năm bạn không nổi nóng, đó là thần quý. Nếu bạn phát tâm, rằng: Sang năm mới tôi không nổi giận nữa, tôi phải sửa đổi tính tình của tôi, thì đó là thần quý. Nếu bạn lúc nào cũng vui vẻ, thì đó là bạn tiếp đón thần hỉ rồi. Ba vị thần này đều tại nơi ta. Bất quá bạn không biết nó, nên phải chạy đi cầu thần ở bên ngoài.
Nếu suốt ngày bạn không phí phạm lời nói, không nghĩ chuyện vô vị; bạn điều hòa tâm tình khiến cho yên ổn thái nhiên, không buộc trói, không quái ngại, không nhân ngã, không thị phi thì đó không phải là âm nhạc rồi sao? (Pháp ngữ HT Tuyên Hóa)
+ Đạo Thanh tịnh: Dòng Bà La Môn (Ở Ấn Độ) này tuy cũng tu pháp môn "viễn ly," song tu tới tu lui vẫn không đến được chỗ cốt tủy, không đạt được đạo lý rốt ráo. Ðây là một giáo phái có tự ngàn xưa của nước Ấn Ðộ; và cho đến hiện nay, tại Ấn Ðộ vẫn còn rất nhiều loại giáo phái như thế. Ðiển hình là phái Du Già, một giáo phái thoát thai từ đạo Bà La Môn. Ðối với người Trung Hoa thì đạo Bà La Môn chính là Ðạo Giáo (đạo Lão), một giáo phái cũng chủ trương tu hạnh thanh tịnh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Khổng Tử : X. Siêu nhân bậc năm
+ Khổng Tử – Nhà Ðại Giáo Dục
Vào thời Xuân-Thu Chiến-Quốc ở bên Trung Hoa, có vị đại thánh nhân ra đời, tên là Khổng Tử. Ngài suốt đời chu du các nước để tuyên dương học thuyết nhân nghĩa đạo đức, hiếu đễ trung tín, song lẽ không được ai hoan nghinh tiếp nhận, đâu đâu cũng bài xích Ngài cả. Tuy Ngài gặp hoàn cảnh không vừa ý như vậy, nhưng Ngài vẫn không thay đổi tông chỉ giáo dục, Ngài vẫn thủy chung đề xướng chủ nghĩa đại đồng.
Khổng Tử là nhà đại giáo dục. Ngài đề xướng một nền giáo dục bình dân được phổ cập tới tất cả mọi người. Ngài có tinh thần “dạy không hề nhàm chán, học không biết mỏi mệt.” Ngài không sáng tác, chỉ chép lại tích cũ người xưa. Ngài tin vào những điều của thánh nhân nói xưa kia, rồi đem ra thực hành. Cuối đời, Ngài san định năm cuốn: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu, tức là Ngũ-kinh.
Khổng Tử có ba ngàn học sinh. Ngài thông suốt lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, gọi là lục nghệ. Ðệ tử Ngài có bảy mươi hai người cũng thông suốt lục nghệ. Lễ tức là những lễ tiết, lễ nghi về hôn nhân, mai táng, hay là cúng tế. Nhạc tức là âm nhạc. Xạ tức là bắn cung. Ngự tức là cởi ngựa, đánh xe. Thư tức là ghi chép, lịch sử. Số tức là toán thuật. Mỗi một môn nào cũng phải hoàn toàn tinh thông, thì mới được gọi là một người hoàn toàn.
Phương châm giáo dục của Khổng Tử là lấy con người làm trọng tâm, lấy thân mình làm gương. Môn đệ của Ngài có bốn hạng xuất sắc:
Xuất sắc về đức hạnh, có ngài Nhan Hồi và Mẫn Tử Khiêm.
Xuất sắc về ngôn ngữ, biện luận có ngài Tử Hạ, và Tể Ngã.
Xuất sắc về chính trị, có ngài Tử Lộ, và ngài Nhiễm Hữu.
Xuất sắc về văn học, có ngài Tử Hạ và Tử Du.
Khi Ðức Khổng Tử qua đời, Nho-giáo phân làm hai phái. Tăng Tử thì chủ trương truyền Ðạo, và Mạnh Tử đại biểu cho phái này, trở thành phái chính thống. Tử Hạ thì chủ trương truyền Kinh, và ông Tôn Tử là đại biểu của phái này. Phái truyền Kinh thì hưng thịnh vào ba triều đại Hán, Ðường, và Thanh. Phái truyền Ðạo thì hưng thịnh vào ba đời Tống, Nguyên, và Minh.
Mọi sự việc trên đời đều có liên hệ tương quan, cũng giống như bên Trung Hoa, ba đạo Nho, Phật, Lão, đều hỗ trợ lẫn nhau. Nho-giáo thì như ở trình độ sơ đẳng, tức là tiểu học, Ðạo-giáo thì như là trình độ trung học, còn Phật-giáo thì như là trình độ đại học. Ðạo lý của ba tôn giáo này đều có liên quan, song le người ở tiểu học thì không biết được trình độ của lớp trung học, nhưng kẻ ở đại học thì biết được trình độ và bài vở của lớp trung học hay tiểu học.
Nho giáo thuyết giảng đạo lý làm người, thí dụ như rèn luyện nhân cách cho lương hảo. Ðạo giáo một nửa thì chú trọng rèn luyện nhân cách đạo đức, còn một nửa thì chú trọng đến việc tu hành xuất thế. Do đó các vị đạo sĩ thì chẳng cạo đầu, cạo râu, không khác gì người tại gia cả. Họ chỉ mặc y phục của những vị ẩn sĩ thời cổ xưa. Phật giáo thì phải cạo râu cạo tóc, mặc áo hoại sắc, không chú trọng đến bề ngoài, song le áo cà-sa thì không bao giờ rời thân và phải thể hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tướng. Phật giáo là tu pháp xuất thế, phải chăng là ly khai pháp thế gian, tạo ra một Phật pháp riêng biệt? Không phải đâu. Chỉ cần phải nhận thức pháp thế gian một cách rõ ràng, không bị nó làm mê muội, đó chính là Phật pháp.
Có người chủ trương tam giáo hợp nhất, (tức là Ðạo giáo, Khổng-giáo và Phật giáo hợp thành một), cho nên có câu:
Hồng hoa bạch ngẫu thanh hà diệp,
Tam giáo nguyên lai thị nhất gia.
(Hoa hồng, thân trắng, lá xanh,
Ba tôn giáo ấy vốn chung một nhà.)
Ðó là biểu thị đạo lý vậy. Căn bản của Phật giáo, để phát khởi tâm tín ngưỡng thì chính là Nho giáo, do đó cần phải đọc sách, hiểu rõ nghĩa lý, trước hết phải hiểu thế nào là căn bản làm người, sau đó mới theo Pháp mà tu hành: Quy nguyên tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn. Nghĩa là: trở về nguồn thì tánh không hai, nhưng phương tiện thì có nhiều cửa vào. Người học Phật Pháp cần phải thông suốt đạo lý nầy.
(Ngày 25 tháng 9 năm 1983) (Nguôn HT Tuyên Hóa giảng: Xem tại đây)
+ Tu theo Đạo Phật - Tu theo Đạo giáo - Tu theo Đạo nho
261. Hỏi: Phật giáo cùng Đạo giáo (Nhất Quán Đạo) có gì khác biệt?
Đáp: Phật giáo là Phật giáo, Đạo giáo là Đạo giáo, Nhất Quán Đạo tức là Nhất Quán Đạo. Danh từ không giống nhau tức đã có sự khác biệt rồi.
262. Hỏi: Phải chăng Phật giáo và Đạo giáo là cùng chung một nhà?
Đáp: Người Trung Hoa và người Mỹ có phải đều là con người không hả?
263. Hỏi: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo thì có gì phân biệt, tất cả có phải là giống nhau không?
Đáp: Một bên có trình độ đạo đức Tiểu học, một bên có trình độ đạo đức Trung học và một bên có trình độ đạo đức Đại học. Khóa trình đạo đức của Đại học là dạy chú quy y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng và đừng quên Tam Bảo. Khóa Trung học là bảo chú tự quy y Tinh, Khí, Thần của chính mình và đừng để hao tán tinh, khí, thần. Lớp Sơ học là bảo chú cố gắng làm tròn Đạo Làm Người.
264. Hỏi: Đạo giáo và Phật giáo có chỗ nào không giống nhau?
Đáp: Đạo giáo chỉ là phân nửa, Phật giáo là triệt để rốt ráo. Nếu hiểu Phật pháp mà không hiểu Đạo giáo thì đó vẫn chưa thật sự hiểu Phật pháp. Nếu hiểu Đạo giáo mà không hiểu Phật giáo thì đó chỉ là phân nửa, chỉ là một bước, hai bước của sự bắt đầu thôi.
265. Hỏi: Phật giáo và Đạo giáo có chỗ nào là khác biệt?
Đáp: Vậy con nói đi, người già, tráng niên, thanh niên thì có gì phân biệt. Nho, Thích, Đạo là một nhà, nhưng một là trẻ con, một là trung niên và một là người già. Vậy họ có thể hiểu được tư tưởng của nhau hay không? (Nguồn: Cây gậy Kim Cang Het - HT Tuyên Hóa)
+ Thế giới Chánh báo - Thế giới Y báo
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái gì là thế giới y báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi sự vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”...... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Thế Giới: A-nan, thế nào gọi là chúng sinh và thế giới?
- Thế nghĩa là đổi dời;
- Giới chỉ cho phương vị/ Phương hướng
(Thế là thời gian; có nghĩa là dời đổi; Giới là không gian, tức là phương vị, nơi chốn. Hai từ nầy ghép lại gọi là thế giới_HT Tuyên Hóa)
Nay ông nên biết các phương đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới là giới; quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương vị có mười, số lưu chuyển của thời gian có ba (các phương đông, tây, nam, bắc– bốn phương – và tây nam, đông bắc, tây bắc– bốn hướng_HT Tuyên Hóa)
Hết thảy chúng sinh đan dệt cái giả dối mà thành. Sự dời đổi trong thân và thế giới gắn bó với nhau.
Nhưng tánh của thế giới ấy dù có thiết lập tuy cả mười phương, định vị có rõ ràng. Thì thế gian chỉ nhận phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc. Phương trên phương dưới không có vị trí rõ ràng, ở giữa cũng không có phương vị nhất định. Số bốn đã rõ, nhân với số thế. Ba lần bốn, bốn lần ba thành ra mười hai. (tam thế và tứ phương).... (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q.4 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thế giới: Gồm Thế giới Chánh báo là Thân Tâm chúng ta và Thế giới Y Báo là Sông núi đất đai nhà cừa... (HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Thế Giới Chúng Sinh Với Không Gian - Thời Gian
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm 2 mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc 4 phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần: (i) là 4 x 3= 12 => (ii) là 12 x 10= 120 => (iii) là 120 x 10= 1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
* Giải thích khác: Ngài Vân Thê giải thích: “Giới có 4, thế có 3, gắn bó với nhau, nên lấy ba nhân bốn, bốn nhân ba thành 12 là một lớp. Từ số 12 nầy, mỗi số biến thành 10, tức thành 120, là lớp thứ hai. Từ số 120 nầy, mỗi số đều biến thành 10, tức thành 1200, là lớp thứ ba.” (Kinh Thủ-lăng-nghiêm Trực chỉ- Thiền sư Đan Hà).
* Giải nghĩa thêm: Thế giới tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian.
- Thế là nói về thời gian cũng có nghĩa là nói về luật nhân quả báo ứng, sinh sinh diệt của hiện tượng vạn hữu.
- Giới là nói về không gian cũng còn có nghĩa là lý nhân duyên tức là tất cả mọi cấu tạo hình thành của vạn hữu trên thế gian này là do nhân duyên hòa hợp mà có.
* 10 phương: Khi nói về phương hướng, thông thường con người chỉ đề cập đến Đông, Tây, Nam, Bắc. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới. (Xem mục: (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...) (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ Thế giới khác với Hư Không: HT Tuyên Hóa giảng
Nổi lên thì thành thế giới, lắng đọng thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi.
Phàn nầy giải thích tướng trạng thứ 6 của lục thô, đó là nghiệp hệ khổ tướng. Nổi lên thì thành thế giới. Khởi là lưu xuất ra–là chuyển dịch, là động. Lắng đọng thì thành hư không. Lắng đọng là tĩnh–không chuyển dịch. Hư không là đồng, thế giới là dị. Hư không giống như cái gì? Cơ bản hư không là giống với mọi thứ. Nó không khác với cái gì cả vì trong hư không chẳng có gì để phân biệt. Chỉ vì không có sự phân biệt mà được gọi là hư không. Nhưng với sự sinh khởi của thế giới thì có điểm khác nhau.
Thế giới khác với hư không vì trong thế giới có hình sắc và tướng mạo. Sự sinh khởi của núi sông đất liền đã làm nên thế giới. Điều nầy sẽ được giảng giải chi tiết trong đọan kinh tiếp theo.
"Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi."
Vốn trong hư không chẳng có gì cả để có thể nói đồng hay dị, chẳng có sự sinh khởi của:
1. Nghiệp tướng,
2. Chuyển tướng, và
3. Hiện tướng
cùng với Lục thô
1. Trí tướng,
2. Tương tục tướng,
3. Chấp thủ tướng,
4. Kế danh tự tướng,
5. Khởi nghiệp tướng, và
6. Nghiệp hệ khổ tướng.
Chúng ta dùng từ đồng (giống) hay dị (khác) để diễn tả cho những tướng trạng vừa hiện hữu nầy. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)
+ Quả báo: Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau. "Nói lời thô ác" (ác khẩu) tức là mắng chửi người khác; trong đó bao gồm cả nói đôi chiều (lưỡng thiệt), nói thêu dệt (ỷ ngữ), nói dối (vọng ngôn). Nếu Ðịa Tạng Vương Bồ Tát gặp những kẻ độc ác, hay mắng chửi người khác, thì Ngài giảng về quả báo đời sau bà con thân thuộc của họ luôn xích mích, bất hòa. (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát - Phầm 4 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói thô ác thì liền thành tựu được tám việc làm trong sáng:
1. Một là, nói năng luôn chừng mực.
2. Hai là, nói ra đều lợi ích.
3. Ba là, nói điều chắc chắn hợp lý.
4. Bốn là, nói lời hay.
5. Năm là, nói ra người khéo có thể tiếp nhận được.
6. Sáu là, lời nói luôn được tin theo.
7. Bảy là, lời nói không ai có thể chê trách.
8. Tám là, nói ra người rất ưa thích.
Đây là 8 việc, nếu có thể đem hồi hướng lên quả vị Bồ Đề Vô Thượng thì sau khi thành Phật, sẽ được tướng của tiếng Phạm Âm nơi Như Lai. Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
+ Lợi ích của việc giữ giới - Không Ác khẩu:
a) Cá nhân: Được người trọng nể, tin cậy, không ai oán hận thù hiềm; đi đâu cũng được người chung quanh dành cho một địa vị thân tín, niềm nở tiếp đón. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được nhiều thân chủ và được giao phó cho nhiều trọng trách quý báu.
b) Đoàn thể: Gia đình và xã hội được đoàn kết trong sự tin cậy. Mọi công cuộc chung được xúc tiến có kết quả tốt. Đồng bào thương yêu, thông cảm nhau hơn. (Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng)
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Lợi ích khi giữ giới Khẩu nghiệp
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói dối thì liền đạt 8 loại pháp được Chư Thiên khen ngợi:
1. Một là, miệng thường sạch sẽ với mùi thơm của hoa sen xanh.
2. Hai là, được người đời tin phục.
3. Ba là, lời nói ra luôn có chứng cứ, được hàng Trời, người kính mến.
4. Bốn là, thường đem lời ái ngữ an ủi mọi người.
5. Năm là, được tâm an vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh.
6. Sáu là, lời nói không lầm lỗi, tâm thường vui vẻ.
7. Bảy là, nói năng trang trọng, hàng Trời, người phụng hành.
8. Tám là, trí tuệ thù thắng không ai chế ngự được. Nguồn: Kinh thập thiện
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói thêu dệt thì liền thành tựu được 3 pháp:
1. Một là, chắc chắn được bậc trí thương mến.
2. Hai là, chắc chắn có thể dùng trí tuệ giải đáp mọi câu hỏi đúng sự thật.
3. Ba là, chắc chắn có được oai đức hơn hết, không hư dối đối với hàng Trời, người. Nguồn: Kinh thập thiện
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói thêu dệt thì liền thành tựu được 3 pháp chắc chắn:
1. Một là, chắc chắn được bậc trí thương mến.
2. Hai là, chắc chắn có thể dùng trí tuệ giải đáp mọi câu hỏi đúng sự thật.
3. Ba là, chắc chắn có được oai đức hơn hết, không hư dối đối với hàng Trời, người.
Đây là 3 pháp, nếu có thể đem hồi hướng lên quả vị Bồ Đề Vô Thượng thì sau khi thành Phật, sẽ đạt các chỗ được thọ ký của Như Lai luôn đích thật. Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói thô ác thì liền thành tựu được tám việc làm trong sáng:
1. Một là, nói năng luôn chừng mực.
2. Hai là, nói ra đều lợi ích.
3. Ba là, nói điều chắc chắn hợp lý.
4. Bốn là, nói lời hay.
5. Năm là, nói ra người khéo có thể tiếp nhận được.
6. Sáu là, lời nói luôn được tin theo.
7. Bảy là, lời nói không ai có thể chê trách.
8. Tám là, nói ra người rất ưa thích.
Đây là 8 việc, nếu có thể đem hồi hướng lên quả vị Bồ Đề Vô Thượng thì sau khi thành Phật, sẽ được tướng của tiếng Phạm Âm nơi Như Lai. Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
+ Lợi ích của việc giữ giới - Không Ác khẩu:
a) Cá nhân: Được người trọng nể, tin cậy, không ai oán hận thù hiềm; đi đâu cũng được người chung quanh dành cho một địa vị thân tín, niềm nở tiếp đón. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được nhiều thân chủ và được giao phó cho nhiều trọng trách quý báu.
b) Đoàn thể: Gia đình và xã hội được đoàn kết trong sự tin cậy. Mọi công cuộc chung được xúc tiến có kết quả tốt. Đồng bào thương yêu, thông cảm nhau hơn. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Bốn vị Thiên Vương cai quản bốn phương
Bấy giờ, bốn vị Thiên Vương cai quản bốn phương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát đại nguyện như thế, vì sao đến nay vẫn độ chưa hết, lại còn phát quảng đại thệ nguyện nữa? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ."
Lược giảng:
Bấy giờ, lúc Bồ Tát Ðịnh Tự Tại Vương cung kính lễ Phật và lui ra ngồi sang một bên rồi, thì bốn vị Thiên Vương coi bốn phương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy,
Bốn vị Thiên Vương của bốn phương đều cư ngụ ở lưng chừng núi Tu Di; cung điện có thành trì bằng thất bảo—vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não—bao quanh. Thành cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, chung quanh có bảy lớp hàng cây, bảy lớp lưới giăng (la võng), bảy lớp câu-lơn bao bọc, vô cùng trang nghiêm.
"Tứ Phương Thiên Vương" tức là bốn vị Thiên Vương trấn giữ ở bốn phương—Ðông Phương Thiên Vương, Nam Phương Thiên Vương, Bắc Phương Thiên Vương và Tây Phương Thiên Vương.
1) Ðông Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Ðề Ða La Tra; Trung Hoa dịch là Trì Quốc. "Trì" tức là "trì hộ"—vị Thiên Vương này gìn giữ và bảo hộ quốc gia cùng tất cả chúng sanh. Ðông Phương Thiên Vương có chín mươi chín người con trai và đều được gọi là Nhân Ðà La.
Trong các quỷ thần do Ðông Phương Thiên Vương thống lãnh, thì có một số là Hương Thần (thần thích hương thơm), và một số là Xú Thần (thần hôi thúi). Hương Thần là ai? Ðó chính là Càn Thát Bà trong Bát Bộ Quỷ Thần, trên đầu có một cái sừng. Càn Thát Bà rất thích ngửi hương thơm, hễ đánh hơi thấy nơi nào có hương thơm là liền chạy về hướng đó. Ngọc Ðế, tức là Nhân Ðà La Vương, có một loại hương gọi là hương chiên-đàn; khi nào đốt hương này lên, Càn Thát Bà ngửi được thì liền đến và khảy đàn tấu nhạc cho Ngọc Ðế nghe. Bởi Ngọc Ðế vẫn còn ở trong Lục Dục Thiên, chưa ra khỏi cảnh giới Ngũ Trần, cho nên còn thích nghe Càn Thát Bà tấu nhạc. Vậy, Càn Thát Bà là Nhạc Thần của Ngọc Ðế, mà cũng chính là Hương Thần.
Trì Quốc Thiên Vương còn thống lãnh cả Xú Thần (thần hôi thúi). Xú Thần này có tên là Phú Ðơn Na, đi đến đâu là hôi hám thối tha đến đó. Ðây cũng chính là vị Phú Ðơn Na được nhắc tới trong Chú Lăng Nghiêm. Bản lãnh cùng thần thông của Xú Thần chính là phóng ra mùi hôi, và hễ đến nơi nào thì nơi ấy liền có mùi hôi thối nồng nặc!
2) Nam Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Tỳ Lưu Ly; Trung Hoa dịch là Tăng Trưởng—vị Thiên Vương này có thể làm cho thiện căn của chúng sanh được tăng trưởng. Nam Phương Thiên Vương cũng có chín mươi chín người con trai, và cũng đều gọi là Nhân Ðà La. Bốn vị Thiên Vương này, mỗi vị đều có chín mươi chín (99) người con trai, và đều được gọi là Nhân Ðà La; vì vậy, cả ba trăm chín mươi sáu (396) vị đều có cùng một tên gọi giống nhau.
Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương cũng cai quản, thống lãnh các quỷ thần; trong đó có loài Viễn Quỷ (quỷ xa) và Cận Quỷ (quỷ gần). Vì sao gọi là Viễn Quỷ? Vì loài quỷ này thường tránh xa loài người. Vì sao gọi là Cận Quỷ? Vì loài quỷ này thích làm tổ tiên của người ta, hễ đến nhà người nào thì làm tổ tiên của người đó, cho nên gọi là Cận Quỷ.
Viễn Quỷ có tên gọi là gì? Trong Chú Lăng Nghiêm, Viễn Quỷ được gọi là Cưu Bàn Trà. Ðúng ra, những chữ này phải đọc là "Cưu Bàn Ðồ," nhưng hiện nay những người tụng Chú đều đọc là "Cưu Bàn Trà"—có lẽ Cưu Bàn Ðồ cũng biết mình bị đổi tên rồi, do vậy quý vị có đọc là "Cưu Bàn Trà" thì cũng được linh ứng như nhau; cho nên, tên gọi thì không có gì là nhất định cả....,,
Hình dạng của Cưu Bàn Trà như thế nào? Cưu Bàn Trà hình thù trông như cái vại hay cái chum lớn tròn tròn, không có đầu, cũng chẳng có chân. Vì loài quỷ này thường tránh xa, không thích ở gần con người, nên gọi là Viễn Quỷ.
Loài Cận Quỷ được gọi là Bệ Lệ Ða, và cũng có được nhắc đến trong Chú Lăng Nghiêm. Ở Trung Quốc, mỗi gia đình đều có thờ cúng bài vị tổ tiên, và loài quỷ này thường lân la tìm đến làm tổ tiên cho từng nhà. Bởi loài quỷ này thích tiếp xúc, thân cận loài người nên được gọi là "Cận Quỷ."
3) Tây Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Tỳ Lưu Bạc Xoa; Trung Hoa dịch là Tạp Ngữ, ngụ ý rằng vị Thiên Vương này biết nói đủ các thứ tiếng, thông thạo tất cả ngôn ngữ của mọi quốc gia.
Tây Phương Thiên Vương còn được gọi là Quảng Mục Thiên Vương và cũng thống lãnh một số quỷ; đó là loài quỷ nào? Chính là loài quỷ mà trong Chú Lăng Nghiêm gọi là Tỳ Xá Ðồ và Trung Hoa dịch là Ðạm Tinh Khí Quỷ, tức là loài quỷ chuyên ăn tinh khí. "Tỳ Xá Ðồ" còn được dịch là Ðiên Cuồng Quỷ, bởi loài quỷ này có thể làm cho người ta sanh bệnh điên cuồng, bị phát điên phát cuồng. Loài quỷ này lại chuyên ăn tinh khí của con người—chúng đến những nơi xảy ra hành vi tánh dục nam nữ để ăn thứ tinh khí bất tịnh ấy. Một khi quỷ Tỳ Xá Ðồ khiến cho người nào mắc bệnh, thì người đó không còn hay biết gì cả, phải vào bệnh viện tâm thần để điều trị. Tuy nhiên, những người bị loài quỷ này hãm hại, dù có ở bệnh viện tâm thần thì cũng không dễ gì bình phục được.
Tây Phương Thiên Vương còn thống lãnh cả rồng độc (độc long). Loài rồng có nọc độc này, hễ mắt chúng vừa nhác thấy người nào thì người đó liền bị trúng độc của chúng ngay tức khắc. Chẳng những thế, nếu quý vị nghe tiếng của chúng, ngửi thấy mùi của chúng hoặc tiếp xúc, đụng chạm vào chúng, thì cũng đều bị trúng độc cả.
Như vậy, Tây Phương Thiên Vương thống lãnh, cai quản hai loại quỷ thần là quỷ Tỳ Xá Ðồ và loài rồng độc.
4) Bắc Phương Thiên Vương. Trong bốn vị Thiên Vương thì Bắc Phương Thiên Vương là thủ lãnh; cả ba vị Thiên Vương kia đều phải chịu sự chỉ huy của vị thủ lãnh này.
Bắc Phương Thiên Vương cũng cai quản quỷ thần; đó là loài quỷ thần nào? Ðó là hai loài quỷ—quỷ Dạ Xoa và quỷ La Sát. Dạ Xoa có rất nhiều loại—có Dạ Xoa đi dưới đất, có Dạ Xoa du hành trên không trung, có Dạ Xoa ở trên trời... Dạ Xoa còn được gọi là quỷ Tiệp Tật, tức là loài quỷ chạy nhanh, bởi chúng có thể chạy với một tốc độ xấp xỉ tốc độ của ánh sáng. Quỷ La Sát còn được gọi là quỷ Khả Bố (đáng sợ), vì chúng rất tàn ác và có hình thù trông rất đáng sợ.
Bốn vị Thiên Vương cai quản các quỷ thần như thế ở thế gian, và đến lúc cần họp hội nghị thì họ đều quy tụ ở chỗ của Bắc Phương Thiên Vương. Bắc Phương Thiên Vương có tên là Tỳ Sa Môn, Trung Hoa dịch là Ða Văn, vì vị Thiên Vương này có kiến thức rất uyên thâm, hiểu nhiều biết rộng. Cũng chính vì thế mà ba vị Thiên Vương kia đều răm rắp tuân theo hiệu lệnh cùng mọi sự sai bảo của Bắc Phương Thiên Vương.
Lúc bấy giờ, bốn vị Thiên Vương, vốn đang cùng đại chúng nghe Kinh Ðịa Tạng, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát đại nguyện như thế, vì sao đến nay vẫn độ chưa hết, lại còn phát quảng đại thệ nguyện nữa? Vì sao đến nay Bồ Tát Ðịa Tạng vẫn còn đi độ chúng sanh, vẫn chưa hoàn thành viên mãn hạnh nguyện của mình, lại còn phát lời thệ nguyện rộng lớn nữa? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ. Chúng con kính xin Ðức Phật hãy vì tất cả đại chúng trong Pháp Hội hiện nay mà giảng rõ điều này." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P4 - Kinh Địa Tạng)
+ Đại nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát
..... Quang Mục nghe xong, rơi lệ gào khóc, bạch cùng giữa hư không rằng: "Nguyện cho thân mẫu con được vĩnh viễn thoát khỏi chốn địa ngục, và khi mãn mười ba tuổi thì không còn trọng tội, cũng chẳng phải trải qua các ác đạo nữa.
Cúi xin thập phương chư Phật từ bi thương xót, lắng nghe con nay vì mẹ mà phát lời thệ nguyện rộng lớn rằng:
Như thân mẫu con được vĩnh viễn lìa khỏi chốn Tam Ðồ và hàng hạ tiện, cho tới cùng kiếp không phải thọ thân người nữ nữa, con xin đối trước tượng của Ðức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát lời nguyện rằng: Kể từ nay cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ nơi nào có thế giới còn có các chúng sanh chịu tội khổ nơi địa ngục cùng Tam Ác Ðạo, con nguyện sẽ cứu vớt và làm cho tất cả đều xa lìa các nẻo ác Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh... Những kẻ mắc tội báo như thế thành Phật cả rồi, thì sau đó con mới thành Chánh Giác."
May thay, nhờ lòng từ bi quảng đại và thệ nguyện thâm sâu của Bồ Tát Ðịa Tạng, nên tất cả những chúng sanh khốn khổ ấy đều chứng được quả vị. Bồ Tát Ðịa Tạng đã từng phát nguyện:
"Địa ngục chưa trống không, ta thề chưa thành Phật,
Chúng sanh độ hết rồi, ta mới chứng Bồ Đề
(Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề.")
Chính nguyện lực rộng lớn của Bồ Tát Ðịa Tạng đã khiến cho các chúng sanh ấy đều chứng được quả vị—Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả A La Hán, hoặc các quả vị khác....... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Quy Y Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
Trong đời vị lai, như có kẻ nam người nữ nào không làm lành mà làm ác, cho đến kẻ chẳng tin nhân quả, kẻ tà dâm vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt ác khẩu, kẻ hủy báng Ðại Thừa; những chúng sanh có các nghiệp như thế tất phải đọa vào đường ác.
Nếu gặp được hàng Thiện Tri Thức khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay liền quy y Ðịa Tạng Bồ Tát, những chúng sanh đó lập tức được thoát khỏi báo khổ của Tam Ác Ðạo.
Nếu có thể tâm chí quy kính và chiêm lễ tán thán, cùng dùng hương, hoa, y phục, các thứ trân bảo, hoặc đồ ăn thức uống, mà cúng phụng, thì trong trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, thường được ở cõi Trời, hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu. Nếu phước trời hết, phải sanh xuống nhân gian, thì vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm bậc Ðế Vương, lại nhớ được túc mạng cùng cội ngành nhân quả.
Này Ðịnh Tự Ðại Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng có bất khả tư nghị đại oai thần lực, lợi ích rộng lớn cho chúng sanh như thế. Các Ông, những bậc Bồ Tát, phải ghi nhớ Kinh này hầu tuyên truyền, lưu bố rộng ra."
Lược giảng:
Nếu gặp được hàng Thiện Tri Thức. Chữ "nếu" này thuộc loại bất định từ; do đó, "nếu gặp" có nghĩa là có thể gặp được, mà cũng có thể là không gặp được. Bây giờ Ðức Phật đặt giả thiết là các chúng sanh tạo ác nghiệp đó "gặp được" bậc Thiện Tri Thức.
Thế nào gọi là "thiện tri thức"? "Tri" là nghe danh (văn danh); "thức" là thấy mặt (kiến diện). "Nghe danh" tức là nghe thấy, biết đến tên tuổi, tiếng tăm; "thấy mặt" tức là biết rõ mặt mày, hình tướng. Vậy, "tri thức" có nghĩa là nhận thức, hiểu biết một cách rõ ràng, tường tận.
Về chữ "thiện," thông thường thì được xem là đồng nghĩa với chữ "hảo" (tốt), song ở đây thì được dùng theo nghĩa của chữ "năng" (khả năng). Bậc "Thiện Tri Thức" là người có khả năng nhận thức; nhận thức điều gì? Họ có thể nhận thức được những khổ não trong Tam Giới, biết rõ rằng "Tam Giới không yên, như ngôi nhà lửa."
Có ba hạng Thiện Tri Thức; đó là Ngoại Hộ Thiện Tri Thức, Ðồng Hành Thiện Tri Thức và Giáo Thọ Thiện Tri Thức.
1) Ngoại Hộ Thiện Tri Thức. Ðây là những vị Thiện Tri Thức từ ngoài đến để hộ Pháp, tự nguyện giúp đỡ người xuất gia xử lý công việc trong chùa. Họ tận tụy hộ trì Tam Bảo, hộ trì Thường Trụ, và hoan hỷ cúng dường mọi vật phẩm mà Thường Trụ cần đến. Nói tóm lại, Ngoại Hộ Thiện Tri Thức là những người ở ngoài nhưng tự nguyện đến chùa để hộ trì người tu Ðạo.
2) Ðồng Hành Thiện Tri Thức. Thế nào gọi là "đồng hành"? Ðó là cùng nhau tu hành. Hàng Thiện Tri Thức này thường cùng nhau tu tập, và động viên khuyến khích lẫn nhau. Khuyến khích lẫn nhau bằng cách nào?
Bằng cách "đả đồng tham" (đánh bạn cùng tu)—nghĩa là chúng ta cùng tu tập với nhau thì quý vị giúp tôi, chỉ cho tôi rõ những lỗi lầm của tôi; và tôi giúp quý vị, chỉ cho quý vị rõ những sai sót của chính quý vị. Bởi con người thường có khuynh hướng không tự thấy được cái sai của chính mình, nếu nhờ người khác tìm giùm thì dễ dàng hơn! Thói thường,
"Người trong cuộc thì mê, kẻ ngoại cuộc thì sáng."
(Ðương cục giả mê, ngoại cục giả thanh.)
Ở cương vị của người trong cuộc, lắm lúc chúng ta bối rối, không thấy được mình đúng hay sai; trong khi đó, người ngoại cuộc thì do đứng ngoài, không dính líu đến sự việc, nên cái nhìn có sáng suốt hơn. Vì vậy, mọi người thường có thể hỗ tương thấy rõ khuyết điểm của nhau hơn—quý vị thấy rõ được cái sai của tôi, tôi thấy rõ được cái sai của quý vị.
Tuy nhiên, "đả đồng tham" có nghĩa là quý vị nêu ra những sai sót của tôi để tôi biết mà sửa đổi, tôi kể lại những sai phạm của quý vị để quý vị rõ mà sửa mình; chứ không phải là quý vị phát hiện cái sai của tôi thì tôi liền đùng đùng nổi giận, tôi khám phá ra tội lỗi của quý vị thì quý vị lại gây gỗ lôi thôi! Chúng ta chẳng những không được nóng nảy giận dữ, mà còn phải bình tâm tĩnh trí nghiên cứu lỗi lầm của nhau để bổ khuyết cho nhau nữa. Ðó gọi là hỗ tương khích lệ, sách tấn lẫn nhau, giúp nhau tinh tấn tu tập, cùng nhau trau giồi rèn luyện.
Trong Ngũ Kinh, sách Ðại Học có câu:
"Như gọt như giũa, như trau như chuốt."
(Như thiết như tha, như trác như ma.)
Như người thợ ngọc tỉ mỉ dùng dao đẽo gọt từng chút một, sau đó phải dùng giũa để mài đi chuốt lại thật công phu, miếng ngọc thô sơ mới trở thành một món trang sức bằng ngọc xinh đẹp, quý giá; hai người bạn cùng nhau "đả đồng tham," nghĩa lý cũng tương tự như thế. Chúng ta phải hỗ tương "trau giồi mài giũa"—bạn tìm khuyết điểm của tôi, tôi tìm khuyết điểm của bạn, để rồi cùng giúp nhau sửa đổi. Người chân chánh tu hành nhất định phải nuôi dưỡng một tinh thần như thế. Ðó là nói về bậc Ðồng Hành Thiện Tri Thức.
3) Giáo Thọ Thiện Tri Thức. Những người giảng Kinh thuyết Pháp, truyền bá và hoằng dương Phật Giáo, giáo hóa chúng sanh... được gọi là bậc Giáo Thọ Thiện Tri Thức.
Khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay liền quy y Ðịa Tạng Bồ Tát. "Một khảy móng tay" là một khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi. Còn một "chớp mắt" thì sao? Mắt nhấp nháy một cái thì gọi là một "nháy mắt" hoặc một "chớp mắt." Cứ hai mươi niệm là một "nháy mắt"; hai mươi "nháy mắt" là một sát-na.
Trong Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã có nói rằng cứ trong một sát-na thì có chín trăm lần sanh diệt; có nghĩa là trong khoảng thời gian là một sát-na thì cái niệm suy nghĩ của chúng ta trải qua chín trăm lần sanh diệt. Một "khảy móng tay" thì lâu bằng sáu mươi bốn sát-na; tuy nhiên, "trong chừng khảy móng tay" ở đây chỉ ngụ ý là khoảng thời gian rất ngắn ngủi, chỉ trong một thoáng chốc mà thôi.
Câu "khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay" có hai cách giải thích:
- Cách thứ nhất, là chúng sanh đó tin tưởng và quy y với Ðịa Tạng Vương Bồ Tát được một khoảnh khắc ngắn ngủi chừng khảy móng tay, thì liền thăng thiên, hưởng sự an lạc vĩnh viễn.
- Cách thứ hai, là nhờ được sự khuyên bảo của bậc Thiện Tri Thức nên chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi chừng khảy móng tay, chúng sanh đó liền mau mắn sanh tín tâm, quy y Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.
"Quy y Ðịa Tạng Bồ Tát" tức là cung kính, đem cả thân tâm tánh mạng của mình giao phó cho Ðịa Tạng Vương Bồ Tát; xem Ðịa Tạng Vương Bồ Tát như một người cha từ bi của mình, còn mình thì như con cái của Ngài.
Như vậy, giả sử những chúng sanh quen làm điều ác, chẳng tin nhân quả, lại còn tà dâm vọng ngữ, lưỡng thiệt ác khẩu, hủy báng Ðại Thừa, chịu vâng theo lời khuyên của bậc Thiện Tri Thức mà quy y với Ðiạ Tạng Vương Bồ-tát; thì những chúng sanh đó lập tức được thoát khỏi khổ báo của Tam Ác Ðạo. Chỉ trong chốc lát ngắn ngủi chừng khảy móng tay, bao nhiêu khổ báo ở ba đường ác trong thời gian dài đến vô lượng vô biên của những chúng sanh đó đều tiêu tan.
Lại nữa, những chúng sanh đó nếu có thể tâm chí quy kính—chuyên nhất kỳ tâm, chí thành quy kính, và chiêm lễ tán thán, ngắm nhìn đảnh lễ, tấm tắc ngợi khen, cùng dùng hương, hoa, y phục, các thứ trân bảo, báu vật quý giá, hoặc đồ ăn thức uống, mà cúng phụng Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, thì trong trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, những chúng sanh đó thường được ở cõi Trời, hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu. Người xuất gia có lệ là trước khi thọ thực đều phải "thượng cúng," tức là dâng cúng thức ăn cho chư Phật trước.
Nếu phước trời hết, phải sanh xuống nhân gian, thì vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm bậc Ðế Vương. Sau khi hưởng hết phước trời của mình, những chúng sanh đó sẽ sanh xuống cõi người trở lại, và thường được làm Hoàng Ðế trong cả trăm ngàn vạn kiếp.
Lại nhớ được túc mạng cùng cội ngành nhân quả. Hơn thế nữa, họ vẫn nhớ được những sự việc trong các đời trước của mình, và biết rành rẽ cội ngành nhân quả trả vay.
Này Ðịnh Tự Ðại Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng có bất khả tư nghị đại oai thần lực—đại oai đức không thể nghĩ bàn, đại thần thông không thể nghĩ bàn—lợi ích rộng lớn cho chúng sanh như thế. Các Ông, những bậc Bồ Tát, phải ghi nhớ Kinh này hầu tuyên truyền, lưu bố rộng ra. Tất cả các Ông đều nên phát tâm truyền bá rộng rãi bộ Kinh Ðịa Tạng này."
Hiện nay chúng ta được nghe đến tên "Kinh Ðịa Tạng," được nghe giảng Kinh Ðịa Tạng, đều là nhờ chư Bồ Tát dùng oai lực mà truyền bá rộng khắp; nếu không nhờ chư Bồ Tát âm thầm tuyên truyền lưu bố, chúng ta chưa chắc đã gặp được Pháp Bảo thậm thâm, vi diệu như thế này! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P4 - Kinh Địa Tạng)
+ Ðông Phương Thiên Vương - Ðề Ða La Tra - Trì Quốc Thiên Vương. Một trong Tứ phương Thiên Vương
Bốn vị Thiên Vương của bốn phương đều cư ngụ ở lưng chừng núi Tu Di; cung điện có thành trì bằng thất bảo—vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não—bao quanh. Thành cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, chung quanh có bảy lớp hàng cây, bảy lớp lưới giăng (la võng), bảy lớp câu-lơn bao bọc, vô cùng trang nghiêm.
"Tứ Phương Thiên Vương" tức là bốn vị Thiên Vương trấn giữ ở bốn phương—Ðông Phương Thiên Vương, Nam Phương Thiên Vương, Bắc Phương Thiên Vương và Tây Phương Thiên Vương.
1) Ðông Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Ðề Ða La Tra; Trung Hoa dịch là Trì Quốc. "Trì" tức là "trì hộ"—vị Thiên Vương này gìn giữ và bảo hộ quốc gia cùng tất cả chúng sanh. Ðông Phương Thiên Vương có chín mươi chín người con trai và đều được gọi là Nhân Ðà La.
Trong các quỷ thần do Ðông Phương Thiên Vương thống lãnh, thì có một số là Hương Thần (thần thích hương thơm), và một số là Xú Thần (thần hôi thúi). Hương Thần là ai? Ðó chính là Càn Thát Bà trong Bát Bộ Quỷ Thần, trên đầu có một cái sừng. Càn Thát Bà rất thích ngửi hương thơm, hễ đánh hơi thấy nơi nào có hương thơm là liền chạy về hướng đó. Ngọc Ðế, tức là Nhân Ðà La Vương, có một loại hương gọi là hương chiên-đàn; khi nào đốt hương này lên, Càn Thát Bà ngửi được thì liền đến và khảy đàn tấu nhạc cho Ngọc Ðế nghe. Bởi Ngọc Ðế vẫn còn ở trong Lục Dục Thiên, chưa ra khỏi cảnh giới Ngũ Trần, cho nên còn thích nghe Càn Thát Bà tấu nhạc. Vậy, Càn Thát Bà là Nhạc Thần của Ngọc Ðế, mà cũng chính là Hương Thần.
Trì Quốc Thiên Vương còn thống lãnh cả Xú Thần (thần hôi thúi). Xú Thần này có tên là Phú Ðơn Na, đi đến đâu là hôi hám thối tha đến đó. Ðây cũng chính là vị Phú Ðơn Na được nhắc tới trong Chú Lăng Nghiêm. Bản lãnh cùng thần thông của Xú Thần chính là phóng ra mùi hôi, và hễ đến nơi nào thì nơi ấy liền có mùi hôi thối nồng nặc!.... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P4 - Kinh Địa Tạng)
+ Nam Phương Thiên Vương - Tỳ Lưu Ly - Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương. Một trong Tứ phương Thiên Vương
Bốn vị Thiên Vương của bốn phương đều cư ngụ ở lưng chừng núi Tu Di; cung điện có thành trì bằng thất bảo—vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não—bao quanh. Thành cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, chung quanh có bảy lớp hàng cây, bảy lớp lưới giăng (la võng), bảy lớp câu-lơn bao bọc, vô cùng trang nghiêm.
"Tứ Phương Thiên Vương" tức là bốn vị Thiên Vương trấn giữ ở bốn phương—Ðông Phương Thiên Vương, Nam Phương Thiên Vương, Bắc Phương Thiên Vương và Tây Phương Thiên Vương.
2) Nam Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Tỳ Lưu Ly; Trung Hoa dịch là Tăng Trưởng—vị Thiên Vương này có thể làm cho thiện căn của chúng sanh được tăng trưởng. Nam Phương Thiên Vương cũng có chín mươi chín người con trai, và cũng đều gọi là Nhân Ðà La. Bốn vị Thiên Vương này, mỗi vị đều có chín mươi chín (99) người con trai, và đều được gọi là Nhân Ðà La; vì vậy, cả ba trăm chín mươi sáu (396) vị đều có cùng một tên gọi giống nhau.
Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương cũng cai quản, thống lãnh các quỷ thần; trong đó có loài Viễn Quỷ (quỷ xa) và Cận Quỷ (quỷ gần). Vì sao gọi là Viễn Quỷ? Vì loài quỷ này thường tránh xa loài người. Vì sao gọi là Cận Quỷ? Vì loài quỷ này thích làm tổ tiên của người ta, hễ đến nhà người nào thì làm tổ tiên của người đó, cho nên gọi là Cận Quỷ.
Viễn Quỷ có tên gọi là gì? Trong Chú Lăng Nghiêm, Viễn Quỷ được gọi là Cưu Bàn Trà. Ðúng ra, những chữ này phải đọc là "Cưu Bàn Ðồ," nhưng hiện nay những người tụng Chú đều đọc là "Cưu Bàn Trà"—có lẽ Cưu Bàn Ðồ cũng biết mình bị đổi tên rồi, do vậy quý vị có đọc là "Cưu Bàn Trà" thì cũng được linh ứng như nhau; cho nên, tên gọi thì không có gì là nhất định cả....,,
Hình dạng của Cưu Bàn Trà như thế nào? Cưu Bàn Trà hình thù trông như cái vại hay cái chum lớn tròn tròn, không có đầu, cũng chẳng có chân. Vì loài quỷ này thường tránh xa, không thích ở gần con người, nên gọi là Viễn Quỷ.
Loài Cận Quỷ được gọi là Bệ Lệ Ða, và cũng có được nhắc đến trong Chú Lăng Nghiêm. Ở Trung Quốc, mỗi gia đình đều có thờ cúng bài vị tổ tiên, và loài quỷ này thường lân la tìm đến làm tổ tiên cho từng nhà. Bởi loài quỷ này thích tiếp xúc, thân cận loài người nên được gọi là "Cận Quỷ.".. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P4 - Kinh Địa Tạng)
+ Tây Phương Thiên Vương - Tỳ Lưu Bạc Xoa - Quảng Mục Thiên Vương. Một trong Tứ phương Thiên Vương
Bốn vị Thiên Vương của bốn phương đều cư ngụ ở lưng chừng núi Tu Di; cung điện có thành trì bằng thất bảo—vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não—bao quanh. Thành cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, chung quanh có bảy lớp hàng cây, bảy lớp lưới giăng (la võng), bảy lớp câu-lơn bao bọc, vô cùng trang nghiêm.
"Tứ Phương Thiên Vương" tức là bốn vị Thiên Vương trấn giữ ở bốn phương—Ðông Phương Thiên Vương, Nam Phương Thiên Vương, Bắc Phương Thiên Vương và Tây Phương Thiên Vương.
3) Tây Phương Thiên Vương. Theo tiếng Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Tỳ Lưu Bạc Xoa; Trung Hoa dịch là Tạp Ngữ, ngụ ý rằng vị Thiên Vương này biết nói đủ các thứ tiếng, thông thạo tất cả ngôn ngữ của mọi quốc gia.
Tây Phương Thiên Vương còn được gọi là Quảng Mục Thiên Vương và cũng thống lãnh một số quỷ; đó là loài quỷ nào? Chính là loài quỷ mà trong Chú Lăng Nghiêm gọi là Tỳ Xá Ðồ và Trung Hoa dịch là Ðạm Tinh Khí Quỷ, tức là loài quỷ chuyên ăn tinh khí. "Tỳ Xá Ðồ" còn được dịch là Ðiên Cuồng Quỷ, bởi loài quỷ này có thể làm cho người ta sanh bệnh điên cuồng, bị phát điên phát cuồng. Loài quỷ này lại chuyên ăn tinh khí của con người—chúng đến những nơi xảy ra hành vi tánh dục nam nữ để ăn thứ tinh khí bất tịnh ấy. Một khi quỷ Tỳ Xá Ðồ khiến cho người nào mắc bệnh, thì người đó không còn hay biết gì cả, phải vào bệnh viện tâm thần để điều trị. Tuy nhiên, những người bị loài quỷ này hãm hại, dù có ở bệnh viện tâm thần thì cũng không dễ gì bình phục được.
Tây Phương Thiên Vương còn thống lãnh cả rồng độc (độc long). Loài rồng có nọc độc này, hễ mắt chúng vừa nhác thấy người nào thì người đó liền bị trúng độc của chúng ngay tức khắc. Chẳng những thế, nếu quý vị nghe tiếng của chúng, ngửi thấy mùi của chúng hoặc tiếp xúc, đụng chạm vào chúng, thì cũng đều bị trúng độc cả.
Như vậy, Tây Phương Thiên Vương thống lãnh, cai quản hai loại quỷ thần là quỷ Tỳ Xá Ðồ và loài rồng độc. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P4 - Kinh Địa Tạng)
+ Bắc Phương Thiên Vương. Một trong Tứ phương Thiên Vương
Bốn vị Thiên Vương của bốn phương đều cư ngụ ở lưng chừng núi Tu Di; cung điện có thành trì bằng thất bảo—vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não—bao quanh. Thành cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, chung quanh có bảy lớp hàng cây, bảy lớp lưới giăng (la võng), bảy lớp câu-lơn bao bọc, vô cùng trang nghiêm.
"Tứ Phương Thiên Vương" tức là bốn vị Thiên Vương trấn giữ ở bốn phương—Ðông Phương Thiên Vương, Nam Phương Thiên Vương, Bắc Phương Thiên Vương và Tây Phương Thiên Vương.
4) Bắc Phương Thiên Vương. Trong bốn vị Thiên Vương thì Bắc Phương Thiên Vương là thủ lãnh; cả ba vị Thiên Vương kia đều phải chịu sự chỉ huy của vị thủ lãnh này.
Bắc Phương Thiên Vương cũng cai quản quỷ thần; đó là loài quỷ thần nào? Ðó là hai loài quỷ—quỷ Dạ Xoa và quỷ La Sát. Dạ Xoa có rất nhiều loại—có Dạ Xoa đi dưới đất, có Dạ Xoa du hành trên không trung, có Dạ Xoa ở trên trời... Dạ Xoa còn được gọi là quỷ Tiệp Tật, tức là loài quỷ chạy nhanh, bởi chúng có thể chạy với một tốc độ xấp xỉ tốc độ của ánh sáng. Quỷ La Sát còn được gọi là quỷ Khả Bố (đáng sợ), vì chúng rất tàn ác và có hình thù trông rất đáng sợ.
Bốn vị Thiên Vương cai quản các quỷ thần như thế ở thế gian, và đến lúc cần họp hội nghị thì họ đều quy tụ ở chỗ của Bắc Phương Thiên Vương. Bắc Phương Thiên Vương có tên là Tỳ Sa Môn, Trung Hoa dịch là Ða Văn, vì vị Thiên Vương này có kiến thức rất uyên thâm, hiểu nhiều biết rộng. Cũng chính vì thế mà ba vị Thiên Vương kia đều răm rắp tuân theo hiệu lệnh cùng mọi sự sai bảo của Bắc Phương Thiên Vương. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P4 - Kinh Địa Tạng)
+ Trong đời vị lai, như có kẻ nam người nữ nào không làm lành mà làm ác, cho đến kẻ chẳng tin nhân quả, kẻ tà dâm vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt ác khẩu, kẻ hủy báng Ðại Thừa; những chúng sanh có các nghiệp như thế tất phải đọa vào đường ác.
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: Trong nhiều kiếp lâu xa ở quá khứ, Bồ Tát Ðịa Tạng Vương đã có lòng từ mẫn, lập thệ nguyện nhiều như cát sông Hằng quảng độ chúng sanh như thế....
Trong đời vị lai, như có kẻ nam người nữ nào không làm lành mà làm ác, cho đến kẻ chẳng tin nhân quả. Mọi người đều nên "việc ác không làm, chỉ làm việc thiện"; thế nhưng có những chúng sanh lại "việc thiện không làm, chỉ làm việc ác"! Thậm chí có giảng về luật nhân quả cho họ nghe, họ cũng chẳng chịu tin.
Vừa rồi, tôi đến trường đại học University of California thuyết Pháp; sau buổi giảng thì có một sinh viên người Trung Hoa chờ tôi ngoài giảng đường và hỏi: "Thưa Thầy, chẳng hay Phật Giáo có tin Nhân Quả chăng?"
Tôi đáp: "Có chứ! Về Nhân Quả, vấn đề không phải là tin hay không tin, bởi đó đúng là điều có thật! Anh tin, thì cũng có luật Nhân Quả; mà anh không tin, thì luật Nhân Quả cũng vẫn tồn tại như thường! Nếu anh không tin Nhân Quả, thì bây giờ tôi sẽ đưa ra một thí dụ hết sức đơn giản để anh tự nghiệm lấy. Thí dụ, anh tát người nào đó một bạt tai, thì người ấy nhất định sẽ tát lại anh một cái để trả đũa, có đúng không? Anh đánh người ta, đó là "nhân"; còn người ta đánh anh lại tức là "hậu quả" của việc anh làm. Anh đánh người ta thì người ta cũng đánh anh vậy! Thế nào, anh có tin lý lẽ này không?"
Anh sinh viên ấy nói rằng như thế thì anh ta không còn gì để nói nữa! Ban đầu anh ta có rất nhiều lý lẽ, muốn đến để tranh cãi biện luận, cho rằng không có Nhân Quả. Sau khi nghe tôi nói như thế, có lẽ anh ta sợ bị người khác đánh, hoặc là anh chẳng muốn đánh người khác hay sao thì tôi không rõ; tuy nhiên, anh ta đã bắt đầu tin là có Nhân Quả.
Chúng ta vốn không nên đánh đập ai cả, do đó nếu quý vị gây gỗ đánh đập người khác, tức là quý vị đã gieo cái "nhân" không tốt rồi. Bởi quý vị đánh người nên mới bị người đánh, cho nên việc quý vị bị người ta quay lại đánh trả chính là cái "quả" của quý vị vậy. Nếu quý vị không tử tế với mọi người, thì mọi người cũng không tử tế với quý vị; nếu quý vị cư xử tốt với mọi người, thì mọi người cũng cư xử tốt với quý vị—đó là luật Nhân Quả. Cho nên,
"Trồng thiện nhân thì kết thiện quả,
Gieo ác nhân tất gặp ác báo."
Ngoài ra, nếu quý vị kết giao toàn bạn xấu, không đàng hoàng, thì sớm muộn gì quý vị cũng bị ảnh hưởng mà trở thành người xấu. Trái lại, nếu quý vị toàn giao du với bạn tốt, thì cho dù bản thân quý vị là người xấu, dần dần quý vị cũng trở thành người tốt. Cho nên, mọi chuyện đều là Nhân Quả, quý vị chớ truy tìm đâu xa cho uổng công! Ðừng vội lên án người ta là không tốt với mình, mà trước hết hãy tự vấn lương tâm, xét xem mình có tốt với người ta hay không! Ðối với việc gì chúng ta cũng nên "hồi quang phản chiếu, phản cầu chư kỷ," soi xét lại chính mình; chứ đừng như cái máy chụp hình, cứ mải miết chụp hình người khác, còn bản thân mình hình thù ra sao thì lại hoàn toàn mù tịt, không hay không biết!
Kẻ tà dâm vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt ác khẩu. Chúng ta phải luôn luôn nhớ là đừng bao giờ phạm tội "lưỡng thiệt, ác khẩu" (nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác). Thế nào là "lưỡng thiệt"? Thí dụ, với người này thì quý vị dùng "bộ mặt" này, với người khác thì quý vị lại giở "bộ mặt" khác—gặp Giáp thì nói xấu Ất; gặp Ất thì chê bai Giáp—như thế là quý vị phạm tội "lưỡng thiệt, ác khẩu." Hoặc là quý vị dèm pha, dùng lời nói để gây hiềm khích, chia rẽ nội bộ, phá hoại sự đoàn kết của một tập thể đến nỗi tổ chức phải tan rã—đó cũng là phạm tội "lưỡng thiệt, ác khẩu" vậy.
Về tội "lưỡng thiệt, ác khẩu," thì nghiêm trọng nhất là khoản "phá hòa hợp Tăng." Thế nào gọi là "phá hòa hợp Tăng"? Người cư sĩ tại gia thì không được rao nói lỗi của người xuất gia—những vị Tỳ Kheo và Sa Di đã thọ giới Sa Di hoặc giới Bồ Tát. Bởi quý vị học Phật Pháp là học từ những người xuất gia, từ các vị Tỳ Kheo và Sa Di này; cho nên, quý vị không được học Phật Pháp rồi sau đó lại đi phá hoại Phật Pháp, gây sự xích mích trong đoàn thể Tăng Già. Nếu quý vị dùng lời nói làm cho Tăng Già trở nên bất hòa, tức là quý vị đã "phá hòa hợp Tăng," và mắc tội "lưỡng thiệt, ác khẩu" vậy.
Trong Phật Giáo, "phá hòa hợp Tăng" là một trong năm tội nghịch nghiêm trọng nhất (Ngũ Nghịch Tội); và đó là:
1) Giết cha mình (thí phụ);
2) Giết mẹ mình (thí mẫu);
3) Giết bậc đã chứng quả A La Hán (thí A La Hán);
4) Làm mất sự hòa hợp giữa chư Tăng với nhau (phá hòa hợp Tăng). Ví dụ, với vị Sư này thì quý vị kể lể những khuyết điểm, sai sót của vị Sư kia, rằng vị ấy có lỗi với vị này như thế nào...; còn với vị Sư kia thì quý vị lại mách những nhược điểm, thiếu sót của vị Sư này, rằng vị này có lỗi với vị kia như thế nào, đố kỵ chướng ngại ra sao... khiến cho giữa những người xuất gia không còn sự hòa thuận, chư Tăng không thể cùng ở chung (cộng trụ) với nhau được nữa, và rốt cuộc là Tăng đoàn bị chia rẽ, phân tán—như thế là quý vị đã "phá hòa hợp Tăng" vậy.
5) Làm thân Phật chảy máu (xuất Phật thân huyết).
Trên đây là nói tổng quát về những tội bao hàm trong tội "lưỡng thiệt, ác khẩu." Mỗi người trong chúng ta đều phải đặc biệt chú ý, chớ bao giờ phạm những tội ấy; bằng không, quý vị sẽ bị đọa vào địa ngục, vĩnh viễn không đời nào thoát ra được!
Kẻ hủy báng Ðại Thừa. Có nhiều người cho rằng không có Ðại Thừa, mà chỉ có văn tự Ba-Lỵ (Pali). Hôm qua có một kẻ ngông cuồng đã cật vấn: "Kinh điển của các người là dịch ra từ tiếng Pali chứ gì?" Anh ta, ngay cả chữ Pali là như thế nào còn không biết, mà lại hỏi có phải dịch ra từ tiếng Pali hay không! Ðó chẳng qua là anh ta muốn tỏ ra ta đây cũng là người hiểu biết thông thạo - hạng người như thế thật rất đáng thương!
Những chúng sanh có các nghiệp như thế tất phải đọa vào đường ác. Những chúng sanh tạo ác nghiệp như thế, nhất định sẽ bị đọa vào ba đường dữ - thật là nguy hiểm biết bao! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P4 - Kinh Địa Tạng)
+ Các loài trong Đường dữ - Đường ác đạo - Cõi dữ - Cõi ác đạo
Các loài trong đường dữ
Ðịa ngục, quỷ, súc sanh
Khổ sanh già bịnh chết
Lần đều khiến dứt sạch.
Ðường dữ (evil destinies) hay ác đạo chính là những nơi bất thiện, và chẳng phải chỉ có một mà có rất nhiều.
Tổng quát thì có bốn loài là: A-tu-la - ngạ quỷ - súc sanh - địa ngục.
A-tu-la thì như trước đã giải thích rồi, họ chính là đấu tranh kiên cố; những loại chúng sanh thích đấu tranh đều thuộc vào A-tu-la. Ðịa ngục do đâu mà có? Ấy là do nghiệp chướng của mỗi cá nhân chúng ta mà hình thành. Quý vị tạo tội ác gì thì sẽ có địa ngục tương ứng với tội ác đó hiện ra. Ðịa ngục lại chia ra rất nhiều thứ.
Kinh Ðịa Tạng nói:
"Ngục lớn có mười tám, kế đó có năm trăm ngục nhỏ, lại có hàng ngàn trăm vô lượng vô biên địa ngục."
Ðịa ngục có phải giống như nhà tù ở thế gian không? Do người ta làm ra cái nhà rất chắc chắn, chờ khi có người phạm tội thì đem nhốt vào đó chăng? Không phải thế! Ðịa ngục là do tội ác của mỗi cá nhân mà hiện ra. Quý vị tạo ác nghiệp sát nhân thì sẽ có địa ngục sát nhân hiện ra; tạo tội ác đốt nhà thì sẽ có địa ngục đốt nhà hiện ra. Bởi tạo ác nghiệp gì thì sẽ có địa ngục đó hiển hiện, vì thế chủng loại địa ngục không có nhất định. Ðến khi trả nghiệp xong rồi thì địa ngục ấy sẽ tự biến mất. Nghiệp chưa hết thì địa ngục vẫn còn. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Địa ngục: Ma Da Phu Nhân, mẫu thân của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, lại bạch cùng Bồ Tát Ðịa Tạng: "Thế nào gọi là địa ngục Vô Gián? Vì sao địa ngục đó lại có tên là ‘vô gián’?"
Ngài Ðịa Tạng thưa rằng: "Thánh Mẫu! Tất cả địa ngục đều ở trong núi Ðại Thiết Vi. Trong số đó, địa ngục lớn có mười tám chỗ—có mười tám sở ngục thuộc loại lớn nhất; thứ kế có năm trăm chỗ, danh hiệu đều khác nhau; thứ kế nữa lại có đến ngàn trăm, danh hiệu cũng đều khác nhau."
"Chỉ có một ngục tên là Vô Gián. Ngục này chu vi một vạn tám ngàn dặm; tường ngục cao một ngàn dặm, toàn bằng sắt và có lửa cháy suốt trên suốt dưới. Trên tường ngục có rắn sắt, chó sắt phun lửa đuổi nhau chạy bên này sang bên kia." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Địa ngục (hell) - Theo Minh triết Tây phương: Như bạn biết rõ, không có vị Thượng Đế phẩn nộ (no angry God), không có địa ngục (no hell) và không có việc chuộc tội thay (no vicarious atonement). Chỉ có một nguyên khí bác ái vĩ đại làm sinh động toàn thể vũ trụ; có Bản Lai Diện Mục của Đức Chirst hướng dẫn cho nhân loại biết sự thật của linh hồn và chúng ta được cứu bằng nguồn sống (livingness) của linh hồn đó, và địa ngục duy nhất là chính cõi trần, nơi mà chúng ta học hỏi để tiến hành sự cứu rổi (salvation) riêng của chúng ta, được thúc đẩy bằng nguyên khí bác ái và ánh sáng, và thêm vào đó, được kích động bằng tấm gương của Đức Chirst và sự thôi thúc bên trong của linh hồn riêng của chúng ta.
Giáo huấn liên quan tới địa ngục này là tàn dư của khúc quanh độc hại vốn được đưa ra do cách tư duy của Giáo hội Thiên Chúa vào thời Trung Cổ và do giáo huấn sai lầm trong Cựu Ước Kinh liên quan đến Jehovah, vị thần bộ tộc (tribal God) của dân Do Thái. Jehovah không phải là Thượng Đế, Hành Tinh Thượng Đế, Tâm Bác Ai Hằng Hữu mà Đức Christ nói đến. Khi các ý tưởng sai lầm này tiêu tan thì ý niệm về địa ngục sẽ bị xóa nhòa khỏi ký ức con người và vị trí của nó sẽ bị thay thế bằng việc hiểu biết định luật, làm cho mỗi người thể hiện việc cứu rỗi của riêng mình trên cõi trần, để giúp y sửa chữa các sai lầm mà y đã phạm trong các kiếp sống trên cõi trần và sau rốt, giúp y “làm lại từ đầu” (clean his own slate”). (CTNM, 393)
+ Tội ngũ nghịch đọa Địa ngục vô gián:
1- Như có chúng sanh chẳng hiếu thảo với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ, kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được."
2- Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh, kẻ đó cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.
3- "Nếu có chúng sanh xâm tổn của Thường Trụ, làm nhơ nhuốc Tăng Ni, hoặc tứ tình hành dâm trong chốn Già Lam, hoặc giết hoặc hại; hạng người như thế phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được."
4- "Nếu có chúng sanh giả làm Sa Môn mà tâm chẳng phải Sa Môn, phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ, gạt gẫm hàng bạch y, trái phạm Giới Luật, tạo vô số tội ác; hạng người như thế phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được."
5- "Nếu có chúng sanh trộm cắp tài vật, lúa gạo, đồ ăn thức uống, y phục của Thường Trụ, cho đến không cho mà lấy một vật; kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được."
Ngài Ðịa Tạng thưa rằng: "Thánh Mẫu! Nếu có chúng sanh nào phạm những tội như thế, thì kẻ đó phải đọa vào Ngũ Vô Gián địa ngục, cầu tạm ngừng sự đau khổ trong chừng một niệm cũng không được." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Giữ giới tu Định lực: ... Tuy họ nghiêm trì giới luật rất thanh tịnh, thật là hiếm có, được mọi người rất khen ngợi. Thế nhưng họ còn phiền não. Tức là họ còn thấy người này phá giới, người kia không trì giới. Họ còn có những phân biệt này, nếu còn có những phân biệt này thì công đức trì giới của họ bị phá hoại thì họ làm sao được định. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại trong đàn Kinh có nói “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” tức là người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Người thế gian đã phạm nhiều lỗi lầm, nếu như họ thật không thấy thì họ trở thành mất chứng ngu đần sao? vậy cái gì gọi là không thấy nghĩa là thấy như không thấy, tuyệt không để trong tâm.....(Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối nghiệp chướng)
+ Định trong Thiền định: Vì gió nghiệp đó cản trở sự khai mở của chân tâm của mình. Định lực chính là lửa của ngọn đèn sáp. Lửa cần sự xúc tác từ một diêm quẹt để châm cho ánh sáng đèn cầy được cháy lên nên sự xúc tác quan trọng lắm. Cái khả năng giữ cho tim đèn cháy mãi là Định lực, ánh lửa chính là Chân tâm, và sự tỏa sáng là Huệ hay là Huệ lực. Như vậy trong thí dụ trên, cái phòng có cửa đóng lại để gió không vào được là Giới hay Giới lực. (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng về Định Lực)
+ Tu Định: Giữ tâm yên lặng, thoải mái, thanh thản, hồn nhiên, không tham (ví như ngồi để đạt được gì),..., chỉ là đến giờ thì ngồi. Sự lắng dịu của thân và tâm đạt được => Khởi đầu của định. Cùng với sự tập trung và tinh tấn, tỉnh thức sẽ kiến tạo định lực ngày càng mạnh => Sinh trí huệ thấy bản chất của cuộc sống ...(Nguồn: Thầy Thích Nhất Hạnh)
+ Định Lực Sâu khai trí huệ: Mục tiêu cuối cùng của tu học Phật pháp là ở khai trí tuệ. Khai trí tuệ mới đoạn được gốc rễ ngu si phiền não. Cách khai trí tuệ như thế nào vậy? Nhất định phải nương giới để được định, do định khai tuệ. Phật đã nói với chúng ta cái thứ lớp này, chúng ta muốn tu cũng không thể ngoại lệ. Thế nhưng, có rất nhiều người trì giới rất tốt, nhưng không đạt được Định. Truy tầm nguyên nhân, hóa ra trong Giới Học có lầm lỗi. Vậy nên: Lục Tổ răn dạy hàng hậu học: “Nếu ai thật tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”, như thế mới dứt trự mọi phiền lão chướng ngại. (Nguồn: Kinh Thập thiện - Tập 37 - PS Tịnh Không giảng)
+ Loại "Định" - Tam Ma Đề: ... Đức Phật xoa đảnh A-nan, nói với A-nan cùng với đại chúng: “Có một loại định (tam-ma-đề) gọi là Đại Phật đảnh Thủ-lăng-nghiêm vương, đầy đủ muôn hạnh, là pháp môn trang nghiêm vi diệu, mà mười phương Như Lai đều từ đó lưu xuất."
* Tham Thiền tu Thiền Định - Dhyana là Con đường tu Tam Ma Đề (Định) - Tu Định mở rộng Tâm thức và Trí tuệ - Trí huệ Bát nhã (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Định Lực: Một trong 4 căn nguyên có Kinh Thủ Lăng Nghiêm, mục 4 như sau:
4. Hiển thị chân tánh của định lực và khuyến khích việc tu chứng.
Có rất nhiều pháp môn trong việc tu tập định lực. Ngoại đạo cũng có nhiều loại định. Vậy nên trong khi tu tập định lực, chỉ cần:
(chỉ cần sai lầm bằng một mảy tóc, thì sẽ uổng công đi xa cả ngàn dặm)
Tại sao hành giả bị ma chướng khi tu tập? Tại sao nghiệp chướng sinh khởi. Chỉ vì trong tự tánh của họ chưa có được định lực. Nếu tự tánh thường an trú trong định, tất cả ma sự đều bị hàng phục.
Định lực của Ngoại đạo Tu Thiền định: Lý do ngoại đạo không có được tánh định vì họ chỉ dụng công ở ngành ngọn chứ không dụng công ở phần gốc rễ, họ công phu ngay nơi xác thân hư huyễn. Sai lầm của họ là đồng nhất thức thứ sáu, là tâm thức thường nghiệm với chân tâm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh)
+ Không có Định Lực - Bị Cảnh chuyển: Tại sao A-nan không thể chống chọi nổi với tà chú của Tiên phạm thiên? dù A-nan đã đạt được sơ quả a-la-hán rồi? Đó là vì trong quá khứ, khi tu tập định lực, A-nan đã dùng tâm ý thức để công phu, mà tâm ý thức cũng là đối tượng của sinh diệt, nên không đạt được triệt để cứu cánh. Khi dụng công tu tập định lực bằng cách điều phục tâm ý thức như pháp tu “chỉ quán” của giáo lý Thiên thai, đó là thuộc về thức thứ tám. Phương pháp ấy làm hiển lộ bản tánh bất sinh bất diệt. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 1 - HT Tuyên Hóa giảng giải)
+ Định Lực: Người An chú tâm định mà có Định lực thật sự thì dù đang tỉnh thức vẫn không nghe thấy tiếng động dù rất mạnh ở gần (Đức Phật có định lực trời có tiếng sét ở gần cũng không nghe thấy) - Dù mở mắt nhưng cũng không thấy. Nguồn: mục 98- Tại đây
+ Tu Tâm có Định Lực: Định lực là mở tâm bất động vị tha theo chiều dọc. Tâm Mở rộng là tu tâm vị tha, hai tâm phải đồng tiến hóa tương ứng (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Tu Thập Trụ)
+ Trí huệ và Định lực: Trí huệ là quán sát minh liễu; Định lực là chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc => Phải đến cảnh giới này thì con người mới không tạo nghiệp. (Trích: A DI ĐÀ PHẬT - KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN tập 10- LÃO PS TỊNH KHÔNG GIẢNG.)
+ Giảng về Định lực và Tu định - Mời xem nhiều lời giảng hay về Tu Định và Định lực trong Thiền Định: Xem Tại đây
+ Định lực sâu - Đi về đâu: Tu đạt được Thiền Định chẳng dễ dàng gì, chẳng hạn như khoanh chân ngồi nhìn vào vách nhập Định một tuần lễ, hai tuần lễ, thậm chí cả mấy tháng không xuất định, công phu tương đương như thế rất sâu, nhưng tương lai họ sẽ đi về đâu? Lão pháp sư nói sẽ thuộc về các cõi trời Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền thuộc Sắc Giới.(Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ "Nếu có chúng sanh giả làm Sa Môn mà tâm chẳng phải Sa Môn, phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ, gạt gẫm hàng bạch y, trái phạm Giới Luật, tạo vô số tội ác; hạng người như thế phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được."
Lược giảng:
"Nếu có chúng sanh giả làm Sa Môn..." Có bốn loại Sa môn:
4) Loại 4: Ô Ðạo Sa Môn: "Ô" là ô uế, không thanh khiết. Hạng Sa Môn này làm ô uế Ðạo; và đây chính là hạng Sa Môn được nói đến trong đoạn kinh văn này.
"Mà tâm chẳng phải Sa Môn." Có nhiều người gian trá, giả làm Sa Môn thôi chứ không phải thật; thâm tâm họ chẳng hề thực hành đạo hạnh của bậc Sa Môn. Họ không "siêng tu Giới Ðịnh Huệ," cũng chẳng "dứt bỏ tham sân si"; trái lại, còn dám nói rằng tham, sân, si càng nhiều thì càng tốt, và khuyến khích mọi người tốt nhất là hãy quên hết Giới Ðịnh Huệ, chẳng cần nhớ gì cả! Ðó chính là hạng Sa Môn "giả hiệu," hư ngụy; và tâm của những kẻ đội lốt Sa Môn này không hành hạnh từ bi, không tu hạnh nhẫn nhục, không hành Lục Ðộ Vạn Hạnh—họ có dụng tâm không làm phận sự của một vị Sa Môn! Thế thì họ làm gì? Họ mượn danh nghĩa Sa Môn để dễ bề "phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ."
Ðồ vật của Thường Trụ, dù là những thứ lặt vặt nhất, tầm thường nhất như một tờ giấy chẳng hạn, chúng ta cũng không được tùy tiện phung phí, vất bỏ bừa bãi; tại sao? Bởi tuy chỉ là một mẩu giấy, nhưng "tích tiểu thành đa," từ một tờ mà lâu ngày dồn lại thì cũng thành nhiều. Do đó, tùy tiện phí phạm một tờ giấy, cũng là lạm dụng, làm hao tổn của Thường Trụ.
Có câu rằng:
"Dù là một lá cây, một cọng cỏ,
cũng chẳng được không cho mà lấy."
Người ta không cho mình mà mình tự tiện lấy, như thế là trộm cắp. Cho dù đó chỉ là một lá cây hay một cọng cỏ, song hễ chưa được chủ nhân cho phép mà mình đã lấy, tức là trộm cắp vậy. Bất cứ đồ vật gì của người khác, chúng ta đều không được tùy tiện sử dụng. Quý vị dùng đồ của người khác mà người đó lại không biết, như thế cũng là ăn trộm, là phạm giới trộm cắp.
Lại có câu:
"Dù là một cây kim, một sợi chỉ, đều là của bố thí."
Những gì người ta đem cho chùa, dù là một cây kim hay một sợi chỉ, đều gọi là "của bố thí." Do đó, chúng ta không được tùy tiện phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ. Phàm là đồ vật thuộc về Thường Trụ, thì dù là người xuất gia sống trong chùa cũng không được tùy tiện lấy đem cho kẻ khác. Trường hợp đó là vật sở hữu của riêng mình thì không sao—thí dụ quý vị có cái áo không mặc nữa nên đem cho người khác, như thế thì được. Còn nếu là đồ vật thuộc của chung của cả chùa, thì ngay cả một sợi chỉ cũng không được tùy tiện đem cho người khác để lấy cảm tình; bởi đó gọi là "mua lòng cá nhân," muốn làm cho người ta có thiện cảm với mình, muốn kết thân với dụng ý riêng. Nếu quý vị muốn làm cho kẻ khác có ấn tượng tốt về mình, để họ thích hộ Pháp và cúng dường riêng cho cá nhân mình—thì đó là điều hết sức sai lầm! Tất cả mọi người cần phải đặc biệt chú ý điểm này!
Vậy, không cần nhiều, dù chỉ một tờ giấy, một sợi chỉ, thậm chí một hạt gạo của chùa mà thôi, nếu quý vị vì tình cảm riêng tư mà tự tiện đem cho người khác, tức là quý vị "phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ." Phàm là người xuất gia, đồ đạc của riêng cá nhân mình thì mình có quyền tặng cho người khác, song đối với những thứ thuộc của chung, thì cho dù là một cây nhang mình cũng không được tự tiện đem cho người khác.
"Gạt gẫm hàng bạch y." "Bạch y" (áo trắng) là chỉ cho hàng cư sĩ, những người tại gia. Những kẻ giả danh Sa Môn ấy chẳng những thiếu thành thật, chỉ toàn nói lời dối trá để lừa gạt người tại gia, mà lại còn "trái phạm Giới Luật, tạo vô số tội ác" nữa. Họ không tuân thủ Giới Luật, không trì giữ Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, Sa Di Thập Giới, Bồ Tát Giới, Tỳ Kheo Giới, Tỳ Kheo Ni Giới; lại còn gây ra không biết bao nhiêu thứ tội ác. "Vô số" tức là không phải chỉ có một loại, mà là rất nhiều loại, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.
"Hạng người như thế, những kẻ giả danh Sa Môn đó, phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Sa môn: Sramana (B.Phạn), exercisers, do Shrama là hành
+ Bốn loại Sa môn chứng ngộ - Chứng đạt:
1. Sa-môn thứ nhất? Tỷ-kheo do đoạn diệt ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không bị rơi vào đọa xứ, chắc chắn hướng đến giác ngộ.
2. Sa-môn thứ hai? Tỷ-kheo do đoạn diệt ba kiết sử, do làm cho nhẹ bớt tham và sân, là bậc Nhất Lai, còn đi lại thế giới này một lần nữa, rồi đoạn tận khổ đau.
3. Sa-môn thứ ba? Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh tại đấy, chứng Niếtbàn, không phải trở lui từ thế giới ấy.
4. Sa-môn thứ tư? Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc, tự mình với thắng trí ngay trong hiện tại, chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Chỉ ở đây, này các Tỷ-kheo, có bốn bậc Sa môn, còn ngoại đạo khác không có Sa-môn. Như vậy, này các Tỷ kheo là chơn chánh rống tiếng rống con sư tử này. (Nguồn: Phẩm Nghiệp - Chương bốn pháp - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Sa môn: "Nếu có chúng sanh giả làm Sa Môn..." Có bốn hạng Sa Môn (Tứ Chủng Sa Môn)—Thắng Ðạo Sa Môn, Thuyết Ðạo Sa Môn, Hoạt Ðạo Sa Môn và Ô Ðạo Sa Môn.
1) Thắng Ðạo Sa Môn: Chư Phật và chư Bồ Tát đều được gọi là những bậc Thắng Ðạo Sa Môn, tức là hạng Sa Môn trổi thắng hơn hết về Ðạo lý.
2) Thuyết Ðạo Sa Môn: Hạng Sa Môn này lấy việc giảng Kinh thuyết Pháp là lẽ sống; và đó chính là những bậc đại đức cao tăng đã chứng quả A La Hán.
3) Hoạt Ðạo Sa Môn: Ðây là hạng Sa Môn sống đời vì Ðạo, lấy việc tu Ðạo là lẽ sống.
4) Ô Ðạo Sa Môn: "Ô" là ô uế, không thanh khiết. Hạng Sa Môn này làm ô uế Ðạo; và đây chính là hạng Sa Môn được nói đến trong đoạn kinh văn này.
"Sa Môn" là tiếng Phạn và có ba nghĩa; ba nghĩa này thật ra không phải là ba mà là hai nghĩa; hai nghĩa này đúng ra chẳng phải là hai mà là một nghĩa—Phật Pháp kỳ diệu như thế đấy! Vậy, chữ "Sa Môn" có một nghĩa, thì một nghĩa đó là gì? Ðó là "cần tức"; "Sa Môn" có nghĩa là "cần tức"—siêng năng dứt bỏ.
"Cần" là cần mẫn siêng năng; còn "tức" là "hưu tức" và có nghĩa là dứt bỏ, ngưng nghỉ. "Cần" cũng có nghĩa là không lười biếng; và "tức" hàm ý lười biếng, không siêng năng. Thế nên, có thể nói rằng đó là hai ý muốn của một con người—một đằng thì lười biếng, và một đằng thì siêng năng. "Lười biếng" chèo kéo, rủ rê "siêng năng": "Ðừng đi làm nữa; phải hưởng thụ đôi chút chứ!" "Siêng năng" khuyên can: "Ồ! Anh đừng lười biếng, hãy theo tôi tinh tấn tu tập." Vị Sa Môn phải tự đấu tranh, giằng co với hai ý tưởng như thế; hễ bên nào có "thế lực" hơn thì bên đó thắng—"siêng năng" mạnh hơn thì "lười biếng" thua cuộc; "lười biếng" mạnh hơn thì "siêng năng" bại trận. Vậy, đây là một người có hai ý muốn là "cần" và "tức"—siêng năng và biếng nhác—và đó cũng chính là hai nghĩa của từ ngữ "Sa Môn."
Còn nói "Sa Môn" có ba nghĩa, là gồm có những gì? "Cần" (siêng năng) được chia làm ba loại, và "tức" (dứt bỏ) cũng được phân thành ba loại. Ba loại "cần" là gồm những gì? Ðó là "cần tu Giới, Ðịnh, Huệ"—siêng tu Giới, siêng tu Ðịnh và siêng tu Huệ. Còn ba loại "tức" chính là "tức diệt tham, sân, si"—dứt bỏ tâm tham lam, dứt bỏ tâm sân hận và dứt bỏ tâm si mê. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Bốn loại nghiệp: Nghiệp đen - Nghiệp trắng - Nghiệp đen trắng - Nghiệp không đen không trắng
(II) (232) Với Chi Tiết
Có bốn nghiệp này, này các Tỷ-kheo, đã được ta chứng ngộ với thắng trí và thuyết giảng. Thế nào là bốn?
1. Nghiệp đen - Quả đen?
Có người làm thân hành có tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại, làm ý hành có tổn hại. Người ấy, do làm thân hành có tổn hại, do làm khẩu hành có tổn hại, do làm ý hành có tổn hại, sanh ra ở thế giới có tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới có tổn hại, các cảm xúc có tổn hại được cảm xúc.
Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc có tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ, như những chúng sanh trong địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen quả đen.
2. Nghiệp trắng - Quả trắng?
Có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Người ấy, do làm thân hành không có tổn hại, do làm khẩu hành không có tổn hại, do làm ý hành không có tổn hại, sanh ra ở thế giới không có tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới không có tổn hại, các cảm xúc không có tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc không có tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ không có tổn hại, thuần nhất lạc, như chư Thiên ở Biến Tịnh Thiên. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp trắng quả trắng.
3. Nghiệp đen trắng - Quả đen trắng?
Có người làm thân hành có tổn hại và không tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, làm ý hành có tổn hại và không tổn hại. Người ấy, do làm thân hành có tổn hại và không tổn hại, do làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, do làm ý hành có tổn hại và không tổn hại, sanh ra ở thế giới có tổn hại và không tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới có tổn hại và không tổn hại, các cảm xúc có tổn hại và không tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, xen lẫn, pha trộn lạc và khổ. Ví như một số người và chư Thiên, một số chúng sanh ở các đọa xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen trắng quả đen trắng.
4. Nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt?
Tại đấy, này các Tỷ-kheo, phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp đen quả đen này; phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp trắng quả trắng này; phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp đen trắng quả đen trắng này; này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, có bốn nghiệp này đã được Ta chứng ngộ với thắng trí và thuyết giảng.
+ Đức Phật giảng chi tiết
1. Nghiệp đen - Quả đen? Họ không giữ ngũ giới: người sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say riệu men.
2. Nghiệp trắng - Quả trắng? Họ giữ ngũ giới - Cao hơn nữa thì giữ nhiều giới - Hành thập thiện và Bát chánh đạo. 27 Giác chi.
3. Nghiệp đen trắng - Quả đen trắng? Họ giữ ngũ giới nửa vời: Hành thiện ác đan xen.
4. Nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng: Họ đoạn tận ba nghiệp trên. (Nguồn: Phẩm Nghiệp - Chương bốn pháp - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Xâm tổn của Thường trụ - Làm nhơ nhuốc Tăng Ni - Tứ tình hành dâm trong chốn Già Lam - Giết hoặc hại. Tội ngũ nghịch
"Thường Trụ" là chỗ ở của Tăng chúng; vậy thì thế nào gọi là "xâm tổn của Thường Trụ"? Những thứ gì của Thường Trụ có thể bị xâm phạm, hao tổn? Ðó là thực phẩm (đồ ăn thức uống), và tài vật thuộc về Thường Trụ. Phàm những người chưa xuất gia mà đến ở trong chùa, thì cần phải biết cúng dường cho chùa. Nếu quý vị ở chùa vài ngày rồi bỏ đi, chẳng hề cúng dường Thường Trụ gì cả, như thế tức là quý vị đã "xâm tổn của Thường Trụ" và trong tương lai chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục.
Vậy thì, thế nào mới là không "xâm tổn của Thường Trụ"? Thí dụ quý vị đến ở trong chùa và có thể cúng dường Thường Trụ một số tiền tương đương với phí tổn mà quý vị phải trả nếu ở trọ nơi khác; như thế thì quý vị không "xâm tổn của Thường Trụ." Do đó, tôi chủ trương rằng tất cả các đệ tử quy y của tôi, hễ đến bất cứ đạo tràng nào thì cũng đều phải nỗ lực trợ giúp đạo tràng đó và tuyệt đối không được xâm tổn của Thường Trụ!
"Xâm tổn của Thường Trụ" tức là bóc lột tài sản của chùa, làm cho tài sản của chùa bị hao hụt, sút giảm. Chúng ta đã không giúp đỡ được thì thôi; chứ đừng bao giờ xâm phạm, gây tổn thất cho chùa. Những người không hiểu Phật Pháp cứ cho rằng ở trong chùa thì khỏi tốn kém gì cả, nên tha hồ lợi dụng cơ hội! Ðiều này, nếu chưa hiểu Phật Pháp thì còn có thể châm chế cho được; nhưng sau khi đã hiểu Phật Pháp rồi thì dứt khoát là không nên xâm tổn của Thường Trụ nữa!
Ðừng nói là người tại gia, ngay cả tôi tuy là kẻ xuất gia, song hễ đến trú ở bất cứ Thường Trụ nào, tôi đều có cúng dường đôi chút. Thí dụ, nếu ở nhà trọ mỗi ngày phải trả năm đồng, thì tôi cúng dường cho Thường Trụ đó một nửa số tiền, tức là ba đồng. Ở lại chùa nào tôi cũng đều cúng dường cả, trừ phi chính mình thật sự không có tiền mà thôi. Nếu quý vị quả thật là không có tiền thì không sao, nhưng nếu có tiền thì chớ nên xâm tổn của Thường Trụ; cho dù là người xuất gia cũng không nên xâm tổn của Thường Trụ. Bởi Thường Trụ ví như đại địa, là nơi trú ngụ của đại chúng; nếu quý vị phá hoại, phung phí của Thường Trụ, khiến cho đại chúng bị thiếu thốn, không đủ ăn, thì quý vị có tội rất lớn. Riêng cá nhân mình thì dẫu có đói đến chết cũng chẳng hề chi, nhưng nếu quý vị làm cho những người xuất gia đang sống trong Thường Trụ này không còn gì để ăn, cũng không được ai cúng dường, tức là quý vị đã "xâm tổn của Thường Trụ" vậy. Bởi "dân dĩ thực vi thiên"—người dân xem cái ăn là trời, xem sự no cơm ấm áo là điều thiết yếu—cho nên, nếu quý vị khiến cho người khác không còn gì ăn, tức là quý vị đã tạo tội rồi vậy.
Cho nên chúng ta, những người nghiên cứu Phật Pháp, hễ ở lại bất cứ chùa nào thì đều nên tùy khả năng mà cúng dường cho chùa đó, không nên xâm tổn của Thường Trụ. Quý vị tạm trú tại chùa, cúng dường dù có ít so với tiền thuê phòng trọ, thì cũng được coi như quý vị đã hết lòng; chớ nên chỉ ở rồi bỏ đi, chẳng cúng dường một chút gì cả!......
"Làm nhơ nhuốc Tăng Ni." Tăng Ni là những người xuất gia—Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Có nhiều người rất dã man, độc ác, nhẫn tâm làm nhơ nhuốc phẩm hạnh thanh tịnh của Tăng Ni, cưỡng bức các Tỳ Kheo Ni làm điều dâm loạn—những kẻ ấy đều mang tội rất nặng.
"Hoặc tứ tình hành dâm trong chốn Già Lam." "Già Lam" là nơi thanh tịnh yên tĩnh—như đạo tràng, chùa chiền, tự viện. "Tứ" là phóng túng, không tuân giữ quy củ. Không tuân giữ quy củ gì? Ðó là không tuân giữ thanh quy, tùy tiện hành dâm ở chốn đạo tràng thanh tịnh. Những nơi có hình tượng Phật thì không được hành dâm, làm điều ô uế; nếu phạm, thì bị khép vào tội "tứ tình hành dâm."
Thuở trước, có một người nọ mắc phải chứng bệnh nam căn thường bị ung nhọt, lở loét, bèn đến thỉnh vấn ngài Mục Kiền Liên về nguyên nhân bệnh trạng của mình. Tôn Giả Mục Kiền Liên trả lời người ấy rằng: "Bởi trong đời quá khứ ông đã phạm tội ‘tứ tình hành dâm trong chốn Già Lam,’ do đó đời này phải chịu quả báo nam căn thường bị làm độc, ghẻ lở, mắc nhiều chứng bệnh." Ðây là nói về người nam, song nam hay nữ thì cũng vậy—bất luận là ai, hễ không giữ phép tắc thanh quy, tùy tiện làm điều dâm loạn ở chốn đạo tràng, thì đều bị đọa địa ngục cả; đến khi ra khỏi địa ngục, nếu được đầu thai làm người thì nam căn hoặc nữ căn thường bị ung nhọt, hoặc mắc phải các chứng bệnh nan y, không chữa trị được. Cho nên, "nhân nào quả nấy"—quý vị nhất định phải tin ở luật nhân quả; bằng không, sau này sẽ phải nhận lãnh quả báo khổ sở.
"Hoặc giết hoặc hại." Có khi những kẻ độc ác đó, vì việc cưỡng hiếp không thành, bèn nhẫn tâm ám hại hoặc giết chết nạn nhân.
"Hạng người như thế—những kẻ xâm tổn Thường Trụ, ô phạm Tăng Ni, tứ tình hành dâm trong chốn chùa chiền, hoặc giết hại người xuất gia—phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được." Họ cầu mong được thoát khỏi địa ngục song kỳ hạn thì lâu dài đến vô lượng vô biên, không thể tính kể.
Có người cảm thấy rằng Phật Pháp càng học càng khó khăn, càng học càng bị gò bó, mất tự do. Kỳ thực, không học Phật Pháp thì sau này sẽ hoàn toàn bị mất tự do; còn học Phật Pháp thì chỉ hiện tại tạm thời bị mất tự do mà thôi. Bây giờ quý vị học Phật Pháp thì đây chính là lúc thiện căn tăng trưởng; trái lại, nếu không học Phật Pháp thì nghiệp chướng sẽ gia tăng. Nghiệp chướng tăng trưởng thì sự "mất tự do" ấy sẽ là "mất tự do" vĩnh viễn. Song, thiện căn tăng trưởng thì sự "mất tự do" trong hiện tại chỉ là tạm thời, chỉ một thời gian ngắn mà thôi. Nếu quý vị muốn mãi mãi "mất tự do" thì khỏi học Phật Pháp; còn nếu muốn trong tương lai được tự do thì tạm thời chịu khó "mất tự do" đôi chút. Ðối với người học Phật Pháp, sự "mất tự do" này rất ngắn ngủi và không đáng kể; nhưng với kẻ không học Phật Pháp, thì thời gian bị "mất tự do" ấy dài đăng đẳng! Vậy, quý vị hãy tự cân nhắc thiệt hơn, xem mình phải làm như thế nào! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Nghiệp duyên - Duyên nghiệp: Vì sao có "nghiệp"? "Nghiệp" là do thân (hành vi), khẩu (miệng—lời nói) hoặc ý (tư tưởng) gây tạo ra. Nói là "tạo ra," thì tại sao không gọi đó là "nhân" (nguyên nhân), mà lại gọi là "nghiệp"? "Nhân" chỉ có nghĩa là một loại nguyên nhân, lý do của một lần tạo tác mà thôi; còn "nghiệp" là tập hợp do các "nhân" tích lũy lại mà thành. Bởi trong "nghiệp" bao gồm quá nhiều loại "nhân" nên không thể gọi đó là "nhân" nữa, mà gọi là "nghiệp."
"Duyên" là nhân duyên, sự đưa đẩy dẫn đến việc tạo nghiệp. Nhân duyên tạo nghiệp thì nhiều vô số—mỗi chúng sanh đều có một nghiệp duyên khác biệt, cho nên cảnh giới mà mỗi chúng sanh gặp phải cũng không đồng nhất. Chẳng hạn, có chúng sanh thì lúc nào cũng được vui sướng, may mắn; vì sao? Ðó là do trong các đời trước chúng sanh ấy trồng toàn "nhân lành" (thiện nhân), cho nên đời này được hưởng "quả lành" (thiện quả). Lại có những chúng sanh thường phải sống trong cảnh khổ sở khốn cùng, là vì sao? Ðó là vì trong đời trước các chúng sanh ấy không hề gieo "nhân lành," mà chỉ trồng toàn "nhân xấu" (ác nhân); các "nhân xấu" ấy tích lũy lâu ngày trở thành "nghiệp xấu" (ác nghiệp), do đó đời này phải chịu quả báo khổ sở.
Ở đời, trồng thiện nhân thì được thiện quả; gieo ác nhân tất gặp ác báo. Thiện hay ác, tốt hay xấu, thì đều do cá nhân mỗi người tự gây tự tạo, chứ không phải do ai khác chỉ thị, sai khiến. Ngay cả việc thành Phật cũng vậy—chính bản thân quý vị phải nỗ lực dụng công tu tập để có được sự thành tựu, chứ không ai có thể làm thay cho quý vị được cả! Cho nên, nếu bây giờ quý vị tinh tấn dụng công tu hành tức là quý vị đang tinh tấn gieo trồng "nhân" Phật, và trong tương lai quý vị sẽ được thành Phật (tức là kết thành "quả" Phật). Nói cách khác, hễ quý vị tạo Phật nghiệp thì tương lai sẽ thành Phật, còn nếu tạo ma nghiệp thì tương lai chắc chắn sẽ làm ma làm quỷ! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Làm Thân Phật chảy máu. Tội ngũ nghịch
"Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh, kẻ đó cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được."
Lược giảng:
"Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu..." Ðây chỉ là giả thiết, ví dụ là có hạng chúng sanh phạm một tội ác như thế mà thôi. Thế nào gọi là "làm thân Phật chảy máu" (xuất Phật thân huyết)? Hiện nay Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập Niết Bàn rồi, thì làm sao có thể bị chúng sanh "làm thân Phật chảy máu" được? Vả lại, chúng ta không sanh vào thời Ðức Phật còn tại thế, cũng không gặp được Phật, thì làm sao có thể "làm thân Phật chảy máu" được?
Vào thời Ðức Phật còn tại thế, thì "làm thân Phật chảy máu" có nghĩa là làm cho thân thể của Phật bị tổn thương, gây thương tích cho Phật. Còn sau khi Phật nhập Niết Bàn, thì "làm thân Phật chảy máu" tức là phá hủy tượng Phật, như cố tình làm sứt mất một lỗ tai hoặc làm gãy một ngón tay... của tôn tượng. Ngay cả thiêu đốt các tranh vẽ hình Phật bằng giấy cũng thế, đó cũng chẳng khác nào "làm thân Phật chảy máu" vậy! Tội này vốn không thể sám hối mà tiêu tan được, song có thể tùy theo tình huống mà có sự "khai duyên." Chẳng hạn nếu do say rượu, mắc bệnh điên cuồng hoặc tâm trí rối loạn bất thường, mà phạm phải, thì được xem là ngoại lệ, không bị khép vào thứ tội này. Tuy nhiên, nếu viện cớ mình tinh thần bất ổn hoặc là say rượu, rồi cố ý làm càn, thì nhất định là có tội. Nếu quý vị do vô tình mà trót phạm, thì nghiệp tội có nhẹ bớt phần nào.....
..... Lại có một lần Ðề Bà Ðạt Ða dùng thần thông để ám hại Phật. Bởi Ðề Bà Ðạt Ða cũng có thần thông, cho nên một hôm nọ, nhân lúc Phật đang trên đường tới núi Linh Thứu, ông xô núi cho lở ra để đá lăn đổ xuống, chủ ý là đè Ðức Phật đến tan xương nát thịt. May thay, ngay khi ông ra tay đẩy núi, thì vị Kim Cang Lực Sĩ (cũng chính là vị sơn thần giữ núi Linh Thứu, tên là Bối Lạp) trông thấy; và thế là từ đàng xa, Thần Bối Lạp giơ chùy Kim Cang ra đỡ lấy núi, khiến bao nhiêu đá núi đều văng ngược trở lại. Ðá bị vỡ vụn văng tung tóe, và có một hòn đá nhỏ văng trúng đầu ngón chân út của Phật, làm cho rách da chảy máu—đây chính là "làm thân Phật chảy máu." Lần này thân Phật có bị chảy máu song cũng không hề gì; tuy nhiên, liền ngay lúc đó, có một chiếc xe hừng hực lửa của địa ngục chạy đến, Ðề Bà Ðạt Ða bị bắt sống và áp giải về địa ngục.
Ðề Bà Ðạt Ða vừa "làm thân Phật chảy máu" thì liền bị đọa địa ngục ngay lúc còn sống, phải mang nhục thân vào địa ngục. Người đời nay, nếu thiêu đốt hình Phật, phá hủy tượng Phật, hoặc đập phá chùa chiền, tháp miếu thờ Phật, thì đều bị xem là phạm cùng một tội với Ðề Bà Ðạt Ða—tức là "làm thân Phật chảy máu" vậy.
"Hủy báng Tam Bảo." Thế nào gọi là "hủy báng Tam Bảo"? Chúng ta, những người tin Phật, phải nhớ kỹ là chớ phạm tội này—tuyệt đối đừng bao giờ khinh chê Tam Bảo, nói xấu Phật Pháp Tăng.
Trong Giới hạnh Bồ Tát có giới điều "không rao nói lỗi của Tứ Chúng." Tứ Chúng là gồm có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Người đã thọ Bồ Tát Giới thì không được rêu rao, bàn tán về những lỗi lầm, sai sót của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Chính bản thân mình không nói đã đành, nếu bắt gặp người khác nói lỗi của Tứ Chúng thì quý vị cũng đừng góp chuyện hoặc nói hùa theo, mà phải như là mình không nghe thấy gì cả vậy. Vì sao? Vì nếu quý vị hùa theo họ mà bàn ra tán vào thì quý vị cũng sẽ mắc tội "hủy báng Tam Bảo," và đồng thời phạm luôn cả tội "rao nói lỗi của Tứ Chúng." Do đó, tốt nhất là cứ ngậm miệng làm thinh!
Ngoài ra, kiến giải của phàm phu chúng ta thường hay có chỗ sai lầm, bên cạnh đó, cảnh giới của hàng thánh nhân lại không phải là những gì mà phàm phu chúng ta có thể biết rõ được—chẳng hạn như bậc Sơ Ðịa Bồ Tát thì không thể biết được cảnh giới của hàng Nhị Ðịa Bồ Tát, Thập Ðịa Bồ Tát thì không thể biết được cảnh giới của Ðẳng Giác Bồ Tát, Sơ Quả A La Hán thì không thể biết được cảnh giới của Nhị Quả A La Hán... Cho nên, khi chưa có được trí huệ chân chánh thì chúng ta không nên sanh tâm hủy báng Tam Bảo, và cũng đừng rao nói lỗi của Tứ Chúng. Cho dù họ rõ ràng là có lỗi, quý vị cũng chớ vội phê phán; vì sao? Quý vị biết được cái sai của người ta, thì hãy lấy đó mà răn mình để tránh và làm cho đúng là được rồi; chứ đừng như cái máy chụp hình, toàn lo chụp hình cho người khác, còn chính mình hình thù như thế nào thì lại không hay không biết!
Giảng đến đây, tôi nhớ đến một công án về Chí Công Thiền Sư, đời vua Lương Võ Ðế ở Trung Hoa. Ðương thời, mỗi ngày Chí Công Thiền Sư đều ăn hai con chim bồ câu. Thấy thế, người đầu bếp nghĩ rằng thịt bồ câu hẳn là ngon lắm, và một hôm anh ta lén ăn bớt một cái cánh của chim bồ câu. Chí Công sau khi ăn hết hai con bồ câu thì hỏi anh ta: "Tại sao ngươi ăn vụng thịt bồ câu của ta?"
Người đầu bếp liền chối: "Bạch Thầy, con đâu dám làm thế!"
Chí Công gặn hỏi: "Không phải sao? Ông xem này!" Nói xong, Ngài há miệng và khạc ra hai con chim bồ câu—một con vỗ cánh bay đi liền, còn con kia thì không bay đi được vì bị thiếu mất một cái cánh! Và Ngài hỏi tiếp trước sự sửng sốt của người đầu bếp: "Nếu ông không ăn thì cánh của con chim này mất đi đâu?"
Quý vị xem, cùng là ăn thịt chim bồ câu đã được nấu chín và chặt nhỏ, mà Chí Công Thiền Sư thì có thể khạc ra lại nguyên vẹn con bồ câu còn sống; còn người đầu bếp thì không có được khả năng ấy—ăn vào bụng rồi là thôi, chẳng thể làm cho nó sống lại được. Cho nên, cảnh giới của Chí Công Thiền Sư là "ăn mà như không ăn" vậy.
... Một lần nọ, trong chùa tạc một pho tượng Phật và muốn thếp vàng. Tế Công Thiền Sư hay tin liền bạch với Hòa Thượng phương trượng: "Xin Hòa Thượng cho phép tôi thếp vàng pho tượng Phật này, khỏi phải kêu mướn ai cả!"
Hòa Thượng phương trượng bằng lòng. Thế nhưng đợi mãi vẫn không thấy Tế Công thếp vàng cho pho tượng, vị Sư quản lý bèn nhắc: "Ông muốn thếp vàng tượng Phật này, nhưng sao chờ mãi mà không thấy ông làm gì cả?"
Tế Công nói: "Vâng, tôi sẽ làm ngay."
Ðến tối hôm ấy, Tế Công lại cũng uống rượu say mèm như mọi khi, rồi đợi cho mọi người đều đi ngủ cả, Ngài đến trước pho tượng Phật mới tạc và há miệng khạc vàng ra rồi phun lên pho tượng. Bấy giờ, khi toàn thể bức tượng đã được bao phủ bởi một lớp vàng sáng lóng lánh, chỉ còn sót một chỗ trên đỉnh đầu mà thôi, thì vị Sư quản lý nghe thấy tiếng khạc nhổ om sòm của Tế Công, bèn tức tốc chạy đến xem và trách móc: "Sao ông lại cả gan đến thế? Ông dám nhổ đờm lên tượng Phật à?"
Tế Công chỉ nói: "Thế à? Thôi, tôi không nhổ nữa"; và bỏ đi.
Hôm sau, mọi người ra xem thì thấy tượng Phật đã được thếp vàng xong xuôi, chỉ còn sót một chỗ nhỏ trên đỉnh đầu mà thôi. Vì thế, trong chùa phải gọi người thợ chuyên môn thếp vàng đến làm nốt cho xong; nhưng lớp vàng đắp thêm đó lại không đẹp bằng vàng mà Tế Công khạc nhổ ra!
Quý vị xem, cảnh giới của hàng A La Hán thật là không thể nghĩ bàn! Do đó, chúng ta là những người tin Phật thì không nên ngồi lê đôi mách, rao nói lỗi của Tứ Chúng. Bởi nếu đối tượng mà quý vị xúc phạm là người bình thường thì có thể không hề gì, nhưng nếu nhằm bậc thánh nhân đã chứng quả thì quý vị sẽ mang tội. Mang tội thì sẽ ra sao? Thì quý vị sẽ bị đọa địa ngục!......
Những nghiệp tội "làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh" là như nhau, cho nên kẻ nào có những hành vi này, thì "kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được." Do đó, mọi người phải nhớ kỹ đoạn kinh văn vô cùng quan trọng này. Người học Phật nhất định phải luôn luôn tôn kính Tam Bảo, quý trọng kinh điển, và không làm thân Phật chảy máu! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Tội hủy báng Tam Bảo. Tội ngũ nghịch
"Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh, kẻ đó cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được."
Lược giảng:
Tại sao có những người muốn hủy báng Tam Bảo? Ðó là vì họ không có tín tâm! Nguyên nhân nào khiến những kẻ ấy không có tín tâm? Tùy theo trường hợp, có lúc là do họ giao du nhằm bạn xấu mà ra. "Bạn xấu" là bao gồm những kẻ xấu xa, ác độc, không hiểu Phật Pháp. Những kẻ ác không hiểu Phật Pháp thì thường hủy báng Tam Bảo, do đó nếu người nào kết giao với họ thì cũng bị tiêm nhiễm, dần dần cũng có thói khinh chê, hủy hoại Tam Bảo như họ vậy.
Ngoài ra, những người siểm khúc, ngu si cũng thường hủy báng Tam Bảo. Thế nào gọi là "siểm khúc"? "Siểm khúc" là siểm nịnh, nịnh nọt—người thời nay thường nói là "tâng bốc, bợ đỡ." Như có những người không tiếc lời ca tụng, tấm tắc khen ngợi quý vị, để được quý vị tin yêu, rồi sau đó lợi dụng sự tin yêu của quý vị để mưu đồ lợi lộc riêng tư—như thế gọi là "siểm khúc," bởi tâm địa của họ vốn khúc mắc quanh co, gian manh xảo trá, chứ không phải ngay thẳng, thành thật. Vì sao họ lại siểm khúc như thế? Bởi vì họ ngu si! Song le, những kẻ ngu si đó lại tự cho rằng mình vô cùng thông minh tài trí, nên ôm trong lòng một nỗi "thông minh mạn"—kiêu hãnh, ngạo mạn về trí thông minh hão của mình!
"Thông minh mạn" cũng chính là "tăng thượng mạn"—là thứ kiêu căng ngã mạn giống như của năm ngàn người bỏ ra về, không dự Pháp Hội thuyết Kinh Pháp Hoa vậy. Người "tăng thượng mạn" mang trong lòng mối "thông minh mạn"—họ có phần nào thông minh, song rất kiêu ngạo, xem thường người khác, coi ai cũng không bằng mình. Do thói ngạo mạn về trí thông minh của mình, nên họ không tin Chánh Pháp, lại còn khinh chê, hủy báng giáo lý của Ðức Phật, "móc" bỏ Pháp Nhãn của chúng sanh. Tại sao nói như thế? Bởi chúng sanh vốn có Trạch Pháp Nhãn (con mắt, khả năng biết chọn lựa Pháp), nhưng họ lại muốn làm cho chúng sanh mất phương hướng, lầm đường lạc lối, như thế thì có khác nào cầm dao khoét mất "con mắt" Trạch Pháp Nhãn của chúng sanh?
Những kẻ làm cho chúng sanh không còn Trạch Pháp Nhãn này, trong tương lai sẽ bị quả báo thân thể có khuyết tật hoặc tàn phế, như không có tay hoặc không có chân. "Không có chân" tức là mắc bệnh liệt hoặc bệnh khoèo, và thường là không đi đứng được hoặc chỉ đi khập khiểng. Họ cũng có thể phải chịu quả báo bị câm, tuy có lưỡi nhưng không nói được. Vì sao có người bị câm? Quý vị cần phải lưu ý điểm này—người câm trên thế gian này đều là do hủy báng Tam Bảo mà ra!
Những kẻ hủy báng Tam Bảo sẽ bị đọa vào địa ngục và ở đó thọ tội trong suốt hai ức năm, rồi mới được đi đầu thai; đầu thai làm thân gì? Họ phải đầu thai làm thân súc sanh như ngựa, trâu, dê, gà, chó... ; và họ phải mang thân súc sanh như thế suốt hai ức năm, rồi sau đó mới được làm người trở lại. Bấy giờ, tuy họ được mang thân người song sáu căn không toàn vẹn—như bị đui mù, không có mắt; hoặc bị điếc, không nghe thấy gì cả; hoặc bị câm, có lưỡi mà không nói được, chẳng khác gì không có lưỡi vậy... Nói tóm lại, những người mà đời này lục căn bị khiếm khuyết hoặc tướng mạo xấu xí, đều là do trong đời quá khứ họ đã từng chê bai, hủy báng Tam Bảo. Lúc sống, họ phải chịu đựng vô lượng đau khổ đắng cay như thế, và sau khi chết họ lại còn bị đọa vào địa ngục Vô Gián nữa. Ðó là nói về quả báo do hủy báng Tam Bảo.
"Chẳng kính tôn kinh." Ðây là điều chúng ta cần phải chú ý—phàm là kinh điển của Phật, chúng ta nhất định phải tôn kính, quý trọng. Kinh Kim Cang có dạy:
"Phàm nơi nào có kinh điển thì nơi đó có đức Phật."
(Phàm thị kinh điển sở tại chi xứ, tức vi hữu Phật.)
Ở đâu có kinh điển thì ở đó có Phật. Kinh điển là nơi an trụ của Pháp Thân chư Phật, do đó chúng ta phải hết lòng cung kính. Nơi cất giữ kinh điển cần phải được thu dọn cho sạch sẽ, ngăn nắp, không nên để bừa bãi. Kinh Phật phải được đặt ở nơi cao ráo và bên trên tất cả các loại kinh điển hoặc sách vở phổ thông khác, và phải để về phía đầu nằm chứ không được để ở phía chân; bằng không, nếu để ở dưới thấp, tức là không cung kính. Ngoài ra, giường ngủ là nơi không được sạch sẽ nhất, cho nên phải nhớ kỹ là không nên để kinh điển trên giường. Phàm là kinh Phật hoặc sách Phật, chúng ta đều phải cung kính, tôn trọng—phải cung kính kinh điển như cung kính Phật vậy. Không cung kính kinh điển tức là không cung kính Phật, và như thế cũng chính là hủy báng Tam Bảo vậy.
Những nghiệp tội "làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh" là như nhau, cho nên kẻ nào có những hành vi này, thì "kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được." Do đó, mọi người phải nhớ kỹ đoạn kinh văn vô cùng quan trọng này. Người học Phật nhất định phải luôn luôn tôn kính Tam Bảo, quý trọng kinh điển, và không làm thân Phật chảy máu! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Hiếu thuận làm đầu - Xuất gia tu hành là đại phúc: Phải chăng ngày ngày chúng ta mua cho cha mẹ vài món ngon vật lạ, dăm bộ quần áo mới, tức là có hiếu rồi? Chưa phải! Ðó chỉ là "hình thức," là lớp vỏ ngoài của sự hiếu thuận mà thôi. Vậy thì "nội dung" của hiếu thuận là gì? Chúng ta phải "lấy thuận làm hiếu"—chiều theo tâm ý và nguyện vọng (Chánh đáng, chánh đạo) của cha mẹ mình. Cha mẹ vui thì mình cũng nên vui, những gì cha mẹ yêu thích thì mình cũng nên mến chuộng.
Xuất gia tu hành là một hành động thể hiện lòng "đại hiếu," bởi đó chính là hạnh hiếu thảo vĩ đại nhất, cao cả nhất. Có câu:
"Một người con về cửa Phật, tổ tiên chín đời được lên cõi trời."
Nếu quý vị xuất gia tu Ðạo thì tất cả tổ tiên trong chín đời đều nhờ công đức tu hành của quý vị mà được siêu thăng lên cõi trời. Cho nên, xuất gia không phải là chỉ báo hiếu cho cha mẹ hiện đời, mà còn báo hiếu cho cả cha mẹ và tổ tiên trong những đời quá khứ nữa! Tuy nhiên, quý vị xuất gia mà phải chân chánh tu hành thì mới báo hiếu được; còn nếu quý vị cứ giải đãi, không tinh tấn dụng công tu tập, thì "cửu tổ" của quý vị vẫn phải đọa địa ngục ... Họ than thở với nhau rằng: "Tôi cứ tưởng là có được đứa cháu xuất gia tu Ðạo thì chúng ta sẽ nhờ đó mà được thăng thiên. Ngờ đâu đứa cháu này lại chẳng chuyên cần tu tập, suốt ngày chỉ biết ngủ với nghỉ, vô cùng lười biếng! Giờ đây những nghiệp tội của chúng ta không được xá miễn chút nào cả, và chúng ta vẫn phải tiếp tục trầm luân trong địa ngục." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Người Hiếu Thảo - Có Hiếu - Báo Hiếu Cha Mẹ Đúng
1. Ngày Cha Mẹ trong Phật giáo: Ngày rằm tháng 7 hàng năm, noi theo gương hiếu của đức Mục Kiền Liên, long trọng tổ chức đại lễ Vu Lan Bồn, để tưởng nhớ và báo đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ - Ngày Cha Mẹ trong Phật giáo.
+ Năm trách nhiệm hiếu thảo
(1) Tôi nuôi dưỡng cha mẹ: Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất ở đây bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.
(2) Làm tròn bổn phận đối với cha mẹ: Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau. Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ/chồng, con cái chu đáo, thăm viếng cha mẹ khi có thời gian, phụng dưỡng đời sống vật chất cho cha mẹ,…
(3) Giữ gìn truyền thống gia đình: Lời dạy trên không chỉ kêu gọi ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát huy các truyền thống tốt đẹp của một gia phả, một làng xóm, một cộng đồng, một sắc tộc, một quốc gia mà thôi. Điều này có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa của tổ chức UNESCO. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần về phương diện vật chất.
(4) Bảo vệ tài sản thừa tự: Nếu “duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia” là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu. Theo tinh thần Phật dạy thì “bảo vệ tài sản thừa tự” là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính Tam bảo thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật, Pháp, Tăng, trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều kích hơn.
(5) Chu toàn tang lễ của cha mẹ đúng pháp: Điều hiếu thảo cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là khi cha mẹ qua đời, con cái phải tổ chức tang lễ cho cha mẹ một cách chu toàn và đúng pháp. Đúng pháp ở đây theo tinh thần lời Phật dạy là con cái không hiến tế súc vật, cúng tam sên, trổ nhạc tây nhạc tàu, thuê người khóc mướn, tổ chức ca hát xướng, không cúng đạo lộ, mở cửa mả. Trong thời gian tang lễ, con cái không nên khóc lóc, than vãn mà trái lại nên chánh niệm tỉnh giác trước cơn vô thường sinh ly tử biệt để hỗ trợ cho cha mẹ không còn quyến luyến tình cảm thế gian, vãng sinh một cách nhẹ nhàng và dễ dàng.
+ Hai phương diện báo hiếu
1. Báo hiếu về phương diện vật chất
Trước nhất những người con nên báo đáp công ơn sinh thành của cha mẹ bằng của cải vật chất, tiền bạc, sự chăm sóc, thăm viếng và lòng thương kính. Nuôi dưỡng cha mẹ bằng tất cả khả năng của mình. Phật tử sẽ nhận thức được rằng “không có thứ hạnh phúc nào to lớn và quý báu cho bằng thứ hạnh phúc khi cha mẹ còn sống với ta”.
Trong kinh Dhananjani, tôn giả Xá Lợi Phất thay lời Đức Phật giải thích cho Bà-la-môn Dhananjani về cái sai và cái đúng, cái nên làm và cái không nên làm trong vấn đề phụng dưỡng cha mẹ: “Này Dhananjani, người con hiếu thảo không nên vì cha mẹ mà làm các điều phi pháp, bất chính. Trước sự phán xét của nhân quả, người ấy không thể viện lý do vì muốn cho cha mẹ sung sướng, vui lòng để bào chữa cho mình là vô tội. Hành động như vậy sẽ bị đọa lạc dù nó có khóc than hay cha mẹ nó có van xin hay kể lể”.
Chính vì thế chúng ta thấy hành động hiếu thuận, hiếu dưỡng của người con chí hiếu phải được thiết lập trên đạo đức nhân quả và luật pháp. Người con hiếu chỉ làm những gì thật sự có lợi cho cha mẹ và có lợi cho mình mà không gây bất cứ tổn hại nào cho tha nhân. Tiêu chí báo hiếu đó được đoạn kinh dưới đây mô tả thật cô đọng và đủ nghĩa:
“Này Mahanam, người con hiếu với những tài sản mà mình đã nỗ lực thu hoạch được, do sức mạnh của đôi tay, bằng những giọt mồ hôi đổ ra một cách hợp pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường cha mẹ với thiện ý thì sẽ được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và hằng cầu mong cho con được sống lâu, mạnh giỏi. Này Mahanam, người con hiếu được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và mong cầu như vậy thì gia đình ấy chắc chắn sẽ thịnh vượng, không bao giờ bị suy giảm”.
Trong kinh Thọ giáo Thi-ca-la-việt, Đức Phật đã nêu ra năm tiêu chí đạo đức phù hợp với chánh pháp mà một người con hiếu thảo cần phải thực hiện để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Năm tiêu chí đó như sau: “Hiếu dưỡng cha mẹ đúng pháp; Làm tròn bổn phận con cái; Giữ gìn gia phong và truyền thống; Bảo vệ tốt các tài sản thừa tự và Chu đáo tang lễ khi cha mẹ qua đời”.
Theo Đức Phật, người con hiếu thảo đền ơn cha mẹ bằng đời sống đạo đức của mình. Sự báo hiếu đó phải bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần. Bởi lẽ mục đích của cuộc sống nhân sinh không chỉ phải là có được chén cơm manh áo mà thôi. Người ta phải cần đến chân lý, đạo đức và đời sống tinh thần như cây cỏ cần ánh sáng, con người cần không khí để sống vậy. Do đó báo hiếu chỉ đơn thuần về phương diện vật chất sẽ có giá trị giới hạn so với báo hiếu về phương diện tinh thần.
2. Hiếu thảo về phương diện tinh thần
Người con hiếu thảo phải tự nỗ lực gột bỏ các bợn nhơ của tâm lý như tham lam, sân hận, si mê, từ bỏ sự giết chóc, gạt người cướp của, không quan hệ tình cảm bất chính, không nói láo, không uống rượu và các chất kích thích tố có hại cho sức khỏe và tâm trí, nỗ lực làm các việc thiện đem lại lợi ích cho mình và tha nhân. Nói chung hiếu thảo trước nhất là biết cách hoàn thiện nhân cách đạo đức cho chính mình, để cha mẹ an tâm, hoan hỷ và hãnh diện.
Theo Đức Phật, người con có hiếu thảo không phải là người con “cha mẹ đặt đâu thì ngồi đó” hay chỉ biết “vâng dạ nuông chiều”. Trái lại, người con hiếu phải có đầy đủ bản lĩnh, sẵn sàng và khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về con đường chân chính, lợi ích, để cha mẹ thật sự an lạc: “Nếu cha mẹ cố chấp, si mê tà kiến, không tin Tam bảo, hung hiểm bạo ngược, tàn ác bất nhân, gây nhiều nghiệp dữ, người con có hiếu phải biết khuyên can cha mẹ, khiến sinh tín tâm, quay về chánh đạo, gần gũi bạn lành, mở lòng Bồ Đề, tu thiền niệm Phật, làm cho cha mẹ thường được an ổn”.
Trong kinh Tăng Chi, Đức Phật cũng dạy tương tự: “Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ -kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ Kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha”.
Như vậy, hiếu thảo trong đạo Phật không chỉ đơn thuần đáp ứng cho cha mẹ đời sống vật chất, tiền bạc, sự cung phụng và vâng lời. Hiếu trong Phật giáo được đặt vào trong mục tiêu hướng đến đời sống đạo đức và trí tuệ của cha mẹ và bản thân. Hiếu như vậy thật sự là một thiện pháp, để cha mẹ và con cái cùng bước đi trên con đường chân–thiện–mỹ, an lạc và hạnh phúc trong chánh pháp của Đức Phật. (Nguồn: Chữ Hiếu- Thích Nhật Từ)
+ Báo hiếu tối thượng: “Phật hỏi các Thầy Sa môn: Con nuôi cha mẹ, lấy cam lồ trăm vị làm thức ăn, dùng thiên nhạc làm vui tai, sắm y phục hảo hạng mặc nơi thân, vai cõng cha mẹ đi khắp bốn phương, suốt đời phụng dưỡng như vậy, đáng gọi là hiếu chăng? Các Thầy Sa môn thưa: Người này là đại hiếu.
Phật dạy: Chưa gọi là hiếu.
Phật bảo các Thầy Sa-môn : Xem người thế gian không có hiếu thảo, chỉ thế này mới gọi là hiếu: Hãy khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, thọ tam Quy giữ ngũ Giới. Dù cha mẹ sớm mai thọ trì quy giới , chiều về cõi chết , đối với ơn nặng cha mẹ nuôi dưỡng , cũng gọi tạm đền”. (Nguồn: Kinh Hiếu Tử)
+ Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân: Đức Phật dậy về người mẹ mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày thai nhi thành hình, sinh thành dưỡng dục. Con hiếu thảo thì con chuyển thuận ngôi, mẹ sanh rễ dàng. Con ngỗ nghịch bất hiếu thì mẹ sanh đẻ trong dãy đạp, đau đớn tột cùng rồi mới chào đời .... Ai biên chép thọ trì đọc tụng Kinh này công đức vô lượng, cũng là cách báo hiếu chân chánh. (Nguồn: Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân)
+ Xem bài viết tổng hợp về Chữ hiếu - Các tấm gương hiếu thảo mang lại sự cát tường nhiệm mầu, khỏi bệnh và họa hoạn: Mời xem tại đây
+ Kinh Thiện Sanh: Đức Phật dậy về Đạo Đức và Bổn Phận:
+ Tránh 4 việc ác và 6 việc làm hao tổn tài sản
- Bốn nghiệp kết: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ
- Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy)...
- Sáu nghiệp hao tổn tài sản:
1. Đam mê rượu chè./
2. Cờ bạc./
3. Phóng đãng./
4. Đam mê kỹ nhạc./
5. Kết bạn người ác./
6. Biếng lười.
+ Bốn hạng kẻ thù và bốn hạng người đáng thân
+ Lễ bái sáu phương hay xây dựng một xã hội hạnh phúc
* BỔN PHẬN LÀM CON - Hiếu đứng đầu:
1. Không oán trách cha mẹ không có năng lực
2. Không oán trách cha mẹ hay cằn nhằn
3. Không oán trách cha mẹ mắng mình
4. Không oán trách cha mẹ chậm chạp
5. Không oán trách cha mẹ ốm yếu
II- BỔN PHẬN CHA MẸ VỚI CON
III- BỔN PHẬN GIỮA VỢ CHỒNG
IV- BỔN PHẬN DÒNG TỘC
V- BỔN PHẦN THẦY TRÒ
VI- BỔN PHẬN BẠN BÈ VÀ LÀNG XÓM
+ Quan hệ chủ tớ, trên dưới
+ Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn
Xem: Kinh Thiện Sanh
+ Chúng sinh/ Chúng sanh: Sattva (Bắc Phạn), Creatures.
- Tát đóa, tát đỏa: Sattva (chúng sinh).
+ Chúng Sinh Hữu Tình: Nếu chỉ nói hết thảy chúng sanh, Tứ Thánh pháp giới ngoài sáu nẻo cũng là chúng sanh, cũng thuộc về chúng sanh hữu tình; nhưng khi thêm chữ "chưa giải thoát‟ bèn chuyên chỉ chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi
* Trí huệ là quán sát minh liễu, định lực là chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc, phải đến cảnh giới này thì con người mới không tạo nghiệp => Mới mong Tu hành giải thoát (Trích: A DI ĐÀ PHẬT-KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN tập 10- PS TỊNH KHÔNG GIẢNG.)
+ Chúng Sinh trong Luân hồi lục đạo: Ðức Phật dạy: Ta quan sát chúng sinh trong luân hồi lục đạo, cùng nhau ở trong sinh tử, chung nhau nuôi sống, đắp đổi làm cha mẹ, anh chị em với nhau… Họ cũng có thể sinh vào đường khác, đường thiện, đường ác, thường làm quyến thuộc lẫn nhau. Do nhân duyên đó, ta quan sát thấy TẤT CẢ THỊT MÀ CHÚNG SINH ĂN ĐỀU LÀ THỊT NGƯỜI THÂN CỦA HỌ. (*Lục đạo: thiên nhân, người, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, chúng sinh địa ngục) _ Kinh Lăng Già
+ Các Hạng chúng sanh: ... đức Phật nói: Này các Tỷ-kheo, sau khi biết được lời Phạm thiên yêu cầu (Phật hãy Thuyết pháp), vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước.
Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:
Cửa bất tử rộng mở,
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp,
Giữa chúng sanh loài Người.
(Ôi Phạm thiên) . Nguồn: 26.Kinh Thánh cầu
+ Chúng sanh - Chúng sinh
... Hạt giống chủng tử được phân ra làm hai loại là: Chủng tử hữu tình và chủng tử vô tình.
Chủng tử hữu tình có thể sanh ra bốn loại động vật như: thai, noãn, thấp, hóa.
Chủng tử vô tình sẽ sanh ra thảo mộc thực vật và các loại khoáng chất như sắt, đá.
Chúng sanh hữu tình là loài có tình có tánh.
Chúng sanh vô tình là loài không có tình nhưng có tánh, gọi là: “Hữu tình vô tình, đồng viên chủng trí.”
Tánh của hữu tình và vô tình thì tương thông với nhau, vì chúng vốn là một. Vô tình là tạm thời vô tình, nếu chúng có thể phản bổn hoàn nguyên trở lại bản thể, chúng cũng sẽ biến thành hữu tình. Nhưng việc nầy không phải dễ dàng vậy đâu, vì chúng phải trải qua một thời gian rất lâu mới có cơ hội phản bổn hoàn nguyên được. Cơ hội đó giống như một hạt bụi rất nhỏ trong ba ngàn đại thiên thế giới đấy. Vả lại cho dù chúng nó có chuyển thành chúng sanh hữu tình đi nữa, chúng cũng đều là loài động vật hạ cấp như con lăng quăng, con trùng, con kiến mà thôi.
Chúng ta tuy là loài hữu tình, nhưng chỉ là tạm thời chứ không phải vĩnh viễn. Nếu như chúng ta không làm người tốt thì linh tánh sẽ biến hóa suy tàn, rồi hóa thành loài thực vật vô tình. Do đó, các cây cổ thụ đều có quỷ thần trú ngụ ở bên trong. Tại sao? Bởi vì cổ thụ và quỷ thần có sự gắn bó tương thông với nhau. Người và quỷ thần cũng gắn bó tương thông với nhau, không có gì ngăn cách. Người tu hành phải hiểu rõ đạo lý nầy, đừng nên đọa lạc làm loài thực vật. Thực vật tuy có tánh, nhưng chúng không dễ gì biến thành loài hữu tình.
Hỡi các em học sinh! Mọi người đều có thể phản bổn hoàn nguyên, đều có thể thành Phật, chỉ cần các em sớm phát Bồ Đề tâm và cố gắng dụng công tu hành; nếu không, đến khi các em bị đọa lạc vào loại vô tình, biến thành loài thực vật rồi mà muốn tu hành thì khó lắm đấy. Lúc đó các em có hối hận cũng đã quá muộn màng!
Giảng ngày 6 tháng 3 năm 1984 (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị- Mục 26)
+ Lục đạo luân hồi: Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép: "Dương tử vi nhân, nhân tử vi dương." (Dê chết trở làm người, người chết trở làm dê.) (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng - Vô Lượng Thọ Phật)
+ Chúng sanh: Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sánh: "Chúng" có nghĩa là nhiều; "sanh" tức là sinh ra. Bởi do năm nhân tố—Sắc (hình sắc), Thọ (cảm thọ), Tưởng (suy nghĩ), Hành (hành vi), Thức (ý thức)—buộc ràng mà tạo thành thân thể, và do tác động của nhân duyên cảnh giới mà sinh ra, nên gọi là "chúng sanh." (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phân thân (Emanation): Một dòng thần lực tức là một phân thân. (LVLCK, 69)
+ Phân thân (Fission, nứt ra):
a/ Việc chia làm 2 của đốm nguyên sinh chất thuần chất, thấy có ở loài moneron (sinh vật đơn bào không nhân) hoặc là con a–mip (amoeba).
b/ Tế bào có nhân tách ra làm 2 nhân nhỏ, mỗi nhân nhỏ hoặc là phát triển bên trong vách tế bào nguyên thủy, hoặc xé rách vách tế bào đó và phát triển ở bên ngoài như là các thực thể độc lập. (Cách sinh sản của căn chủng thứ nhất cũng như thế).
+ Ba luồng phân thân: Xuất phát từ Thượng Đế 3 ngôi (Tam vị nhất thể) đặt ngoài khung thời gian và không gian 7 cõi Thái Dương hệ chúng ta. Mỗi 1 trong 3 ngôi có 1 phân thân (LVLCK, 123):
- Luồng 1: Giáng xuống từ ngôi 3 - Đường thẳng, xuống tận cùng vật chất trọng trượt nhất.
- Luồng 2: Giáng xuống từ ngôi 2 - Đi xuống tận vật chất thấp nhất rồi vòng về phân cảnh Hạ trí thì dừng lại (3/4 đường tròn)
- Luồng 3: Giáng xuống từ ngôi 1- Chỉ xuống tới Cõi thứ 4 - Bồ Đề, rồi gặp luồng 2 đi lên ở đó, qua tam giác - Là Chân Ngã luân hồi)
+ Hoạt động 3 luồng
- Luồng 1: Phát ra từ Thượng Đế, làm linh hoạt vũ trụ chất và khiến cho mọi nguyên tử vật chất trong “vòng giới hạn” của Thái Dương Hệ của Ngài rung động theo 7 mức rung động khác nhau.
- Luồng 2: Gây ra các phối hợp phân tử, nhờ thế tạo ra sáu cõi phụ dưới cõi phụ nguyên tử ở mỗi cõi và tạo ra hình hài.
- Luồng 3: Với mỗi Linh hồn thể được tạo thành từ từ bằng các phần tử vật chất thuộc cùng tính chất và cùng loại như nguyên tử dùng làm nhân của nó, và khi linh hồn thể được kiến tạo như thế qua các thời kỳ tiến hóa dài thì trung tâm ý thức thiêng liêng đang ứng linh, mà qua bao thời kỳ đã tiến hóa riêng biệt, lại kết hợp với nó, Chân Ngã bất tử bắt đầu leo lên qua giới nhân loại. (TLHNM I, 168–169)
+ Phân thân trong Phật giáo: "Phân thân"—thân thể làm sao có thể phân chia ra được? "Phân thân" ở đây cũng có thể gọi là "phân linh," "phân tánh," hoặc "phân tâm." Vì sao gọi là "phân linh"? Các bậc Bồ Tát thường có một thứ "linh cảm" có thể nói là "hữu cảm tự thông, vô cầu bất ứng," và có thể ví với cảnh giới:
"Ngàn ao đầy nước, ngàn trăng hiện, - Vạn dặm không mây, vạn dặm trời xanh."
Các "phân thân" của Bồ Tát Ðịa Tạng vốn không hiện hữu, vì sao ở đây lại nói là có "phân thân"? Bởi vì các "phân thân" này là do tùy thuận theo cơ duyên của chúng sanh mà thị hiện. Các "phân thân" này là như thế nào? Nói một cách đơn giản, "phân thân" cũng tương tự như hình ảnh vậy—vốn chỉ là một người, sau khi chụp hình thì có được nhiều bức ảnh của cùng một người. Tuy nhiên, hình ảnh thì không có tác động, không có sự cảm thông linh ứng, và cũng chẳng có sinh khí; còn các "phân thân" mà Bồ Tát Ðịa Tạng hóa hiện ra thì đều giống hệt bổn thân của Ngài; cho nên gọi là "ngàn muôn ức hóa thân." Hễ thấy nơi nào có địa ngục, Bồ Tát Ðịa Tạng liền phân phối một thân của mình đến nơi đó để giáo hóa chúng sanh. Do vậy, khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bất cứ nơi nào có địa ngục, Ngài đều hiện diện để giáo hóa chúng sanh. Vì Bồ Tát Ðịa Tạng phát thệ nguyện giáo hóa các chúng sanh trong địa ngục, cho nên ở đâu có địa ngục, thì ở đó có phân thân của Ngài Ðịa Tạng vậy!
"Tập hội" tức là quy tụ, tựu về. Vậy, "Phân Thân Tập Hội" ở đây có nghĩa là tất cả những thân mà Ðịa Tạng Bồ Tát đã hóa hiện ra đều trở về và tụ hội lại với nhau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tuệ giác (buddhi, bồ đề, trực giác): Linh hồn hay trí tuệ vũ trụ. Đó là hồn tinh thần (spiritual soul) nơi con người (nguyên khí thứ 6) và do đó, là hiện thể của Atma, Tinh thần, vốn là nguyên khí thứ 7. (ĐĐNLVTD, 217)
+ Buddhi dùng manas (Thượng trí) như là một hiện thể (vehicle).(LVLCK, 684)
+ Tuệ giác (buddhi) tức là lý trí thuần túy (pure reason), trí tuệ (intellect) tách rời khỏi hạ trí (lower mind), đôi khi được gọi là trực giác (intuition), bản chất của nó là bác ái–minh triết . (ASCLH, 159)
+ Tuệ giác thức: Trực giác.(ĐĐTKNM II, 350)
+ Năng lượng của tuệ giác thể: Mãnh lực của bác ái phán đoán thiêng liêng. Trực giác. Đây là phần tinh hoa của năng lượng thu hút và tự tập trung trong “các cánh hoa bác ái của hoa sen Chân Ngã”. Phản ảnh của nó nằm trong ý thức cảm dục hữu cảm thức của phàm ngã.
+ "Bồ Ðề" là gì? Tại sao chúng ta cần phải "chứng Bồ Ðề"? Và "chứng Bồ Ðề" để làm gì? "Bồ Ðề" là phiên âm từ tiếng Phạn, và được dịch là "giác." Thế thì, "giác" nghĩa là gì? "Giác" là tỉnh thức, sáng suốt, không mê muội hồ đồ. Vừa rồi có người nói rằng "giác" tức là không còn vô minh—đúng đấy! Chúng ta phải mau mau đoạn trừ những vô minh của mình thì mới mong sớm chứng được đạo quả Bồ Ðề! (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ “Bồ-đề” Hán dịch là giác đạo (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Tuệ giác: Bồ đề - Buddhi là quan năng để nhận thức, vận hà (chanel) mà xuyên qua đó, tri thức thiêng liêng đi đến Chân Ngã, khả năng phân biệt thiện và ác, cũng là tâm thức thiêng liêng và Hồn Tinh thần (spiritual soul) vốn là hiện thể của Atma. (Xem thêm mục từ Tuệ giác). (GLBN I, 43)
+ Phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề: Tâm này đức Phật đã thành tựu.
.... Thiện Tài Đồng Tử hỏi: Đại Thánh! Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Đại chúng! Vị đồng tử nầy, trước đây ở tại Phước thành, thọ giáo Bồ Tát Văn Thù, lần lược đi về hướng nam, cầu thiện tri thức, đã trải qua một trăm mười vị thiện tri thức rồi, sau đó mới đến chỗ ta, chưa từng tạm khởi một niệm lười mỏi. Tr 285
Đại chúng! Nếu có chúng sinh, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thật là ít có. Nếu phát tâm rồi, lại tinh tấn phương tiện như vậy, tích tập các Phật pháp, thì càng ít có. Tr 292
Đại chúng! Các Bồ Tát khác trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp, mới có thể viên mãn đầy đủ hạnh nguyện Bồ Tát, mới có thể gần gũi chư Phật bồ đề. Nhưng vị đồng tử nầy, nội trong một đời, thì có thể tịnh cõi Phật, có thể giáo hoá chúng sinh, có thể dùng trí huệ thâm nhập pháp giới, có thể thành tựu các Ba La Mật, .....có thể thanh tịnh các Bồ Tát đạo, có thể đầy đủ các hạnh Phổ Hiền. Tr 294
Đây là nguyên nhân gì? Vì ngươi/ Thiện Tài đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì bồ đề tâm đầy đủ công đức. Bồ đề tâm là gì ? Bồ đề tâm là tiếng Phạn, dịch là giác đạo, tức là con đường giác ngộ, cũng là con đường quang minh, cũng là con đường rốt ráo, cũng là con đường an ổn, cũng là con đường đi đến quả vị Phật vô thượng. Tóm lại, tức là bốn hoằng thệ nguyện :
1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Nói tóm lại là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Tr 296
Chúng ta người tu hành, quan trọng nhất là phát bồ đề tâm. Phát bồ đề tâm, mới có thể thành tựu đạo quả, mới có thể tiếp tục công đức, mới có thể khai mở đại trí huệ, mới có thể đắc được đại tự tại. Bất quá, trên con đường tu hành, có rất nhiều sự chướng ngại. Nếu có thể phát tâm đại bồ đề, thì mới có thể tiêu diệt tất cả chướng ngại. Nhưng có người phát bồ đề tâm chân thật, cũng có người phát bồ đề tâm hư vọng, cũng có người vì cầu danh, cầu lợi, mà phát bồ đề tâm, cũng có người vì sinh tử mà phát bồ đề tâm. Cùng phát bồ đề tâm, mà mục đích khác nhau. (Nguồn: Tr 308. Q24. Kinh Hoa Nghiêm)
+ Thế nào gọi là Nguyện?
- Nguyện là ý nguyện, tức là chỗ ý hướng đến, tâm nghĩ điều gì đó rồi phát ra lời nguyện. Nguyện có bốn thứ Hoằng thệ nguyện như trên.
Chư Phật cùng Bồ tát thuở quá khứ, chư Phật, Bồ tát ở hiện tại; chư Phật, Bồ tát trong tương lai cũng đều y theo bốn hoằng thệ nguyện này mà tu hành chứng quả. Bốn hoằng thệ nguyện này là y theo bốn đế mà phát ra. Bốn Ðế là: Khổ Ðế, Diệt Ðế, Tập Ðế và Ðạo Ðế.
Y theo Khổ đế thì phát ra lời nguyện: "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ";
Y theo Tập đế thì phát lời nguyện "Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn";
Y theo Ðạo đế thì phát ra lời nguyện "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học";
Y theo Diệt đế thì phát ra lời nguyện "Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành."
Hơn nữa, bốn hoằng thệ nguyện cũng là chiếu theo ba khổ: Khổ khổ, Hành khổ, Hoại khổ của chúng sanh mà phát ra.
Khổ khổ chính là những nghèo cùng khốn khổ của chúng sanh.
Hoại khổ chính là chúng sanh dù được giàu sang, nhưng sự giàu sang đó hư hoại đi.
Hành khổ chính là đã không phải bị khổ sở vì nghèo thiếu, cũng không phải là giàu sang bị hư hoại, mà là hành khổ của vô thường biến đổi. Từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, suốt cả một đời niệm niệm đổi dời, cho nên có ba khổ.
Tám khổ: Sanh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh. Sanh là khổ, già là khổ, có bệnh là khổ, lúc chết lại càng khổ, sanh già bệnh chết đều là khổ; Ái biệt ly khổ; Yêu mà phải xa là khổ; Mình không thích mà cứ phải gặp mặt, cùng làm việc là khổ; Cầu bất đắc là khổ; Đắc được lại sợ mất là khổ. lại còn Ngũ ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm thứ này giống như là ngọn lửa cháy bừng bừng. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, năm ấm này giờ giờ khắc khắc đều đi theo trên thân thể chúng ta gây nên vô vàn sự thống khổ.
Ngoài tám khổ ra còn có vô lượng vô biên khổ nữa. Tại sao có quá nhiều khổ như vậy? Ðó là vì chúng ta trong đời quá khứ gieo trồng quá nhiều nhơn khổ, cùng làm bạn bè với chúng mà không muốn xa lìa, vì thế gieo trồng nhơn duyên của khổ này mà nhận lấy khổ quả. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh A Di Đà)
+ Phát đại nguyện đủ hơn: ... Nay tôi có pháp môn vô thượng nói cho quý-vị nghe, song trước khi nói Pháp, quý-vị phải biết rằng cầu Pháp không phải dễ. Nên quý-vị phải đáp ứng lời tôi rằng sau khi nghe xong phải y Pháp tu hành thì tôi mới nói cho nghe.
Pháp môn nầy quý-vị mỗi ngày phải trước mặt Phật mà phát nguyện - Bốn Hoằng thệ nguyện: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ ..........
Bốn đại nguyện nầy quý-vị đều hiểu rõ, chư Phật thành Ðạo đều từ bốn lời nguyện này. Chư Bồ-tát lại cũng từ nơi nguyện đây tu.
Nếu như quý-vị mỗi ngày có thể phát nguyện như vậy, thì tôi tin chắc rằng quý-vị sẽ được gặp mặt đấng Từ-tôn, sẽ không lùi bước trên đường học Ðạo, và sẽ sớm được thành Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Xem thêm Lục Tổ Huệ Năng giảng giải về Bốn Hoằng thệ nguyện lớn tại Kinh Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng kinh
+ Xem thêm HT Tuyên Hóa giảng giải thêm về Bốn Hoằng thệ nguyện lớn tại Kinh: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng
+ Chúng sinh cang cường - Ngang bướng thích lấy Địa ngục làm nhà
Rồi Ðức Phật dạy rằng: "Ta ở trong đời ác Ngũ Trược—một thế giới ô trọc xấu ác với năm thứ trược là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, và mạng trược—để giáo hóa những chúng sanh cang cường như thế."
Chúng sanh cang cường" là ai? Có thể là quý vị mà cũng có thể là người khác. Người nào cang cường, bướng bỉnh thì người đó tự biết. "Những chúng sanh cang cường" chính là những chúng sanh ương ngạnh, cứng đầu cứng cổ, không chịu giữ quy củ, chẳng muốn vào khuôn phép. Có một đứa bé còn hỏi rằng: "Tại sao phải có quy củ chứ?" Nghe hỏi như thế cũng đủ thấy rằng đứa bé này không thích có quy củ, luật lệ; và đó cũng là do ảnh hưởng của những người lớn xưa nay chẳng muốn tuân theo quy củ mà ra. Nói tóm lại, những kẻ ngang tàng, không chịu giữ gìn phép tắc quy củ, thích thế nào thì làm thế ấy, thì đó chính là "những chúng sanh cang cường" vậy!
"Làm cho lòng chúng nó điều phục." Ðối với những chúng sanh cang cường ương ngạnh này, muốn khiến cho họ vui vẻ và thành thật cảm phục, thật không phải dễ!
"Ðiều phục." Thế nào gọi là "điều" (làm cho hài hòa)? Cách nấu ăn của người Mỹ thì không cần tới nhiều gia vị rắc rối; song người Trung Hoa thì rất để ý đến gia vị nêm nấu, họ thường trộn thêm các vị chua, ngọt, đắng, hoặc cay vào thức ăn một cách thích đáng, vừa phải, để thành những món ăn thật ngon lành. Ðó gọi là "điều vị" (điều hòa mùi vị).
"Phục" là hàng phục, trong lòng vui vẻ và thành thật phục tòng, không còn phản kháng nữa. Những chúng sanh mà Ðức Phật nói bất luận giáo pháp gì họ cũng ngoan ngoãn nghe theo, hoan hỷ tiếp thọ, chẳng chút hoài nghi, không hề phản đối—thì đó chính là những chúng sanh đã được "điều phục," tánh nết đã thuần thành vậy.
Chớ nói rằng năm trăm năm sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chẳng còn ai khai ngộ, hoặc không có ai chứng quả A La Hán nữa. Thật ra, bất cứ lúc nào và ở vào thời nào cũng đều có người được khai ngộ, cũng có bậc A La Hán xuất thế cả; chẳng qua là các bậc A La Hán này sau khi chứng quả đều không muốn thị hiện thần thông, không đi khắp nơi xem xét chuyện thế gian.
Thuở trước, các Pháp Sư từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa hoằng Pháp như Tôn Giả Ma Ðằng, Tôn Giả Trúc Pháp Lan, và cả Tổ Sư Ðạt Ma (xuất thế sau khi Phật diệt độ cả ngàn năm) nữa, các ngài đều có thần thông. Gần đây thì có Lão Hòa Thượng Hư Vân, Luật Sư Hoằng Nhất và Lão Pháp Sư Ấn Quang—các ngài đều là những bậc cao tăng thời cận đại của Trung Hoa và là những bậc A La Hán, những bậc Bồ Tát. Ðặc biệt hơn nữa, mọi người đều công nhận Lão Pháp Sư Ấn Quang chính là hóa thân của Ðại Thế Chí Bồ Tát! Như vậy, sau khi Phật nhập Niết Bàn, ở nước Trung Hoa vẫn có rất nhiều bậc đại đức cao tăng xuất hiện. Cho nên, dù Phật vào Niết Bàn đã năm trăm năm, một ngàn năm, hay một vạn năm đi chăng nữa, hễ người nào có thể y theo Phật Pháp mà chân chánh tu hành, thì người đó cũng sẽ được khai ngộ và chứng quả vị như thường.
Sau khi các phân thân của Bồ Tát Ðịa Tạng hợp chung lại thành một hình, Ngài rơi lệ ai luyến ..." "Ai" là bi ai, buồn bã; "luyến" là lưu luyến, quyến luyến chẳng rời, không đành lìa bỏ. Vì sao Ðịa Tạng Vương Bồ Tát lại bi ai, thương cảm? Có bốn điều khiến Ngài bi ai:
1) Thứ nhất, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát đau xót bi ai bởi Lục Ðạo chúng sanh mải mê gây nghiệp tạo tội, không biết sửa đổi. Tất cả chúng sanh trong các cõi Trời, Người, A-tu-la, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh do tạo nghiệp tội nên cứ luân hồi luẩn quẩn mãi trong sáu nẻo ấy, không biết hối cải, chẳng biết ăn năn sám hối.
2) Thứ hai, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bi ai là vì tất cả chúng sanh đều cứng đầu, khó dạy—giảng Phật Pháp cho họ thì họ không muốn nghe, nhưng nếu nói những điều không phải là Phật Pháp thì họ lại vui vẻ theo dõi câu chuyện ngay!
Thói thường, quý vị nói điều tốt thì chẳng mấy ai chú ý nghe. Chẳng hạn quý vị khuyên: "Các bạn nên chăm chỉ học Phật Pháp," thì không ai để tâm tới và cũng chẳng có ai chịu tu học. Tuy nhiên, nếu quý vị rủ rê: "Hiện nay có một loại thuốc, hễ uống vào thì các bạn sẽ có được một cảm giác rất kỳ diệu," thì sẽ có rất nhiều người tranh nhau để được dùng thử loại thuốc đem lại ảo giác đó ngay. Uống vào rồi thì đầu óc trở nên mơ mơ màng màng, tưởng chừng như mình đang lâng lâng bay bổng đến Cực Lạc Thế Giới vậy! Ðó vốn là một thứ thuốc vô cùng độc hại, thế mà người ta nếm một lần rồi thì liền muốn thêm lần nữa, dần dà không biết đến bao nhiêu lần! Trong lúc "say" thuốc, họ cảm thấy cái gì cũng biến đổi, thậm chí trời đất cũng không lớn bằng họ nữa! Thế nhưng, qua khỏi khoảnh khắc phù du đó rồi thì họ liền cảm thấy cơ thể mệt mỏi dã dượi, khó chịu một cách khổ sở—không đau đầu thì cũng nhức xương, tay chân rã rời, nên không muốn làm gì cả, cứ nằm vật vã một chỗ như cái xác không hồn. Tuy vậy, mặc dù ra đến nông nỗi này, họ cũng chưa tỉnh ngộ, còn thắc mắc: "Tại sao mình lại như thế này?" Ðã thế, họ còn cho rằng dùng thêm một ít thuốc ấy nữa thì sẽ được khai ngộ: "Lần này hẳn là thuốc chưa đủ công lực, chưa đủ mạnh. Nếu tăng liều lượng nhiều hơn chút nữa có lẽ mình sẽ được khai ngộ, sẽ thành công!"
Quý vị nói xem, như thế mà không phải là ngu si đến cực điểm thì là gì? Bảo học Phật Pháp thì không học, cứ lén lút sử dụng độc phẩm. Dù biết là phạm pháp, nhưng họ vẫn muốn làm, thích làm và làm cho bằng được; cho nên đó chính là những chúng sanh cứng đầu, ương ngạnh. "Khó dạy" tức là khó uốn nắn, không dễ giáo hóa, không dễ dạy bảo. Quý vị khuyên họ học Phật Pháp thì họ không thích; nhưng nếu quý vị bày cách lừa đảo, lường gạt kẻ khác thì họ liền vui vẻ bám riết, cắm đầu cắm cổ chạy theo ngay. Quý vị thấy đó, lòng dạ của chúng sanh là như thế!
Vậy, nỗi bi ai thứ hai của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát chính là đau xót vì chúng sanh cứng đầu, khó giáo hóa, khó điều phục.
3) Nỗi bi ai thứ ba của Bồ Tát Ðịa Tạng là gì? Ðó là "mặt trời trí huệ" (huệ nhật) Như Lai sắp lặn. Phật ví như vầng thái dương, cho nên Phật sắp nhập Niết Bàn thì chẳng khác nào mặt trời trí huệ sắp lặn mất; do đó Bồ Tát Ðịa Tạng lấy làm bi ai.
4) Nỗi bi ai thứ tư của Bồ Tát Ðịa Tạng là gì? Là việc dặn dò trọng đại ở Ðao Lợi Thiên Cung. Tại cung trời Ðao Lợi, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ân cần căn dặn Bồ Tát Ðịa Tạng rằng cho đến trước khi Ðức Phật Di Lặc ra đời, Ngài hãy giáo hóa, độ thoát tất cả chúng sanh và khiến họ được gặp chư Phật, được Phật thọ ký. Ðây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Ðức Phật Thích Ca Nâu Ni đã giao phó trọng trách này cho Bồ Tát Ðịa Tạng, và đây cũng chính là nỗi bi ai thứ tư của Ngài.
Các phân thân của Bồ Tát Ðịa Tạng hợp chung lại thành một thân, rồi rơi nước mắt mà bạch Phật rằng: "Từ số kiếp lâu xa đến nay, con nhờ Ðức Thế Tôn tiếp độ dắt dìu, được mười phương chư Phật từ bi tiếp dẫn, khiến con có được thần lực chẳng thể nghĩ bàn—thứ thần lực không thể dùng tâm trí để nghĩ suy, không thể dùng ngôn ngữ để luận bàn—và được đầy đủ trí huệ rộng lớn."
"Thần" là thần diệu khôn lường. "Thần lực" là thứ sức mạnh thần diệu, mầu nhiệm khôn lường, quý vị không có cách gì biết được. Muốn cứu độ chúng sanh thì quý vị cần phải có thần lực; song nếu chỉ có thần lực mà không có trí huệ, thì cũng không được; cho nên quý vị cần phải có đầy đủ đại trí đại huệ nữa. Chúng ta dùng đại trí huệ để chi phối thần lực, và dùng thần lực để hỗ trợ trí huệ—trí huệ và thần lực hỗ tương hợp tác, tương trợ lẫn nhau—nhờ vậy mới có thể cứu độ chúng sanh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Ấn Quang Đại Sư - Hóa Thân Đại Thế Trí Bồ Tát
Pháp môn Tịnh Độ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người thiên tư thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem Tịnh Độ là pháp tu của bọn ngu phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn rốt ráo để mười phương tam thế hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh, thành thỉ, thành chung. Họ thấy kẻ ngu phu, ngu phụ tu được pháp này bèn coi thường, sao chẳng xét trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu viên mãn Phật Quả? Miệt thị pháp môn Tịnh Độ chẳng chịu tu là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm thuộc hạng người gì? Chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm có đáng nên tôn trọng hay nên coi thường đây?
[Có thái độ như vậy] không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên do của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như tự lực, Phật lực, đại, tiểu, khó, dễ, nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã xét kỹ, há chẳng học đòi Hoa Nghiêm Hải Chúng, nhất trí tiến hành cùng cầu vãng sanh ư? Ấn Quang tôi từ lúc búi tóc đọc sách, nhiễm ngay phải cái độc bài Phật của Hàn, Âu, Trình, Chu, may là không có được cái tài như Hàn, Âu, Trình, Chu. Nếu như có được chút tài như họ, ắt sẽ tự mình lầm, khiến người lầm, thân còn sống mà đã hãm trong địa ngục A Tỳ mất rồi. Từ năm mười bốn, mười lăm tuổi về sau, bệnh nặng nhiều năm. Từ đấy chiêm nghiệm khắp xưa nay, xem kỹ kinh sách, mới hay những thuyết do Hàn, Âu, Trình, Chu lập đó đều là những tri kiến quẩn quanh ngoài cửa ngõ, tuyệt chẳng đạt đến những sự huyền áo trong nhà.
Nhược quan (1) được một năm, tôi liền xuất gia làm Tăng, chuyên tu Tịnh nghiệp. Thề trọn một đời này làm một kẻ tự tu, chẳng lập môn đình, rộng thâu đồ chúng đến nỗi con cháu đời sau làm Phật pháp bại hoại, kéo cả Ấn Quang tôi vào trong địa ngục A Tỳ chịu khổ với chúng. Đến năm Quang Tự 19 (Quý Tỵ - 1893), hòa thượng Hóa Văn chùa Pháp Vũ ở Phổ Đà Sơn lên kinh đô thỉnh Đại Tạng Kinh, nhờ tôi coi sóc việc ấn loát. Xong việc, Hòa Thượng mời tôi cùng về núi. Biết tôi chẳng thích tham gia Tăng sự, Ngài cho tôi ở riêng một liêu, tùy ý tu trì. Đến nay đã hơn ba mươi lăm năm rồi. Ở núi lâu ngày, có việc phải dùng đến bút mực viết lách, tuyệt chẳng dùng đến tên gọi Ấn Quang. Ngay cả những văn tự cần phải ký tên, cũng chỉ tùy tiện viết hai chữ là xong. Vì thế trong hai mươi năm qua, không có người khách nào đến thăm, cũng không có thư từ qua lại làm phiền.
Năm đầu Dân Quốc (1911), cư sĩ Cao Hạc Niên đem mấy thiên văn cảo đăng trên Phật Học Tùng Báo, chẳng dám dùng tên Ấn Quang, mà dùng tên Ấn Quang thường tự xưng là Thường Tàm Quý Tăng. Vì thế, ký tên là Thường Tàm. Cư sĩ Từ Uất Như và Châu Mạnh Do tưởng lầm là Kiến Thường, nghe nói [lầm như vậy] cả ba bốn năm chẳng hề biết. Sau Mạnh Do lên núi bái yết, xin quy y, đem mấy thiên bản cảo tệ hại gởi cho Uất Như, đưa in ở kinh đô, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao khiến cho văn tôi gai mắt khắp mọi người cao nhã nên càng thêm hổ thẹn. (Trích: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục Phần I)
IX. Khuyên nhủ các thiện tín tại gia (Trích: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục Phần 6)
1. Dạy về luân thường đại giáo
* Phải tận tánh học Phật mới có thể tận hết luân thường học Khổng. Phải tận hết luân thường học Khổng mới có thể tận tánh học Phật. Thử coi những bậc đại trung, đại hiếu và những vị phát huy tâm pháp của thánh hiền trong Nho Giáo xưa nay không vị nào là chẳng nghiên cứu kinh Phật sâu xa, ngầm tu thầm chứng. Hợp hai đạo Phật và Nho lại thì cả hai cùng tốt đẹp, tách ra thì cả hai cùng bị tổn thương; bởi lẽ, người trong cõi đời không ai chẳng thuộc trong vòng luân thường, mà cũng không ai ra khỏi tâm tánh được. Để trọn vẹn luân thường tâm tánh ấy thì dùng “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” của nhà Phật để khắc kỷ, giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, dùng “cha hiền, con hiếu, anh nhường, em kính” để hỗ trợ. Do vậy, cha con, anh em v.v... dắt dìu nhau cùng trọn vẹn luân thường, tâm tánh, trừ khử phiền hoặc huyễn vọng để khôi phục Phật tánh sẵn có. Chẳng những về thể là một, mà về dụng cũng chẳng có hai!
* Phải biết rằng Phật pháp là pháp chung của cả chín pháp giới, không một ai là chẳng nên tu mà cũng không ai là chẳng thể tu nổi. Những kẻ nói Phật giáo vứt bỏ nhân luân, làm hại thánh đạo đều là những kẻ mù chẳng thấy hình sắc cứ luận càn. Vì sao nói như thế? Đức Phật đối với cha dạy lòng từ, với con dạy lòng hiếu, với vua dạy lòng nhân, với bầy tôi dạy lòng trung, chồng xướng vợ theo, anh nhường, em kính.
Với những lời lẽ hay đẹp, những hành vi tốt đẹp, không điều nào kinh Phật lại chẳng thuật rõ túc nhân hậu quả, tiền nhân hậu quả. Những điều Phật dạy về lòng từ, lòng hiếu... giống với Nho Giáo, nhưng những điều đạo Phật dạy về nhân quả ba đời thì Nho giáo còn chưa bao giờ được nghe đến, huống hồ là “đoạn Hoặc chứng chân” và “viên mãn Bồ Đề, quy về pháp vô sở đắc”! Tiếc là những kẻ ấy chưa được biết đến, chứ nếu đọc kỹ, nghĩ chín, ắt sẽ khóc lóc, đau đớn, tiếng rền cả đại thiên thế giới, buồn thương vì tội lỗi báng Phật vậy!
* Muốn học Phật, Tổ, trước hết phải giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như thiếu sót bổn phận, trái nghịch luân thường thì đã là kẻ tội nhân danh giáo, còn làm đệ tử Phật sao được? Phật giáo tuy vượt ngoài thế pháp, nhưng gặp vua nói Nhân, gặp bầy tôi nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, từ cạn mà lần đến sâu, hạ học thượng đạt (học từ những điều căn bản, thấp kém, nhưng đạt được những điều cao quý). Hãy đọc kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt sẽ biết được đại khái vậy!
* Muốn làm Phật tử chân thật, phải bắt đầu làm chân Nho trước đã. Nếu đối với những sự như chí tâm thành ý, khắc kỷ, giữ lễ, giữ lòng kính, trọng lòng thành, hiếu đễ, vui vẻ, cung kính... mà chẳng thể tu tập, đôn đốc thì nền tảng chẳng kiên cố, học Phật sao được? Chọn lấy tôi trung trong đám con hiếu; kẻ tánh hạnh trái nghịch Nho phong lẽ nào gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, trên nối tiếp huệ mạng, dưới hóa độ chúng sanh cơ chứ?
Phật pháp không sự gì to lớn chẳng bao hàm, không điều gì nhỏ nhặt chẳng nêu lên. Dù là pháp thế gian hay xuất thế gian, không một pháp nào lại chẳng thuộc phạm vi của Phật pháp. Những kẻ câu nệ, hủ bại trong thế gian thường cứ bảo “xuất gia là trái nghịch luân lý”, họ đều là hạng chưa suy xét thấu đáo đã vội hủy báng, sợ mắc nghẹn nên bỏ ăn, tự chôn vùi tánh mạng, thật là đáng thương!
Nếu có mở rộng được tầm mắt thì mới biết Phật pháp lưu truyền rộng rãi khắp trong ngoài Trung Hoa, đạo pháp thạnh hành cả hai ngàn năm qua, được rất nhiều vua thánh, tôi hiền, hào kiệt, vĩ nhân hộ trì, truyền bá. Lẽ đương nhiên đạo ấy phải là chân đạo mà phàm tình chẳng thể suy lường được nổi! Dù có bị một hai gã nho sĩ câu nệ, hủ bại bài xích, hay những tên vua bạo ác hủy phá, rốt cuộc hai tay vẫn không che nổi mặt trời, ngửa mặt nhổ lên trời, chỉ càng tự phô bày cái thấy biết kém cỏi, ít ỏi của mình mà thôi, tự lầm lạc gây tạo tội lỗi, chứ rốt cuộc Phật pháp có bị tổn hại gì đâu?
Lại có kẻ bề ngoài làm ra vẻ chê bai Phật pháp, chứ bề trong lại thực sự tu chứng. Từ đời Tống đến nay, những bậc danh nho không có ai là chẳng như vậy cả! Cho nên Quang tôi nói “thành ý chánh tâm do vậy hãy còn khiếm khuyết” thật đúng là lời bàn quyết định vậy!
* Đối với việc học Phật, vốn phải trọn vẹn nhân đạo mới hòng hướng đến được. Nếu chẳng thật sự thực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, dù có suốt ngày thờ Phật, Phật cũng chẳng gia hộ! Ấy là vì Phật giáo bao gồm hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian. Vì thế với cha nói Từ, với con nói Hiếu, khiến ai nấy đều tận hết bổn phận làm người, sau đấy mới tu pháp xuất thế. Ví như muốn dựng lầu cao vạn trượng, ắt trước hết phải đắp nền móng kiên cố, khai thông đường nước thì lầu cao vạn trượng mới có thể xây lên được, mới vĩnh cửu chẳng hư hoại. Nếu như nền móng chẳng vững, ắt chưa xây xong đã sụp.
Sách Luận Ngữ nói: “Tuyển trung thần ư hiếu tử chi môn” (chọn tôi trung từ nơi con hiếu); học Phật cũng giống như vậy. Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào Thiền Sư: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Muốn học Phật pháp, phải khắc kỷ, dè dặt, việc gì cũng đều phải phát xuất từ cái tâm chân thật mà làm. Người như vậy mới đáng gọi là chân Phật tử. Nếu tấm lòng gian ác, lại toan mượn Phật pháp để tránh tội nghiệp, có khác gì trước đã uống thuốc độc, sau lại uống thuốc bổ, muốn cho thân thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ, phỏng có được chăng?
* Đại trượng phu muốn văn chương thiên hạ, công nghiệp vang dội vũ trụ, nhưng chẳng thể đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thì chỉ là chấp vào cái bên ngoài, bỏ sót cái bên trong, chấp cái Có tuy nó chỉ là đằng ngọn, bỏ đi cái Không dù nó chính là đằng gốc. Người đời ai có thể vẹn toàn được mọi việc, chúng ta chỉ nên gắng sức giữ vẹn luân thường, tận lực tu Tịnh nghiệp là được, cần gì phải bận tâm đến điều gì khác nữa!
* Trộm nghĩ Nho lễ coi trọng cúng tế Xuân Thu, Thích giáo đặt nặng việc quanh năm truy tiến. Nghĩ đến cái ân nguồn nước, cội cây mà thực hành cẩn thận, chu đáo việc truy tiến thì thế gian, xuất thế gian nào có gián đoạn chi?
Ấn Quang Đại sư - Ngài đã tu hành thành tựu, có nhiều lời dạy cho Phật tử tại gia rất tuyệt diệu, mời đọc giáo lý của ngài: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục phần 6
+ Lão Pháp Sư Ấn Quang—các ngài đều là những bậc cao tăng thời cận đại của Trung Hoa và là những bậc A La Hán, những bậc Bồ Tát. Ðặc biệt hơn nữa, mọi người đều công nhận Lão Pháp Sư Ấn Quang chính là hóa thân của Ðại Thế Chí Bồ Tát! Như vậy, sau khi Phật nhập Niết Bàn, ở nước Trung Hoa vẫn có rất nhiều bậc đại đức cao tăng xuất hiện. Cho nên, dù Phật vào Niết Bàn đã năm trăm năm, một ngàn năm, hay một vạn năm đi chăng nữa, hễ người nào có thể y theo Phật Pháp mà chân chánh tu hành, thì người đó cũng sẽ được khai ngộ và chứng quả vị như thường.......
.... Trong số thính chúng đó có một cô học sinh trạc mười tám mười chín tuổi, và chưa phải là tín đồ Phật Giáo. Có một đêm nọ cô nữ sinh này nằm mộng, thấy có người mách với cô rằng: "Ngươi nên đến Cư Sĩ Lâm để nghe giảng kinh. Ðại Thế Chí Bồ Tát đang hoằng dương Phật Pháp ở đó, và Ngài hiện đang giảng Kinh A Di Ðà!"
Về sau, cô nữ sinh này cũng quy y với Lão Pháp Sư Ấn Quang. Trong giấc chiêm bao ấy, cô còn được cho biết là vị Ðại Thế Chí Bồ Tát này chỉ còn ở lại thêm ba năm nữa mà thôi, và sau đó thì Ngài phải trở về, không ai còn gặp được Ngài nữa. Quả nhiên ba năm sau, nhằm năm Dân Quốc thứ 33, Lão Pháp Sư Ấn Quang viên tịch. Sau khi Ngài viên tịch mọi người mới biết Ngài là Bồ Tát Ðại Thế Chí. Sinh thời, Lão Pháp Sư Ấn Quang rất thích chép chương "Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông" trong Kinh Lăng Nghiêm; và rất nhiều cư sĩ vẫn còn giữ được những bản chép tay đặc biệt này với chính bút tích của Ngài.
Như vậy, Lão Pháp Sư Ấn Quang là điển hình của một bậc cao tăng thạc đức được khai ngộ trong thời cận đại; cho nên không thể nói là sau khi Phật diệt độ năm trăm năm thì không có bậc A La Hán xuất thế! Kỳ thực, chẳng những A La Hán mà cao hơn cả A La Hán cũng có nữa! Sau khi Lão Pháp Sư Ấn Quang viên tịch và nhục thân được thiêu hóa, thì còn lại rất nhiều Xá Lợi. Người chưa chứng quả hoặc chưa khai ngộ thì không bao giờ có Xá Lợi; có Xá Lợi thì không phải là người thường. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Người hạ căn - Căn tánh chậm chạp - Căn tánh chậm lụt - Người tiểu căn - Người độn căn - Người thượng căn
Người tiểu căn nghe pháp Đốn giáo nầy ắt là điên đảo. Cũng như loài cỏ cây gốc rễ nhỏ yếu, nếu bị một trận mưa to, chắc đều ngã rạp, không thể lớn lên được. Nguyên người tiểu căn có trí Bát nhã cũng như người đại trí, không có chỗ gì khác. Nhưng bởi cớ sao họ nghe pháp, mà tâm chẳng mở mang tỏ sáng? Vì bởi nghiệp chướng của tà kiến còn nặng, cái gốc rễ của sự phiền não còn thâm sâu. Cũng như một đám mây lớn che ám mặt trời, nếu chẳng được luồng gió thổi, thì ánh sáng mặt trời không hiện ra được.
Cái trí Bát nhã vốn không lớn nhỏ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi. Lòng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành tìm Phật mà chưa tỏ sáng Bổn tánh của mình, tức là người tiểu căn. Hiểu rõ pháp Đốn giáo tu hành mà không chấp bề ngoài, trong tâm mình thường khởi chánh kiến, những sự phiền não trần lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm mình tức là thấy tánh.......(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người lợi căn: Trong số các chúng sanh đó, "hoặc có kẻ có lợi căn, nghe thấy liền tín thọ." Kẻ có "lợi căn" tức là người có thiện căn sâu dầy, thông minh lanh lợi, rất có trí huệ. Những chúng sanh có lợi căn khi nghe được giáo pháp của Phật thì liền mau mắn tin nhận.
"Hoặc có kẻ có thiện quả, phải ân cần khuyên bảo mới thành tựu." Lại có hạng người mà trong đời trước đã từng làm một vài việc thiện, có gieo trồng thiện quả, thì Phật cũng phải ân cần khuyên bảo thêm để họ được nhanh chóng thành tựu Phật Ðạo, và không phải chỉ khuyên bảo một lần mà là rất nhiều lần. "Ân cần khuyên bảo" không có nghĩa là chỉ khuyên bảo một lần rồi thôi. Khi chúng ta có lòng muốn cứu vớt, độ thoát một người nào đó, thì phải nhớ rằng chưa chắc chỉ khuyên bảo một lần mà "độ" được người ấy ngay. Khuyên một lần mà chưa "độ" được thì phải khuyên thêm lần nữa; nếu thêm lần này mà vẫn chưa "độ" được, thì chúng ta lại phải cố gắng thêm nhiều lần nữa. Nếu những người đó ở xa thì quý vị nên viết thư nhắc nhở, kể chuyện Phật Pháp cho họ biết; còn nếu ở gần thì thỉnh thoảng nên gặp gỡ, tiếp xúc với họ để giảng Phật Pháp cho họ nghe.
Lại nữa, hễ đã phát tâm muốn "độ người" thì chớ để cho mình bị "người độ"! Thế nào gọi là bị "người độ"? Thí dụ, ban đầu là quý vị muốn độ họ, muốn làm cho họ tin Phật, nhưng rốt cuộc thì quý vị lại bị lung lạc và bị lôi kéo vào tôn giáo của họ! Thâm tâm mình vốn muốn "độ người," làm cho họ tin Phật, ngờ đâu lại bị họ làm cho mình chuyển đổi tín tâm, thay đổi tín ngưỡng—như thế là mình bị "người độ" vậy. Muốn "độ người" thì bản thân mình cần phải có Ðịnh Lực; sở dĩ mình bị "người độ" chính là vì mình không có Ðịnh Lực.
"Ân cần khuyên bảo" ngụ ý là thường xuyên nhắc nhở, sốt sắng khuyên lơn. Ví dụ quý vị suy nghĩ: "Người bạn này đối xử với mình quá tử tế, mình phải độ anh ấy, khiến anh ấy tin theo Phật mới được! Lại còn ông chú bà bác kia nữa, họ đều là những người tốt bụng, mình cũng nên độ họ, làm cho họ thích học Phật Pháp!" Do đó quý vị "ân cần khuyên bảo" họ. Không phải chỉ khuyên một lần mà là kiên nhẫn khuyên lơn rất nhiều lần, lần này mình khuyên giải mà họ chưa hiểu rõ thì cố gắng thêm lần nữa, rồi cứ lần này sang lần khác như thế, dứt khoát không chịu bỏ cuộc. Nói tóm lại, quý vị phát tâm độ người thì phải độ cho tới nơi tới chốn, độ được họ phát tâm tin Phật và cho tới khi họ thành Phật—như thế, sứ mạng mới hoàn tất, thệ nguyện mới viên mãn!
"Hoặc có kẻ ám độn, phải giáo hóa thời lâu mới quay về." "Ám độn" tức là ngu si, căn tánh mê muội, không có trí huệ. Ðối với hạng chúng sanh ám độn, si mê thì cần phải có thời gian lâu dài để giáo hóa, chứ không thể một sớm một chiều mà được ngay đâu. "Ân cần khuyên bảo" thì tính theo số lần; còn "thời lâu" là thuộc vấn đề thời gian. Nếu trong một ngày mà mình chưa độ được họ, thì phải kiên trì cho dù là hai ngày, ba ngày, năm ngày, hoặc một tháng, hai tháng, ba tháng, năm tháng, hoặc một năm, hai năm, ba năm, năm năm...—quý vị phải nuôi trong lòng một chí nguyện bền bỉ, lâu dài, và giáo hóa họ với cái tâm trường cửu, nhất quyết làm cho họ thành tâm tin tưởng đạo Phật. Ðây gọi là "cửu hóa phương quy"—phải trải qua một sự giáo hóa lâu dài họ mới có thể quay về, quy y Tam Bảo. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Các đại Bồ tát - các Bồ tát - các bậc A La Hán thời cận đại
Chớ nói rằng năm trăm năm sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chẳng còn ai khai ngộ, hoặc không có ai chứng quả A La Hán nữa. Thật ra, bất cứ lúc nào và ở vào thời nào cũng đều có người được khai ngộ, cũng có bậc A La Hán xuất thế cả; chẳng qua là các bậc A La Hán này sau khi chứng quả đều không muốn thị hiện thần thông, không đi khắp nơi xem xét chuyện thế gian.
Thuở trước, các Pháp Sư từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa hoằng Pháp như Tôn Giả Ma Ðằng, Tôn Giả Trúc Pháp Lan, và cả Tổ Sư Ðạt Ma (xuất thế sau khi Phật diệt độ cả ngàn năm) nữa, các ngài đều có thần thông. Gần đây thì có Lão Hòa Thượng Hư Vân, Luật Sư Hoằng Nhất và Lão Pháp Sư Ấn Quang—các ngài đều là những bậc cao tăng thời cận đại của Trung Hoa và là những bậc A La Hán, những bậc Bồ Tát. Ðặc biệt hơn nữa, mọi người đều công nhận Lão Pháp Sư Ấn Quang chính là hóa thân của Ðại Thế Chí Bồ Tát! Như vậy, sau khi Phật nhập Niết Bàn, ở nước Trung Hoa vẫn có rất nhiều bậc đại đức cao tăng xuất hiện. Cho nên, dù Phật vào Niết Bàn đã năm trăm năm, một ngàn năm, hay một vạn năm đi chăng nữa, hễ người nào có thể y theo Phật Pháp mà chân chánh tu hành, thì người đó cũng sẽ được khai ngộ và chứng quả vị như thường. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Mơ hay tu luyện xuất hồn: Giấc mơ xảy ra khi ý thức, thức thứ sáu bị lệch lạc. Bất kỳ điều gì xảy ra lúc ban ngày, hoặc bất kỳ quý vị trải qua điều gì, nó đều ảnh hưởng trong giấc mơ của mình vào lúc ban đêm. Có người tu đạo đã dùng ý thức, thức thứ sáu để tu cho đến khi được ‘xuất huyền nhập tẫn–出玄入牝’, có nghĩa là phái một linh hồn đi ra từ tên đảnh đầu của người tu luyện. Linh hồn nầy có thể rời thân thể người ấy và đi khắp nơi. Nhưng điều nầy không phải là chân chính, vì linh hồn kia là một thứ khí thuần dương. Do vậy, khi nó ra khỏi thân, nó biết được một số việc, nên gọi là thần linh.
Thời đó có lão Đaọ sĩ thực sự đã tu luyện lâu năm, nhưng ông ta có tính khí rất cao ngạo. Đi đến đâu, ông ta cũng tự cao tự đại. Vì ông ta quá cao ngạo nên ông khinh thường tất cả. Ông ta tự xem mình là tu luyện cao nhất. Ông ta khoe khoang rằng ngay sau khi ngủ, ông ta sẽ phái đi loại thần linh nầy. Đó giống như là giấc mơ, nhưng ông ta biết và sau đó có thể nhớ rất rõ ràng.
Một hôm Lão Đạo sĩ gặp một Hòa thượng, cùng nhau đàm đạo. Lão Đạo sĩ nói, “Trong đạo Lão, có thể tu thành Tiên, trường sanh bất tử, sống mãi muôn đời. Trong đạo Phật có bản lãnh gì? Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn phải chết. Trong khi không ai biết ông tổ của đạo Lão, tức Lý Lão Quân đi đâu? Họ cho rằng ngài chết, nhưng thực ra ngài lên trời, Thế nên công phu tu luyện của Lão giáo là xuất huyền nhập diệu vậy.”
Hòa thượng hỏi, “Ông xuất khiếu–tức thoát hồn– như thế nào?”
Lão Đạo sĩ đáp, “Khi tôi ngủ, tôi có thể đi đâu mà mình muốn.”
“Ồ! Được rồi, Thế thì bây giờ ông hãy ngủ và xuất hồn đi để tôi xem thử ra sao.” Hòa thượng trả lời.
Lão Đạo sĩ nằm xuống ngủ, ngay ông ta vừa ngủ lơ mơ, ông liền xuất hồn đi. Nhưng đó là cái gì? Đó là con rắn trườn ra trên đỉnh đầu ông ta. Con rắn trườn khỏi giường, xuống nền nhà và bò ra bên cạnh hầm phân. Nó uống chút nước dơ rồi nằm sát cạnh bờ nước. Lão Hòa thượng hái một nắm cỏ rồi đặt trên đường mòn, rồi nhổ một bụi cây khác đặt bên cạnh nắm lá. Khi con rắn thấy bụi cỏ, nó hoảng sợ chạy trốn và vội vã chui vào lại nơi mà nó vừa trườn ra. Sau khi trở vào lại trong đỉnh đầu lão Đạo sĩ. Lão già tỉnh ngủ với mồ hôi đầm đìa, hoảng sợ như vừa thoát chết.
“Ông vừa đi đâu về?” Lão Hòa thượng hỏi, “khi ông vừa ra khỏi đỉnh đầu?”
Lão Đạo sĩ đáp, “Tôi lên trời, đến bên một cái hồ.” Ông ta đã nhớ lầm, hố phân thay vì cái hồ trên trời. “Khi tôi đến cái hồ trên trời, tôi uống chút nước cam lồ trong đó, rồi khi tôi cuộn mình, tôi thấy một ông thần mặc áo giáp vàng đứng bên hồ tay cầm kiếm. Ông ta định giết tôi, thế là tôi bỏ chạy.”
Lão Hòa thượng đáp, “Ồ! chuyện như vậy, Đối với ông, lên trời là vậy đó sao?” Rồi lão Hòa thượng nói cho Lão Đạo sĩ biết cái thấy của mình về sự kiện ấy hoàn toàn khác với lời kể của lão Đạo sĩ, và lão Hòa thượng kể lại những gì ngài đã thấy. “Lý do con rắn chui ra khỏi đầu ông có lẽ là do ông có tập khí quá nóng nảy và luôn luôn tỏ ra sân hận. Nếu ông không thay đổi tánh nóng, có khả năng ông sẽ biến thành rắn. Loài rắn thường có nọc độc trong tâm, và tính sân hận của ông cũng giống như nọc độc ngay trong người ông vậy.”
Lão Hòa thượng nói tiếp, “Ông đi ra bên ngoài để uống ít nước từ trong hố phân đầy nước tiểu. Đó là hồ nước cam lồ trên trời của ông đó! Và khi tôi để nắm cỏ và bụi cây trên đường ông đi, thì ông tưởng rằng đó là ông thần mặc áo giáp đến bắt ông. Đó là khi ông chạy vội vã chui vào trong đầu ông. Đó là những gì tôi thấy được.”
Lão Đạo sĩ thầm nghĩ, “Thế là mọi điều mình tu luyện được đều là sai lầm!” Rồi Lão đảnh lễ Lão Hòa thượng làm thầy và xin theo ngài tu học Phật pháp. Ông ta từ bỏ mọi công phu tu luyện trước đây. Thế nên, nếu có người nói rằng họ có thể xuất hồn khỏi xác trong lúc đang ngủ, thì đó là chỉ cho một loại khí dương. Khí dương nầy phản ánh mọi tính khí của quý vị; nếu quý vị là người nhân từ, thì đó là loại thần nhân từ; nếu quý vị là người sân hận, thì đó sẽ là loại thần tham độc. Nên người ta thường nói,
Nhất niệm sân tâm khởi
Bá vạn chướng môn khai.
Lão Đạo sĩ có tâm sân hận như vậy nên ông ta có thể biến thành thân rắn. Nhờ duyên lành mà ông ta gặp được Lão Hòa thượng cứu ông thoát khỏi thân rắn trong đời sau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương V)
+ Linh tánh - Thần thức - Hồn phách - Thức thứ tám xuất khỏi thân thể:
Lược giảng:
"Lúc ấy, Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ Bà La Môn rằng: ‘Cúng dường xong, ngươi hãy mau trở về nhà. Vì ngươi vừa bị té, thân thể bị nhiều thương tích, vậy sau khi cúng dường ở đây xong thì ngươi nên sớm trở về nhà. Về đến nhà rồi thì thế nào? Rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta. Mặc dù tay chân ngươi đều bị tổn thương, song ngươi hãy cố gắng ngồi cho ngay thẳng đoan chánh mà tưởng niệm đến danh hiệu của Ta—Nam Mô Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai—thời sẽ biết được chỗ thác sanh của mẹ ngươi.’"
"Bấy giờ, lễ Phật xong, Thánh Nữ Bà La Môn liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, lòng quá chân thành thiết tha nghĩ đến mẫu thân, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng, quên hết mọi đau đớn, cũng chẳng nhớ tay chân mình đang bị thương, chỉ một lòng một dạ chuyên chú niệm danh hiệu của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai."
"Trải suốt một ngày một đêm." Trong suốt quãng thời gian lâu như thế, Thánh Nữ tuyệt nhiên không nghỉ ngơi, chẳng ăn chẳng uống, cũng không đi tiêu đi tiểu. Thánh Nữ ngồi ngay thẳng—chứ không phải quỳ—suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, và chỉ chuyên tâm chí thành niệm Phật, ngoài ra không làm việc gì khác.
Bấy giờ, sau một ngày một đêm kiên trì niệm Phật, "Thánh Nữ bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia." Trạng thái này gọi là gì? Ðây không phải là cô ta nằm mộng, mà là do thành tâm đến cực điểm cho nên "linh tánh" của cô ta xuất khỏi thân thể.
"Linh tánh" này—còn gọi là "thần thức" hoặc "hồn phách," danh xưng tuy nhiều như vậy song cũng chỉ là một - chính là "thức thứ tám"[3] của con người. Khi Thánh Nữ ngồi quá lâu, lại quên cả đau đớn, thì tất cả đều như ngừng lại, chỉ còn duy nhất một niệm là tưởng nghĩ đến danh hiệu của Ðức Phật. Bởi một niệm này rất chân thành, khiến thức thứ tám có thể lìa khỏi thân thể để đi đến nơi khác, do đó Thánh Nữ thấy mình bỗng dưng lại ở tại một bờ biển xa lạ.
Những người ngồi Thiền mà nếu định thần ngồi được lâu, thì cũng có thể thấy được một vài cảnh giới nào đó. Ấy là vì lúc bấy giờ thức thứ tám của họ có thể rời khỏi thể xác, cho nên họ có thể thấy được cảnh giới khác.
Nếu quý vị được khai mở Ngũ Nhãn thì có thể nhìn thấy quỷ, thần, Bồ Tát, Phật...; chưa mở Ngũ Nhãn thì không thể nào thấy được. Linh tánh (thức thứ tám) của người tu Ðạo cũng có Ngũ Nhãn; khi linh tánh tách ra khỏi nhục thể, thì Ngũ Nhãn khai mở, do đó họ có thể trông thấy vô số cảnh giới. Thánh Nữ Bà La Môn này nhất định là có tu Ðạo từ lâu, nên mặc dù Ngũ Nhãn của nhục thể chưa được khai mở, nhưng khi thức thứ tám rời khỏi xác thân thì cô ta liền có thể thấy được các cảnh giới, và biết được rằng mình bỗng nhiên ở tại một bờ biển xa lạ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tự do của tự tánh gồm có hai thứ; đó là tự do của thần thức và tự do của bản hữu Phật tánh:
1) Tự do của thần thức. Thần thức thì thuộc âm và có thể du hành đến bất cứ nơi đâu; như từ thành phố Cựu Kim Sơn, thần thức có thể tới Nữu Ước, Âu Châu, Á Châu... Tuy rằng thần thức có thể biết rõ tình hình nơi mình đến, nhưng lại không thể cầm nắm đồ vật - thần thức không thể mua quà từ Nữu Ước rồi mang về lại Cựu Kim Sơn được; tại sao vậy? Vì thần thức vốn thuộc âm. Thần thức chỉ có thể nhìn xem cảnh vật của Nữu Ước, chứ không thể làm bất cứ việc gì ở đó cả.
2) Tự do của bản hữu Phật tánh. Phật tánh thì thuộc dương, là toàn thể đại dụng, công năng rộng lớn vô hạn. Ðạt được thứ tự do này, thì cho dù quý vị đang ở thành phố Cựu Kim Sơn, nhưng nếu cần món đồ gì ở Nữu Ước, thì chỉ cần duỗi tay ra là lấy được ngay. Quý vị thấy có kỳ diệu hay không? Ðó có phải là thần thông không? Thật ra, đó là thứ cảnh giới của sự giải thoát, không ràng không buộc, vô quái vô ngại. Ở cảnh giới này, cả cõi tam thiên đại thiên thế giới như ở trong một căn phòng, quý vị có thể đi lại khắp nơi trong đó và làm những việc mình muốn.
Vậy, nếu được giải thoát, được tự do, thì chúng ta sẽ có được những cảnh giới như thế. Tuy nhiên, chúng ta không được phép hiển thị công phu của mình một cách tùy tiện, bất cẩn. Không được nói rằng: "Quý vị thích món đó của Ðức, vậy để tôi sang nước Ðức mua về cho. Tôi chỉ việc thi triển thần thông là xong ngay!" Chúng ta dứt khoát không được lạm dụng thần thông để làm những việc như thế!
Khi sắp nhập Niết Bàn, Ðức Phật căn dặn tất cả đệ tử không được dùng thần thông; bằng không, nếu họ dùng thần thông, thì họ phải gấp rút ra đi, không được ở lại thế giới này lâu hơn nữa! Bởi người thường thì không có thần thông, do đó nếu quý vị dùng thần thông tất sẽ khiến cho mọi người sanh tâm sợ hãi đối với quý vị!
Tóm lại, quý vị có thể tùy tâm như ý làm xong công việc, thì đây là thuộc dương; còn làm không được là thuộc âm, và là tác dụng của thần thức - mọi người cần phải hiểu rõ điều này. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tin Theo tà đạo - Tin theo Ngoại Đạo - Nghi ngờ chánh đạo - Nghi ngờ Phật Pháp
Kinh văn:
"Trong thời Tượng Pháp, có một người con gái dòng Bà La Môn nhiều đời tích phước sâu dày, được mọi người kính nể, đi đứng nằm ngồi đều được chư Thiên theo hộ vệ; song bà mẹ lại tin theo tà đạo, thường khinh chê ngôi Tam Bảo.
Thuở ấy, Thánh Nữ lập nhiều phương tiện để khuyến dụ mẹ, hầu làm cho bà sanh chánh kiến, nhưng bà chưa tin hẳn; và chẳng bao lâu thì bà mệnh chung, thần hồn bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
Lúc đó, Thánh Nữ Bà La Môn biết rằng bà mẹ khi còn sống không tin nhân quả, ắt phải theo nghiệp mà sanh vào đường ác, bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương, hoa, cùng những đồ lễ cúng, rồi đem đến chùa tháp thờ tiên Phật mà làm đại lễ cúng dường."
Lược giảng:
Vậy, trong thời Tượng Pháp sau khi Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai nhập Niết Bàn, "có một người con gái dòng Bà La Môn..."
Bà La Môn là một phái ngoại đạo của Ấn Ðộ. Người theo phái ngoại đạo này tu hạnh thanh tịnh—họ chủ trương ăn chay, không ăn thịt, cũng giảng về việc tu Ðạo, không có hành vi nam nữ bất tịnh— cho nên còn gọi là "Tịnh Duệ." "Tịnh" tức là hạnh thanh tịnh, trong sạch. "Thanh tịnh" là không có hành vi bất tịnh giữa nam nữ, nếu phạm tức là không thanh tịnh.
Dòng Bà La Môn này tuy cũng tu pháp môn "viễn ly," song tu tới tu lui vẫn không đến được chỗ cốt tủy, không đạt được đạo lý rốt ráo. Ðây là một giáo phái có tự ngàn xưa của nước Ấn Ðộ; và cho đến hiện nay, tại Ấn Ðộ vẫn còn rất nhiều loại giáo phái như thế. Ðiển hình là phái Du Già, một giáo phái thoát thai từ đạo Bà La Môn. Ðối với người Trung Hoa thì đạo Bà La Môn chính là Ðạo Giáo (đạo Lão), một giáo phái cũng chủ trương tu hạnh thanh tịnh.
Vậy, cô gái dòng Bà La Môn này được mọi người kính nể, nói gì cũng được mọi người hoan hỷ lắng nghe, và khởi xướng việc gì cũng được mọi người hoan hỷ tán thành, hết lòng hỗ trợ. Chẳng những thế, "đi đứng nằm ngồi đều được chư Thiên theo hộ vệ." Hằng ngày, cô ta luôn luôn được chư Thiên âm thầm che chở, phù hộ.
Như tôi đã nói ban nãy, chúng ta hiện nay đã "kết giới," cho dù quý vị có nghiệp chướng—thí dụ có ma quỷ muốn gây chướng ngại cho quý vị—thì chúng cũng phải đình hoãn lại, không được đến quấy nhiễu quý vị trong lúc này. Bởi vì quý vị đến đây để nghe giảng kinh và bây giờ nơi này đã được "kết giới," thì mọi nợ nần vay trả đều phải tạm thời đình chỉ, không ai được phép đến đây gây rắc rối hoặc sinh sự lôi thôi, mà phải để cho quý vị một lòng một dạ chuyên chú nghe giảng kinh.
Mặc dù cô gái dòng Bà La Môn này có phước đức sâu dày, khi đi đứng lúc nằm ngồi đều có các vị Hộ Pháp, Thiện Thần, Thiên Long Bát Bộ, hoặc chư Thiên theo phù hộ; "song bà mẹ lại tin theo tà đạo, chứ không tin Chánh Pháp, và thường khinh chê ngôi Tam Bảo."
Thế nào gọi là "tin theo tà đạo"? "Tin theo tà đạo" không nhất thiết là tin theo bàng môn tả đạo, mà còn có nghĩa là vừa tin vừa ngờ. Thí dụ có người hôm nay tin Phật, ngày mai lại sanh lòng hoài nghi, phân vân lưỡng lự, không biết mình đúng hay sai: "Nói là tin Tam Bảo Phật Pháp Tăng, nhưng tôi chưa hề gặp một ông ‘Phật’ nào cả. Tôi cũng chưa hề gặp được ‘Pháp’; tuy nói là có kinh điển, song giáo lý chứa đựng trong các kinh sách đó cũng tầm thường, chẳng có gì đặc biệt. Còn ‘Tăng’ thì bất quá chỉ là những con người phàm phu tục tử như bao kẻ khác thôi, vì sao tôi lại phải kính trọng họ?" Sanh lòng hoài nghi như thế, thì cũng gọi là "tin theo tà đạo." Nói tóm lại, không có chánh niệm thì đó chính là tà niệm; và không có chánh tín thì đó là tà tín, là "tin theo tà đạo" vậy.....
"Tin theo tà đạo" cũng có nghĩa là nói ra những điều không có đạo lý, không hợp tình hợp lý. Chẳng hạn có người tuyên bố một cách phi lý rằng: "Quý bà quý cô chỉ cần đưa tôi một trăm đồng (hoặc một ngàn đồng, một vạn đồng), tôi bảo đảm kiếp sau ai nấy đều được sanh làm thân nam, không còn phải mang thân nữ nữa!" Thế nhưng, quý vị nghe xong liền nhẩm tính: "Ồ! Ðược đấy chứ! Một triệu đồng mà mua được thân nam thì đâu có đắt, quá rẻ nữa là khác"; và ngoan ngoãn đem tiền ra nộp cho ông thầy ngoại đạo. Cất tiền vào hầu bao rồi là hắn tha hồ nhậu nhẹt, chơi bời thỏa thích. Tiền bạc một khi đã bị hắn tiêu xài hết rồi, quý vị chẳng có cách nào đòi lại được. Cho nên, tuy nói là bảo đảm kiếp sau làm thân nam, song cũng không có bảo chứng để quý vị có thể đòi bồi thường. Ðó gọi là "tin theo tà đạo." Trên đây là tôi chỉ mới kể ra một vài thủ đoạn lường gạt của bọn "cáo già" (những kẻ chuyên môn đi lường gạt thiên hạ) mà thôi.
Bà mẹ của cô gái dòng Bà La Môn này "thường khinh chê ngôi Tam Bảo." Chỉ vì bà ta toàn là tin vào tà thuyết, cho nên không tin theo Chánh Pháp.
Thế nào gọi là tà thuyết? Chẳng hạn nói rằng: "Quý vị cần gì phải tin Phật? Quý vị chính là Phật kia mà!...
"Khinh chê ngôi Tam Bảo" tức là coi thường Tam Bảo, gặp Tăng, Ni—người xuất gia— thì đều hủy báng, buông lời xúc phạm. Những người thường tỏ ra bực bội, ghét trông thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni; đó cũng là "khinh chê ngôi Tam Bảo" vậy.
"Thuở ấy, Thánh Nữ—tức là cô gái thuộc dòng Bà La Môn nói trên—lập nhiều phương tiện để khuyến dụ mẹ." "Phương tiện" ở đây có nghĩa là đối với những người xem chừng có thể tin tưởng Phật Pháp, thì chúng ta tùy thuận theo hoàn cảnh và trình độ của họ mà linh động giảng giải để họ có thể lãnh hội được. "Khuyến" là dùng lời lẽ khéo léo để khuyên lơn; "dụ" là dẫn dụ, tức là dùng sự lợi lộc để cám dỗ.
Mặc dù Thánh Nữ nhiều lần khuyên nhủ thân mẫu như thế, "hầu làm cho bà sanh chánh kiến, nhưng bà chưa tin hẳn." ... Ðó gọi là vừa tin vừa ngờ, chưa trọn lòng tin cậy vậy.
Không lâu sau thì bà mẹ của cô gái dòng Bà La Môn này qua đời. ...
Người xưa có nói:
(Trông thấy người khác chết,
Lòng ta như lửa đốt,
Chẳng phải xót cho người,
Mà vì nghĩ đến mình. )
Như vậy, sau khi thân mẫu của Thánh Nữ Bà La Môn nọ qua đời thì "thần hồn bị đọa vào địa ngục Vô Gián." "Thần" là thần thức, và "hồn" là linh hồn. "Thần hồn" cũng chính là thức thứ tám. Vì sao gọi là địa ngục Vô Gián (không gián đoạn)? Bởi ở địa ngục này thì thời gian và thân mạng đều không hề gián đoạn—đây là chỉ cho việc dù có một hay nhiều tội nhân thì địa ngục cũng chật đầy như nhau. Trong những bài giảng sắp tới, chúng ta sẽ được biết tường tận hơn về địa ngục Vô Gián.
Vô gián" nghĩa là gì? "Vô gián" có nghĩa là liên tiếp không ngừng, không hề có sự gián đoạn. Ở địa ngục này, tội nhân mặc dù phải chịu muôn phần khổ sở, nhưng mạng vẫn không đứt đoạn; do đó họ cứ liên tục chết đi rồi sống lại, sống lại rồi chết đi. Ðó là do tác dụng của thần thức, mà thần thức thì bất biến.
Lúc đó, Thánh Nữ Bà La Môn biết rằng bà mẹ khi còn sống không tin nhân quả, ắt phải theo nghiệp mà sanh vào đường ác." "Không tin nhân quả" tức là không tin rằng phàm trồng thiện nhân thì được thiện quả, gieo ác nhân tất gặp ác báo. Bà mẹ của Thánh Nữ không chịu tin rằng hễ cái nhân mà không thanh tịnh thì quả cũng không thanh tịnh, và nếu cái nhân không chánh đáng thì quả cũng sẽ không chánh đáng.
Bởi biết rằng mẹ mình sinh thời đã tạo nhiều ác nghiệp, sau khi chết tất phải bị đọa vào đường ác, nên Thánh Nữ "bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương, hoa, cùng những đồ lễ cúng—trái cây, đèn đuốc, tràng phan, bảo cái ...—rồi đem đến chùa tháp thờ tiên Phật mà làm đại lễ cúng dường." Ở đây, "chùa tháp thờ tiên Phật" tức là nội viện chùa tháp của Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Xuất thần (ecstasy, trance):
- Trong thần bí học (mysticism), chúng ta được biết rằng sự xuất thần (ecstasy) về mặt xác thân là sự mê mẩn (trance). Đó là tình trạng đờ đẫn (rapture), và có thể hoặc tốt hoặc xấu.(TTTĐTG, 167)
- Xuất thần chỉ là trạng thái hôn thụy (sleep-state) được gây ra một cách nhân tạo (artificially) hay bất thường. - Dù cho được tạo ra bằng thuật thôi miên do từ điện (by mesmeric), thôi miên thường (hypnotic), bằng thuốc men (medicinal) hoặc các phương cách nào khác, kết quả vẫn như nhau đối với thể xác. (KCVTT, 176)
- … Khi ở trong trạng thái xuất thần (in trance), nghĩa là ở trong thể cảm dục (in the astral vehicle), thoát ra khỏi thể xác (free from the physical). (KCVTT, 222)
- Trạng thái xuất thần đích thực (real ecstasy) được Plotinus định nghĩa như sau: “Đó là việc giải thoát thể trí ra khỏi tâm thức hữu hạn của nó, trở nên hợp nhất và huyền đồng (identified) với cái vô hạn”. (CKMTTL, 12)
+ Xuất hồn: ...đưa thể hồng trần vào trạng thái xuất thần, để cho thể cảm xúc tự do thoát ra khỏi thể hồng trần - Không khuyến khích. Chân sư DK: đó là con đường đi ngược lại sự tiến hóa.
+ Tu hành trong quân đội - Tu hành trong quân ngũ - Người lính tu hành
Hôm qua có một số du khách đến viếng Phật Ðường, và tôi có nói chuyện với họ về trách nhiệm của một người lính. Tôi bảo cho họ biết rằng trong hàng ngũ quân đội thì thường có cả Bồ Tát lẫn Tu La. Bồ Tát ở trong quân đội là để giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ không giết chóc nhiều quá; còn Tu La thì trà trộn vào quân đội để xúi giục binh lính giết người càng nhiều càng tốt. Trong khi Tu La kêu gọi binh lính rằng hễ giết được càng nhiều người thì mình càng trở nên oai phong, công lao lập được càng to tát; thì Bồ Tát lại khuyên họ chớ nên tàn sát, mà nên làm cho đất nước của đôi bên đều được thanh bình, cùng nhau hòa đàm để giải quyết sự việc. Bồ Tát cũng bảo cho họ biết rằng nếu được như thế, thì công lao của họ rất lớn và họ sẽ được thăng quan tiến chức rất nhanh.
Tôi cũng nhấn mạnh với các người khách đó rằng chúng ta nên học làm Bồ Tát, chứ đừng bắt chước Tu La!
Sử Trung Hoa có chép về hai vị tướng là Quan Vũ[1] và Bạch Khởi[2]. Quan Vũ làm tướng nên phải ra trận và giết người rất nhiều, nhưng sau khi tạ thế thì làm Bồ Tát. Còn Bạch Khởi, một võ tướng tài ba đời nhà Tần, thì giết người cũng rất nhiều, và sau khi chết thì phải đọa làm trâu, làm ngựa... Vì sao Bạch Khởi lại bị đầu thai làm thân trâu, ngựa? Bởi vì ông ta đã tàn sát hơn hai mươi vạn hàng binh bằng cách chôn sống. Thuở ấy, có hơn hai mươi vạn binh lính quy thuận đầu hàng ông ta, nhưng ông ta lại nhẫn tâm cho đào một cái hố thật lớn để chôn sống tất cả bọn họ—đây quả là thứ tâm địa của Tu La. Quan Công thì chỉ giết người ác, không giết người thiện; đó gọi là "trừ bạo an lương," dẹp trừ kẻ bạo ác để bảo vệ người hiền lương vô tội. Cho nên, cùng làm tướng cả, mà rốt cuộc thì một người thành Bồ Tát và một người thành trâu, ngựa, heo, dê...
Có một đạo hữu người Mỹ vốn là lính Hải quân hỏi tôi rằng: "Thầy có tin là sau khi chết, con người có thể đầu thai làm súc sanh không?"
Lúc bấy giờ, tôi trả lời rằng: "Anh tin là con người sau khi chết có thể đầu thai làm súc sanh thì cũng được, mà anh không tin là con người có thể đầu thai làm súc sanh thì cũng chẳng sao! Nếu anh tin là có chuyện đầu thai làm súc sanh và nếu anh đáng phải làm súc sanh, thì anh sẽ phải đầu thai làm súc sanh; còn nếu anh không tin là có chuyện đầu thai đó và nếu anh đáng phải làm súc sanh, thì anh cũng vẫn phải đầu thai làm súc sanh như thường! Cho nên, anh tin thì cũng vậy mà không tin thì cũng vậy, chẳng thay đổi được gì cả! Anh làm việc Phật thì anh chính là Phật; anh làm việc Bồ Tát thì anh là Bồ Tát; anh làm việc người thì anh là người; anh làm việc quỷ thì anh là quỷ; và anh làm việc súc sanh thì anh là súc sanh. Nói tóm lại, hễ mình làm việc gì thì bản thân mình sẽ đón nhận hậu quả tương ưng của việc làm đó. Ðừng tưởng rằng chuyện gì mình tin là có thì mới xảy ra, còn nếu mình không tin là có thì sẽ không xảy ra. Phải biết rằng bất luận là anh tin hay không tin, nếu tội anh đáng phải làm súc sanh thì nhất định là anh phải làm súc sanh, chẳng trốn chạy đi đâu được cả; còn nếu anh không đáng phải làm súc sanh thì chắc chắn là anh không phải làm súc sanh! Do đó, vấn đề không phải là tin hay không tin mà được!" (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Thế nào gọi là tà thuyết? Chẳng hạn nói rằng: "Quý vị cần gì phải tin Phật? Quý vị chính là Phật kia mà! Chỉ cần mỗi người đưa cho tôi sáu mươi lăm đồng là được!" Sáu mươi lăm đồng mua được một quả vị Phật—những kiểu nói như thế đều là tà thuyết, đều là luận điệu của tà pháp, tà đạo. Quả vị Phật thì làm sao mà mua bằng tiền được chứ? Ai ai cũng có thể làm Phật, song đó không phải là dùng tiền bạc để mua mà được. Quý vị chỉ dùng tiền để làm công quả, làm thiện sự, và đến bao giờ công đức đầy đủ thì quý vị được thành Phật. Chẳng những làm công quả mà quý vị còn phải dụng công tu Ðạo, phải ngồi tham Thiền nữa; nếu không chịu khó tu tập thì không đời nào có thể thành Phật được cả! Nếu có thể dùng tiền mà mua được quả vị Phật thì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đâu cần phải trải qua "sáu năm khổ hạnh rừng già" trên dãy Tuyết Sơn, rồi sau đó lại ngồi dưới cội Bồ Ðề, đêm nhìn sao mai mà ngộ Ðạo? Vả lại, khi Ngài còn làm Thái Tử thì sẵn tiền rừng bạc bể trong tay, nếu quả vị Phật mà mua được thì Ngài đã mua rồi! Cho nên, vấn đề là quả vị Phật không phải là thứ có thể mua được bằng tiền bạc! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Bên trong chỗ kết giới - Trong chỗ đã kiết giới tu Chánh đạo đã được bảo vệ
Vậy, cô gái dòng Bà La Môn này được mọi người kính nể, nói gì cũng được mọi người hoan hỷ lắng nghe, và khởi xướng việc gì cũng được mọi người hoan hỷ tán thành, hết lòng hỗ trợ. Chẳng những thế, "đi đứng nằm ngồi đều được chư Thiên theo hộ vệ." Hằng ngày, cô ta luôn luôn được chư Thiên âm thầm che chở, phù hộ.
Như tôi đã nói ban nãy, chúng ta hiện nay đã "kết giới," cho dù quý vị có nghiệp chướng—thí dụ có ma quỷ muốn gây chướng ngại cho quý vị—thì chúng cũng phải đình hoãn lại, không được đến quấy nhiễu quý vị trong lúc này. Bởi vì quý vị đến đây để nghe giảng kinh và bây giờ nơi này đã được "kết giới," thì mọi nợ nần vay trả đều phải tạm thời đình chỉ, không ai được phép đến đây gây rắc rối hoặc sinh sự lôi thôi, mà phải để cho quý vị một lòng một dạ chuyên chú nghe giảng kinh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Thấy sự phát nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát:
"Này Văn Thù Sư Lợi! Bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả nhân đó liền phát nguyện rằng: ‘Từ nay cho đến tận vị lai kiếp chẳng thể tính đếm về sau, tôi sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà quảng thiết nhiều phương tiện, làm cho họ được giải thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.’
Bởi đã ở trước Ðức Phật đó mà lập đại nguyện như thế, nên đến nay đã trăm ngàn vạn ức na-do-tha không thể nói hết số kiếp, mà vẫn còn làm vị Bồ Tát."
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi Bồ Tát Văn Thù: "Này Văn Thù Sư Lợi! Bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả nhân đó liền phát nguyện rằng: ‘Từ nay cho đến tận vị lai kiếp chẳng thể tính đếm về sau ...’"
"Tận vị lai kiếp" tức là chỉ cho vô số vô lượng kiếp về sau, tận cùng của số kiếp trong đời vị lai, đến hết kiếp vị lai. Kiếp vị lai vì sao lại có thể hết được? Kiếp vị lai vốn chẳng thể hết hay cùng tận được; song ở đây nói "hết" là ám chỉ quãng thời gian dài bất tận, lâu dài đến nỗi không thể nào tính xuể là bao nhiêu kiếp.
Sau khi được nghe Ðức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai giải thích xong, con trai ông Trưởng Giả bèn phát tâm lập nguyện rằng: "Kể từ bây giờ cho đến tột số kiếp chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà quảng thiết nhiều phương tiện..." Bởi chúng sanh ở thế giới Ta Bà cử tâm động niệm không chi là không tội, không chi là không nghiệp, cho nên họ được mệnh danh là "những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo."
"Lục Ðạo" tức là sáu nẻo đường-Trời, Người, A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh.
"Quảng" là rộng rãi; "thiết" là thiết lập, đặt ra. Vậy, "quảng thiết nhiều phương tiện" tức là tùy nghi mà đặt ra vô số pháp môn phương tiện, chứ chẳng phải chỉ có một mà thôi.
"‘Làm cho họ được giải thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.’" Trưởng Giả tử nguyện rằng đến khi nào mọi chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo đều lìa khổ được vui và đều thành Phật cả rồi, thì bấy giờ anh ta mới thành Phật; nếu còn sót một chúng sanh chưa thành Phật, thì vị Trưởng Giả tử này cũng sẽ chưa thành Phật!
Có câu:
"Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn."
(Nếu còn một kẻ chưa thành Phật,
Tôi quyết không về cõi Nê Hoàn.)
(Kinh Lăng Nghiêm, quyển 3)
Nghĩa là giả sử còn một chúng sanh chưa thành Phật, thì tôi dứt khoát chưa vào Niết Bàn. ("Nê Hoàn" tức là Niết Bàn.)
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: "Này Văn Thù Sư Lợi! Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bởi đã ở trước Ðức Phật đó mà lập đại nguyện như thế, nên đến nay đã trăm ngàn vạn ức na-do-tha bất khả thuyết kiếp, mà vẫn còn làm vị Bồ Tát."
"Na-do-tha" là một con số rất lớn của Ấn Ðộ. "Bất khả thuyết" cũng ám chỉ một con số lớn vô kể. Do đó, "na-do-tha bất khả thuyết kiếp" có nghĩa là số kiếp nhiều đến nỗi không thể nói hết.
Trưởng Giả tử-tiền thân của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát-đã đối trước Ðức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai mà phát lời đại nguyện đó, và từ ấy đến nay đã trải qua quãng thời gian lâu dài tới cả trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp như thế, mà Ngài Ðịa Tạng vẫn còn làm vị Bồ Tát, chứ chưa thành Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Nhân địa: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thỉnh cầu: "Cúi mong Ðức Thế Tôn nói rõ Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ở nhân địa đã tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?" - Giảng: "Nhân địa" nghĩa là gì? "Nhân địa" tức là đời trước, tiền sanh túc thế, nơi chúng ta gieo trồng nhân duyên. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tu Nhân địa - Đối lại: Quả địa. Đồng nghĩa: Nhân vị. Chỉ cho các địa vi hoặc giai vị đạt được trong quá trình từ khi tu tập nhân hạnh đến chứng quả vị, được giải thoát Niết Bàn thành Phật.
Nhân địa có thể chia làm 2 loại:
1. Nói theo quả vị Phật, thì từ Đẳng giác trở xuống đều là Nhân địa, như câu Bồ tát Pháp tạng khi còn ở nhân vị trong Giáo hành tín chứng quyển 2, là nói theo quả địa của đức Phật A di đà. Vì bồ tát Pháp tạng là danh hiệu của đức Phật A di đà khi còn ở địa vị tu nhân (nhân vị)trong quá khứ.
2. Nói theo Bồ tát từ Sơ địa trở lên, thì các giai vị Bồ tát trước Thập địa đều là nhân vị. Tóm lại, giai vị đã chứng gọi giai vị, chưa chứng là Nhân địa. Như kinh Lăng nghiêm quyển 5 (Đại 19, 128 trung) nói: Con xưa kia ở nơi nhân địa dùng tâm niệm Phật mà vào Vô sinh nhẫn. (xt. Quả Địa). (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tu Giải thoát - Tu Nhân địa: Trích đoạn ngài A-nan bạch Phật rằng, “Bạch Thế tôn, như Phật đã dạy, ‘Muốn cầu quả thường trụ, khi phát tâm tu đạo giác ngộ ở nhân địa, phải tương ưng với quả vị. ”
Giảng giải:
Một lần nữa, A-nan phát khởi nghi ngờ, thế là ngài đứng dậy và có câu hỏi khác. A-nan bạch Phật rằng, “Bạch Thế tôn, như Phật đã dạy, theo như giáo lý đã được nói đến trong phần trước, ‘Muốn cầu quả thường trụ, khi phát tâm tu đạo giác ngộ ở nhân địa’”– ở trong nhân địa phát tâm chân chính cầu đạo giác ngộ, nguyện sẽ không bao giờ bị thối chuyển. Phải tương ưng với quả vị. Điều ấy phải không ngược với đạo lý của quả địa tu chứng....
... Tu hành là dùng Tâm Nhân Địa để tiến tu => Làm cho Chân Tâm trong Tâm nhị nguyên hiển lộ:
Sao lại đem cái tâm hoàn toàn đoạn diệt ấy làm nhân tu hành, mà mong đạt được bảy quả vị thường trụ của Như Lai?
Bạch Thế tôn, nếu rời sáng tối thì cái thấy rốt ráo là không. Như không có tiền trần thì vọng niệm trong tự tánh bị diệt mất.
Xoay vần tới lui chiêm nghiệm chính chắn, thấy vốn không có tâm và tâm sở của con. Vậy con lấy gì làm nhân để cầu vô thượng giác?
Giảng giải:
Xoay vần tới lui chiêm nghiệm chính chắn. Con suy xét thật kỹ tiến trình ấy trước sau lui tới nhiều lần, thấy vốn không có tâm và tâm sở của con. Tâm con không thực có. Nó hoàn toàn không hiện hữu. Vậy con lấy gì làm nhân để cầu vô thượng giác, để thành tựu giác ngộ trong quả địa? Con suy xét khắp nơi, không có chỗ nào là tâm con cả. Con không thể dùng tâm sinh diệt. Và con cũng không thể tìm ra chân tâm. Thế làm sao để lấy một tâm trong nhân địa mà cầu giác ngộ trong quả địa?
Trước đây Như Lai đã nói, tánh hay biết vốn vắng lặng, viên mãn, thường trụ, thật là lời nói trái ngược, rốt ráo thành hí luận. Làm sao để nhận ra lời dạy của Như Lai là chân thật?
Giảng giải:
Thế thì, làm sao để nhận ra lời dạy của Như Lai là chân thật? Giáo pháp Đức Phật đã Giảng giải tự nó mâu thuẫn. Trước hết ngài dạy, “Đừng dùng tâm sinh diệt,” rồi sau đó ngài lại nói rằng đùng chính tâm đó mà tu hành. “Con, A-nan, trong tâm không khỏi có nghi nan, và càng nghe càng thấy khó hiểu. Như Lai vẫn thường nói lời chân thật, chân ngữ, thật ngữ. Tại sao nay Như Lai lại nói lời mâu thuẫn như vậy?”
Cúi mong Như Lai rủ lòng đại từ khai ngộ chỗ mê lầm cho chúng con. .....
* Đoạn này Đức Phật dùng tiếng chuông để giáo hóa Tánh nghe với tiếng chuông, để nhận biết Tánh Nghe không bao giời mất - Cũng Như Chân tâm trong Tâm nhị nguyên vẫn thường hằng (Mời xem Kinh văn gốc)
... Biết có biết không, chính là thanh trần hoặc có hoặc không. Chứ tánh nghe kia đâu có vì ông mà thành có thành không? Nếu nói tánh nghe thật là không, thì ai biết là không nghe?
Thế nên A-nan, tiếng trong cái nghe, tự có sinh diệt, chẳng phải vì ông nghe có tiếng và không có tiếng. Khiến ông nghĩ rằng tánh nghe của ông là có, là không.
Ông còn điên đảo, lầm cho tiếng là tánh nghe. Đâu có lạ gì khi cho thường là đoạn. Tóm lại, không nên nói rằng rời các tướng động tĩnh, bế tắc, khai thông thì cái nghe không có tánh.
Dù cho thân hình ông có tiêu tan. Làm sao mà tánh nghe ấy vì ông mà tiêu mất?
Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh, truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển. Chưa từng khai ngộ bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu.
Không theo cái thường, chỉ đuổi theo sanh diệt. Do vậy phải sanh mãi và chịu tạp nhiễm khi lưu chuyển.
Nếu trừ bỏ sanh diệt, giữ tính chân thường, tính sáng suốt chân thường hiện tiền. Các thứ căn trần, thức tâm phân biệt đều tiêu mất.
Tướng của vọng tưởng là trần, thức tình phân biệt là cấu nhiễm. Cả hai đều rời bỏ, làm sao không thành Vô thượng trí giác? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương V)
+ Tiểu Quả tức là quả vị của hàng Tiểu Thừa-Thanh Văn, Duyên Giác (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Trí vô ngại - Biện luận thông suốt:
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành, chứng được Trí Vô Ngại."
"Trí Vô Ngại" tức là Tứ Vô Ngại Trí, hay còn gọi là Tứ Vô Ngại Biện, tức là bốn loại tài trí biện luận không bị ngăn ngại:
1. Pháp biện luận không ngăn ngại (Pháp Vô Ngại Biện). đây là nói về khả năng giảng Pháp một cách vô cùng sâu sắc, hữu lý và tuy chỉ là một đạo lý song có thể triển khai thành trăm ngàn vạn ức đạo lý rồi từ trăm ngàn vạn ức đạo lý có thể quy nạp lại thành một đạo lý.
2. Nghĩa biện luận không ngăn ngại (Nghĩa Vô Ngại Biện). Biện giải mọi nghĩa lý một cách thông suốt, không hề bị ngăn ngại.
3. Lời biện luận không ngăn ngại (Từ Vô Ngại Biện) . Nói năng hoạt bát lưu loát không bị trở ngại về ngôn từ; lời nói thốt ra cũng hợp với đạo lý.
4. Vui thuyết biện luận không ngăn ngại (Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện). Biện tài vui thuyết không trở ngại.. "Nhạo thuyết" tức là thích nói, vui vẻ thuyết giảng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Ngũ Nhãn: Trích đoạn Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tri kiến thế nào gọi là ngũ nhãn? Thế Tôn nói:
1. Nhục nhãn chỉ thấy được chỗ tối, thấy trước mắt chớ không thấy sau lưng.
2. Thiên nhãn trước sau, trong ngoài, núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại.
3. Huệ nhãn thấy được nghĩa lý trong văn tự cạn sâu và nhân quả lành dữ kiếp trước kiếp sau, rõ rệt như chỉ trong bàn tay.
4. Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của chư Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy.
5. Phật nhãn tròn sáng chói khắp, trước kiếp vô thỉ, sau kiếp vô chung tất cả nhân quả như thấy trước mắt, mảy lông cộng tóc không sót.
Năm thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Ngũ nhãn:
Nhục Nhãn ngại, chẳng thông
Thiên Nhãn thông, chẳng ngại
Pháp Nhãn quán tục đế
Huệ Nhãn rõ chơn không
Phật Nhãn, ngàn mặt trời
Khác tánh, thể vẫn đồng.
" Nhục Nhãn ngại, chẳng thông ? (Nhục Nhãn ngại phi thông). Nhục Nhãn là gì? Nhục Nhãn tức là "con mắt thịt," chỉ có thể nhận thấy được con người và đồ vật.
" Thiên Nhãn thông, chẳng ngại ? (Thiên Nhãn thông phi ngại). Thiên Nhãn thì nhìn cái gì cũng thông đạt, có thể thấy được vô cùng thấu triệt, không có sự ngăn ngại.
Với mắt Nhãn này thì chẳng những đồ đạc trong phòng mà ngay cả ở ngoài, thậm chí bất luận là bao xa, chỉ cần quý vị muốn nhìn là đều có thể thấy được. Nếu quý vị không nhìn thì sao? Thì đương nhiên là sẽ không thấy! Tuy rằng có thể nhìn thấy được, nhưng tốt nhất là đừng nhìn! Vì sao vậy? Bởi khi quý vị nhìn một vật nào đó thì sẽ bị phân tâm, và liền khởi tâm động niệm. Sanh thêm một tâm niệm thì không bằng ít bớt một tâm niệm; giảm đi một vọng tưởng thì vẫn hơn là tăng thêm một vọng tưởng. Quý vị dùng Nhục Nhãn này để nhìn mọi vật, xem xét sự việc, và đó đều gọi là "niệm." Mặc dù cái "niệm" này có phần nào không giống với những tâm niệm hoặc ý nghĩ thông thường khác, song cũng chẳng có ích lợi gì cả. Do đó, có những lúc dù có thể nhìn thấy được đi chăng nữa, thì quý vị cũng chẳng nên nhìn!
Vậy, "Nhục Nhãn ngại phi thông" ngụ ý rằng với Nhục Nhãn, cái nhìn còn gặp sự chướng ngại của đồ vật cụ thể, không nhìn xuyên qua được.
" Pháp Nhãn quán tục đế (Pháp Nhãn duy quán tục). "Con mắt Pháp" chỉ quán xét, nhìn thấy tục đế. "Tục đế" tức là những tình hình của thế gian nói chung. Nếu quý vị được mở Pháp Nhãn thì khi tụng kinh sẽ không cần phải nhìn vô sách nữa. Bấy giờ, quý vị chỉ việc "mở con mắt Pháp" ra thì sẽ thấy cùng tận hư không và khắp Pháp Giới đều toàn là kinh điển, đâu đâ cũng thấy tràn ngập vô lượng vô biên Pháp bảo. Quý vị chỉ cần chứng đắc Pháp Nhãn Tịnh là có thể quán thấy được tất cả thật tướng của các pháp. Vậy, Pháp Nhãn chỉ quán xét tục đế.
" Huệ Nhãn rõ chơn không (Huệ Nhãn liễu chân không). "Con mắt trí huệ" thì quán xét tánh "không." "Tục đế" còn được gọi là "giả đế," bởi nó không phải là loại có thực thể. Huệ Nhãn liễu chân không nghĩa là con mắt trí huệ có thể nhìn thấu triệt được thật tướng chơn không của các pháp.
" Phật Nhãn, ngàn mặt trời? (Phật Nhãn như thiên nhật). Mắt của Phật thì quang minh, chiếu sáng như cả ngàn mặt trời vậy.
" Khác tánh, thể vẫn đồng? (Chiếu dị, thể hoàn đồng). Cái thấy của năm thứ mắt này tuy chẳng giống nhau, song về bản thể thể vẫn chỉ là một mà thôi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Phật Nhãn
Trích đoạn: Mặc dù A-nan chưa chứng được quả vị thanh tịnh vô lậu, nhưng A-nan có thể nhờ sức oai thần của Đức Phật mà nhìn thấy được cõi Sơ thiền. A-nan đã mở được Phật nhãn, nhưng ông vẫn không thấy được cõi Sơ thiền. Khi được khai Phật nhãn, có cả ngàn cấp độ sai khác nhau. Cũng chỉ đơn giản là mở mắt và nhìn thấy được mọi vật như thấy bằng mắt thường. Có người thấy xa 3 dặm, có người thấy 7 dặm, có người thấy 10 dặm, có người thấy 30 hay 300, 3000 dặm. Cao nhất, có người thấy được 84.000 dặm và có thể quán sát mọi hiện tượng xảy ra trong 80.000 đại kiếp[15]. Đó không phải là trường hợp ngay khi mắt quý vị mở ra và thấy được vật. Chỉ có nhờ vào năng lực thần thông của Đức Phật, A-nan mới thấy được cõi Sơ thiền trong suốt rõ ràng không chướng ngại, như ông A-na-luật-đà thì thấy cõi Diêm-phù-đề. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q2)
+ Phật Nhãn: Người được khai Phật nhãn rồi có thể nhìn thấy được không chỉ phía trước, mà có thể thấy được cả phía sau, thấy hai bên, trên và dưới–người ấy có thể thấy được cả cõi giới hư không. Nhưng đó không phải là vấn đề được nói ở đây, vì chúng ta đang nói về mắt trần của hàng phàm phu. Phương trước hoàn toàn sáng, phía sau hoàn toàn tối. Nhìn qua lại hai bên, chỉ được hai phần ba (⅔). Không thể thấy hoàn toàn mọi thứ chung quanh mình. Tóm lại, công năng của nhãn căn không được hoàn toàn. Trong ba phần công đức, một phần không có. Quý vị có thể nhìn thấy phía trước và hai bên, chứ không thể nhìn được phía sau. Nên biết nhãn căn chỉ có tám trăm công đức. Nhãn căn không phải là căn thù thắng vì không dùng được toàn thể công năng của nó.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ Một Pháp tu Khai mở Phật Nhãn - Người tu tại gia cũng có thể đạt thành tựu:
... Để có được Phật nhãn, quý vị phải nhất tâm tu tập pháp đại bi, đặc biệt là 42 Đại bi thủ nhãn ấn pháp (Forty-two Greatly Compassionate Hands and Eyes). Nếu quý vị nhiệt tâm tu tập pháp nầy thì có thể đạt được Phật nhãn. Đó là pháp ‘vượt cầu môn.’ Nếu một người đã đạt được Phật nhãn mà xuất gia, thì vị ấy sẽ cứu giúp cho rất nhiều chúng sinh, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào nhân duyên. Những ai muốn có được Phật nhãn phải cực kỳ tinh tấn tu tập 42 Đại bi thủ nhãn ấn pháp. Đừng bỏ công phu dù chỉ một ngày. Và điều quan trọng nhất là quý vị không được hút thuốc khi tu tập pháp nầy. Nếu quý vị vẫn hút thuốc trong khi tu, thì các vị hộ pháp thiện thần (dharma-protecting good spirits) sẽ qủa trách quý vị. Thế nên đừng tuỳ tiện việc ấy.
Tôi hy vọng rằng mọi người trong chúng đây sẽ rất tinh chuyên tu tập 42 Đại bi thủ nhãn ấn pháp. Đừng bao giờ lơ là dù chỉ một ngày. Tuy vậy, cũng phải cần đến vài ba năm công phu mới mong đạt được kết quả. Nếu quý vị đã từng tu tập trong đời trước rồi, thì tiến bộ sẽ rất nhanh. Quý vị sẽ rất sớm có được huệ nhãn. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.5)
+ 5. Phật nhãn tròn sáng chói khắp, trước kiếp vô thỉ, sau kiếp vô chung tất cả nhân quả như thấy trước mắt, mảy lông cộng tóc không sót. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ " Phật Nhãn, ngàn mặt trời? (Phật Nhãn như thiên nhật). Mắt của Phật thì quang minh, chiếu sáng như cả ngàn mặt trời vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Huệ Nhãn - Nhãn thông tinh thần: Loại nhãn thông này mở ra thế giới trực giác hay cõi bồ đề, và đưa người có được nó vượt qua các phân cảnh trừu tượng của cõi trí. Các sự vật thuần túy tinh thần và các mục tiêu căn bản ẩn dưới mọi biểu lộ đều được nhận ra theo cách đó, cũng như nhãn thông thuần túy cho phép người sở hữu được nó rút ra được tài nguyên minh triết thuần túy. Cùng với sự phát triển nhãn thông này, trung tâm lực trên tủy sống trở nên linh hoạt và hoa sen ngàn cánh khai mở. (ASCLH, 69)
+ 3. Huệ nhãn thấy được nghĩa lý trong văn tự cạn sâu và nhân quả lành dữ kiếp trước kiếp sau, rõ rệt như chỉ trong bàn tay.
Năm thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ " Huệ Nhãn - Mắt trí huệ rõ chơn không (Huệ Nhãn liễu chân không). "Con mắt trí huệ" thì quán xét tánh "không." "Tục đế" còn được gọi là "giả đế," bởi nó không phải là loại có thực thể.
"Huệ Nhãn liễu chân không" nghĩa là con mắt trí huệ có thể nhìn thấu triệt được thật tướng chơn không của các pháp. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Mắt thứ ba (third eye): Mắt thứ ba được tạo ra nhờ hoạt động của ba yếu tố:
Thứ nhất, nhờ sức thôi thúc trực tiếp của Chân Ngã trên cảnh giới riêng của nó. Trong phần lớn của cuộc tiến hóa, Chân Ngã tiếp xúc với hình ảnh của nó, tức con người ở cõi trần, qua trung tâm lực ở đỉnh đầu. Khi con người ngày càng tiến hóa cao hơn và đến gần hay bước trên Thánh đạo thì Bản Ngã nội tại có được hiểu biết đầy đủ hơn đối với hiện thể thấp của nó, và đi xuống đến một điểm trong đầu hay bộ óc nằm gần bí huyệt trán. Đây là sự tiếp xúc thấp nhất của nó. Ở đây, thật là lý thú mà ghi nhận sự tương ứng với sự tiến hóa của các giác quan. Ba giác quan chính và là ba giác quan đầu tiên để biểu hiện theo thứ tự là thính giác, xúc giác và thị giác. Trong phần lớn sự tiến hóa, thính giác là xung lực hướng dẫn sự sống con người qua sự giao tiếp của Chân Ngã với đỉnh đầu. Sau đó, khi Chân Ngã xuống thấp hơn một ít, trung tâm lực dĩ thái vốn đang hoạt động liên quan với tuyến yên được đưa thêm vào, và con người trở nên đáp ứng với các rung động tinh anh và cao siêu hơn; sự tương ứng huyền linh đối với xúc giác ở cõi trần đang khơi hoạt. Sau cùng, con mắt thứ ba khai mở và đồng thời tuyến tùng quả bắt đầu hoạt động. Trước tiên, chỉ nhìn thấy lờ mờ và tuyến chỉ đáp ứng một phần với rung động, nhưng dần dần, mắt khai mở đầy đủ, tuyến được linh hoạt hoàn toàn và chúng ta trở thành người “hoàn toàn thức tỉnh”. Khi trường hợp này xảy ra, trung tâm lực trên tủy sống rung động và bấy giờ, ba bí huyệt đầu hoạt động.
Thứ hai, nhờ hoạt động phối kết của bí huyệt chính ở đầu, tức hoa sen nhiều cánh trên đỉnh đầu. Trung tâm này tác động trực tiếp đến tuyến tùng quả, và sự tương tác của lực ở sau cả hai (ở một mức độ nhỏ, tương ứng của các cặp đối hợp, tinh thần và vật chất) tạo ra cơ quan vĩ đại của ý thức, “con mắt của Shiva”. Đó là khí cụ của minh triết, và trong ba trung tâm năng lượng này, chúng ta có sự tương ứng của ba trạng thể bên trong đầu của con người:
1. Bí huyệt ..... Trạng thái .......... Tinh .......... Cha
chính trên đầu Ý chí thần trên trời
2. Tuyến .......T.thái M.triết ....... Ý thức ...... Con
tùng quả – Bác ái
3. Mắt ........ Trạng thái .......... Vật chất ..... Mẹ
thứ ba Hoạt động
Mắt thứ ba là tác nhân điều động năng lượng hay mãnh lực, và như thế, là khí cụ của ý chí hay Tinh thần; nó chỉ đáp ứng với ý chí đó khi được điều khiển bởi trạng thể Con, tác nhân khai mở bản chất bác ái minh triết của Thượng Đế và con người, và do đó, nó là dấu hiệu của nhà huyền linh học.
Thứ ba, tác động phản xạ của chính tuyến tùng quả. Khi ba loại năng lượng này hay sự rung động của ba trung tâm lực này bắt đầu tiếp xúc với nhau, một sự tương tác rõ rệt được tạo thành. Vào đúng lúc, sự tương tác tam phân này tạo thành một xoáy lực (vortex) hay trung tâm lực, vị trí của nó nằm ở giữa trán, và sau cùng, mang vẻ tương tự của con mắt nằm ở giữa hai con mắt kia. Đó là con mắt của nội nhãn thông, và kẻ nào mở được mắt đó thì có thể điều khiển và chi phối năng lượng của vật chất, thấy được mọi sự việc trong Hiện tại Vĩnh cửu và do đó, tiếp xúc với nguyên nhân nhiều hơn là với hiệu quả, đọc được tiên thiên ký ảnh và nhìn thấy một cách tường tận. Nhờ đó, kẻ có được con mắt đó có thể chi phối những vị kiến tạo cấp thấp. (LVLCK, 1011)
– Mắt thứ ba tồn tại trong chất dĩ thái :
a) Đàng trước đầu.
b) Nằm ngang đôi mắt hồng trần.
Mắt thứ ba là một trung tâm năng lượng được tạo thành bởi một tam giác lực:
1. Tuyến yên (pituitary body).
2. Tuyến tùng quả (pineal gland).
3. Trung tâm lực trên tủy sống (altar major center) (LVLCK, 965)
+ Thiên Nhãn Thông: Trích đoạn nói về 7 Đại, sau mục Kiến đại: Đức Phật dạy A Nan. Nhìn lại thân cha mẹ sinh ra, như mảy bụi phất phơ trong mười phương hư không, thoạt còn thoạt mất; như trong đại dương mênh mông, nổi lên hòn bọt nước, chẳng biết sinh diệt từ đâu. Rõ ràng tự nhận biết được chân tâm nhiệm mầu xưa nay thường trụ bất diệt.
Giảng:
"Nhìn lại, trước đó, họ chỉ nhìn ra ngoài, và họ chẳng thể nào nhìn thấy được họ. Nhưng bây giờ họ nhìn lại và có thể họ thấy được mắt của chính mình. Đức Phật nói rằng người ta không thể nào thấy được mặt mình. Thế mà bây giờ làm sao họ thấy được mắt họ? Họ phải mở được thiên nhãn. Với thiên nhãn. không những quý vị có thể thấy được bên ngoài mà còn thấy được bên trong. Khi quý vị nhìn vào trong thân mình, thấy nó cũng giống như cái bể chứa bằng thủy tinh.
Khi quý vị nhìn vào trong cái bể chứa bằng thủy tinh nầy, sẽ thấy máu huyết của quý vị màu gì. Khi quý vị có được thiên nhãn thông, huệ nhãn và Phật nhãn, quý vị sẽ thấy được từng bộ phận trong cơ thể mình. Quý vị sẽ thấy được thân có bệnh gì, những nơi khí huyết không lưu thông tốt được. Quý vị có thể thấy được cả trong lẫn ngoài. Vào lúc ấy mọi người trong đại chúng đều nhận ra được hư không trong mười phương giống như nhìn các vật trong lòng bàn tay, và cũng thấy được trong bao tử của họ. Họ thấy được trong cơ thể của họ. Cơ thể của họ cũng giống như hư không trong mười phương.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Thiên Nhãn thông: Ngày 15/07 âm lịch - Đó cũng là ngày kỷ niệm ngài Mục-kiền-liên có được thiên nhãn thông. Khi được như vậy, việc ngài làm trước hết là tìm xem mẹ mình đang ở đâu. Ngài thấy mẹ mình đang ở địa ngục và chịu nhiều nỗi khổ.
Ngài A La Luật thiên nhãn đệ nhất: Khi nghe Pháp, ngài thường hay ngủ. Sau khi bị (Đức Phật) quở trách như vậy, trong nỗ lực của nhiệt tâm, A-na-luật-đà không ngủ suốt bảy ngày đêm. Cuối cùng ngài bị mù vì mất ngủ. Đức Phật thấy thương xót nên mới truyền dạy cho ngài pháp tu Nhạo kiến chiếu minh kim cương tam-muội. Nhờ tu pháp này, ngài chứng được thiên nhãn thông. Mắt trần của ngài bị mù, nhưng ngài trở nên đệ nhất thiên nhãn. Ngài có thể nhìn thấy mọi vật rất rõ ràng. Quý vị không nên nghĩ rằng ‘khai nhãn’ là giống như nhau trong mọi trường hợp. Có người thấy mọi vật rất rõ ràng, và có người thấy không được rõ. A-na-luật-đà thấy rõ nhất trong tất cả, ngài có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới như thấy một vật trong bàn tay. Trong đoạn văn nầy, Đức Phật lại nhắc cho A-nan nhớ về ngài A-na-luật-đà không có mắt mà vẫn thấy.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
* Ngài A La Luật: ... Nghe Phật trách (Ngủ nhiều) như thế, Ngài nức lòng ra sức dụng công, không ngủ nữa. Liên tục không ngủ suốt bảy ngày đêm, cặp mắt Ngài bị mù. Ðức Phật thương tình mới dạy Ngài tu Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội, kết quả Ngài được tôn là Thiên nhãn bậc nhất.(HT Tuyên Hóa giảng Phẩm Phổ môn - Kinh Pháp Hoa). Xem Kinh Kim Cang Tam Muội
+ 2. Thiên nhãn trước sau, trong ngoài, núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ " Thiên Nhãn thông, chẳng ngại ? (Thiên Nhãn thông phi ngại). Thiên Nhãn thì nhìn cái gì cũng thông đạt, có thể thấy được vô cùng thấu triệt, không có sự ngăn ngại.
Với mắt Nhãn này thì chẳng những đồ đạc trong phòng mà ngay cả ở ngoài, thậm chí bất luận là bao xa, chỉ cần quý vị muốn nhìn là đều có thể thấy được. Nếu quý vị không nhìn thì sao? Thì đương nhiên là sẽ không thấy! Tuy rằng có thể nhìn thấy được, nhưng tốt nhất là đừng nhìn! Vì sao vậy? Bởi khi quý vị nhìn một vật nào đó thì sẽ bị phân tâm, và liền khởi tâm động niệm. Sanh thêm một tâm niệm thì không bằng ít bớt một tâm niệm; giảm đi một vọng tưởng thì vẫn hơn là tăng thêm một vọng tưởng. Quý vị dùng Nhục Nhãn này để nhìn mọi vật, xem xét sự việc, và đó đều gọi là "niệm." Mặc dù cái "niệm" này có phần nào không giống với những tâm niệm hoặc ý nghĩ thông thường khác, song cũng chẳng có ích lợi gì cả. Do đó, có những lúc dù có thể nhìn thấy được đi chăng nữa, thì quý vị cũng chẳng nên nhìn!
Vậy, "Nhục Nhãn ngại phi thông" ngụ ý rằng với Nhục Nhãn, cái nhìn còn gặp sự chướng ngại của đồ vật cụ thể, không nhìn xuyên qua được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Pháp Nhãn trong Ngũ nhãn Lục thông
1. Con mắt pháp, năng lực nhận ra các pháp một cách tường tận. Với Pháp nhãn này, Bồ Tát có thể cứu độ tất cả chúng sinh;
2. Dạng thứ 2 trong Ngũ nhãn (五眼);
3. Tên của một vị Thiền sư quan trọng (885-958) vào đời Đường Trung Hoa, thường được biết với thuỵ hiệu là Thanh Lương Quốc Sư (清涼國師). Còn được biết qua pháp danh Văn Ích (文益). Pháp Nhãn Văn Ích.
I. Pháp Nhãn. Chỉ cho mắt trí tuệ có khả năng thấy được thực tướng của tất cả các pháp và thấu suốt các pháp duyên sinh sai biệt 1 cách rõ ràng. Là 1 trong Ngũ nhãn. Bồ tát vì hóa độ chúng sinh, dùng Pháp nhãn thanh tịnh quan sát khắp các pháp, tu hành chứng đạo; lại biết rõ các pháp môn phương tiện thích hợp với mỗi chúng sinh, nên có thể giúp chúng sinh tu hành chứng đạo. [X. kinh Đại phẩm bát nhã Q.2; kinh Vô lượng thọ Q.hạ; luận Đại trí độ Q.33; luận Du già sư địa Q.14]. (xt. Ngũ Nhãn).(Nguồn: Xem tại đây)
+ 4. Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của chư Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy.
Năm thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ " Pháp Nhãn quán tục đế (Pháp Nhãn duy quán tục). "Con mắt Pháp" chỉ quán xét, nhìn thấy tục đế. "Tục đế" tức là những tình hình của thế gian nói chung. Nếu quý vị được mở Pháp Nhãn thì khi tụng kinh sẽ không cần phải nhìn vô sách nữa. Bấy giờ, quý vị chỉ việc "mở con mắt Pháp" ra thì sẽ thấy cùng tận hư không và khắp Pháp Giới đều toàn là kinh điển, đâu đâ cũng thấy tràn ngập vô lượng vô biên Pháp bảo. Quý vị chỉ cần chứng đắc Pháp Nhãn Tịnh là có thể quán thấy được tất cả thật tướng của các pháp. Vậy, Pháp Nhãn chỉ quán xét tục đế. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Nhục nhãn trong ngũ nhãn:
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tri kiến thế nào gọi là ngũ nhãn?
Thế Tôn nói:
1. Nhục nhãn chỉ thấy được chỗ tối, thấy trước mắt chớ không thấy sau lưng. (Nguồn: Đại thừa Kim Cang Luận)
+ " Nhục Nhãn ngại, chẳng thông ? (Nhục Nhãn ngại phi thông). Nhục Nhãn là gì? Nhục Nhãn tức là "con mắt thịt," chỉ có thể nhận thấy được con người và đồ vật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đại biểu Thiền tông không hai (Một: Bình đẳng; Hai là Phân biệt, vọng tưởng, chấp trước). Thiền tông là do tổ sư Đạt Ma truyền xuống, không phải là Thiền định trong Lục độ, mà là Bát Nhã Ba La Mật trong lục độ. Thiền tông là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa.Thiền Tông - Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là đại biểu, đây là bổn tôn trong Tông môn, Phổ Hiền là bổn tôn trong Mật tông. Tất cả đều hướng về Tịnh Độ. Chúng ta tu Tịnh Độ, tâm đã định rồi thì nhìn thấy Thiền, nhìn thấy Mật, rất hay. Ta là “Mật trong Mật, Thiền trong Thiền”, không hề bị họ làm lay động, tín tâm nguyện tâm của bạn mới kiên định.....H.T. TỊNH KHÔNG ! Xem thêm
+ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi: Văn-thù-sư-lợi là Bồ-tát Diệu Cát Tường, còn gọi là Bồ-tát Diệu Đức. Ngài cùng với Bồ-tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát thường lắng nghe âm thanh ở thế gian và Bồ-tát Phổ Hiền, vị Bồ-tát biểu tượng cho nguyện lực vĩ đại, là các vị Đại Bồ-tát, là những Pháp vương. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Văn-thù Sư-lợi Pháp vương tử...Văn-thù-sư-lợi còn gọi là Mạn-thù-sư-lợi. Ðó là do đọc âm trại mà có sự sai khác. Mạn-thù-sư-lợi là tiếng Phạn, dịch là Diệu Cát hay Diệu Ðức. Vị Bồ-tát này là người có trí huệ hơn hết trong hàng Bồ-tát. Bồ-tát dịch là Giác hữu tình, là một người giác ngộ trong chúng sanh; chúng sanh là mê hữu tình, chúng ta đây là một loài mê muội trong loài hữu tình. Giác ngộ chính là giác ngộ tất cả cảnh giới trước mặt nên có câu nói thế này: "Thấy việc, biết việc, thoát thế gian." Thấy việc gì có thể giác ngộ được tất cả cảnh giới thì có thể ra khỏi thế gian. Còn thấy việc gì lại mê muội trong cảnh giới ấy thì sẽ đọa vào trầm luân. Ra khỏi thế gian chính là Bồ-tát, đọa lạc trầm luân chính là chúng sanh. Chỗ khác nhau giữa chúng sanh và Bồ-tát chính là mê và giác mà thôi. Cho nên Phật là người giác ngộ, tức là người giác ngộ trong chúng sanh. Chúng ta cũng có thể nói Bồ-tát là người giác ngộ, vì người giác ngộ là Bồ-tát, kẻ mê muội là chúng sanh. Vị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này khi sanh ra có mười việc cát tường, chứng tỏ rằng công đức của vị Bồ-tát này đầy đủ bậc nhất trên thế giới. Mười thứ cát tường ấy là:
1. Ánh sáng đầy nhà: Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi được sanh ra thì ở trong nhà có một thứ ánh sáng, ánh sáng này không phải là ánh sáng mặt trời, ánh trăng, ánh sao, hoặc ánh đèn. ánh sáng này là biểu thị ánh sáng trí huệ Bát-nhã của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, cũng chính là để nói rằng: vị Bồ-tát này có đại trí đại huệ, có thể diệt trừ tất cả màn tối vô minh.
2. Cam lộ đầy sân: Cam lộ là loại nước thuốc bất tử, chỉ trên trời mới có. Cam lộ có thể làm cho người ta no ấm, không ăn cơm cũng không đói. Người ta không ăn cơm sẽ đói. Tại sao lại đói? Vì không có cam lộ để nuôi dưỡng nên cảm thấy đói, không có tinh thần làm việc. Cam lộ có thể khiến người được no ấm, được trong sạch mát mẻ. Cho nên ngạ quỷ một khi được Cam lộ rưới lên đầu, tức khắc được tiêu trừ tội nghiệp. Cam lộ đầy sân biểu thị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dùng pháp cam lộ để cứu độ chúng sanh. Vì cứu độ tất cả chúng sanh nên cửa cam lộ mở ra thì ngạ quỷ tiến vào sẽ được no ấm.
3. Ðất trồi lên bảy báu: Từ đất sanh ra bảy thứ châu báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Bảy thứ này sao gọi là báu? Trên thế giới này, những vật gì ít có mới được coi là quý báu, còn nhiều thì sẽ không còn quý báu nữa. Ví như đất cũng là một thứ bảo bối, người ta nếu không có đất thì sẽ không sống được, nhưng ai cũng thấy nó dẫy đầy nên không coi là quý báu nữa. Nếu đem một cục đất tặng cho ai, người ta nhất định sẽ không nhận mà vứt xuống đất. Tại sao thế? Vì đất chỗ nào cũng có. Nước cũng là một thứ bảo bối, người ta không có nước thì không sống được, cho đến mọi sinh vật, nếu thiếu nước thì cũng không thể sống được. Cho nên Lão Tử nói: "Bậc thượng thiện giống như nước. Nước thiện lợi đối với vạn vật mà không tranh." Ví như đối với hoa, nước không thể nói: "Ðóa hoa này nhờ tôi tưới mỗi ngày hoa mới lớn và đẹp như thế; nếu không có tôi thì hoa làm sao có được như ngày nay ư?" Ở chỗ mọi người ghét bỏ, ở chỗ thấp trũng, chỗ mà ai cũng không muốn ở thì nước sẽ ở nơi đó; "Cho nên gần với đạo", vì thế đạt được đạo vậy.
Xưa nay, kim mộc thủy hỏa thổ đối với nhân loại đều có chỗ lợi ích, nhưng tại sao người ta không quý trọng? Tại vì chúng quá nhiều, như cây gỗ đi đâu cũng thấy nó. Còn vàng, tại sao lại được trân quý? Vì ít có. Như ở thế giới Cực Lạc vàng ròng làm đất, nắm đất kia sẽ có giá trị vì ở cõi ấy không có đất. Nếu đem cho người ở thế giới Cực Lạc một cục đất cũng chẳng khác nào như mang một cục đất từ mặt trăng trở về. Dù là một cục đá, nhưng đem về từ mặt trăng, vì ít có nên được coi là quý.
Tại sao gọi là thất bảo? Tại vì hiếm có, không phải ai ai cũng có được, cho nên gọi là bảy báu vật. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có vô lượng kho báu, cho nên lúc ngài sanh ra, bảy thứ báu cũng ngay lúc ấy từ đất trồi lên. Trồi lên nhiều ít? Lấy hoài không hết, dùng hoài không cạn, lấy xong lại có nữa. Bảy báu ở đâu? Ở chỗ mà Bồ-tát Văn-thù sanh ra. Có người nói: "Vậy thì tôi đến đó lấy nhé!" Chớ sanh lòng tham, e rằng tổn phí còn lớn hơn số bảy báu lấy được cho nên đừng có vọng tưởng.
4. Thần mở kho tàng ẩn giấu: Chuyển Luân Thánh vương có bảy báu, trong đó có một thứ là Tạng thần bảo, chính là vị thần cai quản kho báu. Bảy báu từ dưới đất lộ ra là bảy báu từ dưới đất trồi lên, kho báu này là của người trước chôn giấu, bây giờ vị thần giữ cửa kho khui mở ra, nên từ dưới đất lộ ra. Báu vật này cũng đều có thể dùng được.
5. Gà sanh trứng phụng: Gà vốn sanh ra gà, nhưng hiện tại, gà lại sanh ra phụng hoàng. Phụng hoàng là một thứ chim cát tường, người thấy được phụng hoàng nhất định sẽ gặp chuyện tốt lành. Ðức Khổng Tử từng nói: "Chim Phụng không đến, hà đồ không hiện ra, ta không còn muốn truyền đạo nữa." Ý ngài nói: "Chim Phụng hoàng cũng không đến, cũng không có Hà đồ lạc thư xuất hiện, ta muốn dừng lại không còn tuyên dương đạo đức nữa.
6. Heo sanh con vảy rồng: Gà sanh ra phụng còn chưa lạ lùng bằng heo sanh ra con có vảy rồng. Xưa nay, rồng sanh ra rồng, nhưng bây giờ heo sanh ra rồng, vì heo con trên mình có vảy, cho nên gọi là rồng.
7. Ngựa sanh kỳ lân: Xưa nay ngựa sanh ra ngựa, bây giờ ngựa lại sanh ra kỳ lân. Kỳ lân là một loại thú báo hiệu điềm tốt, ở Trung Hoa vào thời Ðường Nghiêu, kỳ lân, phụng hoàng rất nhiều, ai cũng có thể thấy được. Về sau, nhơn vì chúng sanh nghiệp báo nặng, tạo ra tội nghiệp rất nhiều, nên những loài chim thú cát tường ấy không xuất hiện nũa. Trong bài Khổng Tử Hoài Lân có nói: "Thời Ðường Ngu hề, lân phụng nhởn nhơ. Nay không phải thời ấy mầy đến tìm gì? Lân hề lân hề, lòng ta ưu tư." Vào thời đường Nghiêu, Ngu Thuấn, những loại kỳ lân, phụng hoàng thường dạo chơi trên thế giới này, ai cũng đều thấy được. Còn bây giờ không phải là thời đại Ðường ghiêu, kỳ lân, phụng hoàng rất nhiều, ai cũng có thể thấy được. Về sau, nhơn vì chúng sanh nghiệp báo nặng, tạo ra tội nghiệp rất nhiều, nên những loài chim thú cát tường ấy không xuất hiện nũa. Trong bài Khổng Tử Hoài Lân có nói: "Thời Ðường Ngu hề, lân phụng nhởn nhơ. Nay không phải thời ấ những loại kỳ lân, những loại kỳ lân, phụng hoàng thường dạo chơi trên thế những loại kỳ lân, phụng hoàng thường dạo chơi trên thế giới này, ai cũng đều thấy được. Còn bây giờ không phải là thời đại Ðường ghiêu, kỳ lân, phụng hoàng rất nhiều, ai cũng có thể thấy Trâu sanh bạch trạch: Trâu sanh ra một loại thú màu trắng. Bạch trạch là một loại thú ít có, đã không giống trâu, ngựa, lại không giống lừa, ấy gọi là Tứ bất tượng, là con thú hình dáng ngựa mà lại có móng trâu, sừng trâu, đó cũng là một loại thú hiện điềm lành.
9. Lúa biến thành vàng: Lúa, xưa nay có thể làm gạo, bây giờ biến thành vàng thì làm sao ăn được? Có người nói: "Có thể đem nó bán đi rồi mua rất nhiều gạo về." Ðó thật là một người thông minh. Người ấy lại hỏi: "Ai có tâm tham?" Tôi nói: "Tôi cũng có tâm tham, tham muốn mọi người mau thành Phật."
10. Voi đủ sáu ngà: Xưa nay voi chỉ có hai ngà, nhưng khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi sanh ra thì voi của nhà ngài mọc đủ sáu ngà.
Trên đây là mười việc cát tường như ý xuất hiện khi Bồ-tát Văn-thù sanh ra, đại biểu cho mười độ Ba-la-mật của hàng Thập địa Bồ-tát Ðại trí Văn-thù-sư-lợi, không giống với các vị Bô-tát khác. Nếu mình muốn quen biết với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, muốn thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thì trước tiên phải nhớ mười việc cát tường này. Tuy Bồ-tát không có tâm phân biệt, nhưng nếu mình biết được nhiều điểm của ngài thì mới gần được ngài thêm. Tại sao chúng ta phải biết càng nhiều càng tốt về cảnh giới của mỗi vị Bồ-tát? Vì có như thế mỗi vị Bồ-tát đều có thể làm thiện tri thức hoặc anh em bè bạn của chúng ta được. Trong tương lai, mỗi người chúng ta đều có thể là thiện tri thức của Bồ-tát, cho nên không nên tự mình coi thường mình. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: .... Thật ra, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát không còn là Bồ Tát nữa; thế thì Ngài là gì? Là một đức Phật! Trong đời quá khứ, Ngài đã thành Phật, hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật. Ngài đã thành Phật trong đời quá khứ, thế thì trong đời hiện tại này Ngài đã thành Phật chưa? Hiện tại, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cũng đã thành Phật, danh hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật và quốc độ là Hoan Hỷ Thế Giới ở phương Bắc. Tuy đã thành Phật, Ngài vẫn quay thuyền từ bi trở lại cõi Ta Bà, "giấu lớn hiện nhỏ," thị hiện làm Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.
Theo Kinh Pháp Hoa (phẩm thứ nhất), thì Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là "sư tổ" của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì sao? Thuở truớc, khi chưa xuất gia, Ðức Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh có tám người con trai và cả tám người này đều tu hành thành Phật. Người thành Phật sau rốt có danh hiệu là Phật Nhiên Ðăng, và thầy của Ðức Phật Nhiên Ðăng này là Pháp Sư Diệu Quang. Pháp Sư Diệu Quang là ai? Chính là tiền thân của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Còn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thì vốn là học trò của Ðức Phật Nhiên Ðăng và được Ðức Phật Nhiên Ðăng thọ ký làm Phật trong đời này.
Do đó, nếu luận về thứ bậc thì Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thuộc vai trên-là "sư tổ" của Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế nhưng, trong đời này thì Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện thành Phật, còn Bồ Tát Văn Thù thì lại làm đệ tử của Ngài. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tánh của Nước: ...Trong Kinh Trường A Hàm có nói đến nguồn gốc của biển, sông, hồ. Ðó là bởi thế gian này có sự hiện diện của mặt trời - từ mặt trời phát ra một nguồn nhiệt lực gây nóng bức khiến cho vạn vật đều tiết "mồ hôi"; chính lượng "mồ hôi" này tích tụ lại và hình thành sông, hồ, ao, biển... Không phải chỉ riêng con người mà ngay cả đất đai, cây cối cũng có "mồ hôi" - tất cả chúng sanh đều có "mồ hôi." Mặt trời dọi đến đâu thì tỏa sức nóng đến đó, và sức nóng này gọi là "chích" (nướng). Thế giới này vì có quá nhiều "mồ hôi" - nhiều nước - nên có rất nhiều sông, hồ.
Nước hiện hữu khắp nơi - tận hư không, khắp Pháp Giới, đâu đâu cũng có nước cả. Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép về việc cầm hạt châu thủy tinh hướng lên không trung để hứng nước trong ánh trăng vào giữa đêm trăng sáng. Ðiều này chứng tỏ rằng khắp nơi đều có nước. Tuy nhiên, cũng có những nơi chúng ta không thấy có sự hiện diện của nước, là vì những nơi đó chỉ có "tánh" của nước chứ không có "thể" của nước. Ðiều này cũng tương tự như việc mọi người đều có Phật tánh, nhưng chúng ta không thấy được Phật tánh mà chỉ thấy được hình thể con người thôi vậy. Tánh của nước là ẩm ướt; hầu như mọi nơi đều có khí ẩm, do vậy có thể nói rằng mọi nơi đều có nước. Ðồng thời, mọi nơi đều có lửa.
Tánh nước và tánh lửa vốn hỗ tương hợp tác, chứ không xung khắc lẫn nhau; vậy thì tại sao nước không tràn ngập khắp mọi nơi? Bởi giữa trời, đất và nước có sự tương quan, gắn bó mật thiết với nhau. Vả lại, Tứ Ðại Thiên Vương còn có viên ngọc "trị nước" (tỵ thủy châu); nếu không nhờ viên ngọc này thì khắp cả thế giới sẽ toàn là nước, tất cả đều bị chìm trong biển nước mênh mông. Cho nên, không phải khắp nơi đều có sự hiện hữu rõ rệt của nước. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ 185. Vì sao có sông ngòi?
Lại vì duyên gì mà có các sông ngòi?
Vì mặt trời mặt trăng có độ nóng. Do độ nóng này mà có nung đốt. Do có nung đốt nên có mồ hôi. Do mồ hôi mà thành sông ngòi. Do đó thế gian có sông ngòi. (Nguồn: Kinh Trường A Hàm - Mục 185)
+ Tánh của Nước - Nước và Sông hồ: ...Trong Kinh Trường A Hàm có nói đến nguồn gốc của biển, sông, hồ. Ðó là bởi thế gian này có sự hiện diện của mặt trời - từ mặt trời phát ra một nguồn nhiệt lực gây nóng bức khiến cho vạn vật đều tiết "mồ hôi"; chính lượng "mồ hôi" này tích tụ lại và hình thành sông, hồ, ao, biển... Không phải chỉ riêng con người mà ngay cả đất đai, cây cối cũng có "mồ hôi" - tất cả chúng sanh đều có "mồ hôi." Mặt trời dọi đến đâu thì tỏa sức nóng đến đó, và sức nóng này gọi là "chích" (nướng). Thế giới này vì có quá nhiều "mồ hôi" - nhiều nước - nên có rất nhiều sông, hồ.
Nước hiện hữu khắp nơi - tận hư không, khắp Pháp Giới, đâu đâu cũng có nước cả. Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép về việc cầm hạt châu thủy tinh hướng lên không trung để hứng nước trong ánh trăng vào giữa đêm trăng sáng. Ðiều này chứng tỏ rằng khắp nơi đều có nước. Tuy nhiên, cũng có những nơi chúng ta không thấy có sự hiện diện của nước, là vì những nơi đó chỉ có "tánh" của nước chứ không có "thể" của nước. Ðiều này cũng tương tự như việc mọi người đều có Phật tánh, nhưng chúng ta không thấy được Phật tánh mà chỉ thấy được hình thể con người thôi vậy. Tánh của nước là ẩm ướt; hầu như mọi nơi đều có khí ẩm, do vậy có thể nói rằng mọi nơi đều có nước. Ðồng thời, mọi nơi đều có lửa.
Tánh nước và tánh lửa vốn hỗ tương hợp tác, chứ không xung khắc lẫn nhau; vậy thì tại sao nước không tràn ngập khắp mọi nơi? Bởi giữa trời, đất và nước có sự tương quan, gắn bó mật thiết với nhau. Vả lại, Tứ Ðại Thiên Vương còn có viên ngọc "trị nước" (tỵ thủy châu); nếu không nhờ viên ngọc này thì khắp cả thế giới sẽ toàn là nước, tất cả đều bị chìm trong biển nước mênh mông. Cho nên, không phải khắp nơi đều có sự hiện hữu rõ rệt của nước.
Cái gì là biển? "Biển" (hải) có thể giảng theo nghĩa của chữ "hối," có nghĩa là đen tối. Ðó là vì "biển" là nơi tối tăm, u ám; khi ở trong biển, quý vị có mở to mắt cũng không nhìn thấy được gì cả. Biển thì mênh mông rộng lớn vô cùng - quý vị không thể biết được biển sâu bao nhiêu, rộng tới đâu, và lớn đến chừng nào. Do đó, "biển" còn tiêu biểu cho sự rộng lớn bao la; và cũng hàm nghĩa ngu muội, không sáng suốt.
Ở biển có rất nhiều thần; Long Vương cũng là một vị thần biển vậy. Trong các thần biển, có một vị tên là Hải Nhược và một vị tên là Dương Hòa. Thần Hải Nhược là vị thần tối cao ở biển, và vốn là loài thú chứ không phải loài trùng. Vị thần này có mười tám cái đuôi, tám chân, và tám đầu; mặt mày thì trông cũng giống như loài người vậy. Ngoài ra, còn có rất nhiều vị thần biển khác nữa. Nếu trong lúc tọa Thiền mà thấy cảnh giới có các vị thần hình thù quái dị như thế hiện ra thì quý vị chớ sợ hãi, bởi đó là các thần biển đến để cúng dường quý vị đấy.
Còn "sông" thì thế nào? "Sông" và "biển" khác nhau ra sao? Sông cái tuy rộng mà không sâu lắm; sông con thì không rộng bằng sông cái. Biển thì rộng lớn hơn hết và là "vạn lưu chi chủ" - chủ tể của cả muôn vạn dòng nước. Mọi sông hồ đều đổ về biển cả; bất luận bao nhiêu dòng sông, lưu lượng nhiều ít thế nào, thì biển cũng đều dung nạp hết thảy. Biển sẵn sàng dung chứa muôn vạn dòng nước mà chẳng ngại nhiều. Sông thì không như vậy - sông luôn luôn lưu chuyển và còn tẽ nhánh tạo thành sông con, trong khi nước biển thì không chảy đi nơi khác.
Chữ "sông" (giang) có thể được giải thích theo nghĩa của chữ "công"; ngụ ý rằng sông rất công bằng. "Sông" còn có một nghĩa khác nữa là "cống"; bởi thời xưa ở nước Trung Hoa, những sản vật của sông hồ đều phải được "tiến cống," dâng nạp cho nhà vua. Như vậy, "sông" có nghĩa là "công," và cũng có nghĩa là "cống."
"Sông con" (hà) còn được định nghĩa là "chưởng," tức là lòng bàn tay; bởi lúc không có gió thì mặt sông êm ả, phẳng lặng như gương hoặc như lòng bàn tay vậy.
Các thần biển, thần sông cái, thần sông con đều là những vị thần dưới nước. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Cung Hoàng Đạo Hành Thủy (Âm): Góc hợp cứng vuông góc và đối nghịch (Kỳ công 4-8-12)
Dương ...... Âm
Hỏa và Khí ...... Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ ..... Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện ..... Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương ..... Năng lượng âm
+ Hành thủy Cung Hoàng đạo: Cự Giải, Hổ Cáp và Song Ngư; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
+ 3 Cung Hành Thủy với 3 biểu tượng: Con Cua (Bắc Giải) - Hổ Cáp (Bọ Cạp) - Con Cá (Song Ngư). 3 Cung (Nước) đúc kết về sự phát triển của con người - Phàm ngã, minh họa về Luật Nhân Quả (CTHNM, 359)
+ Thủy - Nước: Phù hợp với các sắc thái và tinh tế; Liên lạc với cảm xúc, nhạy cảm; Trực quan, đáp ứng cảm thông với người khác hoặc chiều sâu của cuộc sống; Dễ bị tổn thương, có thể phản ứng, sợ hãi, thương thân trách phận; Tìm kiếm sự gần gũi và sáp nhập - Đa cảm. Trực quan. Nhạy cảm với môi trường xung quanh và với người khác. Sáng tạo. Trí tưởng tượng mạnh. Đồng cảm (Chiêm THNM 4)
+ Nước: Vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực mềm, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. Đạo cũng ví như nước vậy. (Theo Đạo Đức Kinh của Mạnh Tử)
+ Hành Thủy - Nước trong thể Cảm Xúc được mô tả về tính chất (LVHLT, 160):
- Thật thú vị khi nhớ điều này: Nếu một hình-tư-tưởng được đưa vào thế giới cảm xúc để thu thập cho nó một thể của ham muốn (lực thôi thúc vốn tạo ra mọi biểu lộ ngoại tại – objectivity) và được nhấn chìm vào một “tình trạng của nước”, vốn có thể được mô tả tốt nhất như là hoàn toàn ích kỷ, thì tất cả những gì xảy ra là như sau: Nó bị mất, do bị hút vào thể cảm dục của vị đệ tử, vốn là điểm tập trung cho mọi năng lượng cảm dục mà người đệ tử sử dụng. Nó bị cuốn vào một lốc xoáy, mà thể cảm dục cá nhân là trung tâm của lốc xoáy đó, và đánh mất sự sống riêng biệt của nó. Sự so sánh về xoáy nước có giá trị ở đây........ (LVHLT, 162)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
+ Chân Sư Dk Luận Về Hỏa Thủy: Trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu—thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y. (TTHM_Nguy hiểm trang tham thiền)
+ Thể trí cảm: Thực ra, các hiện thể Hạ trí – Tình cảm chỉ là một thể duy nhất.
- Chẳng có một thứ gì như là cõi cảm dục hay là thể cảm dục cả. Cũng như thể xác được làm bằng chất liệu không được coi như là một nguyên khí, thì xét về bản chất trí tuệ, thể cảm dục cũng thuộc cùng một loại. Vấn đề khó hiểu đối với bạn, bởi vì dục vọng và tình cảm đều có thực và đều vô cùng quan trọng.
- Theo sát nghĩa, đứng trên quan điểm cõi trí thì thể cảm dục lại là một “điều tưởng tượng của trí tưởng tượng”, nó không phải là một nguyên khí. Tuy nhiên, việc đổ xô dùng trí tưởng tượng để giúp sức cho dục vọng đã tạo nên một thế giới huyễn tưởng ảo cảm, thế giới của cõi cảm dục.
- Trong lúc đầu thai ở cõi trần, và khi con người không ở trên Con đường Đệ tử, thì cõi cảm dục rất là thật, có một sức sống và sự sống, tất cả đều riêng của nó. Sau cái chết của thể xác, nó cũng vẫn còn có thực. Nhưng sức mạnh của nó tàn tạ dần; con người thiên về trí bắt đầu nhận thức được trạng thái tâm thức thực sự của riêng mình (dù đã phát triển hay chưa phát triển) và cái chết lần 2 có thể bắt đầu xảy ra.(CTNM, 409)
Xem hình ảnh 4 cõi thấp - Hạ trí Xem: Xem Rộng Trí Tuệ là Cung 1 – 4 – 5 Xem: TH về Cõi trí, Thể trí (Thượng, hạ trí), Cung Thể Trí Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị Xem: TH về Trí tuệ, Cung Thể Trí Và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
+ Thể Trí Cảm được mô tả về tính chất (LVHLT, 160):
- Thật thú vị khi nhớ điều này: Nếu một hình-tư-tưởng được đưa vào thế giới cảm xúc để thu thập cho nó một thể của ham muốn (lực thôi thúc vốn tạo ra mọi biểu lộ ngoại tại – objectivity) và được nhấn chìm vào một “tình trạng của nước”, vốn có thể được mô tả tốt nhất như là hoàn toàn ích kỷ, thì tất cả những gì xảy ra là như sau: Nó bị mất, do bị hút vào thể cảm dục của vị đệ tử, vốn là điểm tập trung cho mọi năng lượng cảm dục mà người đệ tử sử dụng. Nó bị cuốn vào một lốc xoáy, mà thể cảm dục cá nhân là trung tâm của lốc xoáy đó, và đánh mất sự sống riêng biệt của nó. Sự so sánh về xoáy nước có giá trị ở đây.
- Chủ thể tư tưởng giống như một người ném một chiếc thuyền đồ chơi từ trong bờ vào một dòng nước. Nếu anh ta ném chiếc thuyền đó vào một xoáy nước, nó bị hút ngay vào xoáy trung tâm và thế là biến mất. Nhiều hình-tư-tưởng được tạo ra như thế bởi một người tìm đạo trong công việc thiền định của y bị mất và thất bại trong mục tiêu của chúng, vì tình trạng hỗn loạn và xoay tít của thể tình cảm của người tìm đạo. Thế là các ý định tốt lành trở thành số không; thế là mục đích tốt đẹp và công việc được hoạch định cho Chân Sư không thành hiện thực, bởi vì, khi hình-tư-tưởng đi xuống vào cõi của ham muốn và cảm xúc, nó chỉ tiếp xúc với khối nước đang kích động vì sợ hãi, vì nghi ngờ, vì thù hận, vì sa đọa hoặc sự ham muốn hoàn toàn vật chất. Các điều này mạnh hơn hình-tư-tưởng bé nhỏ, nhấn chìm nó, và nó đi ra khỏi tầm mắt và ra khỏi sự tồn tại, và con người trở nên ý thức một nỗ lực nữa sớm thất bại.
- Hoặc một lần nữa, “tình trạng của khối nước” không phải là tình trạng của một xoáy nước được tự sinh ra, mà được liên kết nhiều hơn với vòng xoáy của một vũng nước, bị khuấy động thành một cơn sóng nổi bọt và sôi sục, thông qua các hoạt động của các vòng xoáy khác. Có nhiều đệ tử đã đạt đến một mức độ khá cao về việc tự kiềm chế và sự vô vị lợi cá nhân. Họ không phải là những nạn nhân của sự ham muốn và các mục tiêu của phàm nhân; và tương đối thoát khỏi vòng xoáy của các xu hướng ích kỷ. Nhưng thể cảm dục của họ hết lần này đến lần khác bị cuốn vào một trạng thái kích động bởi tập thể mà vì đó và trong đó họ làm việc. Họ phấn chấn hoặc chán nản, hài lòng hoặc không hài lòng với các kết quả mà họ đạt được hoặc không đạt được; sự thành đạt hoặc thiếu thành đạt này, và sự trung kiên hoặc sự phản bội (disloyalties) của những người phụng sự cùng hội với họ, tạo ra sự kích động và sự xáo trộn tình cảm, và do phản ứng mạnh mẽ này, các hình-tư-tưởng của họ, được tạo ra một cách rất cần mẫn và đầy sùng tín, trở thành vô ích. “Kỹ năng trong hành động” của họ bị mất đi, bởi vì họ bị ràng buộc vào kết quả mong muốn và vì thế mà công sức của họ không tạo ra gì cả.
- Có nhiều “tình trạng của nước” khác mà mỗi người tìm đạo có thể bổ khuyết cho chính mình. Tuy nhiên có một điều nữa mà Tôi muốn đề cập đến. Thể tình cảm của đệ tử, vốn phải nuôi nấng và chăm bón cho hình-tư-tưởng còn ấu trĩ (với hạt nhân trí tuệ của nó), là một phần tất yếu của hình thể tình cảm của hành tinh, và do đó rung động hòa hợp với hình thể đó. Điều này cũng nên được xem xét một cách cẩn thận, vì thể tình cảm được đưa vào một trạng thái hoạt động theo như tình trạng cảm dục chung, và phải được vận dụng một cách khôn ngoan từ góc độ này.
- Vào lúc này có ba tính chất chiếm ưu thế trong hình thể cảm dục của hành tinh – sự sợ hãi, sự trông mong và một sự ham muốn tột độ (trong gia đình nhân loại) đối với việc sở hữu vật chất. Hãy lưu ý thuật ngữ “tột độ” (“climaxing”). Sự tổng kết ham muốn của con người đối với hạnh phúc vật chất đã được hoàn thành, và đỉnh cao của sự ham muốn đó đã được vượt qua; như thế nhân loại đã thành tựu và đã vượt qua phần lớn. Nhưng sự nhịp nhàng của các thời kỳ thì bền vững.
Loại bỏ Ba tính chất trên phải được người tìm đạo hiểu rõ và không cần để ý tới khi y tìm cách phụng sự từ các phân cảnh trí tuệ.
1. Ở chỗ của sự sợ hãi, y phải thay thế bằng sự yên tĩnh vốn là đặc quyền của những người luôn luôn sống trong Ánh Sáng Vĩnh Hằng;
2. Sự trông mong: ở nơi mà sự triển vọng không chắc chắn, y phải thay thế bằng sự quả quyết điềm tĩnh nhưng tích cực về mục tiêu cuối cùng vốn xuất phát từ một tầm nhìn rộng rãi về Thiên Cơ, và sự giao tiếp của y với các đệ tử khác, và sau đó với Chân Sư.
3. Sự ham muốn sở hữu vật chất phải được thay thế bằng sự khao khát (aspiration) đối với các sở hữu vốn là niềm vui của linh hồn – đó là minh triết, bác ái và năng lực phụng sự. Sự yên tĩnh, sự quả quyết và khát vọng chân chính! Ba từ này, khi được hiểu rõ và được trải nghiệm trong đời sống mỗi ngày, sẽ mang lại “tình trạng của nước” đúng đắn, vốn sẽ đảm bảo sự tồn tại của mỗi hình-tư-tưởng, được tạo ra chính đáng trong khi tham thiền bởi người đang hoạt động như một linh hồn. (LVHLT, 162)
+ Thể Tri Giác: Trong việc xem xét thể cảm giác (sentient body) của một người,.. việc bàn đến các ảnh hưởng của thể cảm giác và trong việc tìm cách để chế ngự các ảnh hưởng của nó, thì con người mới đạt đến sự tự tri và nhờ thế trở thành một Chân Sư. Những biểu hiện thông thường nhất của hoạt động cảm dục (astral activity) là:
1. Sợ hãi (fear)
2. Phiền muộn hoặc đối cực của nó, sự vui tươi.
3. Mong muốn thỏa mãn các thèm khát thú tính.
4. Mong cầu hạnh phúc.
5. Ước muốn giải thoát. Đạo tâm.
Hầu hết các kinh nghiệm về tri giác của con người được tổng kết thực tế trong năm mục này, và chúng ta sẽ xem xét mỗi mục theo các khía cạnh sau:
1. Nguyên nhân.
2. Hậu quả.
3. Phương pháp điều hướng (method of direction). (LVHLT, 297)
+ Thể cảm dục (ASCLH, 186)/ (KCVTT, 253)
+ Thể tri giác_Chân Sư DK: Một thuật ngữ mà Tôi rất thích hơn thuật ngữ cảm dục [astral], và Tôi sẽ tiếp tục sử dụng nó (LVHLT, 293)
+ Tình trạng Nước - Chất liệu tình cảm - Vật chất cõi cảm dục: Nguyên nhân thứ hai của sự thất bại nằm ở việc y không chú ý xem xét tình trạng của nước, hay là trạng thái của chất liệu tình cảm (emotional substance) mà hình trí tuệ này phải đến, và như thế thu hút vào nó vật chất của cõi cảm dục, điều này sẽ cho phép nó trở thành một thực thể hoạt động trên cõi đó. Nếu nó không thể làm được điều này, thì cuối cùng nó chỉ là một hình-tư-tưởng chết trên cõi trí, vì nó sẽ thiếu lực thúc đẩy đó của dục vọng, vốn cần để đưa nó tiến tới chỗ hoàn tất trên cõi trần. (LVHLT, 160)
+ Thể cảm dục là hiện thể của kinh nghiệm đối với đa số, và có vài người không vượt qua phần lớn cuộc sống có ý thức của họ, ghi nhận những phản ứng của thể đó, và dao động giữa hai cực của hạnh phúc và đau khổ, của sự hài lòng hoặc không hài lòng, của sự tin chắc hoặc nghi ngờ, của can đảm hoặc của sợ hãi. Điều này thực sự có nghĩa là mãnh lực cố hữu và sự sống của hiện thể tri giác tình cảm chi phối sự biểu hiện của đời sống, và uốn nắn kinh nghiệm của linh hồn nhập thể. Do đó, thật đáng cho chúng ta để hiểu một điều gì đó về việc các lực này là gì, chúng từ đâu đến và chúng tác động và phản ứng trên con người như thế nào. Bãi chiến trường của y nằm ở đó, và trận địa thắng lợi của y cũng nằm ở đó.(LVHLT, 293)
+ CON NGƯỜI: Nói chung, con người là những gì mà thể cảm dục của y tạo ra cho y. Sau nữa, “con người tưởng nghĩ như thế nào thì y trở nên thế ấy”. Thể cảm dục, với các mong mỏi, các thèm muốn, các tâm trạng, các cảm xúc và các khao khát của nó đúc nặn nên thể xác nhờ các lực thu hút tuôn chảy qua nó, và như thế dắt dẫn con người một cách chính xác để thực hiện các ham muốn của y. Nếu các khao khát của bản chất tri giác có tính thú vật vượt trội trong mục tiêu của chúng, chúng ta sẽ có con người với các thèm muốn mạnh mẽ, sống một cuộc đời dành hết nỗ lực để làm thỏa mãn chúng. Nếu sự khát khao để có tiện nghi và hạnh phúc, chúng ta sẽ có con người có tính khí thiên về giác quan, yêu cái đẹp và thích khoái lạc, về thực tế thì bị chi phối hoàn toàn bởi sự nỗ lực ích kỷ. Vì vậy, nó đi suốt tất cả các cấp độ ham muốn, tốt, xấu, và thông thường, cho đến khi sự tái-định-hướng xảy ra, nó tái-tập-trung (refocusses) các năng lượng cảm dục sao cho chúng được chuyển theo một hướng khác. Ham muốn (desire) trở thành nguyện vọng (aspiration). Như vậy, việc giải thoát khỏi bánh xe sinh tử được mang lại và một người được thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh. Khi đó thì lá số tử vi, như được hiểu hiện nay, tỏ ra vô ích, sai và vô dụng, còn thuật ngữ đôi khi được dùng, nhưng không đúng, là “lá số tử vi của chân ngã (ego) hay linh hồn”, thì không có ý nghĩa gì hết. Linh hồn không có vận mệnh cá nhân nào cả, mà được chìm vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của nó là vận-mệnh của tập thể, và của Tổng Thể (the Whole); mong muốn của nó là thể-hiện Thiên Cơ vĩ đại, và ý chí của nó là sự tôn vinh Thượng Đế nhập thể (the incarnated Logos). (LVHLT, 296)
+ Thể cảm dục, đôi khi được gọi là thể tình cảm là kết quả của sự tương tác của dục vọng và của sự đáp ứng hữu cảm thức vào cái ngã ở trung tâm, và đưa đến kết quả – trong thể đó – là kinh nghiệm được tạo ra dưới hình thức cảm xúc như là đau khổ và vui sướng và các cặp đối hợp khác. Trong hai thể này, tức thể dĩ thái và cảm dục, người ta thấy có tới 90% các nguyên nhân của bệnh hoạn và bất ổn của xác thân. (CTNM, 3)
+ H.P.B. chịu trách nhiệm một phần lớn vì đã dùng từ ngữ “astral” (cảm dục) để chỉ một số lớn tri thức liên quan đến thể dĩ thái cũng như thể cảm dục. Điều này là do việc nhận thức rằng thể cảm dục, trong một vài thế hệ nữa (nói một cách tương đối) sẽ bị biến mất, còn đặc biệt là đối với H.P.B., nó đã không còn tồn tại do bởi đệ tử này đã đạt được mức tiến hóa cao. Do biết được rằng thể dĩ thái luôn luôn là một biểu lộ của năng lượng vượt trội đang kềm chế nhân loại trong bất cứ chu kỳ đặc biệt nào, H.P.B. dùng thuật ngữ “astral body” như là có thể thay thế cho nhau với (thể dĩ thái).
+ Thể Cảm dục (Còn gọi là thể astral, thể vía, Thể Tình cảm): Gồm các ham muốn và xúc cảm của chúng ta – sợ hãi, hạnh phúc, hy vọng, nhạy cảm, cảm xúc mạnh, âu lo, tình cảm dồn nén, bám chấp, và yêu thương. (MQ - Hình dung và 7 Cung)
+ Thể tình cảm: Có hình dạng bầu dục bao quanh xác thân như Thể trí. Mục đích Tham thiền là nên làm cho hình bầu dục của thể tình cảm trở nên tích cực đối với những gì thấp kém và đối với những gì chung quanh nó, và chỉ thụ cảm đối với Tinh thần thông qua thể nguyên nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách phát triển khả năng kiểm soát hữu thức—sự kiểm soát mà ngay trong những lúc rung động và tiếp xúc cao nhất, khả năng này vẫn linh mẫn trông nom và bảo vệ các hạ thể. “Hãy trông chừng và cầu nguyện” là lời dạy của Chúa khi Ngài còn tại thế. (TTHM_Nguy hiểm khi tham thiền_Chân Sư DK)
+ Cảm Dục/ Dục Vọng:
1. Sợ hãi – Có ảnh hưởng tới hoạt động ngày nay;
2. Căm ghét (hate) – Vốn là một yếu tố trong sự điều tiết các mối liên hệ;
3. Tham vọng – Đang chi phối các mục tiêu (CTHNM, 231)
Xem: Năng khiếu về Cung, Cung Hoàng Đạo và hành Tinh
Thêm: Xem rộng Bảng so sánh Thể Cảm Dục
Xem: Tổng hợp thể cảm dục/ Xúc Cảm/ Vía / Tình Cảm
+ Các loại người Trí cảm (CTNM, 487–488, 498)
a/ Người cảm dục: Những người này có tính chất và cấu tạo thuần là cảm dục.
b/ Người trí cảm: Đây là những người quân bình, họ là các Phàm Ngã hội nhập. Người trí cảm có được cái gọi là “sự tự do của cuộc sống nhị phân” và thấy chính mình có được hình thức nhị phân khiến cho y tùy ý giao tiếp với các phân cảnh cao của cõi cảm dục và các phân cảnh thấp của cõi trí. Tôi xin nhắc lại rằng không có não bộ hồng trần nào ghi lại được các tiếp xúc này. Biết được sự tiếp xúc là tùy vào hoạt động bên trong của chân nhân và tình trạng đặc biệt của cách hiểu biết và đánh giá.
c/ Người thiên về trí: Đây là những người tiến hóa và các đệ tử đủ mọi cấp. Những người này có cách sống chính yếu là tập trung vào trí. Người thiên về trí, tức Phàm Ngã hội nhập, hoạt động theo hai cách tất nhiên là tùy vào mức độ hội nhập đã đạt được. Có 2 loại hội nhập:
1– Loại Phàm Ngã hội nhập tập trung vào trí và có được mối liên giao luôn luôn tăng tiến với linh hồn.
2– Bậc đệ tử, có Phàm Ngã hội nhập một cách nhanh chóng vào linh hồn và được hóa nhập bởi linh hồn.
Xem hình ảnh 4 cõi thấp - Hạ trí Xem: Xem Rộng Trí Tuệ là Cung 1 – 4 – 5 Xem: TH về Cõi trí, Thể trí (Thượng, hạ trí), Cung Thể Trí Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị Xem: TH về Trí tuệ, Cung Thể Trí Và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
+ Ta bà: Saha (B.Phạn)
+ "Ta Bà" là tiếng Phạn (Saha); Trung Hoa dịch là "kham nhẫn," và cũng là "cực khổ." So với thế giới Cực Lạc ở phương Tây, thì thế giới Ta Bà của chúng ta này đây quả thật là thế giới "Cực Khổ"!
Vì sao gọi là "kham nhẫn"? Vì chúng sanh ở thế giới này có thể nhẫn nhịn, chịu đựng sự thống khổ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Bát Nhã: ... Đây là nguyên khí (principle) giúp cho sự Giác Ngộ (Enlightement) có thể xảy ra nơi chúng ta cũng như nơi Đức Phật (Buddha). Không có trí huệ thì không thể có sự giác ngộ, đó là quyền năng tâm linh cao siêu nhất (highest spiritual power) mà chúng ta có được. Trí tuệ (the intellect) ... có hoạt động tương đối của nó ...Trước khi được giác ngộ, Đức Phật chỉ là một con người bình thường và chúng ta, tức những người bình thường, sẽ trở thành Phật vào lúc mà con mắt trí tuệ (mental eyes) của chúng ta mở ra cho sự Giác Ngộ. (TTTĐTG, 188)
- Pragna đồng nghĩa với Mahat, Toàn Linh Trí (Universal Mind). Năng lực nhận thức. Tâm thức . (NGMTTL, 259)
- Pragna là minh triết riêng của các Dhyan Chohans.
+ Trí Huệ/ Bát nhã: Tiếng Bát Nhã Ba La Mật. "Bát Nhã" là tiếng Phạn (Prajna); Trung Hoa dịch là "trí huệ." Trí Huệ lại phân ra Thế Gian Trí và Xuất Thế Gian Trí, cũng gọi là Thế Trí Biện Thông. Những tiến bộ về khoa học, triết học hiện nay cùng tất cả các kiến thức, đều là học vấn của thế gian. Khả năng biện luận thông minh, nhạy bén về các việc thế gian, dù không có lý cũng có thể nói thành có lý - đó gọi là Thế Trí Biện Thông.
Xuất Thế Gian Trí tức là trí huệ của xuất thế gian. Siêng năng cầu Phật Ðạo, nghiên cứu Phật Pháp không bao giờ ngơi nghỉ, thậm chí lúc ngủ cũng tư duy đến Phật Pháp, chiêm bao cũng suy nghĩ đến Phật Pháp, và cho dù ốm đau bệnh hoạn, bất kỳ lúc nào cũng nghĩ đến Phật Pháp - đó chính là chân chánh tu tập trí huệ xuất thế vậy.
Vậy thì trí huệ xuất thế gian và trí huệ thế gian rốt cuộc là một hay là hai thứ khác nhau? Ðó vốn chỉ là một, nhưng còn phải xem quý vị sử dụng nó như thế nào - dùng vào chuyện thế gian thì nó là trí huệ thế gian, dùng ở Phật Pháp xuất thế thì nó là trí huệ xuất thế.
Trí huệ hoàn toàn không có hai, mà chỉ phân ra để giảng thôi. Ban đầu, quý vị nghiên cứu các vấn đề của thế gian và biết được tất cả mọi thứ trên cõi đời này đều là Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Rồi sau đó, nếu quý vị dùng cái trí hiểu biết về việc thế gian ấy để nghiên cứu học vấn xuất thế, thì đó cũng chính là trí huệ xuất thế vậy. Cho nên, Thế Gian Trí và Xuất Thế Gian Trí vốn không phải là hai.
Ða số người đời chỉ có trí huệ thế gian chứ không có trí huệ xuất thế gian; song cũng có người lại có trí huệ xuất thế gian mà không có trí huệ thế gian. Vì sao lại có sự như thế? Có nhiều người rất thông minh nhưng cứ làm toàn những việc hồ đồ - chuyện không cần thiết thì tận lực mà làm, còn việc quan trọng như vấn đề sanh tử thì lại thờ ơ, chẳng để ý đến và cũng chẳng muốn tìm hiểu. Ngoài ra, cũng có người nghiên cứu vấn đề xuất thế nhưng lại không hiểu gì về pháp thế gian cả. Chúng ta cần phải hiểu rõ cả pháp nhập thế lẫn pháp xuất thế:
Nhập thế mà xuất thế, xuất thế mà nhập thế - sự nhập thế và xuất thế cần phải thông đạt vô ngại. Nếu quý vị hiểu rõ thì nhập thế cũng chính là xuất thế; nhược bằng không hiểu thì cho dù là xuất thế cũng trở thành nhập thế vậy!
Cổ nhân có câu:
(Thông minh sáng dạ nhờ âm đức,
Âm đức dẫn lối tới thông minh,
Thông minh nếu chẳng tin âm đức,
Ấy thông minh phản, thông minh hại)
(thông minh sáng dạ nhờ âm đức). Chúng ta nhờ đâu mà có được trí thông minh? Ðó là nhờ đời trước chúng ta làm được nhiều việc "âm trắc." Việc "âm trắc" là gì? Ðó là những việc nhân đức được thực hiện một cách âm thầm với lòng hảo tâm thật sự, chứ không phải với mục đích khoe khoang, hoặc để cho người khác thấy. Chẳng hạn có người cảnh nhà đơn chiếc, chết mà không có quan tài để chôn, quý vị động lòng trắc ẩn bèn mua cho người đó một cỗ áo quan, rồi lo khâm liệm và chôn cất tử tế; tuy làm được một việc tốt, đáng khen, nhưng quý vị không khoe khoang, không tiết lộ với ai cả - như thế là có âm đức vậy.
Tóm lại, quý vị ngầm giúp đỡ hoặc làm những việc có lợi cho người khác, song quý vị không kể lể lôi thôi, không để cho ai biết cả, thì đó gọi là "âm trắc." Ðời trước làm nhiều việc âm trắc thì đời này được thông minh; đời trước xem nhiều sách về Phật Học, tụng nhiều kinh điển Phật Giáo, như tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật được vài vạn biến, thì đời này cũng được thông minh, sáng dạ. Ngoài ra, nếu đời trước đọc sách nhiều, chịu khó nghiên cứu sách vở để học hỏi, thì đời này cũng được trí óc minh mẫn. Như vậy, trí thông minh chính là đến từ âm trắc - do đời trước đã tu nhân tích đức, tạo được nhiều âm đức, cho nên đời này mới được thông minh tài trí hơn người.
(âm đức dẫn lối tới thông minh). Nhờ có đức hạnh cho nên quý vị mới được thông minh; do đó có thể nói rằng chính đức hạnh đã dẫn dắt quý vị tới con đường thông minh vậy.
(thông minh nếu chẳng tin âm đức,/ ấy thông minh phản, thông minh hại). Nếu đời này quý vị được thông minh, nhưng vì quên lãng nên quý vị không đi theo đường ngay nẻo phải, không tin âm đức, không làm việc thiện, chỉ cậy vào trí thông minh của mình để mưu đồ việc xấu, thì chính cái trí thông minh của quý vị sẽ hại quý vị vậy. Vì sao ư? Bởi nếu không thông minh thì quý vị sẽ không làm được nhiều việc xấu! Chính vì thông minh lanh lợi cho nên quý vị mới biết được những điều mà kẻ khác không thể nào ngờ tới; do đó, cho dù quý vị làm điều mờ ám hoặc ám hại người khác, thì nhờ khôn khéo, quý vị vẫn không bị ai nghi ngờ hoặc phát giác ra được. Cho nên, sử dụng trí thông minh mà không tin là có âm đức, thì cái trí thông minh đó sẽ trở thành chướng ngại, và là thứ "thông minh có hại" vậy! (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Trí Huệ: Chư Thiện tri thức! Trí như mặt nhựt, Huệ như mặt nguyệt. Trí huệ thường sáng, nhưng bởi tâm dính níu cảnh vật ở ngoài, rồi bị mây vọng niệm của mình che án tánh mình, nên trí huệ chẳng đặng tỏ sáng. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe người giảng chánh pháp, rồi tự mình dứt các điều mê vọng, trong ngoài sáng thấu, thì trong tánh muôn pháp đều hiện ra rõ ràng. Người thấy tánh cũng giống như thế. Ấy gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật. (Giảng: Nếu quý vị có trí thì giống như có thái dương, có huệ giống như trăng sáng. Tuy trí huệ Bát nhã thường thường chiếu sáng, nhưng nếu chấp trước cảnh giới bên ngoài thì bị phù vân vọng niệm che phủ tự tánh, trở thành ngu si mà không đắc được đại trí huệ). ..... Quý vị nhận biết bổn tâm của mình, thấy được bổn tánh, thì cũng giống như trời xanh không mây, cho nên nói: "Tâm bình bách nạn tán, ý định vạn sự kiết." Nếu tâm bình thì nạn tai nào cũng không có, ý nếu định thì việc gì cũng kiết tường. Lại nữa, tâm thanh tịnh hiện tiền giống như trời xanh không mây: "Tâm thanh thủy hiện, ý định thiên vô vân." Lại nói: "Tâm chỉ niệm tuyệt chân phú quý, tư dục đoạn tận chân phước điền."........
Quý vị đối với Lục Tổ Đại sư nên có nhận thức chân chánh, Lục Tổ Đại sư chính vì không giải đãi, mà nỗ lực hành trì, cho nên Ngài mới có thể giác ngộ. Sau khi khai ngộ Ngài thuyết Lục Tổ Đàn Kinh. Tuy Ngài không biết chữ, nhưng cái không biết chữ này là trí huệ của thế gian. Mà Ngài nhận thức hiểu rõ tự tánh, minh tâm kiến tánh, cho nên sử dụng đại trí huệ vốn có. Kinh điển mà Ngài thuyết ra, là từ quang minh trí huệ nói ra, cho nên giá trị của bộ kinh này thì không thể so sánh được. Kinh này và kinh Phật nói thì giống nhau, vì thế chúng ta không nên nói vì Ngài không biết chữ, liền sanh tâm khinh mạn. Sau khi giảng xong Lục Tổ Đàn Kinh, tôi hy vọng các vị đối với điều này cần nên triệt để hiểu rõ. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Trí Huệ - Đại trí huệ
Tiếng Trí Huệ. "Trí huệ" là gì? Trí huệ "độ" ngu si - có trí huệ thì không có ngu si, có ngu si thì không có trí huệ - hai thứ này không thể đi đôi với nhau. Bây giờ tôi cho quý vị biết thêm một điều tương đối dễ hiểu hơn; đó là: "Trí huệ chính là ngu si, ngu si chính là trí huệ!"
Có người nói rằng: "Tôi bây giờ ngu si, mà như thế tức là có trí huệ; vậy tôi cứ việc dung túng cái ngu si của mình!" Nếu quý vị có thể hết sức ngu si, ngu si đến cực điểm, thì đó chính là trí huệ chân chánh vậy!
Lại có người nói: "Pháp Sư! Lý lẽ mà Thầy vừa nêu thật là khó chấp nhận! Thầy nói rằng trí huệ là ngu si và ngu si là trí huệ; thế nhưng tôi nhận thấy người ngu si thì toàn làm những chuyện hồ đồ, còn người có trí huệ thì làm những việc đúng đắn, sáng suốt."
Ðúng vậy, quý vị nói rất đúng, còn tôi thì nói không được đúng! Vì sao ư? Bởi vì ngu si có thể biến thành trí huệ, cho nên tôi nói "ngu si chính là trí huệ"; song trí huệ cũng có thể biến thành ngu si, cho nên tôi nói "trí huệ chính là ngu si" vậy. Mấy hôm trước, lúc giảng bài kệ "thông minh sáng dạ nhờ âm đức," tôi đã giải thích điều này rồi; bây giờ chẳng qua là nêu ra lại mà thôi.
Người có trí huệ là người có được tự do chân chánh, và cũng chân chánh đạt được sự giải thoát. Tại sao nói vậy? Người có trí huệ thì không làm việc hồ đồ; còn người ngu si thì toàn làm những việc hồ đồ, không làm những việc thông minh. Ngoài ra, người ngu si không có được sự tự do, lại toàn ở thế "bị động." Trong khi đó, người có trí huệ thì trái lại, không bao giờ phải ở thế "bị động"; bởi họ có chủ tể chân chánh, trí huệ chân chánh, và bất luận sự việc nào xảy đến với họ, họ đều nhận thức được điểm tốt xấu của vấn đề - tốt thì nên làm, không tốt thì không làm. Nói chung, họ có được sức phán đoán chân chánh và trạch pháp nhãn (con mắt chọn lựa pháp) chân chánh.
Người ngu si thì không như thế - họ biết rõ ràng là không đúng mà vẫn cứ làm. Thí dụ chúng ta đều biết cờ bạc là không tốt, nhưng những kẻ ngu si lại cho rằng đó là một cơ hội hiếm có trong muôn một, nếu thắng thì phát tài lớn! Chính vì một niệm tham lam vô minh, muốn phát "vô minh tài" này, mà tất cả tài sản của họ đều không cánh mà bay! Thua "cháy túi" mà họ vẫn chưa tỉnh ngộ, còn toan tính: "Mình phải thử thời vận thêm lần nữa, biết đâu phen này mình sẽ thắng, sẽ giàu to!"
Như có người mua số đề, một đồng mua được tám chữ, nếu trúng thì được hơn một ngàn đồng, nhưng chẳng may sai mất một chữ nên không được tiền; người ấy lại cho rằng nếu mua lần nữa thì chắc chắn sẽ được trúng! Quý vị nghĩ xem, như thế có phải là ngu si không? Nếu những người đánh bạc đều thắng, thì người bày ra trò cờ bạc đỏ đen không cách gì phát tài được cả!
Lại còn những người nghiện thuốc phiện nữa: Ai ai cũng công nhận rằng hút thuốc phiện là có hại, nhưng người ngu si thì nói: "Ðể tôi thử xem!" Thử một lần cảm thấy chưa thỏa mãn, bèn thử thêm lần thứ hai, rồi lần thứ ba, thứ tư..., cứ thế mà "thử" hết lần này sang lần khác. Một lần "thử" thôi là đã bị nghiện rồi, nếu không "thử" nữa thì chịu không nổi. Quý vị nói xem, như thế có phải là ngu si hay không?
Một người bình thường thì đàng hoàng, lịch sự là thế, mà đến khi lên cơn ghiền, bị sự chi phối của thuốc phiện thì ôi thôi, nước mắt, nước mũi lòng thòng, toàn thân bứt rứt xốn xang, thật là khổ sở vô vàn, bèn phải vội vã kiếm tiền đi mua thứ thuốc đó về dùng để "nâng đỡ" tinh thần của mình. Ðây đều do sự ngu si gây ra, khiến cho họ không được tự do. Tại sao không được tự do? Những người hút thuốc phiện cho rằng hút thuốc phiện là một thứ tự do, cứ mải mê hút cho thỏa thích; thế nhưng, khi đến cữ nghiện mà không có thuốc để hút, thì họ có còn được tự do hay không?
Vậy, quý vị làm việc gì mà lẽ ra mình không nên làm, thì đều là ngu si, không có trí huệ. Nếu có trí huệ thì quý vị sẽ không điên đảo, không làm những việc mà mình không nên làm!
Tiếng Ðại Trí Huệ. Người có đại trí huệ vừa nhìn qua sự việc thì có thể thấy được điểm then chốt của vấn đề, không cần phải đợi đến khi sự việc diễn tiến rồi mới phát hiện ra. Do có đại trí đại huệ nên họ có thể tiên liệu được việc nào không nên làm và nếu làm thì kết quả ra sao, nhờ đó họ mới không làm những việc hồ đồ. Thế nào là đại trí, đại huệ? Nghiên cứu Phật Pháp là đại trí đại huệ. Phải nghiên cứu Phật Pháp thì mới có thể đạt được tự do chân chánh, cho nên đó là đại trí huệ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
6. Trí huệ Ba-la-mật
Đạo Phật là đạo giác ngộ, Đức Phật là bậc giác ngộ vô thượng, nên tất cả những người con Phật đều xem giác ngộ là sự nghiệp chung thân. Dù đang công phu theo pháp môn nào, người tu cũng đặt trí tuệ lên hàng đầu. Bồ tát tu theo Lục độ thì chi phần thứ sáu tức Trí huệ Ba-la-mật cũng là chỗ y cứ của năm chi phần trên.
Trí huệ Ba-la-mật, còn gọi là Bát nhã Ba-la-mật, là trí huệ của một bậc Bồ tát đã quán triệt chân tướng của vạn pháp. Nhờ trí huệ cứu cánh cùng tột này, Bồ tát thiết lập nhiều phương tiện, tuỳ căn cơ trình độ và sở thích của chúng sanh để giáo hóa họ một cách hiệu quả.
Có ba cấp độ Bát nhã:
1. Văn tự Bát nhã: Đây là giai đoạn đầu dành cho người sơ cơ, nhưng rất cần thiết và được xem là bước căn bản. Chúng ta học trên kinh sách, hiểu lời Phật dạy, sau đó suy gẫm và đối chiếu từ bản thân ta đến các pháp bên ngoài. Trí huệ phát sinh từ đọc và nghe giảng (văn huệ) sau đó phân tích suy luận để hiểu thấu vấn đề (tư huệ) là vốn liếng đầu tiên của một Bồ tát trên bước đường hoằng hóa lợi sanh sau này. Do vậy, trong Tứ hoằng thệ nguyện có câu “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là ý nghĩa thu gom kiến thức, để tự hoàn thiện mình và để tự có khả năng giúp đỡ giáo dục cho người.
2. Quán chiếu Bát nhã: Bồ tát Quán Tự Tại khi hành sâu Bát nhã Ba-la-mật, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ nạn. Chúng ta tu theo Ngài, gia công quán chiếu để thấy rõ thân tâm này do các duyên hợp lại. Đủ duyên thì thành, hết duyên lại trả về không, nên nó không có thực thể. Như vậy, tự tánh của thân tâm ta là không, nhờ duyên hợp nên tạm có. Thân ta như vậy, thân người khác cũng như vậy; cho đến tất cả cáp pháp thế gian và xuất thế, tự tánh đều là KHÔNG. Vào giai đoạn này, vẫn còn phân biệt tâm năng quán và cảnh sở quán, nên chưa phải là rốt ráo.
3. Thực tướng Bát nhã: Bồ tát quán triệt tự tánh Không của tất cả pháp không phải bằng ý thức tư duy suy luận, mà do trí huệ bát nhã thấu rõ đương thể tức không. Ở đây không còn phân biệt Ta-Người năng sở, mà cả hai đều hòa nhập, viên dung trong trạng thái nhất như. Bồ tát thâm nhập chân lý tuyệt đối, không phải ở một thế giới nào đó xa xôi, ở một thời khắc nào đó của tương lai không với tới, mà ngay thế giới trần tục. Ngay mảnh đất thực tại nhận chân được thực tướng của vũ trụ vạn pháp. Đây chính là trí huệ Ba-la-mật.
Kinh Pháp Hoa có bài kệ:
Chư Pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Phật tử hành đạo dĩ
Lai thế đắc tác Phật.([ii])
Bằng trí huệ thực chứng Pháp thân, Bồ tát thấy rõ tất cả các pháp xưa nay, tướng của chúng thường tự vắng lặng. Tướng ở đây là thực tướng vô tướng, vì khi tiếp duyên xúc cảnh, Bồ tát không khởi niệm phân biệt chia chẻ, chủ thể và đối tượng nhận thức không hai. Mọi cảnh vẫn sống động vẫn lưu chuyển, nhưng tâm hoàn toàn thanh tịnh nên tất cả pháp đều là Phật pháp. Bằng trí giác, Bồ tát nhận ra thực tại nhiệm mầu nghìn đời cũng chỉ trong một sát na, tại đây và bây giờ. Lìa sóng không thể có nước, lìa bỏ trần tục không thể thấy được niết bàn. Tư tưởng vút cao của Bồ tát Đại thừa là tinh thần bất nhị, đem đến sinh khí cho cuộc đời, vì Bồ tát không hề xa lánh cõi trần để tìm cầu giải thoát. Bồ tát nguyện vĩnh kiếp hòa quang đồng trần để tự thanh lọc mình và để cứu độ chúng sanh. Vẫn biết có lúc Bồ tát phải ở yên một nơi vắng vẻ, nhưng đó là thời gian củng cố và phát triển đạo lực, trang bị những khả năng cần thiết cho công việc giáo hóa sau này. Khi đã đủ nhân duyên, Bồ tát vận dụng trí huệ Ba-la-mật làm mọi Phật sự, trí huệ Ba-la-mật soi rọi bản thân để hoàn thành sự nghiệp tự lợi- lợi tha, cuối cùng viên mãn Phật quả.(Nguồn: Lục độ Ba la mật)
+ Tự mình trói mình - Nên tu giải thoát:
Tiếng Giải Thoát. "Giải thoát" tức là có được thứ tự do chân chánh, hoàn toàn không bị ràng buộc vướng víu nữa. Vậy "giải thoát" tức là thoát khỏi cái gì? Ðó chính là thoát ra khỏi nỗi khổ não của sanh tử trong sáu nẻo luân hồi.
Thuở xưa, có một vị Sư đến thỉnh vấn một bậc cao tăng danh tiếng rằng: "Xin hỏi Thượng Tọa, làm thế nào để được giải thoát?"
Vị cao tăng hỏi lại: "Ai trói buộc ông vậy?"
Vừa nghe xong, vị Sư nọ lập tức khai ngộ: " - ! Thì ra chẳng có ai trói buộc mình cả; chẳng qua là tự mình trói mình đó thôi! Nếu mình không tự trói chính mình nữa, thì tự nhiên mình sẽ được giải thoát."
Thế nào gọi là "tự mình trói mình"? Tất cả mọi người hãy lưu ý điểm này - bởi vì chúng ta không có được cái nhìn thấu suốt, lại chẳng thể triệt để buông bỏ tất cả, nên mới bị ràng buộc tù túng, không đạt được sự tự tại; mà không đạt được sự tự tại cũng chính là không đạt được sự giải thoát! Nếu quý vị có thể nhìn thấu suốt sự việc, thông hiểu mọi chuyện, và có thể buông bỏ tất cả, tức là quý vị đã tự cởi trói và sẽ đạt được sự tự do chân chánh; được tự do cũng chính là được giải thoát vậy. Bấy giờ, quý vị sẽ thấy an nhiên tự tại, chẳng ràng chẳng buộc, "không quái không ngại, vĩnh viễn xa lìa mộng tưởng điên đảo" (Tâm Kinh). Chân thật buông bỏ tất cả thì sẽ được giải thoát; nếu không buông bỏ được thì chẳng thể nào có được sự giải thoát.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã phát ra thứ tiếng Giải Thoát này, vậy bây giờ chúng ta cũng nên giải thoát chính mình, không nên tự trói mình và cũng đừng tự giam mình trong nhà tù, để rồi vĩnh viễn không được tự do. Sao lại nói chính mình nhốt mình trong nhà tù? Nếu quý vị không phải đang bị cầm tù tức là quý vị đã được giải thoát; còn nếu chưa đạt được sự giải thoát thì cũng chẳng khác nào quý vị đang ở tù vậy, không được tự do làm theo ý mình - đông tây nam bắc, muốn đi đâu cũng đều không được tự do cả!
"Tự do" mà chúng ta đương nói đây không phải là tự do của cái "túi da hôi thối" này, mà là tự do của tự tánh. Nếu cái tự tánh này được tự do, thì quý vị muốn sống là cứ việc sống, muốn chết là lúc nào cũng có thể chết được. Mà chết cũng chẳng cần phải có bệnh tật gì mới chết được, chỉ ngồi mà chết thôi - đó mới đúng là sự tự do chân chánh. Ðây gọi là:
Sanh tử do ngã, bất do thiên.
(Sống chết do ta, chẳng do trời.)
Bấy giờ, quý vị muốn sống thì sống, muốn chết thì chết. Muốn sống đến một trăm tuổi, một ngàn tuổi, hay một vạn tuổi... đều được cả. Nếu không muốn sống nữa thì bất cứ lúc nào cũng có thể trở về với "quê hương vốn có" của mình. Quý vị thích ở cái "nhà" này thì cứ việc ở; không thích ở nữa thì có thể "dọn" đi bất cứ lúc nào tùy ý.
Tự do của tự tánh gồm có hai thứ; đó là tự do của thần thức và tự do của bản hữu Phật tánh:
1) Tự do của thần thức. Thần thức thì thuộc âm và có thể du hành đến bất cứ nơi đâu; như từ thành phố Cựu Kim Sơn, thần thức có thể tới Nữu Ước, Âu Châu, Á Châu... Tuy rằng thần thức có thể biết rõ tình hình nơi mình đến, nhưng lại không thể cầm nắm đồ vật - thần thức không thể mua quà từ Nữu Ước rồi mang về lại Cựu Kim Sơn được; tại sao vậy? Vì thần thức vốn thuộc âm. Thần thức chỉ có thể nhìn xem cảnh vật của Nữu Ước, chứ không thể làm bất cứ việc gì ở đó cả.
2) Tự do của bản hữu Phật tánh. Phật tánh thì thuộc dương, là toàn thể đại dụng, công năng rộng lớn vô hạn. Ðạt được thứ tự do này, thì cho dù quý vị đang ở thành phố Cựu Kim Sơn, nhưng nếu cần món đồ gì ở Nữu Ước, thì chỉ cần duỗi tay ra là lấy được ngay. Quý vị thấy có kỳ diệu hay không? Ðó có phải là thần thông không? Thật ra, đó là thứ cảnh giới của sự giải thoát, không ràng không buộc, vô quái vô ngại. Ở cảnh giới này, cả cõi tam thiên đại thiên thế giới như ở trong một căn phòng, quý vị có thể đi lại khắp nơi trong đó và làm những việc mình muốn.
Vậy, nếu được giải thoát, được tự do, thì chúng ta sẽ có được những cảnh giới như thế. Tuy nhiên, chúng ta không được phép hiển thị công phu của mình một cách tùy tiện, bất cẩn. Không được nói rằng: "Quý vị thích món đó của Ðức, vậy để tôi sang nước Ðức mua về cho. Tôi chỉ việc thi triển thần thông là xong ngay!" Chúng ta dứt khoát không được lạm dụng thần thông để làm những việc như thế!
Khi sắp nhập Niết Bàn, Ðức Phật căn dặn tất cả đệ tử không được dùng thần thông; bằng không, nếu họ dùng thần thông, thì họ phải gấp rút ra đi, không được ở lại thế giới này lâu hơn nữa! Bởi người thường thì không có thần thông, do đó nếu quý vị dùng thần thông tất sẽ khiến cho mọi người sanh tâm sợ hãi đối với quý vị!
Tóm lại, quý vị có thể tùy tâm như ý làm xong công việc, thì đây là thuộc dương; còn làm không được là thuộc âm, và là tác dụng của thần thức - mọi người cần phải hiểu rõ điều này. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Giải thoát - Đức Phật dạy: Là giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
+ Giải thoát: Đối với nhân loại, cái huyền nhiệm của sự giải thoát nằm trong việc làm cân bằng các mãnh lực và làm quân bình các cặp đối hợp. Thánh đạo là con đường hẹp giữa các cặp đối hợp này mà người tìm đạo phải tìm ra và bước lên, không rẽ sang phải, cũng không sang trái. (LVHLT, 225)
+ Phật nói với Ðịa Tạng Bồ Tát: ‘Hết thảy chúng sanh chưa được giải thoát thì tánh thức không định, quen làm điều ác thì kết thành nghiệp, quen làm điều thiện thì kết thành quả; làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh, luân chuyển trong Năm Ðường, chưa từng ngưng nghỉ, trải qua trần kiếp, mê hoặc chướng nạn.
- Giải: Là nói về phiền não, phiền não chẳng giải trừ, thuật ngữ ngày nay gọi là „giải phóng‟, phiền não chưa được giải phóng.
- Thoát là nói về sanh tử, sáu nẻo luân hồi, bạn chưa thể thoát khỏi sáu nẻo luân hồi. "Tánh thức vô định‟, "Tánh‟ là tâm tánh, "Thức‟ là phân biệt, chấp trước; chẳng định, biến đổi quá lớn, niệm trước vừa diệt, niệm sau liền sanh, chẳng nhất định tiếp nối, thường thường thay đổi chủ ý, như vậy gọi là "tánh thức vô định‟. Trong hết thảy ý niệm, Phật quy nạp thành 3 loại lớn: "thiện, ác, vô ký", là ba loại này. Thiện và ác là tạo nghiệp, vô ký là vô minh, cũng chẳng phải là việc tốt, chúng ta hiểu vô ký cũng tạo nghiệp. Vô ký tạo nghiệp gì? Nghiệp hồ đồ, vô minh hồ đồ, chẳng có trí huệ.
- Ác tập kết nghiệp‟, đã tạo ác nghiệp thì tương lai phải thọ ác báo.
- Thiện tập kết quả‟quả‟ là nói về thiện báo, phước báo nhân thiên, nhà Phật gọi là tiểu quả.
Câu „Vi thiện vi ác, trục cảnh nhi sanh‟ là nói một người tại sao lại tạo thiện, tại sao tạo ác? Gặp duyên khởi hiện hành. Thiện, ác là hạt giống chất chứa trong A Lại Da Thức, hạt giống tập khí vĩnh viễn sẽ không tiêu mất, một khi gặp duyên nó sẽ khởi lên. Gặp ác duyên liền moi tập khí ác đem ra, gặp thiện duyên thì hạt giống thiện sẽ khởi lên, tự mình chẳng thể làm chủ, chẳng thể khống chế, thường gọi là chẳng có định lực, chẳng có trí huệ.
* Trí huệ là quán sát minh liễu, định lực là chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc, phải đến cảnh giới này thì con người mới không tạo nghiệp. Trích: A DI ĐÀ PHẬT-KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN tập 10- LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG GIẢNG GIẢI.
+ Quy trình Tu để đạt được thành tựu Giải thoát: Đó là, có đủ người thiện liền có đủ sự gần gũi thiện tri thức => Liền có đủ sự nghe điều thiện. Có đủ sự nghe điều thiện liền có đủ tín. Có đủ tín liền có đủ chánh tư duy. Có đủ chánh tư duy liền có đủ chánh niệm chánh trí. Có đủ chánh niệm chánh trí mới có đủ sự thủ hộ các căn. Có đủ sự thủ hộ các căn liền có đủ ba diệu hành. Có đủ ba diệu hành liền có đủ bốn niệm xứ. Có đủ bốn niệm xứ liền có đủ bảy giác chi. Có đủ bảy giác chi liền đầy đủ minh giải thoát. Như vậy, minh giải thoát này lần lượt được thành tựu toàn vẹn. Mục 369- (Trung A Hàm, Kinh Thực, Phẩm 5, số 52)
+ Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.
4. Xả là tâm buông xả. Chúng ta có tâm buông xả không? Nếu có, vậy là lớn hay nhỏ? Là nhất thời hay là vĩnh viễn? Xả cái gì? Là phát tâm cho chúng sanh sự vui vẻ, bạt trừ cái khổ của chúng sanh và giúp họ trong hoàn cảnh nguy khốn. Nếu làm được như thế, chúng ta sẽ sanh lòng hoan hỷ đến mức vô hạn, nhưng chúng ta đừng nên chấp vào đó - làm xong việc rồi nên quên hết chứ đừng lưu giữ trong tâm thức. Nếu chúng ta chấp mà không quên được, đó không phải là hạnh nguyện của Bồ Tát. Chúng ta nên có tinh thần thi ân bất cầu báo thì mới được xem là người Phật tử chân chánh.
Xả có bốn thứ:
- Xả Tài/ Thí Tài: Đem cho người ta đồ vật, của cải thời gọi là “tài xả”;
- Xả pháp/ Thí Pháp: Đem giáo pháp, giáo lý cho người thời gọi là “pháp xả”.
- Xả vô úy/ Thí vô úy: Đem đức không sợ hãi cho người thời gọi là “vô uý xả”.
- Xả phiền não: Còn tự mình xả bỏ tất cả các mối phiền não thời gọi là “phiền não xả”. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Từ Bi Hỷ Xả:
Tiếng Từ Bi. Lòng "từ" ban vui, lòng "bi" cứu khổ - tất cả những chúng sanh nghe được thứ âm thanh này của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, đều có thể lìa khổ được vui, thoát vòng sanh tử.
Tiếng Hỷ Xả. "Hỷ" là hoan hỷ, vui vẻ; "xả" là bố thí. Vậy, "hỷ xả" là hoan hỷ bố thí. Từ, Bi, Hỷ, Xả được gọi chung là Tứ Vô Lượng Tâm, tức là bốn cái tâm bao la vô lượng - Từ Vô Lượng Tâm, Bi Vô Lượng Tâm, Hỷ Vô Lượng Tâm và Xả Vô Lượng Tâm. Muốn tu hạnh bố thí thì cần phải sanh tâm hoan hỷ - hoan hỷ xả bỏ, vui vẻ thực hành pháp bố thí. Không nên sau khi đã xả bỏ, đã bố thí rồi, thì trong lòng lại thấy tiếc nuối, không đành; bởi như thế tức là chưa sanh tâm hoan hỷ vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Đức Phật dạy Phật tử phải tu tập tứ vô lượng tâm:
Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác.
Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt.
Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới.
Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị. Xả có bốn thứ: Xả Tài - Xả pháp - Xả vô úy - Xả phiền não.
+ Tâm từ bi: Theo hiện tại mà nói, là lòng yêu thương... PS Tịnh Không (Lòng yêu thương một chiều, như Mẹ yêu con, không có vấn vương, đòi hỏi, mưu cầu ......)
+ Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
III- Đại Từ Đại Bi: Tâm từ bi rộng lớn của chư Phật, Bồ tát cứu độ tất cả chúng sinh; Ban vui cứu khổ. Đặc biệt ám chỉ Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Xem nguồn
Xem Tứ vô lượng tâm;
Xem: TH về Từ - Bi - Hỷ - Xả và Tình thương Bác Ái
+ Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.
2. Bi là có thể bạt trừ khổ não. Chúng ta có thể bạt trừ sự đau khổ của chúng sanh không? Nếu không thể, thì đó là vì chúng ta chưa dùng hết lòng bi của mìmh. Chúng ta nên có tư tưởng “đồng thể đại bi,” cũng tức là thấy người chết chìm như chính mình bị chết chìm, thấy người đói như chính mình bị đói. Phật giáo lấy bi làm tông chỉ, vì bi là lòng lân mẫn, thương xót. Trong khi các nhà Nho nói rằng “bi thiên mẫn nhân” lại cũng phù hợp với ý nghĩa trên. Do đó mà biết rằng tư tưởng của thánh nhân trong thiên hạ đều giống nhau, như cùng xuất phát theo vết bánh xe, không tách rời lòng trắc ẩn xót thương. Phật giáo chủ trương từ bi, Nho giáo đề xướng trung thành và tha thứ. Tâm tâm tương đồng, đấy là cốt tủy của tôn giáo, nếu không thì là dị thuyết của ngoại đạo. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.
3. Hỷ là tâm vui vẻ. Chúng ta có hoan hỷ vui thích học Phật Pháp không? Chúng ta có sanh ưu sầu, phiền não, hoặc có tâm tư bực dọc không? Nếu quả là có, chúng ta hãy mau sửa đổi, đừng phát sanh tánh tình như thế. Nếu còn chút ít tập khí, rồi dụng công phu từ thất tình lục dục, thì đó là quan niệm sai lầm. Nên hiểu là chúng ta không được tiếp tục có thứ quan niệm sai lầm như thế. Nếu không, chúng ta không thể nào tưởng tượng nỗi hậu quả của nó sẽ ra sao. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Phát Triển Trí Huệ - Trí Thông Tuệ: Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng câu Chú Đại Bi số 37 - Thất na thất na)
+ Trí Thức/ Trí Tuệ khác nhau: Đạo Đời / Đạo Phật có các thuật ngữ tương ứng về người thu đạt được kiến thức như Trí thức/ Trí tuệ hay Trí Tuệ Biện Thông/ Trí tuệ Chân Thật; Học giả/ Hành giả; Bác học/ Trí tuệ vô lậu/ Trí Tuệ bát Nhã. Bởi vì trí thức là trí do ý thức nhanh nhẹn khéo léo, so sánh phân biệt, đối chiếu rành rõ, khiến người nghe dễ nhận dễ hiểu. Còn học giả là lượm lặt, gom kiến thức làm của mình. Bác học nghiền ngẫm, nghiên cứu phát minh .... Như vậy nhà trí thức, học giả và bác học là nhắm thẳng vào ý thức sinh diệt ... lo cho thân này mỗi ngày mỗi sung túc, mỗi tốt đẹp, mỗi giàu có hơn; Người học Phật lấy trí tuệ làm gốc, có 2 phần:
(i) Trí tuệ hữu lậu, là Văn, Tư, Tu. Văn tức là học lời chân thật, lý thật, chân lý của cuộc đời. Tư- Nghiền ngẫm, thấy rõ, hiểu tường tận là Tư. Tu là ứng dụng => Thấy đúng như thật chân lý Phật đã dạy, để tâm không nhiễm, không dính mắc tất cả pháp sinh diệt bên ngoài, đó là Tu. Trí tuệ hữu lậu còn luân hồi sanh tử.
(ii) Trí tuệ vô lậu là gì? Là Giới, Định, Tuệ. Đây là Pháp Tu để giải thoát niết bàn (Nguồn)
+ Trí tuệ chân chính: Trích ... Nếu ánh sáng mặt trời không chiếu qua các khe cửa, thì quý vị không thể nào thấy được bụi trần, cho dù thực sự có rất nhiều bụi trần khắp mọi nơi. Nhưng khi bụi trần nhiễu động lăng xăng thì hư không vẫn tĩnh lặng, hư không chẳng hề dao động. Khả năng thấy được bụi trần trong tia sáng mặt trời chiếu soi qua khe cửa biểu tượng cho năng lực của ánh sáng trí tuệ. Khi quý vị chứng được sơ quả a-la-hán, đoạn diệt được tám mươi tám món kiến hoặc [64] thì sẽ có được trí tuệ chân chính. Lúc ấy quý vị có thể thấy được các niệm vô minh sinh khởi phiền não trong mình cũng nhiều như cát sông Hằng. Mặt trời trí tuệ chiếu soi vào khách trần phiền não – qua ví dụ của A-nhã Kiều-trần-như – cũng như ánh sáng mặt trời chiếu qua khe cửa. Hang động âm u của vô minh sẽ được chiếu sáng, lúc ấy quý vị sẽ nhận ra khách trần phiền não, và quý vị sẽ được giác ngộ.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần chánh văn_Mục 118)
+ Trí huệ chân chính (True idea): Một ý tưởng xuất phát từ các phân cảnh trực giác của tâm thức thiêng liêng là một trí huệ chân chính.(VCVTDT, 189)
+ Trí huệ từ đâu mà có: TRÍ HUỆ CHẲNG LÌA GIỚI, ĐỊNH, HUỆ, NHẤT ĐỊNH TỪ GIỚI - ĐỊNH MÀ KHAI TRÍ HUỆ, TRÍ HUỆ MỚI THẤU LỘ. Nguồn: Tịnh Không Giảng Giải Ký
+ Siêu trí tuệ: Siêu trí tuệ là sự đáp ứng của thể trí giác ngộ với Thiên Trí (CTHNM, 495)
+ Trí Huệ Từ Đâu mà có: "Chẳng vượt biển trí Văn Thù, khó nhập hạnh môn Phổ Hiền"
* Trong xã hội hiện thời, nhìn trên hình thức, giáo dục dường như rất phát triển, trường học rất nhiều. Quan sát cẩn thận, tất cả sự giáo dục hiện thời, chúng ta thường nói là giáo dục gia đình, giáo dục trong học đường, giáo dục trong xã hội, cho đến giáo dục tôn giáo, đều chẳng nhấn mạnh trí huệ, chỉ nhấn mạnh kiến thức. Chư vị phải biết: Trí huệ và kiến thức khác nhau, chẳng tương đồng! Trí huệ có thể giải quyết hết thảy vấn đề, giải quyết rất viên mãn, chẳng để lại hậu quả. Kiến thức có hạn chế, nó chẳng thể giải quyết hết thảy vấn đề, có những vấn đề có thể giải quyết được, nhưng cũng có những vấn đề chẳng thể giải quyết, lại còn để lại rất nhiều hậu quả, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này! Học rộng nghe nhiều, mà nếu chẳng có trí huệ, sẽ là tri thức (kiến thức). Trí huệ học từ đâu? Trí huệ chẳng lìa Giới, Định, Huệ, nhất định là từ Giới - Định mà khai trí huệ, trí huệ mới thấu lộ. Nói cách khác, người tâm thường ở trong Định, sẽ dễ khai trí huệ. Nếu một kẻ tâm bộp chộp, hời hợt, làm sao có trí huệ cho được? Nguồn: PS Tịnh Không
Xem hình ảnh 4 cõi thấp - Hạ trí
Xem: Xem Rộng Trí Tuệ là Cung 1 – 4 – 5
Xem: TH về Cõi trí, Thể trí (Thượng, hạ trí), Cung Thể Trí
Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị
Xem: TH về Trí tuệ, Cung Thể Trí Và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
+ Trí Bát nhã - Trí huệ tâm: ..... Nhà Đường gọi Bát nhã là trí huệ. Cả thảy các chỗ các nơi, trong cả thảy thời gian, niệm niệm chẳng ngu muội, thường tu hạnh trí huệ, tức là hạnh Bát nhã. Một niệm ngu muội tức là Bát nhã tuyệt. Một niệm trí huệ tức là Bát nhã sanh. Người thế gian mê muội, chẳng thấy Bát nhã. Miệng nói Bát nhã, mà trong lòng thường ngu muội. Thường tự nói ta tu hạnh Bát nhã, niệm niệm nói "không" mà chẳng biết Chân không. Bát nhã không hình tướng, ấy là trí huệ tâm. Thiệt có hiểu rõ như thế, mới chính là trí Bát nhã.
Giảng:
Cái gì gọi là Bát nhã? Tại mọi nơi, bất cứ lúc nào, niệm niệm sáng suốt, niệm niệm không mê, niệm niệm không vô minh, thường dùng trí huệ xử lý mọi việc, đó chính là tu hạnh trí huệ. Nếu một niệm ngu si, Bát nhã sẽ đoạn tuyệt. Đoạn tuyệt này là ví dụ, chớ trí huệ chân chánh hoàn toàn không đoạn tuyệt, vì trí huệ chân chánh bất sanh bất diệt, làm sao có thể đoạn tuyệt được? Ý nói lúc mê muội, Bát nhã không hiện tiền. Nếu không mê muội, không ngu si, lúc đó Bát nhã sanh khởi. Ví dụ có người nói uống rượu hút thuốc là không tốt, dùng LSD, dùng ma túy là không nên, nhưng quý vị không tin, đó gọi là Bát nhã đoạn tuyệt. Người có trí huệ thì phải làm sao? Nếu nghe nói rằng uống rượu, hút thuốc, hút á phiện là điều không tốt, người trí bèn nhanh chóng sửa đổi, đó gọi là Bát nhã sanh. Người ngu si biết rõ ràng đó là điều không đúng nhưng vẫn cứ muốn thử.
Người thế gian rất ngu, không chỉ một người mà là rất nhiều người đều ngu si, họ tự mình không biết Bát nhã, miệng thường nói trí huệ, mà tâm thường làm những việc ngu muội. Điều không nên làm mà họ vẫn cứ làm. Họ thường nói tôi tu hành trí huệ, mỗi niệm đều nói: "không" chính là Bát nhã.
Bát nhã có hai mươi loại không môn, cần phải "không" tất cả. Nhưng họ không biết cái không chân chánh, tuy hiểu một chút Kinh điển, biết trì một vài câu chú, tụng vài câu Kinh, nhưng tật xấu của mình lại không sửa đổi, đó chính là khẩu đầu thiền. Hằng ngày nói "không" mà không biết sửa đổi tật xấu của mình. Chân không có nghĩa là phải làm cho vô minh, tập khí tật xấu của mình hoàn toàn đều không không, cần phải không tất cả những hành vi ngu muội không sáng suốt.
Bát nhã không có hình tướng, không dài ngắn vuông tròn, hoặc xanh vàng đỏ trắng. Tâm không có vô minh, thường sanh trí huệ, trí huệ là rõ ràng sáng suốt, có thể biết pháp đúng pháp sai. Quý vị nếu có kiến giải như thế, đó mới chính là Bát nhã trí.
Sao gọi là Ba la mật? Ấy là tiếng Tây Thiên Trúc, nhà Đường gọi là đáo bỉ ngạn, nghĩa là khỏi sự sanh diệt. Tâm dính cảnh, thì sự sanh diệt dấy lên, như nước nổi sóng, tức là thử ngạn (bờ bên này). Còn tâm lìa cảnh, thì không có sự sanh diệt, như nước thường lưu thông, tức gọi là bỉ ngạn (bờ bên kia). Cho nên gọi là Ba la mật.(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngồi thiền - Pháp Thế gian thiền: Phàm phu chúng ta thì tu Thế Gian Thiền; trong đó bao gồm Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Vô Sắc Ðịnh. Về những cảnh giới này, tôi không giải thích cặn kẽ, bởi chỉ cần quý vị dụng công tu hành và tọa Thiền thì tự nhiên sẽ thấu rõ được tất cả. Còn Xuất Thế Thiền thì gồm có Tứ Thiền Bát Ðịnh, Bát Thắng Xứ, Bát Bội Xả..... Cho nên, bây giờ quý vị biết là có nhiều thứ Thiền khác nhau như Thế Gian Thiền, Xuất Thế Gian Thiền, Xuất Thế Gian Thượng Thượng Thiền, Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền... rồi; chỉ cần quý vị chịu siêng năng dụng công tu hành, sau này chắc chắn quý vị sẽ biết được "hương vị" của các thứ đó. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tu thiền - Giữ trung đạo: Dụng công tham thiền cũng không nên làm quá dữ, hay quá yếu ớt, một đàng thì thái quá, một đàng bất cập. Tu hành là phải giữ trung đạo, tránh sự thiên lệch, cho nên có câu nói: Gấp thì căng, nới thì trùng, chẳng gấp chẳng nới mới thành công. Cứ như vậy, ngày ngày dụng công, từng giờ dụng công, không gấp, không nới, dần dà tới lúc thành công và thành công tức là đạt tới cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Dù thế nào cũng không vui mừng, không bi ai..... (HT Tuyên Hóa giảng - Theo Facebook Palmlien)
+ Tu thiền: Chúng ta tạm gọi con đường tu thiền thông thường là con đường thanh tịnh vọng tâm còn con đường tu thiền theo Hoa Nghiêm Tông là con đường khai mở chân tâm (Xem Clip).
+ Tu Thiền: Phật dạy rằng: “A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành được”. (Xem bài)
+ Tọa thiền: Sư (Lục tổ) bảo chúng rằng: "Chư Thiện tri thức! Sao gọi là tọa thiền? Trong pháp môn nầy không có chỗ nào ngăn, không có sự gì cản. Ngoài đối với tất cả các điều lành dữ các cảnh giới, mà tâm chẳng khởi vọng niệm, gọi là tọa. Trong thấy tánh mình chẳng động, gọi là thiền." (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tham thiền: Chúng ta tu tập phải làm sao thành kẻ vô tâm, tức là trong không thân tâm, ngoài không thế giới, với hư không là cùng một thể. Ðó là lúc mà chấp nhân cũng không, và chấp pháp cũng không. Làm thế nào chứng được cảnh giới đó? Phải tu thiền.
Tham thiền thì phải một dạ đinh ninh, tập trung tư tưởng, đầu óc không nghĩ lung tung, giống như mèo rình chuột, như gà ấp trứng, như rồng nuôi hạt châu, hết lòng giữ gìn, chú ý, chuyên tâm mới tới được đích.
Chúng ta tham câu: "Niệm Phật là ai?" Chữ "ai" chính là con chuột và chỗ ngồi tham này cũng chính là miệng lỗ chuột, do đó từng giây từng phút không được chểnh mảng. Nếu sơ hở để chuột chạy mất thì bắt làm sao được "ai?"
Bởi vậy mới có câu nói: "Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện, sáu căn vừa động bị mây che." Khi một niệm chẳng sanh thì toàn thể cái "đại dụng" hiện bầy, cái gốc trí huệ hiển lộ, nhưng một khi sáu căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, dấy động thì chẳng khác gì trời đương quang đãng mà có mây kéo đến, che lấp mặt trời.
Khi một niệm chẳng sanh thì bên trong không thân tâm, bên ngoài không thế giới. Ngồi thiền trong cảnh giới này sẽ không còn hô hấp nữa tuy chẳng phải là đã chết. Ở bên ngoài không hô hấp nữa, nhưng bên trong, hô hấp vẫn còn hoạt động.
Nếu khởi lên ý nghĩ rằng: "A! ta đã hết thở rồi!" thì tự nhiện sự hô hấp tiếp tục trở lại. Một niệm chẳng sanh, hô hấp ngừng lại, đó chính là chuyển pháp luân vô hình, hát khúc ca vô sanh vậy!(Nguồn: Theo facebook Palmlien)
+ Tham thiền: Giúp Phàm ngã hòa hợp với sự rung động của Linh hồn. Khi đã có sự giao tiếp, hành giả nhận được Ánh sáng của Linh hồn tuôn xuống, chuyển hóa tật xấu thành đức hạnh. (Xem: T.Thức-Các Cõi)
+ Tham thiền, khi bạn dừng suy nghĩ lại, cố ý vượt ra ngoài thể trí - giữ thể trí ổn định, và hình dung và cảm nhận. Hãy tưởng tượng bạn đã liên hệ với Trí Tuệ Đại Đồng - với CÁI TOÀN THỂ. Hãy đồng nhất với Đấng Duy Nhất đó và mở tâm thức ra để đón nhận cảm hứng Thiêng Liêng, ban đầu hiếm khi xảy ra, hãy kiên trì để có kết quả. Lúc đầu giữ cho giai đoạn này ngắn để tránh "tình trạng lơ mơ." "Thế nên cái trí, ở trong trạng thái tích cực, linh mẫn và được kiểm soát hoàn toàn, được giữ vững ở mức cao nhất mà nó có thể đạt đến. Bấy giờ trong thể trí xảy ra tình trạng tương tự như tình trạng đã có trong não bộ. Nó được giữ vững với thái độ chờ đợi, trong khi tâm thức của chủ thể tư tưởng chuyển vào một trạng thái ý thức mới, và y trở nên đồng nhất với con người tinh thần đích thực ở nội tâm. ITI 135"
+ Mục tiêu thực sự của tham thiền là dần dần làm cho Chân Ngã thể rạn nứt, đứt rời và tan rã. (TVTTHL, 22)
+ Khi tâm trí có thể hoàn toàn đắm chìm vào cõi giới của linh hồn, sự vững vàng và bình thản trở thành đặc tính của con người trong cõi hồng trần." (Nguồn: Ánh sáng của linh hồn)
+ Ba P. Pháp thiền: Thiền hữu chủng - Vô chủng; - Lúc bình minh và 3 Con đường: (i)- Thiền huyền Bí (Cung 1) / Thần Bí (Cung 2)/ Khởi đầu thiền (Cung 3)
+ Đối Tượng Tu Các Pháp Thiền:
- Cho Thanh Thiếu Niên: Nguồn: mục 388. LỢI ÍCH CỦA TỨ THIỀN
* Đức Phật dậy: Về Tứ thiền, Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện cho đến được đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Ông hãy dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về Tứ thiền này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
+ Lưu ý tu Thiền định: Tâm địa chúng ta rất thanh tịnh, ngủ, đọc sách, ngồi thiền, tại sao ngồi thiền trên người phải khoác áo kỹ như vậy? Bởi vì cơ thể bạn ở trạng thái tĩnh. Trạng thái tĩnh là sợ gió nhất. Cho nên, khi chúng ta đang đọc sách trong trạng thái rất yên tĩnh thì không được phép bậc máy lạnh hay dùng quạt điện. Khi cơ thể bạn đang hoạt động thì không có sao cả, nhưng yên tĩnh thì không được phép (PS Tịnh Không- Kinh Thập thiện tập 29)
+ Thiền đúng: Thiền, không nhất định giới hạn nơi im lặng tịnh tọa, mà là đi đứng nằm ngồi đều là thiền, cho nên nói “đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói im động tĩnh thể an nhiên.” Người biết dụng công, không chỉ giới hạn nơi tịnh tọa mới dụng công, mà bất cứ lúc nào, ở đâu cũng đều có thể dụng công.
Tọa thiền vốn không chấp nơi tâm, cũng không chấp thanh tịnh. Tại sao vậy? Nếu chấp tâm, thì có hai cái tâm. Nếu chấp tịnh, thì có hai cái tịnh. Cũng không nói tôi ngồi hoài không động. Nếu các ông chấp nơi tâm, thì có hai cái tâm, đó thành ra vọng tâm, cần phải biết tâm vốn huyễn hóa không thực, không phải chân tâm, cho nên các ông không nên chấp vào nó.
Tự tánh của người vốn thanh tịnh, thì tại sao các ông lại phải chấp vào tịnh? Nếu chấp vào tịnh, thì có hai loại thanh tịnh, tức có chân có vọng. Vì có vọng niệm, cho nên Chân như bị vọng niệm che đậy. Nếu các ông không có vọng tưởng thì trở về diện mục bổn lai thanh tịnh. Nếu các ông sanh tâm chấp vào cảnh, trên bổn lai thanh tịnh mà làm việc “đầu thượng an đầu,” lại sanh một cái tịnh, đó chính là cái vọng, không phải là bổn thể thanh tịnh. Nhưng cái vọng này vốn không có một chỗ nào, nếu ông chấp vào vọng hoặc tịnh đó là điều sai lầm. Ðó chính là đầu thượng an đầu, gắn thêm cái đầu trên đầu nữa.
Thanh tịnh vốn không hình không tướng, mà các ông lại lập ra một cái hình tướng thanh tịnh, quán tịnh và chấp vào tịnh, nói đây là công phu. Có kiến giải như thế, liền chướng ngại bản tánh của mình, mà bị tịnh trói buộc. Vì các ông đã chấp vào tịnh, đây cũng là một loại chấp trước. (Nguồn: Phẩm Tọa Thiền Ðệ Ngũ _ HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tại sao phải Tu Thiền: Câu Hỏi 33: Tại sao học Phật pháp lại phải tọa thiền? Đáp: Tức là phải học tập vô lượng kinh điển, vô lượng trí huệ trong tự tánh của chúng ta. Trong nhân tánh vốn có vô lượng pháp môn nhưng con người cứ bỏ gốc để chạy theo ngọn, rồi hướng ra ngoài truy cầu chớ không biết hồi quang phản chiếu.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Tham thiền giành cho người trí: Tu tham thiền là vượt qua chính mình, khi ngồi thiền thì có các chướng ngại mà hành giả cần an tịnh chúng thì mới có thể định trí gồm các lớp (Ngũ ấm/ Lớp tụ) bao quanh thân xác/ phía trên thân (i)- Thân xác (ii)- Cảm xúc; (iii)- Tư tưởng; (iiii)- Thói quen, tập khí hàng ngày; (iiiii) Tâm thức, vọng tưởng. Vòng kim cô chói buộc hành giả rất khó giải thoát khỏi chúng, nó che lấp ánh sáng chân tâm/ Quang minh => Con đường tu là phá tan từng phần vòng kim cô để ánh sáng giác ngộ tỏa chiếu (Nguồn: Thầy Hằng Trường)
+ Ngồi Thiền Gặp Ma Chướng: Quý vị ngồi Thiền tới một trình độ kha khá thì sẽ có ma tới thử thách xem Ðạo-lực của quý vị ra sao. Có khi chúng hóa hiện làm kẻ nam hay người nữ với dáng mạo đẹp đẽ để dụ dỗ-nếu không động tâm thì quý vị vượt qua được thử thách, nếu động tâm thì quý vị sẽ đọa lạc. Ðây là điều vô cùng quan trọng, quý vị hãy nhớ cho kỹ! Hễ sẩy chân lỡ bước là ôm hận ngàn đời! ... Người tu hành phải tu làm sao để dẹp bỏ “cái tôi” (ngã tướng). Nếu không còn “cái tôi” thì chuyện gì cũng nhẫn nại, cam chịu được. Cảnh giới có tới, quý vị cũng chẳng động tâm. Hãy xem mình như hư không. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng về Ái Dục)
+ Tiến trình tu tham thiền - Trì chú: Buông xả vạn duyên, Ngồi thoải mái, thư giãn, thở bụng, chú tâm vào hơi thở, thở nhẹ nhàng tự nhiên hoàn toàn và dần lắng xuống, thân bất động không nhúc nhích chi cả. Nếu không đạt đến thư giãn bất động thì không thể tiến đến giai đoạn tiếp theo - Hơi thở tự nhiên ở trạng thái vi tế vô cùng => Không còn tưởng thấy Thân thể nữa, nó như đã hòa tan vào không gian - Tâm thức tĩnh lặng thâm sâu, gắng giữ vững tâm thức tĩnh lặng, dâng lên cao phía trên đỉnh đầu, tâm thức rộng mở tùy duyên, càng rộng càng tốt trong tịch tĩnh lặng yên .,.Đây là phần trụ thiền cần đạt được, là bước khởi đầu của nhập định vững chắc....; Nếu kết hợp trì Chú thì thì đọc Chú ... (Nguồn: Tu tập ngồi thiền, trì chú _ Thầy Hằng Trường)
+ Quá trình tu thiền định: Khi hành giả tận lực công phu tu đạo cũng giống như vậy (Ma Quỷ nhiễu nhương phá quấy). Giai đoạn quan trọng nhất là trải qua sự khảo nghiệm của ma vương. Khi quý vị chưa có được công phu, ma vương chẳng cần thử thách. Nhưng một khi đã có được chút ít công phu rồi, thì ma vương rất thích thử thách. Nếu không nhận ra ma sự đến như một cuộc khảo nghiệm, thì quý vị liền bỏ cuộc tu hành và theo làm đồ chúng của ma. Nếu quý vị muốn công phu đến mức thành tựu thực sự, quý vị phải có được tánh định, thì chân tánh của quý vị không hề lay động, tự nhiên quý vị sẽ có được định lực và sự thành tựu của quý vị là rất chân thực, không phải là hư vọng. Còn nếu quý vị bị xoay chuyển bởi ma, thì định lực của quý vị không phải chánh định mà là tà định, không bao giờ đưa quý vị đến quả vị Phật được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh)
+ Tham thiền nhập định: Sau giai đoạn tham thiền là giai đoạn nhập định, người không có Định lực thì không thể nhập định, mà muốn có định lực thì phải giữ giới luật, chỉ có nhue vậy mới không bị gió nghiệp lực chi phối khi ngồi thiền, mới hy vọng tiến triển đến nhập định.(Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng về Định Lực)
Xem: Tham thiền huyền môn theo Raja yoga (GQ-MF)
Xem: TH về các P.Pháp và con đường Tham Thiền
Xem: Tổng hợp Huyền học - Huyền Bí Học - Huyên Linh học và Huyền Linh Thuật
Xem Tham thiền - Nhập định và những nguy hiểm cần tránh và Tổng quan về Tham Thiền
+ Xa-ma-tha[24] là tiếng Phạn, Hán dịch là tịch tĩnh. Tuy vậy, đó là sự “tịch tĩnh” do nỗ lực gắng sức dụng công mà có được, hành giả đạt được loại định lực này bằng cách đè nén, đình chỉ tâm ý thức, không cho phát khởi vọng tưởng. Nên đó không phải là định rốt ráo. Đó chỉ là pháp môn phương tiện của hàng Nhị thừa mà Đức Phật giảng dạy vào thời kỳ đầu tiên.
+ Tam-ma (samāpatti)[25] là tiếng Phạn, Hán dịch là “quán chiếu”, chẳng hạn quán chiếu mười hai nhân duyên hoặc quán pháp Tứ diệu đế.
+ Thiền-na: tiếng Phạn là (dhyāna), Hán dịch là “tư duy tu” nghĩa là dụng tâm để tư duy và quán tưởng, cũng gọi là tu “chỉ quán.” Hành giả dùng tâm để theo dõi sự đến và đi, sinh và diệt của ý tưởng. Rất giống pháp tu “chỉ quán” của tông Thiên thai, chủ trương tam chỉ, tam quán: quán không, quán giả, quán trung. Cơ bản giáo lý vốn không sai khác, nhưng pháp quán này không thể so sánh được với Thủ-lăng-nghiêm đại định.
Thiền-na[26] là tĩnh lự. Nay tu theo pháp tĩnh tọa, cũng còn được gọi là thiền na. Nhưng tu theo thiền-na có pháp triệt để và cũng có pháp không triệt để. Hàng Tiểu thừa dùng tâm thức để tu thiền, nhưng thức tâm vốn là đối tượng của sinh diệt, nên pháp tu này không kiên cố.
+ Pháp tịch tĩnh: Tức là tu thiền định (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - T1)
+ Tinh tấn trong Lục độ: Tinh là “tinh thuần”, thuần nhưng chẳng tạp, Tấn là “tấn bộ”, tiến chứ không lùi. Hết thảy người học Phật chúng ta, ngày ngày cầu tiến lên, nhưng mọi người chẳng thật sự tinh tấn mà là “tạp tấn” bởi lẽ học rất nhiều, rất tạp, cho nên gọi là “tạp tấn”. Vì thế, công phu chẳng đắc lực, quang âm bị lãng phí sạch sành sanh, thật đáng tiếc! Nào biết đạo lý đức Phật đã giảng cho chúng ta - hai chữ “tinh tấn” - chính là bí quyết để thành công. Chư vị đồng tu phải nhớ kỹ, dù là pháp xuất thế gian hay thế gian, muốn thành tựu đều phải chuyên tinh. Chúng tôi thấy những đại khoa học gia Tây Phương cũng suốt một đời chuyên chú đổ sức nơi một khoa, bởi thế họ có thể đột phá, có phát minh, có phát hiện. Nếu như họ học rất tạp, rất nhiều, nhất định sẽ chẳng có thành tựu rất cao. Những ai có thể thành tựu quyền uy một đời không ai là chẳng chuyên chú đổ sức vào một khoa mục cả.
- Nếu muốn đắc Định thì phải “thủ pháp”, tức là tuân thủ quy củ của người thế gian. Người thủ pháp tâm bèn an định, quyết định chẳng phạm pháp, chẳng làm chuyện khiến tâm áy náy; còn kẻ chẳng giữ pháp, tâm chẳng an định, ngày ngày nghĩ đến chuyện xấu, làm cách nào để né tránh pháp luật, luật lệ, bởi thế thân tâm bất an. Bởi thế mới nói học Phật nhất định phải tu Giới Học. (Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm_PS Tịnh Không giảng)
+ Tinh Tấn: Theo nghĩa đen là luôn luôn thực hành, lặp lại không ngừng và nỗ lực không ngưng nghỉ để đặt nhịp điệu mới lên trên nhịp điệu cũ, xóa bỏ những thói quen và các hoạt động đã ăn sâu bằng cách tạo nên ấn tượng của linh hồn. Tinh tấn là luôn luôn cố gắng để hạn chế các hoạt động của thể trí. Nó bao hàm ý tưởng là Chân Ngã luôn luôn cố gắng để hạn chế các hoạt động hay các dao động của thể trí và kềm chế bản chất thông linh thấp hay thay đổi, ngõ hầu biểu lộ đầy đủ bản chất tâm linh riêng của mình. Như thế và chỉ có như thế, Chân Ngã mới sống cuộc đời của linh hồn hằng ngày trên cõi trần. (ASCLH, 26–27)
+ Tinh Tấn - Ðức Phật dạy: "Tỳ-kheo các ông! Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Bởi vậy, các ông nên chuyên cần tinh tấn. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn thủng được hòn đá. Nếu trong tâm người tu giải đãi, biếng nhác, cũng giống như người xát cây lấy lửa, chưa nóng đã vội ngưng nghỉ. Dù người ấy muốn được lửa cũng khó mà được. "Như vậy gọi là sự tinh tấn." (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
131. CHÁNH TINH TẤN
Thế nào là chánh tinh tấn? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó, nếu có phương tiện tinh tấn thì quả quyết, tinh cần để mong cầu, có khả năng để thú hướng, chuyên chú không xả bỏ, cũng không suy thối, quyết định hàng phục tâm mình. Nguồn mục 131 - (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31)
+ Tinh Tấn - Tinh cần: Có thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Khi tâm quý vị tinh tấn, thì quý vị sẽ tìm cầu Phật pháp mọi lúc. Khi thân tinh tấn, thì minh tu tập Phật pháp mọi lúc mọi nơi.(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Tinh Tấn - Ý chí Nghị lực siêu nhiên: Nghi lực cần có không bờ bến là căn bản của mọi thành công trên đường tu tập, thiếu nghị lực sẽ không thực hiện được gì cả. Nghị lực siêu nhiên gồm có ba thể dạng như sau :
a) Nghị lực như một thứ áo giáp (samnahaviraya): nghị lực che chở ta trước sự lười biếng và trì trệ, giúp ta duy trì quyết tâm tu học, một sự quyết tâm sâu xa và chân thật. Khoác lên người chiếc áo giáp của nghị lực không phải là cách biểu dương anh hùng tính hay phô trương sự khổ nhục vì Đạo Pháp. Kinh sách ví chiếc áo giáp nghị lực ấy là một sự che chở trước sự lười biếng và ù lì.
b) Nghị lực trong hành động (prayogavirya): Không bao giờ hẹn sang ngày mai những gì ta có thể thực hiện trong ngày hôm nay, luôn luôn ý thức về vô thường và tính cách mong manh của sự hiện hữu, đó là những phương cách đem đến nghị lực trong sự sinh hoạt của ta. Gân máu dài hàng cây số trong não bộ, chỉ cần một gân máu nhỏ bằng sợi tóc bị đứt cũng làm cho ta ngã xuống, trong số hàng tỷ tế bào trong thân xác, chỉ cần một tế bào chia cắt và nhân lên một cách bấn loạn cũng làm cho ta bị ung thư. Nhưng tùy theo tuổi tác, ta cứ nghĩ rằng ta đang khoẻ mạnh và sẽ còn sống 10, 20, 30, 40…năm nữa, và ta tiếp tục hẹn lại và gác lại sự tu tập. Thiếu nghị lực trong hành động là như thế. Trong tập Chính Pháp nhãn tạng (Shobogenso), Đạo Nguyên có đưa ra hình ảnh của bốn con ngựa : một con phóng chạy khi thấy bóng của cây roi, một con chờ roi chạm vào da mới chạy, một con chờ roi cắt vào thịt mới chạy, một con chờ roi nghiến vào xương mới chạy. Chiếc roi tượng trưng cho vô thường.
Nghị lực trong hành động cũng là cách chống lại sự cám dỗ của những sinh hoạt vô bổ, những giải trí làm tê liệt trí óc, ngăn cản mọi suy luận và sinh hoạt của lý trí : chẳng hạn như nghe nhạc kích động liên miên, chơi những trò chơi điện tử hay xem truyền hình suốt ngày. Có thể xem đó là những loại ma túy tệ hại của xã hội tân tiến ngày nay.
c) Nghị lực vô biên (analamtavirya) : nghị lực Ba-la-mật không có giới hạn, không thể đo lường được, không bao giờ gọi là đủ hay đã đạt đến tối đa. Luôn luôn nên nghĩ rằng những gì đạo hạnh và xứng đáng ta đã thực hiên được đều vô nghĩa, nhỏ nhoi và thiếu sót, cần phải cố gắng nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Phải thực thi và duy trì nghị lực cho đến khi nào đạt được Giác ngộ.(Nguồn: Lục độ Ba La Mật)
+ 6. Tinh tấn: Có Chánh tinh tấn và Tà tinh tấn. Sao gọi là Chánh tinh tấn? Giống như chúng ta đang lễ Phật, niệm Phật suốt ngày không nghỉ ngơi, đó là Chánh tinh tấn. Nếu bạn đi đến chỗ khác nói chuyện khào, càng nói càng hăng, khoa chân múa tay, đó gọi là Tà tinh tấn, không có lợi ích chi, lại chẳng có tác dụng gì. Sao gọi là Chánh tinh tấn? Chánh tinh tấn chính là làm việc có ích. Sao gọi là Tà tinh tấn? Tức là làm việc vô ích, ví như đối với Phật pháp phải dụng công, nhưng lại lười biếng chỉ nói chuyện tào lao lười biếng cũng như, khi nghe kinh, không luận bận rộn cách mấy cũng phải đến nghe kinh, đến để hộ trì pháp hội, đó gọi là Chánh tinh tấn. Nếu vốn không bận việc gì, nhưng cũng không đến nghe kinh, đó gọi là không tinh tấn. Giống như chúng ta ở đây có mấy vị cư sĩ, hễ xem phim thì rất tinh tấn, chịu đi long nhong đường lớn hẻm nhỏ mà chẳng đến nghe kinh, có pháp hội mà chẳng đến hộ trì, đó đều là không tinh tấn. Chánh tinh tấn là không luận ở chỗ nào có pháp hội thì đến ủng hộ, hộ trì đạo tràng. Nếu khoái đánh bài, cờ bạc... đó là Tà tinh tấn. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ 6. Chánh tinh tấn: Tinh tấn là siêng năng, chuyên cần thẳng tiến đến mục đích và lý tưởng mà Phật đã dạy. Hăng say làm những việc chính đáng mang lợi ích cho mình và cho người. (Sách: Sự Hiển Lộ Của Thánh Đoàn)
+ Tinh Tấn - Ðộ thứ tư trong Lục Ðộ. Có người hiểu lầm đức tinh tấn này là tinh tấn hướng theo ngoại đạo; nhưng kỳ thực, người chân chánh hiểu rõ tinh tấn thì phải tinh tấn hướng về Phật Pháp. Nếu hướng theo ngoại đạo mà tinh tấn, thì đó chỉ là tu khổ hạnh một cách vô ích mà thôi.
Chúng ta hãy tinh tấn về mặt thiện pháp, chứ đừng nên tinh tấn về mặt ác pháp. Nếu quý vị áp dụng sự tinh tấn vào ác pháp, thì đó là đi ngược với Ðạo, là quay lưng lại với Ðạo vậy.
Ðối với thiện pháp, tinh tấn tức là chăm chỉ lạy Phật, tụng kinh, lễ sám, niệm Phật - đó là nói về "thân tinh tấn" (sự tinh tấn của thân). Rồi kế đến là "tâm tinh tấn" (sự tinh tấn của tâm); thế nào gọi là "tâm tinh tấn"? Tức là trong lòng thời thời khắc khắc đều nhớ đến việc tu hành, niệm niệm không quên siêng năng tu tập thiện pháp, lúc nào cũng hăng hái tu hạnh Tinh Tấn Ba La Mật, chẳng quản mệt nhọc.
Nếu quý vị chân chánh tu học Phật Pháp, tất quý vị sẽ không cảm thấy mệt mỏi, cũng chẳng thấy đói bụng hay khô cổ, và cũng không phải chịu đựng những phiền nhiễu ngoài ý muốn. Vì sao vậy? Vì hễ quý vị tinh tấn thì sẽ không thấy có thứ cảm giác uể oải, chán nản đó nữa. Nếu quý vị biếng nhác, thiếu tinh tấn, thì rất dễ sanh nhiều tật xấu, lại thường cảm thấy mệt mỏi, xuống tinh thần, chỉ muốn đi ngủ cho khỏe thân mà thôi! Tinh tấn là thước đo chủ yếu xem mình như thế nào. Vậy, ở mọi nơi mọi lúc chúng ta đều phải siêng năng tu hành thiện pháp, như thế mới gọi là "Tinh Tấn Ba La Mật." (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Giới luật - Pháp môn số một - Pháp đặc trị tâm Tham Sân Si ...:
"Thi La" còn có nghĩa là Giới - Giới Luật. Khi Ðức Phật sắp nhập Niết Bàn, ngài A Nan thỉnh vấn bốn điều, và một trong bốn điều ấy là khi Phật còn tại thế thì chúng đệ tử thờ Phật làm Thầy, vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn rồi thì phải tôn ai làm Thầy. Bấy giờ, Ðức Phật dạy rằng: "Chúng đệ tử xuất gia phải lấy Giới làm Thầy!" Những giới luật ấy chính là "chớ làm các việc ác, vâng làm mọi việc lành," và cũng chính là "chỉ ác, phòng phi" - ngăn dứt điều ác, đề phòng việc quấy. Cho nên Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Thi La Ba La Mật
"Giới" là tối trọng yếu, là quan trọng nhất. Bố thí là vấn đề quan trọng nhất trong việc tu hành, mà trì Giới lại cũng là vấn đề quan trọng nhất. Sao có nhiều vấn đề "quan trọng nhất" vậy? Trong Phật Pháp không có thứ nhì, mà toàn là thứ nhất, bất cứ pháp nào cũng đều là thứ nhất cả!
Có người hỏi tôi: "Phật Pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, vậy pháp môn nào là đệ nhất, cao nhất, vi diệu nhất?" Quý vị đoán tôi trả lời như thế nào? Tôi nói: "Phật Pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, thì có tám vạn bốn ngàn pháp môn là đệ nhất, là số một, không có pháp môn nào là hạng nhì cả!" Vì sao tôi nói như vậy? Tám vạn bốn ngàn pháp môn là để đối trị tám vạn bốn ngàn tật bệnh của chúng sanh. Mỗi chúng sanh đều mắc một chứng bệnh khác nhau, thế thì, pháp môn nào trị lành được bệnh của người nào, thì pháp môn ấy là hạng nhất đối với người đó vậy!
Thí dụ như các dược phẩm, có thứ thì trị nhức đầu, có thứ thì trị đau cổ, hoặc đau mắt, đau tai, nhức răng, sổ mũi..., có thứ thì trị các chứng bệnh khác trong cơ thể; vậy quý vị nói thứ thuốc nào là hay nhất, là số một? Nếu nói rằng thuốc nhức đầu là số một còn thuốc đau mắt là số hai, tức là sai lầm! Quý vị mắc chứng nhức đầu, uống thuốc đau đầu vào thì hết nhức, thì thuốc ấy là số một; quý vị bị bệnh đau mắt, uống thuốc đau mắt rồi thì hết đau, thì thuốc này cũng là số một vậy.
Loài người chúng ta đều có "bệnh" tham, sân, si; nếu quý vị hiểu Phật Pháp rồi trị được "bệnh" tham trong tâm mình, thì pháp môn trị tâm tham ấy là đệ nhất; nếu quý vị hiểu Phật Pháp rồi trị được "bệnh" sân, thì pháp môn trị tâm sân ấy là đệ nhất; và nếu quý vị hiểu Phật Pháp rồi dứt trừ được lòng si mê, thì pháp môn trị tâm si ấy là đệ nhất. Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn thói hư tật xấu, Phật bèn giảng nói tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị những thói hư tật xấu ấy. Hễ pháp môn nào trị dứt được bệnh của quý vị thì pháp môn ấy là số một; bằng không thì không gọi là số một được. Do đó, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là tám vạn bốn ngàn pháp môn thuộc loại số một cả! (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Chớ làm các việc ác, Vâng làm mọi việc lành.
Tiếng Thi Ba La Mật. "Thi" là tiếng Phạn, nói đầy đủ là "Thi La" (Sila); Trung Hoa dịch là "thanh lương." "Thanh" là thanh tịnh, trong sạch; "lương" là lương sảng, mát mẻ. Vậy, "thanh lương" có nghĩa là vừa sạch sẽ vừa mát mẻ; ngụ ý rằng chẳng những không có phiền não mà còn được thoải mái, thanh thản nữa.
"Thi La" còn được dịch là "phòng chỉ" (ngăn dứt). Mỗi quốc gia đều có dự bị quân đội, để phòng khi nước khác không giữ quy củ, xâm lấn đất nước mình, thì mình có binh lính sẵn sàng để chống cự; đó gọi là "quốc phòng" - sự phòng bị của quốc gia. Gia đình có sự phòng bị của gia đình, mỗi cá nhân đều có sự phòng bị của riêng mình. Ở đây là nói về sự phòng bị của mình đối với chính mình.
Thế nào gọi là "phòng chỉ"? Ðó là "phòng bị" mà"đình chỉ." Phòng bị việc gì? Tức là đề phòng tất cả điều ác, đình chỉ tất cả việc ác, tuyệt đối không làm điều ác. Và, đó chính là:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
(Chớ làm các việc ác,
Vâng làm mọi việc lành.)
Khi xưa có một cư sĩ đến xin một vị Hòa Thượng giải thích cho ông biết Phật Pháp là gì. Hòa Thượng đáp: "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành."
Vị cư sĩ liền nói: "Bạch Hòa Thượng, điều tôi muốn biết là Phật Pháp. Còn chuyện 'chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,' thì đứa bé lên ba cũng biết được, sao Ngài lại bảo đó là Phật Pháp?"
Hòa Thượng đáp: "Tuy đứa bé ba tuổi hiểu được, nhưng ông già tám mươi không làm được!"
"Chư ác mạc tác."- Chớ làm các việc ác - Chư ác" tức là tất cả mọi cái ác, mà cũng là một trong những việc ác. Chữ "chư" này là chỉ số nhiều, mà cũng có thể hiểu là một. Ví dụ, quý vị làm được một việc ác thứ nhất tất sẽ làm được việc ác thứ hai, làm việc ác thứ hai rồi quý vị sẽ làm việc ác thứ ba, làm việc ác thứ ba rồi tất quý vị sẽ không ngần ngại mà làm việc ác thứ tư, cho đến cả trăm ngàn vạn điều ác - như thế, tất cả đều khởi sự từ con số một, từ một việc ác ban đầu mà sinh sôi nảy nở rồi tích lũy dần dần. Giống như trái núi, quý vị thấy to lớn như vậy, nhưng thực tế nó được kết thành từ những hạt bụi nhỏ, vô số hạt bụi kết tụ lại hình thành một hòn núi. Cho nên quý vị nói "nhiều," nhưng "nhiều" rốt cuộc là bao nhiêu? Không có số lượng nhất định! Thế thì chi bằng cứ nói là "một," như vậy còn dễ hiểu hơn!
Vì thế, ngay cả một việc ác cỏn con cũng không nên làm; đó chính là "chớ làm các việc ác" vậy. Nếu như nói "chớ làm các việc ác," e rằng có người lại nghĩ: "Ðó là nói không nên làm nhiều việc ác, còn một việc ác này thôi thì đâu phải là nhiều, mình có làm cũng chẳng sao!" Cho nên, ở đây tôi nhấn mạnh là một việc ác còn không nên làm, huống hồ là nhiều việc ác! Nhiều thì càng không nên làm. Vậy, điều trọng yếu nhất, vi diệu nhất là một việc ác cũng không làm!
"Chúng thiện phụng hành." - Vâng làm mọi việc lành - "Chúng" là nhiều; đồng nghĩa với chữ "chư." "Chúng thiện phụng hành" nghĩa là tất cả mọi việc thiện, bất kể là lớn hay nhỏ, chúng ta đều nên làm, chẳng nên bỏ sót một việc nào. Cho dù là chuyện nhỏ nhặt, nhưng miễn là việc tốt thì cũng nên làm. Bằng không, nếu bỏ qua, thì sẽ bị thiếu một việc thiện nhỏ đó, mà như thế thì không thể gọi là "chúng thiện" được! "Chúng" là toàn thể đại dụng, trọn vẹn, không thiếu một chút gì. Do đó, không thể nói rằng: "Tôi chỉ làm việc thiện này thôi; tôi không thích làm việc thiện kia!" Làm thiện sự thì dù nhiều hay ít, dù lớn hay nhỏ, chúng ta cũng đều nên làm tất cả.
Còn đối với việc ác thì hoàn toàn trái ngược - việc ác, bất kể là lớn hay nhỏ, nhiều hay ít, chúng ta đều tuyệt đối không nên phạm. Nếu quý vị làm điều ác bất chấp lớn nhỏ, như thế là điên đảo đấy! Cho nên, sở dĩ vị Hòa Thượng này nói: "Tuy đứa bé ba tuổi hiểu được, nhưng ông già tám mươi không làm được," là vì chúng ta làm mà chưa đạt tới chỗ viên mãn.
"Thi La" còn có nghĩa là Giới - Giới Luật. Khi Ðức Phật sắp nhập Niết Bàn, ngài A Nan thỉnh vấn bốn điều, và một trong bốn điều ấy là khi Phật còn tại thế thì chúng đệ tử thờ Phật làm Thầy, vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn rồi thì phải tôn ai làm Thầy. Bấy giờ, Ðức Phật dạy rằng: "Chúng đệ tử xuất gia phải lấy Giới làm Thầy!" Những giới luật ấy chính là "chớ làm các việc ác, vâng làm mọi việc lành," và cũng chính là "chỉ ác, phòng phi" - ngăn dứt điều ác, đề phòng việc quấy. Cho nên Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Thi La Ba La Mật.... (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Trí Huệ đức Phật: ... Oai thần lực của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta phàm phu, chẳng có cách chi có thể hiểu được, cho nên bây giờ chúng ta vẫn còn là phàm phu, không hiểu thấu được cảnh giới của Phật. Nhưng Phật hiểu được tâm của chúng sinh. Bất cứ trong tâm tưởng gì ? Phật đều biết. Kinh Kim Cang có nói : "Tất cả chúng sinh có những tâm gì, Như Lai đều biết đều thấy".
Nghĩa là tất cả hết thảy chúng sinh, không màng có bao nhiêu thứ tâm, Phật hoàn toàn biết bạn đang nghĩ gì ? Thích gì ? Chán bỏ cái gì ? Phật đều nhìn thấy rõ ràng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - T1)
+ 4- Phật huấn thị về cung cách và bổn phận người Phật tử.
Đức Phật dậy: Thọ trì năm giới Phật chế là người phước đức. Phàm làm việc gì nên khải bạch Tam Bảo. Phật huyền thông thấu suốt không việc nhỏ nhặt nào mà không biết.
Giảng: Lời kinh trên đây là Phật khai thị cho chúng ta. Những ai thọ trì năm giới, chuyên tâm tu tập thì mới chân thật là đệ tử Phật, nhất định là người phước đức trong nhân gian. Thọ trì ngũ giới tất nhiên được năm phước đức:
1/- Trường thọ.
2/- Giàu sang.
3/- Thanh tịnh ít bệnh.
4/- Mội người kính tin.
5/- Trí huệ phước đức hơn người.
Đại để các kinh luật đều nói tạo nhân tu trì ngũ giới thì được quả báo bằng phước đức như đây. Để hành vi thuần thiện, tâm ý thuần chân, Phật còn từ bi kỹ lưỡng chỉ giáo cho chúng ta phương pháp kiểm soát hành vi tâm niệm để tránh vọng tình huân tập bằng cách “khi hành sự, nên bạch Tam Bảo”, nhứt niệm thông tam giới. Nhứt tâm chánh niệm quy y Tam Bảo, thì trừ diệt được nghiệp ba đời. Trọn đời y như thế thực hành, thì không nguyện nào mà không thành, không tâm hạnh nào mà không thanh tịnh, không quả vị nào mà không chứng đắc. Thành kính khải bạch Tam Bảo mỗi khi thi hành việc gì, thì cho dù làm việc “thế sự” cũng thành “Phật sự”, hạnh chúng sanh cũng thành hạnh Bồ Tát.
Thế nào là khải bạch Tam Bảo? Phật huyền thông huệ nhãn, tàng thân khắp pháp giới, không nơi chốn nào mà không ảnh hiện. Đủ thiện duyên thì Phật ảnh hiện suốt thông tất cả. Như ba động khắp trong không gian, đủ dụng cụ hợp tầng số là có diệu dụng thu nhiếp và ảnh hiện. Như không khí khắp trong vũ trụ có năng lực nuôi sống muôn loại. Nên kinh nói: “Phật huyền thông thấu suốt, không việc nhỏ nhặt nào mà không biết”. Khải bạch Tam Bảo là đến trước tượng Phật đốt tâm hương thành kính bạch lên những việc sắp làm, mong đức Phật từ bi gia hộ cho bồ đề tâm kiên cố thuận duyên hành đạo; vận dụng hết tâm niệm hành vi thực hành thì đúng như lời Phật dạy trong kinh điển là khải bạch Pháp bảo; thỉnh ý sư trưởng, thảo luận với người đạo đức là khải bạch Tăng bảo. Làm như thế trước khi thi hành thì nhất định việc làm hợp với lý tánh lương tâm, tự nhiên cảm ứng đạo giao cùng với huyền thông chư Phật.......
Đức Phật dậy: Người có giới hạnh là có đạo đức ứng hợp với chân tánh tự nhiên, chư thiên hộ trì, sở nguyện không trái ý, cảm động mười phương, đức tánh bằng trời, vun bồi công đức vĩ đại, thánh hiền ngợi khen, khó có thể nghĩ bàn.
LỜI GIẢI:
Đức Phật hết lời khen ngợi người có giới hạnh. Có giới hạnh là công đức sâu rộng lớn như trời biển, đồng thời Phật cũng khuyến khích mọi người nên phát tâm tu trì giới pháp. Học Phật phải nhận rằng phàm chỉ trì giới cho riêng mình là tiểu thừa giới, tiểu thừa tâm. Tự mình thọ trì giới pháp mà còn nghĩ đến làm lợi ích chúng sanh, khuyến khích chúng sanh cùng với mình phát tâm tu tập Phật pháp là đại thừa giới, đại thừa tâm. Người trì giới, đồng thời phát từ bi tâm làm lợi ích chúng sanh tự nhiên cùng với Phật Bồ Tát cảm ứng tương giao, được chư Phật Bồ Tát tùy duyên hiện tướng, tâm nguyện tương ưng cùng đại thể bản tánh Phật chúng sanh thanh tịnh, nên kinh đây gọi là “ứng hợp bản thể chân tánh tự nhiên”.
Lại nữa, Bồ Tát độ sanh tùy duyên hiện tướng, tùy căn cơ nghiệp thức chúng sanh thích hợp thân hình gì thì các ngài hiện tướng “đồng sự, lợi hành” theo Tứ nhiếp pháp mà không trái với bản thể chân tánh tự nhiên. Nếu người học Phật hiểu được nghĩa lý nầy thì chỉ cần tự thân chuyên trì giới luật, tinh tấn làm việc phước đức, chẳng phải cần cầu thần linh tự nhiên cảm ứng chư Phật Bồ Tát Thiên Long Bát Bộ hộ trì, không tâm nguyện nào mà không thành, không đạo hạnh nào mà không viên mãn. Tức là người chuyên trì giới luật với tâm lượng vị tha, thường nghĩ tưởng đến lợi ích của chúng sanh, xả thân hành đạo thì tất nhiên được chư Phật Bồ Tát Thiên Long Bát Bộ hộ niệm, nên việc làm khởi đầu dù gặp phải bất cứ nghịch duyên ma chướng, nhưng sau đó thuận tâm như nguyện. Muốn đạt đến hữu cầu tất ứng, thì tâm phải đồng tâm Phật, miệng nói lời Phật nói, thân làm các hạnh Phật làm, tự hành hóa tha, như thế nhứt định cảm động mười phương pháp giới, tâm hạnh xứng tánh, vô vi vô tác, rạng ngời như nhựt nguyệt, đem nguồn ấm mát cho vạn loại sanh trưởng, cùng với vạn vật dung hợp đồng nhất thể.
Do chánh tâm chuyên trì giới pháp, thành ý tu thiện, lợi ích chúng sanh, từ đó có được công đức tự lợi lợi tha to lớn, cảm đến thành hiền thế gian và xuất thế gian đều tán thán hộ trì bất tận, nên kinh đây nói: “Cảm động mười phương, đức sánh bằng trời, vun bồi công đức vĩ đại, thành hiền ngợi khen, khó có thể nghĩ bàn”. Người tu học Phật chỉ biết năng lực của sự trì giới và công đức hoằng pháp làm thiện chuyển động đến chư Phật Bồ Tát Bát Bộ Thiên Long. Nên năng lực thần thông có, khi nào chính lòng ta thật sự thanh tịnh làm việc công đức chứ không phải chạy tìm bên ngoài nhờ thần linh, hồn tinh quỷ mị giáng điển dựa thế lực người nầy kẻ khác để tu hành phụng sự Phật pháp. Như thế là tà pháp chứ không phải là chánh pháp. (Nguồn: Kinh A Nan vấn về Phật sự)
+ Đức Phật rõ biết mọi việc: Vì sao Phật có thể dùng lòng nhân từ để tế độ chúng sanh? Bởi vì Phật có trí huệ."Năng nhân" cũng có nghĩa là tùy duyên;"tịch mặc" cũng chính là bất biến. Ðức Phật thì thường bất biến, song cũng luôn tùy duyên; tuy luôn tùy duyên, nhưng vẫn thường bất biến. Mặc dù ở trong Ðịnh tịch nhiên bất động, Phật vẫn có thể cảm thông linh ứng. Cho nên nói: Mọi tâm tưởng của chúng sanh, Phật đều có thể thấy, nghe và rõ biết.
Mọi tâm tưởng của chúng sanh, bất luận nhiều hay ít, Phật đều có thể thấy, nghe và rõ biết tất cả. Vì sao Phật có thể thấy biết tất cả? Chính là nhờ"năng nhân, tịch mặc." Bởi Ðức Phật có thể"năng nhân" nên Ngài thấy rõ được tất cả; và nhờ có thể"tịch mặc" nên Phật thấu suốt hết mọi sự. Do đó, quý vị đừng lầm tưởng rằng không ai hay biết những việc mình làm, bởi Phật có thể thấy biết tất cả.
Chúng ta tu Ðạo, hễ trong lòng có một phần chân thành thì sẽ được một phần cảm ứng, có mười phần chân thành thì sẽ được mười phần cảm ứng. Nếu tâm quý vị có trăm ngàn vạn ức phần chân thành, thì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dù đang ở vị trí"bổn giác tịch nhiên bất động," cũng có thể cảm thông linh ứng mà giúp cho quý vị được toại nguyện, khiến cho quý vị được sớm thành tựu Ðạo nghiệp. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Như thi ngã văn - Tôi nghe như vầy: Tôi nghe như vầy. Hiện tại (1968), chúng ta khai đàn giảng Kinh Kim Cang, Kinh Ðịa Tạng và Kinh Pháp Hoa trong cùng một thời điểm, cho nên bốn chữ "Tôi nghe như vầy" sẽ được giảng đi giảng lại đến ba lần.
"Như vầy" hay "như thị", vốn là từ "chỉ pháp"; ngụ ý rằng pháp như vậy thì tin được, còn pháp không như vậy thì không đáng tin. Hiện tại, pháp này gọi là pháp "như thị" - đây là thứ pháp đáng tin cậy. "Như thị" cũng là từ "ấn khả", khẳng định rằng (Pháp) đích thực là như vầy, tuyệt đối không được sửa đổi. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người đã khai ngộ cần được Ấn chứng:
Một ngày nọ, Huệ Năng đang bán củi, nghe một người khách tụng Kinh Kim Cang, nghe đến câu "ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm," liền lập tức khai ngộ. Hiện nay có nhiều người đã từng nghe qua Kinh Kim Cang, nhưng không có ai khai ngộ. Tôi hy vọng ở Tây phương, có người nghe đến câu "ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" có thể hiểu rõ nghĩa lý mà lập tức khai ngộ.
Sau khi khai ngộ, Đại sư không có đi khắp nơi rêu rao: "Xem nè! Tôi đã khai ngộ rồi." Ngài không giống như một số người hiện nay, chỉ mới hiểu có một chút kiến thức nông cạn về Phật pháp, bèn đi khắp nơi khoe khoang mình đã khai ngộ. Người xưa dù đã khai ngộ, cũng không dám khinh suất nói rằng mình đã khai ngộ, hà huống những người vốn chưa khai ngộ, càng không nên đi khắp nơi tuyên dương khoe khoang như vậy. Nếu đã khai ngộ, cần phải đi tìm một vị Thiện tri thức mắt sáng (minh nhãn) để chứng minh. Đó chính là nguyên nhân mà Lục Tổ đi Hoàng Mai cầu Ngũ Tổ ấn chứng.
Từ xưa đến nay, người giác ngộ không bao giờ dám tự mình ấn chứng mình, không giống như người bây giờ, chưa ngộ nói ngộ, phạm đại vọng ngữ. Cần phải biết ngộ và chưa ngộ sai khác một trời một vực, làm sao có thể chân ngụy không phân biệt được, lấy giả thay thật, mắt cá lẫn vào hạt châu, nhắm mắt nói mò ư? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng về Lục Tổ Huệ Năng)
+ Sáu loại thần thông:
Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.
1) Thiên Nhãn Thông. Người chứng được Thiên Nhãn Thông có thể nhìn thấy khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới rõ ràng như nhìn quả am-ma-la trong lòng bàn tay vậy. Trong hàng đệ tử của Phật, Tôn Giả A Na Luật là bậc đứng đầu về Thiên Nhãn Thông.
2) Thiên Nhĩ Thông. Chứng được Thiên Nhĩ Thông thì có thể nghe được mọi âm thanh từ cõi nhân gian cho đến tận ba ngàn đại thiên thế giới, luôn cả các âm thanh của cõi trời.
3) Tha Tâm Thông. Ðây là khả năng đọc được ý nghĩ của người khác. Tất cả những việc mà quý vị dự tính trong đầu, định sẽ thực hiện, thì cho dù quý vị chưa hề thổ lộ với ai cả, nhưng người đã chứng đắc Tha Tâm Thông vẫn có thể biết rõ.
4) Túc Mạng Thông. Người chứng đắc Túc Mạng Thông có khả năng biết được tất cả những việc - thiện cũng như ác - mà quý vị đã tạo tác trong các đời trước.
5) Thần Cảnh Thông (cũng gọi là Thần Túc Thông hoặc Như Ý Thông). Chữ "thần" này đồng nghĩa với chữ "thần" vừa giảng ở trên, và cũng chỉ cho một cảnh giới kỳ diệu, không thể nghĩ bàn. Ý nghĩa của chữ "thần" và chữ "diệu" có đôi chút tương đồng; cho nên có lúc nói "thần diệu khôn lường", chính là ám chỉ một thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn.
"Cảnh" là cảnh giới; còn "thông" là thông đạt vô ngại, vốn không thông mà lại thông. Thí dụ, bức tường chắn ngang tuy có gây trở ngại, nhưng nếu quý vị khoét một lỗ hổng thì sẽ được thông lưu. Tương tự như thế, "bức tường" vô minh gây chướng ngại, ngăn che ánh sáng quang minh của tự tánh trong chúng ta; song, nếu quý vị có thể dùng "gươm" trí huệ của mình để phá vỡ bức tường đó, thì sẽ được thông suốt ngay.
6) Lậu Tận Thông. Chúng ta vì sao chưa thành Phật? Bởi vì chúng ta vẫn còn "lậu hoặc"! Chúng ta vì sao chưa thể làm Bồ Tát? Bởi vì "lậu hoặc" vẫn tồn tại trong chúng ta! Chính vì lậu hoặc mà chúng ta phải trầm luân trong Tam Giới - Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Chẳng những thế, các lậu hoặc này còn khiến cho chúng ta bị lưu lạc, nổi trôi trong chín Pháp Giới. Chín Pháp Giới là gì? Ðó là chín cõi giới của Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên (Trời), Nhân (Người), A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh. Chúng sanh trong chín Pháp Giới này chưa thể thành Phật được là vì họ còn có lậu hoặc; nếu không còn lậu hoặc nữa thì nhất định sẽ thành Phật.
Lậu hoặc này do đâu mà có? Chính là do vô minh! Cho nên, hễ diệt trừ được vô minh thì lậu hoặc sẽ không còn nữa; nếu vô minh chưa bị phá hủy thì lậu hoặc vẫn còn tồn tại. Do vậy, người chứng được Lậu Tận Thông chẳng có bao nhiêu. Một khi không còn lậu hoặc thì quý vị sẽ không còn phải trôi lăn trong vòng sanh tử nữa. Tại sao chúng ta vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử? Ðó là vì chúng ta có lậu hoặc! Người có lậu hoặc ví như cái bình bị lủng vậy - quý vị muốn đổ nước cho đầy bình, nhưng nước cứ rỉ ra ngoài theo chỗ lủng, bình không thể giữ được nước. Cho nên, dứt sạch mọi mối lậu tức là được "lậu tận thông" vậy. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa)
+ Ngũ Nhãn: Trích đoạn Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tri kiến thế nào gọi là ngũ nhãn? Thế Tôn nói:
1. Nhục nhãn chỉ thấy được chỗ tối, thấy trước mắt chớ không thấy sau lưng.
2. Thiên nhãn trước sau, trong ngoài, núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại.
3. Huệ nhãn thấy được nghĩa lý trong văn tự cạn sâu và nhân quả lành dữ kiếp trước kiếp sau, rõ rệt như chỉ trong bàn tay.
4. Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của chư Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy.
5. Phật nhãn tròn sáng chói khắp, trước kiếp vô thỉ, sau kiếp vô chung tất cả nhân quả như thấy trước mắt, mảy lông cộng tóc không sót.
Năm thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Lục thông - Sáu thông là:
1. Thiên nhãn thông: Chẳng những có thể thấy được tất cả tình hình ở nhơn gian mà lại còn có thể thấy được nhứt cử nhứt động của các người ở trên cõi trời. (Có thể thấy được tất cả hành động của trời và người.)
2. Thiên nhĩ thông: Chẳng những thấy được mà còn có thể nghe được mọi lời nói, mọi hành động của người và trời. (Có thể nghe được những tiếng nói và thanh âm của người ở trên trời.)
3. Tha tâm thông: Khi hai bên gặp nhau, trong tâm bạn có ý nghĩ gì, dù chưa nói ra miệng nhưng đối phương đã biết rõ những điều bạn nghĩ và những việc bạn định làm. (Có thể biết được những ý tưởng trong lòng người khác)
4. Túc mạng thông: Chẳng những biết được ý nghĩ của bạn trong hiện tại, mà cả đến nhơn quả đời trước của bạn cũng biết được rõ ràng. (Chẳng phải chỉ biết hiện tại, mà cả đến quá khứ cũng biết nốt)
5. Thần túc thông: Cũng gọi là Thần cảnh thông hay Như ý thông. Sao gọi là Thần túc thông? -Ðó là một sức mạnh không thể nghĩ lường, có thiên biến vạn hóa, ngay đến quỷ thần cũng không lường biết. Lại gọi là Thần cảnh thông, vì có thể đến mọi cảnh giới, thông suốt không bị ngăn ngại, và Như ý thông: Ðược toại lòng mong muốn, muốn lên trời hoặc xuống địa ngục đều được tùy ý; thậm chí vào lửa, lửa không đốt được; vào nước, nước không nhận chìm; có thể mặc ý xuyên qua vách tường, không cần phải theo lối cửa; toại lòng như ý, muốn gì được nấy. (Thứ thần thông này không thể nghĩ bàn, cảnh giới rất vi diệu.)
6. Lậu tận thông: Ðã sạch cả hữu lậu. Hàng phàm phu đều có Hữu lậu, như cái bình pha lê bị rạn nứt không đựng nước được, hễ đổ nước vào liền chảy hết; nứt càng lớn thì nước chảy càng mau. Nếu không nứt thì nước sẽ không lậu (rỉ) chảy ra. (Giống như là dưới đáy bình nước có một lỗ hổng, nước đều từ lỗ hổng đó chảy ra hết. Nay không còn chảy nữa, vì lỗ hổng ấy đã bị bịt kín, nên gọi là lậu tận.)
* Những gì là lậu tận? Tức là không có tâm dâm dục thì là không có lậu; không có tâm tham lam cũng là không có lậu; không có tâm si cũng là không có lậu. Tóm lại, tám vạn bốn ngàn những tập khí, lỗi lầm đều không có, gọi là Vô lậu.
Năm nhãn là: 1/ Thiên nhãn; 2/ Nhục nhãn; 3/ Huệ nhãn; 4/ Pháp nhãn; 5/ Phật nhãn.
Có bài kệ nói về năm nhãn như thế này:
Thiên nhãn thông không ngại,
Nhục nhãn ngại không thông,
Pháp nhãn chỉ quán tục,
Huệ nhãn rõ chơn không,
Phật nhãn ngàn mặt nhật:
Chiếu khác, thể lại đồng.
1. "Thiên nhãn thông không ngại": Thiên nhãn thông suốt không ngăn ngại, cho nên gọi là "thông không ngại". Người ấy có thể nhìn thấy sự việc trong tám vạn đại kiếp, nhưng không thể thấy được ngoài tám vạn đại kiếp.
2. "Nhục nhãn ngại không thông": Nhục nhãn có thể nhìn thấy cảnh tượng có chướng ngại. Trái lại, Thiên nhãn có thể nhìn thấy cảnh tượng không chướng ngại.
3. "Pháp nhãn chỉ quán tục": Pháp nhãn là quán Tục đế, quán sát tất cả Tục đế ở thế gian, đạo lý thế tục.
4. "Huệ nhãn rõ chơn không": Huệ nhãn còn kêu là trí huệ, hay rõ rành Chơn không.
5. "Phật nhãn ngàn mặt nhật: Chiếu khác, thể lại đồng": Phật nhãn không phải chỉ ở trên mặt Ðức Phật mới có, mà mỗi chúng ta đều có Phật nhãn, chỉ có điều mở hay không mở mà thôi. Khi Phật nhãn mở ra, khác nào ánh sáng ngàn mặt trời, có thể chiếu soi vạn sự vạn vật, nhưng bản thể lại là đồng nhau.
Phật có đủ Ba Thân, Bốn Trí , Năm Nhãn, sáu thông; nếu ta nói mình là Phật thì phải đủ những thứ trên mới có thể nói là thành Phật được, bằng không chỉ là phàm phu. Nếu muốn làm người tốt thì không nên lừa người khác. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Thần Thông: "Thần" là "thiên tâm", là tâm của trời; "thông" là "huệ tánh", tức là có trí huệ. "Thông" còn là "thông đạt vô ngại" - chẳng có gì không thông suốt; và "thần" cũng hàm ý thần kỳ bí ẩn.
Thần thông có sáu loại - sáu loại cũng là một loại, một loại mà phân làm sáu loại. Cho nên, tách riêng ra thì có tới sáu loại, song hợp lại thì chỉ là một. Thật ra, một loại cũng chẳng có nữa, bởi xưa nay vốn không có thần thông mà vốn cũng có thần thông!
Vì sao nói "vốn không có thần thông"? Vì sao lại nói "vốn cũng có thần thông"? Ðiều này rất kỳ diệu, lý thú. Bây giờ, chúng ta hãy nói về sáu loại thần thông trước, rồi sau đó sẽ bàn đến "vốn là thần thông, vốn không phải là thần thông; vốn là một loại thần thông, vốn là một loại thần thông cũng chẳng có."... (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa)
+ 636. THẦN THÔNG
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp rằng: Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo nào có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, được tự tại vô lượng như ý túc, thực hành vô lượng như ý túc, có thể biến một thành nhiều, hợp nhiều làm thành một, một thì trụ trên một, được biết, được thấy; không bị trở ngại bởi vách đá, cũng như đi trong hư không; chìm xuống đất như chìm xuống nước, đi trên nước như đi trên đất; ngồi xếp kiết già mà bay trên không như chim bay liệng; với mặt trời và mặt trăng này vốn có đại như ý túc, đại phước hựu, đại oai thần mà có thể đưa tay bắt nắm, thân cao đến trời Phạm thiên. Nguồn: mục 636- Tại đây
+ Thần Thông Là Gì? Trả lời: Tôi không nói thần thông mà là nói về trí huệ. Phàm hễ như con có linh cảm hoặc biết trước được chuyện gì… thì đó có thể nói là do tác dụng của trí huệ, chớ không phải là thần thông gì. Cái thần đó thì không thể nghĩ bàn. Nếu con nghiêm trì giữ gìn quy củ một cách đàng hoàng, thì thời gian lâu dần tự nhiên sẽ có trí huệ. Đối với việc tu hành, thì thần thông như là một thứ tài năng vô cùng nhỏ nhặt không ích lợi gì cả. Đừng nghĩ rằng có thần thông tức là có cái gì phi thường ghê lắm. Người tu hành chân chánh thì không chú trọng đến mấy thứ đó, nhưng cũng không bài xích nó. Đấy chỉ là một xu hướng tự nhiên mà thôi! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 256)
+ Có Thần thông:
"Lục chủng thần thông hồn an sự, (sáu thần thông chỉ thông thường)".
Nếu chư vị thường tự làm chủ thì sẽ đắc được sáu thần thông. Sáu thần thông là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm tâm, thần túc thông, túc mệnh thông, lậu tận thông. Sao chư vị không có sáu thần thông ? Vì chư vị không tự làm chủ được. Gặp cảnh giới liền chấp trước, nên bị cảnh chuyển. Thấy việc lạ kỳ, tâm tư thay đổi, tức chư vị bị cảnh chuyển mà chưa chuyển được cảnh. Nếu chư vị có thể chuyển được cảnh thì bất cứ cảnh giới nào đến, không thể bị giao động. Đừng nói lúc tỉnh giác mà khi mộng mị cũng không bị cảnh giới chuyển. Đó mới thực là chủ nhân ông.
Nếu làm chủ được thì có trí huệ chân chánh. Khi ấy sáu thần thông là chuyện bình thường. Không phải là việc khó có mà rất phổ thông, bình thường. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thần Thông do đâu mà có: Nói rằng con người "vốn không có thần thông", là ám chỉ lúc chúng ta còn là phàm phu, chưa hiện thần thông. Lại nói rằng con người "xưa nay vốn có thần thông", bởi y cứ vào quả vị của bậc Thánh nhân mà nói thì thần thông vốn đã có sẵn. Hạng phàm phu thì không có thần thông, bậc Thánh nhân mới có thần thông. Thần thông của Thánh nhân phải chăng là đến từ bên ngoài? Không, đó là có sẵn! Thế thì phàm phu không có thần thông, phải chăng là vì họ đã đánh mất? Cũng không phải, bởi thần thông ấy vẫn tiềm tàng trong tự tánh của phàm phu; chẳng qua là họ chưa phát hiện ra, chưa nhận thức được, nên tưởng rằng mình không có mà thôi! Cho nên, tôi nói "vốn không có thần thông" là vì lẽ ấy.
Có thần thông hay không có thần thông đều chẳng quan trọng. Quý vị chớ lầm tưởng rằng có thần thông tức là đắc Ðạo hoặc chứng được quả vị. Phải biết rằng có được thần thông rồi vẫn còn ở cách sự chứng quả và đắc Ðạo rất xa! Chúng ta không nên mới đạt được đôi chút thành tựu liền tự mãn: " - , phen này tôi phát tài rồi!" Mới có được một lượng vàng mà đã reo mừng rối rít, cho là mình phát tài; trong khi người ta có tới hàng ngàn hàng vạn lượng vàng thì lại không hề khoe khoang, vẫn bình thản như không có gì cả vậy! So với người ta thì việc mình có được một lượng vàng có gì là to tát đâu? Có câu: "Ðắc thiểu vi túc, trung đạo tự hoạch". (Được ít cho là đủ, nửa đường tự ngừng.)
Những kẻ chỉ mới gặt hái được một vài thành quả nhỏ nhoi mà ngỡ là nhiều lắm, thì chẳng khác nào tự vẽ sẵn mức đường giới hạn cho mình ở nửa đường, đến mức đó thì ngừng lại, không lướt tới nữa. Ðó là cảnh giới của hàng Nhị Thừa, chứ không phải là căn tánh Bồ Tát của Ðại Thừa. Cho nên, đừng nghĩ rằng có thần thông là tài giỏi. Nếu quý vị có thần thông rồi tự phụ, cho rằng mình tài giỏi hơn người, thì quý vị còn quá nông nỗi - bởi như thế là quý vị vẫn còn tâm chấp trước, còn lòng tự mãn. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa)
+ Thần Túc thông:
Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.
5) Thần Cảnh Thông (cũng gọi là Thần Túc Thông hoặc Như Ý Thông). Chữ "thần" này đồng nghĩa với chữ "thần" vừa giảng ở trên, và cũng chỉ cho một cảnh giới kỳ diệu, không thể nghĩ bàn. Ý nghĩa của chữ "thần" và chữ "diệu" có đôi chút tương đồng; cho nên có lúc nói "thần diệu khôn lường", chính là ám chỉ một thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn.
"Cảnh" là cảnh giới; còn "thông" là thông đạt vô ngại, vốn không thông mà lại thông. Thí dụ, bức tường chắn ngang tuy có gây trở ngại, nhưng nếu quý vị khoét một lỗ hổng thì sẽ được thông lưu. Tương tự như thế, "bức tường" vô minh gây chướng ngại, ngăn che ánh sáng quang minh của tự tánh trong chúng ta; song, nếu quý vị có thể dùng "gươm" trí huệ của mình để phá vỡ bức tường đó, thì sẽ được thông suốt ngay. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa)
5. Thần túc thông: Cũng gọi là Thần cảnh thông hay Như ý thông. Sao gọi là Thần túc thông? -Ðó là một sức mạnh không thể nghĩ lường, có thiên biến vạn hóa, ngay đến quỷ thần cũng không lường biết. Lại gọi là Thần cảnh thông, vì có thể đến mọi cảnh giới, thông suốt không bị ngăn ngại, và Như ý thông: Ðược toại lòng mong muốn, muốn lên trời hoặc xuống địa ngục đều được tùy ý; thậm chí vào lửa, lửa không đốt được; vào nước, nước không nhận chìm; có thể mặc ý xuyên qua vách tường, không cần phải theo lối cửa; toại lòng như ý, muốn gì được nấy. (Thứ thần thông này không thể nghĩ bàn, cảnh giới rất vi diệu.) (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Lậu Tận thông:
Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.
6) Lậu Tận Thông. Chúng ta vì sao chưa thành Phật? Bởi vì chúng ta vẫn còn "lậu hoặc"! Chúng ta vì sao chưa thể làm Bồ Tát? Bởi vì "lậu hoặc" vẫn tồn tại trong chúng ta! Chính vì lậu hoặc mà chúng ta phải trầm luân trong Tam Giới - Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Chẳng những thế, các lậu hoặc này còn khiến cho chúng ta bị lưu lạc, nổi trôi trong chín Pháp Giới. Chín Pháp Giới là gì? Ðó là chín cõi giới của Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên (Trời), Nhân (Người), A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh. Chúng sanh trong chín Pháp Giới này chưa thể thành Phật được là vì họ còn có lậu hoặc; nếu không còn lậu hoặc nữa thì nhất định sẽ thành Phật.
Lậu hoặc này do đâu mà có? Chính là do vô minh! Cho nên, hễ diệt trừ được vô minh thì lậu hoặc sẽ không còn nữa; nếu vô minh chưa bị phá hủy thì lậu hoặc vẫn còn tồn tại. Do vậy, người chứng được Lậu Tận Thông chẳng có bao nhiêu. Một khi không còn lậu hoặc thì quý vị sẽ không còn phải trôi lăn trong vòng sanh tử nữa. Tại sao chúng ta vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử? Ðó là vì chúng ta có lậu hoặc! Người có lậu hoặc ví như cái bình bị lủng vậy - quý vị muốn đổ nước cho đầy bình, nhưng nước cứ rỉ ra ngoài theo chỗ lủng, bình không thể giữ được nước. Cho nên, dứt sạch mọi mối lậu tức là được "lậu tận thông" vậy.
Nói rằng con người "vốn không có thần thông", là ám chỉ lúc chúng ta còn là phàm phu, chưa hiện thần thông. Lại nói rằng con người "xưa nay vốn có thần thông", bởi y cứ vào quả vị của bậc Thánh nhân mà nói thì thần thông vốn đã có sẵn. Hạng phàm phu thì không có thần thông, bậc Thánh nhân mới có thần thông. Thần thông của Thánh nhân phải chăng là đến từ bên ngoài? Không, đó là có sẵn! Thế thì phàm phu không có thần thông, phải chăng là vì họ đã đánh mất? Cũng không phải, bởi thần thông ấy vẫn tiềm tàng trong tự tánh của phàm phu; chẳng qua là họ chưa phát hiện ra, chưa nhận thức được, nên tưởng rằng mình không có mà thôi! Cho nên, tôi nói "vốn không có thần thông" là vì lẽ ấy.
Có thần thông hay không có thần thông đều chẳng quan trọng. Quý vị chớ lầm tưởng rằng có thần thông tức là đắc Ðạo hoặc chứng được quả vị. Phải biết rằng có được thần thông rồi vẫn còn ở cách sự chứng quả và đắc Ðạo rất xa! Chúng ta không nên mới đạt được đôi chút thành tựu liền tự mãn: " - , phen này tôi phát tài rồi!" Mới có được một lượng vàng mà đã reo mừng rối rít, cho là mình phát tài; trong khi người ta có tới hàng ngàn hàng vạn lượng vàng thì lại không hề khoe khoang, vẫn bình thản như không có gì cả vậy! So với người ta thì việc mình có được một lượng vàng có gì là to tát đâu? Có câu:
"Ðắc thiểu vi túc, trung đạo tự hoạch".
(Được ít cho là đủ, nửa đường tự ngừng.)
Những kẻ chỉ mới gặt hái được một vài thành quả nhỏ nhoi mà ngỡ là nhiều lắm, thì chẳng khác nào tự vẽ sẵn mức đường giới hạn cho mình ở nửa đường, đến mức đó thì ngừng lại, không lướt tới nữa. Ðó là cảnh giới của hàng Nhị Thừa, chứ không phải là căn tánh Bồ Tát của Ðại Thừa. Cho nên, đừng nghĩ rằng có thần thông là tài giỏi. Nếu quý vị có thần thông rồi tự phụ, cho rằng mình tài giỏi hơn người, thì quý vị còn quá nông nỗi - bởi như thế là quý vị vẫn còn tâm chấp trước, còn lòng tự mãn. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa)
+ Lậu Tận thông là:
6. Lậu tận thông: Ðã sạch cả hữu lậu. Hàng phàm phu đều có Hữu lậu, như cái bình pha lê bị rạn nứt không đựng nước được, hễ đổ nước vào liền chảy hết; nứt càng lớn thì nước chảy càng mau. Nếu không nứt thì nước sẽ không lậu (rỉ) chảy ra. (Giống như là dưới đáy bình nước có một lỗ hổng, nước đều từ lỗ hổng đó chảy ra hết. Nay không còn chảy nữa, vì lỗ hổng ấy đã bị bịt kín, nên gọi là lậu tận.)
* Những gì là lậu tận? Tức là không có tâm dâm dục thì là không có lậu; không có tâm tham lam cũng là không có lậu; không có tâm si cũng là không có lậu. Tóm lại, tám vạn bốn ngàn những tập khí, lỗi lầm đều không có, gọi là Vô lậu.
Năm nhãn là: 1/ Thiên nhãn; 2/ Nhục nhãn; 3/ Huệ nhãn; 4/ Pháp nhãn; 5/ Phật nhãn.
Có bài kệ nói về năm nhãn như thế này:
Thiên nhãn thông không ngại,
Nhục nhãn ngại không thông,
Pháp nhãn chỉ quán tục,
Huệ nhãn rõ chơn không,
Phật nhãn ngàn mặt nhật:
Chiếu khác, thể lại đồng.
1. "Thiên nhãn thông không ngại": Thiên nhãn thông suốt không ngăn ngại, cho nên gọi là "thông không ngại". Người ấy có thể nhìn thấy sự việc trong tám vạn đại kiếp, nhưng không thể thấy được ngoài tám vạn đại kiếp.
2. "Nhục nhãn ngại không thông": Nhục nhãn có thể nhìn thấy cảnh tượng có chướng ngại. Trái lại, Thiên nhãn có thể nhìn thấy cảnh tượng không chướng ngại.
3. "Pháp nhãn chỉ quán tục": Pháp nhãn là quán Tục đế, quán sát tất cả Tục đế ở thế gian, đạo lý thế tục.
4. "Huệ nhãn rõ chơn không": Huệ nhãn còn kêu là trí huệ, hay rõ rành Chơn không.
5. "Phật nhãn ngàn mặt nhật: Chiếu khác, thể lại đồng": Phật nhãn không phải chỉ ở trên mặt Ðức Phật mới có, mà mỗi chúng ta đều có Phật nhãn, chỉ có điều mở hay không mở mà thôi. Khi Phật nhãn mở ra, khác nào ánh sáng ngàn mặt trời, có thể chiếu soi vạn sự vạn vật, nhưng bản thể lại là đồng nhau.
Phật có đủ Ba Thân, Bốn Trí, Năm Nhãn, sáu thông; nếu ta nói mình là Phật thì phải đủ những thứ trên mới có thể nói là thành Phật được, bằng không chỉ là phàm phu. Nếu muốn làm người tốt thì không nên lừa người khác. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Túc mạng thông:
Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.
4) Túc Mạng Thông. Người chứng đắc Túc Mạng Thông có khả năng biết được tất cả những việc - thiện cũng như ác - mà quý vị đã tạo tác trong các đời trước. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa)
4. Túc mạng thông: Chẳng những biết được ý nghĩ của bạn trong hiện tại, mà cả đến nhơn quả đời trước của bạn cũng biết được rõ ràng. (Chẳng phải chỉ biết hiện tại, mà cả đến quá khứ cũng biết nốt) (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Tha Tâm thông:
Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.
3) Tha Tâm Thông. Ðây là khả năng đọc được ý nghĩ của người khác. Tất cả những việc mà quý vị dự tính trong đầu, định sẽ thực hiện, thì cho dù quý vị chưa hề thổ lộ với ai cả, nhưng người đã chứng đắc Tha Tâm Thông vẫn có thể biết rõ. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa)
3. Tha tâm thông: Khi hai bên gặp nhau, trong tâm bạn có ý nghĩ gì, dù chưa nói ra miệng nhưng đối phương đã biết rõ những điều bạn nghĩ và những việc bạn định làm. (Có thể biết được những ý tưởng trong lòng người khác) (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Thiên Nhĩ thông:
Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.
2) Thiên Nhĩ Thông. Chứng được Thiên Nhĩ Thông thì có thể nghe được mọi âm thanh từ cõi nhân gian cho đến tận ba ngàn đại thiên thế giới, luôn cả các âm thanh của cõi trời. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa)
2. Thiên nhĩ thông: Chẳng những thấy được mà còn có thể nghe được mọi lời nói, mọi hành động của người và trời. (Có thể nghe được những tiếng nói và thanh âm của người ở trên trời.) (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Đức Phật dậy: Những loài thiên ma, quỉ thần kia đều có được 5 thứ thần thông (chỉ trừ lậu tận thông là không có), chúng còn luyến tiếc chốn trần lao này, đâu chịu để cho chỗ ở của họ bị phá đổ! Vì vậy, trong lúc quí thầy đang ở trong định thì quỉ thần, thiên ma, vọng lượng, yêu tinh, đến quấy phá. Nhưng các loài ma mị kia, dù có giận dữ thế nào đi nữa, chúng vẫn ở trong chốn trần lao sinh diệt, còn quí thầy thì ở trong cảnh giới diệu giác chân thường; cái sinh diệt muốn phá hoại cái chân thường thì cũng giống như gió thổi ánh sáng, như dao chém nước, chẳng hề hấn gì. Người tu chánh định như nước sôi, bọn tà ma như cục nước đá; nước đá gần hơi nóng thì chẳng mấy chốc liền tiêu tan. Các loài quỉ thần yêu ma kia tuy cậy có sức thần thông, nhưng cũng chỉ như khách trọ qua đêm. Chúng quấy phá được chăng, chính là do người chủ năm ấm ở trong tâm quí thầy; người chủ nếu mất chánh niệm thì khách mới được dịp quấy phá. (Nguồn: Xem Trang 128)
+ Thiên Ma: Sống ở cõi thiên
- Có các sức thần thông lớn nhỏ tùy sự tiến hóa, có khả năng biến hóa khôn lường.
- Điểm yếu: Chúng có nhiều dục vọng
* Người Tu - Trì chú đại Bi: Muốn thắng thiên ma/ Hàng phục thiên ma, chỉ có thể dùng Tâm Đại từ bi (Từ Bi Hỷ Xả), thứ mà thiên ma có ít hơn người tu để thắng phục, bởi bì người tu có thần thông gì, thiên ma đều có và thường có sức mạnh hơn người tu. (Thày Hằng Trường giảng ở Clip 2 - Bắt ấn trì chú đại bi, mục hàng phục thiên ma, phút 53)
+ Quyền năng/ thần thông cao - thấp:
- Thần thông thấp tức là các thần thông thuộc về thể cảm dục và thể hạ trí.(GLTNVT, 35)
- Thần thông cao: Tri giác tâm linh với tri thức không thể sai lầm, trực giác phán đoán chính xác và thuật trắc tâm cao cấp với quyền năng tiết lộ quá khứ và tương lai của nó, là các đặc quyền của hồn thiêng liêng. Chỉ hoạt động khi bí huyệt đầu, tim và cổ họng hoạt động từ kết quả tham thiền và phụng sự.(SHLCTĐ, 9)
+ Chế ngự vô thượng - Phật nói pháp chế ngự: Bốn Niệm Xứ, Bốn Chính Cần, Bốn Thần Túc, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tám Thánh Đạo.
+ Pháp vô thượng về “thức nhập thai”. Có 4 hạng nhập thai: Biết hay không biết mình trong 3 bước là Nhập thai - Ở trong thai - Ra khỏi thai; hầu hết mọi người ở hạng không biết này.
+ Pháp “tha tâm thông”: Quán sát thẳng người khác, quán sát và nói: “Tâm người này thế này, tâm người kia thế kia”. Quán sát như thế mới là chân thật.
+ Pháp “giải thoát trí”: Đức Thế Tôn nói “người này đắc quả Tu đà hoàn, người kia đắc Tư đà hàm, A na hàm, A la hán”;
+ Pháp “túc mệnh thông”: Người nhập định ý tam muội, họ nhớ một đời, hai đời, ba đời, mười đời, trăm đời, nghìn đời, vô số đời. Đời nào tên gì, bố mẹ ra sao, sống như thế nào, làm nghề gì, vợ con ra sao, tuổi thọ thế nào v.v… đều nhớ biết tất cả;
+ Pháp “sinh tử thông”: Tâm nhập định, vị ấy quán sát các chúng sinh, thấy rõ sự chết sinh của họ đều theo nghiệp đã tạo, nên có kẻ xấu người đẹp, có kẻ sinh vào chỗ khổ, người kia chỗ sướng. Thấy rõ tất cả đều do thân, miệng, ý nghĩ lành ác mà vào chỗ tốt hay chỗ xấu;
+ Pháp “Như ý túc thông”: Đệ tử học, nhập định tam muội, do tâm nhập định, nên tạo vô số thần lực. Vị ấy có thể biến 1 thân thành vô số thân, vô số thân hợp lại 1 thân. Đi qua tường vách núi sắt đá không trở ngại, đi trên mặt nước như đi trên đất, đi trong đất như lặn xuống nước, đi trên không như chim bay; vị ấy có thể phát ra khói, ra nước như mưa, ra lửa cháy hừng hực, lại có thể biến thân hình cao lớn tới trời Phạm, dơ tay sờ mặt trăng mặt trời; Chỉ có chư Phật qúa khứ - Hiện tại - Tương lai trong 10 phương là bằng đức Như Lai mà thôi. (Nguồn)
+ SO SÁNH QUYỀN NĂNG THẦN THÔNG
Quyền năng thấp | Quyền năng cao
Thuộc Phàm Ngã | Thuộc Chân Ngã
Liên hệ với | Liên hệ với
Thần Kinh Giao Cảm Thần Kinh Não Tuỷ
Trí tuệ chưa phát triển.| T.Tuệ đã phát triển
Thể vía & thể trí | Thể vía & thể trí
chưa hoàn hảo Đã hoàn hảo
Không cần | Cần thanh lọc
thanh lọc các thể các thể
Không liên hệ | Cần phát triển
đến đạo đức đạo đức
Chỉ có trong 1 đời | Trường tồn
Lúc có lúc không | Kiểm soát tùy ý
Thuộc các giống | Thuộc các giống
dân III, đầu IV dân V và VI
Hatha Yoga | Raja Yoga
Làm u mê con ngựa | Huấn luyện con
Ngựa & tập cỡi
Nguồn: Thông thiên học
- Xem thêm: Tổng hợp về Quyền Năng và So Sánh Thần Thông
+ Trí khôn (Manas): Con người được phú cho Trí Khôn (endowed with Manas) chỉ khi ở vào điểm giữa của Căn chủng thứ ba.(GLBN III, 257)
+ Người có trí - Người trí: Đức Phật bảo A-nan: Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông, những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ. HT Tuyên Hóa giảng:
Hàng trí thức thích dùng những thí dụ để được khai ngộ. Vì khi quý vị thực sự có trí tuệ thì quý vị có thể hiểu được mười điều khi chỉ cần nghe một điều - Đó là có trí tuệ chân chính. “Người trí” mà trong kinh văn nói đến không phải là người có trí tuệ chân chánh mà là những người có trí thức thông thường, không cao không thấp. Họ có thể được giác ngộ thông qua việc sử dụng những thí dụ. Nhưng nếu những người chậm lụt, thiếu trí tuệ, nếu đưa cho họ một ví dụ, họ sẽ không hiểu nổi (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần kinh văn)
+ Trí Biện thông: Bạn đi học, học rộng nghe nhiều, người xưa đã nói "ký vấn chi học", bạn thấy được rất nhiều, nghe được rất nhiều, nhớ được rất nhiều, thế nhưng đều không phải là tự tánh lưu lộ ra, mà đều là từ bên ngoài đến. Đây gọi là thế trí biện thông ...... Bạn có 6 căn tiếp xúc 6 trần, là từ bên ngoài đều sanh phiền não, nhưng thảy đều sanh trí tuệ (năng lực tham học). Mắt thấy sắc, xem thấy cái này ưa thích là tham ái, cái kia không ưa thích thì sân hận, phiền não rồi; nghe âm thanh này hay, âm thanh kia nghe không hay cũng sanh phiền não. Cho nên, đoạn phiền não liền sanh trí tuệ, "Trong tâm đệ tử thường sanh trí tuệ", thấy sắc sanh trí tuệ, nghe tiếng sanh trí tuệ, ngửi mùi sanh trí tuệ......Pháp sự Tịnh Không
+ Trí Thông minh: Là khả năng suy tư hay chọn lựa, lọc ra và phân biện. Thực ra, đó là một cái gì trừu tượng, không thể giải thích được, nằm đàng sau định luật vĩ đại Hút và Đẩy, định luật căn bản của biểu lộ. Khả năng thông minh căn bản này tiêu biểu cho mọi chất liệu nguyên tử và cũng cai quản việc tạo dựng các hình hài, hay là tập hợp các nguyên tử.(TTCNT, 58)
+ Chín Loại Trí Thông minh: Những năm 1980, giáo sư tâm lý học Howard Gardner thuộc ĐH Harvard đã đề xuất về các loại hình trí thông minh qua 9 hình thái, lĩnh vực khác nhau:
1. Trí thông minh về không gian: Dễ dàng hình dung, mô tả cảnh quan, tưởng tượng thế giới theo chiều không gian 3D.
2. Trí thông minh Tự nhiên: Nhanh chóng hiểu được cơ chế của sự sống, sinh vật và các hiện tượng thiên nhiên.
3. Trí thông minh Âm nhạc: khả năng thẩm âm tốt, nhạy cảm với nhịp điệu và âm thanh
4. Trí thông minh Logic - Toán học: nhanh nhạy với số liệu, khả năng suy luận tốt, tổng hợp thông tin thành các giả thiết và có khả năng chứng minh chúng.
5. Trí thông minh triết học: Thường có những đắn đo, suy ngẫm về các vấn đề mang tính triết học như các câu hỏi: ý nghĩa của cuộc đời là gì?
6. Trí thông minh cảm xúc: Có khả năng thấu cảm, nhận biết cảm xúc của người khác và nhanh chóng hiểu ý nghĩ của họ.
7. Trí thông minh vận động: Khả năng điều khiển vận động của cơ thể, thể hiện sự khéo léo trong các hoạt động thể chất.
8. Trí thông minh Ngôn ngữ: Khả năng dùng từ ngữ để biểu đạt tốt, dễ dàng viết văn hoặc phát biểu ý kiến.
9. Trí thông minh nội tâm: Hiểu rõ bản thân, làm chủ cảm nhận về bản thân cũng như luôn xác định được điều mình muốn. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Phân biệt Trí Tuệ/ Huệ - Trí Thức: Trí huệ và Trí thức/ Kiến thức là khác nhau, chẳng tương đồng! Trí huệ có thể giải quyết hết thảy vấn đề, giải quyết rất viên mãn, chẳng để lại hậu quả. Kiến thức có hạn chế, nó chẳng thể giải quyết hết thảy vấn đề, có những vấn đề có thể giải quyết được, nhưng cũng có những vấn đề chẳng thể giải quyết, lại còn để lại rất nhiều hậu quả, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này! Học rộng nghe nhiều, mà nếu chẳng có trí huệ, sẽ là tri thức (kiến thức). Trí huệ học từ đâu? Trí huệ chẳng lìa Giới, Định, Huệ, nhất định là từ Giới - Định mà khai trí huệ, trí huệ mới thấu lộ. Nói cách khác, người tâm thường ở trong Định, sẽ dễ khai trí huệ. Nếu một kẻ tâm bộp chộp, hời hợt, làm sao có trí huệ cho được? Nguồn: PS Tịnh Không
+ Tâm vô tướng làm thể của Pháp đốn ngộ/ Đốn giáo
Chư Thiện tri thức! Pháp môn của ta (Pháp đốn ngộ/ Đốn giáo) đây từ trên truyền xuống, trước hết là lập Vô niệm làm tông. Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc (bổn). Vô niệm nghĩa là trong khi niệm, lòng không động niệm. Vô tướng nghĩa là đối với sắc tướng, lòng lìa sắc tướng. Vô trụ chính là Bổn tánh của con người.
Vô tướng làm thể: Chư Thiện tri thức! Ngoài lìa cả thảy các sắc tướng, gọi Vô tướng. Đối với các sắc tướng mà năng lìa được sắc tướng chính là cái thể thanh tịnh của các pháp. Ấy là lấy Vô tướng làm thể.
- Giảng:
Ngoài ly khai tất cả tướng gọi là vô tướng. Năng ly khai tất cả tướng đó là diệu thể thanh tịnh của pháp, cho nên đây chính là lấy vô tướng làm thể.......
... Vô cớ khởi tri kiến: Không có một lý do, bỗng dưng lại sanh ra một cái thấy không thấy (vô kiến), cái biết không biết (không tri)? Sanh ra vô kiến và không tri, đó đều là chấp vào tướng. Giống như "vô niệm" đã giảng ở trên, nếu trong tâm quý vị thường muốn tìm ngã vô niệm, vô niệm thì vẫn sanh ra một cái niệm, vì niệm của vô niệm vẫn là một cái niệm. Nên phải:"Có niệm giống như không, vô niệm không trì trệ." Lúc có niệm đều không có, thì vô niệm tự nhiên không còn tồn tại. Cho nên tham thiền, tham "niệm Phật là ai?" Quý vị nên đi tìm là ai niệm Phật? Làm thế nào cũng tìm không ra, vì căn bổn không có một cái ai. Vì người khác nhìn không ra, không biết không có một cái ai, nên thường cảm thấy có một cái ngã. Cho nên cần tham niệm Phật là ai? Vì có ngã cho nên đi tìm người, tìm người thì cần hỏi là ai? Nhưng tìm ai, không nên chấp tướng, không nên chấp vào cái "ngã." (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chấp tướng: Tu đúng như Pháp Đức Phật dậy thì phải thực hành như sau: ... Vì những chúng-sanh đó không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, không có tướng pháp, cũng không có tướng phi-pháp. Tại vì sao? Vì những chúng-sanh đó, nếu trong lòng chấp tướng, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả.
Nếu chấp tướng pháp, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả, và vì nếu chấp tướng phi-pháp, thời cũng chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả, vì thế cho nên, chẳng nên chấp pháp, và cũng chẳng nên chấp phi-pháp. Đức Phật dậy:
Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng âm thanh cầu ta,
Người ấy tu đạo tà!
Chẳng thấy được Như-Lai.
(Nguồn: Kinh Kim Cang Bát Nhã ba La Mật)
+ Ba khoa Pháp môn - ba mươi sáu pháp đối trong giảng giải Phật Pháp
Trước hết phải cử ra ba khoa pháp môn, sau dùng ba mươi sáu pháp đối; được vậy, thì dẫu ra vào mà chẳng lìa Bồ đề đạo tràng, ra vào mà chẳng rơi vào nhị nguyên. Khi nói cả thảy các pháp chớ lìa Tự tánh của mình.
Thoạt có người hỏi chúng ngươi về Phật pháp, thì các lời nói ra phải cặp nhau, đều phải dùng pháp đối, qua lại đối nhau, rốt cùng cả hai pháp đều bỏ hết, lại không chấp chỗ bỏ ấy nữa.
Ba khoa pháp môn ấy là: Ấm, Giới và Nhập.
Ấm là năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Nhập là mười hai chỗ vào: Ngoài có sáu trần – sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; trong có sáu cửa (sáu căn) – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Giới là mười tám giới hạn: Sáu trần, sáu cửa và sáu thức.
Tánh mình (tự tánh) bao hàm muôn pháp, nên gọi là Hàm-tàng thức. Nếu tánh khởi nghĩ tưởng, tức là tánh chuyển ra thức. Thức này lại sanh ra sáu thức, sáu thức chun ra sáu cửa, rồi gặp sáu trần. Thế thì, mười tám giới đều do tánh mình khởi dụng.
Nếu tánh mình tà, thì khởi ra mười tám điều tà. Còn tánh mình chánh thì khởi ra mười tám điều chánh. Tánh mình ứng dụng theo điều dữ, tức là chỗ ứng dụng của chúng sanh. Còn tánh mình ứng dụng theo điều lành, tức là chỗ ứng dụng của Phật. Vậy chỗ khởi dụng do đâu mà có? Do nơi tánh mình vậy.
Những pháp đối là:
– Năm pháp đối của loài vô tình ở ngoại cảnh: Trời đối với đất, mặt nhật đối với mặt nguyệt, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối với lửa. Ấy là năm pháp đối.
Diễn bày về pháp tướng thì có mười hai đối: Tiếng nói đối với pháp, có đối với không, có sắc chất đối không sắc chất, có tướng đối với không tướng, hữu lậu đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tịnh, trong đối với đục, phàm đối với thánh, tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ. Ấy là mười hai pháp đối.
Tánh mình (tự tánh) khi khởi dụng sanh ra mười chín pháp đối: Dài đối với ngắn, tà đối với chánh, si đối với huệ, ngu đối với trí, loạn đối với định, từ đối với độc, giới đối với phi, ngay đối với vạy, thật đối với dối, hiểm đối với bình, phiền não đối với Bồ-đề, thường đối với không thường, bi đối với hại, vui đối với giận, bố thí đối với bỏn sẻn, tới đối với lui, sanh đối với diệt, pháp thân đối với sắc thân, hóa thân đối với báo thân. Ấy là mười chín pháp đối.
Ba mươi sáu pháp đối ấy, nếu hiểu mà dùng, thì nói suốt tất cả kinh pháp, ra vào đều lìa cả hai bên. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Pháp trung đạo - Pháp Đạo nghĩa
Nếu có người hỏi các ông về đạo nghĩa: Hỏi có thì đối không, hỏi không thì đối có, hỏi phàm thì đối thánh, hỏi thánh thì đối phàm, hai đường đối nhau thì sanh ra nghĩa trung đạo. Một câu hỏi một câu đáp, đến như các câu hỏi khác, cứ y theo đây mà thi hành thì chẳng sai lý vậy. Giả như có người hỏi sao gọi là tối? Đáp: "Sáng là nhơn, tối là duyên, sáng dứt thì tối. Lấy cái sáng mà chỉ rõ cái tối, lấy cái tối mà chỉ rõ cái sáng, qua lại đối nhau thì thành cái nghĩa trung đạo." Mấy điều hỏi khác, tất cả đều y theo cách chỉ đó mà trả lời. Ngày sau các ông có đi truyền pháp, cứ y theo pháp ấy mà truyền dạy nhau, chớ làm sai tông chỉ.
Giảng:
Khi có người hỏi ông pháp nghĩa, họ hỏi ông đạo lý "có" thì ông dùng đạo lý "không" đối, họ hỏi đạo lý "phàm phu" thì ông dùng đạo lý "thánh nhân" đối. Họ hỏi đạo lý "thánh nhân" thì ông dùng đạo lý "phàm phu" đối. Đây là đạo lý lưỡng trùng. Tương nhân tương tuần, từ trong sanh ra nghĩa lý trung đạo. Như một vấn một đối. Những cái khác đều như vậy thì không mất đi tông chỉ đốn giáo. Ví như có người hỏi ông: "Cái gì là tối?" Ông nên trả lời như thế này: "Sáng là nhân, tối là duyên của quả. Lúc sáng không có đó là tối. Lấy quang minh để hiển cái hắc ám, dùng hắc ám mới có thể hiển ra cái quang minh. Đến và đi là giống nhau, theo nhau (tương nhân tương tuần) mà thành tựu trung đạo liễu nghĩa." Các vấn đề khác cũng căn cứ theo đạo lý này mà trả lời. Sau này các ông truyền pháp đều y theo đạo lý này mà chuyển đại pháp luân, cùng nhau giáo hóa truyền thọ, không nên làm mất đi tông chỉ chân chánh. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Có một đệ tử hỏi Phật rằng: ... Phật rằng: “Tôi tuy có sức thần thông rất lớn; nhưng có 4 điều là vẫn không thể thực hiện được, chính là:
.... Điều 4: Không có duyên thì không thể độ, người không có duyên thì họ không bao giờ nghe những lời nói mà ta chia sẻ. Mưa trời tuy lớn, cây không rễ khó mà thấm nước; Phật môn tuy rộng mở, khó độ người vô duyên. (Xem: Bốn Điều Phật Không Thể Làm)
+ Người tiểu căn - Căn tánh thấp không học được Pháp đại thừa: ... Chư Thiện tri thức! Người tiểu căn nghe pháp Đốn giáo nầy ắt là điên đảo. Cũng như loài cỏ cây gốc rễ nhỏ yếu, nếu bị một trận mưa to, chắc đều ngã rạp, không thể lớn lên được. Nguyên người tiểu căn có trí Bát nhã cũng như người đại trí, không có chỗ gì khác. Nhưng bởi cớ sao họ nghe pháp, mà tâm chẳng mở mang tỏ sáng? Vì bởi nghiệp chướng của tà kiến còn nặng, cái gốc rễ của sự phiền não còn thâm sâu. Cũng như một đám mây lớn che ám mặt trời, nếu chẳng được luồng gió thổi, thì ánh sáng mặt trời không hiện ra được.
Cái trí Bát nhã vốn không lớn nhỏ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi. Lòng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành tìm Phật mà chưa tỏ sáng Bổn tánh của mình, tức là người tiểu căn. Hiểu rõ pháp Đốn giáo tu hành mà không chấp bề ngoài, trong tâm mình thường khởi chánh kiến, những sự phiền não trần lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm mình tức là thấy tánh.
Giảng:
Người kém thiện căn, nghe đến pháp môn đốn giáo dùng tâm ấn tâm, trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật, giống như cây cỏ có căn tánh nhỏ, nếu gặp phải mưa lớn liền tróc gốc, nghiêng ngã trên mặt đất, không thể sanh trưởng. Mưa vốn giúp cây cối sanh trưởng, tiếc vì gốc rễ không cắm sâu vào lòng đất cho nên không thọ dụng được. Người có thiện căn kém cũng giống như vậy. Trí huệ Bát nhã của người trí và người ngu vốn không có gì sai khác, chỉ khác một người biết dùng, một người không biết dùng mà thôi. Tại sao người kém căn kém trí nghe đến Phật pháp mà không khai ngộ? Vì tà kiến vô minh sâu dầy, không sanh lòng tin, chướng ngại thánh đạo. Giống như thái dương bị mây đen che khuyất, gió thổi không tan, cho nên ánh dương quang không xuất hiện. Ánh dương quang tức là tự tánh Bát nhã của quý vị, mây đen chính là phiền não và tà kiến của quý vị.
Trí huệ Bát nhã cũng không có sự phân biệt lớn nhỏ. Vì chúng sanh tập khí sâu dầy, tạo nghiệp nặng, cho nên mê mờ. Nếu tập khí không sâu dầy, nghiệp tạo tác không nặng thì sẽ khai ngộ. Người mê cầu pháp hướng bên ngoài giong ruổi tìm cầu, mà không biết tự tánh Bát nhã vốn đầy đủ tự tánh Phật, bên ngoài tìm Phật càng tìm kiếm càng xa rời. Không hiểu rõ bổn tánh của chính mình, đây chính là người tiểu căn.
Nếu có thể nghe pháp môn đốn giáo mà lập tức khai ngộ, không chấp trước, không giong ruổi tìm cầu bên ngoài, tự tánh tự ngộ, tự mình hiểu rõ tự tánh Bát nhã, trong tâm của mình thường khởi lên chánh tri chánh kiến, có trí huệ chân chánh, thì không khởi lên phiền não; nếu không có phiền não, tự nhiên không có trần lao, đó chính là kiến tánh, vì nó không bị phiền não trần lao xoay chuyển..........
Nay ta nói pháp cũng giống như trời mưa thấm ướt khắp cả mặt đất, Phật tánh của các ông tỷ như các hạt giống gặp đám mưa pháp này, thì cả thảy đều thấm ướt và phát sanh. Người nào vâng theo tông chỉ của ta, chắc đặng đạo Bồ đề; y theo chỗ làm của ta, ắt chứng Diệu quả. Hãy nghe ta kệ:
Đất tâm chứa hạt giống,
Mưa rưới thảy nảy mầm.
Hoa tình đốn ngộ rồi,
Quả Giác tự kết thành.
(Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phiền lão là Bồ đề: ... Chư Thiện tri thức! Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ đề. Niệm trước mê muội tức là phàm phu, niệm sau giác ngộ tức là Phật. Niệm trước vướng cảnh tức là phiền não, niệm sau lìa cảnh tức là Bồ đề.
Giảng:
Phàm phu chính là Phật, mà Phật chính là từ phàm phu tu thành. Vì Phật lúc trước tu Bát nhã pháp, cho nên thành Phật. Còn chúng ta tại sao vẫn là phàm phu? Vì không tu Bát nhã pháp, không tu Bát nhã hạnh, cho nên tánh đổi thành tình, tình biến thành dục, cuối cùng không thể thoát ra khỏi vòng ái dục vô minh. Nếu có thể đem lòng dục quy trở về bổn tánh, không giao động, không bị vô minh chuyển, đó chính là Phật. Phiền não là Bồ đề, nếu không có phiền não thì cũng không có Bồ đề.
Có người nói:
–Vậy thì không cần phải diệt trừ phiền não, cứ để cho nó ở đó!
Nếu để nó ở đó thì phiền não vẫn là phiền não. Quý vị cần phải dùng phương pháp khoa học thực nghiệm. Thực nghiệm như thế nào? Chính là phản bổn hoàn nguyên. Ví dụ lòng bàn tay và lưng bàn tay, lòng bàn tay là phiền não, lưng bàn tay là Bồ đề, chỉ cần lật ngược lại tức là phiền não hay Bồ đề, không có nhiều cũng không có ít, chỉ khác một chút như vậy – vừa lật qua lại, thì phiền não biến thành Bồ đề. Tôi thường nói:
Phiền não Bồ-đề băng là nước,
Sanh tử Niết-bàn pháp tức không.
Nếu quý vị hiểu rõ thì nhân pháp đều không, nếu không hiểu thì vẫn còn pháp chấp.
Niệm trước ngu si chính là phàm phu, niệm sau khai ngộ trí huệ chính là Phật. Niệm trước chấp vào cảnh chính là phiền não. Nếu quý vị nói chỗ này là thành phố Cựu Kim Sơn, nó không giống thành phố Nữu Ước, kỳ thực nó đều là những thành phố lớn. Nếu quý vị nói thành phố Cựu Kim Sơn không có tuyết, Nữu Ước có tuyết, đó chỉ là tâm phân biệt gây ra sai lầm! Nếu quý vị không có tâm phân biệt như thế thì cũng không có nhiều phiền não như vậy. Cho nên nói: "Niệm trước dính mắc cảnh giới chính là phiền não, niệm sau ly khai cảnh giới chính là Bồ đề." Nếu phân biệt thành phố Cựu Kim Sơn và Nữu Ước không giống nhau liền có phiền não. Nếu biết thành phố Cựu Kim Sơn và Nữu Ước đều là không, phân biệt nó làm gì? Không phân biệt tức là Bồ đề.
Nói thì rất dễ, nhưng thực tế không sanh tâm phân biệt là một việc rất khó. Nếu thấu rõ được cảnh giới này thì không có nhà, cũng không có quốc gia, cái gì cũng không có, đây chính là Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm màø cũng gọi là "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ thân." Quý vị có thể hiện thân đến bất cứ địa phương nào mà không có bất cứ sự chướng ngại nào, quý vị xem điều này tuyệt diệu không? Chỗ này chính là Bồ đề, quý vị hà tất phải than thở? Nếu quý vị có thể được như vậy thì là như vậy (như thị); còn nếu chưa thể đạt đến cảnh giới đó, thì từ từ luyện tập. Cho nên nói: "Tánh định ma phục triêu triêu lạc, vọng niệm bất khởi xứ xứ an." Nếu tâm tánh đã định, không còn nhiều vọng tưởng, thì ngày ngày giờ giờ đều an lạc. Vọng niệm không khởi thì nơi nơi chốn chốn đều an vui. Tại sao quý vị cảm thấy không an lạc? Tại vì có vọng niệm, nếu không vọng niệm thì khắp nơi mọi lúc đều là Thế giới Cực Lạc........
Sư nói: "Đạo không sáng tối, sáng tối là cái nghĩa thay thế. Sáng sáng không cùng, cũng là có cùng. Hai cái tối sáng đối đãi nhau mà lập ra cái tên, cho nên kinh Tịnh Danh nói: ‘Pháp không có chi sánh, không có gì tương đối được.’"
Tiết Giản bạch: "Sáng tỷ như trí huệ, tối tỷ như phiền não. Người tu hành nếu như không lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, thì nhờ đâu mà ra khỏi chỗ vô thủy sanh tử?"
Sư nói: "Phiền não tức là Bồ-đề, chẳng phải hai và chẳng phải khác nhau. Lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, là chỗ thấy hiểu của hàng Nhị thừa, là cái căn cơ của xe nai, xe dê. Bực đại trí thượng căn chẳng phải làm như vậy."
Tiết Giản bạch: "Chỗ thấy hiểu của bực Đại thừa như thế nào?"
Sư nói: "Sáng và không sáng, người phàm thấy có hai, còn người trí rõ thông, thấy cái tánh sáng và không sáng chẳng phải là hai. Cái tánh không hai chính là Thật tánh. Cái Thật tánh ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, ở nơi Hiền Thánh mà chẳng thêm, ở nơi phiền não mà chẳng rối, ở nơi cảnh thiền định mà không lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng lại chẳng đi, chẳng phải ở giữa, ở trong hay ở ngoài, chẳng sanh chẳng diệt; tánh và tướng đều như như, thường trụ, không dời đổi. Cho nên gọi cái Thật tánh là Đạo." (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phiền lão là Bồ đề: Ðức Phật thấy chúng sanh chịu đựng bốn nỗi khổ to lớn là sanh, già, bệnh, chết, nên Ngài bèn phát tâm xuất gia tu hành, tìm cách giải quyết vấn đề ấy. Trong sự vô minh của chúng ta, phiền não bất giác xuất hiện - Khi thì bộc lộ qua sắc tướng, lúc lại tiềm tàng trong tâm trí, và cũng có khi vô minh dấy khởi nên cái gì cũng không biết cả. Hễ vô minh vừa tác oai tác quái là mình trở nên hồ đồ ngay, cho nên phiền não chính là nhân duyên cản trở việc tu Ðạo, là chướng ngại vật trên đường Ðạo.
Song le, chẳng thể không có phiền não! Vì sao? Bởi "phiền não tức là Bồ-đề." Nếu biết vận dụng thì phiền não chính là Bồ-đề, nếu không biết vận dụng thì Bồ-đề biến thành phiền não! Bồ-đề ví như nước và phiền não ví như băng vậy; nước chính là băng, băng chính là nước.....
Bệnh tật của chúng ta là từ đâu mà ra? Chính là từ ba cái độc tham, sân, si! Nếu con người không có ba thứ độc này thì bệnh tật gì cũng không có cả. Giới, Ðịnh, Huệ trong Phật Pháp chính là phương thuốc đặc hiệu để trị căn bệnh "tham, sân, si." Thuốc này hiệu nghiệm như thần, "thuốc đến, bệnh đi," nên nói:
... Tâm vọng tưởng dừng hẳn, ý niệm phan duyên không còn, đó đúng là giàu sang thật sự. Nói tóm lại, không tham tức là giàu sang. Vì sao người ta tham lam? Vì họ không "tri túc," nên cảm thấy thiếu thốn, chưa đầy đủ! Không có tư dục chính là ruộng phước, nếu dứt bỏ được mọi ham muốn ích kỷ thì đúng là ruộng phước thật sự. Các bạn hãy đặc biệt lưu ý:
(Tâm bình lặng, trăm nạn tiêu tan, Ý an định, muôn sự được kiết tường.)
Câu danh ngôn trên đây rất chí lý và vô cùng hữu ích, đáng cho mọi người lấy làm khuôn vàng thước ngọc. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chuyển hóa khổ đau:
Câu hỏi của một bạn trẻ: Thưa Thầy, khi con nhìn thấy Thầy, con cảm nhận được sự định tĩnh và niềm an lạc nơi Thầy, nhưng đồng thời con lại thấy một niềm đau trong con… Con muốn được như Thầy. Làm sao con có thể chuyển hóa niềm đau trong con thành niềm vui, sự an lạc và tĩnh lặng như Thầy?
HT Thích Nhất Hạnh: Con biết đó, ở Làng Mai, chúng ta luôn nói rằng không có bùn thì không có sen. Nếu như có một chút bùn thì chúng ta nên biết cách tận dụng bùn để trồng nên những đóa sen. Vào thời điểm này ở Làng Mai, sen bắt đầu nở ở các xóm. Và con thấy đó, nếu không có bùn thì làm sao có thể trồng sen được. Cũng như vậy, những khổ đau trong ta chính là một loại bùn và chúng ta nên biết cách tận dụng những khổ đau đó. Bản thân Thầy cũng có nhiều khổ đau, nhưng Thầy may mắn có được cơ hội học hỏi từ Bụt, từ Thầy Tổ cũng như các huynh đệ của mình cách thức xử lý khổ đau và chuyển hóa rác thành hoa.
Con vẫn còn rất trẻ, con còn nhiều cơ hội để làm điều đó. Chắc chắn là con có thể làm như Thầy, thậm chí là còn làm hay hơn nữa. Khi con đi, mỗi bước chân của con có thể mang lại cho con niềm vui và sự bình an. Khi con rửa chén hay chuẩn bị bữa sáng cũng vậy, mỗi giây phút rửa chén hay làm đồ ăn sáng có thể trở thành những giây phút đầy niềm vui và hạnh phúc. Và để làm được điều này chỉ đòi hỏi một chút tập luyện mà thôi. Con có rất nhiều cơ hội để tập luyện. Chẳng hạn như từ bãi đỗ xe cho đến nơi làm việc, con có thể tận hưởng từng bước chân của mình. Con phải đi như thế nào để mỗi bước chân đều mang lại cho con sự bình an, nuôi dưỡng và trị liệu. Ai cũng có thể làm được như vậy nếu mình thực sự muốn làm. Muốn thì sẽ được! (Nguồn: HT Thích Nhất Hạnh giảng)
+ Đạo: Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.... Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu.
+ Lão Tử giảng về Chữ đạo và Chữ Đức của Pháp Thế gian và Xuất thế gian
Lão tử nghiên cứu thiên văn học, lại nghiên cứu địa lý học, đối với nhân văn ông cũng nghiên cứu, do đó ông viết ra bộ kinh gọi là Thanh Tịnh Kinh. Kinh văn như sau :
Ðại đạo vô hình, sinh dục thiên địa: Vũ trụ lớn rộng như vậy, nhưng lại do đạo mà sanh ra. Nếu không có đạo, thì trời đất, trăng sao v.v.. đều không có, tất cả chỉ là một cái thể hỗn độn. Bởi có đạo nên mới có trời, đất, vạn vật, rồi có tiên, Phật, thánh nhân.
Ðại đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt: Ðại đạo thì không có tình cảm, đối trước vạn vật thì bình đẳng; không giống như con người, hành động trong tình cảm, có nhân tình, có ái tình. (Có người nói: "Như vậy là giống như cây cỏ bất nhân hay sao?" Không phải vậy. Ðó là hiện tượng vượt pháp thế gian.)
Mặt trời là tinh hoa của yếu tố dương, mặt trăng là tinh hoa của âm, cả hai đều vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo, do đó mới có bốn mùa là xuân, hạ, thu, đông, chi tiết hơn thì phân ra thành hai mươi bốn tiết, bẩy mươi hai hậu. Tiết và hậu đều phát sinh từ sự vận hành của mặt trăng và mặt trời vậy.
Ðại đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật: Ðại đạo không có tên, nhưng hết thẩy vạn vật đều từ trong đại đạo mà sanh ra và lớn lên. Cảnh giới này, càng nghiên cứu càng thấy nó ảo diệu vô cùng.
Ngô bất tri danh, cưỡng danh vị đạo: Lão tử nói rằng: "Ta không biết tên của nó là gì, ấy là ta miễn cưỡng đặt cho nó một cái tên, gọi là 'Ðạo' mà thôi!" Tiếp theo Lão tử giải thích như sau:
Phù đạo giả! hữu thanh hữu trược, hữu động hữu tĩnh: Cái đạo này, có thanh, cũng có trược. Thanh tịnh đến cực điểm thì hóa ra trược, trược đến cực điểm thì hóa ra thanh. Cái đạo này, tánh chất của nó là tự nhiên, giống như hơi điện vậy nó có động có tĩnh, động là dương và tĩnh là âm, cho nên có câu: "nhất dương nhất âm chi vị đạo," một dương với một âm là đạo.
Thiên thanh địa trược, thiên động địa tĩnh: Trời thì thanh, khí thanh bốc lên tạo thành bầu trời; đất thì trược, khí trược chìm xuống thành ra đất. Trời thì động, có mặt trăng mặt trời vận hành, các sao di động, đều là động cả. Ðất thì tĩnh, núi sông, đất rộng, và nhà cửa đều ở trạng thái tĩnh.
Nam thanh nữ trược, nam động nữ tĩnh: Phái nam thì thuộc về thể thanh tịnh, phái nữ thì thuộc thể ô trược. Nam thì động, chủ về phía ngoài, gây dựng sự nghiệp, đi bôn ba khắp nơi. Nữ thì tĩnh, chủ về bên trong, giúp chồng dạy con, quản lý gia đình. Vợ chồng phân công hợp tác, tạo nên gia đình tốt đẹp. (Nay thì nam nữ bình quyền, kinh tế bình đẳng, thậm chí đi đến chỗ đồng tính luyến ái, cái đó chính là phản lại luật âm dương của trời đất, tạo thành tai vạ, ắt đọa địa ngục)
Giáng bổn lưu mạt, nhi sanh vạn vật: Từ gốc đi tới ngọn, vào trong luân hồi lục đạo, sanh ra làm người hay chẳng phải người, đó là các loại động vật hữu tình, rồi trăm ngàn thứ kỳ lạ, cái gì cũng có cả. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bàn về chữ Đạo: Đạo vũ trụ, đạo trời, đạo đất và đạo người
Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự chuyển động, bình thản vô tâm mà khéo sắp đặt mọi việc. Đạo trời không thiên vị ai, luôn giúp đỡ cho người lương thiện. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó lọt (Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất).
Không tên là gốc trời đất, có tên là mẹ vạn vật. Đạo trời ví như cánh cửa khép mở, vạn vật từ đó đi ra rồi lại trở về đó. Đạo có tính chất trừu tượng, nó không có hình thù cụ thể, không thể nắm rõ, không sáng ở nơi rực rỡ, không mờ ở nơi tối tăm và cũng không có tiếng động. Đạo vĩnh viễn không có tên gọi. Vạn vật chuyển động theo một vòng tròn khép kín. Tất cả bắt đầu từ “có”, có lại bắt đầu từ “không”. Lời nói hợp đạo nghe như ngược đời.
Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu thảo, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung. Đạo ức chế vật cao, nâng đỡ vật thấp. Đạo trời lấy chỗ thừa mà đắp vào chỗ thiếu hụt. Đạo người thì lấy của người nghèo mà thêm cho người giàu, đây chính là nguồn gốc của sự hỗn loạn. Người khôn ngoan chỉ muốn một điều là không muốn gì cả.
Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ.
Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng lại. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng. Cho nên cứng rắn, cáu giận là biểu hiện của chết, mềm yếu, khiêm nhường là dấu hiệu của sống.
Mạnh về dám làm [can đảm, cương cường] thì chết, mạnh về không dám làm [thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái quả cảm, cương cường? Danh dự với sinh mệnh, cái nào mới thật sự quý ? Người khôn ngoan không bao giờ vì trọng cái danh hão mà xem nhẹ tính mạng mình. Mời xem đầy đủ về chữ Đạo tại: Đạo Đức Kinh của Mạnh Tử rất tuyệt đỉnh
+ Đạo là gì: Tức là chân lý, và không ai có thể lật đổ được chân lý nầy. Chân lý là tuyệt đối không phải là tương đối. Chân lý chỉ có một, chứ không có hai. Đạo nầy là đạo chung cho tất cả những người tu hành chân thật. Và Đạo có thể giảng theo Nho giáo, có thể giảng theo Đạo giáo và lại càng có thể giảng theo Phật giáo. Đạo là chân lý. Bất kỳ tôn giáo nào cũng có thể giảng, không có ai là chuyên quyền. Không thể nói là chỉ mình tôi mới được phép giảng, còn người khác thì không được giảng. Nhưng giảng đạo là phải có căn nguyên lịch sử. Quý vị không thể nói về chuyện Khổng Tử đã giảng Phật Pháp như thế nào, bởi vì lúc bấy giờ, e rằng danh hiệu của Phật vẫn chưa được ai biết đến. (Nguồn: Đạo là gì - HT Tuyên Hóa)
+ Đạo là gì - Bồ Tát đạo theo Phật giáo Đại thừa:
.... Đức Phật dậy: Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm Đạo ?
Bồ Tát Đại thệ trang nghiêm và thừa Đại thừa rồi xả bỏ tất cả tà Đạo. Xả bỏ tà Đạo rồi hướng Đến chánh Đạo chơn thiệt Đến Nhứt thiết trí.
Sao gọi là chánh Đạo ? Đó là chẳng bỏ thiện pháp vậy, là hành Đại nguyện chẳng thối chuyển Bồ Đề Đạo vậy, là siêng tu tinh tiến căn lành chẳng mất vậy, là hành bất phóng dật bất Động thuần chí, chẳng chìm nơi sở tác quyết có thể cứu cánh ngưỡng nắm lấy pháp trên, cầu công Đức tư lương chẳng hề cho là Đầy Đủ, cầu trí huệ tư lương trọn chẳng phế bỏ, Đây là Bồ Tát chánh Đạo vậy.
Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát Đạo ấy là Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ không Định, Ngũ thần thông, Tam phước nghiệp, Tam học, Lục ưng kính, Lục niệm, Tứ nhiếp pháp, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh Đạo phần, Tam giải thoát môn, biết Ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết Nhập phương tiện, biết Tứ Đế phương tiện, biết Nhơn duyên phương tiện, Đây gọi là Đạo. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ Đạo là lưu thông: Lục tổ Huệ năng nói: Chư Thiện tri thức! Đạo phải thông lưu, sao lại làm cho nó ngưng trệ? Tâm không trụ pháp, thì Đạo thông lưu. Còn tâm trụ pháp, ấy là mình trói lấy mình. Bằng nói rằng thường ngồi chẳng động, thì cũng như Xá Lợi Phất ngồi im lặng trong rừng, bị Duy Ma quở vậy: "Ngài ngồi như thế có ích dụng gì? Giống như người chết, chớ không phải chân chánh nhập định." ... Cho nên cần phải không chấp vào pháp/ vào có, không chấp vào không, không chấp vào ngã, đó mới là "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm".........
Sư nói: "Đạo không sáng tối, sáng tối là cái nghĩa thay thế. Sáng sáng không cùng, cũng là có cùng. Hai cái tối sáng đối đãi nhau mà lập ra cái tên, cho nên kinh Tịnh Danh nói: ‘Pháp không có chi sánh, không có gì tương đối được.’"
Tiết Giản bạch: "Sáng tỷ như trí huệ, tối tỷ như phiền não. Người tu hành nếu như không lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, thì nhờ đâu mà ra khỏi chỗ vô thủy sanh tử?"
Sư nói: "Phiền não tức là Bồ-đề, chẳng phải hai và chẳng phải khác nhau. Lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, là chỗ thấy hiểu của hàng Nhị thừa, là cái căn cơ của xe nai, xe dê. Bực đại trí thượng căn chẳng phải làm như vậy."
Tiết Giản bạch: "Chỗ thấy hiểu của bực Đại thừa như thế nào?"
Sư nói: "Sáng và không sáng, người phàm thấy có hai, còn người trí rõ thông, thấy cái tánh sáng và không sáng chẳng phải là hai. Cái tánh không hai chính là Thật tánh. Cái Thật tánh ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, ở nơi Hiền Thánh mà chẳng thêm, ở nơi phiền não mà chẳng rối, ở nơi cảnh thiền định mà không lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng lại chẳng đi, chẳng phải ở giữa, ở trong hay ở ngoài, chẳng sanh chẳng diệt; tánh và tướng đều như như, thường trụ, không dời đổi. Cho nên gọi cái Thật tánh là Đạo."(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thường Lạc Ngã Tịnh:
Đệ tử thường xem Kinh Niết Bàn mà chưa hiểu cái nghĩa Thường và Vô thường, xin Hòa Thượng - Lục tổ Huệ Năng từ bi lược giải cho."
Sư nói: "Vô thường tức là Phật tánh. Hữu thường tức là cái tâm phân biệt cả thảy các pháp thiện ác vậy."
Bạch: "Chỗ Hòa Thượng nói rất trái với kinh văn."
Sư nói: "Ta truyền cái tâm ấn của Phật, đâu dám nói trái với kinh Phật!"
Bạch: "Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa Thượng nói là vô thường. Các pháp thiện ác cho đến cái tâm Bồ-đề đều là vô thường, Hòa Thượng lại nói thường. Mấy lời ấy trái nghịch nhau, khiến kẻ học (Đạo) nầy thêm nghi hoặc."
Sư nói: "Kinh Niết Bàn, xưa kia ta nghe Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng đọc qua một biến, thì có giảng thuyết cho người nghe. Chỗ ta nói không có một chữ, một nghĩa nào mà chẳng hiệp với kinh văn. Nay ta giảng cho ông nghe, thì cũng nói toàn một nghĩa không hai."
Bạch: "Kẻ học này, sức hiểu biết còn cạn tối, xin Hòa Thượng chỉ dạy châu đáo."
Sư nói: "Ngươi biết chăng, nếu Phật tánh là thường, thì nói làm chi các pháp thiện ác, lại sao đến cùng kiếp, không có một người phát Bồ-đề tâm? Cho nên ta nói là vô thường, mà chính Phật nói là đạo Chơn-thường. Lại nếu các pháp là vô thường, tức vật vật đều có tự tánh, gồm chịu sự sống chết, mà cái tánh Chơn-thường có chỗ chẳng biến khắp (phổ biến). Cho nên ta nói là thường, mà đó chính là Phật nói cái nghĩa Chơn vô-thường vậy. Vì các người phàm phu ngoại đạo chấp nơi tà thường, các người trong hàng Nhị thừa đối với thường cho là vô thường, chỗ mê chấp của hai phái cộng thành tám điều trái ngược (điên đảo), cho nên trong giáo lý liễu nghĩa ở kinh Niết Bàn, Phật phá chỗ thiên kiến, mà nói rõ chỗ Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã, Chơn tịnh.
Ngươi nay y theo lời nói (của Phật) mà lại hiểu trái nghĩa. Ngươi nhận lấy sự vô thường đoạn diệt và định chắc cái thường cứng ngắt (tử thường) mà lầm hiểu lời nói mầu nhiệm viên diệu tối hậu của Phật. Như thế, dầu xem kinh đến ngàn biến, nào có ích gì?"
Giảng:
Bốn loại điên đảo của Nhị thừa: lạc, thì họ cho là khổ; thường, nói là không thường; ngã, nói vô ngã; tịnh, nói bất tịnh. Cho nên hợp lại thành ra tám loại điên đảo.
Cho nên Phật ở trong Kinh Niết Bàn liễu nghĩa giáo, thuộc về vị đề hồ viên diệu. Nó phá biên kiến của phàm phu và nhị thừa và minh hiển nói ra đạo lý cái gì là chân thường, chân lạc, chân ngã, chân tịnh. Ông nay y theo lời Phật nói mà ngược lại giáo nghĩa Phật thuyết. Ông lấy sự vô thường đoạn diệt và cái thường cứng ngắt, dùng tri kiến phàm phu giải thích sai lầm giáo lý tối vi diệu, tối viên mãn do Đức Phật thuyết ra. Dù ông xem kinh Niết Bàn một ngàn lần có lợi ích gì đâu?
Hành Xương, hốt nhiên đại ngộ, liền nói kệ rằng:
Vì giữ tâm vô thường,
Phật nói có tánh thường.
Không biết được phương tiện,
Như ao xuân lượm sỏi.
Tôi nay công chẳng dụng,
Mà Phật tánh hiện tiền.
Không phải Thầy trao cho,
Tôi cũng không sở đắc.
Đại sư lại nói: "Ngươi nay đã suốt thấu, nên đặt tên là Chí Triệt."
Chí Triệt làm lễ tạ ơn, rồi lui ra. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tín Nguyện Hạnh:
Tùy phương tiện nhập vào một bậc, mà dùng sở trì của tất cả biển nguyện, thường cùng với trí huệ, suốt thuở vị lai thấu rõ được cảnh giới, rộng lớn bí mật hiếm có của chư Phật, khéo biết tất cả các pháp bình đẳng của chư Phật.
Những vị Bồ Tát nầy tùy thuận pháp phương tiện, mà nhập vào tất cả các bậc. Pháp phương tiện chẳng dễ gì thực hành, xem ra là phương tiện, nhưng thực hành thì chẳng phương tiện. Địa vị Bồ Tát thực hành thì phương tiện, nhưng địa vị phàm phu thực hành, thì chẳng tự tại chút nào. Bồ Tát tu hành thì phải phát hạnh nguyện, nguyện phải lớn, hạnh phải chân thật. Nếu phát nguyện không lớn thì có lúc sẽ sinh tâm thối chuyển. Cho nên tín, nguyện, hạnh như đỉnh ba chân, thiếu một thì không được.
1. Tín tâm: Trước hết phải sinh tâm tin. Cho nên : "Tin là nguồn gốc mẹ công đức, Dưỡng lớn tất cả các căn lành".
Tin pháp do chính đức Phật nói ra, tin Kinh điển là pháp của Phật nói.
2. Nguyện lực: Sinh tâm tin rồi, thì phải phát nguyện rộng lớn, rộng như biển cả, như thế thì mới sinh ra được sức lực, để giáo hóa chúng sinh.
3. Hành: Phát nguyện mà không thực hành, thì như hoa nở trong hư không, chẳng kết được quả thật, chẳng có ích gì. Dùng nguyện lực để chi trì, và trợ giúp thì thường cùng với trí huệ. Có trí huệ thì thường sinh chánh tri chánh kiến, không có trí huệ thì sinh tà tri tà kiến. Chánh tri chánh kiến, thì đi trên con đường của Phật, tà tri tà kiến thì đi vào địa ngục. Nếu muốn không đọa địa ngục, thì phải có chánh tri chánh kiến.
Bồ Tát suốt kiếp thuở vị lai, mới biết rõ cảnh giới, rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn, hy kỳ ít có của chư Phật. Các Ngài đều biết sự thực hành của chư Phật, là pháp bình đẳng, những gì chư Phật nói, là pháp bình đẳng, pháp chứng đắc của chư Phật, cũng là pháp bình đẳng. Do đó :"Phật Phật đạo đồng", thể tính bình đẳng, pháp thân không hai. Trí huệ bình đẳng, tức không tăng không giảm, trong ngoài bình đẳng, bi nguyện ứng khắp.......
Biển nguyện phương tiện là gì ? Tức là tu đạo phải phát nguyện, dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để độ tất cả chúng sinh. Thứ nguyện này rộng lớn như biển cả. Tu đạo phải đủ ba điều kiện mới vào được biển nguyện phương tiện.
Thứ nhất: Phải có tâm tin, tin rằng mình tương lai có thể thành Phật.
Thứ hai: Phải có tâm nguyện, phát nguyện tương lai thành Phật rồi nhất định rộng độ chúng sinh.
Thứ ba: Phải có tâm hành, đã có tin và nguyện mà không cung hành thực tiễn, không tinh tấn tu hành thì chẳng có ích gì. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Nguyện Hạnh: Hạnh Nguyên luôn cần song đôi không thể thiếu một, Nguyện cần bao gồm hạnh, không có hạnh - tức Đạo làm người thiện lành thì phát nguyện chỉ là giả, lời nguyện trống rỗng nào có ích gì. Phát nguyện như biển cũng cần tu đại Hạnh của Bồ tát Phổ Hiền. (PS Tịnh Không giảng)
+ Lục Độ với giáo pháp Tiểu thừa và Đại Thừa
- Tu Lục Độ với Tiểu thừa: Cho các hàng tu hành thành tựu đến Thanh Văn - Duyên Giác. Thế nào gọi là lục độ ?
1. Bố thí,
2. Trì giới,
3. Nhẫn nhục,
4. Tinh tấn,
5. Thiền định,
6. Trí huệ.
Bố thí độ tham lận, trì giới độ phạm lỗi, nhẫn nhục độ giận hờn, tinh tấn độ lười biếng, thiền định độ tán loạn, trí huệ độ ngu si.
Phàm những ai phát Bồ-đề tâm, hành đạo Bồ-tát đều phải tu sáu pháp môn này; khi công đức viên mãn thì tới được bờ bên kia (đáo bỉ ngạn). (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Lục Độ Ba La Mật hay đại khái còn gọi là: Đáo Bỉ Ngạn - Siêu Nhiên - Siêu Hoàn hảo - Siêu Hoàn Thiện - Đạo hạnh siêu phàm - Trí tuệ siêu việt - phẩm tính Siêu nhiên chỉ phẩm tính tu Bổ Tát đạo thành tựu.
Sáu đức hạnh Ba-la-mật là :
1- Sự hào phóng siêu nhiên, (danaparamita), còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.
2- Giới hạnh siêu nhiên, (silaparamita), còn gọi là Trì giới Ba-la-mật.
3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên, (kshantiparamita), còn gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật.
4- Nghị lực siêu nhiên (viryaparamita), còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.
5- Sự chú tâm (tập trung tâm thức) siêu nhiên (dhynaparamita), còn gọi là « Thiền định » Ba-la-mật.
6- Sự hiểu biết siêu nhiên (prajnaparamita), còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật.
* Mời xem chi tiết trên bài viết: Lục độ Ba La Mật
+ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tu làm sao đặng chứng sáu pháp Ba la mật?
Thế Tôn nói:
- Bằng có chúng sanh nào bỏ được rượu thịt chẳng ăn, bỏ tài lợi chẳng tham, bỏ đặng ái ân chẳng mến, bỏ đặng việc ác chẳng làm, bỏ đặng nhân ngã chẳng tranh, thì đặng thứ nhất Bố thí Ba la mật.
- Có chúng sanh giữ đặng giới Phật, tập đặng uy nghi Phật, hàng lục tặc, dứt đặng việc tà mị, thì đặng thứ hai Trì giới Ba la mật. - Có chúng sanh nào hay chịu đặng người chê nhơ nhớp, hay nhịn đặng người mắng chửi, người nói lời chẳng phải lấy lời khuyên giải, việc nghịch đem đến lòng thuận chịu liền không oán hận, trái lại còn tìm phương độ thoát, thì đặng thứ ba Nhẫn nhục Ba la mật.
- Có những chúng sanh nào học đặng mười hai bộ kinh của Như Lai, thọ trì đọc tụng, biên chép giảng nói chưa thông học cho thông, chưa chứng học cho chứng, thì đặng thứ tư Tinh tấn Ba la mật.
- Có chúng sanh nào đoạn được trần duyên, dứt đặng vọng niệm, trừ đặng mê muội tán loạn, tập đặng thiền định, sức định như núi Tu di, Ma vương phá khuyấy không rối loạn, thì đặng thứ năm Thiền định Ba la mật.
- Có chúng sanh phá được vô minh không còn các tướng, lýsự đều không, thị phi dẹp hết, lời nói đứng đắn, mỗi chữ rành rõ, thì đặng thứ sáu Trí huệ Ba la mật.
Nếu người nào đặng sáu pháp Ba la mật thì người ấy đặng ra khỏi sanh tử, đặng đến bỉ ngạn, đặng siêu tam giới, đặng lên thập địa và đặng thành Phật. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Tu Lục Độ Ba La Mật - Hàng Bồ tát - Hàng Đại thừa tu:
"Vô trí diệc vô đắc, (không trí cũng không đắc)".
Tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ
Tròn tu diệu giác lý rõ ràng
Vô trí phá chấp không các tướng
Không đắc không chứng rõ pháp dung
Nơi một đầu lông hiện bảo tòa
Ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân
Lời nói ra người liền tin ngay
Nào hay tri âm có mấy ai".
Không trí cũng không đắc. Trí là trí huệ. Đắc là chứng đắc quả vị. Đạt đến cảnh giới đó, trí huệ cũng không cần, quả vị chứng đắc cũng không có, hy vọng điều gì cũng không có. Chúng ta học Phật pháp, đều muốn đạt được trí huệ; có trí huệ rồi thì chứng đắc được quả vị Phật. Nay trí bát nhã cũng không có, muốn đắc được Phật quả cũng không thể đắc. Đấy là lạc vào không à ? Không phải vậy. Chẳng đạt được trí huệ, chẳng chứng đắc được tức là trí huệ không chấp trước. Không có chấp trước rằng mình có chỗ chứng đắc.
Tạng giáo Bồ Tát sự lục độ, (tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ)".
Tạng giáo Bồ Tát tức là ba tạng kinh điển giáo huấn Bồ Tát. Pháp tu hành của Bồ Tát là pháp môn có trí huệ, có chứng đắc. Hành sáu pháp ba la mật tức có chấp trước. Chấp chúng sanh có thể độ được, tức là có trí huệ. Chấp trước Phật đạo có thể thành được, tức là có chứng đắc. Sáu độ là
1. Hành bố thí thì cứu độ tham lam. Phải hành bố thí thì mới không còn tham lam. Một lần bố thí thì là một lần dẹp bỏ tham lam.
2. Trì giới thì độ hủy phạm. Chư vị trì giới thì tâm được thanh tịnh, như ánh sánh tinh khiết trong sạch của hạt minh châu. Trì giới thì không có ô nhiễm. Ô nhiễm thì dơ bẩn, không tinh khiết, không trong sạch. Không trì giới giống như tờ giấy trắng bị lấm mực đen, càng lấm chừng nào thì càng đen chừng đó. Chư vị trì giới tức phải như tờ giấy, xưa nay vốn đã trắng sạch.
3. Nhẫn nhục độ sân hận. Chư vị tu nhẫn nhục thì không có nóng giận. Nếu có nóng giận thì không có nhẫn nhục. Chư vị tu nhẫn nhục thì sân hận sẽ không còn.
4. Tinh tấn độ giải đãi, làm biếng. Phải nên tinh tấn hằng ngày, luôn luôn tinh tấn, dũng mãnh tinh tấn. tinh tấn thì không có giải đãi làm biếng.
5. Thiền định độ tán loạn. Ngồi thiền hồi lâu thì có công phu tức là định trụ. Có định lực rồi thì không có tán loạn.
6. Bát nhã độ ngu si. Bát nhã khiến dẹp trừ ngu si.
Đấy là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
Trên là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
"Viên tu diệu giác lý đốn minh, (tròn tu diệu giác lý rõ ràng)".
Viên giáo Bồ Tát tu hành sáu độ. Viên giáo Bồ Tát tức là Diệu Giác Bồ Tát. Biệt giáo Bồ Tát cũng tu hành sáu độ. Sáu độ chỉ có lý, không có sự tướng, không có chấp trước. Gọi lý đốn minh (lý lẽ chỉ rõ minh bạch), nghĩa là tức khắc minh bạch, hiểu rõ đạo lý bố thí mà chưa từng bố thí, hành sáu độ mà chưa từng hành, vốn không chấp trước vào sự của sáu độ. Không chấp trước vào chi hết, nên gọi là không trí cũng không đắc.
Lý sáu độ có nhiều loại. Tu theo viên giáo không tạo sáu độ, làm bất cứ việc gì cũng không chấp trước, tạo việc gì ra cũng như không tạo. Tuy nhiên, chưa tạo việc thì không thể nói đã tạo việc. Nói thí mà chưa thí. "Tôi chưa bố thí mà cũng như đã bố thí".
Không thể nói như thế được. Chỉ có bố thí rồi thì mới nói rằng chưa có bố thí, mà không thể bảo rằng chưa bố thí cũng là đã bố thí.
"Vô trí phá chấp không chư tướng, (vô trí phá chấp không các tướng)".
Vô trí phá chấp tức là phá chấp trước về những phần còn lại của bát nhã. Không chư tướng tức là tất cả tướng đều là không. Mọi tướng đều là không, nên bảo rằng vô trí cũng vô đắc.
"Bất đắc phi chứng liễu pháp dung, (không đắc không chứng rõ pháp dung)".
Bất đắc tức là không có chi để chứng đắc, cũng là không chấp trước vào chứng đắc quả vị Phật. Trên, không Phật đạo có thể thành. Dưới, không chúng sanh có thể độ. Chẳng phải nói rằng không chúng sanh có thể độ, nhưng là độ mà chưa từng thấy có độ. Tuy diệt độ hết tất cả chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được diệt độ hết. Chẳng phải là không chúng sanh đã được độ, mà là không có chấp trước. Không nên chấp trước vào trí huệ và chứng đắc. Không này cũng chính là đại viên cảnh trí, mà trong đó không có chấp trước nào hết, nên liễu đạt pháp dung.
"Ư nhất mao đoan hiện bảo sát, (nơi một đầu lông hiện bảo tòa)".
Chứng đắc được cảnh giới này rồi thì chỉ vừa ngồi xuống liền xuất hiện một tòa bảo vương. Trong tiểu hiển đại.
"Tọa vi trần biểu chuyển pháp luân, (ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân)".
Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân. Đó là đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.
"Thử ngôn thuyết xuất tiên thành tín, (lời nói ra người liền tin tưởng)".
Lời này vừa nói ra thì ít nhiều người đều tin tưởng.
"Vi tất tri âm hữu cơ nhân, (nào hay tri âm có mấy ai)".
Một vài người tin tưởng rồi thì không biết có bao nhiêu người tri âm (nhớ tưởng), lại cũng không có bao nhiêu người hiểu rõ đạo lý. Hư Vân lão hòa thượng bảo :
"Lên tận cõi trời tìm tri kỷ
Vẫn chưa biết được kẻ tri âm".
Thiên nhai tức là cõi trời. Tri kỷ tức là bạn thân của mình. Lên tận cõi trời tìm tri kỷ, mà không biết ai là người tri âm. Sao gọi là tri âm ? Tức là hiểu được ý phát xuất từ lời nói của mình. Không có tri âm, tức là mình có nói ra lời gì nhưng không có ai hiểu hết. Có người hiểu lời mình tức là có người tri âm.
Chư vị bảo :" Pháp sư ! Ngài giảng con đều hiểu cả. Ngài là người bạn tri âm của con. Ngài thuyết mà con không hiểu rõ, nên không phải là người tri âm. Ngài thuyết, con không hiểu và lại hiểu, con tri âm và lại không tri âm".
Tri âm và không tri âm xuất phát từ đâu ? Tôi thuyết một bài kệ, ai y chiếu theo đó mà tu hành thì người đó là tri âm. Ai không y chiếu theo đó mà tu hành thì không phải là tri âm. Tin lời tôi nói đạo lý tức là tri âm, còn ngược lại thì không phải là tri âm. Đạo lý gì ? Nơi một cọng lông, ngồi xuống liền hiện bảo sát. Ngồi trên hạt bụi, chuyển đại pháp luân. Ngồi trên một cọng lông, xuất hiện các cõi Phật. Bảo vương sát tức là cõi nước mà Phật thường giáo hóa chúng sanh. Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Cảnh giới này là trong tiểu mà hiển đại. Chư vị nếu hiểu rõ cảnh giới này thì là tri âm. Chư vị không hiểu rõ nhưng lại muốn tu hành. Đợi khi chư vị ngồi trên hạt bụi mà chuyển pháp luân thì liền hiểu rõ. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Lục độ với Đại Thừa: Khi tu hành với Hàng Bồ Tát: Trích đoạn trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Kinh Pháp cho hàng Đại thừa tu tiến đến quả vị Bồ đề - Như Lai. Đức Phật bảo ngài Phú Lâu Na.
Không phải là bố thí, trì giới, không phải là tinh tấn, nhẫn nhục; không phải là thiền định, trí tuệ; không phải là ba-la-mật-đa.
HT Tuyên Hóa giảng giải:
Trong Như Lai tạng, lục độ cũng không. Trong đoạn kinh trước, tứ đế đã được giảng giải là không. Ngay sau khi chứng ngộ, Đức Phật liền giảng tứ đế và tam chuyển.[11] Không tứ đế và không thập nhị nhân duyên khiến cho giáo pháp cuả hàng Thanh văn và Duyên giác cũng trở thành không. Bây giờ không lục độ khiến cho pháp của hàng Bồ-tát cũng trở thành không.
- Đầu tiên trong lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.
- Tiếp đến là thi-la, tiếng Sanskrit là śīla, Hán dịch là giới hạnh.[12] Có năm giới, tám giới, mười giới, 250 giới của tỷ-khưu và 348 giới của tỷ-khưu ni. Còn có mười giới trọng và 48 giới khinh của hàng Bồ-tát.
- Tỳ-lê-da gốc tiếng Sanskrit là vīrya,[13] Hán dịch là tinh tấn, tinh cần. Có thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Khi tâm quý vị tinh tấn, thì quý vị sẽ tìm cầu Phật pháp mọi lúc. Khi thân tinh tấn, thì minh tu tập Phật pháp mọi lúc mọi nơi.
- Sàn-đề gốc tiếng Sanskrit là kṣānti,[14] Hán dịch là nhẫn nhục. Chúng ta nói rằng mình đang tu học Phật pháp, và không đến nỗi khó khăn lắm khi giữ giới. Điều khó là thực hành các điều giới ấy. Nhiều người tập hạnh nhẫn nhục bằng cách bảo người khác hãy nhẫn nhục đối với chính họ, và chẳng cần nhẫn nhục đối với người khác. Thế nên họ nói vớí những người không nhẫn nhục đối với họ rằng, “Anh phải học Phật pháp thật nhiều, lẽ ra anh phải nhẫn nhục hơn. Tại sao anh nổi nóng khi tôi chỉ mới nói đến anh?” Họ quở trách người khác không nhẫn nhục, nhưng chính họ lại không thể nhẫn nhục. Và tại sao họ lại duy lý như vậy? Họ tự cho rằng, “Tôi đã hiểu Phật pháp, tôi hầu như đã đạt đến vô ngã. Thế nên tôi không cần phải nhẫn. Tôi không có quan niệm về ngã, không có ngã tướng, thế nên khi nào cần phải nhẫn, đó là anh cần phải nhẫn chớ không phải tôi.” Nhưng khi đến giờ ăn, họ không nghĩ là mình có quan niệm về sự hiện hữu của con người, không có nhân tướng, thế nên họ cho rằng không cần phải có gì đó cho người khác ăn. Khi có việc cần làm, hoặc khi gặp khó khăn, họ nhớ lại rằng mình không có quan niệm có một bản ngã, thế nên họ nói rằng chẳng cần để ý đến những việc ấy. Và, nếu họ giết người, họ sẽ biện minh, “Chẳng hề gì, vì chẳng có chỗ khởi đầu của chúng sinh. Thế nên thực sự tôi chẳng giết họ.” Hoặc là vô cớ họ đánh người, khi hỏi tại sao lại làm vậy?, họ đáp, “Chẳng có cái gì gọi là chúng sinh tướng, và anh thuộc về dạng đó, thế nên tôi thực sự chẳng đánh ai cả!” Đó là loại tà tư tà kiến nơi họ. Khi ăn thịt, họ nói, “Không sao, các ông chẳng nghe nói chúng sinh có đặc tính là không có thọ giả tướng [15] đó sao? Vì nó không có thọ giả tướng, nên nó có thể chết bất kỳ lúc nào, thế nên tôi tha hồ ăn thịt nó. Lại nữa, một khi nó chết rồi, thịt nó cũng thối rữa, nếu tôi không ăn thịt nó.” Đó là luận điệu của đệ tử ngoại đạo. Họ cho rằng gia súc được nuôi chủ yếu là để cho người ăn thịt, nếu không ăn, thì chúng sẽ sinh sôi nẩy nở chật cả thế giới. “Nếu người không ăn bò, dê, heo, thì chúng sẽ nhiều vô số kể cho đến khi tràn ngập cả thế giới.” Nhưng hãy nhớ rằng, con người không ăn thịt mèo, nhưng trên thế giới chưa bị tràn ngập bởi loài mèo. Thực vậy, khi con người không ăn thịt động vật, thì không tạo ra nghiệp sát nhiều, và súc vật không sinh sôi nẩy nở nhanh chóng. Thế nên có người giải thích đạo lý sai lạc, như ý nghĩa của nhẫn nhục, và cho rằng mọi người nên nhẫn nhục với họ, nhưng chính họ lại không nhẫn nhục với người khác.
- Thiền-na gốc tiếng Sanskrit là dhyāna,[16] Hán dịch là tư duy tu, tĩnh lự. Có nhiều loại thiền. Nhưng bây giờ Đức Phật dạy rằng cũng chẳng có thiền nào cả.
- Bát-nhã, gốc tiếng Sanskrit là Prajñā,[17] Hán dịch là trí huệ. Có ba loại bát-nhã: Văn tự bát-nhã, Quán chiếu bát-nhã, và Thực tướng bát-nhã. Như vậy lục độ, hay sáu ba-la-mật-đa đều là không.
- Ba-la-mật-đa, gốc tiếng Sanskrit là pāramitā,[18] Hán dịch là đáo bỉ ngạn, qua đến bờ bên kia. Chỉ cho sự hoàn thành viên mãn một việc nào đó. Chúng ta phát tâm tu tập và thành Phật, tiến trình chuyển hoá từ phàm phu sang giác ngộ là ba-la-mật-đa. Từ phàm phu trở thành Bồ-tát cũng là một dạng của ba-la-mật-đa. Đi từ Cựu Kim Sơn sang Oakland cũng là một dạng khác của ba-la-mật-đa. Bây giờ tất cả pháp nầy trong Như Lai tạng được Đức Phật giảng là không hiện hữu. Chúng hoàn toàn là không. Trước đây khi chúng ta nói rằng trong hư không chẳng loại trừ hay ngăn ngại một tướng nào, đó là đang nói về Như Lai tạng vốn là bất không. Ở đây chúng ta đang nói về cái không của Như Lai tạng. Để diễn tả tính không của Như Lai tạng, phải dùng đến chữ không, nhưng đó không phải là hoàn toàn phủ định. Trong đó, vẫn có cái đang hiện hữu, đó là bổn diệu viên tâm. Nhưng tâm ấy không được gọi bằng tên ấy. Thế là ở đây đã mô tả không Như Lai tạng rồi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Tu Lục Độ Ba La Mật - Hàng Bồ tát - Hàng Đại thừa tu:
"Vô trí diệc vô đắc, (không trí cũng không đắc)".
Tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ
Tròn tu diệu giác lý rõ ràng
Vô trí phá chấp không các tướng
Không đắc không chứng rõ pháp dung
Nơi một đầu lông hiện bảo tòa
Ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân
Lời nói ra người liền tin ngay
Nào hay tri âm có mấy ai".
Không trí cũng không đắc. Trí là trí huệ. Đắc là chứng đắc quả vị. Đạt đến cảnh giới đó, trí huệ cũng không cần, quả vị chứng đắc cũng không có, hy vọng điều gì cũng không có. Chúng ta học Phật pháp, đều muốn đạt được trí huệ; có trí huệ rồi thì chứng đắc được quả vị Phật. Nay trí bát nhã cũng không có, muốn đắc được Phật quả cũng không thể đắc. Đấy là lạc vào không à ? Không phải vậy. Chẳng đạt được trí huệ, chẳng chứng đắc được tức là trí huệ không chấp trước. Không có chấp trước rằng mình có chỗ chứng đắc.
Tạng giáo Bồ Tát sự lục độ, (tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ)".
Tạng giáo Bồ Tát tức là ba tạng kinh điển giáo huấn Bồ Tát. Pháp tu hành của Bồ Tát là pháp môn có trí huệ, có chứng đắc. Hành sáu pháp ba la mật tức có chấp trước. Chấp chúng sanh có thể độ được, tức là có trí huệ. Chấp trước Phật đạo có thể thành được, tức là có chứng đắc. Sáu độ là
1. Hành bố thí thì cứu độ tham lam. Phải hành bố thí thì mới không còn tham lam. Một lần bố thí thì là một lần dẹp bỏ tham lam.
2. Trì giới thì độ hủy phạm. Chư vị trì giới thì tâm được thanh tịnh, như ánh sánh tinh khiết trong sạch của hạt minh châu. Trì giới thì không có ô nhiễm. Ô nhiễm thì dơ bẩn, không tinh khiết, không trong sạch. Không trì giới giống như tờ giấy trắng bị lấm mực đen, càng lấm chừng nào thì càng đen chừng đó. Chư vị trì giới tức phải như tờ giấy, xưa nay vốn đã trắng sạch.
3. Nhẫn nhục độ sân hận. Chư vị tu nhẫn nhục thì không có nóng giận. Nếu có nóng giận thì không có nhẫn nhục. Chư vị tu nhẫn nhục thì sân hận sẽ không còn.
4. Tinh tấn độ giải đãi, làm biếng. Phải nên tinh tấn hằng ngày, luôn luôn tinh tấn, dũng mãnh tinh tấn. tinh tấn thì không có giải đãi làm biếng.
5. Thiền định độ tán loạn. Ngồi thiền hồi lâu thì có công phu tức là định trụ. Có định lực rồi thì không có tán loạn.
6. Bát nhã độ ngu si. Bát nhã khiến dẹp trừ ngu si.
Đấy là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
Trên là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
"Viên tu diệu giác lý đốn minh, (tròn tu diệu giác lý rõ ràng)".
Viên giáo Bồ Tát tu hành sáu độ. Viên giáo Bồ Tát tức là Diệu Giác Bồ Tát. Biệt giáo Bồ Tát cũng tu hành sáu độ. Sáu độ chỉ có lý, không có sự tướng, không có chấp trước. Gọi lý đốn minh (lý lẽ chỉ rõ minh bạch), nghĩa là tức khắc minh bạch, hiểu rõ đạo lý bố thí mà chưa từng bố thí, hành sáu độ mà chưa từng hành, vốn không chấp trước vào sự của sáu độ. Không chấp trước vào chi hết, nên gọi là không trí cũng không đắc.
Lý sáu độ có nhiều loại. Tu theo viên giáo không tạo sáu độ, làm bất cứ việc gì cũng không chấp trước, tạo việc gì ra cũng như không tạo. Tuy nhiên, chưa tạo việc thì không thể nói đã tạo việc. Nói thí mà chưa thí. "Tôi chưa bố thí mà cũng như đã bố thí".
Không thể nói như thế được. Chỉ có bố thí rồi thì mới nói rằng chưa có bố thí, mà không thể bảo rằng chưa bố thí cũng là đã bố thí.
"Vô trí phá chấp không chư tướng, (vô trí phá chấp không các tướng)".
Vô trí phá chấp tức là phá chấp trước về những phần còn lại của bát nhã. Không chư tướng tức là tất cả tướng đều là không. Mọi tướng đều là không, nên bảo rằng vô trí cũng vô đắc.
"Bất đắc phi chứng liễu pháp dung, (không đắc không chứng rõ pháp dung)".
Bất đắc tức là không có chi để chứng đắc, cũng là không chấp trước vào chứng đắc quả vị Phật. Trên, không Phật đạo có thể thành. Dưới, không chúng sanh có thể độ. Chẳng phải nói rằng không chúng sanh có thể độ, nhưng là độ mà chưa từng thấy có độ. Tuy diệt độ hết tất cả chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được diệt độ hết. Chẳng phải là không chúng sanh đã được độ, mà là không có chấp trước. Không nên chấp trước vào trí huệ và chứng đắc. Không này cũng chính là đại viên cảnh trí, mà trong đó không có chấp trước nào hết, nên liễu đạt pháp dung.
"Ư nhất mao đoan hiện bảo sát, (nơi một đầu lông hiện bảo tòa)".
Chứng đắc được cảnh giới này rồi thì chỉ vừa ngồi xuống liền xuất hiện một tòa bảo vương. Trong tiểu hiển đại.
"Tọa vi trần biểu chuyển pháp luân, (ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân)".
Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân. Đó là đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.
"Thử ngôn thuyết xuất tiên thành tín, (lời nói ra người liền tin tưởng)".
Lời này vừa nói ra thì ít nhiều người đều tin tưởng.
"Vi tất tri âm hữu cơ nhân, (nào hay tri âm có mấy ai)".
Một vài người tin tưởng rồi thì không biết có bao nhiêu người tri âm (nhớ tưởng), lại cũng không có bao nhiêu người hiểu rõ đạo lý. Hư Vân lão hòa thượng bảo :
"Lên tận cõi trời tìm tri kỷ
Vẫn chưa biết được kẻ tri âm".
Thiên nhai tức là cõi trời. Tri kỷ tức là bạn thân của mình. Lên tận cõi trời tìm tri kỷ, mà không biết ai là người tri âm. Sao gọi là tri âm ? Tức là hiểu được ý phát xuất từ lời nói của mình. Không có tri âm, tức là mình có nói ra lời gì nhưng không có ai hiểu hết. Có người hiểu lời mình tức là có người tri âm.
Chư vị bảo :" Pháp sư ! Ngài giảng con đều hiểu cả. Ngài là người bạn tri âm của con. Ngài thuyết mà con không hiểu rõ, nên không phải là người tri âm. Ngài thuyết, con không hiểu và lại hiểu, con tri âm và lại không tri âm".
Tri âm và không tri âm xuất phát từ đâu ? Tôi thuyết một bài kệ, ai y chiếu theo đó mà tu hành thì người đó là tri âm. Ai không y chiếu theo đó mà tu hành thì không phải là tri âm. Tin lời tôi nói đạo lý tức là tri âm, còn ngược lại thì không phải là tri âm. Đạo lý gì ? Nơi một cọng lông, ngồi xuống liền hiện bảo sát. Ngồi trên hạt bụi, chuyển đại pháp luân. Ngồi trên một cọng lông, xuất hiện các cõi Phật. Bảo vương sát tức là cõi nước mà Phật thường giáo hóa chúng sanh. Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Cảnh giới này là trong tiểu mà hiển đại. Chư vị nếu hiểu rõ cảnh giới này thì là tri âm. Chư vị không hiểu rõ nhưng lại muốn tu hành. Đợi khi chư vị ngồi trên hạt bụi mà chuyển pháp luân thì liền hiểu rõ. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mời đọc bài viết để có phương pháp học Phật pháp hiệu quả: Hướng dẫn tu học Phật pháp như Phật dậy
+ Lục Độ Ba La Mật hay đại khái còn gọi là: Đáo Bỉ Ngạn - Siêu Nhiên - Siêu Hoàn hảo - Siêu Hoàn Thiện - Đạo hạnh siêu phàm - Trí tuệ siêu việt - phẩm tính Siêu nhiên chỉ phẩm tính tu Bổ Tát đạo thành tựu.
Sáu đức hạnh Ba-la-mật là :
1- Sự hào phóng siêu nhiên, (danaparamita), còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.
2- Giới hạnh siêu nhiên, (silaparamita), còn gọi là Trì giới Ba-la-mật.
3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên, (kshantiparamita), còn gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật.
4- Nghị lực siêu nhiên (viryaparamita), còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.
5- Sự chú tâm (tập trung tâm thức) siêu nhiên (dhynaparamita), còn gọi là « Thiền định » Ba-la-mật.
6- Sự hiểu biết siêu nhiên (prajnaparamita), còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. (Nguồn: Lục độ Ba la mật)
* Mời xem thêm bài viết: Lục độ Ba La Mật
+ Lượng Sức Mình: Dù làm bất cứ việc gì, việc đánh giá được đúng mình, lượng sức mình cực kỳ quan trọng, giúp ta chánh được nhọc công vô ích, cũng giúp ta vượt thoát mọi khó khăn tiến đến thành tựu. (Nhân Trắc Học)
+ Chọn đối tượng tư vấn tu cải mệnh: Xã hội có hai nhóm người (i)- Người sống thuận theo chiều tiến hóa vật chất, họ có bản chất Tranh giành - Tham muốn - Không chân thật - Sống ích kỷ luôn cầu lợi mình. Người như thế chưa thể tu Tâm dưỡng tánh, họ phải trải qua đau khổ ...(ii)- Nhóm người có đạo đức, sống làm lành lánh giữ, sống chân thật, luôn biết cân bằng lợi mình lợi người ... Những người này đáng được tư vấn Tu cải mệnh theo lời Phật dậy. Mời đọc "15. Kinh Tư Lượng" để biết cách chọn lựa người tư vấn.
+ Tham dục rất nguy hiểm - Dục vọng rất nguy hiểm: Người giầu có dù hộ trì tài sản thế nào đi chăng nữa, cũng khó mà giữ được 5 loại giặc tranh đoạt: Chính quyền tịch thu - Trộm cắp cướp giật - Người thừa tự tranh đoạt - Bị Nước cuốn - Bị Lửa đốt. Vậy nên, cho dù có sảy ra tán tài thế nào, cũng lên vui mà sống, vì quy luật ở đời là vậy, khó mà tránh, tránh không nổi thì khổ đau để làm gì. (Nguồn: Tiểu Kinh Khổ Uẩn)
+ Tìm chọn nơi an cư tu và người cùng tu hành phù hợp: Chọn ở trong khu rừng hay làng xóm là phụ thuộc tư tưởng của người tu, kể cả xuất gia. Mời đọc "17. Kinh Khu Rừng" để biết đức Phật dạy
+ Lượng sức mình trong việc sử dụng Thần chú cứu người: HT Tuyên Hóa khi chữa bệnh Ma chướng cho chú Sa Di là đệ tử đã Quy Y Ngài. Bệnh đã lành nhưng Ngài đã phải đối chọi với sự trả thù của Quỷ Thần rất hung hãn, tuy Ngài và các đệ tử an ổn vượt qua được mọi sự trả thù này, nhưng nhân mạng người dân cũng bị mất mát vài mươi người.... Thế nên trị bịnh giúp người đôi khi gặp nguy hiểm, vì có thể làm cho ma quỷ nổi giận, oán hờn, thật không phải là chuyện đùa. Ngài (HT Tuyên Hóa) cũng từng nói: Lúc trẻ chuyện gì cũng can dự vào, tu hành đến giai đoạn bị ma chướng thử thách này; mới phân lường được thấp cao. (Nguồn: Mục 21; 22 - Cuộc Đời và Sự nghiệp Hoàng Hóa - Quyển 1)
+ Lượng sức mình: ... Ví như người không có tài bơi lội, thì không nên xuống dưới nước sâu, biết người cừu hận với ta, ta cũng không nên hại họ. Đời có thân hậu nhau, rồi có gây gổ nhau; có gây gổ nhau rồi lại xin lỗi nhau; tuy hòa giải khéo lắm, nhưng mà chi bằng trước kia đừng gây gổ là hơn. Nay, người lành mà Bệ hạ không ban thưởng, trở lại nghe lời gièm siểm (Kẻ vu oan cho Hiền nhân).
Hiền Nhân cũng như con chim bay, không nhất định đậu ở cành nào. Đạo pháp của Hiền Nhân không thể lẫn lộn với lỗi lầm như thế để mất chỗ thanh cao quý giá. Cũng như lửa cháy ngoài đồng trống, những cây gần bên sẽ bị cháy xám, hễ chỗ có nước xoáy là thuyền quay, hễ là độc trùng là hại người. Vì thế Hiền Nhân muốn trùng sự với người trí để khỏi bị ngu hèn quấy nhiễu. Hiền Nhân đã rõ rằng: Cỏ cây mỗi thứ mỗi khác, loài chim muông cũng thế: Bạch hạc thì lông trắng, chim quạ thì lông đen. Nay, Hiền Nhân cũng khác mà ai kia cũng khác, nên Hiền Nhân nầy không muốn ở đây nữa. Đem cái áo lụa đẹp mặc cho người nhà quê cày ruộng thì thật là vô ích. Vì sao? Người nhà quê ấy chỉ quen bùn đất, làm gì biết mặc áo lụa đẹp và có mặc cũng chỉ làm hư.
Ở nhân gian có một thứ cây tên là Phản Lệ. Người chủ trồng nó thì không được ăn trái, còn có kẻ muốn hái trộm thì trái lại sinh ra cho mà hái. Bệ hạ cũng như cây ấy: người giúp nước được an ổn lại hất hủi đuổi xô, còn kẻ nịnh thần gian dối phá tan việc triều chánh lại cầm ở lại cho ăn bổng lộc. Khách ở lâu, chủ nhà sinh nhàm chán, nên Hiền Nhân nầy phải đi vậy. (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Biết giới hạn của mình:
Câu hỏi: Thưa thầy, một người bạn của con bị nghiện và con rất muốn giúp cô ấy. Nhưng mỗi khi lắng nghe cô ấy tâm sự, con lại thấy khổ tâm và nhiều lúc bị chìm ngập trong khổ đau của cô ấy. Con cần phải làm sao thưa Thầy?
Thầy: Thầy nghĩ rằng chúng ta phải biết giới hạn của mình. Ta chỉ nên dành một khoảng thời gian “trong giới hạn” đó để có mặt cho người bạn kia, như vậy ta mới có thể bảo vệ được cho chính mình. Nếu con không giữ gìn và chăm sóc cho chính mình thì con cũng không thể nào có thể giúp được cho người bạn đó trong tương lai. Giữ gìn, chăm sóc cho chính mình là điều rất quan trọng. Con cần phải biết mình có thể dành ra tối đa là bao nhiêu thời gian trong mỗi ngày hoặc mỗi tuần cho người bạn đó. Con có thể nhờ sự giúp đỡ của bạn bè hoặc người thân. Nếu con có một Tăng thân để nương tựa thì con có thể nhờ sự giúp đỡ của anh chị em trong Tăng thân đó. Nếu có được anh chị em trong Tăng thân yểm trợ thì con sẽ mạnh hơn nhiều và con có thể giúp được nhiều hơn cho người bạn đó. Và nếu người bạn đó cũng tham gia tu học với Tăng thân thì người đó sẽ có nhiều cơ hội hơn để chuyển hóa.
Con biết không, có nhiều nhà tâm lý trị liệu phải dành rất nhiều thời gian nói chuyện và lắng nghe các bệnh nhân và không có thời gian để chăm sóc cho chính mình, điều này không tốt chút nào. Chúng ta không thể nào dành cả ngày để lắng nghe khổ đau của người khác. Ta cần phải có thời gian để tiếp xúc với những yếu tố vui tươi, nuôi dưỡng và trị liệu cho chính chúng ta. Các nhà tâm lý trị liệu cũng vậy, họ cũng cần được nuôi dưỡng để có thể tiếp tục công việc của mình một cách lâu dài. Vì vậy, biết được giới hạn của mình là điều rất quan trọng, và con cần phải có một Tăng thân ở đằng sau để yểm trợ con, đó là câu trả lời cho vấn đề của con. (Nguồn: TS Thích Nhất Hạnh giảng)
Xem thêm rất hữu ích: Những tấm gương Thánh Hiền Tùy thời hành vận - Tùy thời mưu cầu
+ Thời vận không thông, mưu cầu vô ích
Vận mệnh con người tuân theo định luật Nhân Quả - Luân hồi, cũng tức là Nghiệp báo. Nghiệp là do con người tạo ra và được vũ trụ ghi nhận, sẽ trả lại cho người đó khi thời gian đến, có thể ngay kiếp sống này hoặc nhiều kiếp sống sau, nhưng Nghiệp đã tạo không bao giờ mất. Mỗi con người buộc phải trải qua luân hồi muôn kiếp để nhận lại quả báo - Nghiệp mình đã gây tạo mà không có cách gì trống chánh. Nhưng con người có thể tu hành để tạo những Phúc lành tác động vào Nghiệp quả, làm giảm nhẹ hoặc hóa giải, hoặc tiêu trừ thông qua Tu hành đúng Như Pháp thọ trì - Tu theo Chánh đạo theo đức Phật dậy.
Pháp sư Tịnh Không giảng rằng, mỗi người từ miếng ăn miếng uống đã được Nghiệp quả định trước cũng là nói Nhân quả báo ứng không sai chạy.
=> Hãy học hiểu Nhân quả - Vận mệnh rồi tu hành, ứng dụng vào trong cuộc sống. Khi thời vận chưa thông thì tăng cường học hỏi giáo lý, tu phúc tích đức và làm việc phụng sự mọi người, thực hành bố thí cải mệnh. Khi thời vận thông thì lo gì không thành tựu mưu cầu phù hợp với sức mình.
Chi tiết về vận mệnh và Nhân quả - Số mệnh, mời xem tại: Nhân quả và Số mệnh qua Luân hồi
+ Tùy thời hành vận: Tấm gương lượng sức mình, tùy thời mà ẩn thân cho kỹ để giữ mạng sống, giữ gìn Y Bát của đức Phật trao truyền là Lục Tổ Huệ Năng - Tổ đời thứ sáu của Thiền Tông (Đời thứ nhất là đức Đạt Ma Tổ Sư). ....... Đến canh ba, Huệ Năng nầy thọ pháp, chẳng có ai hay (Bí mật). Tổ Sư truyền pháp Đốn giáo và y bát cho ta mà dạy rằng: "Ngươi là vị Tổ đời thứ sáu. Hãy khéo tự hộ niệm. Phải quảng độ chúng hữu tình, và lưu truyền chánh pháp cho đời sau, đừng để đoạn tuyệt"........ Tổ Sư lại nói: "Ngày xưa Đạt Ma Đại sư mới tới xứ này, vì người chưa tin nên phải truyền y này để làm tín thể, nối truyền cho nhau từ đời này qua đời khác. Còn Pháp thì lấy tâm truyền tâm, khiến cho người tự mình tỏ sáng, tự mình hiểu biết. Từ xưa chư Phật chỉ truyền cái Bổn thể, chư Sư chỉ mật trao cái Bổn tâm mà thôi. Y là cái mối của tranh, tới đời ngươi đừng truyền nữa. Nếu truyền y này, thì rất nguy đến tánh mạng. Hãy đi cho chóng, kẻo e có kẻ hại ngươi."
Tổ Sư nói: "Phải vậy, phải vậy! Từ đây sắp sau, Phật pháp sẽ do ngươi mà được thạnh hành. Ngươi đi rồi, ba năm ta sẽ tạ thế. Nay ngươi hãy đi, gắng sức về hướng Nam, nhưng chẳng nên vội thuyết pháp, bởi vì Phật pháp hưng khởi từ trong khó khăn."....
Lục tổ/ Sư ở chùa nầy hơn chín tháng, lại bị bọn ác nhơn tìm theo. Sư bèn lánh mình ẩn trong núi phía trước chùa, thì bị bọn ấy phóng hỏa đốt rụi cỏ cây. Sư ráng sức chui vào kẹt đá, nên mới thoát nạn. Nơi tảng đá nay còn dấu Ngài ngồi kiết già và lằn vải áo. Nhơn đó mới gọi là "tảng đá lánh nạn."
Sư nhớ lại lời Ngũ Tổ dặn nơi huyện Hoài Tập và Tứ Hội, Ngài mới đi ẩn nơi hai xứ ấy. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đánh giá đúng mình - Lượng sức mình - Ẩn cư chờ thời - Tùy thời hành vận mà mưu cầu rất quan trọng. Đây là Đạo vậy: Các tấm gương Thánh hiền còn phải ẩn cư chờ thời
+ Kệ Vô tướng - Pháp tu hành tại gia
Sư nói: Chư Thiện tri thức! Muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Ở nhà mà thường tu hành, thì cũng như người Đông phương có lòng lành. Ở chùa mà chẳng tu, thì cũng như người Tây phương có lòng dữ, nếu lòng trong sạch, thì tánh mình tức là Tây phương vậy."
Vi Thứ sử lại hỏi: Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại sư chỉ dạy."
Sư nói: "Ta nói cho đại chúng một bài kệ Vô Tướng. Nếu y theo đó mà tu, thì cũng như thường ở cùng ta một chỗ không khác. Bằng chẳng tu theo đó mà thế phát xuất gia, thì đối với Đạo nào có ích gì!"
Lòng bình đẳng đâu cần giữ giới,
Làm việc ngay há phải tu thiền!
Ân, song thân hiếu dưỡng cần chuyên,
Nghĩa, huynh đệ dưới trên tương ái,
Nhượng, hòa mục tôn ti đối đãi,
Nhẫn, muôn điều ác hại chớ gây.
Nếu bền tu như lấy lửa cọ cây,
Nơi bùn lấm nở đầy sen đỏ.
Đắng miệng ấy thuốc trừ bịnh khổ,
Nghịch tai là lời độ chánh trung.
Sửa lỗi lầm trí huệ phát sung,
Binh tội quấy tâm tùng đọa ác.
Năng làm phước, giúp người lợi lạc,
Đạo nào do thí bạc mà thành!
Vốn Bồ đề cầu ở tâm thanh,
Ngoài mộng ảo, muội manh nhọc kiếm.
Nghe nói pháp, lòng vâng tu niệm,
Cõi Thiên đường mầu nhiệm thấy liền.
(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
I- TỰ QUY Y - THEO KINH THẬP THIỆN
+ Tự Quy Y Phật
- Nguyện cho chúng sinh
- Thể theo đạo cả
- Phát tâm Vô Thượng.
Lạy 1 lạy
Đứng chắp tay cung kính
Niệm tiếp theo.
+ Tự Quy Y Pháp
- Nguyện cho chúng sinh
- Thấu rõ Kinh Tạng
- Trí huệ như biển.
Lạy 1 lạy
Đứng chắp tay cung kính
Niệm tiếp theo.
+ Tự Quy Y Tăng
- Nguyện cho chúng sinh
- Thống lý đại chúng
- Hết thảy không ngại.
Lạy 5 lạy và Xá 3 xá.
Nguồn: Kinh Thập thiện
+ Tam vô tướng quy y - Tự mình Quy Y Tâm Tánh của mình:
Chư Thiện tri thức! Nay đã bốn điều thề nguyền lớn rồi, ta lại truyền cho các ngươi Tam Vô tướng quy y (Vô tướng tam quy y giới).
Chư Thiện tri thức! Phải quy y ba pháp nầy:
1. Hãy quy y cái Diệu Giác của tánh mình, là Lưỡng Túc Tôn.
2. Hãy quy y cái Chánh Pháp của tánh mình, là Ly Dục Tôn.
3. Hãy quy y cái Thể Thanh Tịnh của tánh mình, là Chúng Trung Tôn.
Từ nay sắp sau, hãy xưng Giác làm Thầy, chẳng nên nương theo tà ma ngoại đạo. Hãy lấy Tam bảo của tánh mình mà thường tự chứng tỏ các công đức của mình. Ta khuyên chư Thiện tri thức phải nương theo Tam bảo của tánh mình là:
1. Phật nghĩa là Giác (tánh Giác ngộ).
2. Pháp nghĩa là Chánh (tánh Chơn chánh).
3. Tăng nghĩa là Tịnh (tánh Thanh tịnh).
Tâm mình nương theo tánh Giác, thì tà mê chẳng sanh. Lại ít có sự ham muốn, thường biết đủ (thiểu dục tri túc), lìa được của tiền sắc dục, gọi là Lưỡng Túc Tôn.
Tâm mình nương theo tánh Chánh, thì niệm niệm không sanh tà kiến. Bởi không tà kiến, nên không lòng nhơn ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn.
Tâm mình nương theo tánh Tịnh, thì cả thảy các cảnh giới trần lao, ái dục, tâm mình chẳng nhiễm chẳng vương, gọi là Chúng Trung Tôn.
Tu các hạnh nầy, ấy là tự quy y (mình quy y Bổn tánh của mình). Các người phàm phu từ ngày tới đêm nói rằng thọ Tam quy giới, mà chẳng hiểu lý quy y. Nếu nói quy y Phật, thì Phật ở xứ nào? Bằng không thấy Phật, thì quy y chỗ nào? Nói thế thành ra giả dối.
Chư Thiện tri thức! Mỗi người hãy tự xem xét, chớ lầm dùng tâm ý. Kinh văn nói rõ quy y Phật ở tánh mình, chớ chẳng nói quy y Phật nơi nào khác. Phật ở tánh mình mà chẳng quy y, thì không có chỗ nào mà quy y vậy.
Nay các ngươi đã tự ngộ, thì mỗi người phải quy y Tam bảo ở tâm mình. Trong phải điều phục tâm tánh, ngoài phải cung kính mọi người, tức là mình quy y tâm mình vậy.
Chư Thiện tri thức! Đã quy y Tam bảo của tánh mình rồi, các ngươi hãy chí tâm, ta nói cho mà rõ nhất thể tam thân tự tánh Phật (Phật một thể ba thân trong tánh mình), khiến cho các ngươi thấy ba thân, rõ ràng tự mình tỏ sáng tánh mình. Tất cả hãy đồng nói theo ta:
Từ sắc thân mình quy y Thanh tịnh Pháp thân Phật.
Từ sắc thân mình quy y Viên mãn Báo thân Phật.
Từ sắc thân mình quy y Thiên bá ức Hóa thân Phật.
Chư Thiện tri thức! Sắc thân là quán xá, không thể nói quy y được. Phải dòm ngó Phật ba thân trong tánh mình. Người thế gian đều có Phật ba thân. Bởi tâm mình mê muội, nên không thấy thể sáng suốt trong tánh mình. Người ta cứ tìm Phật ba thân ở ngoài, mà chẳng thấy Phật ba thân ở trong thân mình. Các ngươi nghe ta nói, khiến cho các ngươi ngó trong thân mình và thấy Bổn tánh mình có Phật ba thân. Phật ba thân nầy do tánh mình mà sanh, chớ chẳng phải do nơi ngoài mà tìm đặng. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quy Y cần tìm người thầy tốt: HT Tuyên Hóa giảng
+ Xem thêm về Tam Quy: HT Thích Thanh Từ Khai Thị
+ Cấu tạo con người tâm linh: ... Sư nói: "Đại chúng! Người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành; con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm.
Giảng: Lục Tổ Đại sư nói:
–Quý vị Thiện tri thức! Sắc thân của các ông chính là Thế giới Cực Lạc, tâm ông tịnh thì Phật độ tịnh, Phật độ tịnh chính là an lạc. Tâm tịnh thì không có một pháp ô nhiễm, dù ở trong ô nhiễm cũng sẽ biến thành thanh tịnh, không bị pháp ô nhiễm xoay chuyển, cho nên nói sắc thân của mình là thành.
"Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý": Ngoài có năm cửa là chỉ cho nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Trong có cửa ý, bên trong có ý niệm, nó có lúc đóng lúc mở, giống như ý có lúc suy tưởng, có lúc không. Tâm người ví như đất chính là vàng ròng của Thế giới Cực Lạc làm đất; tánh là quốc vương, tức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà trụ ở trong tâm của mình, lúc tánh hiểu rõ, ông biết tự tánh thì tồn tại, là như như bất động, thường thường sáng suốt hiểu rõ (như như bất động, liễu liễu thường minh), đó cũng giống như vua đang ở. Lúc tánh rời khỏi, vua cũng không còn. Ông có thể minh tâm kiến tánh, đó chính là A Di Đà Phật hiện tiền. Lúc tự tánh ở trên thân, thân tâm cũng tồn tại; nếu tự tánh rời khỏi, thân tâm cũng hoại. Cần phải biết Phật là tự tánh tu, tự tâm là Phật, tự tánh là Phật, cần phải ở trên tự tánh dụng công phu mới có thể thành Phật, mà không nên tìm cầu ở bên ngoài. Tự tánh chính là Phật tánh, Phật tánh cũng chính là tự tánh, Phật tánh và tự tánh không hai, không sai khác. Cho nên muốn thành Phật thì cần phải ở trong tự tánh dụng công phu, chính là tự tịnh kỳ ý, tự tịnh kỳ tâm, cần phải đoạn trừ tất cả tập khí tật xấu. Nếu không đoạn trừ thập ác bát tà và các tật xấu của mình, thì không thể nào, cho nên nói không nên tìm cầu ở ngoài thân.
Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà.
Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là rùa, trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh.
Chư Thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì Thiên đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã thì núi Tu Di sập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt. Tâm địa mình chính là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài soi sáu cửa trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục dục. Trong soi tánh mình, làm cho ba độc liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần. Trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây phương. Nếu chẳng chịu tu như thế, thì làm sao đến cõi kia được!" (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Thân Tâm Thanh tịnh: ... Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ. Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. ... Chi tiết Quán thân - Quán thọ - Quán Tâm - Quán Pháp (xem Kinh Niệm Xứ)
+ Tu Tâm Bệnh để Thanh Tịnh Tâm:
Trích kinh văn: “Muốn đạt được tâm thanh tịnh” chính là trọng điểm của toàn bản kinh này, nghĩa là làm thế nào mới hòng đạt được tâm thanh tịnh? Chuyện này rất quan trọng đối với việc tu hành của chúng ta vậy. Tổng kết Kinh Thanh tịnh tâm, đức Phật nói 5 thứ chướng ngại => Phải đoạn trừ:
1) Tham dục chướng ngại sự bố thí, trì giới đại viên mãn của tự tánh. Do có tâm tham dục, nhất định chẳng có tâm bố thí; có ba độc Tham - Sân - Si, tâm địa chẳng thanh tịnh => nói gì đến trì giới nữa đây?
2) Sân Khuể chướng ngại từ bi, nhẫn nhục đại viên mãn nơi tự tánh.
3) Ngủ nghê chướng ngại tinh tấn đại viên mãn nơi tự tánh.
4) Trạo Hối chướng ngại thiền định đại viên mãn của tự tánh.
5) Nghi chướng ngại trí huệ đại viên mãn của tự tánh.
Chúng ta muốn viên mãn sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi đầu từ chỗ này. Ngoài ra, còn có bảy điều chúng ta phải tu tập.
Những gì là bảy pháp?
1. Trạch pháp giác chi: “Chọn lựa pháp môn tà hay chánh phải đặc biệt chú ý”. Tùy căn cơ mục đích chọn pháp phù hợp.
2. Niệm giác chi: Phải hiểu được điều hòa thân tâm, nên rất cần vị thầy "Biết bệnh - Cho thuốc", chỉ dẫn để tu cho thân tâm khỏe mạnh.
3. Tinh tấn giác chi: Tinh thần thuần chẳng tạp niệm. Tấn là tiến chứ không lùi. Nên chuyên tinh thâm sâu để có thành tựu cao siêu.
4. Hỷ giác chi: Tu đúng sẽ đạt được trạng thái khinh an, tự tại, thong dong vì đã xả bỏ mọi phiền lão chấp trước. Trí tuệ tăng trưởng.
5. Khinh an giác chi: Tu đạt thân tâm nhẹ nhàng. Nên nhớ không sanh tâm ngã mạn sẽ mất đi trạng thái khinh an.
6. Định giác chi: Tu thiền đạt định lực, pháp môn giành cho người trí. Muốn thành tựu phải trừ chướng ngại, nghiêm trì giới.
7. Xả giác chi: Xả là buông bỏ, Pháp thế gian phải bỏ đã đành, mà pháp xuất thế gian cũng phải bỏ luôn. Không xả rễ tham ái, chấp trước. Hãy nên tu tập bảy pháp như thế. Tu như vậy, chứng quả ngay trong đời này, chứng được quả viên mãn. Đây chính là điều chúng tôi thường nói: “Phá một phần vô minh, chứng được một phần Pháp Thân”.(Nguồn - PS Tịnh Không giảng giải: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Tu Thanh Tịnh Pháp Thân - Tâm Kim cang: Trích Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là thanh tịnh pháp thân?
Thế Tôn nói: Thanh tịnh pháp thân ấy là chơn tánh thanh tịnh. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân, xưa nay thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh, tại chỗ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân. Nếu không tu hành thì không thể ngộ được bản lai diện mục. Nếu người muốn được giác ngộ mà không cầu thầy chứng minh cho, nhận giả làm thiệt, lâu ngày sẽ thành tà ma ngoại đạo, thành yêu thành quái, phỉnh gạt chúng sanh. Hiện đời sẽ bị pháp luật nhà vua hành phạt, chết rồi đọa vào ác đạo, một khi mất thân người muôn kiếp khó khục hồi được.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Quy Y - Nương theo Tam Bảo nơi Tánh mình tu Tâm Thanh Tịnh: Từ nay sắp sau, hãy xưng Giác làm Thầy, chẳng nên nương theo tà ma ngoại đạo. Hãy lấy Tam bảo của tánh mình mà thường tự chứng tỏ các công đức của mình. Ta khuyên chư Thiện tri thức phải nương theo Tam bảo của tánh mình là:
1. Phật nghĩa là Giác (tánh Giác ngộ).
2. Pháp nghĩa là Chánh (tánh Chơn chánh).
3. Tăng nghĩa là Tịnh (tánh Thanh tịnh).
Tâm mình nương theo tánh Giác, thì tà mê chẳng sanh. Lại ít có sự ham muốn, thường biết đủ (thiểu dục tri túc), lìa được của tiền sắc dục, gọi là Lưỡng Túc Tôn.
Tâm mình nương theo tánh Chánh, thì niệm niệm không sanh tà kiến. Bởi không tà kiến, nên không lòng nhơn ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn.
Tâm mình nương theo tánh Tịnh, thì cả thảy các cảnh giới trần lao, ái dục, tâm mình chẳng nhiễm chẳng vương, gọi là Chúng Trung Tôn. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tánh Thanh tịnh - Tứ chủng thanh tịnh minh hối: Sát - Đạo - Dâm - Vọng
Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là: "Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng" (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu đạo (tức là ăn cắp), và giới vọng ngữ (tức là nói láo). Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể!
- Đoạn dâm dục
Việt: “Nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.”
Việt: “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm dâm-dục thì chẳng thể ra khỏi trần-lao.”
Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo--thượng phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma-nữ.”
Giảng nghĩa: Do vậy, chỉ có những kẻ vô cùng si mê mới vừa muốn giữ cái tâm dâm dục lại vừa muốn được khai ngộ. Tư tưởng này thuộc loại ngu si tột đỉnh, và những người mang tư tưởng này là những kẻ khó có thể giáo hóa nhất; cho dù bây giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có giáng thế đi chăng nữa thì Ngài cũng không có cách nào làm cho họ đắc Đạo hay chứng quả vị được cả! Cho nên, hạng người này là ngu dốt nhất, si mê nhất!
Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo--thượng phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma-nữ.”
Việt: “Những loại ma ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.”
Việt: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm, lại tự xưng là Thiện-tri-thức, khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đường Bồ-đề.”
Việt: “Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật Thế Tôn thuở trước.”
Việt: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm, dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Vì sao? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn!”
Việt: “Ông lấy dâm-thân mà cầu diệu-quả của Phật, cho dẫu có đắc diệu-ngộ thì cũng đều là dâm-căn. Căn bổn đã thành dâm, tất phải luân chuyển trong Tam-đồ, không thoát ra được. Thế thì Niết-bàn của Như-Lai do đường nào mà tu chứng?”
Việt: “Phải làm cho dâm-cơ của thân và tâm đều dứt, và tánh ‘dứt’ ấy cũng không còn, thì mới mong đạt được quả Bồ-đề của Phật.”
Việt: “Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần.”
- Đoạn sát sanh:
Việt: “A-Nan! Lại nữa, nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không sát sanh thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.”
Việt: “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm sát-sanh thì chẳng thể ra khỏi trần-lao.”
Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ sát sanh, tất sẽ lạc vào Thần-đạo--người thượng phẩm thì làm Đại-lực Quỷ, trung phẩm thì làm Phi-hành Dạ-xoa hoặc làm Quỷ-soái, hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát.”
Giảng nghĩa:
“Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ sát sanh, tất sẽ lạc vào Thần-đạo.” “Đa trí” ở đây không phải là trí huệ xuất thế mà là thế trí biện thông - thứ trí huệ của thế gian. Như vậy, cho dù quý vị rất thông minh, có được thế trí biện thông, có tài ăn nói, giỏi biện luận, khéo biện biệt, và công phu tu hành cũng đã tương ưng rồi; song le, nếu không dứt bỏ tâm sát sanh, thì trong tương lai, quý vị sẽ bị rơi vào đường Thần-đạo và có thể làm Thần, làm Thiên-vuơng, Thiên-chủ, hoặc Đại-lực Tướng-quân (tức Đại-lực Quỷ) ở cõi trời.
“Người thượng phẩm thì làm Đại-lực Quỷ. Người thượng phẩm (tức là người giỏi nhất) thì làm loại quỷ thần có thế lực lớn; loại quỷ này cũng là thần. Đại-lực Quỷ chính là Thiên-hành Dạ-xoa (quỷ Dạ-xoa ở cõi trời). Trung phẩm thì làm Phi-hành Dạ-xoa hoặc làm Quỷ-soái. Hạng quỷ trung phẩm, thần trung phẩm này có thể là Phi-hành Dạ-xoa (quỷ Dạ-xoa bay liệng trên không), hoặc nguyên soái của loài quỷ. Hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát. Hạng người thuộc hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát, loại quỷ La-sát ở dưới đất.”
Việt: “Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.”
Giảng nghĩa:
“Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng.” Những quỷ thần này – Thiên chủ, Thần ở cõi trời, hoặc loài quỷ ở địa ngục, loài Địa-hành La-sát ở nhân gian, loài Phi-hành Dạ-xoa bay trên không, và Thần-vương Đại-lực Quỷ - đều có rất đông đồ chúng. “Đồ” tức là đồ đệ; “đồ chúng” tức là bè đảng rất đông, rất nhiều. Có rất nhiều loại quỷ, như Đại-lực Quỷ (quỷ có thế lực lớn), Đa-tài quỷ (quỷ có nhiều tiền của), Thiểu-tài Quỷ (quỷ có ít tiền của), Vô-tài quỷ (quỷ không có tiền của), Khứu hưong Quỷ (quỷ ngửi mùi thơm), Khứu-xú Quỷ (quỷ ngửi mùi hôi)... Bởi có tới mấy vạn loại quỷ khác nhau, cho nên Đức Phật nói: “Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng” - kẻ này có đệ tử, kẻ kia cũng có đồ đệ, cho nên bọn chúng rất là đông đúc.
“Tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.” Những quỷ thần ấy, kẻ nào cũng ngạo mạn, tự xưng là mình đã thành tựu được Đạo Vô-thượng. Ở Trung-Hoa có vị Quan Đế Công vốn là loại Đa-tài Quỷ (quỷ có nhiều tiền của), song về sau đã quy y Tam Bảo và đưọc tôn xưng là Bồ-tát Già-Lam. Đối với Phật-giáo thì Bồ-tát Già-Lam là một vị Thần Hộ-Pháp; và khi ở trong chùa hay trước mặt Đức Phật thì vị Thần Hộ-Pháp này phải đứng, bởi không có chỗ ngồi cho thần.
Việt: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp, sẽ có nhiều loại quỷ thần ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, tự nói rằng ăn thịt thì đắc được con đường Bồ-đề.”
Vịêt: “A Nan ! Ta cho phép chúng Tỳ-khưu ăn Ngũ Tịnh-nhục; thịt ấy đều do thần lực của Ta hóa sanh chớ vốn không có mạng căn. Bà-la-môn các ông ở nơi nóng, ẩm, lại thêm có đá sạn nên rau cỏ không sống được; vì thế, Ta dùng thần lực đại bi gia hộ, do đại từ bi mà giả gọi là thịt cho các ông có được cái vị. Làm sao sau khi Như Lai diệt độ, những kẻ ăn thịt chúng sanh lại gọi là Thích tử được?”
Việt: "Các ông phải biết: Những kẻ ăn thịt dầu được tâm khai tựa Tam-ma-địa, cũng chỉ là loài Ðại La-sát, đến khi báo chung phải chịu trầm luân trong biển khổ sanh tử, chớ không phải là đệ tử của Phật. Những người như vậy là hạng giết hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau, hỗ tương ăn nuốt không dứt, thì làm sao ra khỏi được Tam-giới?"
Việt: "Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, kế đến phải dứt trừ sát sanh. Ðó là lời minh huấn quyết định thứ hai về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước."
Việt: "Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ sát sanh thì cũng như người tự bịt tai rồi cất tiếng kêu to mà lại cầu cho người khác đừng nghe thấy; đó gọi là 'muốn giấu mà lại thành lộ rõ'."
Việt: "Chư Bồ-tát và các Tỳ-khưu thanh tịnh khi đi trên lối rẽ còn không đạp lên cỏ sống huống hồ là lấy tay nhổ, thì sao kẻ có tâm đại bi lại lấy máu thịt của chúng sanh làm thức ăn?"
Việt: "Những vị Tỳ-khưu nào không phục-dụng các thứ tơ bông, hàng lụa Ðông-phương, cùng các ủng da, giày dép da, áo da, áo lông, sữa, pho-mát, sữa đặc tinh của miền đó, thì những vị Tỳ-khưu ấy thật sự được giải thoát ở đời; trả xong nợ trước, họ sẽ không trở lại Tam-giới nữa."
HT Tuyên Hóa giảng: Cả tiểu thừa và đại thừa đều không khắt khe về ăn sữa, pho mát, sữa đặc tinh
Việt: "Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy tức là lời của Ma Ba-Tuần."
- Đoạn trộm cắp
Việt: "A-Nan! Lại nữa, nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không trộm cắp thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục."
Việt : "Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm trộm cắp thì chẳng thể ra khỏi trần-lao."
Việt: "Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ trộm cắp, tất sẽ lạc vào Tà-đạo--thượng phẩm thì làm tinh-linh, trung phẩm thì làm yêu mị, hạ phẩm thì làm tà-nhân bị chúng mị ám nhập."
Việt: "Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ trộm cắp, tất sẽ lạc vào Tà-đạo--thượng phẩm thì làm tinh-linh, trung phẩm thì làm yêu mị, hạ phẩm thì làm tà-nhân bị chúng mị ám nhập."
Giảng: "Thượng phẩm thì làm tinh-linh." Bậc cao nhất của Tà-đạo là gì? Là tinh-linh. "Tinh" tức là yêu tinh. Thế nào gọi là "tinh linh"? Mới gặp thì quý vị thấy chúng rất thông minh, nhưng trên thực tế đó chỉ là giả dối. Các hiệu thuốc ở Trung-Hoa thường có bán một loại dược thảo gọi là phục-linh; cái "linh" này của "phục linh" là giả chứ không phải thật.
"Trung phẩm thì làm yêu mị." "Yêu" tức là yêu tinh, yêu quái. Loài yêu mị có thần thông và có thể ám hại người.
"Hạ phẩm thì làm tà-nhân bị chúng mị ám nhập." "Mị" tức là quỷ mị. Mấy hôm trước đã có giảng về "yểm mị quỷ," tức là Cưu-bàn-trà rồi. Quỷ yểm-mị thì thừa lúc người ta đang ngủ đến đè lên người họ (bóng đè); còn loại quỷ mị này thì không đợi người ta ngủ mà ngay trong lúc họ còn thức, chúng cũng có thể nhập vào thân họ, mượn thân họ để nói chuyện và làm những điều chúng muốn. Những người như thế được gọi là "tà-nhân" (người tà); ở Trung-Hoa thì gọi họ là "thầy cúng," hay "cô đồng." Ngoài ra, họ lại còn một tên khác nữa là "khiêu thần" (thần nhảy múa). Tại sao gọi là "khiêu thần"? Bởi họ lắc lư, nhảy nhót, múa may một hồi thì "lên đồng," có "thần" nhập vào thân họ; đó cũng bởi đời trước họ chuyên môn trộm cắp, nên bây giờ phải nhận lãnh quả báo này.
Vì sao những người đó phải chịu nghiệp báo làm tà-nhân? Là vì kiếp trước họ đã phạm tội trộm cắp! Bởi không dứt trừ tâm trộm cắp nên họ bị đọa lạc--hạng cao nhất thì bị đọa làm tinh-linh, hạng trung bình thì bị đọa làm yêu quái, và hạng thấp nhất thì bị đọa làm tà-nhân, bị các tà ma quỷ quái nhập vào thân họ mà nói chuyện.
Việt: "Những bọn tà ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Ðạo Vô-thượng."
Việt: "Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều thứ yêu tà ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, âm thầm lừa dối mọi người, xưng là bậc Thiện-tri-thức, và kẻ nào cũng tự nói là đã đắc Thượng-nhân Pháp. Chúng mê hoặc, lường gạt những kẻ không hiểu biết, khiến cho họ khủng hoảng đến thất tâm. Chúng đi đến nơi nào thì nơi ấy đều bị hao tổn."
Việt: "Ta dạy các Tỳ-khưu khất thực tuần tự theo phương hướng nhằm khiến họ xả bỏ lòng tham để thành Ðạo Bồ-đề. Các thầy Tỳ-khưu khỏi tự lo sự nấu ăn, chỉ gởi tạm cái thân sống thừa nơi Tam-giới. Đó biểu thị họ là những bậc ‘nhất vãng hoàn,’ đi rồi thì không trở lại nữa."
Việt: "Cớ sao bọn trộm cắp kia giả mặc y phục của Ta, mua bán Như-Lai, tạo ra vô số nghiệp mà lại nói đó đều là Phật Pháp? Chúng phỉ báng người xuất gia và xem các thầy Tỳ-khưu đã thọ Cụ-túc Giới là hàng Tiểu-thừa. Do sự nghi ngờ và ngộ nhận mà vô lượng chúng sanh phải đọa địa ngục Vô-gián."
Việt: "Sau khi Ta diệt độ, nếu có những thầy Tỳ-khưu nào phát tâm quyết định tu pháp Tam-ma-đề, và có thể đối trước tượng Như-Lai mà thắp một ngọn đèn nơi thân, hoặc đốt một lóng ngón tay, hoặc nhen cháy một viên hương trên thân thể, thì Ta nói những người ấy, bao nhiêu nợ nần từ vô thủy đến nay đều trả xong trong một lúc, xa lìa hẳn cõi thế gian và vĩnh viễn thoát khỏi các lậu, tuy tức thời chưa hiểu rõ con đường Vô-thượng Giác, mà cái tâm của họ đối với Pháp đã quyết định rồi."
Việt: "Nếu không tạo cái nhân xả thân như vậy, thì dầu có tu thành Vô-vi, cũng phải trở lại sanh làm người mà đền trả nợ cũ, giống như Ta phải ăn lúa ngựa vậy."
Việt: "Vậy, ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, tiếp đến là phải dứt trừ trộm cắp. Ðó là lời minh huấn quyết định thứ ba về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước."
Việt: "Cho nên, A-Nan, kẻ tu Thiền-định mà nếu chẳng dứt trừ trộm cắp, thì cũng như người rót nước vào chén lủng mà muốn cho đầy, dầu có trải đến trần kiếp cũng không thể nào đầy được!"
Việt: "Nếu các thầy Tỳ-khưu, ngoài y bát ra không còn cất giấu phân tấc gì cả; phần khất thực có dư thì bố thí cho các chúng sanh đói khát; khi ở giữa đại-hội thì chắp tay lễ chúng; nếu bị người chửi mắng thì xem như sự khen ngợi; có thể khiến cho thân và tâm, cả hai đều xả bỏ, thân thịt xương máu chung cùng với chúng sanh; chẳng đem cái thuyết 'bất liễu nghĩa' của Như-Lai trở lại làm cái giải thích riêng của mình khiến cho kẻ sơ-học hiểu lầm; thì Phật ấn chứng những người ấy sẽ đắc chân chánh Tam-muội."
Việt: "Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy tức là lời của Ma Ba-Tuần."
- Đoạn Vọng ngữ - Không nói dối
Việt: "A-Nan! Chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới tuy thân và tâm không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, ba hạnh ấy đã viên mãn nhưng nếu còn đại-vọng-ngữ thì phần Tam-ma-địa chẳng được thanh tịnh, trở thành ma ái-kiến, làm mất chủng tử Như-Lai."
Việt: “Họ chưa đắc mà nói đắc, chưa chứng mà nói chứng, hoặc cầu mong được làm bậc tôn-thắng, đệ nhất ở thế gian; họ đối trước mặt người khác mà nói rằng: ‘Tôi nay đã đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, Bích-chi Phật thừa, hoặc các quả vị của chư Bồ-tát Thập-địa và Ðịa-tiền’; để tham cầu sự lễ sám và đồ vật cúng dường của kẻ khác."
Việt: "Hạng Nhất-điên-ca này làm tiêu diệt Phật-chủng thì cũng như người lấy dao chặt cây Ða-la vậy. Phật nói những người ấy đã vĩnh viễn chặt đứt thiện căn, không còn tri-kiến nữa, phải trầm luân trong biển Tam-khổ, không thành tựu Tam-muội được."
Việt: "Ta có sắc lệnh cho các Bồ-tát và A-la-hán rằng sau khi Ta diệt độ, hãy ứng thân sanh vào thời Mạt Pháp, thị hiện vô số hình tướng để độ những kẻ còn trong vòng luân chuyển."
Việt: "Hoặc làm thầy Sa-môn, người bạch-y cư-sĩ, nhân vương, tể quan, đồng nam, đồng nữ, như vậy cho đến làm dâm nữ, quả phụ, kẻ gian, kẻ cắp, đồ tể, kẻ buôn hàng lậu, rồi đồng sự với những hạng người đó để xưng tán Phật-thừa, khiến cho thân tâm họ đều nhập Tam-ma-địa."
Việt: "Nhưng không khi nào tự xưng: 'Tôi thật là bậc Bồ-tát, thật là bậc A-la-hán,' tiết lộ mật nhân của Phật, khinh ngôn với kẻ vị-học, chỉ trừ lúc mạng chung có di chúc âm thầm cho biết mà thôi. Thế sao hạng người kia lại mê hoặc chúng sanh mà tạo thành đại-vọng-ngữ như vậy?”
Việt : "Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, sau nữa là phải đoạn trừ các thứ đại vọng-ngữ. Ðó là lời mình huấn quyết định thứ tư về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước."
Việt : "Vậy nên A-Nan, nếu chẳng dứt trừ đại vọng-ngữ thì cũng như chạm phẩn người làm hình chiên-đàn, cầu cho có hương thơm, đó là điều không thể có được!"
Việt : "Ta dạy chúng Tỳ-khưu lấy tâm ngay thẳng làm đạo tràng, đối với bốn oai nghi và tất cả các hạnh còn không được giả dối, thì sao lại tự xưng là đã đắc Thượng-nhân Pháp?"
Việt: "Ví như kẻ cùng-đinh mạo xưng đế-vương mà tự chuốc lấy tội tru diệt ; huống hồ là danh vị Pháp-vương, sao dám trộm lấy? Nhân địa đã chẳng chân thật tất phải chiêu cảm cái quả báo cong vạy, dầu muốn cầu đạo Bồ-đề của Phật thì cũng như người tự cắn rốn, há có ai thành tựu?"
Việt: "Nếu tâm của các Tỳ-khưu thẳng như dây đờn, tất cả đều chân thật, có thể nhập Tam-ma-địa, vĩnh viễn không gặp các ma sự, thì Ta ấn chứng những người ấy sẽ thành tựu được Bồ-tát Vô thượng Tri giác."
Việt: "Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần."
Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng
II- TỰ QUY Y - NGÀI A NAN HỎI ĐỨC PHẬT RẤT CHI TIẾT
14. PHẨM HỎI VỀ THỤ BA TỰ QUI (Tham khảo với người tu tại gia, chủ yếu áp dụng với người xuất gia)
Hỏi: Người nào được phép thụ và không được thụ ba tự qui?
Đáp: Trừ người phạm tội ngũ nghịch[16], còn tất cả đều được thụ.
Hỏi: Thụ ba tự qui thì nên làm những việc gì?
Đáp: Thân, miệng, ý không làm việc sai quấy và không theo học nhưng vị thầy có kiến chấp sai lầm.
Chú giải: Thân không giết hại, trộm cướp, dâm dục; miệng không nói dối, nói lời hoa mĩ, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thô ác; ý không tham lam, sân hận, si mê. Ba nghiệp thanh tịnh như vậy tức là chính kiến, nên nói không làm việc sai quấy, cũng không theo những vị thầy có ba nghiệp bất tịnh, bất chính. Người nào sau khi thụ tam qui y sẽ tu theo các hạnh này. Vì sao? Vì qui y Tam bảo tức là được thể của năm giới vậy.
Hỏi: Như thế nào là phạm ba tự qui?
Đáp: Thích tà kiến và theo các sư ngoại đạo.
Chú giải: Ở trên đã nói mười nghiệp ác: Thân có ba, miệng có bốn và ý có ba. Lại có thân kiến, biên kiến cho đến sáu mươi hai kiến. Các thứ chấp sai lầm không tương ưng với Phật pháp đều gọi là ngoại đạo tà kiến. Nếu ai thích làm, hoặc hùa theo tức là phạm ba tự qui, đọa lạc chỉ ở ngay đây. Nếu kẻ ấy có thể bỏ tà về chính mới được gọi là không phạm. Nên cẩn thận việc này.
Hỏi: Nếu phạm ba tự qui thì sám hối như thế nào?
Đáp: Đến bổn sư mà sám hối. Nếu không có bổn sư thì đến một vị tì-kheo khác cũng được.
Hỏi: Nếu không thể giữ, thì được phép xả không?
Đáp: Được.
Hỏi: Nếu xả thì xả như thế nào?
Đáp: Đến bổn sư hoặc một vị tì-kheo thưa: “Con từ hôm nay trở về sau không thể nương tựa Phật, pháp và tì-kheo tăng”. Nói ba lần như thế thì xả ba tự qui. Nếu nói không đủ ba lần thì ba tự qui vẫn còn.
Hỏi: Người thụ ba tự qui là đã sám hối tội thập ác[17], ngũ nghịch quá khứ. Điều này hợp lí không?
Đáp: Không hợp lí!
Chú giải: Vì sao? Đoạn văn trên nói kẻ phạm tội ngũ nghịch còn không được thụ ba tự qui. Vậy nay người thụ ba tự qui thì đâu có thể sám hối được tội ngũ nghịch kiếp trước! Dù cho đã tạo từ trăm nghìn kiếp trước thì nay nghiệp ấy cũng chưa mất, cho nên nói là không hợp lí. Có thuyết nói: “Người qui y Tam bảo tin chắc là nhờ oai lực đó mà tất cả các nghiệp đều tiêu, giống như mặt trời mọc thì tuyết tiêu tan, không cần đợi sám hối. Như người phạm tội với quan, sau đó đến chỗ vua, nhờ oai lực của vua nên dẫu có tội nặng, cũng được miễn”. Thật không có lí này, làm sao mà tiêu hết được? Nhưng trong kinh này nói chính vì người mới thụ ba tự qui, chỉ nương vào mười phương Tam bảo mà được thụ năm giới, vì còn thuộc về các sự tướng nhỏ nên mới như vậy. Nếu thể hội được nhất thể Tam bảo, hiểu sâu thật tướng, liễu ngộ tội tính vốn không, sám hối mà không thấy chỗ sám hối, thì người ấy không có điều ác nào không trừ, không có tội nào mà không diệt. Vì thế nói các tội như sương mai, mặt trời trí tuệ có thể tiêu trừ. Nếu người muốn sám hối, thì ngồi ngay thẳng, quán thật tướng các pháp, thì có thời gian nào mà nói việc này. Nếu không được như vậy, thì cũng là chưa được mà nói là được, vẫn là không được. Cần phải suy nghĩ việc này.
Hỏi: Thụ ba tự qui, chỉ được thụ từ một vị thầy; nhưng có thể từ ba vị, mỗi một vị thụ một tự qui không?
Đáp: Không được!
Chú giải: Vì thể Tam bảo chỉ có một. Nghĩa là về danh xưng thì gọi là Tam bảo, nhưng thể vốn nhất như. Dù là mười phương Tam bảo, thì thể vẫn đồng nhất. Do đó chỉ có thể từ một thầy thụ mới được. Nếu từ ba thầy thì tợ như thành hư nát, nên nói không được; không giống với ngũ giới, mỗi giới thụ từ một thầy cũng được.
Hỏi: Thụ pháp ba tự qui cần phải giữ suốt đời, nhưng do không thể giữ lâu, nên cho phép giữ một năm, nửa năm, mười ngày hay năm ngày rồi xả được không?
Đáp: Tùy ý giữ lâu hay mau cũng được.
Chú giải: Ba tự qui cũng nên suốt đời thụ cho đến vị lai… như trên đã nói, mới là đúng lí. Nhưng ở đây nói tùy ý, cũng là đức Như Lai từ bi thương xót chúng sinh, chắc chắn muốn cho họ giữ gìn lâu dài, nhưng sợ căn cơ của chúng cạn hẹp, sợ phiền phức, không chịu thụ. Do đó, Phật dùng phương tiện tùy theo căn cơ, khiến họ dần dần thể nhập cảnh giới tốt đẹp mà gieo nhân nên mới nói như vậy. Người trí cũng chớ do việc này mà tự lười biếng.
Hỏi: Nếu theo thầy thụ ba tự qui một năm hoặc nửa năm, sau khi hết thời gian đó, vị ấy vẫn là thầy chăng?
Đáp: Một khi theo thầy thụ pháp thì suốt đời làm thầy.
Hỏi: Ba tự qui, được phép chỉ thụ một hoặc hai tự qui được không?
Đáp: Không được.
Chú giải: Tam bảo chỉ một thể, theo lí không thể phân chia, thụ thì đồng thụ, xả thì đồng xả. Nếu thụ một hoặc hai tự qui, cũng đồng với việc phân chia pháp thân, nên không được. Không giống như ngũ giới, tùy ý thụ một hoặc hai.
Hỏi: Muốn thụ ba tự qui, nhưng hiện tại không có thầy truyền thụ. Vậy người ấy có được phép đối trước Phật, căn cứ theo văn giới mà thụ không?
Đáp: Không được.
Chú giải: Nếu muốn thụ giới Bồ-tát, trong khoảng một nghìn dặm mà không thể tìm thầy truyền giới, được phép đứng trước tượng Phật tự phát thệ mà thụ giới. Nhưng ba tự qui, năm giới, cho đến giới tì-kheo đều không được. Vì sao? Nếu từ mé Phật Oai Âm Vương trở về trước mà không có thầy truyền giới thì được; nhưng từ mé Phật Oai Âm Vương trở về sau, nếu không có thầy truyền trao mà tự thụ là ngoại đạo.
Hỏi: Trước đó đã thụ tam tự qui, phạm tội mà không sám hối, được thụ lại không?
Đáp: Không được! Cần phải sám hối. Nếu muốn thụ lại thì phải xả giới đã thụ, còn không xả mà thụ lại thì không được.
* ... Nghe Đức Phật giảng Kinh xong: Bấy giờ, Mục-kiền-liên từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Con rất vui mừng khi được nghe Như Lai dạy Tì-ni. Nhưng sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể thụ trì Tì-ni này?
Phật bảo Mục-kiền-liên:
- Người nào học tập và tư duy Tì-ni, nên biết người đó có thể tu tập và thụ trì Tì-ni này.
Phật lại bảo:
- Sau khi Ta diệt độ, nếu có tì-kheo, tì-kheo ni nào phỉ báng người thụ trì Tì-ni này, thì kẻ đó là bạn của ma, chẳng phải là đệ tử của Ta. Bọn người này đời đời học đạo không thành, không thể vượt khỏi ba cõi. Nay Ta thương xót các chúng sinh đó mà nói kinh này.
Nghe Đức Phật nói xong, Mục-kiền-liên vô cùng vui mừng và cung kính hành trì. (Nguồn: Kinh Ngũ Bách Vấn)
+ Quy Y cần tìm người thầy tốt: HT Tuyên Hóa giảng
+ Xem thêm về Tam Quy: HT Thích Thanh Từ Khai Thị
+ Tam quy - Quy y Tam bảo: Quy y Phật - Quy y Pháp - Quy y Tăng
Ngài Ưu Ba Ly hỏi: -Tam Quy lấy gì làm tính?
Phật trả lời: -Tam Quy lấy chỗ người khác dạy làm tính, hoặc không theo người dạy làm tính.
Nghĩa là: Khi thụ Tam Quy, quì gối, chắp tay, miệng theo người xướng, mà đọc Tam Quy, thế là cả thân, khẩu đều theo người dạy, bởi vậy gọi là lấy chỗ người dạy làm tính.
Nếu dốc lòng chí kính, tự mình xướng hiệu Tam Quy, không theo người khác, thế gọi là lấy chỗ không theo người khác làm tính.
Lại nữa, Tam Quy lấy thân, khẩu, ý, tức tam nghiệp, làm tính.
Hoặc Tam Quy là Ngũ âm thiện; lấy ngũ âm thiện của chúng sinh là Tam Quy, lấy Tam Bảo làm chỗ sở quy, sở quy là nói theo nghĩa cứu hộ.
Ví như người có tội đối với nhà Vua, chạy sang nước khác để cầu cứu.
Vua nước ấy nói: “Nếu nhà ngươi muốn được che chở, thì không được ra khỏi nước ta, và không được trái lệnh ta.” Chúng sinh cũng như vậy, vốn thuộc dòng ma, có tội sinh tử, quay về Tam Bảo để cầu sự cứu hộ.
Nếu thành tâm tin tưởng nơi Tam Bảo, không tin chỗ khác, không trái lời Phật dạy, thì Ma Vương tà ác chẳng làm gì được. Mời xem nội dung chi tiết trong Kinh hướng dẫn về Tam Bảo và Quy y rất dài và thiết thực ..... (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Ý nghĩa thật của Quy Y Tam Bảo: ... Thứ hai: “thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”. Tiểu thừa đặc biệt coi trọng giữ quy cũ. Thọ là tiếp nhận, trì là giữ gìn, sau khi tiếp nhận rồi quý vị ngày ngày phải làm, đó gọi là trì. Quý vị không làm thì đó không gọi là trì.
Tam quy là gì? Quý vị bước vào cửa Phật, Phật trước tiên đem tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc của tu hành bảo với quý vị. Đây là gì? Đây là phương hướng của quý vị, là con đường của quý vị, là quỹ đạo của quý vị, quý vị không thể vượt qua, thì quý vị mới có thể đạt được mục đích. Mục đích là thành Phật, ba điều của tam quy mọi người đều hiểu rõ, quy y Phật, quy y Pháp, quy y tăng. Biết đọc, nhưng ý nghĩa là gì thì không biết. Không những người thời nay không biết, đại khái thời nhà Đường, người thời đó cũng đã không biết rồi.....
... Triều Đường thời đó Phật pháp vào Trung Quốc đã 700 năm. 700 năm là thời gian tương đối dài, cho nên Phật pháp theo thời gian càng truyền càng sai. Truyền đến cuối cùng truyền sai, mọi người mang ý nghĩa hoàn toàn hiểu sai. Quy y Phật là gì? Tượng Phật của đất nặn cây tạc cho rằng đó chính là Phật. Quy y pháp? Pháp là kinh điển. Quy y tăng? Tăng là người xuất gia, kỳ thực đều sai hết. Người xưa nói “Bồ Tát đất qua sông, tự mình khó giữ”, nó làm sao có thể bảo hộ quý vị? Cho nên tượng Phật, kinh sách, người xuất gia là hình tướng. Quý vị nên hiều được trong cái hình tướng này tượng trưng cho hàm ý gì, quý vị mới có thể thật sự học được. ... Phật là Giác ngộ - Mê là Phàm phu => Quy Y Giác mới đúng thật; Pháp là Chánh chi cánh kiến, là chân lý - Không do con người làm ra = Là đạo tự nhiên. Đạo đời thì phân biệt Chánh nghĩa - Tà kiến, mê tín; Quy Y Tăng - Là Tăng đoàn thanh tịnh/ Tăng là thanh tịnh, hiện giờ không có vì luôn có phân biệt/ Thành kiến và chấp trước => Tăng là Thanh tịnh không nhiễm phiền lão, tập khí tự tư tự lợi ... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng tại: http://bit.ly/tinhdodaikinh-tap425)
+ Tin Phật - Quy y: Một người muốn tin Phật tất phải quy y Tam Bảo trước. Trong Phật Pháp Tăng có thể sinh ra vô lượng công đức và phát huy vô lượng diệu dụng, công đức và diệu dụng ấy là vô cùng vô tận, vô biên, vô tế, lấy không cùng tận, sài không cạn kiệt....
+ Năm bước tiến sau Quy Y Tam Bảo: 1- Phiên tà Tam quy tức là bước đầu học Phật; 2- Ngũ giới Tam quy tức là sau khi tin Phật rồi phải thọ ngũ giới.; 3- Bát giới Tam quy tức là trong những ngày trai giới thọ trì Bát quan trai; 4- Thập giới Tam quy tức là thọ trì Sa di Sa di ni giới.; 5- Cụ túc giới Tam quy tức là Tỳ kheo, tỳ kheo ni đại giới.
+ Quy Y Tam Bảo - HT Tuyên Hóa:
- Việc lớn nhất trên đời là quy y Tam Bảo, cho nên cần phải cẩn trọng, không được coi thường hay bốc đồng mà làm. Trước tiên phải chọn một vị minh sư đức độ để quy y. Như vậy có điều gì không thông suốt thì được vị Thiện-tri-thức ấy khai thị và hướng dẫn cho, hầu ngộ nhập Phật tri kiến, chứ đừng nghe theo ngoại đạo tà thuyết.
Không phải chỉ có bây giờ mới xuất hiện những pháp sư tà đạo, mà chính lúc Phật còn tại thế cũng đầy dẫy. Lúc bấy giờ có đến 96 ngoại đạo và 72 bàng môn, còn bành trướng mạnh mẽ hơn cả Chánh-pháp. Dân chúng cả tin vì không am hiểu chân lý. Các thứ tà đạo ấy thật tai hại vì có thể dẫn dắt chúng ta đi lạc đường. Ban đầu thì cầu mong được ít nhiều lợi ích, nhưng đã lạc đường rồi thì chỉ bị thiệt thòi thôi. Thật là nguy hiểm!
Nếu quý vị muốn quy y Tam Bảo, đạt được chánh pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết-bàn, hãy tìm cầu Thiện-tri-thức. Tuy nhiên trong số các vị xuất gia vẫn lẫn lộn thật và giả, không phải tất cả đều như nhau. Nếu lầm lỡ mà theo ngoại đạo thì gặp tai hại lớn, nhưng cả tin nơi tà thuyết của pháp sư lại càng tai hại hơn nữa.
Khi quý vị quy y với tôi, hãy suy nghĩ cho kỹ và nhận rõ con đường mình muốn tiến tới.
Trước chư Phật, mỗi người hãy phát lộ thành tâm sám hối tất cả tội lỗi trong quá khứ. Ðược vậy tội lỗi sẽ được tiêu trừ, thiện căn sẽ tăng trưởng. Nếu không thành tâm, tội nghiệp vẫn còn nguyên, thiện căn khó nẩy mầm. Tất cả đều tùy thuộc ở lòng thành và quyết tâm, tránh vọng tưởng tà niệm. Khi quy y Tam Bảo, quý vị phải thành tâm, bằng không sẽ không được cảm ứng.
- Những ai đã quy y trước đây rồi thì đừng quy y nữa. ... Tôi thật chưa đủ công đức để có thể thâu nhận những ai mới quy y Tam Bảo lần đầu tiên làm đệ tử, huống chi là những người đã quy y trước đây rồi. Tuy nhiên, người nào đã được vị bổn sư của họ cho phép, hoặc bổn sư đã viên tịch, hoặc bị biệt tích, hoặc đã hoàn tục thì tôi sẽ thâu nhận. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị Quy Y Tam Bảo)
- Pháp Quy Y Là Phải Chọn Đúng Thầy: Câu Hỏi 51: Có rất nhiều người cảm thấy nghi ngờ về việc pháp sư Thanh Hải thâu nhận rất nhiều đệ tử. Hy vọng nhờ pháp hội này mà chúng con sẽ hiểu rõ hơn và không đi lạc hướng.
Đáp: Lúc quý vị quy y Tam Bảo, trong bài văn quy y có nói rất rõ là: “Thà xả thân mạng chớ không quy y thiên ma ngoại đạo.” Những gì vị Pháp sư đó nói đều là tà thuyết của tà ma ngoại đạo, đều là gạt người. Nếu như các vị tin theo, tức là ngu xuẩn nhất, vô tri nhất, và đều muốn lủi vào địa ngục đấy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Quy Y cần tìm người thầy tốt: HT Tuyên Hóa giảng
+ Xem thêm về Tam Quy: HT Thích Thanh Từ Khai Thị
+ Pháp Sám hối vô tướng của Lục Tổ Huệ Năng
Trước ta truyền năm phần Chơn hương của Pháp thân trong Bổn tánh mình, kế ta truyền pháp Sám hối không tướng.
Sư nói rằng: "Một là giới hương, nghĩa là tâm mình không tưởng điều quấy, không toan việc dữ, không sanh ghen ghét, không sanh tham lam giận hờn, không mong cướp của hại người. Ấy gọi là Giới hương.
Hai là Định hương, nghĩa là thấy các cảnh tướng lành dữ mà tâm mình chẳng tán loạn. Ấy gọi là Định hương.
Ba là Huệ hương, nghĩa là tâm mình không bị ngăn lấp, mình lấy trí huệ mà quán chiếu tánh mình và chẳng tạo các điều dữ. Tuy mình tu các hạnh lành mà tâm không chấp trước, thường kính người trên tưởng kẻ dưới, hay xót thương những kẻ côi cút nghèo nàn. Ấy gọi là Huệ hương.
Bốn là Giải thoát hương, nghĩa là tâm không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, thông thả suốt thông (tự tại vô ngại). Ấy gọi là Giải thoát hương.
Năm là Giải thoát tri kiến hương, nghĩa là tâm mình tuy đã không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, nhưng chẳng nên "trầm không thủ tịch." Phải học rộng nghe nhiều, phải biết Bổn tâm mình, phải rõ thông đạo lý của chư Phật, phải xen lẫn trong thế gian mà cứu nhơn lợi vật (hòa quang tiếp vật), không phải nhơn ngã, mà thẳng đến Bồ đề – cái Chơn tánh không thay đổi. Ấy gọi là Giải thoát tri kiến hương.
Chư Thiện tri thức! Chơn hương nầy, mỗi phần tự có cái chất xông thơm ở bên trong, đừng tìm kiếm bên ngoài.
Chư Thiện tri thức! Hãy đồng xướng lên một lượt và nói theo ta.
Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ngu mê. Các tội do nghiệp ác ngu mê đã tạo ra từ trước thảy đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ngạo dối. Các tội do nghiệp ác ngạo dối đã tạo ra từ trước thảy đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ghen ghét. Các tội do nghiệp ác ghen ghét đã tạo ra từ trước đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
Chư Thiện tri thức! nhẫn lên là pháp Sám hối không tướng
Quý vị Thiện tri thức! Những điều tôi nói ở trên chính là pháp môn Vô tướng sám hối.
Sao gọi là Sám? Sao gọi là Hối?
Sám nghĩa là ăn năn các tội trước của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét, đã tạo ra từ trước, tất cả đều ăn năn, hằng chẳng gây lại nữa. Ấy gọi là Sám.
Hối nghĩa là ăn năn các lỗi sau của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét tạo ra, nay đã giác ngộ rồi, tất cả đều dứt bỏ đời đời, ngày sau chẳng gây ra nữa. Ấy gọi là Hối. Cho nên kêu là Sám hối.
Các người phàm phu ngu muội chỉ biết ăn năn tội trước của mình, mà chẳng biết ăn năn lỗi sau. Bởi chẳng ăn năn, nên tội trước chẳng dứt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại sanh, thì sao gọi là Sám hối được?
Chư Thiện tri thức! Đã sám hối rồi, bây giờ ta cho các ngươi lập Bốn điều thề nguyền lớn (tứ hoằng thệ nguyện). Mỗi người phải dùng tâm chơn chánh mà nghe ta dạy:
Cả thảy chúng sanh không giới hạn trong tâm mình đều thề nguyền hóa độ.
Cả thảy các điều phiền não chẳng xiết kể trong tâm mình đều thề dứt bỏ.
Cả thảy các pháp môn kể trong tánh mình đều thề nguyện học cả.
Đạo Phật cao hơn hết trong tánh mình thề nguyền tu đến thành công.
Chư Thiện tri thức! Cả thảy chúng ngươi há chẳng nói: "Cả thảy chúng sanh không giới hạn, mà tự mình đều thề nguyền hóa độ, thế thì chẳng phải Sư Huệ Năng độ!"
Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu pháp không hai: Pháp Ngồi thiền đúng - Pháp Tu thiền định đúng Như Pháp thọ trì
Thiền, không nhất định giới hạn nơi im lặng tịnh tọa, mà là đi đứng nằm ngồi đều là thiền, cho nên nói "đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói im động tĩnh thể an nhiên." Người biết dụng công, không chỉ giới hạn nơi tịnh tọa mới dụng công, mà bất cứ lúc nào, ở đâu cũng đều có thể dụng công.
Đại sư (Lục Tổ Huệ Lăng) bảo đại chúng rằng: "Pháp môn tọa thiền nầy nguyên là chẳng chấp trước tâm, cũng chẳng chấp trước tịnh, cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói chấp tâm thì tâm nguyên là giả. Biết rằng cái tâm như là huyễn, cho nên không có chỗ nào mà chấp được. Bằng nói chấp tịnh, thì tánh người vốn tịnh. Chỉ bởi vọng niệm nên thể Chơn như mới bị lấp che. Nếu không có vọng tưởng, thì tánh tự nhiên thanh tịnh. Khởi tâm chấp tịnh, thì sanh ra cái vọng về chỗ tịnh. Cái vọng không có chỗ nơi, chấp ấy là vọng. Cái tịnh không có hình tướng, bởi lập ra tướng tịnh mới gọi là công phu. Sự thấy hiểu ấy làm ngăn trở Bổn tánh của mình, và cái tịnh trở lại trói buộc mình vậy.......
Thiền định và giải thoát là pháp nhị nguyên sinh diệt, là pháp hai.....
Chư Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã Ba la mật là tiếng Phạn, có nghĩa là đại trí huệ đáo bỉ ngạn. Ấy là do nơi tâm làm, chớ chẳng phải do nơi miệng niệm. Miệng niệm và tâm làm theo, thì tâm và miệng hiệp nhau. Bổn tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.
Sao gọi là Ma ha? Ma ha nghĩa là lớn, tâm lượng rộng lớn cũng như hư không, không có bờ mé, cũng chẳng phải vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không trên dưới dài ngắn, cũng không giận không mừng, không phải không quấy, không lành không dữ, không có đầu đuôi. Các cõi Phật thảy đều như hư không. Cái diệu tánh của người thế gian vốn là trống không, chẳng có một pháp gì trong đó mà tìm đặng. Cái tự tánh Chơn không cũng giống như thế.
Chư Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói "không" mà liền chấp "không." Nếu để tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là chấp cái "vô ký không."
Chư Thiện tri thức! Thế giới tuy là trống không, mà có thể bao hàm muôn vật. Tất cả các sắc tượng: mặt nhật, mặt nguyệt, tinh, tú, núi, sông, đất bằng, nguồn, suối, khe, rãnh, cỏ, cây, rừng, bụi, kẻ dữ, người lành, việc dữ, việc lành, thiên đàng, địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, nhất thiết đều ở trong cái "không." Cái tánh trống không của người thế gian cũng giống như thế.
Chư Thiện tri thức! Tự tánh có thể bao hàm hết muôn pháp, ấy gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tự tánh mỗi người. Nếu thấy cả thảy các điều dữ cùng các điều lành của người, mà chẳng chấp chẳng bỏ, cũng không nhiễm vương, không dính níu, lòng như hư không, ấy gọi là lớn, cho nên gọi là Ma ha.
Chư Thiện tri thức! Kẻ mê miệng nói, người trí lòng làm. Lại có người mê để lòng trống không, ngồi yên lặng chẳng nghĩ đến việc gì mà nói chính đây là "lớn." Với hạng người ấy, không thể nói gì được, vì họ bị sa vào lưới tà kiến.
Chư Thiện tri thức! Cái tâm lượng thiệt là rộng lớn, châu biến cả thảy Pháp giới, dùng nó liền hiểu rõ ràng. Cái tâm lượng khi ứng dụng ra, thì biết hết thảy cả sự vật. Cả thảy tức quy về một, một tức gồm hết cả thảy, tới lui thong thả, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhã vậy.
(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tâm động tĩnh đúng như Pháp
Đại sư bảo đại chúng rằng: "Pháp môn tọa thiền nầy nguyên là chẳng chấp trước tâm, cũng chẳng chấp trước tịnh, cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói chấp tâm thì tâm nguyên là giả. Biết rằng cái tâm như là huyễn, cho nên không có chỗ nào mà chấp được. Bằng nói chấp tịnh, thì tánh người vốn tịnh. Chỉ bởi vọng niệm nên thể Chơn như mới bị lấp che. Nếu không có vọng tưởng, thì tánh tự nhiên thanh tịnh. Khởi tâm chấp tịnh, thì sanh ra cái vọng về chỗ tịnh. Cái vọng không có chỗ nơi, chấp ấy là vọng. Cái tịnh không có hình tướng, bởi lập ra tướng tịnh mới gọi là công phu. Sự thấy hiểu ấy làm ngăn trở Bổn tánh của mình, và cái tịnh trở lại trói buộc mình vậy.
Giảng:
Đại sư khai thị đại chúng:
Tọa thiền vốn không chấp nơi tâm, cũng không chấp thanh tịnh. Tại sao vậy? Nếu chấp tâm, thì có hai cái tâm. Nếu chấp tịnh, thì có hai cái tịnh. Cũng không nói tôi ngồi hoài không động. Nếu các ông chấp nơi tâm, thì có hai cái tâm, đó thành ra vọng tâm, cần phải biết tâm vốn huyễn hóa không thực, không phải chân tâm, cho nên các ông không nên chấp vào nó.
Tự tánh của người vốn thanh tịnh, vốn đã là thanh tịnh, thì tại sao các ông lại phải chấp vào tịnh? Nếu chấp vào tịnh, thì có hai loại thanh tịnh, tức có chân có vọng. Vì có vọng niệm, cho nên Chân như bị vọng niệm che đậy. Nếu các ông không có vọng tưởng thì trở về diện mục bổn lai thanh tịnh. Nếu các ông sanh tâm chấp vào cảnh, trên bổn lai thanh tịnh mà làm việc "đầu thượng an đầu," lại sanh một cái tịnh, đó chính là cái vọng, không phải là bổn thể thanh tịnh. Nhưng cái vọng này vốn không có một chỗ nào, nếu ông chấp vào vọng hoặc tịnh đó là điều sai lầm. Đó chính là đầu thượng an đầu, gắn thêm cái đầu trên đầu nữa.
Sao gọi là thanh tịnh? Thanh tịnh vốn không hình không tướng, mà các ông lại lập ra một cái hình tướng thanh tịnh, quán tịnh và chấp vào tịnh, nói đây là công phu. Có kiến giải như thế, liền chướng ngại bản tánh của mình, mà bị tịnh trói buộc. Vì các ông đã chấp vào tịnh, đây cũng là một loại chấp trước.
Chư Thiện tri thức! Tu hành mà chẳng vọng động, nghĩa là lúc thấy cả thảy mọi người mà chẳng thấy các điều phải quấy lành dữ, tội lỗi của người, tức là tánh mình chẳng động.
Chư Thiện tri thức! Người mê muội, thân tuy chẳng động, mà khi mở miệng ra, thì nói chỗ phải quấy, hay dở, tốt xấu của người, vì thế mà trái nghịch với Đạo. Bằng chấp tâm chấp tịnh, tức là làm ngăn lấp cái Đạo vậy.
Giảng:
Quý vị tu bất động à? Vậy cái gì bất động? Bất động không phải là bảo quý vị ngồi đó không động, mà ở trong động tu bất động, ở trong những việc xảy ra thường ngày mà tâm không động. Lúc nhìn thấy mọi người, không thấy cái tốt cái xấu, cái đúng cái sai của người, không phân biệt thiện ác của người, không tìm lỗi lầm của người, đó mới là tự tánh chân chánh bất động.
Người mê tuy thân không động, nhưng vừa mở miệng là tùy tiện nói cái đúng cái sai, cái hay cái dở, cái tốt cái xấu của người, hành vi này trái ngược với đạo. Quý vị vẫn còn chấp tâm chấp tịnh, đó chính là pháp chướng ngại.......
Chư Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói "không" mà liền chấp "không." Nếu để tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là chấp cái "vô ký không."
Chư Thiện tri thức! Thế giới tuy là trống không, mà có thể bao hàm muôn vật. Tất cả các sắc tượng: mặt nhật, mặt nguyệt, tinh, tú, núi, sông, đất bằng, nguồn, suối, khe, rãnh, cỏ, cây, rừng, bụi, kẻ dữ, người lành, việc dữ, việc lành, thiên đàng, địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, nhất thiết đều ở trong cái "không." Cái tánh trống không của người thế gian cũng giống như thế.
Chư Thiện tri thức! Tự tánh có thể bao hàm hết muôn pháp, ấy gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tự tánh mỗi người. Nếu thấy cả thảy các điều dữ cùng các điều lành của người, mà chẳng chấp chẳng bỏ, cũng không nhiễm vương, không dính níu, lòng như hư không, ấy gọi là lớn, cho nên gọi là Ma ha.
Chư Thiện tri thức! Kẻ mê miệng nói, người trí lòng làm. Lại có người mê để lòng trống không, ngồi yên lặng chẳng nghĩ đến việc gì mà nói chính đây là "lớn." Với hạng người ấy, không thể nói gì được, vì họ bị sa vào lưới tà kiến.
Chư Thiện tri thức! Cái tâm lượng thiệt là rộng lớn, châu biến cả thảy Pháp giới, dùng nó liền hiểu rõ ràng. Cái tâm lượng khi ứng dụng ra, thì biết hết thảy cả sự vật. Cả thảy tức quy về một, một tức gồm hết cả thảy, tới lui thong thả, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhã vậy.
(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tâm động tĩnh không hai - Pháp môn không hai:
...... Một ngày kia, ta (Là đức Lục Tổ Huệ Lăng, tổ thứ sáu của Thiền Tông, đang ẩn dật để giữ an thân, tránh bị truy giết) suy nghĩ đã đến thời kỳ phải hoằng pháp, chẳng nên ẩn trốn mãi. Ta bèn đi tới chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu, gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Lúc ấy có luồng gió thổi lay động lá phướng. Một thầy nói gió động, một thầy khác nói phướng động, hai đàng nghị luận hoài chẳng dứt.
Huệ Năng nầy bước tới nói rằng: "Chẳng phải gió động, cũng không phải phướng động, ấy là tâm của nhơn giả động."
Chúng nhơn nghe nói đều kinh hãi. Ấn Tông liền mời ta ngồi chỗ trên hết, và cầu hỏi những nghĩa lý huyền áo.
Thấy Huệ Năng nầy trả lời, ngôn ngữ giản dị, nghĩa lý thích đáng, mà chẳng do văn tự, Ấn Tông nói rằng: "Hành giả hẳn chẳng phải là người thường. Đã lâu tôi có nghe nói y pháp của Hoàøng Mai Ngũ Tổ đã về phương Nam, có phải là hành giả chăng?"
Huệ Năng nầy nói: "Tôi đâu dám!"
Nhơn đó, Ấn Tông đảnh lễ, xin ta trao y bát đặng cho đại chúng xem
Ấn Tông lại hỏi: "Đức Hoàng Mai khi phó chúc, Ngài truyền thọ như thế nào?"
Huệ Năng nầy nói: "Ngài không có truyền thọ chi, chỉ luận về kiến tánh. Ngài chẳng luận pháp thiền định và giải thoát."
Ấn Tông hỏi: "Sao chẳng luận thiền định và giải thoát?"
Huệ Năng bảo: "Vì thiền định và giải thoát là pháp nhị nguyên, chẳng phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp chẳng hai (bất nhị)."
Ấn Tông lại hỏi: "Thế nào Phật pháp là pháp chẳng hai?"
Huệ Năng bảo: "Pháp sư giảng Kinh Niết Bàn, ắt đã rõ Phật tánh chính là Pháp chẳng hai của Phật pháp vậy. Như Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch với Phật rằng: Người phạm bốn điều trọng cấm, làm năm điều tội nghịch và chúng xiển-đề, thì thiện căn Phật tánh phải bị đoạn diệt chăng? Đức Phật đáp rằng: Thiện căn có hai thứ: một là thường, hai là vô thường. Còn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cho nên không đoạn diệt, ấy gọi là Pháp chẳng hai. Thiện căn lại có hai: một là lành, hai là chẳng lành, Phật tánh chẳng phải lành, chẳng phải chẳng lành, ấy gọi là Pháp chẳng hai. Uẩn cùng với giới, phàm phu thấy có hai, chớ người trí thấu hiểu, biết tánh nó vốn chẳng hai. Tánh chẳng hai tức là Phật tánh vậy."
Ấn Tông nghe xong, vui mừng, chấp tay thưa: "Sự giảng kinh của tôi tỷ như ngói gạch, chỗ luận nghĩa của nhơn giả cũng như vàng ròng." Nhơn đó, Ấn Tông xuống tóc cho ta và nguyện thờ ta làm thầy.
Huệ Năng nầy bèn ngồi dưới cội cây Bồ đề mà khai diễn Đông sơn Pháp môn...... (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thánh giai (Lodge, Thiên Đình): Gồm các vị được điểm đạo trên năm lần và một nhóm các thiên thần.(ĐĐNLVTD, 50)
+ Tâm vô trụ làm gốc của Pháp đốn ngộ/ Đốn giáo
Chư Thiện tri thức! Pháp môn của ta (Pháp đốn ngộ/ Đốn giáo) đây từ trên truyền xuống, trước hết là lập Vô niệm làm tông. Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc (bổn). Vô niệm nghĩa là trong khi niệm, lòng không động niệm. Vô tướng nghĩa là đối với sắc tướng, lòng lìa sắc tướng. Vô trụ chính là Bổn tánh của con người.
Vô trụ làm gốc: Đối với các điều lành dữ, tốt xấu ở thế gian, cùng với kẻ thù người thân, đối với lúc nghe các lời xúc phạm, châm chích, khinh khi, tranh đấu, xem cả thảy như không không, chẳng nghĩ đến việc đền ơn trả oán. Trong niệm niệm lòng không nghĩ đến cảnh mình đã gặp trước. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối tiếp nhau chẳng dứt, thì gọi là bị buộc ràng. Đối với các pháp, niệm niệm lòng không trụ vào đâu thì khỏi bị buộc ràng. Ấy là Vô trụ làm gốc.
- Giảng:
Pháp môn đốn giáo .... đều lấy vô sở niệm làm tông, vô tướng làm bổn thể, vô trụ làm cơ sở. Cái gì gọi là vô tướng? Chính là ở nơi tướng mà ly khai tướng. Vô niệm chính là ở nơi niệm mà không chấp trước vào niệm. Vô trụ chính là bổn tánh của con người. Ở thế gian này .... Mỗi niệm không nên nghĩ về những sự việc quá khứ. Nếu các ông cứ mãi hồi tưởng về những niệm quá khứ, niệm hiện tại và niệm vị lai, niệm niệm tương tục không ngừng, như sóng nước, đó chính là tự mình dùng dây trói buộc mình, tự trói buộc mình vào một chỗ, mà không được tự do. Nếu các ông đối với vạn pháp, niệm niệm không chấp trước, đó chính là không có bị trói buộc, chính là lấy vô sở trụ làm căn bổn. (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Vô Niệm: (1) Không có vọng niệm; (2) Chánh Niệm - Tức là bản niệm sẳn có, chẳng nổi một niệm nào khác. Nghĩa là nơi thế lưu bố tưởng chẳng sanh ra trước tưởng. Chẳng phải trăm điều chẳng nghĩ, nếu trăm đều chẳng nghĩ, hoặc cho là niệm tuyệt đều chẳng phải bản ý của vô niệm. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Vô niệm: ... Chư Thiện tri thức! Cái trí huệ thường chiếu soi, trong ngoài đều sáng tỏ, thì biết rõ Bổn tâm của mình. Biết rõ Bổn tâm tức là giải thoát, tức là Bát nhã tam muội. Bát nhã tam muội tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Biết thấy tất cả các pháp mà lòng không nhiễm vương, dính mắc, ấy là vô niệm. Cái tâm khi ứng dụng liền biến khắp tất cả các nơi mà chẳng dính vương vào các nơi ấy. Giữ Bổn tâm mình trong sạch, khiến sáu thức ra ngoài sáu cửa, đối với sáu trần, mà lòng không nhiễm vương, dính mắc, không lộn xộn, lui tới tự do, thông dụng không ngăn trở, tức là Bát nhã Tam muội, cũng là Tự tại Giải thoát, cũng là hạnh vô niệm.
Giảng:
Quý vị dùng trí huệ vốn có của mình quán chiếu, thì thế giới trong tâm ngoài thân giống như lưu ly, bên trong có thể nhìn thấy bên ngoài, bên ngoài có thể nhìn thấy bên trong, đó chính là cảnh giới "trong không thân tâm, ngoài không thế giới." Tuy không có thân tâm, không có thế giới; nhưng thế giới và thân tâm lại rất rõ ràng đích xác, tuy rõ ràng đích xác mà không chấp trước, đó gọi là thức tự bổn tâm, biết rõ bổn tâm của mình. Bổn lai tự tánh thân tâm thì trong ngoài đều thấu triệt, nếu biết rõ được bổn tâm liền được giải thoát, tức không chấp trước trần lao vọng tưởng. Nếu được giải thoát, đó chính là định của tự tánh Bát nhã. Định chính là vô niệm. Vô ý thức là giới, vô niệm chính là định, không còn vọng tưởng vọng niệm, đó chính là huệ. Vô ý, vô niệm, vô vọng chính là giới, định, huệ. Giới, định, huệ hiện tiền thì tham, sân, si không còn nữa.
Vô niệm là gì? Chính là tâm không nhiễm trước vạn pháp, tức là pháp không. Pháp đã không rồi, sao quý vị vẫn chấp trước những tập khí tật xấu? Tập khí không trừ bỏ, chỉ nói không nhiễm trước vạn pháp, vậy thì quý vị nói ra một cái không nhiễm trước xem? Pháp còn không có, huống chi những tập khí tật xấu? Kinh Kim Cang nói: "Pháp còn phải bỏ huống hồ là phi pháp." Những tập khí tật xấu không buông bỏ vậy thì từ trong Phật pháp quý vị học được những gì? Đây là dối mình lừa người. Người học Phật pháp, chính là cần phải trừ bỏ những tật xấu, nếu chỉ biết nói vài câu, một chút sở dụng cũng không có, chính là hành vi của kẻ ngu si.
Vô niệm là không nhiễm trước, là chánh niệm, cũng chính là Bát nhã tam muội.
Bát nhã tam muội này – hay Định, có thể vận dụng để biến chiếu khắp nơi, giống như hư không, nhưng không chấp trước một chỗ nào. Trong tâm không có chỗ chấp trước, khiến cho lục thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) đi ra khỏi cửa lục căn (nhãn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn, ý môn) trong lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), không nhiễm trước cũng không tạp niệm. Khiến cho lục thức không tùy theo cảnh giới lục trần xoay chuyển, cho nên nói: "Mắt thấy hình sắc tâm không động, tai nghe việc đời tâm không vọng." Nếu quý vị không rõ, cần phải siêng năng tu học Phật pháp. Đến đi tự do, thông dụng vô trệ, lúc này thiên biến vạn hóa, vạn hóa thiên biến, ứng dụng vô cùng mà không có chỗ trì trệ chướng ngại, đó là định của Bát nhã, cũng gọi là tự tại giải thoát, cũng là vô niệm hạnh.
Chư Thiện tri thức! Hiểu rõ pháp vô niệm thì suốt thông muôn pháp. Hiểu rõ pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật. Hiểu rõ pháp vô niệm thì đạt đến địa vị của Phật.
Giảng:
Hiểu rõ pháp vô niệm, hoàn toàn không phải làm giống như tro tàn, cây khô. Vô niệm chính là muốn quý vị có định lực, không có tà niệm, mà phải thường sanh chánh niệm. Người ngộ thì tất cả vạn pháp đều hiểu rõ. Hiểu rõ pháp vô niệm thì có thể hiểu rõ cảnh giới Chư Phật. Nếu chưa hiểu rõ, thì không thể nói đã ngộ pháp vô niệm..........
Chư Thiện tri thức! Đối với các cảnh mà tâm chẳng nhiễm gọi là Vô niệm. Trong các niệm tưởng của mình, tâm thường lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh mà sanh tâm. Bằng đối với trăm việc tâm chẳng nghĩ đến, các niệm tưởng đều bỏ hết; lúc một niệm cuối cùng dứt tuyệt thì chết liền và phải chịu đầu sanh chỗ khác. Cho nên đây là một sai lầm to lớn; người học đạo nên lấy đó mà suy gẫm để tránh rơi vào con đường lầm lạc. Nếu chẳng biết cái ý-chỉ của pháp, tự mình lầm thì còn khá, sợ e lại khuyên dạy người khác. Tự mình mê mà chẳng thấy, lại còn nhạo báng kinh Phật. Bởi vậy mới lập Vô niệm làm tông.
Giảng:
Ở bất cứ cảnh giới nào, tâm không nhiễm trước gọi là vô niệm. Trên niệm thanh tịnh của mình, thường hay ly khai tất cả cảnh giới, chẳng ở trên cảnh mà sanh các tâm niệm, nhớ tưởng (hồi ức) muôn vạn cảnh giới. Giả sử quý vị cho rằng muôn vật đều không nghĩ, mọi niệm đều phải diệt trừ, điều này đúng hay không? Đó lại là việc sai lầm, cho nên nói: "Chấp trước vào tướng là sai lầm, vô vi lại lạc vào không."
– Vậy thì làm thế nào đây?
– Ở chỗ này khó có thể thực hành, nếu quý vị có thể làm được, đó chính là vô niệm.
Một niệm đã đoạn không còn nữa, chẳng phải đã chết rồi hay sao? Vì không có niệm chính là đã chết. Nhưng chết ở đây lại sanh về ở chỗ kia, cho nên đây là cách suy nghĩ hết sức sai lầm. Những người muốn tu học đạo, ở chỗ này cần phải đặc biệt chú ý suy gẫm. Nếu như không nhận thức được chân nghĩa của pháp, tự mình sai lầm còn có thể, nếu dạy những người khác cũng sai lầm theo mình, thì không thể tha thứ được. Tự quý vị ngu muội, không những không có nhận thức tâm tánh của chính mình, mà ngược lại hủy báng Phật kinh, nói Phật kinh giảng sai rồi. Thật là vì người đời ngu si vô trí cho nên Cổ đức phải lập vô niệm làm tông chỉ cho người học Phật.
Chư Thiện tri thức! Sao lập Vô niệm làm tông? Chỉ vì người mê, miệng nói thấy tánh, mà đối cảnh tâm còn vọng niệm, trong chỗ vọng niệm, lại khởi tà kiến. Cho nên cả thảy các sự trần lao vọng tưởng đều do đó mà sanh ra. Bổn tánh mình vốn không có một pháp gì mà tìm được. Nếu có cái chi tìm được trong tánh mình, mà nói dối là họa phước, thì cái ấy là trần lao tà kiến. Cho nên pháp môn nầy lập Vô niệm làm tông.
Giảng:
Tại sao cần phải lập vô niệm làm tông chỉ? Vì có một loại người, miệng nói mình đã kiến tánh, mình đã khai ngộ, loại người ngu si này, đối cảnh sanh ra vô vàn tâm niệm, trên niệm lại sanh ra muôn loại tà kiến, cho nên hết thảy trần lao vọng tưởng, đều từ đây mà sanh ra. Kỳ thực bổn nguyên thanh tịnh của chính mình, diệu minh giác tánh, bổn lai một pháp cũng không có, nó thì thanh tịnh viên mãn sáng suốt, diệu minh chân tâm, bổn lai vô nhất vật. Nếu có chỗ sở đắc, thì vọng thuyết họa phúc mà dối gạt tiền tài của người, đây đều là trần lao tà kiến. Cho nên pháp môn này lập vô niệm làm tông chỉ.
Chư Thiện tri thức! Vô là vô việc gì? Niệm là niệm vật chi? Vô, nghĩa là không chấp hai tướng, không có lòng phiền não. Niệm, nghĩa là niệm cái Chơn như Bổn tánh. Chơn như tức là cái thể của niệm, niệm tức là cái dụng của Chơn như. Tánh Chơn như của mình khởi niệm, chớ chẳng phải con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, cái lưỡi mà niệm được. Cái Chơn như có tánh, sở dĩ mới sanh ra niệm tưởng. Nếu cái Chơn như không có, thì mắt, tai, màu, tiếng, đương lúc ấy liền hư hoại.
Giảng:
Nay tôi lại muốn, vì quý vị, mà giảng vô niệm, vô tướng, vô trụ. Nếu quý vị có thể vô niệm chính là vô tướng, có thể vô tướng chính là vô trụ. Vô niệm cũng chính là vô sanh, vô tướng là vô diệt, vô trụ – bổn lai không có sanh diệt, không có đúng không có sai. Vô niệm, vô tướng, vô trụ cũng chính là không đúng, không sai, không thiện, không ác, không nam, không nữ. Niệm chính là tà niệm, lúc tà niệm không còn thì làm sao có nam nữ, pháp này thật là diệu! Nếu vô tướng, căn bổn không có ngã tướng, vậy ai lại sanh ra cái tâm dâm dục? Tâm dâm dục chính là niệm, không có "niệm" chính là không có lòng dâm dục, không có lòng dâm dục thì không có ngã tướng, không còn chỗ chấp trước. Lúc không còn chỗ chấp trước, quý vị xem đây có phải là sự tự do chân chánh không, có phải là đã được giải thoát không? Cho nên vô tướng, vô niệm, vô trụ, cũng chính là không động không tịnh, không đúng không sai, không nam không nữ, không thiện không ác. Đây thật là tuyệt diệu vô cùng! Quý vị nếu nghiên cứu sâu sắc thì có thể thọ dụng vô cùng.
Lục Tổ Đại sư lại nói:
–Quý vị Thiện tri thức! Tôi giảng chữ vô này, thì vô cái gì? Chữ niệm này, thì niệm thứ gì? Vô chính là không có hai tướng, không những không có hai tướng, ngay một tướng cũng không có, không có tâm trần lao. Tâm trần lao chính là chỉ cái tâm không chính, cũng chính là tâm tà, tâm tà cũng chính là dục tâm.
Cái gì gọi là niệm? Niệm có nghĩa là nhớ, tức là cần phải nhớ Chân như tự tánh? Nhưng cái gì là Chân như tự tánh? Tức cái tánh mà bổn lai đã có, cũng chính là Như Lai Tạng tánh, cũng chính là Phật tánh. Chân như chính là bổn thể của niệm, mà niệm chính là vận dụng của Chân như.
Có người nói: "Vô niệm cũng chính là không có Chân như."
Quý vị phải biết vô niệm chính là không có hai tướng, chính là bảo quý vị chớ quên mà phải nhớ Chân như. Chân như là bổn tánh của chính quý vị, mà bổn tánh của quý vị là thanh tịnh sáng suốt, không có chỗ nhiễm trước.
Niệm tự tánh Chân như, là chân niệm, không phải là niệm do mắt, tai, mũi, lưỡi sanh ra. Chân như có tánh cho nên khởi niệm. Chân như cũng chính là tánh vương, cũng chính là điều đã giảng ở trên (phẩm Nghi Vấn): "tánh còn vua còn, tánh đi vua mất," cho nên nói Chân như nếu không có, thì mắt, tai, sắc, thanh lập tức hoại.
Chư Thiện tri thức! Tánh Chơn như của mình khởi niệm, thì sáu căn tuy có thấy, nghe, biết, hiểu, mà chẳng nhiễm muôn cảnh. Bởi thế nên Chơn tánh của mình bao giờ cũng tự tại. Cho nên Kinh nói: "Phân biệt đặng các pháp tướng một cách tường tận chí lý, mà cái tánh thanh tịnh Niết Bàn chẳng động."
Giảng:
Bổn thể Chân như tuy khởi lên niệm, ở cửa lục căn tuy có thấy nghe hiểu biết nhưng không nhiễm trước, vì quý vị không có tà niệm, không chấp vào muôn cảnh. Chân như tự tánh thường tự tại, cho nên Kinh nói: Tại sao khéo phân biệt tướng của vạn pháp? Vì chính là dụng của Chân như, năng khéo phân biệt chư pháp tướng mà không chấp trước muôn cảnh, cho nên đối với đệ nhất nghĩa mà không động. (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tâm vô nhiễm = Tâm Vô niệm: ... Ở bất cứ cảnh giới nào, tâm không nhiễm trước gọi là vô niệm. Trên niệm thanh tịnh của mình, thường hay ly khai tất cả cảnh giới, chẳng ở trên cảnh mà sanh các tâm niệm, nhớ tưởng (hồi ức) muôn vạn cảnh giới. Giả sử quý vị cho rằng muôn vật đều không nghĩ, mọi niệm đều phải diệt trừ, điều này đúng hay không? Đó lại là việc sai lầm, cho nên nói: "Chấp trước vào tướng là sai lầm, vô vi lại lạc vào không."
– Vậy thì làm thế nào đây?
– Ở chỗ này khó có thể thực hành, nếu quý vị có thể làm được, đó chính là vô niệm.... (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Luân Xa 2 ứng Vô Nhiễm Trước: .... Tâm vô nhiễm trước là cái tâm sáng trong thanh tịnh, không chấp trước, không tạp niệm, không vọng tưởng, không tà niệm, không dục niệm—nói rõ hơn, là không có các ý tưởng dâm dục. Nếu quý vị không có lòng tham đắm sắc dục, tức là quý vị có tâm vô nhiễm trước. Trái lại, nếu quý vị có những ý nghĩ dâm ô tà vạy, dục vọng nặng nề, tức là trong tâm quý vị có sự nhiễm trước, bợn nhơ; mà niệm Chú Đại Bi với cái tâm nhiễm trước thì không phải là niệm Chú Đại Bi! Cho nên, những người hiện đang trì niệm Chú Đại Bi đều cần phải chú ý đến đoạn kinh văn này!(Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng về Chú Đại Bi)
+ 4- Tâm vô nhiễm trước: Vô nhiễm trước tức là mình không có tâm muốn chiếm đoạt, muốn chiếm hữu, muốn đạt cái này, thỏa mãn cái kia. (Nguồn: Thầy Hằng Trưởng giảng 10 Đại Bi Tâm)
+ Không chấp trước vào Pháp Phương Tiện: Trích đoạn Kinh Đức Phật dạy ngài A Nan "Lại nữa, A-nan, như ông thường biết được rằng, như ông đã rõ, ông đã được nghe giáo lý quyền thừa trước đây. Giáo lý quyền thừa đề cập đến năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Ông đã hiểu được toàn bộ giáo lý nầy. Nhưng, giáo lý về mười tám giới chỉ được diễn bày như là một pháp môn phương tiện cho hàng Nhị thừa và ngoại đạo để dẫn dắt họ. Nay Như Lai sẽ giảng giải giáo lý ấy thật chi tiết. Đừng trở nên chấp trước với những pháp trần nầy.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Ln- Q.3)
+ Cái trí Bồ Đề Bát Nhã
.... Ngài lại dạy rằng: "Nầy Chư Thiện tri thức! Cái trí Bồ đề Bát nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được. Phải cầu bực đại Thiện tri thức chỉ dẫn cho mới thấy tánh. Phải biết rằng dầu kẻ ngu hay người trí cũng đồng có Phật tánh giống nhau không khác. Nhưng bởi tâm mê ngộ chẳng đồng mới có kẻ ngu người trí. Vì đó nên nay ta mới nói pháp Ma ha Bát nhã Ba la mật, khiến cho mọi người đều đặng trí huệ. Hãy chú ý mà nghe cho rõ, ta vì đại chúng mà nói pháp đây.
Chư Thiện tri thức! Người thế gian suốt ngày miệng niệm Bát nhã, mà chẳng biết Bát nhã trong tánh mình, cũng như nói ăn mà chẳng no. Miệng chỉ nói "không" thì muôn kiếp cũng chẳng thấy tánh đặng, rốt cuộc không ích gì.
Chư Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã Ba la mật là tiếng Phạn, có nghĩa là đại trí huệ đáo bỉ ngạn. Ấy là do nơi tâm làm, chớ chẳng phải do nơi miệng niệm. Miệng niệm và tâm làm theo, thì tâm và miệng hiệp nhau. Bổn tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.
Giảng:
Đại sư nói:
– Quý vị Thiện tri thức! Trí huệ của đạo giác ngộ, người đời vốn có đủ, ở Phật không nhiều một chút, ở chúng sanh cũng không thiếu một chút. Nhưng vì chấp trước, "mê tức là không giác ngộ, không giác ngộ tức là chấp trước." Vì không thể tự mình ngộ được, cho nên phải nương vào vị Minh nhãn Thiện tri thức, vì vị này đã thâm nhập Thật tướng của các pháp, cho nên có thể chỉ dẫn, khiến cho các ông được minh tâm kiến tánh. Các ông cần nên biết, bất luận là người ngu hay người trí, Phật tánh đều không có sự sai khác. Vì có sự khác nhau giữa mê và ngộ cho nên mới có người ngu và người trí. Tôi nay vì các ông thuyết Ma ha Bát nhã Ba la mật pháp, khiến cho các ông mỗi người đều đắc trí huệ vốn có của chính mình. Nay các ông cần phải chuyên tâm một lòng lắng nghe, tôi sẽ vì các ông thuyết pháp.
Quý vị Thiện tri thức! Người đời mỗi ngày miệng niệm "Bát nhã Bát nhã," mà không nhận thức được bản tánh Bát nhã, trí huệ vốn có của mình. Cũng như từ sáng đến tối niệm thực đơn, nhưng không thể no bụng. Miệng tụng "Bát nhã chính là không," mà tự mình không thực hành, thì dù có trải qua trăm ngàn đại kiếp cũng không có thể nhìn thấy bổn tánh Bát nhã, rốt ráo cũng không có lợi ích gì.
Quý vị Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã Ba la mật là tiếng Phạn, Hoa văn dịch là đại trí huệ đáo bỉ ngạn. Ma ha có nghĩa là lớn, Bát nhã là trí huệ, Ba la mật là đáo bỉ ngạn. Pháp này yêu cầu tâm của các ông phải buông bỏ, không phải miệng niệm mà phải từ nội tâm nhìn thấu suốt vạn pháp, thấy cái gì cũng không, từ đó mới đạt được sự ích lợi. Nếu chỉ có miệng niệm Bát nhã, mà nội tâm không chiếu theo trí huệ Bát nhã mà tu hành; nếu vẫn còn vô minh, chính là tâm không chân thực tu hành, giống như hư vọng huyễn hóa, như sương, như ánh chớp, cuối cùng cũng không đạt được cảnh giới này.
Miệng niệm tâm hành Bát nhã, mới là ý nghĩ và việc làm tương ưng khế hợp, từ đó có thể nhìn thấy tự tánh, chính là Phật, vì bổn tánh chính là Phật. Tự tánh là chân Phật, nếu tách rời tự tánh thì không có Phật. Cho nên Phật giáo dạy rằng: "Mọi người đều có thể thành Phật." Chỉ cần các ông tu hành, tức tu hành tự tánh, hồi quang phản chiếu, quay trở về tìm nơi chính mình, không nên giong ruổi tìm cầu bên ngoài thì nhất định sẽ thành Phật.
Sao gọi là Ma ha? Ma ha nghĩa là lớn, tâm lượng rộng lớn cũng như hư không, không có bờ mé, cũng chẳng phải vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không trên dưới dài ngắn, cũng không giận không mừng, không phải không quấy, không lành không dữ, không có đầu đuôi. Các cõi Phật thảy đều như hư không. Cái diệu tánh của người thế gian vốn là trống không, chẳng có một pháp gì trong đó mà tìm đặng. Cái tự tánh Chơn không cũng giống như thế.
Có người nói:
– Bạch Pháp sư, nay Ngài giảng kinh rất hạp ý con, con không muốn chấp trước, không muốn giữ gìn quy cũ. Ngài nếu muốn mọi người giữ gìn quy luật chính là chấp trước.
Nghĩ như vậy là sai rồi, nói trừ chấp trước, là muốn quý vị trừ đi tâm chấp trước, bỏ đi những việc không đúng. Những việc đúng chẳng thể không chấp trước. Giống như giữ gìn quy luật thì mới có thể thành Phật, cho nên nói: Thị đạo tất tiến, phi đạo tất thối, không phù hợp đạo thì không nên chấp trước, hợp với đạo thì cần nên trì tụng không quên. Trì tụng có thể là chấp trước, nhưng trì tụng Kinh Kim Cang lại là tu hành.
Nếu tôi có tật xấu mà không muốn sửa đổi, cũng không muốn người biết, đó mới chính là chấp trước. Nếu tôi có tật xấu, người bên cạnh biết tôi cũng không màng, người khác khuyên cũng không đếm xỉa đến, đây không phải là không chấp trước mà là tà tri tà kiến. Nếu có loại tà tri tà kiến như thế, càng tu càng rời Phật pháp càng xa.
Nếu quý vị có thể rời bỏ chấp trước, thì có thể thông đạt vô ngại, không còn chướng ngại, nếu tu hành như thế, thì khế hợp với đạo lý Kinh Kim Cang, Bát nhã trí huệ hiện tiền, bằng không thì không phù hợp diệu lý Bát nhã. .... (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
Trong Kinh đức Phật dậy: Pháp của ngài có thể được tóm tắt gọn trong câu "Đối với tất cả đều không chấp trước". Ngày nói, đại khái ai hiểu thấu được và thực hành được câu này thì hiểu và thực hành được toàn bộ giáo pháp của Ngài
+ Pháp môn đốn giáo - Pháp môn đốn ngộ - Hoát nhiên khai ngộ - Hốt nhiên khai ngộ - Pháp Tam vô
Chư Thiện tri thức! Pháp môn của ta (Pháp đốn ngộ/ Đốn giáo) đây từ trên truyền xuống, trước hết là lập Vô niệm làm tông. Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc (bổn). Vô niệm nghĩa là trong khi niệm, lòng không động niệm. Vô tướng nghĩa là đối với sắc tướng, lòng lìa sắc tướng. Vô trụ chính là Bổn tánh của con người.....
... Ta nói: "Huệ Năng đắc pháp tại núi Đông Sơn, chịu trăm bề cay đắng, tánh mạng tợ chỉ mành, ngày nay đặng cùng với Sử quân, các viên quan, chức sắc, các tăng, ni, đạo, tục, cùng gặp nhau tại hội này. Nếu chẳng phải bởi duyên phần nơi lũy kiếp, thì trong đời quá khứ, các người đã có cúng dường chư Phật, đồng có trồng cội lành, nên mới được nghe pháp Đốn giáo nói trên và nhơn duyên đắc pháp của ta. Pháp Đốn giáo nguyên của các vị Thánh đời trước truyền lại, chớ chẳng do Huệ Năng nầy tự hiểu. Muốn nghe giáo pháp của các vị Thánh đời trước, thì mỗi người phải lắng lòng cho trong sạch. Nghe rồi phải tự bỏ các điều nghi hoặc thì đồng chứng quả như các Thánh nhơn đời trước.".....
Người tiểu căn nghe pháp Đốn giáo nầy ắt là điên đảo. Cũng như loài cỏ cây gốc rễ nhỏ yếu, nếu bị một trận mưa to, chắc đều ngã rạp, không thể lớn lên được. Nguyên người tiểu căn có trí Bát nhã cũng như người đại trí, không có chỗ gì khác. Nhưng bởi cớ sao họ nghe pháp, mà tâm chẳng mở mang tỏ sáng? Vì bởi nghiệp chướng của tà kiến còn nặng, cái gốc rễ của sự phiền não còn thâm sâu. Cũng như một đám mây lớn che ám mặt trời, nếu chẳng được luồng gió thổi, thì ánh sáng mặt trời không hiện ra được.
Cái trí Bát nhã vốn không lớn nhỏ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi. Lòng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành tìm Phật mà chưa tỏ sáng Bổn tánh của mình, tức là người tiểu căn. Hiểu rõ pháp Đốn giáo tu hành mà không chấp bề ngoài, trong tâm mình thường khởi chánh kiến, những sự phiền não trần lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm mình tức là thấy tánh.......
Kinh Bồ Tát Giới có nói rằng: "Cái Bổn nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch. Nếu biết tâm mình và thấy tánh mình, thì thành Phật đạo." Kinh Tịnh Danh nói: "Tức thời tâm trí thông suốt, thì phục hồi đặng Bổn tâm."
Giảng:
Kinh Bồ Tát Giới nói: "Bổn lai tự tánh thanh tịnh không có ô nhiễm, nếu nhận thức được bổn tâm của mình mà nhìn thấy tự tánh, thì ai cũng có thể thành Phật."
Quý vị nhìn thấy tự tánh quý vị thành Phật, tôi nhìn thấy tự tánh tôi thành Phật, nó nhìn thấy tự tánh nó thành Phật, điều này thật là bình đẳng.
Kinh Tịnh Danh tức là Kinh Duy Ma, nói: "Lập tức hoát nhiên khai ngộ, nhận thức được bản tâm của chính mình, bèn nhận thức được bổn lai diện mục."
Chư Thiện tri thức! Lúc ta ở với Hòa Thượng Hoằng Nhẫn, một khi nghe pháp rồi, liền tỏ sáng, liền thấy Chơn như Bổn tánh. Bởi vậy, ta mới đem pháp Đốn giáo nầy mà lưu hành, khiến cho các người học đạo liền tỏ sáng Bồ đề, mỗi người tự xem Bổn tâm mình và tự thấy Bổn tánh mình.
Giảng:
Lục Tổ Đại sư nói:
– Quý vị Thiện tri thức! Nghe pháp của tôi các ông có thể khai ngộ được không? Tôi ở với Hòa Thượng Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vừa nghe pháp môn đốn ngộ liền lập tức khai ngộ. Tôi là một người quê mùa không có tri thức, sanh nơi biên địa, được gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư.
Vì Lục Tổ là đồ đệ của Ngũ Tổ, cho nên không thể trực tiếp xưng tên của sư phụ, cho nên nói Nhẫn Hòa thượng. Ngũ Tổ rất là bực tức vì muốn truyền pháp mà bị những người dưới của Ngài áp bức, họ muốn Ngài truyền pháp cho Thần Tú. Quý vị xem một vị Hòa Thượng ngay việc truyền pháp cũng không có tự do, bị người khống chế, đó có đáng giận hay không? Cho nên Nhẫn Hòa Thượng nhẫn đã rất lâu, sau đó có một người "cạt lão" đến chỗ Hòa Thượng cầu pháp, Ngài nghĩ thầm: "Ta muốn truyền pháp cho người quê mùa này, người này một chữ cũng không biết, nhưng ta không buồn để ý tới các ông làm gì!" Vì thế đêm khuya canh vắng Ngũ Tổ truyền pháp cho Lục Tổ.
Mà Lục Tổ thật là một người tri âm, Ngài vừa nghe pháp liền lập tức khai ngộ. Ngũ Tổ truyền pháp cho Lục Tổ, hoàn toàn không phải vì tức giận mà truyền cho người quê mùa không biết chữ này, mà là vì người không biết chữ này là người thông minh nhất. Người này vừa nghe liền lập tức khai ngộ mà bạch rằng: "Tự tánh vốn thanh tịnh, tự tánh là quang minh, tự tánh là không dao động, tự tánh vốn diệu huyền như thế!" Ngũ Tổ nghe xong bèn chấp nhận truyền pháp cho Lục Tổ.
Lục Tổ nói với đại chúng:
–Tôi nay đem pháp môn đốn giáo lưu truyền khắp mọi nơi, khiến cho người học đạo đốn ngộ Bồ đề, lập tức giác ngộ bổn tâm, kiến tự bổn tánh..... (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bài tụng Vô tướng cho người tại gia hay xuất gia tu đọc tụng hàng ngày. Pháp đốn giáo - Pháp đốn ngộ. Minh tâm kiến tánh
Chư Thiện tri thức! Ta có một bài tụng "Vô Tướng," các ông nên tụng đọc. Người tại gia hay xuất gia cũng phải y theo bài tụng nầy mà tu hành. Nếu tự mình chẳng tu, mà chỉ nhớ lời ta nói, thì cũng không có ích gì. Hãy nghe ta tụng...
Pháp môn mà tôi truyền chính là muốn quý vị có thể minh tâm kiến tánh. Quý vị minh tâm thì không có việc gì khó, kiến tánh rồi thì không còn lo âu. Hiểu rõ bổn lai diện mục, mới là hiểu rõ Phật pháp. Pháp môn này chuyên giảng những đạo lý xuất thế, là tôn chỉ phá trừ bàng môn tả đạo, ngoại đạo.
Pháp vốn không có sự sai khác của đốn và tiệm, nhưng đối với người mê cần phải dạy cho họ pháp môn tiệm tu, đối với người trí thì có thể dạy họ pháp môn đốn ngộ, cho nên người mê chậm một chút, người có căn tánh lanh lợi thì có thể khai ngộ nhanh một chút.
Mê và ngộ chỉ là vấn đề nhanh chậm mà thôi, quý vị nay không đoạn, sau này thành Phật nhứt định phải đoạn. Quý vị nay không muốn làm Phật cho nên không muốn đoạn. Đốn pháp này là cửa kiến tánh. Nếu quý vị có thể đoạn trừ lòng dâm dục thì có thể minh tâm kiến tánh. Không nên giảng pháp này cho người ngu si nghe, họ không thể hiểu được, dù quý vị giảng cho họ nghe, họ cũng không tin tưởng đâu.
Bài kệ (Xem trong trang nguồn) này nếu ghi nhớ vào lòng thì trọn đời thọ dụng không cùng. Lục Tổ Đại sư nói hay quá, vừa đơn giản vừa rõ ràng, mọi người đều dễ dàng hiểu được. Nếu có thể hiểu được ý này thì đối với việc tu đạo có rất nhiều lợi ích.
Nếu tự mình không có đạo tâm, không tu đạo, chỉ biết làm những việc tội lỗi, không dám cho người khác biết, thì đó không phải là đạo. Người chân chánh tu đạo không nhìn thấy những lỗi lầm của người thế gian. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đạo phải lưu thông không tắc nghẽn - Thông đạt vô ngại
Chư Thiện tri thức! Đạo phải thông lưu, sao lại làm cho nó ngưng trệ? Tâm không trụ pháp, thì Đạo thông lưu. Còn tâm trụ pháp, ấy là mình trói lấy mình. Bằng nói rằng thường ngồi chẳng động, thì cũng như Xá Lợi Phất ngồi im lặng trong rừng, bị Duy Ma quở vậy.
Giảng:
Đạo là gì? Đạo cần phải thông đạt vô ngại, trôi chảy không ngừng, tại sao lại làm cho nó trì trệ đình chỉ? Quý vị đình chỉ cái tâm mà biến thành tro tàn, cây khô, vậy thì có ích dụng gì! Cho nên lúc tâm vô sở chấp trước, tức ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, không chấp vào không, không chấp vào có, không chấp vào pháp. Nếu chấp pháp chính là chấp vào cái có, chấp vào không, chính lạc vào cái vọng không. Cho nên cần phải không chấp vào pháp, không chấp vào không, không chấp vào ngã, đó mới là ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Lúc vô sở trụ thì đạo mới lưu thông. Nếu tâm chấp pháp, nói: tôi thường ngồi không động. Đó giống như con tầm nhả tơ, tự mình trói mình, tự mình làm mình không còn tự do. Nếu nói thường ngồi không động là Nhất hạnh tam muội, thì giống như Ngài Xá Lợi Phất trong rừng ngồi thiền không động mà bị cư sĩ Duy Ma khiển trách: "Ngài ngồi như thế có ích dụng gì? Giống như người chết, chớ không phải chân chánh nhập định."
Chư Thiện tri thức! Lại có người dạy ngồi xem cái tâm, quán tưởng tâm cảnh vắng lặng (khán tâm quán tịnh), ngồi yên chẳng dậy, bảo y theo đó mà lập công phu. Người mê chẳng hiểu, cố chấp làm theo, rồi thành điên dại. Số người lầm như thế chẳng phải là ít. Truyền dạy nhau như vậy, thiệt là lầm to!
Giảng:
Có hành giả dạy ngồi thiền, bảo người khán (nhìn) cái tâm của mình; quán tịnh là ra sao? Không động không khởi, từ đó liền có công phu. Người mê không hiểu đạo lý này lại nói: "ngồi ở một chỗ không động không khởi sẽ có công phu, có thiền định," từ đó sanh ra chấp trước mà điên cuồng. Giống như lúc trước có rất nhiều người đến đây, xưng là đã khai ngộ.....
Thế giới này là như thế, chân chân giả, giả giả chân. Quý vị chân chánh người chung quanh nói quý vị là giả, quý vị là giả người ta lại nói quý vị chân chánh, cho nên quý vị cũng không nên nói chân, cũng không nên nói giả để họ tự nhận thức.
Người chưa khai ngộ tự xưng mình đã khai ngộ, mà người đã khai ngộ rồi lại nói mình chưa khai ngộ, như thế sẽ giống như những người chưa khai ngộ. ... Vì khai ngộ và không khai ngộ thì giống nhau không có gì sai khác, không cần giả danh..... Không có ai nhận ra là tốt nhất, và đó chính là trực tâm là đạo tràng. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Định Huệ đắc Vô lậu học: ... Đại sư/ Lục tổ bảo chúng rằng: "Chư Thiện tri thức! Pháp môn của ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng đừng mê lầm mà nói định với huệ là khác nhau. Định và huệ chỉ là một thể, chẳng phải hai. Định là cái thể của huệ. Huệ là cái dụng của định, tức là lúc huệ thì định ở trong huệ, lúc định thì huệ ở trong định. Nếu biết cái nghĩa ấy, thì định và huệ đều phải học.
Các người học Đạo chớ nói trước định rồi mới phát huệ, trước huệ rồi mới sanh định, mà phân biệt định huệ là khác nhau. Nếu thấy hiểu như thế, thì pháp có hai tướng. Miệng nói lời lành mà trong lòng chẳng lành, nói khống rằng có định huệ mà định huệ chẳng đồng một thể. Nếu lòng và miệng đều lành, trong ngoài như một, thì định và huệ tức đồng nhau. Pháp tự ngộ tu hành chẳng phải tại chỗ tranh. Nếu tranh chỗ trước sau, tức đồng với người mê. Chẳng dứt lòng phân bua, thì quả nhiên làm lớn thêm lòng ngã chấp, pháp chấp, mà không lìa khỏi bốn tướng.
Chư Thiện tri thức! Định và huệ giống như vật gì? Giống như cái đèn và cái ánh sáng. Có đèn tức là sáng, không có đèn tức là tối. Đèn là cái thể của ánh sáng, ánh sáng là cái dụng của đèn. Tuy tên có hai, mà thể vốn có một. Pháp định huệ nầy cũng như thế."
Giảng:
Định do giới sanh, do định mới phát huệ, cho nên giới định huệ là tam vô lậu học. Năng trì giới cũng đắc được vô lậu, năng tu định cũng có thể đắc được vô lậu, năng phát huệ cũng có thể đắc được vô lậu. Cho nên muốn đắc định, trước phải trì giới. Như vậy phải làm sao? Tức "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành."
Lục Tổ Đại sư khai thị nhất thiết chúng sanh:
– Quý vị Thiện tri thức! Pháp môn đốn giáo của tôi, lấy định huệ làm căn bổn, làm cơ sở. Quý vị đã là Thiện tri thức, thì không nên chấp mê, không tin tưởng, không nên chấp trước nói rằng định huệ là hai thứ phân biệt. Cần phải biết định huệ là nhất thể, định chính là huệ, huệ chính là định, tuy có hai tên, nhưng bổn thể của nó là một không phải là hai. Định là bổn thể của huệ, huệ là vận dụng của định. Do định có thể phát sanh trí huệ. Khi trí huệ hiện tiền, định ở trong trí huệ. Lúc định hiện tiền, huệ ở trong định. Cho nên nếu có thể nhận thức đạo lý này – định huệ nhứt thể, nhưng cách dùng mỗi cái có khác, đó chính là định huệ bình đẳng, định huệ đồng thể.
Quý vị tu đạo, không nên nói trước phải có định mới phát sanh trí huệ, hoặc là trước có trí huệ mới phát sanh định lực, từ đó nói định huệ có chỗ sai khác. Nếu tâm có loại kiến giải như thế, sẽ cho rằng định huệ là hai thứ, nếu miệng nói toàn là những lời tốt đẹp, nhưng trong tâm đầy những tư tưởng bất thiện, toàn là tật đố, chướng ngại, cống cao ngã mạn, tà tri tà kiến, tham sân si – định huệ như thế, chỉ là lời nói suông.
Nếu nội tâm và miệng nói đều là tốt lành, trong ngoài đều như nhau, biểu đạt nhất trí, tâm khẩu nhất như, đó chính là định huệ bình đẳng. Muốn tự mình hiểu rõ để tự tu hành, đó không phải ở những lời tranh luận nơi đầu môi chót lưỡi, để làm cho mọi người biết rằng tôi có tu hành, hoặc tự mình hô hào cho mọi người chung quanh biết danh tiếng của mình là nổi bật nhứt.
Nếu tranh trước sau, nói nhứt định phải định trước huệ sau, hoặc huệ trước định sau, phàm tranh luận cái đạo lý này, đều là những kẻ phàm phu ngu muội, cho nên nói: "Tranh luận là tâm thắng phụ, trái nghịch với đạo, liền sanh tâm tứ tướng, làm sao mà đắc được tam muội?" Không đắc được tam muội, tức là không có định, cũng chính là không có huệ.
Nếu tâm thắng phụ chưa thể đoạn trừ, thì vẫn còn ngã chấp và pháp chấp. Nếu ngã chấp, pháp chấp chưa thể đoạn trừ thì không thể rời bỏ tứ tướng. Vì có cái ngã chấp, cho nên có cái nhân chấp, vì có nhân chấp cho nên có chúng sanh chấp, vì có chúng sanh chấp sẽ phát sanh thọ giả chấp. Không thể rời bỏ bốn loại chấp trước này, tức thì sanh ra bốn tướng.
Quý vị Thiện tri thức! Định huệ giống như cái gì? Nay đưa ra một ví dụ: định huệ giống như đèn và ánh sáng. Có đèn thì có ánh sáng, có ánh sáng thì có đèn, không có đèn thì không có ánh sáng, không có ánh sáng thì không có đèn. Đèn và ánh sáng tuy nói là hai loại, kỳ thực là nhất thể. Đèn là bổn thể của ánh sáng, mà ánh sáng là dụng của đèn. Đèn có cái dụng gì? Là có ánh sáng. Danh tự tuy có hai nhưng bổn thể của nó chỉ có một, loại Phật pháp định huệ này, cũng giống như đạo lý của đèn và ánh sáng. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Lòng bình đẳng đâu cần giữ giới: Bình chính là không có tham sân si. Tại sao quý vị cần phải trì giới, vì có tam độc tham sân si. Nếu năng trì giới luật, thì không bị tam độc làm hại. Nếu tâm bình, chính là trong tâm không có sóng, không có sóng chính là không có vô minh. Không có vô minh, thì cần gì phải cực khổ trì giới. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Làm việc ngay há phải tu thiền: Hành vi công bình chính trực, đó chính là thiền, thiền cũng chính là dạy quý vị trừ đi tất cả tập khí tật xấu. Có người nói: "Tâm bình không cần trì giới, vậy tôi không trì giới nữa," nhưng tâm của quý vị đã bình hay chưa? Quý vị không kể tâm mình bình hay chưa, liền không trì giới. Tâm của quý vị cần phải bình mới có thể không trì giới, nếu tâm không bình thì làm sao có thể không trì giới? Nếu dối gạt người nói tâm tôi đã bình rồi, nhưng khi làm việc gì thì không công bình, lại tự tư, tự lợi, ích kỷ, tật đố chướng ngại, loại người này tâm làm sao có thể bình được. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
Đắng miệng ấy thuốc trừ bịnh khổ, Nghịch tai là lời độ chánh trung: Nếu có người khuyên bảo quý vị, chỉ ra chỗ sai lầm của quý vị, đó chính là Thiện tri thức của mình. Giống như quý vị mắc bệnh, thuốc uống tuy đắng, nhưng lại lợi ích cho bệnh của quý vị. Cho nên nói "Đắng miệng là thuốc hay, nghịch tai nhất định là lời trung thật." Giống như Sư phụ thường chỉ trích sai lầm của đồ đệ: "Con không nên làm biếng! Không nên tham ngủ!" Nhưng với điều này, người đời lại nói: "Tại sao lại để ý việc của tôi?" Nhất là người Mỹ, tự do quen rồi, không muốn nghe người khác chỉ huy, lúc nào cũng duy ngã độc tôn, nói: "Bất luận tôi xấu hay tốt, tôi cũng không muốn nghe người ta, tôi chỉ nghe chính mình, dù tôi là khúc gỗ, ngu ngốc không hiểu biết, tôi cũng muốn nghe chính mình, tôi muốn độc lập." Tôi biết đây là tư tưởng của người Mỹ, không muốn nghe những lời trái tai.
Sửa lỗi lầm trí huệ pháp sung, Binh tội quấy tâm tùng đọa ác: Nếu quý vị có thể sửa đổi sai lầm, thì nhất định sanh trí huệ, nếu không sửa đổi đó chính là ngu si. Nếu quý vị cứ một mực bào chữa cho cái sai của mình, có tật xấu, mà sợ người nói, lại tự mình làm luật sư cho chính mình, dù người khác có chỉ ra tật xấu của mình, quý vị cũng không thừa nhận. Loại đồ đệ này tôi gặp nhiều rồi, nó cho rằng có thể dối gạt được tôi.
"Năng làm phước, giúp người lợi lạc, Đạo nào do thí bạc mà thành! Vốn Bồ đề cầu ở tâm thanh, Ngoài mộng ảo, muội manh nhọc kiếm. Nghe nói pháp, lòng vâng tu niệm, Cõi Thiên đường mầu nhiệm thấy liền.": Việc làm thường ngày cần phải có lợi ích cho chúng sanh, cần giúp đỡ, lợi ích cho người, không nên chỉ đối tốt với chính mình, cần phải biết thành Phật không phải nói tôi bố thí bao nhiêu vạn đồng, mua ông Phật lại làm, mà cần tự quý vị tu hành mới được. Bồ đề giác tánh, giác đạo cần phải tìm trong nội tâm, quý vị làm sao có thể hướng bên ngoài đi tìm cầu sự huyền diệu được? Nếu quý vị nghe lời này rồi, y giáo tu hành, thì Thiên đường ở ngay trước mặt. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
Ân, song thân hiếu dưỡng cần chuyên: Nói đến báo ân thì cần phải hiếu dưỡng Cha Mẹ, vì ân sanh thành dưỡng dục của Cha Mẹ như trời cao biển rộng, cho nên phải hết lòng hiếu thảo thờ kính cung dưỡng Cha Mẹ.
Nghĩa, huynh đệ dưới trên tương ái:Như Cha Mẹ thương con cái, đó chính là lòng từ bi lân mẫn, thuộc về nghĩa.
Nhượng, hòa mục tôn ti đối đãi: Cùng nhau khiêm tốn nhường nhịn thì trên dưới hòa hiệp, nhìn thấy kẻ tôn quý người hạ tiện đều bình đẳng như nhau, hòa hòa hiệp hiệp thì không có tranh chấp phát sanh.
Nhẫn, muôn điều ác hại chớ gây: Nhẫn chính là không nên ở sau lưng nói xấu người, hoặc là nói việc riêng của người, không nên chuyên môn đi phá hoại người, tật đố chướng ngại người, không nên phao những tin đồn bậy bạ xuyên tạc phá hoại sự tịnh tu và danh dự của người. Người cần phải che giấu điều ác, biểu dương điều thiện; không nên che giấu điều thiện, biểu dương điều ác, như vậy thì tất cả được hòa bình an ổn.
Nếu bền tu như lấy lửa cọ cây, Nơi bùn lấm nở đầy sen đỏ: Trung Quốc xưa kia muốn lấy lửa phải cọ xát gỗ mới lấy được lửa, và bùn sanh hoa sen đó là nói quý vị không cần phải xuất gia, nếu có thể đoạn trừ dục tâm, tại gia cũng có thể thành tựu như người xuất gia. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu nhất tâm bấn loạn - Trạng thái nhất tâm
Chúng nhơn đều đảnh lễ đáp rằng: "Nếu thấy cõi ấy, thì cần gì phải nguyện sanh! Xin Hòa Thượng từ bi hiện cõi Tây phương cho mọi người được thấy."
Sư nói: "Đại chúng! Người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành; con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm.
Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà.
Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là rùa, trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh.
Chư Thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì Thiên đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã thì núi Tu Di sập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt. Tâm địa mình chính là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài soi sáu cửa trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục dục. Trong soi tánh mình, làm cho ba độc liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần. Trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây phương. Nếu chẳng chịu tu như thế, thì làm sao đến cõi kia được!" (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tâm bấn loạn - Tâm loạn động - Tâm vọng tưởng điên đảo:
Người có hai hạng, pháp không có hai thứ. Tánh ngộ mê có khác nhau, chỗ kiến giải có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu vãng sanh về cõi Tây phương, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói: "Tâm mình tịnh, tức là cõi Phật tịnh."....
Nay khuyên các Thiện tri thức, trước trừ mười điều ác, tức là đi tới mười muôn, sau dứt tám điều tà, ấy là qua khỏi tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường làm việc công bình, thì đến cõi ấy mau như khảy móng tay, liền thấy Phật Di Đà.....
Sư nói: "Đại chúng! Người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành; con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm.
Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà.
Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là rùa, trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh......
Giảng:
Nếu quý vị không hiểu tự tánh của mình, mê mất đi tự tánh, quên đi tự tánh của mình, đó chính là chúng sanh. Nếu tự tánh giác ngộ, giác ngộ rằng không làm tất cả điều ác mà làm tất cả điều lành (chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành), cho nên đoạn ác tu thiện, đó chính là Phật. Năng thực hành pháp từ bi, sung mãn lòng từ bi, đó chính là học theo Bồ Tát Quán Thế Âm....
Chính là hỷ xả, hoan hỷ bố thí. Từ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm, Xả vô lượng tâm – Tứ vô lượng tâm. Nếu quý vị có thể từ bi hỷ xả chính là học theo hạnh của Ngài Bồ Tát Đại Thế Chí.
Nếu quý vị có thể tự tịnh kỳ ý, tự tịnh kỳ tâm, phản bổn hoàn nguyên trở về tánh Như Lai Tạng, thấy diệu tánh minh tâm, chân minh giác tánh, đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đó cũng là năng nhân tịch mặc......
Lòng nhơn ngã là Tu Di: có nhân có ngã liền có núi Tu Di. Người có tướng của người, ngã có tướng của ngã; người có cái bộ dạng của người, ngã có cái dáng điệu của ngã. Cái bộ dạng này còn cao hơn núi Tu Di. Tu Di dịch là Diệu Cao, Diệu Cao nghĩa là không biết nó cao bao nhiêu, vì nó quá diệu, cho nên người cống cao ngã mạn chính là Tu Di. Bình đẳng chính trực ở trên và Tu Di ở đây đều là ví dụ. Đó là bảo quý vị ở tự tánh mình thấy Đức Phật A Di Đà, ở tự tánh mình thấy tất cả tật xấu.
Lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào: Tà tâm của ông giống như nước biển lớn. Ông có phiền não chính là biển sanh sóng. Sóng nhỏ thì rất bằng phẳng an tịnh không có thanh âm, sóng lớn dâng cao mười trượng thì có thể cuốn thuyền lớn vào tận đáy biển. Giống như đại phiền não của người thì có thể che phủ cả ánh sáng trí huệ, cho nên chúng ta cần phải cẩn thận, không nên sanh phiền não.
Lòng độc hại là rồng dữ: có sóng thì sẽ phát sanh nguy hiểm, đó chính là độc hại. Lòng độc hại chính là độc long, cho nên ác long ở long cung lúc muốn mời khách, liền nổi sóng lớn, mời tất cả mọi người trên thuyền đến long cung ăn tiệc, uống long tửu.
Lòng dối giả là quỷ thần: người phàm phu nói, Tôi không tin có quỷ, tôi không tin có Thần, vì không nhìn thấy....
Tôi sẽ nói cho quý vị, thế nào là có thể biết mình thấy quỷ hay thấy Thần: quỷ màu đen, ảnh đen, vì nó thuộc về âm. Thần màu trắng, thuộc dương. Lúc quý vị nhìn thấy thì có hình tượng, nhưng nhìn thì có thể thấy, mà nắm lấy thì không được, vì chúng đều là hư vọng.
Lòng trần lao là rùa, trạnh. Lòng tham sân là địa ngục: trần lao trong tự tánh của chúng ta chính là rùa, trạnh .... quý vị có tham tâm, có sân tâm thì nhất định sẽ đọa địa ngục, vì nay đã trồng hột giống địa ngục – tham tâm, sân tâm – thì tương lai nhất định sẽ đọa địa ngục.
Lòng ngu si là súc sanh: Lúc giảng Kinh, có khi tôi nói, "người đó ngu như heo."... Cho nên nói ngu si là súc sanh, quý vị nghĩ xem một đời của súc sanh có ý nghĩa gì? (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu niệm Phật Nhất Tâm Bấn Loạn - Niệm Phật vãng sanh:
(34) Theo danh hiệu vị Phật ở thế giới đó: Đây là Pháp trì danh hiệu Phật để được nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn cũng được gọi là Nhất hạnh Tam muội. Kinh Văn Thù Sư Lợi nói Bát Nhã dạy rằng: Muốn được Nhất hạnh Tam muội thì tùy đức Phật ở phương nào, nên ngồi xoay mặt về phương ấy mà xưng niệm danh hiệu của Ngài không cho gián đoạn, tức có thể được nhất tâm bất loạn, khi được nhất tâm rồi, có thể tùy nguyện vãng sinh về thế giới của đức Phật ấy. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Pháp niệm Phật vãng sanh: Thứ sử lại hỏi: "Đệ tử thường thấy quý Thầy và người tục, niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về Tây phương, xin giải rõ cho biết các người ấy được vãng sanh về Tây phương chăng? Xin Ngài phá chỗ nghi nầy."
Sư nói: "Sử quân hãy nghe cho kỷ, Huệ Năng giải cho. Đức Thế Tôn lúc ở thành Xá Vệ, nói kinh về chỗ tiếp dẫn vào cõi Tây phương, rõ ràng cõi ấy cách đây chẳng xa. Nếu luận về hình tướng và số dặm, thì có mười muôn tám ngàn, tức là chỉ mười điều ác và tám điều tà trong thân. Thế mới nói là xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì người thượng trí.
Người có hai hạng, pháp không có hai thứ. Tánh ngộ mê có khác nhau, chỗ kiến giải có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu vãng sanh về cõi Tây phương, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói: "Tâm mình tịnh, tức là cõi Phật tịnh."
Sử quân, người Đông phương mà tâm tịnh, thì không có tội. Còn tuy là người Tây phương mà tâm chẳng tịnh, thì cũng có tội. Người Đông phương tạo tội, niệm Phật cầu vãng sanh về Tây phương. Còn người Tây phương tạo tội, niệm Phật cầu vãng sanh về xứ nào?
Người phàm mê muội, chẳng tỏ tánh mình, không biết cõi Tịnh độ trong thân, nên mới phát nguyện Đông nguyện Tây. Còn người giác ngộ dầu ở chỗ nào, tâm địa cũng một mực thanh tịnh tự nhiên. Cho nên Phật nói: Vô luận ở đâu tâm hằng an lạc.
Sử quân, nếu tâm địa mình trọn lành, thì cõi Tây phương cách đây chẳng xa. Bằng mình cưu mang cái tâm chẳng lành mà niệm Phật cầu vãng sanh, thì ắt khó đến cõi ấy.
Nay khuyên các Thiện tri thức, trước trừ mười điều ác, tức là đi tới mười muôn, sau dứt tám điều tà, ấy là qua khỏi tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường làm việc công bình, thì đến cõi ấy mau như khảy móng tay, liền thấy Phật Di Đà......
Sư nói: "Đại chúng! Người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành; con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm.
Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà.
Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là rùa, trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh......
Chư Thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì Thiên đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã thì núi Tu Di sập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt. Tâm địa mình chính là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài soi sáu cửa trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục dục. Trong soi tánh mình, làm cho ba độc liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần. Trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây phương. Nếu chẳng chịu tu như thế, thì làm sao đến cõi kia được!" (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ BÁT CHÁNH ĐẠO
1. Chánh tín (Chánh kiến/ Phân Biện): Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Nghĩa là sự nhận thức sáng suốt và hợp lý trên căn bản của trí tuệ, không còn vướng bụi của tà kiến, mê lầm vọng chấp.
2. Chánh tư duy: Chánh tư duy là suy nghĩ chân chánh, là suy nghĩ không trái với lẽ phải, có lợi mình và người.
3. Chánh ngữ: Chánh ngữ là lời nói chân thật không hư dối, có lợi ích chính đáng, công bình, ngay thẳng và hợp lý. Lời nói không làm tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người khác.
4. Chánh nghiệp: Hành động có tác ý. Chánh nghiệp nghĩa là hành động tạo tác trong đời sống cần phải sáng suốt chân chánh.
5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Đời sống chân chánh bằng nghề nghiệp lương thiện, chính đáng không bóc lột, xâm hại đến lợi ích chung của người khác.
6. Chánh tinh tấn: Tinh tấn là siêng năng, chuyên cần thẳng tiến đến mục đích và lý tưởng mà Phật đã dạy. Hăng say làm những việc chính đáng mang lợi ích cho mình và cho người.
7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ, nhớ nghĩ. Nhớ nghĩ chân chánh. Có Chánh ức niệm (Quá khứ) và chánh quán niệm (Quán sát cảnh hiện tại và bắt đầu của tương lai)
8. Chánh định: Là tập trung tư tưởng tu tập thiền định, vào vấn đề chính đáng, đúng chân lý, lợi mình và người. (Nguồn: Sự Hiển Lộ của Thánh Đoàn, 463)
+ Bát Chánh Đạo (Bát tà đạo là nghịch lại) - HT Tuyên Hóa giảng
Tám Thánh Ðạo Phần, tức tám Chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
1. Chánh kiến: Ðây không phải là cái thấy của mắt thấy, mà là cái thấy của kiến giải trong tâm. Thế nào là kiến giải chính xác? Tức là dùng hành vi vô lậu để quan sát kiến giải của chính mình có chính xác hay không, tức là vật phi lễ chớ nhìn, cái gì không chánh đáng thì không nên xem, vì bất chánh là tà kiến. Ví dụ thầy Tỳ-kheo thấy người không chánh đáng thì không nên nhìn. Cho nên các Tỳ-kheo đều không đi xem phim, không ca múa hát xướng, cũng không cố đi xem nghe. Nếu thích đi xem thì không phải là có chánh kiến, thậm chí trong lòng có nghĩ tưởng đến cũng là không chánh kiến. Nhưng nếu có việc không chánh đáng ở trước mắt, cũng không nghĩ đó là bất chánh mà cho là chánh đáng, đó cũng là chánh kiến.
2. Chánh tư duy: Tư duy là ở bên trong, người ta không thể thấy được, chính mình phải dùng trí huệ vô lậu. Tôi nhiều lần giảng cho quý vị nghe về vô lậu, nhưng càng giảng quý vị càng lậu thêm. Giả sử có được chút trí huệ nào cũng bị chảy sạch hết. Nước trí huệ rịn chảy hết thì có lửa vô minh sanh ra. Pháp mà tôi giảng cho quý vị nghe là pháp hay nhất mà cả trong thiên hạ này không pháp nào hay hơn. Nếu không chịu chú ý, chẳng nghe cho kỹ thì dù Ðức Phật Thích Ca tái thế cũng cứu không được quý vị. Vô lậu tức là không có tà tư tà kiến. Không có tâm dâm dục tức là vô lậu. Có tâm dâm dục tức là hữu lậu. Chánh tư duy tức là vô lậu, tà tư duy tức là hữu lậu. Tư duy thuộc về tâm, cũng là ý. Trong ý niệm không khởi một niệm không chính đáng nào tức là Chánh tư duy.
3. Chánh ngữ: Là trong lời nói của chính mình không có một chút ý nào dâm loạn. Những lời nói ra đều thật đứng đắn. Nếu ai có nói với mình những lời không đứng đắn, mình cũng phải nói với họ những lời đứng đắn mà không được dùng lời không đứng đắn đáp lại. Ðó tức là chánh, là khẩu nghiệp thanh tịnh. Trên đời này bất cứ người nào cũng gặp phải điều ấy. Nếu có ai nói những lời không đứng đắn, chẳng cần phê bình họ nói không đúng, mà không nên tiếp cận với họ là được. Nhưng mặt khác, bạn không cần cho họ là nói lời không chánh đáng, thế thì không chánh đáng cũng biến thành chánh đáng. Chánh tư duy tức là ý thanh tịnh, mà chánh ngữ là khẩu nghiệp thanh tịnh.
4. Chánh nghiệp, là thân nghiệp thanh tịnh. Dùng trí vô lậu để trừ bỏ tà nghiệp của bản thân. Tà nghiệp là gì? Cũng tức là niệm dâm dục. Một số người mượn câu "Không tức là sắc, sắc tức là không" mà hành động sai quấy, đây tức là tà nghiệp. Trí vô lậu tức là trí huệ không có những thứ không chánh đáng. Có người chỉ có tà huệ, bảo họ làm việc đứng đắn thì họ không biết làm, nhưng nếu bảo họ làm việc bậy bạ (như hành dâm...) thì họ thông minh hơn những người khác, đó là tà nghiệp. Chánh nghiệp thuộc về thân nghiệp.
5. Chánh mạng. Chánh mạng đối lại với tà mạng. Sao gọi là tà mạng?
i) Hiện tướng khác người để hiện bày việc kỳ lạ. Những người này biểu hiện ta đây không giống với người khác: "Các vị xem tôi đây khác với mọi người!" Như ở Hương Cảng có một vị Pháp sư người Trung Hoa cố ý đắp y Tiểu thừa. Ở Ðài Loan cũng có những người như vậy, mục đích của họ chỉ là lôi kéo sự chú ý của người khác để được cúng dường. Một số người có mắt như mù, liền cho họ là bảo bối rồi đến cúng dường.
ii) Tự nói mình có công đức. Những người này tự khoe khoang công đức của chính mình, nói Viện Dưỡng Lão kia là của tôi lập nên, hoặc nói tôi xuất ra bao nhiêu tiền để làm trường học, độ được một số đệ tử, lập nên một số cảnh chùa, cúng dường mấy trăm vị Hòa thượng. Tóm lại, đó là sự khoe khoang công đức của mình. Kỳ thực, chỉ có những người ngu si mới tin được lời họ; còn người có trí huệ, giả sử nhắm mắt lại, chỉ nghe họ nói cũng có thể biết được đó là lời nói khoác.
iii) Bói toán. Gieo quẻ, tính toán số mạng tốt xấu cho người khác. Những hạnh nghiệp này chẳng phải chỉ người tại gia, mà người xuất gia cũng có làm. Họ có thể nói với kẻ dễ tin: "Anh nên đưa tôi một triệu bạc để làm việc thiện, nếu không thì ngày mai có thể phải chết đấy!" Kẻ ấy nghe nói một triệu có thể mua được tánh mạng thì đâu phải là nhiều, liền đồng ý đưa ngay. Nhưng đâu có biết rằng giả sử không đưa tiền cũng không nhất định ngày mai phải chết. Hoặc họ nói: "Ngày mai anh có thể gặp được một việc tốt đẹp. Chỉ cần hôm nay anh đưa trước năm mươi lượng vàng làm việc công đức, thế nào ngày mai anh cũng được năm trăm lượng vàng." Kẻ ấy nghĩ thầm: "Một lượng lãi tới mười lượng, có gì mà tiếc!" Thế rồi bị lường gạt. Kết quả ngày thứ hai chẳng những không có vàng, cả đến thầy bói cũng không thấy đâu nữa, bèn cho là đã gặp bậc thần tiên.
iv) Lớn tiếng ra oai. Có những vị Thầy thích lớn tiếng hò hét vô duyên cớ, khiến cho người nể sợ. Những người ấy còn cho rằng vị Thầy này tiếng nói rổn rảng mà cung kính vị ấy. Ðây tức là tà mạng. Nếu khi giảng pháp, phòng rộng lớn mà người đông, thì có thể giảng kinh lớn tiếng. Nhưng nếu có micro thì không cần phải to tiếng quá. Cứ nói chuyện bình thường, chẳng cần phải hò hét lớn tiếng. Người lớn tiếng ra oai lại chẳng biết đó là một trong năm thứ tà mạng.
v) Nói lên sự cúng dường để khích động người khác. Ví dụ nói: "Anh biết không! Tôi đến nhà cư sĩ ăn một bữa trai thật ngon, họ còn dùng nấm mèo trắng, nấm đông-cô... để đãi tôi, thật là một bữa ngon quá sức!" Hoặc đến nhà một cư sĩ niệm câu thần chú để khiến người khác cho họ ăn ngon. Một khi niệm chú như thế, vị cư sĩ ấy cảm thấy chính mình phải nên cúng dường một ít thức ăn, thậm chí không có tiền, phải đi vay mượn để mua đồ chay cúng dường vị Thầy. Ðâu biết rằng vị Thầy ấy đã phạm vào năm thứ tà mạng rồi.
6. Tinh tấn: Có Chánh tinh tấn và Tà tinh tấn. Sao gọi là Chánh tinh tấn? Giống như chúng ta đang lễ Phật, niệm Phật suốt ngày không nghỉ ngơi, đó là Chánh tinh tấn. Nếu bạn đi đến chỗ khác nói chuyện khào, càng nói càng hăng, khoa chân múa tay, đó gọi là Tà tinh tấn, không có lợi ích chi, lại chẳng có tác dụng gì. Sao gọi là Chánh tinh tấn? Chánh tinh tấn chính là làm việc có ích. Sao gọi là Tà tinh tấn? Tức là làm việc vô ích, ví như đối với Phật pháp phải dụng công, nhưng lại lười biếng chỉ nói chuyện tào lao lười biếng cũng như, khi nghe kinh, không luận bận rộn cách mấy cũng phải đến nghe kinh, đến để hộ trì pháp hội, đó gọi là Chánh tinh tấn. Nếu vốn không bận việc gì, nhưng cũng không đến nghe kinh, đó gọi là không tinh tấn. Giống như chúng ta ở đây có mấy vị cư sĩ, hễ xem phim thì rất tinh tấn, chịu đi long nhong đường lớn hẻm nhỏ mà chẳng đến nghe kinh, có pháp hội mà chẳng đến hộ trì, đó đều là không tinh tấn. Chánh tinh tấn là không luận ở chỗ nào có pháp hội thì đến ủng hộ, hộ trì đạo tràng. Nếu khoái đánh bài, cờ bạc... đó là Tà tinh tấn.
7. Chánh định: Chánh định là Tam-muội, còn gọi là Chánh thọ. Chánh định là dùng trí huệ vô lậu để tu định, thứ định này tất cả cảnh giới tà không thể lay động được. Tôi giảng kinh cho quý vị nghe, quý vị nhớ được một câu thì đi đến bất cứ đâu cũng dùng không hết. Nhưng nếu quý vị không nhớ được câu nào, quên sạch hết thì đi đến đâu sẽ bị cảnh giới ấy lay chuyển, chạy theo cảnh giới ấy, đó là không có chánh định. Có người nói: "Tôi biết tôi không có chánh định." Ðã biết là không có, sao không dùng chánh định? Cũng như có mấy người nọ, khi nghe tôi giảng điều gì đó đều nói: "I know, I know." Ðã biết sao còn phạm phải sai lầm?
8. Chánh niệm: Chánh niệm là niệm trí huệ vô lậu, không còn hữu lậu nữa. Không còn hữu lậu tức là không có tâm dâm dục. Không có tâm dâm dục tức chánh niệm. Có tâm dâm dục tức là tà niệm. Có người nói: "Người ấy có tâm dâm dục đối với tôi, nhìn thấy mắt họ là biết ngay." Nếu không có tâm dâm dục, sao lại đi nhìn vào mắt người ta? Mình có tâm gì? Chính mình nếu không có tâm dâm dục, làm sao biết người ta có? Nếu không có thì là thanh tịnh hoàn toàn, trong sạch không nhiễm ô, chính mình không có chút tư tưởng nào về việc đó cả thì làm sao biết được kẻ đối diện mình có tâm dâm dục? Vậy thì rõ ràng là không diệt trừ tâm dâm dục, không dứt tâm dâm dục chính là tà niệm, không phải chánh niệm. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Bát Chánh Đạo chỉ là một trong rất nhiều Pháp Tu Đạo Bồ Tát/ Thánh Đạo
Người tu Thánh Đạo theo các pháp sau:
- Tu “Nhẫn nhục” để có đầy đủ các tướng tốt.
- Tu “Tinh tấn” để phá trừ ma oán, sớm thành Phật.
- Tu “Thiền định” nên có thể sinh khởi pháp lành.
- Tu “Trí tuệ” để dứt bỏ vọng kiến phân biệt.
- Tu “Tâm từ” để chẳng khởi phiền não, làm hại.
- Tu “Tâm bi” để thương yêu các chúng sinh.
- Tu “Tâm hỷ” để diệt trừ tâm ganh ghét đố kị.
- Tu “Tâm xả” để được tĩnh tại, không yêu ghét...
- Tu “Tứ nhiếp pháp” để có thể giáo hóa chúng sinh.
- Tu “Tứ niệm xứ” để thành tựu pháp quán tứ niệm xứ.
- Tu “Tứ chánh cần” để đoạn trừ tất cả pháp bất thiện.
- Tu “Tứ thần túc”, đẻ thân tâm nhẹ nhàng, thư thái.
- Tu “Năm căn”, để có lòng tin vững chắc, siêng năng, không mê mờ, vọng động, luôn tĩnh lặng, thuần hòa dứt các phiền não.
- Tu “Năm lực”, để mọi thù địch đều diệt hết, không bị phá hoại.
- Tu “Bảy giác chi”, để khéo giác ngộ tất cả các pháp.
- Tu “Tám Thánh Đạo”, để có trí tuệ chân chánh, luôn hiện ra.
- Tu “Pháp chỉ”, để có năng lực trừ bỏ tất cả kết sử.
- Tu “Pháp quán”, để nhận biết tự tánh của các pháp đúng thật.
- Tu “Phương tiện”, để có cái vui của hữu vi và cái vui của vô vi.
Này Long Vương, ông nên biết 10 nghiệp thiện ấy hay khiến mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng và tất cả Pháp Phật đều được viên mãn. Vì thế, nên các ông phải nên siêng năng tu học. (Nguồn: Kinh Thập Thiện)
Xem thêm: Bát Chánh Đạo - PS Tịnh Không giảng
Xem thêm: Bát Chánh Đạo của Phật Giáo
Xem Đức Phật dậy về Bát Chánh Đạo .... Nguồn: Tại đây
+ Tám vạn bốn ngàn pháp môn - Tám muôn bốn ngàn ...
Chư Thiện tri thức! Pháp môn của ta đây do một pháp Bát nhã mà sanh ra tám muôn bốn ngàn trí huệ. Bởi cớ sao? Vì người thế gian có tám muôn bốn ngàn trần lao. Nếu không có trần lao, thì trí huệ thường hiện ra, nhưng nó chẳng lìa tự tánh. Hiểu rõ pháp này, thì không có vọng niệm, không hồi ức, không dính cảnh, không sanh điều giả dối. Dùng tánh Chơn như của mình, lấy trí huệ mà chiếu soi, đối với tất cả các pháp không giữ không bỏ, tức là thấy tánh, là thành Phật đạo vậy.
Sư nói: "Sử quân hãy nghe cho kỷ, Huệ Năng giải cho. Đức Thế Tôn lúc ở thành Xá Vệ, nói kinh về chỗ tiếp dẫn vào cõi Tây phương, rõ ràng cõi ấy cách đây chẳng xa. Nếu luận về hình tướng và số dặm, thì có mười muôn tám ngàn, tức là chỉ mười điều ác và tám điều tà trong thân. Thế mới nói là xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì người thượng trí. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tám vạn bốn ngàn tâm hành: Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng ?
Bồ Tát chuyên cần tinh tiến cầu pháp thắng thiện, nơi pháp môn thậm thâm tâm nhập suy lường thanh tịnh thông thạo rộng lớn huệ sáng Được môn Đại trí minh . Dùng sức Đại trí minh môn ấy biết rõ tâm hành cảnh giới của tất cả chúng sanh, tổng nói mỗi chúng sanh có tám vạn bốn ngàn tâm hành, tất cả Đều có thể rõ biết .
Đó là tâm hành tham dục có hai vạn một ngàn,
Tâm hành sân hận có hai vạn một ngàn,
Tâm hành ngu si có hai vạn một ngàn,
Tâm hành Đẳng phần có hai vạn một ngàn,
Cộng là tám vạn bốn ngàn tâm hành, mỗi chúng sanh Đều có những tâm hành ấy, nếu phân biệt nói rộng thì có Đến vô lượng tâm hành . Trong mỗi hành tướng môn ấy biết có tám vạn bốn ngàn căn môn . Trong mỗi căn môn ấy biết có tám vạn bốn ngàn những tri giải sai biệt . Bồ Tát biết hết các hành tướng các căn môn các tri giải tướng sai biệt, biết các tướng nên Được tu tập.
Thế nào là biết tướng sai biệt ?
Bồ Tát biết các hành các căn các giải ấy hoặc là tướng tham dục, là tướng sân hận, là tướng ngu si, là tướng Đẳng phần, là tướng tăng, là tướng giảm, là tướng trụ, là tướng Đạt . Đây gọi là biết tướng sai biệt. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ Ngũ lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ kiến. Sao gọi là Lợi? -Lợi là đến nhanh chóng, trái với Ðộn là đến chậm chạp.
1. Thân kiến: Chấp trước đây là thân thể của ta. Thân thể của ta gầy đi, cảm thấy ăn không ngon, mặc không vừa ý, ở không thoải mái. Thân thể ta như thế thì làm sao an toàn được? Suốt ngày từ sáng tới tối cứ lo nghĩ về mình.
2. Biên kiến: Chính là chấp đoạn chấp thường. Chấp đoạn thì cho rằng người ta chết đi trở về với hư không, không còn gì nữa, như dầu hết đèn tắt. Chấp thường thì cho là con người chết đi, thì sao? Vẫn làm người nữa; chó mãi mãi làm chó, mèo cứ làm mèo hoài; người luôn luôn làm người, chớ không đổi làm chó mèo được. Những kiến chấp như trên lạc vào nhị biên nên gọi là Biên kiến, không hợp với Trung đạo. Ðời này làm người, đời sau vẫn làm người. Cỏ vẫn là cỏ, cây vẫn là cây, người không thể làm súc sanh, cũng không thể làm quỷ. Ðó chính là Biên kiến.
3. Tà kiến là thế nào? - Tà kiến là cho rằng làm lành không có quả báo lành, làm ác cũng không có quả báo ác. Họ bác không nhơn quả, hoàn toàn không nhơn không quả. Họ không tin làm lành được phước, làm ác phải tội.
4. Giới cấm thủ kiến: Dạy người giữ giới bò, giới chó. Giữ giới bò là bắt chước theo bò ăn cỏ. Tại sao thế? Nhơn vì họ thấy biết sai lầm, thấy bò được sanh lên trời cho nên bắt chước theo bò, thấy chó được sanh lên trời cho nên bắt chước theo chó.
Giới kiến: Không phải nhơn chấp là nhơn, cũng là giới thủ. Người xuất gia giữ giới có tâm chấp trước này, họ chấp rằng ta hay giữ giới, giới này là giới của ta giữ, có một thứ tâm hay giữ giới và những giới được giữ. Họ không biết rằng bản thể của giới xưa này vốn là rỗng không, không nên chấp trước. Hễ có chấp trước thì biến thành Giới thủ.
5. Kiến thủ kiến: Không phải quả chấp là quả. Không phải là quả rốt ráo, họ cho đó là quả rốt ráo. Họ cho Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Xứ là Niết bàn, đó gọi là "không phải quả chấp là quả". (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Biên kiến: .... Bằng đối với mọi vật, lòng không nghĩ đến, khiến cho niệm tưởng dứt đi, tức là bị pháp ràng buộc. Ấy gọi là biên kiến.
Giảng:
Nếu như quý vị nói: "Tôi ngồi ở đây không nghĩ đến việc gì, khiến cho niệm đoạn tuyệt." Nhưng quý vị vẫn còn một niệm "khiến cho niệm đoạn tuyệt," tức lại bị pháp phược. Không những không thể giải thoát mà còn bị pháp trói buộc. Đó gọi là biên kiến, rơi vào hai bên, không phải là trung đạo. (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chất trí (Mind–stuff): X. Chitta.
+ Trí tuệ/ Trí năng tức là THỂ TRÍ. (ASCLH, 254;
+ Trí tuệ = Thông tuệ_CTNM, 588)
+ Nguyên khí trí tuệ: Cái phân biệt con người với con thú đơn thuần. Đó là nguyên khí biệt lập ngã tính; Giúp con người nhận biết sự tồn tại, cảm nhận và tri thức. Thường chia 2 phần, thượng trí hay trí trừu tượng và hạ trí hay trí cụ thể. (TVTTHL, 355)
+ Trí năng: Gồm lý trí, phán đoán, tưởng tượng, so sánh và các quan năng trí tuệ khác (MTNX, 148)
+ Trí tuệ là ngã thức sáng suốt, hướng dẫn và điều khiển hoạt động của Phàm ngã hội nhập, xuyên qua thể trí và bộ óc, và hoạt động qua bí huyệt cổ họng và bí huyệt ấn đường. (TLHNM–II, 233)
+ Trí tuệ - Manas là nguyên khí thứ năm.(LVLCK, 309)
+ Manas: Là trí tuệ biểu lộ trong tiểu thiên địa.(ASCLH, 15)
+ Linh hồn có thể được xem như là nguyên khí trí tuệ. (TLHNM I, 38)
+ Siêu trí tuệ: Siêu trí tuệ là sự đáp ứng của thể trí giác ngộ với Thiên Trí (CTHNM, 495)
+ Trí tuệ chân thật siêu vượt thể trí biện thông rất nhiều .. (PS Tịnh Không giảng: Xem chi tiết)
+ Trí tuệ: Trí tuệ tiến hóa qua nhiều kiếp sống phát triển trí tuệ và tư duy đúng, cho đến một lúc nào đó chúng ta trải nghiệm đủ cả 2 cấp độ cao và thấp của trí tuệ. Trong sự phát triển, chúng ta tiến từ nhận thức trong hạ trí cụ thể đến nhận thức trong trí trừu tượng. Trí cụ thể:
1. Thu đạt kiến thức.
2. Nhận và xử lý thông tin từ 5 giác quan.
3. Phân biệt, phân chia, phân tích, liên lệ, suy nghĩ, học hỏi và suy diễn sự việc.
4. Tạo hình tư tưởng, hình ảnh, lời nói.
5. Nằm trong cảnh giới của ảo tưởng cho đến khi nó không còn bị tác động bởi dục vọng, kiêu căng và định kiến.
6. Sáng tạo bởi vì năng lượng theo tư tưởng.
Hạ trí chịu trách nhiệm về khả năng nhận thức của chúng ta. Gồm việc suy nghĩ, suy luận, phân tích, so sánh, học tập, hình dung và phân biện. Tất cả các hoạt động thông thường của não bộ thuộc về trí cụ thể. Não bộ - Thành phần của thể xác và nó không suy nghĩ. Nó đơn giản là một công cụ tinh tế nhất đáp ứng với hoạt động của thể trí và chuyển nó thành hành động trong cõi hồng trần.
+ Chitta hay chất trí (mind-stuff) trở nên rung động mạnh mẽ hơn, và hiện giờ chúng ta có giai đoạn hoạt động mãnh liệt nhất của nó theo ý nghĩa cụ thể.
- Năng lượng trí tuệ trong phạm vi mà nhân loại có liên quan cũng thành ba khía cạnh. Do đó chúng ta có:
1. Trí cụ thể thấp, được gọi là chitta hay là chất trí (mind stuff) theo Yoga Điển Tắc của Patanjali.
2. Trí trừu tượng, hay là trạng thái của trí có liên quan đến thế giới ý niệm.
3. Trực giác hay lý trí thuần túy, mà đối với con người, là khía cạnh cao nhất của trí năng (mentality, trí lực).
Ba khía cạnh này thuộc phạm vi bao phủ của sự biểu lộ trong trạng thái thứ ba của Ngôi Lời (Logos), là Thiên Trí (Universal Mind), tức Thượng Đế thông tuệ hoạt động. Các đường lực (lines of force) từ ba khía cạnh thấp này dẫn trở lại (nếu người ta có thể sử dụng một diễn đạt không thích hợp như thế) lên đến cõi thứ ba, trong khi các đường lực cảm dục dẫn trở lại đến cõi thứ hai hay cõi Chân Thần (monadic plane) mặc dù trong phạm vi mà ý thức con người có liên quan, thì chúng chỉ dẫn trở lại đến cõi bồ đề hay cõi trực giác (buddhic or intuitional plane).
Do đó chính nguyên khí trí-tuệ trong nhân loại mới mang Chân-ngã-thể (egoic body), tức thể nguyên nhân (causal vehicle), tức karana shrira, hoa sen có mười hai cánh, vào biểu lộ. Dĩ nhiên, ở đây chúng ta đang nói hoàn toàn theo các thuật ngữ của khía cạnh hình tướng (LVHLT, 361)Xem hình ảnh 4 cõi thấp - Hạ trí
Xem: Xem Rộng Trí Tuệ là Cung 1 – 4 – 5
Xem: TH về Cõi trí, Thể trí (Thượng, hạ trí), Cung Thể Trí
Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị
+ Kinh Lục Tổ Pháp Bảo đàn - Lục Tổ Đàn Kinh: Nhưng quyển Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn là Kinh Trung Quốc, không phải Kinh Ấn Độ, cho nên ngoài bảy loại lập đề ra, còn có thêm một loại là Xứ lập đề. Lục Tổ là người, Pháp Bảo là pháp, Đàn là xứ sở, vì thế quyển Kinh này là Nhân Pháp Xứ lập đề, không thể giảng theo bảy loại lập đề kể trên. ....
Kinh là Pháp Thiền tông - Pháp đốn ngộ - Đốn giáo: ... Trước khi Tổ sư Đạt Ma đến Trung Quốc, Ngài có phái hai người đệ tử là Phật Đà và Da Xá đến Trung Quốc truyền pháp môn đốn ngộ, tức là Thiền tông. Ai ngờ hai Ngài đến Trung Quốc lại gặp phải cảnh trái ý nghịch lòng, tất cả các Tăng sĩ thời đó đều không xem trọng hai Ngài.
Sau đó hai Ngài đến Lư Sơn gặp Đại sư Huệ Viễn; Ngài Huệ Viễn chuyên giảng về pháp môn niệm Phật. Đại sư Huệ Viễn hỏi:
– Hai vị là các Tăng sĩ Ấn Độ, hai vị truyền pháp môn gì mà sao không có ai theo học?
Ngài Phật Đà và Da Xá chỉ biết nói rất ít tiếng Trung Quốc, bèn đưa tay ra nói:
– Hãy nhìn xem! Bàn tay tôi nắm vào và giở ra có nhanh không?
– Rất nhanh.
– Bồ đề và phiền não cũng nhanh giống như vậy.
Đại sư Huệ Viễn lập tức khai ngộ, biết ra Bồ đề và phiền não vốn không có gì sai khác. Bồ đề tức phiền não, phiền não tức là Bồ đề! Ngài Huệ Viễn sau khi khai ngộ, rất cung kính cung dưỡng Ngài Phật Đà và Da Xá. Nhưng không lâu hai bậc cao Tăng Ấn Độ này đều vãng sanh trong cùng một ngày. Phần mộ của hai Ngài đến nay vẫn còn ở Lư Sơn. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tánh Giác: Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung Tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “TÁNH GIÁC”.
- PHẬT TÁNH: Đối với con người thì cái Tánh giác này là Phật tánh hay Tánh giác diệu minh là Chánh Nhân Phật tánh nghĩa là Tánh mầu nhiệm vốn sẵn có. Phật tánh hay Tánh giác thì lúc nào cũng thanh tịnh, trong sáng, thường diệu, thường minh nên gọi là “Tánh giác diệu minh” mà không cần Cái minh bên ngoài tức là sở minh để có minh. Nhưng con người vì lầm lẫn chạy theo vọng chấp tham-sân-si nên mới tạo nghiệp và tự cột họ vào trong sinh tử luân hồi. Bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, tự quay thuyền trở lại bến xưa thì tánh giác sẽ trở thành BẢN GIÁC tức là cái giác tính bản lai sẳn có của mình. Cái bản giác này thường minh và thường diệu nên gọi là bản giác minh diệu. Phật tánh thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh.
- Còn bản giác minh diệu là Liễu Nhân Phật tánh nghĩa là Phật tánh nhờ công phu tu tập rồi mới ngộ. (Nguồn: Xem Mục Giác không sinh mê)
+ Toàn Tánh nơi Chân Tâm: Đức Phật bảo: ... A-nan, như tất cả sự vật hiện hữu trong thế giới từ ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, nút thắt… khi gạn xét cội gốc của nó, mỗi thứ đều có thể tánh, cho đến như hư không cũng có tên gọi và dáng mạo.
Huống gì bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là bản chất của tất cả mọi tâm niệm mà tự nó lại không có thể tánh hay sao?
Nếu ông chấ́p chặt tánh phân biệt hiểu biết, cho đó là tâm, thì tâm này khi rời tất cả sắc thanh, hương, vị, xúc, thì tâm ấy phải riêng có toàn tánh.
Nếu cái tâm phân biệt ấy là chân tâm thì lẽ ra nó sẽ hiện hữu mà không cần bất kỳ sự liên hệ nào với sắc, thanh, hương, vị, xúc. Mặc dù chỉ đề cập đến năm món. Nhưng đều hàm ý đến cả sáu trần. Nếu thức tâm phân biệt thực là chân tâm thì lẽ ra tâm ấy sẽ tiếp tục tồn tại ngay cả khi cái tâm có toàn tánh kia, siêu việt hẳn các cảm giác khi tiếp xúc với sáu trần. Lẽ ra phải có một cái tâm khác, ngoài cái tâm hình thành ngay khi các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý tiếp xúc với các trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
Có phải đó chính là giải pháp chăng?