Tứ trụ thật rễ hiểu: Âm Dương Ngũ Hành Hình Xung Khắc Hại Hội Hợp [TH Moclan trên DĐNTH - Phần I.2 ]

TỔNG HỢP CÁC CÁC BÀI GIẢNG
CỦA CHỊ MOCLAN TRÊN DIỄN ĐÀN NHÂN TRẮC HỌC

(Tiếp theo phần I - Tứ trụ thật rễ hiểu)

+ Phần II- Các bước tuần tự xét tứ trụ

Sau khi xác định cơ bản tính chất của nhật chủ và lệnh tháng khôngẤn Kiêu để sinh trợ cho thân, việc quan sát tứ trụ tiếp tục với sự quan hệ giữa các Địa Chi. Bạn nên thuộc bảng sinh, khắc, hình, hại, phá, hợp, không vong, vì sẽ phải dùng đến trong nhiều phần khác trong cung mệnh, đại vận, lưu niên.

1). Tìm xem mối quan hệ giữa các địa chi trong bốn trụ. Với thí dụ ở phần 1, ta thấy chi Dậu hại chi Tuất:

[table="head"]Năm|Tháng|Ngày|Giờ
Bính|Đinh|Quí|Bính
Tuất|Dậu|Hợi|Thìn
mậu, đinh, tân|tân|nhâm, giáp|mậu, quí, ất[/table]

Nhắc lại các loại Hình, Hại, Xung, Phá, Hợp đều phải đứng cạnh nhau trong tứ trụ thì mới tính. Như thí dụ trên thì Dậu không có quan hệ gì với HợiThìn, mà chỉ tính Tuất Dậu thuộc loại Hại.

2). Xem mối quan hệ lục thân của các trụ. Căn bản thì các trụ đại diện cho mối quan hệ họ hàng như sau:

[table="head"]Năm|Tháng|Ngày|Giờ
tổ tiên, ông bà|cha mẹ|Can: chính mình, Chi: chồng, vợ|con cái[/table]

Với thí dụ Dậu hại Tuất ở 2 cung năm và tháng, có thể cho thấy sự mâu thuẫn hay khó khăn xảy ra giữa ông bà và cha mẹ.

3). Bây giờ là đến phần so sánh các loại hình hại xung khắc giữa tứ trụ và đại vận. Bạn phải biết cách lập đại vận là tính từ tháng. Nam sinh năm dương là dương nam, nữ sinh năm âm là âm nữ, đều tính thuận từ tháng trở đi. Ngược lại, âm nam và dương nữ phải tính ngược. Điều này không nói lên sự việc vận đi thuận là tốt và vận đi nghịch lại là xấu. Hoàn toàn phải dựa vào ngũ hành thuận lợi hay bất lợi thì mới biết là vận thuận hay nghịch vận. Nhưng ở đây ta chỉ chú trọng vào mối quan hệ giữa các Chi với nhau để có một cái nhìn tổng quát. Lại xin nhắc lại rằng không phải Khắc là luôn luôn xấu và Hợp luôn luôn tốt. Đôi khi các kị thần họp lại với nhau thì thân chủ càng thêm mệt, vì sự khắc chế nặng nề, cho dù vận đó trên thiên can xem như là thuận lợi.

Có người chỉ xem địa chi của Vận, không xem thiên can là quan trọng vì cho rằng Can là thứ yếu. Tôi xem cả hai như nhau, nhất là khi Thiên can biểu hiện lại sự xung khắc sẵn có trong tứ trụ. Thí dụ như Nhâm khắc Bính trong trụ, đến vận Nhâm thì điều khắc chế này sẽ xảy ra, cho dù địa chi mang hành dụng thần của mình. Sự khắc chế này giảm thiểu hay mất hẳn đi lại là một phần khác, xin nói rõ sau.

Trở lại tứ trụ của cháu trai và đại vận cùng mối quan hệ giữa các địa chi với nhau:

[table="head"]Năm|Tháng|Ngày|Giờ
Bính|Đinh|Quí|Bính
Tuất|Dậu|Hợi|Thìn
mậu, đinh, tân|tân|nhâm, giáp|mậu, quí, ất[/table]

​[table="head"]2-11 tuổi|12-21|22-31|32-41
Mậu Tuất|Kỉ Hợi|Canh Tí|Tân Sửu[/table]

Theo bảng hình hại ta nhận thấy
-Vận Mậu Tuất: Tuất phá Dậu
-Vận Kỉ Hợi: Hợi hình Hợi
-Vận Canh Tí: Tí bán hợp với Thìn thành Thủy cục, và Tí đồng thời cũng phá Dậu
-Vận Tân Sửu: Sửu-Tuất-Thìn là 1 loại tam hình

4). Sau đó là nhận định thêm vài khía cạnh khác thông qua lục thân.

- Vận Kỉ Hợi hình thành loại Hình này ở trụ ngày là có liên quan đến người trong nhà. Hợi cũng là Thủy tức là Kiếp của nhật chủ Quí, thì có thể đoán sự việc xảy ra giữa mình và anh chị em hoặc bà con đang ở trong nhà mình. Trụ ngày với Chi là nói đến chồng vợ, nhưng cũng đề cập đến “nhà” tức là căn hộ mà nhiều người sống chung trong đó một thời gian lâu, không chỉ nói đến chồng hay vợ. Nhất là đại vận Kỉ Hợi này cậu bé mới chỉ 12-21 tuổi thì không nói hẳn được về người vợ. Lại nữa, khi thấy chi của trụ ngày bị hình thì cậu ta không dễ gì lấy vợ sớm khi 20 tuổi. Cũng nên tùy theo vận tuổi mà linh động xét đoán.

- Vận Canh Tí thấy có lọai Phá giữa Tí Dậu, đụng chạm với trụ tháng. Có thể đoán một sự khó khăn hay có vấn đề cãi cọ, xung khắc xảy ra giữa mình và cha mẹ, hoặc giữa mình và một người có chức vị cao hơn mình, bởi vì trụ tháng còn đại diện cho ông chủ, người cấp cao hoặc đại diện pháp luật. Đồng thời Tí bán hợp Thìn là Thủy cục, cũng có thể dễ luận đoán thân chủ sẽ có khuynh hướng ngã về các loại tứ đổ tường, thí dụ như rượu, nghiện ngập. Nếu nhẹ hơn là bị sức ép ở chỗ làm hoặc gia đình. Canh Tí vận ở giai đoạn đang làm việc và xây dựng bản thân nên nghiêng về giải đóan sinh hoạt nghề nghiệp là đúng nhất.

Những người chưa làm quen với Tử bình lâu ngày sẽ rất dễ nhớ phần hình xung khắc hại giữa các chi, vì chúng ta ai cũng thuộc Ngũ hành, 12 địa chi và 10 Can. Đấy là một thuận lợi cho bước đi ban đầu. Những phần khó hơn như thập thần, thần sát, dụng thần, kị thần… v.v… thật ra cũng xuất phát từ các sự liên hệ giữa ngũ hành và can chi. Sau khi nắm vững bảng tứ trụ và đại vận với các bước đi giản đơn như trên, sẽ không khó khăn gì khi bắt đầu học các thuật ngữ mới.

 Ngày 27/06/2009

Mấy hôm nay bàn dân bị sốc vì cái chết của Michael Jackson và người ta đang tìm lại giờ sinh của ông vua nhạc Pop này. Ngẫm nghĩ cũng lạ lùng... khi chết mới ráo riết tìm lại giờ sinh ra đời cho đúng, để làm gì? Để chứng nhận cho cái chết! Tại sao phải rắc rối thế?

Trên thế giới cùng trong ngày 25.6.2009 có biết bao nhiêu người gặp tử thần, nguyên nhân chết có đến hàng vạn lý do, ta chỉ nghe nói đến có 1 hay 2 trường hợp trong vạn trường hợp, nên khi chỉ muốn tìm một sự "chính xác một trăm phần trăm" là điều không thể làm được. Chính vì thế trong Tử Bình nên dùng lý luận chung nhất là xài, theo tôi thì hiểu rõ ngọn nghành là bất tận, nếu rơi vào việc kiếm tìm sự hoàn mỹ là không bao giờ đến.

Trong ngày 25 có thêm một cái chết của Farrah Fawcett, nữ diễn viên đóng phim nổi tiếng "Thiên thần của Charlie", thử tìm xem sự giống nhau của 2 tứ trụ này là biết cái điều chung nhất nằm ở đâu.

Theo nhiều thông tin, thí dụ như tạm chấp nhận 2 tứ trụ sau đây là của M.Jackson và F.Fawcett:

Michael: 29.8.1958, 12 giờ 44 phút tại Indiana
Farrah: 2.2.1947, 15 giờ 10 phút tại Texas

Họ cùng là người nổi tiếng, cùng có nguyên nhân chết là do bịnh tình, trực tiếp hay gián tiếp qua thuốc men. Khi đến vận hạn cực xấu như vậy, hãy nhìn lại đại vận, lưu niên và các Chi trong trụ, chưa nói đến dụng hay kị thần.

Đại vận của Michael: Ất Sửu, Farrah: Ất Mùi, lưu niên: Kỷ Sửu

Bạn có nhớ hạn tam hình của công nương Diana cũng là Sửu Tuất Mùi? Vậy nhìn chung là hạn Thổ có thể gây vấn đề lớn. Nhưng gây vấn đề cho ai? Hành nào? Hãy xem lại vòng tương sinh, tương khắc, hình hại...

1. Thổ do Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ cháy khét, hoặc ngược lại, Thổ nhiều thì Hỏa vào đường cùng không phát triển thêm được.
2. Thổ sinh Kim, nhưng Kim nhiều thì Thổ biến dạng
3. Thổ đi khắc Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ trôi giạt
4. Thổ mà đang suy lại gặp Mộc thì bị hãm hại

Trong trụ của M.Jackson, so các Chi của 6 trụ lại với nhau thì thấy:

[table="head"]Năm|Tháng|Ngày|Giờ|Đại vận|2009
Mậu|Canh|Mậu|Mậu|Ất|Kỷ
Tuất|Thân|Dần|Ngọ|Sửu|Sửu[/table]

Dần Ngọ Tuất = Hỏa cục; Ất Canh = Kim là 2 chốt của vấn đề. Hai Sửu đến phá tan Hỏa cục, vì SửuTuất thuộc tam hình Thổ. Mà Hỏa chính là Ấn (sức khỏe) của nhật chủ Thổ.

Ất Mộc gặp Canh Kim thì Ất theo Canh hóa thành Kim, cũng hiểu là nếu Ất là dụng hay hĩ thần là bị Canh hóa mất, hoặc ngược lại, nếu Canh là dụng hĩ thần thì rơi vào trường hợp 2 (Thổ sinh Kim, nhưng Kim quá mạnh thì Thổ biến dạng, như đất khác quặng mỏ là vậy).

Còn vài chi tiết nhận xét khác, như Ất gặp Kỷ là Can xung khắc nhau (âm mộc khắc âm thổ, âm khắc âm rất nặng)

Nhìn chung thì Mậu, Kỷ khá nhiều; Thổ nhiều thì khắc ngược lại Hỏa như điểm 1.

Trụ của Farrah? Các bạn thử phân tích trước để rõ.

Phần III- Cùng lập tứ trụ (Xem tại đây)

Quan hệ giữa 10 thần và nhật chủ (can ngày) có thể dễ hiểu qua hình dưới đây. Giả dụ như can ngày của bạn là Giáp thì ghi Giáp Mộc + ở giữa, rồi đếm các can khác trong trụ (gồm có can lộ ra trên trụ và các can tàng trong chi) qua 2 bảng đã cho và ghi vào chỗ tương ứng. Thí dụ như Ất có trong trụ 3 lần thì ghi vào chỗ Kiếp Tài: Ất Mộc - 3 (với thí dụ Giáp là nhật chủ).

Cùng khí tức là cùng âm hay cùng dương với NC. Vì thế ta thấy hễ khác khí với nhật chủ là Chính, cùng khí với NC là Thiên. Đó là theo định lý "1 âm, 1 dương là hợp cách", cho dù là sinh hay khắc.

Vì "Sinh, Khắc" không phải lúc nào cũng là tốt hoặc xấu theo nghĩa từ của nó, phải tùy theo sự việc mà luận giải. Thí dụ như công việc của mình (Quan, Sát) là cái khắc mình, hoặc Tài là thứ mà mình khắc, tức là mình phải nỗ lực và hành động để đạt được nó. Tùy theo thân vượng hay nhược thì sự thành công dễ dàng hay khó khăn.

Tổ hợp tốt nhất của một tứ trụ là cân bằng các ngũ hành, chỗ nào thiếu thì bổ xung, chỗ nào thừa quá thì tìm cách khắc chế bớt. Vận dụng được điều này đấy là trọng tâm của môn Tử bình, không có gì khác hơn.

(Bảng 3: Quan hệ của 10 thần)

Phần IV- Sách của Thiệu Vĩ Hoa

Ngày 13/10/2008

Đúng là có 5 giải pháp căn bản để chọn dụng thần, chữ Hán Việt khó hiểu nên trước tiên chúng ta phải biết nghĩa đó là gì.
- Phù, Ức là phù trợ hay ức chế
- Bệnh Dược nghĩa là tứ trụ có bịnh phải có "thuốc" bổ cưú
- Thông quan tức là lấy Ấn làm cho Quan được thông suốt
- Điều hầu là tính tứ trụ "nóng" hay "lạnh"; như sinh giữa mùa hè thì nóng quá cần thủy, sinh mùa đông lạnh quá cần hỏa
- Chuyên vượng hay còn goị là tùng vượng nghĩa là 1 hành nào đó làm chủ tứ trụ, không phù, không ức, không dược... được thì phải tòng theo hành đó mà sống.

 Ngày 04/03/2009

Cám ơn MOCLAN đã Sữa bài dùm ,đúng là không viết ra thì không thấy cái dốt của mình.Tứ trụ này sinh năm 1970,tháng 5 ngày 6 giờ sữu.

Xem con cái là xem ở trụ giờ rất kỹ, xem Thực Thươngtử tinh (con cái) và nam nhân thì xem cả Quan tinh. Thí dụ của TVH cho rằng con cái khó nuôi, ông ta không nói rõ nhưng phải đoán thế này theo lý can sinh khắc:
- Canh kim trong tháng NgọNhâm thai, Quý tuyệt
- Nhâm là Thực, con trai, Quý là Thương, con gái
- Quý là âm thủy tàng dưới Sửu khắc Đinh âm hỏa
- Cùng trong 1 trụ nên con gái thì khó nuôi hơn con trai
- Nhâm là dương thủy thì đối với Đinh âm hỏa không khắc (rất quan trọng!), suy diễn theo thập thần thì Thực chế Sát chứ không chế Quan (Thương quan mới tận diệt Quan)
- Canh kim lấy Ất mộc là chính tài tức là vợ
- Con của vợ theo ngũ hành thì Mộc sinh Hỏa, Ất mộc sinh Đinh âm hỏa là Quan tinh của Canh
- Đinh với Ngọ là đất Thai, nhưng Đinh với SửuMộ (trụ giờ)
- Trụ giờSửu tọa đất không vong nên hào con cái khó nuôi
- Trụ giờ nói riêng như thế thì hào con cái không tốt, con sinh ra hay bị bệnh, thậm chí tàn tật.
- Nhưng trụ giờ có Thiên Ất Quý Nhân là thần cứu giải nên chỉ tránh sinh năm Mùi vì sẽ hình thành hình hại Sửu Tuất Mùikhông nên.

Tứ trụ này khôngTài Tinh, khi nào gặp vận Giáp Ất thì chắc chắn sinh con.

Ngày 04/03/2009

Thai NguyênCung Mệnh có cách tính nhưng còn trong vòng tự nghiệm lý của mỗi người. Hai phạm trù này có tính chất bao quát quá nên phải có kinh nghiệm về Dịch mới đả thông được.
Đây là như cung phúc đức của tử vi và cũng tính thần sát như các trụ khác. Nó bổ sung cho những trường hợp mà tứ trụ không giải thích được thì xem vào Cung Mệnh hay Thai Nguyên.
Vấn đề:
- Thai nguyên thì tính ra tháng bắt đầu mang thai. Cách tính là lấy can của tháng sinh phối với chi của tháng thứ 3 sau tháng sinh hay nói cách khác, lùi lại 9 tháng là tháng mang thai. Thí dụ sinh tháng Nhâm Ngọ, lùi lại 9 tháng là Quý Dậu. Rồi xem thì Quý khắc Đinh, Dậu Sửu hợp Kim, v.v...

Nhưng nếu người sinh ra đời là sinh thiếu tháng, dư tháng thì sao? Nếu ra đời là thiếu tháng thì tháng mang thai lùi lại hay giữ nguyên? Làm thế nào ta biết được người muốn xem tứ trụ sinh thiếu tháng hay đủ tháng?

- Cung Mệnh là tính ra Sao chủ mệnh của người. Nó như là một kiểu "nghiệp lực" mà ta phải gánh chịu, như cung Mão thì tính cách rất hào phóng, xuề xòa, nhưng nắm quyền hành thì thất bại. Ở trường hợp nào thì thất bại? Lại phải tính vào trụ mới biết được, thí dụ như Mão gặp Tí hay gặp Dậu trong trụ thì có khả năng bị tù tội khi lạm dụng quyền thế, v.v...

Người xem phải mất công sức và có hiểu biết rộng, cộng thêm linh cảm sâu sắc mới nắm và giải được những điều trên.

Ngày 10/05/2011

Những can tàng viết thứ tự ra sao thì có nhiều cách, tùy theo sự tính toán ứng dụng trong việc luận giải của người viết. Thí dụ như nói đến số ngày lệnh của can tàng thì ngoại trừ bản khí, 2 khí còn lại ghi theo thứ tự giảm dần.

Thí dụ như Sửu tàng bản khí là Kỉ, còn 2 khí thừa là Quí và Tân. Nếu ghi theo số ngày lệnh giảm dần thì viết:

SỬU - Kỉ (18 ngày), rồi đến Quí (9 ngày), sau chót là Tân (3 ngày)

Nếu ghi theo Trúc Lâm Tử thì trung khí theo tác giả là số ngày lệnh ít nhất trong tiết khí đó, nên SỬU tàng Kỉ, rồi đến Tân và đến Quí. Tức là trung khí ở giữa có số thời lệnh ngắn nhất.

Ở sách TVH thì nên nhìn bảng can tàng độn trong chi (vẽ có gạch chia ra làm 3 từ địa chi, không phải bảng thể hiện 10 thần), lúc đó ta lại thấy ông ta viết ở giữa là can tàng đối với địa chi ở trạng thái Dưỡng (Thìn Tuất Sửu Mùi) và can tàng tọa Trường Sinh đối với chi Dần Tị Thân cũng nằm ở giữa.

Nói chung là tùy theo mình muốn nhớ và luận như thế nào thì học theo cách đó. Vượt qua điều này thì chỉ cần thấy cách gì lạ lạ... thì hiểu ngay các tác giả muốn nhấn mạnh điểm nào. Vì ngoài cách ghi như trên, còn rất nhiều cách ghi can tàng khác nữa.

Phân V- Các bước tuần tự xét tứ trụ

Ngày 24/06/2009

Có bạn hỏi tôi qua pm về những bước cụ thể khi tự xem xét tứ trụ. moclan rất hoan nghênh điều này vì qua đó ta tự biết rõ bản thân hơn để khi tiếp xúc với những bài người khác viết thì ít nhiều bớt được phần thắc mắc. Hiện thời phong trào học Tử bình đang lên cao, ai cũng nghe nói đến chữ "Tử Bình" nhiều hơn và mong muốn được giải tứ trụ cho rõ, thế nhưng moclan nhận thấy càng hỏi càng được trả lời lại càng thắc mắc. Lý do là bạn không hiểu môn học này chứ đôi khi không phải tại người giải. Tuy thế cũng có nhiều lời giải quá cao siêu hoặc quá rườm rà, rõ là cả 2 đều lâm vào thế kẹt của điều cần phải xúc tích, có nghĩa là đơn giản nhưng rõ ràng. Vì thế bạn chỉ cần ngồi lại tập trung vào chính tứ trụ của mình thì sẽ thấy mọi việc sáng tỏ hơn nhiều.
Điều kiện trước khi đi vào các phần sau đây là bạn đã phải biết sơ qua về Can, Chi, Tiết khí, Ngũ hành. Những điều này đều được ghi chép rất nhiều. Khi xét tứ trụ nên mở sẵn các chương này trước mắt, điều gì không rõ là xem lại liền.

Phần thứ nhất: Xác định nhật chủ, vượng nhược căn bản

1. Trước hết bạn phải có Lịch Vạn Niên trong tay hoặc trình Âm Lịch mà hiện nay thường dùng là của Hồ Ngọc Đức.

2. Ngày sinh lấy theo dương lịch, không xem ngày âm lịch và chỉ tính theo tiết khí, không lấy tháng ta. Thí dụ một cháu trai sinh ngày dương lịch ghi là 1.10.2006 lúc 7 giờ sáng. Trên lịch cho thấy ngày này nằm trong tiết Bạch Lộ (còn 6 ngày nữa mới tới Hàn Lộ), vậy tháng sinh quy ra là Dậu. Trong lịch có ghi sẵn là tháng Đinh Dậu.

3. Viết bát tự ra trên giấy đầy đủ Can Chi và Can tàng trong tháng:

[table="head"]|Năm|Tháng|Ngày|Giờ
Can:|Bính|Đinh|Quí|Bính
Chi:|Tuất|Dậu|Hợi|Thìn
Can tàng:|mậu, đinh, tân|tân|nhâm, giáp|mậu, quí, ất[/table]

4. Đánh dấu ngày sinh là Quí và nhớ đây không nói gì đến "mạng Thủy" cả, mà can ngày Quí chỉ gọi Âm Thủy.

5. Nhận định về Quí Thủy là tiền đề quan trọng trước nhất, chưa cần tính các điều khác. Nhật chủ Quí âm thủy là người luôn linh động, không ngồi một chỗ vì tính chất của thủy đầu tiên là "chảy", "lưu hành" mới hợp tự nhiên. Vì thế có thể đoán người này sẽ không thích hợp với những sự việc bắt buộc anh ta ngồi lâu sau bàn giấy hoặc trói buộc một chỗ. Ngược lại cũng có thể hiểu là những nghề có liên can đến di chuyển, đi nhiều, du lịch... Về cá tính của Thủy thì cũng đã có bài ghi rồi. Các Can khác cũng tương tự mà định tính cách cơ bản của nhật chủ. Xong phần này là bạn đã có một cái nhìn nhất định về bản thân.

6. Xác định thân vượng hay nhược. Vấn đề này là hơi khó, nhưng phải trải qua, không thì không đi tiếp các nhận định sau được. Chú ý cần thiết cơ bản là:

Nhật chủ sinh trong mùa của nó:
- Mộc sinh mùa Xuân (Giáp Ất sinh tháng Dần Mão Thìn)
- Hỏa sinh mùa Hạ (Bính Đinh sinh Tị Ngọ Mùi)
- Kim sinh mùa Thu (Canh Tân sinh Thân Dậu Tuất) và - Thủy sinh mùa Đông (Nhâm Quí sinh HợiSửu)
thì gọi là Vượng.

Nhưng nếu không sinh đúng mùa như vậy thì sao? Lúc đó ta tìm xem Kiêu Ấn của Nhật chủ ở đâu.

Thí dụ trên là QUÍ âm thủy sinh trong tháng Dậu Kim. Dậu Bạch Lộ là mùa Thu. Tân Kim là Kiêu thần của Quí. Bạn biết Kim sinh Thủy, nên nói rằng QUÍ không vượng nhưng cường bởi vì được lệnh tháng sinh cho.

(Các thuật ngữ cần chú ý:
- VƯỢNG là sáng sủa, thịnh vượng, chính danh,
- CƯỜNG là có lực, có sức, mạnh mẽ,
- NHƯỢC là suy, yếu, tuổi nhỏ cũng gọi là Nhược vì chưa lớn mạnh,
- THIỂU là ít, kém cỏi.
Có người thường hay "đếm" các can, chi, tỉ như 3 con Giáp, 2 con Dậu...v..v.. và cộng lại thành bao nhiêu Mộc, bao nhiêu Kim đấy...Không phải như vậy. Đấy là lầm Thể và Chất. Trong Dịch học, Lý số chỉ nói đến Chất (tính chất) chứ không nói đến số lượng. Vậy người có nhiều Quí, nhiều Tí Hợi chẳng hạn phải gọi là Thủy cường. Cứ tưởng tượng như ngày bão tố, sóng cao ta chỉ nói là mưa to gió lớn, chứ không ai đếm có bao nhiêu giọt nước cả.)

Trở lại thí dụ Quí nhật chủ trên. Cháu trai sinh vào mùa Thu, Kim sinh Thủy nên thể chất mạnh. Đó là điều kiện đầu tiên để xác định thân vượng hay cường, mà ta cứ gọi chung chung là Thân Vượng do có Ấn thụ trong lệnh tháng là như vậy. Tuy nhiên cũng có thể nói chung như thế được cho thêm phần đơn giản, nhưng chỉ cần nắm vững về Cường hay Vượng là được rồi.

7. Vậy nếu là thân Cường thì ta xem tiếp các quan hệ chung quanh nó với đặc điểm của Nhật Chủ Vượng. Nhắc lại:

[table="head"]Thuận lợi|Bất lợi
kiểm soát được hành nó khắc chế (Tài)|hành cùng loại (Tỉ, Kiếp)
có hành chế bớt (Quan, Sát)|hành sinh trợ cho mình quá nhiều (Kiêu, Ấn)
sinh trợ cho hành theo chiều tương sinh (Thực, Thương)|[/table]

Nếu Nhật Chủ Nhược thì đảo lại vị trí Thuận lợi và Bất lợi.

[table="head"]Bất lợi|Thuận lợi
không kiểm soát được hành nó khắc chế (Tài)|có hành cùng loại (Tỉ, Kiếp)
hành khắc chế (Quan, Sát)|hành sinh trợ cho mình (Kiêu, Ấn)
không thể sinh trợ cho hành theo chiều tương sinh (Thực, Thương)|[/table]

Mức độ khắc, sinh… còn tùy theo trường hợp. Tới đây chỉ nên hiểu rằng: Căn bản là tất cả các hành đều có mặt thì tứ trụ cân đối.

Trở lại trụ của cháu trai ở trên, xác định được Quí nhật chủ là mạnh rồi, vậy Quí không nên có thêm nhiều Kim nhiều Thủy nữa, mà Quí rất thích có Thổ, Hỏa và Mộc để dung hòa tứ trụ.

8. Sau đó là tính đại vận. Thí dụ trên cho phép tính từ tháng Đinh Dậu, nam nhật chủ theo năm dương (Bính Tuất) thì tính thuận, tức là ghi từ sau Đinh Dậu là đến Mậu Tuất:

[table="head"]2|12|22|32|42|52|62
Mậu Tuất|Kỉ Hợi|Canh Tí|Tân Sửu|Nhâm Dần|Quí Mão|Giáp Thìn
Kim|Thủy|Thủy|Thủy|Mộc|Mộc|Mộc[/table]

Có nghĩa là vận Mậu Tuất cháu còn được Kim trợ sinh (vì Thân Dậu Tuất là tháng mùa Thu), sang 3 vận HợiSửu ta gọi là vận Thủy, 3 vận Dần Mão Thìn là vận Mộc.

Có thể nói sơ để nhận định căn bản rằng cháu trai này phải vượt qua 3 vận Thủy để đạt được thành công ở vận Mộc, vì bản thân Quí Thủy của cháu cần có Thổ Hỏa Mộc như bước số 7 đã xác định.

Đấy là nhận xét có thể nói là “Thiên Khí”, là những thuận lợi hay nghịch đảo do Trời định đoạt. Phần thứ nhì ta mới xét đến Địa Chi và Nhân Nguyên là xem Trời Đất giao hòa như thế nào.

Ngày 28/06/2009

Nói đến "bịnh" của trụ thì đúng là tôi đang định viết tiếp phần giải như sinh đúng mùa, có ấn thụ phù trợ mà vẫn lận đận. Cái "bịnh" nằm ở chỗ "phe kia" mạnh hơn. Thành thử người vượng cường mà như dở dở ương ương, hồi xưa người ta nói "thầy chẳng ra thầy, thợ cũng lông bông" là thế. Tiêu biểu là thời gian đang học hành thì thi cử cố gắng hết ga mới vượt qua, như tứ trụ dưới đây là nam mệnh:

[table=head]Năm|Tháng|Ngày|Giờ
Tài|Tài|NC|Thương
Tân|Tân|Bính|Kỷ
kim|kim|hỏa|thổ
Dậu|Mão|Thân|Sửu
kim|mộc|kim, thủy, thổ|thổ, thủy, kim
[/table]

Bính dương hỏa gặp Tân âm kim > khuynh hướng là chuyển sang hành Thủy, suy ra Bính được lệnh tháng (sinh mùa Xuân Hỏa tướng, lại có Ấn là Mộc sinh phù) nhưng khí lực Hỏa của mình kể như bị "giam", mà Tân cũng suy vì tiết khí sinh cho Thủy (hành thiên hướng).

Kỷ âm thổ được Bính dương hỏa sinh thuận (ngày sinh giờ), nhưng Hỏa đang bị "tù" như trên nói, chưa xác quyết được điều gì. KỷThương Quan.

Mão Dậu xung ở trụ nămtrụ tháng. MãoẤt, là Ấn của Bính. DậuTân, là chính Tài. Tài và Ấn xung là sức ép nằm ở hai diện học hành và tiền tài, nằm ở trụ tháng và năm là cha mẹ và ông bà. Cụ thể là cha mẹ rời xa quê hương sinh sống làm ăn, bản thân cũng phải xa cha mẹ học Đại học, vừa học vừa làm bồi bàn kiếm tiền, nói chung khả năng cả việc học (Ấn) và tài chánh (Tài) đều vất vả mới có.

Vì vậy nên gọi là có "bịnh" vì thân vượng chuyển sang thành "nhược", vậy kỵ thần (sự bất lợi) của thân nhược nằm ở bảng mà moclan đã kẽ ở đầu bài.

Bính Hỏa này không khắc chế được Tài và Quan cũng không thể mạnh ở Thực. Anh ta cần gặp Bính, Đinh, Giáp, Ất, nói chung là cần Hỏa và Mộc.

Đại vận lại đi nghịch từ Dần trở về SửuHợi là những bất thuận lợi cho anh ta. Chỉ còn chờ gặp đúng hàng Can là thiên thời cứu hộ. Bởi vậy mới nói rằng "dở dở ương ương" ... là khi thân vượng mà hóa thành nhược là kiểu này.

Tôi có giới thiệu cho anh ta một cô gái có tứ trụ mang nhiều mặt thuận lợi về những hành anh ta cần có, từ đấy, hai cá tính tuy có khác biệt một chút, nhưng việc học trở nên "trơn tru" hơn và năm nay đang thi ra trường. Tôi cũng đang chờ kết quả ra sao. Có gì tôi sẽ báo cho biết "bình dược phẩm" này có tác dụng thực tiễn như thế nào ~_coffee.

Ngày 09/0//02009 - bàn về Hoa Cái

không hẳn là vậy, đầu tiên thì hiểu là có Hoa Cái thì hơi...bị không nói nhiều! Tại sao? Vì Hoa Cái chiếu mệnh thì người rất giỏi tập trung. Hãy nhìn vào cách đặt HC là biết ngay.
- Dần Ngọ Tuất (hỏa cục): TuấtHoa Cái cho những ngày sinh có Dần hay Ngọ. TuấtMộ Kho của hành Hỏa.
- Hợi Mão Mùi (mộc cục): ngày sinh Hợi hay Mão gặp Mùi là có Hoa Cái, vì Mùimộ kho của hành Mộc.
- ThânThìn (thủy cục): giống như trên, Thìn là HC cho ngày Thân hay Tí. Thìnmộ kho của hành Thủy.
- Tị Dậu Sửu (kim cục): Sửumộ kho của hành Kim. Ai sinh ngày Tị hay Dậu gặp Sửu là có HC.

Có thuyết lấy cả năm sinh đặt HC, đó là vì xài luôn cả 2 lý thuyết Tử bình, trước thì lấy trọng tâm là năm, sau thì lấy trọng tâm là ngày. Cuối cùng hậu học không biết giải quyết ra sao nên lấy luôn cả trụ nămtrụ ngày mà đặt các thần sát là lý do như vậy.

Vì tính chất là "mộ", nơi quy về, tàng ẩn, không động, là nơi phải thanh tịnh, nên HC ở một vài người cho thấy sức cảm ứng với trời đất rất cao, tùy vào thiên tư mà xuất phát ra thành thần đồng âm nhạc, giáo sư, cao tăng...đủ mọi khía cạnh, vì là những người giỏi tập trung trí tuệ. Nhưng giống như tất cả các thần sát, ngũ hành...v.v.. khác, nếu gặp Không Vong, hình xung khắc hại thì mọi sự đảo ngược, hoặc lệch lạc hướng đi, có ưu tú đấy nhưng khi hành xử thì không phân minh.

Bởi vì tính chất của Mộ là yên tĩnh, mà bị động thì mất tập trung. Nhất là trẻ em thì học hành không thông suốt ở những giai đoạn gặp HC bị khắc là vậy.

Học Tử bình cũng không cần thiết phải có Hoa Cái, đấy chỉ là một môn cần nghiên cứu sâu như mọi môn học khác.

Phần VI- LUẬN VỀ ĐẠI VẬN (Xem tại đây)

Bài này chủ yếu tập trung vào phần vận hạn của một người từ cách tính của Tử bình. moclan trình bày ngắn gọn, mong rằng các bạn nêu ra những câu hỏi thiết thực hơn để cùng học tập.

Những thắc mắc đầu tiên khi nghiên cứu môn này phải là tại sao đại vận tính theo Tháng mà không phải theo Năm hay Ngày và Giờ, tại sao lại chia cho 3, tại sao âm dương vẫn phải giữ thuận nghịch không thay đổi. Đại hạn 10 năm, tiểu vận 1 năm. Tiểu vận khác với lưu niên như thế nào? Còn cung Mệnh, Thai nguyên có ảnh hưởng gì trong đại vận?

Chữ "Vận" theo Hán Việt nghĩa là "xoay vần", thứ gì cứ hết 1 vòng lại trở về nguyên thủy, chỉ có đi tới chứ không thoát ra khỏi vòng gọi là Vận=vận hành. Người ta xem Vận là xem tương lai vì thời gian không đi ngược trở lại mà nhất định phải đi tới rồi mới quay lại nơi phát sinh. Giống như tiết mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, hết Xuân sang Hè, đến Thu rồi Đông. Ngày, giờ cũng thế, có Sáng, Trưa, Chiều, Tối. Vậy nếu chúng ta thụ bẩm khí trời đất mà sinh ra, vậy đại vận tính theo tháng sinh có gì là không đúng?

Tháng trong Tử bình là quan trọng bậc nhất vì từ đó là bài toán căn bản để tính ra được Cách cục, Thân vượng hay nhược và vận hạn của con người. Thường đã nghe nói đến "đắc địa", "được mùa sinh".. là qua Tháng. Chỉ cần biết rằng "mùa" là ta có thể hiểu ý nói đến sự cừong thịnh hay suy nhược của ngũ hành, tức là nói đến "khí" của năm tháng ngày giờ khi ta sinh ra đời.

Tử bình cũng như các môn Thuật số khác đều dựa vào Hà đồ, Lạc Thư. Riêng môn Tứ Trụ này chịu ảnh hưởng lớn của cách tính nghiêng về Thiên văn học cổ như Lịch, Tiết, Khí, Giờ Khắc mặt trời mọc, lặn trong ngày. Những môn như Lục nhâm đại độn, xem Thiên Cương Hà Khôi tính cát hung của sự việc đều rất chú trọng đến mùa (tháng) trong năm.

Mọi người cũng biết Nhị Thập Bát Tú chia khu vực trời thành 4 phương với 28 vì Sao. Mỗi phương có 7 Sao, và Sao thứ 4 là Sao chủ quản định Khí chính của phương đó, cũng có nghĩa là Mùa. Như sao Phòng ở phương Đông mà người ta nhìn thấy được rõ là khi Khí Xuân Phân bắt đầu. Về Thất chính, đấy chính là Mặt trời.

Mỗi phương cũng như mỗi mùa được chia ra thành 3 khu vực gọi là Mạnh, Trọng, Quý. Như mùa Xuân có Mạnh Xuân, Trọng Xuân và Quý Xuân mà ta cũng biết là tháng Dần, tháng Mão, tháng Thìn. Trong "Tứ thời ngũ hành luận" phân tích rất rõ các tháng này, qua đó ta sẽ hiểu khi nào Mộc vượng nhất trong mùa Xuân theo quy luật tự nhiên. Ngay cả trong ngày, giờ, buổi sáng sớm Dần, Mão, Thìn là 3 giờ mặt trời bắt đầu mọc (khác nhau từng khắc tùy theo mùa), lúc này Mộc vẫn còn thấm cái hơi tàn lạnh của Sương đêm, nó khác với Mộc ở giữa trưa và Mộc trong giờ mặt trời lặn.

Nếu phân tích rõ như thế, chúng ta sẽ hiểu tại sao phải tăng độ gia giảm của nóng và lạnh cho Mộc theo từng thời khắc như thế. Nếu ai học thêm Tướng Mệnh sẽ rõ thêm điều này, các trẻ sinh trong cùng một ngày ban đầu không trông thấy khác nhau nhiều, nhưng sự tiến triển của chúng chắc chắn là sẽ khác, đó là vì chúng thụ khí như thế nào trong ngày đó.

Trở lại việc tại sao đại vận Tử bình phải chia cho 3 là như thế. Một mùa có 3 giai đoạn là Mạnh=mới, đầu tiên, Trọng=giữa, Quý=cuối. Nếu bạn sinh trúng ngày Lập Xuân, tính đến Kinh Trập là khoảng 29, 30 ngày, chia 3 thì đại vận của bạn tính từ 9, 10 tuổi tùy theo ngày sinh. Lập Xuân thường là tháng Dần, tháng Mạnh Xuân, sau 30 ngày thì đến tiết tới nên bạn được tính trọn tiết cho vận tới. Nhắc lại là "vận" có nghĩa là xoay vần đi tới, nên phải tính hết Lập Xuân, sang Kinh Trập là như thế.

Nếu bạn sinh không phải ngày Lập Xuân mà bất kỳ ngày nào trong vòng tiết khí Lập Xuân-Kinh Trập thì dĩ nhiên tuổi đại vận của bạn bắt đầu ngắn hơn, thí dụ như sinh trước ngày vào Kinh Trập bắt đầu, đại vận tới liền vào lúc 1 tuổi.

 

+ Hư Không Linh Minh - Ngôi Một: Cội Nguồn của Vạn Hữu (Vô Ngã, Vô hiện, có trước vũ trụ biểu lộ):

- Hư không mê mờ tối tăm mù mịt
- Tánh giác bản nguyên vốn "Diệu Giác Minh Thanh Tịnh bao Trùm khắp Hư không biến pháp giới"

* Cả hai hợp lại gọi là Hư không Linh minh - Ngôi gốc vũ trụ - Thượng đế gốc vũ trụ

Ngôi Một phân thân hình thành ngôi Hai => Ngôi Hai sinh ra ngôi Ba tạo ra ngôi III

+ Ngôi Hai (xuất phát từ Ngôi 1): Biểu lộ ra 2 trạng thái là Sự sống và Sắc tướngLưỡng nguyên nguyên thủy, tạo thành 2 cực của Thiên Nhiên, mạng lưới vũ trụ được tạo ra giữa 2 cực đó:
Sự sống – Sắc Tướng,
Tinh thần – Vật chất,
Dương – Âm,
Chủ động – Thụ động,
Phụ – Mẫu của các thế giới.
- Ngôi Ba (xuất phát từ Ngôi 2) Toàn Linh Trí, trong đó có tồn tại mọi nghi hình kiểu mẫu, cội nguồn của vạn vật, nguồn mạch của mọi năng lượng tạo hình, kho tàng lưu trữ mọi nguyên hình. (MTNX,45–46)

+ Hư Không thì tối tăm mù mịt. 

+ Tánh Giác / Chân Tâm bản nguyên Vũ trụ thì sáng suốt nhiệm mầu

=> Hợp cả hai lại thành Đấng Duy Nhất Vô hiện - Có trước vũ trụ biểu lộ. Chính Ngài Phân Thân 2 lần thành ba thành phần bản nguyên vũ trụ

1- Chính Ngài là Đấng Duy Nhất - Chưa phân thân

+ Đấng Duy Nhất Ngài Phân thân lần 1 - Tạo ra Thượng Đế Ngôi I

+ Thượng Đế Ngôi I theo gương Đấng Duy Nhất Phân thân tạo ra Thượng Đế Ngôi II

+ Thượng Đế Ngôi II theo gương Thượng Đế Ngôi I Phân thân tạo ra Thượng Đế Ngôi III

2- Ba Đấng Thượng Đế Gốc Vũ trụ này tiếp tục Phân thân làm vũ trụ biểu hiện vô lượng vô biến Thái dương hệ

+ Hư không - Âm Dương:
Vũ Trụ Biểu Lộ - Hư Không Linh Minh - Đấng Vô Hiện, các Nguyên lý gốc

I. Nguyên Lý Cơ Bản I. Có một Nguyên Lý Bất Biến Vô Biên; một Thực Tại Tuyệt Đối đi trước tất cả Hiện Hữu biểu lộ theo điều kiện. Nó vượt ngoài phạm vi và tầm với của bất kỳ tư duy hay sự diễn đạt nào của con người.
Vũ Trụ biểu hiện được chứa đựng bên trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một biểu tượng có hạn định của Thực Tại Tuyệt Đối đó.
Trong toàn thể Vũ Trụ được biểu hiện này, có ba phương diện phải được nhận thức (3)
1. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 1, vô ngã và không biểu lộ, có trước của cái được Biểu Hiện.
2. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 2, Tinh thần-Vật chất, Sự sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 3, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Phổ quát..
+ Kiến thức về vũ trụ gốc Tam phân – năng lượng gốc vũ trụ là chính. Từ năng lượng này, vô số Thái dương hệ hình thành, mỗi thái dương hệ có một sự sống biểu lộ, chúng ta thường gọi là Đấng Thái Dương Thượng Đế . (QU1. Ma Kết)
II- Nguyên Lý Cơ Bản II. Có một nguyên lý cơ bản được gọi là Định Luật Tuần Hoàn.
1. Định Luật Tuần Hoàn này chi phối tất cả các biểu hiện, dù đó là biểu hiện của một Thái Dương Thượng Đế thông qua trung gian một thái dương hệ [Trang 6], hay là biểu hiện của con người thông qua trung gian một hình thể. Tương tự, Định luật này cũng điều khiển tất cả các vương quốc trong tự nhiên.
2. Ba Định Luật Vũ Trụ được kết nối với Định luật này (6)
3. Có bảy Định Luật hệ thống, thống trị sự biểu hiện của Đấng Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. (6)
4. Mỗi định luật trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ (6)
5. Mỗi luật có hiệu lực tuần hoàn (6)
Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cõi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ yên nghỉ của nó
6. Mỗi sự sống biểu hiện có ba chu kỳ vĩ đại của nó (6-7)
Sinh ra - Sống - Chết.
Xuất hiện - Phát triển - Biến mất.
Giáng hạ tiến hoá - Tiến hóa - Qui nguyên
Bất động - hoạt động - chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại - Sự sống sinh động - Sự sống nhịp nhàng.
7. Kiến thức của các chu kỳ liên quan đến kiến thức về con số, âm thanh và màu sắc (7)
8. Kiến thức toàn bộ của các chu kỳ chỉ được biết đến khi đã là một người tinh thông lão luyện hoàn thiện (7)
   Tri thức trọn vẹn của bí ẩn của các chu kỳ chỉ được sở hữu bởi Chân sư hoàn thiện.
III- Nguyên Lý Cơ Bản III. Tất cả các linh hồn đều giống với Đại Hồn
1. Thượng Đế của thái dương hệ là Đại Vũ Trụ. Con người là Tiểu Vũ Trụ. (7)
2. Linh hồn là 1 phương diện của mọi dạng thức đời sống, từ một Thượng Đế (Logos) cho đến một nguyên tử. (7)
3. Mối quan hệ giữa những linh hồn và Đại Hồn là nền tảng của Tình Huynh Đệ (7)
Mối quan hệ giữa tất cả các linh hồn và Đại Hồn cấu thành nên nền tảng niềm tin khoa học của Tình Huynh Đệ. Tình Huynh Đệ là một sự thật trong tự nhiên, không phải là một lý tưởng. (Nguồn: Luận về Lửa Càn Khôn)

Các Đại hay các Hành trong vũ trụ: Các giáo lý cần học

1-Âm dương - Ngũ hành trong Đông phương học. Trong đó đặc biệt sách Ngũ hành tố vấn

2- Tứ đại trong Phật giáo

3- Tứ đại và các Hành trong Minh triết mới

 

 

Tứ tượng và Nhị thập bát tú

Lan xem trang 73 và nhập theo tên các Sao và đánh máy nội dung vào từng sao

Các chữ viết Tắt Đ - T - N - B là Đông Tây Nan Bắc

Bảy sao Đ nhập vào Thanh Long

Bảy sao T nhập vào Bạch hổ

Bảy sao B nhập vào Huyền vũ

Bảy sao N nhập vào Chu tước

+ Vũ trụ biểu hiện:

-Vật chất biểu hiện: Các Thiên hà và Thái dương hệ cho đến sông núi cây cỏ

-Tinh thần biểu hiện: Các Chúng sinh vũ trụ từ Thánh hiền cho đến các Siêu vi trùng

Âm Dương: Tánh Thể của Âm Dương bao trùm vạn sự vật dù con người thấy nghe hay biết hay không thấy nghe hay biết.
Tiến trình hình thành vật chất và sự sống trong vũ trụ cũng không nằm ngoài quy luật Âm Dương.

I- Các quy luật phổ quát bao trùm và Học thuyết về Âm Dương: 
1- Các Học thuyết về Âm Dương:
a/ Thuyết Âm Dương hòa Hợp: Thiên về Không - Chết là hết. Không có Linh hồn, chẳng có Thánh thần
b/ Thuyết Tự nhiên: Thiên về Có - Chết chẳng phải là hết. Công nhận có Linh hồn, có Thánh thần. Được Thánh cứu rỗi thì lên Thiên đàng, ngược lại thì đọa Địa ngục.
c/ Theo Đạo Phật: Thuyết Tánh không. Có Linh hồn
bất tử, Luân hồi theo Nghiệp báo theo quy luật "TẤT CẢ DO TÂM TƯỞNG SANH". Cũng là Thuyết Trung đạo giữa Thuyết tự nhiên và Thuyết Âm Dương hòa hợp. Cũng tương ứng hiểu là Vừa Có - Vừa Không mới hợp Đạo.
2- Định đề về Phân thân: Ngày nay câu "Tất cả là Một" vẫn được chấp nhận, cho dù Nhân loại thông minh nhất cũng chẳng thể chứng minh. Con người chỉ có thể chấp nhận như là một Giả Định đúng để từ đó mới có thể chấp nhận các Giáo lý Thánh Hiền cổ xưa, đó là Năng lượng vũ trụ từ Một sinh ra vô lượng vô biên hình thái Sự sống và Vật chất trong vũ trụ theo nguyên tắc TỰ PHÂN THÂN. Dịch học mô tả qua đồ hình Thái cực sinh Lưỡng nghi. Giáo lý Minh triết gọi đó là Pháp Phân Thân Một thành Ba. Phật Pháp mô tả quả tiến trình Sinh Khởi Vô Minh từ Tánh Không.
3- Các quy luật phổ quát bao trùm của trạng thái Thái cực.
+ Thái cực:
 Thái cực là trạng thái "Trống không", Không thấy nghe hay biết. Các Tánh Thể của Thái cực luôn tồn tại và chi phối trong vạn sự vật, bao gồm các phẩm tánh:
- Thái cực - Một là Hai:
 Trong Thái cực bao hàm 2 khái niệm, Một là "Dương" và Một là "Âm". Cũng hiểu là Hai trong Một và bất khả phân ly.
- Trong Một luôn tồn tại cả Hai: Hiểu rằng, trong Dương luôn có Ậm tiềm ẩn, và trong Âm luôn có Dương tiềm ẩn.
* Như vậy, trong Một luôn tồn tại Hai thể loại Dương Âm và cả 2 luôn tồn tại trong Một bất cứ sự vật nào, chúng bất khả phân ly Thể tánh. Dương Âm luôn cùng tồn tại, tương hỗ.
+ Chuyển động không ngừng: 
+ Tăng giảm, chuyển hóa bổ trợ cho nhau:
+ Cực độ thì biến:
....................
II- Thái cực sinh/ Phân thân lần 1 thành Lưỡng nghi (Đều mang đầy đủ Tánh Thể Âm Dương)
1- 
Biểu lộ của lưỡng nghi: 
a/ Hình dạng 2 Nghi Dương Âm: Nét 1 vạch liền biểu thị là Dương - Nét đứt 2 vạch biểu thị là Âm
b/ Đại diện: Dương chủ về Tinh thần - Âm chủ về Vật chất
c/ Đại biểu: Dương đại biểu và ứng với Trời - Âm đại biểu và ứng với Đất. 
d/ Vật chất: Ở Trời - Dương có dạng Khí/ Vô sắc/ Không cầm nắm súc trạm mà thấy biết được - Ở Đất thành Hình/ Sắc tướng / Có cầm nắm súc trạm thấy được.
e/ Động Tịnh
- Tinh thần - Trời - Dương - Khí: Luôn Động không ngừng nghỉ.
- Vật chất - Đất - Âm - Hình: Luôn Tịnh và Âm luôn thuận theo trời.
f/ Một và nhiều: Dương là Một - Âm là nhiều (Một nguyên tử/ Dương, có 6 phân tử/ Âm quay xung quanh => Tất cả là Một)
g/ Hai Nghi trong Một Thể: Trong Dương luôn có Âm và trong Âm luôn có Dương.
h/ Trong Một Thể luôn có 2 Nghi Dương Âm (Tất cả là Một): Ví dụ
+ Với Thái dương hệ của chúng ta cũng phân hai nghi Dương Âm, gồm
- Một Mặt Trời là Dương: Là chủ thể của Thái dương hệ
- Các Hành Tinh là Âm: Âm thuận theo Dương. Mỗi Hành tinh cũng tự quay và bản thân cũng lại quay quanh Mặt Trời theo Nghịch chiều kim đồng hồ.
+ Với Địa cầu chúng ta:
- Ở Trời:
Có Hai Nghi là mặt Trời/ Dương và mặt Trăng/ Âm
- Ở Đất: Có Hai Nghi là Lửa và Nước. Có hai cực Nam và Bắc tương ứng Hai phương Nam và Bắc ở Trời.
* Địa cầu cũng không ngoại lệ, cũng thuận theo Dương, quay quanh Mặt Trời, bản thân cũng tự quay nghịch chiều kim đồng hồ.
2- 
Chuyển động với lưỡng Nghi Thuận Nghịch:
+ Với Nghi Dương - Ở Trời - Dạng Khí:
 Chuyển động quay soáy tròn (E líp) liên tục không ngừng theo chiều quay Trái => Chu kỳ tiến hóa của Vật chất
+ Với Nghi Âm - Ở Đất - Thành Hình (Thể Vật chất đậm đặc): Hai loại chuyển động trong Nghi Âm
a/ Âm quay quanh Dương: Hình thể vật chất luôn quay xung quanh Dương (Nghịch chiều kim đồng hồ)
b/ Tự quay quanh trục: Luôn chuyển động quay thuận theo Khí Dương/ Trời => Đạo của Âm thuận theo Dương (Nghịch chiều kim đồng hồ)
* Các cơ bão ở phía bắc đường Xích đạo (Ở Trời) đều soáy theo nghịch chiều kim đồng hồ. Ở phía Nam thường quay thuận chiểu kim đồng hồ.
3- Nghi Âm - Xét với một vật thể: TRỜI SAO - ĐẤT VẬY
a/ Ví dụ với Địa cầu:
Âm Dương trong/ thuộc Địa cầu chuyển động Thuận Nghịch trong và ngoài
- Phần Dương - Bên ngoài trái đất: Quay thuận theo Trời => Quay trái/ Nghịch chiều lim đồng hồ
- Phần Âm - Bên trong trái Đất: Quay nghịch với Trời => Quay phải/ Thuận chiều kim đồng hồ
b/ Ví dụ với con Người: NGƯỜI THUẬN THEO ĐẤT
+ Con người hoạt động: Di chuyển thuận theo Trời Đất. Luôn lấy Vật nào đó làm trung tâm, con người di chuyển Nghịch chiều kim đồng hồ quanh Người/ Vật làm trung tâm.
+ Âm Dương ở người: Thái cực là Đạo trời đất - Là Đạo Tự nhiên. Ở người là biểu lộ ở Thân Tứ Đại qua Thấy Nghe Hay Biết
+ Động Tịnh ở Người
(Tương ứng Trời Đất): Theo Thuyết tam tài thì Con người ở giữa Trời Đất - Đầu đội Trời, Chân đạp Đất. Con người sống phải thuận theo Đất - Đất thuận theo Trời - Trời thuận theo Đạo - Đạo thuận theo tự nhiên.
+ Âm Dương ở người: 

- Phần Dương - Ứng Trời: Từ đầu xuống đến Rốn 
- Phân Âm - Ứng Đất: Từ Rốn xuống đến bàn Chân
(Cũng có quan điểm cho Phần đầu là Dương, phân Thân người đến Chân là Âm)
+ Âm Dương Thuận nghịch (Trên dưới - Trong ngoài):
- Hệ thống thần kinh trên đầu ở bên Trái thì điều khiển hệ thống thần kinh Thân người bên Phải.
- Hệ thống thần kinh trên đầu ở bên Phải thì điều khiển hệ thống thần kinh Thân người bên Trái.
II- Lưỡng nghi sinh Tứ tượng
III- Tứ tượng sinh bát quái

+ Lục hại: 

+ Lục hợp:
1. Tý và Sửu đối ứng của Thổ tinh
2. Dần và Hợi đối ứng của Mộc tinh
3. Mão và Tuất đối ứng của Hỏa tinh
4. Thìn và Dậu đối ứng của Kim tinh
5. Tị và Thân đối ứng của Thủy tinh
6.Ngọ và Mùi đối ứng của Thái dương (Ngọ) và Thái âm (Mùi)

Đây là sự đối ứng qua trục Bắc - Nam của sơ đồ Địa bàn của Địa cầu. Theo đó ta hiểu rằng, sự chuyển tiếp giữa các chu kỳ tuần hoàn qua điểm Bắc - Nam có sự khác nhau qua sự vận hành ngày đêm sáng tối - Tinh thần và vật chất - Động và tịnh .... trong một chu kỳ thời gian trong ngày hoặc năm ..., sự tương tục của quy luật SINH - TRỤ - DỊ - DIỆT của mọi sắc tướng, cụ thể:
- Tý và Sửu: Thời điểm chuyển tiếp giữa Tý và Sửu là vào giữa đêm hôm, không có ánh sáng mặt trời chiếu soi, cũng hiểu xem như là Sắc tướng thuần vật chất đậm đặc lắng đọng, chỉ còn ánh sáng Thái âm/ Sự sống chiếu soi nội tâm thức. Thời điểm tận cùng của âm khí vượng,  xem như vô thức tối tăm, tuân theo định luật "Vật cực thì biến", âm cực, Sắc tướng và Tâm trí cùng tuyệt diệt - Mùa đông ví như "Cái chết" tạm thời, thì dương từ tuyệt chuyển sang khởi sinh => Tiếp tục một chu kỳ Vượng Tướng Tù Tử mới vận hành mãi mãi không ngừng.
- Ngọ và Mùi: Thời điểm chuyển tiếp giữa Ngọ và Mùi là vào giữa trưa ban ngày, ánh sáng mặt trời chiếu soi cực đại, cũng hiểu xem như là vật chất phát triển cực thịnh, tận cùng của dương khí vượng, xem như sắc tướng cường thịnh, vạn vật viên mãn, tuân theo định luật "Vật cực thì biến", khí dương cực vượng thì khí âm khởi sinh. Sắc tướng biến suy thì ánh sáng trí tuệ khởi sinh => Sự tích lũy kiến thức, phát triển trí tuệ cho đến lúc Sắc tướng nghỉ ngơi, ví như tuyệt diệt.
* Nhân Trắc Học tổng hợp kiến thức căn cứ vào sách Dịch học và sách Quả Lão Tinh Tông, sách Minh triết thiêng liêng

Lục Thú - Kị Thần

6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.

- Thanh Long-Mộc: là cát thần, thuần hậu, nhân từ, bổ trợ cho Dụng thần vượng tướng- tiến tài tiến lộc.

       Động: Vui mừng khánh trúc. Lâm H.Dụng phúc lớn. Lâm quẻ tốt, H.Tử động  > biến Quỷ vẫn là tốt; Lâm H.xấu/Kị thần/ Cừu thần= khó tránh được hung hại=Họa tửu sắc.

- Chu Tước-Hoả: là thần lừa đảo, chủ về thị phi, điên cuồng, kiện tụng, văn chương in ấn, tài ăn nói, nếu khắc hào Thế sẽ chuốc điều tiếng thị phi, sinh Dụng thần sẽ có tin tức đến.

      Động: Văn ấn vượng. Gặp sát thần không lập được công danh+Cãi vã. Xuất sinh Thân=lợi việc công

- Câu Trần-Thổ: là âm thần, chủ về điền sản, công trình, ngục tù, phù thũng, tính tình chất phác, chủ về gặp chuyện lạ vậy, rắc rối. Câu Trần khắc Huyền Vũ, nên hợp với việc truy bắt trộm cướp.

      Động: lo về điền thổ. Sinh Dụng=Cát tình duyên. Tĩnh= không mê muội

- Đằng Xà-Thổ: là kinh thần, chủ về kinh sợ, không chung thuỷ, không có chữ tín, chủ về hương hoả trong gia đình. Gặp Mộc là không vong, không cát lợi; Bị nhật xung, khó thoát hung hại.

     Động: Bị Quỷ khắc=Lo lắng triền miên, toàn việc quái dị/ không rõ ràng.

- Bạch Hổ-Kim: là huyết thần-thần cường bạo, chủ về tang ma, háo thắng, hung hăng, hữu dũng vô mưu.

     Động: Chủ hình phạt, kiện tụng, bệnh tật.Trì thế động=hại trong gia đình.Gặp cát thần=không hại đến cát. Gặp hào Kim= Bạch Hổ ngậm đao > tổn thương nhân khẩu, nếu thân được Hoả sinh thì không sao.

- Huyền Vũ-Thuỷ: là đạo thần-thần trộm cướp, dâm thần, tư tình ám muội, giận giữ uất ức, tham bát bỏ mâm-92.

     Động: Ám muội. Nếu động sinh Thế thì tốt. Lâm quỷ/ động gặp Kị, cừu thần >> Phòng bị trộm cắp, cướp.

 

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

7-TRƯỜNG SINH: Chú giải bảng trường sinh
Trường sinh - Người mới sinh- mọc mầm.
Mộc dục - Trẻ sơ sinh được tắm rửa, trời đất tắm gội.
Quan đới - là trẻ em đã có thể mặc áo, đội mũ, tức là chỉ vạn vật đã dần dần mạnh lên.
Lâm quan - Trưởng thành cường tráng, có thể làm quan, lãnh đạo dẫn dắt người khác, trưởng thành.
Đế vượng - Cực điểm, giúp việc lớn, vật đã thành thục.
Suy - Bắt đầu suy, sinh suy biến.
Bệnh - bệnh tật, vật khốn đốn, suy xụp.
Tử - khí đã hết, thân xác đã chết,vật đã bị diệt.
Mộ -hay “kho”, nhập mộ hay của quy về kho.
Tuyệt - tan rã, khí trước đã tuyệt, khí tiếp sau chưa đến, chưa có hình hài gì ở trong đất.
Thai - Thành thai, khí trời đất giao nhau.
Dưỡng – đã hình thành, nuôi dưỡng - phát mầm.

+ Can Chi: Gồm 10 Thiên can và 12 Địa chi, khởi nguồn xuất phát từ sách Kinh dịch và Quả lão Tinh Tông, các học thuyết Âm dương ngũ hành này căn cứ vào các Tinh tú trên bầu trời chi phối Thái dương hệ chúng ta, gồm thất chính và tứ dư. Đây đều là các Định đề, khẩu quyết mà hậu thế chỉ chấp nhận mà không thể chứng minh.

6- Địa chi: Để miêu tả chu kỳ vận động của mặt trăng. Không gắn sự tiêu trưởng âm dương của mặt trăng.
Tí -tư bổ nuôi dưỡng, mầm nảy nở nhờ dương khí.
Sửu -kết lại, mầm non đang lớn.
Dần -đổi dời, dẫn dắt, mới nứt đã vươn khỏi mặt đất.
Mão có nghĩa là đội, đội đất mà lên.
Thìn -chấn động, qua chấn động mà lớn lên.
Tị - bắt đầu, có sự bắt đầu.
Ngọ- Dương khí cường vượng
Mùi: ám muội, âm khí đã bắt đầu có, vật hơi suy giảm.
Thân-thân thể, đã trưởng thành.
Dậu -già, già dặn, thành thục.
Tuất -diệt, suy diệt.
Hợi - hạt, thu tàng, hạt cứng.

+ Thiên Can: Địa chi tàng các can, gốc tĩnh thì đãi dụng, như can đầu thấu ra tất cái dụng ấy hiển hiện ra. Nên nói can lấy thông căn làm tốt, chi lấy thấu ra làm quý. "Tích thiên tủy" viết: "thiên can toàn 1 khí, không tải nổi đức lớn của địa; 3 lòai động thực khóang vật ở địa chẳng dung nổi thiên đạo mênh mông". Như 4 tân mão, 4 bính thân, tuy can chi một khí mà chẳng thông căn, không đủ quý nổi.
Địa có 3 lòai, ứng với tàng 3 can, không thấu ra tất chẳng hiển dụng nổi.
Thiên can thông căn, không chỉ lộc vượng đều tốt đẹp, trường sanh có dư khí hay mộ khố đều là căn. Như giáp ất mộc gặp dần mão thì nói thân vượng, mà gặp hợi thìn mùi, đều là có căn cả. (Sách Tử Bình Chân Chuyên Bình Chú)

5- Thiên Can: 10 Can không liên quan trời mọc, lặn, chỉ chu kỳ mặt trời mới ảnh hưởng sự sinh trưởng 4 mùa vạn vật.
+ Giáp là mở, tách ra; Cây to đại ngàn, cương trực, có kỷ luật
- Ất là kéo, mới kéo lên. Cây nhỏ, mềm yếu, cẩn thận, cố chấp
+ Bính -đột nhiên, nhô lộ ra. Mặt trời nóng, sáng hừng hực, nhiệt tình, hào phóng
- Đinh - mạnh, mới mạnh lên. Lửa đèn, lò bếp. không ổn định, ngoài trầm, trong sôi nổi
+ Mậu- rậm rạp, xum xuê; Đất rộng, dầy, phì nhiêu/ đê đập ngăn nước
- Kỷ -ghi nhớ, có hình để phân biệt. Nhỏ, mỏng, không phẳng. Chi tiết, cẩn thận, có đầu đuôi
+ Canh-chẵc lại, thu hoạch. sắt thép, dao kiếm, khoáng sản; cứng rắn. Có tài về văn, vật-có ích. Có tài làm kinh tế.
- Tân .............. ngọc châu, đá quý, vàng cám. vượt khó để hoàn thành mọi việc lớn, nhưng ngoan cố.
+ Nhâm- gánh vác, dương khí nuôi dưỡng vạn vật. Xanh trong, khoan dung, hoà phóng, đùm bọc và bao dung, rễ ỷ lại, chậm chạp, không lo lắng
- Quý -đo, đoán, đo lường được.Nước mưa, ôm ấp, mầm mống bên trong.Chính trực, cần mẫn, cố gắng vượt khó, cản trở.

+ Lục xung

Tam hợp

+ Tam hình

Tiêu trí đánh giá quẻ, hào với Nhật Nguyệt Tương Tác

Hình Xung Khắc Hại (Vùng I): Dùng cho Các Đại - Tiểu Vận

Đại Tiểu Vận 0

+ Ngày Giờ sinh:
+ Nhật Nguyệt:
-Nên ở thời điểm sinh vượng, chánh mộ tuyệt. Nguyệt có thể cần Bính hỗ trợ, nhưng Bính không cần Đinh trợ giúp. Ví như ngày Bính tháng Đinh, trừ sinh mùa đông có thể xét trợ giúp.
-Nên nằm đúng cung vị của mình thì tốt, ví như với Thái dương nên sinh ngày, nhất là mùa động. Thái âm nên sinh dêm mới phát tác dụng soi sáng, cũng cần xét mùa sinh .... Thái dương ở nửa phía đông là ánh sáng tốt, nửa phía tây là hung. Nguyệt nửa phía Bắc là cát, nửa phía nam ít tác dụng, nếu sinh ngày càng lu mờ so với Thái dương.
+ Ngày đêm: Trong dự đoán mệnh vận, tiêu trí sinh vượng mộ tuyệt theo 4 mùa, nóng lạnh sáng tối theo giờ của Nhật Nguyệt rất quan trọng. Ví dụ:

-Xét Thủy ngũ hành: Mệnh nạp âm là Thủy thì phán sinh đêm dũng mãnh anh hùng, cũng cần xem thủy quá vượng thì bị hàn lạnh, thủy đóng băng, vạn vật không thể phát triển.
-Xét Hỏa ngũ hành: Nếu sinh ban ngày mà lại có lương hỏa âm dương sinh ra chanh sáng, nếu Mệnh chủ là Đinh hỏa sinh ngày thì rất lu mờ so với ánh sáng mặt trời Bính hỏa ... (Sách Quả Lão Tinh Tông)

Thuyết Số Mệnh:

Các Hành tinh thuộc Thái dương hệ

+ Thất chính - Tứ dư theo Dịch học: Bắt đầu từ sách Quả Lão Tinh Tông - Khởi nguồn các môn Tử vi, Tứ trụ ... gồm có THẤT CHÍNH - TỨ DƯ. Thất chính gồm Kim tinh - Mộc tinh - Thủy tinh - Hỏa tinh - Thổ tinh - Thái dương - Thái âm. Tứ dư (Các dư khí của các sao theo thứ tự Hỏa - Thổ - Thủy - Mộc) gồm Tử khí - La hầu - Nguyệt bột - Kế đô. 

BỐN MÙA

Lệnh-Vượng; Lệnh sinh-Tướng; Sinh lệnh-Hưu; Khắc Lệnh-Tù; Lệnh khắc-Tử

+ Bốn mùa với con người: Thuận theo thì sống, chống lại thì chết.
* Xuân Hạ Dương khí ngoài thịnh hư trong - nuôi dương khí (trong); Thu Đông nuôi âm khí là thuận với Trời đất,
* Xuân-Thiếu dương: Dương khí nảy nở, muôn vật tươi tốt, cần cho sức khoẻ= Dậy sớm, Trái lại =thương Can > Thiếu khí phát triển Tâm > Hạ phát bệnh.
* Hạ-Thái dương: Khí Trời-Đất giao nhau, vật nở hoa, kết quả, Tâm thanh tĩnh để Khí trong cơ thể tiết ra thì tốt. Trái lại, thương Tâm, Thu bị bệnh ngược sốt rét
* Thu-Thiếu âm: Khí trời Hanh-Đất trong sáng, Nằm sớm, dậy rất sớm để Thâu liễm thần khí cho Phế trong sạch. Trái lại - Bị thương Phế, mùa đông bệnh thổ tả
* Đông-Thái âm : Nước thành Băng-Đất nứt nẻ, giữ Dương khí-Đậy muộn, lúc trời mọc. trái lại, thương Thận, Xuân sinh bệnh nuy, quyết

3.4 TRỤ GIỜ - Cung Con cái
Vượng nhược: Quả nhiều chồng chất, vừa ngon vừa đẹp, suy nhược là quả kém, thậm chí có hoa mà không có quả. Sinh vượng- Con cái thịnh vượng, thân thể khoẻ mạnh, đẹp đẽ thông minh, tiền đồ rộng mở. Trụ giờ hưu tù tử tuyệt thì con cái tai nạn nhiều, hoặc chết yểu.
Xưa có câu : “ Ngày là hội của tam vương, là tượng của đế vương, giờ là cận thần, là chỗ dựa của vua. Ngày và giờ là có đủ vua tôi, là trời đất hợp đức”.
Ngày là vua, giờ là thần. Ngày giờ tương sinh, tương hợp là vua tôi hòa hợp. giờ bổ trợ cho ngày.
Giờ sinh ngày: Con nhiều mà trung hiếu, về già được nhờ, bình yên êm ấm. Giờ xung ngày > Con nhiều nhưng bất hiếu, về già cô độc, tinh thần bạc bẽo.

3.2 TRỤ THÁNG - Đo lường Ngũ hành và 10 Thần
Chi-Lệnh, để đo lường sự vượng suy của can chi và 10 thần. Nó trợ giúp cái yếu hoặc khống chế cái mạnh, là cương lĩnh, chủ tể quyền sinh sát của tháng.
Can-Chi tương sinh là tốt, không bị hình xung ..anh em hoà thuận.
Can bị khắc/ Can chi của tháng xung khắc nhau là tượng anh chị em không nương tựa vào nhau, hoặc bất hoà, hoặc mỗi người đi một ngã.
Tháng-Vận bắt đầu. Nam Nữ trong đời, vận thuận/ ngược, từ 50 đến 69 tuổi đều gặp Xung khắc > xảy ra nhiều việc và phức tạp, biến động nhiều, xấu nhiều tốt ít.

3.0 TỔNG LUẬN TRỤ NĂM: Gồm 4 yếu tố cấu thành, mỗi thứ quyết định 1/4 Cát - Hung đời người
Thời gian - Mệnh: Tháng, Giờ là thời gian. Từ Thụ Thai đến chết.(Đông Chí chuyển năm)
Không gian - Mệnh: Năm, Ngày. Vị trí địa lý sinh trưởng, tồn tại và hoạt động => Tùy theo vị trí mà có sự chênh lệch về Nguyệt lệnh. Những nơi Nguyệt lệnh không phát huy, tức nơi đó chỉ còn Không gian phát huy. Nhật can là không gian độc lập, ít chịu ảnh hưởng của Mùa => Đắc thời chẳng vượng, thất thời không suy;
Vật chất : Nhục thể, Tạng phủ, con người, vật chất bên ngoài đời người tiếp xúc, bị tác động
Năng lượng: Linh hồn, Tinh thần vô hình và Sóng âm, ánh sáng, điện từ, Tia ... không nhìn thấy
* Trong Ngoài: Nhật chi- Bên trong; Trụ Tháng-Giờ- Bên ngoài <=> Thiên thời (Tháng, Giờ: Thời gian)- Địa lợi ( Năm, Ngày: Vị trí, Không gian)
* Thời Thế: Trong tốt, ngoài xấu= Không gặp thời; Ngược lại-Tố chất T.Thiên thấp > Suy ra tiếp
* Biểu Hiện: Thiên Can Khí thuần, động, biểu hiện ra ngoài, mọi người biết. Mức rõ ràng căn cứ vào Khí Vượng/ Nhược, căn cứ vào có gốc, Chi sinh/ Tỷ kiếp. Ngược lại thì ẩn dấu không rõ.
3.1 TRỤ NĂM: Năm - Thái tuế, hoạ phúc một đời. Như gốc cây, là rường cột đứng đầu, không thể xem nhẹ. Là móng nhà, nguồn gốc mệnh. Gốc khô thì cây chết, rễ sâu thì cành lá xum xuê; nền yếu thì nhà đổ, nền chắc thì nhà vững chãi; nguồn hết thì mệnh hết, nguồn dồi dào thì mệnh mạnh mẽ. Trụ năm là gốc, tháng là cành, ngày là hoa, giờ là quả.
Can-Chi tương sinh = Tuyệt diệu. Dưới sinh trên = Bền gốc rễ, chủ sự hưng vượng cả đời. Tổ tiên có phúc đức, được hưởng nhiều, con cháu hiếu thuận, cha mẹ mạnh khoẻ sống lâu, bản thân người đó có năng lực và hiển đạt. Năm sinh cho tháng, ngày, giờ > Dò rỉ nguyên khí, làm gốc yếu đi, tổ nghiệp sa sút, bất lợi cho cha mẹ. Bị hình xung, phá hại thì tổ nghiệp sa sút, bất lợi lục thân hoặc mất cha, chết mẹ, bản thân người đó cũng suốt đời khó khăn, mọi việc không thành và không thọ.
Can - Chi tương khắc bất lợi cha mẹ. Nếu không có chế ngự hoặc giải cứu sự xung khắc đó, thì làm cho lực khắc càng mạnh, cha mẹ chia lìa, hoặc trong hai người chết một.
Can - Chi ngang hoà: Cha mẹ bất hoà. Việc nhà sóng gió, gia nghiệp khó khăn. Tương sinh thì cha mẹ hoà thuận, gia đình êm ấm, thịnh vượng.

3.3 TRỤ NGÀY
Can ngày-Là chủ mệnh, mảnh đất Cat-Hung đời người

Nhật trụ thịnh vượng thì hoa nhiều như gấm, nhật nguyên suy nhược thì hoa ít lại không có màu.
Trụ ngày: Can - mình, chi - vợ-chồng, tương sinh- hòa thuận. Chi sinh Can- Nam được vợ hiền giúp đỡ, Nữ chồng tốt giúp sức. Can sinh Chi là nam yêu vợ, nữ giúp chồng.
Xung Khắc: Vợ chồng rễ xa nhau, tượng hôn nhân muộn. Nặng thì không ly hôn cũng chết một trong hai. Giống nhau là tượng bất hoà.
Nhật chủ sinh, vượng-Thân thể cường tráng, thắng của cải, đề kháng sự sát hại, bảo vệ được lục thân, thông minh, tháo vát, nuôi dưỡng được gia đình, gặp việc xấu phần nhiều biến hung thành cát.
Nhật nguyên: Trung hoà là quý. Vượng quá hoặc yếu quá tất sẽ xấu nhiều hơn.
Nhật suy nhược, hưu tù thì như người yếu, bệnh nhiều, tinh thần bạc nhược, không thể lấy thân che của, chắc chắn là xấu nhiều, tốt ít, việc gì cũng không thành.
Cường vượng: tức được lệnh, đắc địa, được sinh, được trợ giúp hoặc khi hội tụ 01 phương hoặc có Chi 3 hợp cục
Suy nhược: Can ngày hưu tù chi tháng là mât lệnh, lại không đắc địa, không có tỉ, kiếp, củng lộc, kình dương là không có trợ giúp, không ấn thụ là không được sinh là suy nhược. Nếu nó còn bị hình xung khắc phá thì càng yếu thêm. Nếu quan sát nặng quá, là can ngày bị khắc vô sinh. Thực thương nhiều qua thì can ngày hao tổn cũng gọi là suy nhược.

4.6 THIÊN ẤN
Công năng: Nguồn Khí, là hung thần. Thiên gặp thực > Cướp đoạt.

Xem đầy đủ kiến thức lý thuyết - Gợi ý: Dự đoán về Thiên Ấn

4.5 CHÍNH ẤN:
Công năng: Nguồn khí, như cha mẹ sinh ra tôi, Cát thần

Xem đầy đủ kiến thức lý thuyết - Gợi ý: Dự đoán về Chính Ấn

4.4 THIÊN QUAN
Công năng: Chuyên tấn công Nhật can. Nếu vô lễ thì bị khắc chế nên nhật can bị tổn thương, nếu có khắc chế gọi là thiên quan, không có là thất sát-Hung thần.

Xem đầy đủ kiến thức lý thuyết - Gợi ý: Dự đoán về Thiên Quan

4.3 CHÍNH QUAN
Công năng: Khắc chế Nhật can, trái dấu. Quản những điều tốt, có sự ràng buộc, là cát thần, bảo vệ tài, sinh ấn, áp chế thân, khắc chế kiếp.

Xem đầy đủ kiến thức lý thuyết - Gợi ý: Dự đoán về Chính Quan

4.2 THIÊN TÀI -Nguồn của=Nghề Phụ-Cha-Vợ lẽ:
Công năng: Là vật dưỡng mệnh, người người cần có, nhưng không phải ai cũng có được, xưa nay đều như thế. Chính, thiên tài nói chung được xem là cát thần.

Xem đầy đủ kiến thức lý thuyết - Gợi ý: Dự đoán về Thiên Tài

4.1 CHÍNH TÀI - Nguồn sống=Nghề LĐ-Vợ
Công năng: Dưỡng mệnh, người người cần có, nhưng không phải ai cũng có được.

Xem đầy đủ kiến thức lý thuyết - Gợi ý: Dự đoán về Chính Tài

4.10 THƯƠNG QUAN
Công năng: Thương gặp quan thì khắc, là hung thần, cần tuân thủ pháp luật nghiêm

Xem đầy đủ kiến thức lý thuyết - Gợi ý: Dự đoán về Thương Quan

4.9 THỰC THẦN - Thọ Tinh:
Công năng: Thực gặp quan thì áp chế, thường là Cát thần. Thực thần+Sát = Chế Sát cho Thân yên ổn, không có tai hoạ = Cát.

Xem đầy đủ kiến thức lý thuyết - Gợi ý: Dự đoán về Thực Thần

4.8 KIẾP TÀI
Chức năng: Đối địch của tài. Nhật can vượng nói chung là hung thần.

Xem đầy đủ kiến thức về Kiếp Tài: Xem tại đây

4.7 NGANG VAI
Chức năng: Đối địch của tài. Nhật vượng nói chung là hung thần.

Xem đầy đủ kiến thức về Tỷ Kiên: Xem tại đây

Ấn Kiêu

Xem đầy đủ kiến thức về Ấn Kiêu: Xem tại đây

 

Quan Sát

Xem đầy đủ kiến thức về Quan Sát: Xem tại đây

+ Tài Tinh

 Xem tổng hợp kiến thức về Tài Tinh: Xem tại đây 

Thực Thương

Xem đầy đủ kiến thức về Thương Quan : Xem tại đây

Tỷ Kiếp

Xem đầy đủ kiến thức về Kiếp Tài: Xem tại đây

Thân Cực Nhược

Thân Nhược

Thiên về nhược

Thân Bình Hòa

Thiên về vượng

Thân Vượng

Tứ trụ có tình: Mệnh có kị thần nhưng bị hợp chặt là tốt. Mệnh tạp trở lên thuần.

Mệnh có trụ Can Chi cùng ngũ hành: Nếu là lệnh tháng thì là ngũ hành quyết định cát hung của mệnh. Nếu là năm, ngày, giờ thì tùy mệnh mà luận

VD: Mệnh Lưu Hoan (TVH-223) - Trụ ngày Tân sửu, tháng Canh Thân => Mệnh rất vượng có thực thương sinh tài => Ca sỹ nổi tiếng hát thế vận hội năm 2008 của Trung quốc

+ Đồng Dị Giữa Hỏi - Đáp (Hỏi một nội dung - Ứng Quẻ Sai Khác): Người hỏi việc gần xa, nhưng Quẻ báo việc liên quan đến sống chết đến nơi

+ Quẻ Cha - Con (Đơn - Đa):
- Quẻ Cha chỉ hỏi một lần cho một vụ việc. Quẻ đơn ban đầu cũng có thể chuyển thành Quẻ Cha nếu phát sinh câu hỏi khác cùng vụ việc
- Quẻ Con: Gồm có quẻ hỏi lần đầu là Quẻ Cha, tiếp theo còn hỏi lại vẫn sự vụ đó/ Một vụ việc hỏi nhiều lần theo tiến độ công việc => Khi đoán cần phối hợp các quẻ để đoán.

+ Quẻ Con Thuộc Quẻ Cha: Quẻ hỏi thêm cho một vụ việc đã có hỏi trước đó, mục đích là để kết hợp 2 Quẻ lại để đoán cho tăng độ chính xác

Quẻ Cha - Lần Gieo Đầu cho vụ việc này

Quan Hệ Thế - Ứng

VI - THẾ - ỨNG: Lục thân tại Thế gọi là "Trì thế".

Đạo: Một âm một dương = Đạo. Quy luật tự nhiên từ thấp lên cao-Thăng tiến, đến cực giáng xuống theo hậu thiên. Phải có đủ Âm Dương, Nội Ngoại Quái, Trời Đất, và hào vị mới hòa hợp được.

Xem cho ta: Thế là mình, ứng là người khác; Hào động để biết cơ trời, Dụng phải sinh, giúp hào thế. Hào động có thể thần mách việc lớn, bỏ qua việc nhỏ;

+ Như xem đất an táng/ Tìm huyệt Hào Thế là huyệt: Phép xem xưa, có phép coi hào nhị là huyệt, hoặc coi quẻ nội là huyệt, hoặc coi Đằng Xà là huyệt, ta thử nhiều lần không thấy ứng nghiệm. Chỉ thấy lấy hào Thế làm huyệt là ứng nghiệm. Hào Thế cần vượng tướng, hoặc lâm nhật, nguyệt, hoặc được nhật, nguyệt, hào động sinh phù, thì đó là cát địa. Con cháu là hậu duệ tế bái, nên được Tử Tôn trì Thế là tốt, hoặc được hào khác vượng tướng, đều là tượng con cháu thịnh vượng (TSBD, Tr đầu);

Thế lâm không: Nản lòng thoái trí, động mới có cứu. Thế ứng lâm không ta người chẳng thực.

Thế động hồi đầu khắc: Tượng đại hung nếu xem về an nguy của mình. Viêc khác phải đợi xung hào hồi đầu khắc mới Cát lợi.

Dụng khắc Thế: Dụng là Tài, người ở xa, Tử tôn-xem thuốc thang đều là cát. Các việc khác Dụng khắc Thế đều Hung. Niên, Nhật, nguyệt sinh phò Thế là được người giúp, làm quan được ân sủng bề trên, người quân tử kết thân, ngưới dưới trung thành. Người thường có Quý nhân phù trợ.

Thế hữu khí: Bị Thái tuế, Hào 5 xung khắc là bị kẻ trên, quyền quý lăng nhục, bị thất xủng, bạn bè đố kị, người dưới khinh. Thế hưu tù còn nặng hơn.

Thế bị Nhật, nguyệt xung khắc: Bị trên quả trách; ngang vai hiềm khích-tiểu nhân bôi xấu

Thế được ngày giờ sinh: Hữu khí suốt đời chỉ dược lòng tiểu nhân, người dưới. Hưu tù có cũng như không.

Tử tôn trì Thế/ Hào động gặp T.Long mà vô khí: ý trí cao cả, trọng nghĩa khinh tài, thoát tục siêu phàm, can tâm chịu nghèo khổ.

Tử tôn trì Thế: Là thần phúc nhưng đạm bạc, suốt đời không phạm hình thương. Nếu đơn độc ít giúp đỡ, Tài lại thất hãm thì thích ở chùa.

Quỷ khắc Thế: Là hại, thân bại danh liệt, Thế vượng thì rễ bị đố kị, tiểu nhân, quan hình. Quan vượng Thế suy thì nên tránh hỏi Tài phúc, cố sẽ bại nghiệp

Thế gặp hợp: Rễ bị người khống chế, giàu hay nghèo đều là tượng rễ bị điều khiển, chói buộc.

Thế Động-Biến

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

 

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Lục Thân Hào Thế (Hào không vong xét ở mục Hào Không vong => Kết hợp sẽ biết Hào Thế bị không vong hay không)

+ Pháp chọn Dụng: Khi có nhiều dụng thần, dụng ẩn hiện thì chọn thế nào?
I. DỤNG THẦN:
 Là thể sự việc, chủ tượng, nguyên thần là gốc rễ. Rất nên trì thế. Kị thần cần suy .., bị khắc.

CÁC BƯỚC XÉT DỤNG THẦN

1- Xét Nguyệt kiến: Nếu Dụng là Nguyệt kiến là được vượng tướng lại được thời-Mùa. Nếu Dụng bị Nguyệt kiến khắc hại là bị tổn thương nặng, rất bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nguyệt Xung gọi là Nguyệt phá, thì mình như đồ hỏng vỡ, không tác dụng gì, vô lực. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nguyệt kiến là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực.

2- Xét Nhật Thần: Nếu Dụng là Nhật Thần là được vượng, nên được quyền. Nếu Dụng bị Nhật Thần khắc hại là bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nhật Xung gọi là ám động-động ngầm, là tượng bất lợi, phụ thuộc vào Dụng vượng suy. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nhật Thần là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực, sinh bất lợi.

3- Xét Hào động-Dụng thần: Hào động trong quẻ được sinh khắc xung hợp Dụng thần, dù Dụng có động hay không.

4- Xét Hào động biến hồi đầu sinh, khắc, xung, hợp Hào gốc nếu Hào gốc là Dụng thần động: Nếu kết quả là tương sinh, chợ giúp Dụng thần đều là Cát. Nếu nhiều sinh ít khắc cũng vẫn Cát nhiều hung ít, tức trong cát gặp hung. Nếu Sinh ít, khắc nhiều là khắc sứ phùng sinh, trong hung có Cát. Nếu hưu tù thì chỉ hữu danh vô thực. Nếu toàn khắc không sinh là toàn hung, khó cứu.

>>> Cát hung: Nếu Dụng được cả 4 yếu tố trên đều sinh, hợp có lợi cho Dụng thần là Cát-Cực tốt, là Dụng thần được thời, được thế. Nếu tốt nhiều xấu ít là trong Cát có hung. Xấu nhiều tốt ít là trong Hung có Cát. Nếu toàn xấu là toàn hung.

Dụng vượng-Cát: Dụng có gốc = Có Nguyên thần hữu khí, vượng tướng, không bị xung khắc, nếu động sinh cho Dụng càng Cát lợi. Nguyên thần có thể sinh cho Dụng, khắc phá kị thần, cừu thần bảo vệ Dụng. Ví như cây được có gốc rễ, bị xung khắc tán vẫn có khả năng hồi sinh, Dụng có khí thì không suy bại.

Dụng hóa Cát : Dụng, nguyên-thần động hóa hồi đầu sinh, hóa trường sinh, hóa đế-vượng, hóa phò trợ, hóa ngày tháng là hóa Cát.
Dụng thần Suy-Hung: Dụng vô căn = Không có Nguyên thần hoặc Nguyên thần hưu tù mộ tuyệt. Như cây không có gốc rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh khi bị khắc phá. Nếu Dụng hữu khí sinh vượng khi bị Nguyệt phá còn đỡ hung. Nếu Dụng hưu tù bị Nguyệt phá là bị nhổ tung gốc rễ, vì Nguyên thần suy tuyệt lên không sinh trợ nổi Dụng thần, Cực hung.  Dụng vượng, nguyên thần bị khắc như Nước không nguồn, cây không rễ

Dụng hóa Hung: Phàm dụng, nguyên thần động hóa hồi đầu khắc, hóa tuyệt, hóa mộ, hóa không, hoá phá, hóa quỉ, hóa thoái thần đều là hóa hung .
Dụng hóa 3 mộ-Hung: Dụng hào nhập mộ tại Nhật thần-Nhật mộ, nhập mộ tại Hào động-Động mộ, Hào động mà hóa mộ.

Dụng thần-Nhiều: Chọn hào vượng tướng(Có lợi), gần H.thế. 

Dụng thần với Hào Thế: Dụng sinh Thế - áo gấm thêu hoa. Nếu khắc Thế kém hơn.

Dụng thần-Hình hại: Hình hại không lên ở Dụng-212

Động hoá Hình: Xem về việc-không thành; vật-không đẹp; Bệnh-chết; Người-mối lo; Phụ nữ-Đào hoa; Văn thư-trở ngại; Kiện tụng-kết tội

Biến, Hoá: Cũng chỉ hào biến. Lão âm làm thiếu-dương, gọi là biến. Lão dương làm thiếu-âm, gọi là hóa.

HOÁ TIẾN, HOÁ THOÁI, HOÁ MỘ: Là hào động tự hóa ra. Chỗ hỉ nên hóa tiến, chỗ kị nên hóa thoái. Hóa tiến, thoái, kiết hung, họa phước có phân hỉ kị .
Hóa tiến thần: Là biến hóa tiến tới, được lâu dài. Như Hợi hóa Tý, Dần hóa Mão, Tị hóa Ngọ, Thân hóa Dậu, Sửu hóa Thìn, Thìn hóa Mùi, Mùi hóa Tuất.
Hóa thoái thần: Là bắt từ đây thoái lại lần lần, như mùa thu, cây bông lần lần điêu tàng. Tý hóa Hợi, Mão hóa Dần, Ngọ hóa Tị, ........

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

 

I. DỤNG THẦN: Là thể sự việc, chủ tượng, nguyên thần là gốc rễ. Rất nên trì thế. Kị thần cần suy .., bị khắc.

1- Xét Nguyệt kiến: Nếu Dụng là Nguyệt kiến là được vượng tướng lại được thời-Mùa. Nếu Dụng bị Nguyệt kiến khắc hại là bị tổn thương nặng, rất bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nguyệt Xung gọi là Nguyệt phá, thì mình như đồ hỏng vỡ, không tác dụng gì, vô lực. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nguyệt kiến là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực.

2- Xét Nhật Thần: Nếu Dụng là Nhật Thần là được vượng, nên được quyền. Nếu Dụng bị Nhật Thần khắc hại là bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nhật Xung gọi là ám động-động ngầm, là tượng bất lợi, phụ thuộc vào Dụng vượng suy. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nhật Thần là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực, sinh bất lợi.

3- Xét Hào động-Dụng thần: Hào động trong quẻ được sinh khắc xung hợp Dụng thần, dù Dụng có động hay không.

4- Xét Hào động biến hồi đầu sinh, khắc, xung, hợp Hào gốc nếu Hào gốc là Dụng thần động: Nếu kết quả là tương sinh, chợ giúp Dụng thần đều là Cát. Nếu nhiều sinh ít khắc cũng vẫn Cát nhiều hung ít, tức trong cát gặp hung. Nếu Sinh ít, khắc nhiều là khắc sứ phùng sinh, trong hung có Cát. Nếu hưu tù thì chỉ hữu danh vô thực. Nếu toàn khắc không sinh là toàn hung, khó cứu.

>>> Cát hung: Nếu Dụng được cả 4 yếu tố trên đều sinh, hợp có lợi cho Dụng thần là Cát-Cực tốt, là Dụng thần được thời, được thế. Nếu tốt nhiều xấu ít là trong Cát có hung. Xấu nhiều tốt ít là trong Hung có Cát. Nếu toàn xấu là toàn hung.

Dụng vượng-Cát: Dụng có gốc = Có Nguyên thần hữu khí, vượng tướng, không bị xung khắc, nếu động sinh cho Dụng càng Cát lợi. Nguyên thần có thể sinh cho Dụng, khắc phá kị thần, cừu thần bảo vệ Dụng. Ví như cây được có gốc rễ, bị xung khắc tán vẫn có khả năng hồi sinh, Dụng có khí thì không suy bại.

Dụng hóa Cát : Dụng, nguyên-thần động hóa hồi đầu sinh, hóa trường sinh, hóa đế-vượng, hóa phò trợ, hóa ngày tháng là hóa Cát.
Dụng thần Suy-Hung: Dụng vô căn = Không có Nguyên thần hoặc Nguyên thần hưu tù mộ tuyệt. Như cây không có gốc rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh khi bị khắc phá. Nếu Dụng hữu khí sinh vượng khi bị Nguyệt phá còn đỡ hung. Nếu Dụng hưu tù bị Nguyệt phá là bị nhổ tung gốc rễ, vì Nguyên thần suy tuyệt lên không sinh trợ nổi Dụng thần, Cực hung.  Dụng vượng, nguyên thần bị khắc như Nước không nguồn, cây không rễ

Dụng hóa Hung: Phàm dụng, nguyên thần động hóa hồi đầu khắc, hóa tuyệt, hóa mộ, hóa không, hoá phá, hóa quỉ, hóa thoái thần đều là hóa hung .
Dụng hóa 3 mộ-Hung: Dụng hào nhập mộ tại Nhật thần-Nhật mộ, nhập mộ tại Hào động-Động mộ, Hào động mà hóa mộ.

Dụng thần-Nhiều: Chọn hào vượng tướng(Có lợi), gần H.thế. 

Dụng thần với Hào Thế: Dụng sinh Thế - áo gấm thêu hoa. Nếu khắc Thế kém hơn.

Dụng thần-Hình hại: Hình hại không lên ở Dụng-212

Động hoá Hình: Xem về việc-không thành; vật-không đẹp; Bệnh-chết; Người-mối lo; Phụ nữ-Đào hoa; Văn thư-trở ngại; Kiện tụng-kết tội

Biến, Hoá: Cũng chỉ hào biến. Lão âm làm thiếu-dương, gọi là biến. Lão dương làm thiếu-âm, gọi là hóa.

HOÁ TIẾN, HOÁ THOÁI, HOÁ MỘ: Là hào động tự hóa ra. Chỗ hỉ nên hóa tiến, chỗ kị nên hóa thoái. Hóa tiến, thoái, kiết hung, họa phước có phân hỉ kị .
Hóa tiến thần: Là biến hóa tiến tới, được lâu dài. Như Hợi hóa Tý, Dần hóa Mão, Tị hóa Ngọ, Thân hóa Dậu, Sửu hóa Thìn, Thìn hóa Mùi, Mùi hóa Tuất.
Hóa thoái thần: Là bắt từ đây thoái lại lần lần, như mùa thu, cây bông lần lần điêu tàng. Tý hóa Hợi, Mão hóa Dần, Ngọ hóa Tị, ........

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

 

I. DỤNG THẦN: Là thể sự việc, chủ tượng, nguyên thần là gốc rễ. Rất nên trì thế. Kị thần cần suy .., bị khắc.

 

CÁC BƯỚC XÉT DỤNG THẦN

1- Xét Nguyệt kiến: Nếu Dụng là Nguyệt kiến là được vượng tướng lại được thời-Mùa. Nếu Dụng bị Nguyệt kiến khắc hại là bị tổn thương nặng, rất bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nguyệt Xung gọi là Nguyệt phá, thì mình như đồ hỏng vỡ, không tác dụng gì, vô lực. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nguyệt kiến là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực.

2- Xét Nhật Thần: Nếu Dụng là Nhật Thần là được vượng, nên được quyền. Nếu Dụng bị Nhật Thần khắc hại là bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nhật Xung gọi là ám động-động ngầm, là tượng bất lợi, phụ thuộc vào Dụng vượng suy. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nhật Thần là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực, sinh bất lợi.

3- Xét Hào động-Dụng thần: Hào động trong quẻ được sinh khắc xung hợp Dụng thần, dù Dụng có động hay không.

4- Xét Hào động biến hồi đầu sinh, khắc, xung, hợp Hào gốc nếu Hào gốc là Dụng thần động: Nếu kết quả là tương sinh, chợ giúp Dụng thần đều là Cát. Nếu nhiều sinh ít khắc cũng vẫn Cát nhiều hung ít, tức trong cát gặp hung. Nếu Sinh ít, khắc nhiều là khắc sứ phùng sinh, trong hung có Cát. Nếu hưu tù thì chỉ hữu danh vô thực. Nếu toàn khắc không sinh là toàn hung, khó cứu.

>>> Cát hung: Nếu Dụng được cả 4 yếu tố trên đều sinh, hợp có lợi cho Dụng thần là Cát-Cực tốt, là Dụng thần được thời, được thế. Nếu tốt nhiều xấu ít là trong Cát có hung. Xấu nhiều tốt ít là trong Hung có Cát. Nếu toàn xấu là toàn hung.

Dụng vượng-Cát: Dụng có gốc = Có Nguyên thần hữu khí, vượng tướng, không bị xung khắc, nếu động sinh cho Dụng càng Cát lợi. Nguyên thần có thể sinh cho Dụng, khắc phá kị thần, cừu thần bảo vệ Dụng. Ví như cây được có gốc rễ, bị xung khắc tán vẫn có khả năng hồi sinh, Dụng có khí thì không suy bại.

Dụng hóa Cát : Dụng, nguyên-thần động hóa hồi đầu sinh, hóa trường sinh, hóa đế-vượng, hóa phò trợ, hóa ngày tháng là hóa Cát.
Dụng thần Suy-Hung: Dụng vô căn = Không có Nguyên thần hoặc Nguyên thần hưu tù mộ tuyệt. Như cây không có gốc rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh khi bị khắc phá. Nếu Dụng hữu khí sinh vượng khi bị Nguyệt phá còn đỡ hung. Nếu Dụng hưu tù bị Nguyệt phá là bị nhổ tung gốc rễ, vì Nguyên thần suy tuyệt lên không sinh trợ nổi Dụng thần, Cực hung.  Dụng vượng, nguyên thần bị khắc như Nước không nguồn, cây không rễ

Dụng hóa Hung: Phàm dụng, nguyên thần động hóa hồi đầu khắc, hóa tuyệt, hóa mộ, hóa không, hoá phá, hóa quỉ, hóa thoái thần đều là hóa hung .
Dụng hóa 3 mộ-Hung: Dụng hào nhập mộ tại Nhật thần-Nhật mộ, nhập mộ tại Hào động-Động mộ, Hào động mà hóa mộ.

Dụng thần-Nhiều: Chọn hào vượng tướng(Có lợi), gần H.thế. 

Dụng thần với Hào Thế: Dụng sinh Thế - áo gấm thêu hoa. Nếu khắc Thế kém hơn.

Dụng thần-Hình hại: Hình hại không lên ở Dụng-212

Động hoá Hình: Xem về việc-không thành; vật-không đẹp; Bệnh-chết; Người-mối lo; Phụ nữ-Đào hoa; Văn thư-trở ngại; Kiện tụng-kết tội

Biến, Hoá: Cũng chỉ hào biến. Lão âm làm thiếu-dương, gọi là biến. Lão dương làm thiếu-âm, gọi là hóa.

HOÁ TIẾN, HOÁ THOÁI, HOÁ MỘ: Là hào động tự hóa ra. Chỗ hỉ nên hóa tiến, chỗ kị nên hóa thoái. Hóa tiến, thoái, kiết hung, họa phước có phân hỉ kị .
Hóa tiến thần: Là biến hóa tiến tới, được lâu dài. Như Hợi hóa Tý, Dần hóa Mão, Tị hóa Ngọ, Thân hóa Dậu, Sửu hóa Thìn, Thìn hóa Mùi, Mùi hóa Tuất.
Hóa thoái thần: Là bắt từ đây thoái lại lần lần, như mùa thu, cây bông lần lần điêu tàng. Tý hóa Hợi, Mão hóa Dần, Ngọ hóa Tị, ........

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

 

Dạng dụng thần

-- -- Quẻ Có Dụng Thần Hiện

-- -- Quẻ Không Có Dụng Thần

-- -- Dụng Thần là Nhật Nguyệt

-- -- Dụng Thần Là Phục Thần

-- -- Dụng Thần Là Phi Thần

-- -- Dụng Ở Quẻ Biến, Hào Biến

-- -- Dụng Thần Đặc Biệt Khác

 

I. DỤNG THẦN: Là thể sự việc, chủ tượng, nguyên thần là gốc rễ. Rất nên trì thế. Kị thần cần suy .., bị khắc.

 

CÁC BƯỚC XÉT DỤNG THẦN

1- Xét Nguyệt kiến: Nếu Dụng là Nguyệt kiến là được vượng tướng lại được thời-Mùa. Nếu Dụng bị Nguyệt kiến khắc hại là bị tổn thương nặng, rất bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nguyệt Xung gọi là Nguyệt phá, thì mình như đồ hỏng vỡ, không tác dụng gì, vô lực. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nguyệt kiến là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực.

2- Xét Nhật Thần: Nếu Dụng là Nhật Thần là được vượng, nên được quyền. Nếu Dụng bị Nhật Thần khắc hại là bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nhật Xung gọi là ám động-động ngầm, là tượng bất lợi, phụ thuộc vào Dụng vượng suy. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nhật Thần là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực, sinh bất lợi.

3- Xét Hào động-Dụng thần: Hào động trong quẻ được sinh khắc xung hợp Dụng thần, dù Dụng có động hay không.

4- Xét Hào động biến hồi đầu sinh, khắc, xung, hợp Hào gốc nếu Hào gốc là Dụng thần động: Nếu kết quả là tương sinh, chợ giúp Dụng thần đều là Cát. Nếu nhiều sinh ít khắc cũng vẫn Cát nhiều hung ít, tức trong cát gặp hung. Nếu Sinh ít, khắc nhiều là khắc sứ phùng sinh, trong hung có Cát. Nếu hưu tù thì chỉ hữu danh vô thực. Nếu toàn khắc không sinh là toàn hung, khó cứu.

>>> Cát hung: Nếu Dụng được cả 4 yếu tố trên đều sinh, hợp có lợi cho Dụng thần là Cát-Cực tốt, là Dụng thần được thời, được thế. Nếu tốt nhiều xấu ít là trong Cát có hung. Xấu nhiều tốt ít là trong Hung có Cát. Nếu toàn xấu là toàn hung.

Dụng vượng-Cát: Dụng có gốc = Có Nguyên thần hữu khí, vượng tướng, không bị xung khắc, nếu động sinh cho Dụng càng Cát lợi. Nguyên thần có thể sinh cho Dụng, khắc phá kị thần, cừu thần bảo vệ Dụng. Ví như cây được có gốc rễ, bị xung khắc tán vẫn có khả năng hồi sinh, Dụng có khí thì không suy bại.

Dụng hóa Cát : Dụng, nguyên-thần động hóa hồi đầu sinh, hóa trường sinh, hóa đế-vượng, hóa phò trợ, hóa ngày tháng là hóa Cát.
Dụng thần Suy-Hung: Dụng vô căn = Không có Nguyên thần hoặc Nguyên thần hưu tù mộ tuyệt. Như cây không có gốc rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh khi bị khắc phá. Nếu Dụng hữu khí sinh vượng khi bị Nguyệt phá còn đỡ hung. Nếu Dụng hưu tù bị Nguyệt phá là bị nhổ tung gốc rễ, vì Nguyên thần suy tuyệt lên không sinh trợ nổi Dụng thần, Cực hung.  Dụng vượng, nguyên thần bị khắc như Nước không nguồn, cây không rễ

Dụng hóa Hung: Phàm dụng, nguyên thần động hóa hồi đầu khắc, hóa tuyệt, hóa mộ, hóa không, hoá phá, hóa quỉ, hóa thoái thần đều là hóa hung .
Dụng hóa 3 mộ-Hung: Dụng hào nhập mộ tại Nhật thần-Nhật mộ, nhập mộ tại Hào động-Động mộ, Hào động mà hóa mộ.

Dụng thần-Nhiều: Chọn hào vượng tướng(Có lợi), gần H.thế. 

Dụng thần với Hào Thế: Dụng sinh Thế - áo gấm thêu hoa. Nếu khắc Thế kém hơn.

Dụng thần-Hình hại: Hình hại không lên ở Dụng-212

Động hoá Hình: Xem về việc-không thành; vật-không đẹp; Bệnh-chết; Người-mối lo; Phụ nữ-Đào hoa; Văn thư-trở ngại; Kiện tụng-kết tội

Biến, Hoá: Cũng chỉ hào biến. Lão âm làm thiếu-dương, gọi là biến. Lão dương làm thiếu-âm, gọi là hóa.

HOÁ TIẾN, HOÁ THOÁI, HOÁ MỘ: Là hào động tự hóa ra. Chỗ hỉ nên hóa tiến, chỗ kị nên hóa thoái. Hóa tiến, thoái, kiết hung, họa phước có phân hỉ kị .
Hóa tiến thần: Là biến hóa tiến tới, được lâu dài. Như Hợi hóa Tý, Dần hóa Mão, Tị hóa Ngọ, Thân hóa Dậu, Sửu hóa Thìn, Thìn hóa Mùi, Mùi hóa Tuất.
Hóa thoái thần: Là bắt từ đây thoái lại lần lần, như mùa thu, cây bông lần lần điêu tàng. Tý hóa Hợi, Mão hóa Dần, Ngọ hóa Tị, ........

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

 

 

 

+ Pháp định Dụng: Dụng thần lục thân là gia?
I. DỤNG THẦN:
 Là thể sự việc, chủ tượng, nguyên thần là gốc rễ. Rất nên trì thế. Kị thần cần suy .., bị khắc.

1- Hào Phụ Mẫu: Chiếm cho cha mẹ, ông bà của ta, cha mẹ của chú bác, của cô dì, phàm lớn hơn cha mẹ ta, hay là bằng như chú bác cô dì, cùng là Thầy, cha mẹ vợ, cha mẹ của vú nuôi bái nhận, tam phụ bát mẫu. Hoặc tôi tớ hay người làm chiếm cho chủ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần.
Chiếm về trời đất, trời mưa, thành ao, tường rào, nhà cửa, ghe xe, áo quần, khí cụ (đao, kiếm...), bô vải, tạp hóa, cùng là tấu chương, văn thư, văn chương, thi cữ, thư quán, văn khế, giấy tờ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Vật loại rất nhiều, tại người thông biến. Nói tóm lại, các vật loại có tính cách tỷ hộ hay tỷ trợ thân ta, tức là nuôi nấng, che chỡ, đỡ đần cho ta đều thuộc hào Phụ Mẫu.
Phụ Mẫu là hào khắc Tử Tôn, là Kỵ Thần của Tử Tôn.

Phụ Mẫu: Là Thần gian khổ

Trì thế: Thần gian khổ, bận rộn, bôn ba. Hôn nhân khó khăn. Con hiếm muộn.

Bị khắc: Quẻ có Tài động khắc Thế=Vợ dữ, đoản thọ. Nếu có Quan cùng động thì lợi về văn khoa thi cử.

Xem Nhân sự:

Xem các việc:

2- Hào Quan Quỹ: Chiếm công danh, quan phủ, việc quan, lôi đình (sấm động), quỷ thần, xác chết, vợ chiếm cho chồng đều lấy hào Quan Quỷ làm Dụng Thần.
Chiếm yêu nghiệt, loạn thần, đạo tặc, tà xí, những điều nghi kỵ lo âu, những lo sợ, tai họa, cũng đều lấy hào Quan Quỷ làm Dụng Thần. Vật loại cũng nhiều, nói tắc lại là những món câu thúc, khắc chế, thân ta đều thuộc hào Quan Quỷ. Hào Quan Quỷ là hào khắc Huynh Đệ, là Kỵ Thần của Huynh Đệ.

Quan Quỷ: Chủ về nghi hoặc, hung nhiều cát ít. Lên tĩnh. Động sẽ sinh hoạ, bệnh tật cho ta. Nếu trì thế mà bị khắc là khắc đi quỷ bên mình= tốt với Hào Thế vượng. 

Quan Quỷ: Là Kỵ Thần-Khắc tinh của Huynh Đệ. Những sự việc khắc chế, trói buộc ta đều thuộc Quan Quỷ

Xem nhân sự: công danh, cầu quan, quan phủ, trưởng quan, việc quan,  vợ xem cho chồng, nữ đoán hôn nhân
Xem các việc: yêu nghét, loạn thần, trộm cướp, tôn giáo, nghi ngờ, bệnh tật, đạo tặc, tà xí, nghi kỵ lo âu, lo sợ, sấm động, quỷ thần, xác chết, tai họa ....câu thúc, khắc chế thân ta đều thuộc hào Quan Quỷ.

Trì Thế: Hoạn nạn-Sức khỏe, C.việc khó yên. Không bệnh thì gặp tai nạn-Thường mất tiền của. Nếu nhập Mộ càng khó khăn. Gặp Xung=có cứu > nguy hiểm cũng qua. Riêng cầu Quan/ Danh mong được Trì thế.

Bị khắc: Giảm nhiều hoặc biến hung thành cát tùy theo mức bị khắc.

3- Hào Huynh Đệ: Chiếm anh em, chị em ruột, cùng là những bà con trong họ, như con cô dì chú bác, anh em rễ, anh em bạn, trời gió, đều lấy hào Huynh Đệ làm Dụng Thần.
Anh em là người ngang hàng, đồng loại. Người kia đắc chí thì người nọ xâm lăng, thấy Tài thì đoạt. Cho nên chiếm Tài vật, lấy hào này làm thần cướp của, cướp tài; chiếm mưu sự, lấy nó làm thần cách trở; chiếm vợ hầu, tôi tớ, lấy nó làm thần hình thương khắc hại.
Chiếm cho anh rễ, em rễ, lấy Thế hào làm Dụng Thần mỗi khi tôi (tức Thánh Dã Hạc) đều thấy nghiệm.
Chiếm cho anh em chú bác và cô cậu, lấy hào huynh đệ làm Dụng Thần thì không nghiệm, rồi phải lấy Ứng hào làm Dụng Thần. 

Chủ về: Là thần phá tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Chủ cướp đoạt, tranh giành Tiền của, hình thương vợ, hầu, tôi, tớ, tay sai.

Huynh: Kị thần, khắc tinh Thê tài. Là anh em ruột thịt, ngang tuổi

Người: Không thể đem phúc đến cho ta, cũng không khiến ta gặp đại hoạ. Ưa được sinh, kị bị Quỷ khắc hại. tranh lợi đoạt tài.

Xem Nhân sự:

Xem các việc: Xem Tài vât - Cướp tài; Xem mưu sự- thần cản trở; Xem thê thiết, tôi tớ nô bộc - hình thương khắc hại.

Trì thế: Thần kiếp Tài, mất của, tổn thương Vợ. Nặng phá sản. Phòng khắc Vợ/ mất của

4- Hào Thê Tài: Chiếm cho Thê Tài, tôi tớ, tay sai, phàm những người của ta sai khiến, đều lấy hào Tài làm Dụng Thần.
Chiếm hóa Tài, châu báu, vàng bạc, kho vựa, tiền lương, nhất thiết các món để dùng, nào là tài vật, nào là thập vật, Máy tính, điện thoại, khí minh (trời nắng sáng), đều lấy hào Tài làm Dụng Thần.
Hào Thê Tài là hào khắc hào Phụ Mẫu, là Kỵ Thần của Phụ Mẫu.
Thê Tài: Những vật dụng thiết yếu cho ta đều lấy hào Tài làm Dụng Thần. Đa phần gặp được là cát lợi.

Thê tài: Là Kỵ Thần của Phụ Mẫu - Văn thư.

Xem Nhân sự: Chiếm cho Thê Tài, tôi tớ, tay sai, phàm những người của ta sai khiến (Nữ), (Trang 90), ....hoặc
Xem các việc: Chiếm: hóa Tài, châu báu, vàng bạc, kho vựa, tiền lương, nhất thiết các món để dùng. Tài vật, của cải, châu báu, vàng bạc, kho tàng, tiền bạc, lương thực, khí minh (trời nắng sáng)... đều lấy hào Tài làm Dụng Thần.

Trì thế: Của cải phần thịnh. nếu được Tử động thì càng thịnh vượng. Động biến Huynh > Mọi việc đều xấu.

5- Hào Tử Tôn: Chiếm cho con cháu, con cái, con rễ, con dâu, môn đồ, phàm theo hàng với con cháu của ta, đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần.
Chiếm cho trung thần, Tướng tài, Thầy thuốc, Thuốc thang, sư sãi tăng đạo, đạo sỹ, binh tốt, trăng sao, đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần.
Chiếm lục súc (chó mèo heo gà nuôi trong nhà), cầm thú, cũng lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần.
Tử Tôn là Thần phúc đức-Phúc Thần, là thần chế ngự ma Quỷ, là Thần giải trừ ưu phiền. Chủ về bãi quan, tước chức.
Tử Tôn: Là phúc Thần-Vui vẻ. Mọi việc đều tốt, trừ cầu quan/ danh/ nữ đoán hôn nhân=Không thuận

Tử tôn: Kị thần khắc quan, tước chức, chế Quỷ, giải phiền rầu, ưu nghi,

Xem Nhân sự: Xem về con cái, con rễ, con dâu, cháu nội, ngoại,

Xem các việc: Thầy thuốc, Tăng đạo, Thầy tướng, trung thần, lương tướng, thuật sĩ, phước đức, y sĩ, y dược, tăng đạo, binh sỹ, môn đồ, tướng tài, Thày thuốc, thuốc thang, tăng đạo, sư sãi, đạo sĩ, binh lính ...

Trăng sao, gia cầm, gia xúc, chim chóc, trăng sao.Thú nuôi... đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần.

Trì Thế: an lành, tai họa chỉ thoảng qua. Không lợi cầu quan, cầu danh

Bị khắc: Giảm phúc, buồn phiền

CÁC BƯỚC XÉT DỤNG THẦN

1- Xét Nguyệt kiến: Nếu Dụng là Nguyệt kiến là được vượng tướng lại được thời-Mùa. Nếu Dụng bị Nguyệt kiến khắc hại là bị tổn thương nặng, rất bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nguyệt Xung gọi là Nguyệt phá, thì mình như đồ hỏng vỡ, không tác dụng gì, vô lực. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nguyệt kiến là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực.

2- Xét Nhật Thần: Nếu Dụng là Nhật Thần là được vượng, nên được quyền. Nếu Dụng bị Nhật Thần khắc hại là bất lợi, nếu Dụng hưu tù ở chi tháng càng bất lợi, thêm hung. Bị Nhật Xung gọi là ám động-động ngầm, là tượng bất lợi, phụ thuộc vào Dụng vượng suy. Nếu sì hơi hoặc mình khắc Nhật Thần là tiết khí trở thành hưu tù, cũng bất lực, sinh bất lợi.

3- Xét Hào động-Dụng thần: Hào động trong quẻ được sinh khắc xung hợp Dụng thần, dù Dụng có động hay không.

4- Xét Hào động biến hồi đầu sinh, khắc, xung, hợp Hào gốc nếu Hào gốc là Dụng thần động: Nếu kết quả là tương sinh, chợ giúp Dụng thần đều là Cát. Nếu nhiều sinh ít khắc cũng vẫn Cát nhiều hung ít, tức trong cát gặp hung. Nếu Sinh ít, khắc nhiều là khắc sứ phùng sinh, trong hung có Cát. Nếu hưu tù thì chỉ hữu danh vô thực. Nếu toàn khắc không sinh là toàn hung, khó cứu.

>>> Cát hung: Nếu Dụng được cả 4 yếu tố trên đều sinh, hợp có lợi cho Dụng thần là Cát-Cực tốt, là Dụng thần được thời, được thế. Nếu tốt nhiều xấu ít là trong Cát có hung. Xấu nhiều tốt ít là trong Hung có Cát. Nếu toàn xấu là toàn hung.

Dụng vượng-Cát: Dụng có gốc = Có Nguyên thần hữu khí, vượng tướng, không bị xung khắc, nếu động sinh cho Dụng càng Cát lợi. Nguyên thần có thể sinh cho Dụng, khắc phá kị thần, cừu thần bảo vệ Dụng. Ví như cây được có gốc rễ, bị xung khắc tán vẫn có khả năng hồi sinh, Dụng có khí thì không suy bại.

Dụng hóa Cát : Dụng, nguyên-thần động hóa hồi đầu sinh, hóa trường sinh, hóa đế-vượng, hóa phò trợ, hóa ngày tháng là hóa Cát.
Dụng thần Suy-Hung: Dụng vô căn = Không có Nguyên thần hoặc Nguyên thần hưu tù mộ tuyệt. Như cây không có gốc rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh khi bị khắc phá. Nếu Dụng hữu khí sinh vượng khi bị Nguyệt phá còn đỡ hung. Nếu Dụng hưu tù bị Nguyệt phá là bị nhổ tung gốc rễ, vì Nguyên thần suy tuyệt lên không sinh trợ nổi Dụng thần, Cực hung.  Dụng vượng, nguyên thần bị khắc như Nước không nguồn, cây không rễ

Dụng hóa Hung: Phàm dụng, nguyên thần động hóa hồi đầu khắc, hóa tuyệt, hóa mộ, hóa không, hoá phá, hóa quỉ, hóa thoái thần đều là hóa hung .
Dụng hóa 3 mộ-Hung: Dụng hào nhập mộ tại Nhật thần-Nhật mộ, nhập mộ tại Hào động-Động mộ, Hào động mà hóa mộ.

Dụng thần-Nhiều: Chọn hào vượng tướng(Có lợi), gần H.thế. 

Dụng thần với Hào Thế: Dụng sinh Thế - áo gấm thêu hoa. Nếu khắc Thế kém hơn.

Dụng thần-Hình hại: Hình hại không lên ở Dụng-212

Động hoá Hình: Xem về việc-không thành; vật-không đẹp; Bệnh-chết; Người-mối lo; Phụ nữ-Đào hoa; Văn thư-trở ngại; Kiện tụng-kết tội

Biến, Hoá: Cũng chỉ hào biến. Lão âm làm thiếu-dương, gọi là biến. Lão dương làm thiếu-âm, gọi là hóa.

HOÁ TIẾN, HOÁ THOÁI, HOÁ MỘ: Là hào động tự hóa ra. Chỗ hỉ nên hóa tiến, chỗ kị nên hóa thoái. Hóa tiến, thoái, kiết hung, họa phước có phân hỉ kị .
Hóa tiến thần: Là biến hóa tiến tới, được lâu dài. Như Hợi hóa Tý, Dần hóa Mão, Tị hóa Ngọ, Thân hóa Dậu, Sửu hóa Thìn, Thìn hóa Mùi, Mùi hóa Tuất.
Hóa thoái thần: Là bắt từ đây thoái lại lần lần, như mùa thu, cây bông lần lần điêu tàng. Tý hóa Hợi, Mão hóa Dần, Ngọ hóa Tị, ........

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

 

Pháp Quẻ biến: Luận về quẻ biến

Pháp về Quẻ Hỗ: Giai đoạn trung gian sự việc cát hung

+ Quẻ Thể-Dụng

Quẻ đơn: Có 8 quẻ theo tên 8 cung bát quái, mỗi quẻ có 3 Hào.
Quẻ kép-Cấu tạo: Một = 2 Quẻ đơn chồng lên nhau (Gồm 6 Hào).
Quẻ kép-Ý nghĩa: Quẻ trên/dưới; trong/ngoài; nội/ngoại;

Đọc quẻ kép: Đọc từ trên xuống

Gieo quẻ: 2 xấp 1ngửa= +; 2 ngửa 1 xấp= - ; 3 xấp ghi o (+ động); 3 ngửa ghi x (âm động)

Gieo quẻ và xếp: Ghi thứ tự từ 1,2,3,4,5,6 và xếp các hào đó từ dưới lên trên, bắt đầu từ 1,2,...

Đọc quẻ gieo được: Đọc quẻ biến trước, quẻ chủ sau >> Được quẻ A của quẻ B
Quẻ thể: Quẻ thể=Mình; là quẻ không có hào động
Quẻ dụng: Là đối phương/ Việc cần đoán; Là quẻ có hào động

Quẻ chủ: Là quẻ ban đầu-Rất quan trọng- Sự việc bắt đầu

Quẻ hỗ: quẻ chủ lấy 3 hào 2,3,4=quẻ dưới; 3,4,5 làm quẻ trên; Là giữa của sự việc.

Quẻ biến(Quẻ chi/chi quái): Quẻ gốc có hào động > sinh quẻ biến = Kết quả sự việc
Quẻ Phản ngâm:
Quẻ Phục ngâm:
Quẻ Du hồn: Quẻ thứ 7 mỗi cung: Chủ đi đi về về
Quẻ Quy hồn: Quẻ thứ 8 mỗi cung: Chủ đi rồi lại quay lại

Quẻ Lục xung: Các Hào dương và âm tương ứng xung nhau-loạn động, khó lường.

Quẻ Lục hợp: Các Hào dương và âm tương ứng hợp nhau-Gắn bó, khó rời

 

+ Cần xem mối quan hệ ngũ hành của quẻ thượng và quẻ hạ là tương sinh hay tương khắc, hay ngang hoà.
- Phàm quẻ thể khắc quẻ dụng thì tốt
- Quẻ dụng khắc quẻ thể là sự việc xấu.
- Quẻ thể sinh quẻ dụng là có sự hao tổn
- Quẻ dụng sinh quẻ thể là có điều mừng, có lợi.
- Quẻ thể và dụng ngang hoà thì mọi việc đều thuận lợi.
- Quẻ thể được sinh càng nhiều thì càng tốt, khắc nhiều thì càng hại.
- Quẻ dụng cát biến thành hung là ban đầu tốt, sau xấu.
- Quẻ dụng hung biến thành cát là trước xấu sau tốt (gặp hung hoá cát.)

- Bị khắc chỗ này, nhưng chỗ kia được sinh là trong khắc có sinh.
- Quẻ dụng mạnh thì quẻ thể tất suy, quẻ thể mạnh thì dụng tất suy.

- Càn sinh thể: Chủ có lợi về việc công, công danh, lợi của nhờ việc quan/ thắng lý / được của quý/ bạn tặng quà/ tin mừng lên chức.
- Quẻ càn khắc thể: Chủ nỗi lo công việc/ nhà cửa/ mất của cải/ tổn thất tiền bạc/ ngũ cốc/bị xúc phạm/phạm tội với người trên.
- Quẻ khôn sinh quẻ thể: Chủ tin mừng/ được của về ruộng đất/lợi nhờ người thân/ nhờ âm nhân/thóc gạo, vải vóc do có người tặng.
- Quẻ khôn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng, hao tổn vì ruộng đất/ bị tiểu nhân hại/ bị âm nhân gây hại/ mất vải vóc, thóc gạo.
- Quẻ chấn sinh quẻ thể: Chủ lợi nhuận/ được của từ sơn lâm/ phương đông/ tin mừng trong việc di chuyển/ lợi giao dịch về đồ gỗ.
- Quẻ chấn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng vu vơ, thường vì quá lo sợ/ bản thân không thể yên tĩnh/ tai nạn nhà cửa/ bị những người làm nghề sơn lâm xâm phạm/ bị mất các thứ của về sơn lâm.
- Quẻ tốn sinh quẻ thể: Chủ lợi ích từ sơn lâm, nhờ việc sơn lâm mà được của, lợi từ phía đông nam/ lợi nhờ hàng thảo mộc.
- Quẻ tốn khắc quẻ thể: Bị người trong tên có chữ thảo, mộc làm hại, hoặc lo lắng vì những việc sơn lâm hoặc bị người ở phía nam làm lo lắng, phải cấm kỵ những điều hại vì vợ hoặc những tai ách vì trẻ con, hoặc người xấu đưa đến.
- Quẻ khảm sinh quẻ thể: Chủ tin mừng từ phương bắc/ được của từ phương bắc/ người ở gần nước tặng quà/ được lợi, được tặng với mặt hàng: cá, muối, rượu hoặc văn thư.
- Quẻ khảm khắc quẻ thế: Là có việc lo về việc âm, bị trộm cuớp, làm mất long người ở gần sông biển, bị thiệt hại ở quán rượu, tai ách do người từ phương bắc đến.
- Quẻ ly sinh quẻ thể: Chủ lợi từ phương nam, có tin mừng về việc văn thư, được lợi nhờ các lò nung, lò luyện, được của nhờ có người tên họ có chữ hoả.
- Quẻ ly khắc quẻ thể: Chủ nỗi lo về văn thư, vì người từ phương nam, hoặc vì người trong tên họ có chữ hoả làm hại,
- Quẻ cấn sinh thể: Chủ được của ở đông bắc, có tin mừng/được của về ruộng vườn, nương rẫy, sơn điền. của cải yên ổn, mọi việc có thuỷ chung.
- Quẻ cấn khắc quẻ thể: Chủ việc không thuận, trắc trở, bị mất mát ruộng vườn, nương rẫy, bị người họ có chữ Thổ xâm phạm, phải đề phòng tai hoạ đối với người đông bắc, lo lắng phần mộ không yên ổn.
- Quẻ đoài sinh quẻ thể: Chủ được của từ tây, có tin mừng/ nguồn lợi nhờ các hàng thực phẩm, nhờ người tên họ có chữ kim, có niềm vui giữa chủ và khách, giữa bạn bè.
- Quẻ đoài khắc thể: Bất lợi phương tây, dễ bị tranh cãi chia rẽ, Bất lợi từ người trong tên có chữ kim lừa gạt, gặp tai hoạ đổ nát, vì ăn uống mà sinh lo.

H.Động Vượng Suy

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

 

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Hào Không Vong

V - TUẦN KHÔNG:-126-Diệu pháp: xem thêm 1 quẻ, kể cả không triệt để. Cả quẻ Thể/ biến

H. Vượng: Vẫn bị không trong tuần đó, xuất không sẽ ứng cát hung. Khi xem hiện tại không giảm, thuận, thành
Không giả: Vượng/ động / H. tuần không động/ H.được sanh phò cũng chẳng phải là không. Động mà hóa không, phục mà vượng tướng đều chẳng phải là không-Dã Hạc nói

Không thật: H suy tuyệt = Không, vô dụng. Nguyệt phá là không, hữu khí mà chẳng động cũng là không, phục mà bị khắc cũng là không, chân không là không.

Hào xung: Xung có thể tán, rất ít sảy ra, trừ khi hưu tù và xem việc gần. Xung động chỉ là tạm thời, việc xa sẽ lại vượng.

VI - THẾ - ỨNG: Lục thân tại Thế gọi là "Trì thế".

Đạo: Một âm một dương = Đạo. Quy luật tự nhiên từ thấp lên cao-Thăng tiến, đến cực giáng xuống theo hậu thiên. Phải có đủ Âm Dương, Nội Ngoại Quái, Trời Đất, và hào vị mới hòa hợp được.

Xem cho ta: Thế là mình, ứng là người khác, Hào động để biết cơ trời, Dụng phải sinh, giúp hào thế. H.động có thể thần mách việc lớn, bỏ qua việc nhỏ

Thế lâm không: Nản lòng thoái trí, động mới có cứu. Thế ứng lâm không ta người chẳng thực.

Thế động hồi đầu khắc: Tượng đại hung nếu xem về an nguy của mình. Viêc khác phải đợi xung hào hồi đầu khắc mới Cát lợi.

Dụng khắc Thế: Dụng là Tài, người ở xa, Tử tôn-xem thuốc thang đều là cát. Các việc khác Dụng khắc Thế đều Hung. Niên, Nhật, nguyệt sinh phò Thế là được người giúp, làm quan được ân sủng bề trên, người quân tử kết thân, ngưới dưới trung thành. Người thường có Quý nhân phù trợ.

Thế hữu khí: Bị Thái tuế, Hào 5 xung khắc là bị kẻ trên, quyền quý lăng nhục, bị thất xủng, bạn bè đố kị, người dưới khinh. Thế hưu tù còn nặng hơn.

Thế bị Nhật, nguyệt xung khắc: Bị trên quả trách; ngang vai hiềm khích-tiểu nhân bôi xấu

Thế được ngày giờ sinh: Hữu khí suốt đời chỉ dược lòng tiểu nhân, người dưới. Hưu tù có cũng như không.

Tử tôn trì Thế/ Hào động gặp T.Long mà vô khí: ý trí cao cả, trọng nghĩa khinh tài, thoát tục siêu phàm, can tâm chịu nghèo khổ.

Tử tôn trì Thế: Là thần phúc nhưng đạm bạc, suốt đời không phạm hình thương. Nếu đơn độc ít giúp đỡ, Tài lại thất hãm thì thích ở chùa.

Quỷ khắc Thế: Là hại, thân bại danh liệt, Thế vượng thì rễ bị đố kị, tiểu nhân, quan hình. Quan vượng Thế suy thì nên tránh hỏi Tài phúc, cố sẽ bại nghiệp

Thế gặp hợp: Rễ bị người khống chế, giàu hay nghèo đều là tượng rễ bị điều khiển, chói buộc.

 

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Nhật Sinh Hào: Là Hào có gốc rễ

4- NHẬT NGUYỆT

Quyền: Nhật Nguyệt ngang quyền. Hào được sinh nhiều khắc ít là Cát, ngược lại là hung. 1 sinh 1 khắc là ngang hoà, cần xem bị hào khác khắc xung, hợp, hợp hoá, động hoá mộ tuyệt có lợi cho Dụng, nguyên thần đến đâu để kết luận.

Quyền năng: Chỉ có Nhật, Nguyệt có quyền sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại ....các hào động, tĩnh và hào biến, hào phi, phụcCòn các hào tĩnh hay động của quẻ thể-dụng không thể thương hại giờ, ngày, tháng, năm được. Hào vượng bị Nhật xung là ám động, không bị tán mà càng trở lên vượng. Hào suy mộ tuyệt bị Nhật xung là Nhật phá, càng thêm vô dụng.

 

Nhật thần: Chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Nhật: Sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Nhật: Khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.

Nhật xung: H.động & vượng > Càng cường-89; H.động & suy > Thành tán bại;

Nhật xung: H. tĩnh & vượng > ám động; H.tĩnh suy nhược > Nhật phá.

Nhật: Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai.   

Hào gặp Nhật: Bị tuyệt, mộ tại nguyệt, bị nguyệt khắc xung > Được sinh = Cát, bị khắc = Hung.

Hào gặp Nguyệt: Bị tuyệt, mộ tại nhật, bị nhật khắc xung > Được sinh =Cát, bị khắc chuyển hung.

Hào gặp Nguyệt: Vượng trong mùa-Được thời, cũng vô sự vì qua thời sẽ suy, phải xem tổng hợp mới xét lâu dài.

Nguyệt: Chủ nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào. Không thể suy tuyệt trong mùa;

Nguyệt: Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Nguyệt sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ > Hào suy cũng lên vượng.

Nguyệt xung, khắc, hình, phá> Hào vượng cũng thành suy.

Nguyệt hợp H. sẽ trở lên hữu dụng; H.bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhật-Nguyệt không nhập quẻ: Vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn nhập quẻ

Nhật Nguyệt làm Dụng: Quẻ không có Dụng thần, lấy Nhật, Nguyệt làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

H.động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Hào Nguyệt kiến vượng, gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong, xuất không ứng nghiệm cát hung.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Kị, cừu bị Nhật, Nguyệt, Hào động xung khắc là Cát, hoặc động hoá hồi đầu khắc là cát. Dụng bị 1 trong 4 cái đó là hung.

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị xung/ khắc chế cũng phải suy vong.

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Dụng thần bị phá vẫn vượng(Dụng thần và Hào thế tương sinh, trợ): Tổng hợp sinh khắc mà vẫn vượng, đợi điền thực sẽ ứng cát hung.

Dụng thần bị phá đến cùng: gặp nguyệt phá là trái thời, như cây khô rễ mục, gặp sinh cũng không sống nổi, gặp thương khắc thì tổn thương càng nghiêm trọng, tuy có xuất hiện trong quẻ, cũng bằng không. Nếu quẻ toàn hào tĩnh, không có nhật thần, hào động sinh chợ, là bị phá đến cùng, cực xấu.

Phi-Phục thần: Dụng không hiện, tìm trong quẻ bản cung, chọn Lục thân. Phục ở dưới, phi ở trên Phục thần. Vượng mới hữu dụng, suy không hiện nên được

Nhật thần:

Nhật thần là chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Hào tĩnh vượng tướng, bị nhật thần xung tức là ám động (động ngầm)

Hào tĩnh suy nhược, bị nhật thần xung tức là Nhật phá.

Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai

Được sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Bị khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.   

Hào vượng mà động, bị nhật thần xung càng vượng cường-89;

Hào suy mà động, bị nhật thần xung thành tán bại.

Gặp nguyệt phá mà không phá, gặp xung khắc mà vô hại.

Mộ, tuyệt tức hào có ngũ hành gặp mộ, tuyệt tại nhật thần.

Nguyệt kiến:

Chủ tể nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào.

Hào suy nhược được sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ, thì suy cũng lên vượng.

Hào vượng cường, mà bị xung, khắc, hình, phá, thì vượng cũng thành suy.

Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Hào được nguyệt hợp sẽ trở lên hữu dụng; Hào bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhập quẻ Hào càng vượng. Không nhập quẻ vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn

Nếu động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Quẻ không có Dụng thần, lấy hào nguyệt kiến làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

Hào gặp nguyệt kiến là vượng, nhưng gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Quy tắc luận đoán nguyệt kiến:

Tượng lớn là cát, tại tháng đó được phúc-83;

Tượng lớn là hung, sang tháng gặp tai ương-83.

Dụng thần gặp được, được phúc không nhỏ-84;

Kỵ thần gặp được, mắc hoạ chẳng nhẹ-84.

Sinh phò Kỵ thần, giúp kẻ ác làm điều bạo ngược-84;

Khắc chế Nguyên thần, là đón lõng để cắt đường lương-84.

Sự vật cùng cực sẽ biến, đồ đựng đầy quá phải tràn-84.

Gặp Tuyệt mà không tuyệt, gặp xung mà không tán-85

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh, nếu bị xung khắc vẫn suy nhược.

Nguyệt tướng nắm quyền, không thể suy tuyệt;

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Nhật nguyệt ngang quyền, nếu có hào sinh khắc xung hợp thì theo thế có lợi, hại dụng thần.

Nguyệt khắc nhật sinh, được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị khắc chế cũng phải suy vong.

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Nhật Khắc Hào

4- NHẬT NGUYỆT

Quyền: Nhật Nguyệt ngang quyền. Hào được sinh nhiều khắc ít là Cát, ngược lại là hung. 1 sinh 1 khắc là ngang hoà, cần xem bị hào khác khắc xung, hợp, hợp hoá, động hoá mộ tuyệt có lợi cho Dụng, nguyên thần đến đâu để kết luận.

Quyền năng: Chỉ có Nhật, Nguyệt có quyền sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại ....các hào động, tĩnh và hào biến, hào phi, phụcCòn các hào tĩnh hay động của quẻ thể-dụng không thể thương hại giờ, ngày, tháng, năm được. Hào vượng bị Nhật xung là ám động, không bị tán mà càng trở lên vượng. Hào suy mộ tuyệt bị Nhật xung là Nhật phá, càng thêm vô dụng.

Ví dụ điển hình về Quyền của Nhật Nguyệt:

- Xung khắc Hào biến: TSBD, 505;

 

Nhật thần: Chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Nhật: Sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Nhật: Khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.

Nhật xung: H.động & vượng > Càng cường-89; H.động & suy > Thành tán bại;

Nhật xung: H. tĩnh & vượng > ám động; H.tĩnh suy nhược > Nhật phá.

Nhật: Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai.   

Hào gặp Nhật: Bị tuyệt, mộ tại nguyệt, bị nguyệt khắc xung > Được sinh=Cát, bị khắc=Hung.

Hào gặp Nguyệt: Bị tuyệt, mộ tại nhật, bị nhật khắc xung > Được sinh =Cát, bị khắc chuyển hung.

Hào gặp Nguyệt: Vượng trong mùa-Được thời, cũng vô sự vì qua thời sẽ suy, phải xem tổng hợp mới xét lâu dài.

Nguyệt: Chủ nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào. Không thể suy tuyệt trong mùa;

Nguyệt: Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Nguyệt sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ > Hào suy cũng lên vượng.

Nguyệt xung, khắc, hình, phá> Hào vượng cũng thành suy.

Nguyệt hợp H. sẽ trở lên hữu dụng; H.bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhật-Nguyệt không nhập quẻ: Vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn nhập quẻ

Nhật Nguyệt làm Dụng: Quẻ không có Dụng thần, lấy Nhật, Nguyệt làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

H.động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Hào Nguyệt kiến vượng, gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong, xuất không ứng nghiệm cát hung.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Kị, cừu bị Nhật, Nguyệt, Hào động xung khắc là Cát, hoặc động hoá hồi đầu khắc là cát. Dụng bị 1 trong 4 cái đó là hung.

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị xung/ khắc chế cũng phải suy vong.

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Dụng thần bị phá vẫn vượng(Dụng thần và Hào thế tương sinh, trợ): Tổng hợp sinh khắc mà vẫn vượng, đợi điền thực sẽ ứng cát hung.

Dụng thần bị phá đến cùng: gặp nguyệt phá là trái thời, như cây khô rễ mục, gặp sinh cũng không sống nổi, gặp thương khắc thì tổn thương càng nghiêm trọng, tuy có xuất hiện trong quẻ, cũng bằng không. Nếu quẻ toàn hào tĩnh, không có nhật thần, hào động sinh chợ, là bị phá đến cùng, cực xấu.

Phi-Phục thần: Dụng không hiện, tìm trong quẻ bản cung, chọn Lục thân. Phục ở dưới, phi ở trên Phục thần. Vượng mới hữu dụng, suy không hiện nên được

Nhật thần:

Nhật thần là chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Hào tĩnh vượng tướng, bị nhật thần xung tức là ám động (động ngầm)

Hào tĩnh suy nhược, bị nhật thần xung tức là Nhật phá.

Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai

Được sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Bị khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.   

Hào vượng mà động, bị nhật thần xung càng vượng cường-89;

Hào suy mà động, bị nhật thần xung thành tán bại.

Gặp nguyệt phá mà không phá, gặp xung khắc mà vô hại.

Mộ, tuyệt tức hào có ngũ hành gặp mộ, tuyệt tại nhật thần.

Nguyệt kiến:

Chủ tể nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào.

Hào suy nhược được sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ, thì suy cũng lên vượng.

Hào vượng cường, mà bị xung, khắc, hình, phá, thì vượng cũng thành suy.

Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Hào được nguyệt hợp sẽ trở lên hữu dụng; Hào bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhập quẻ Hào càng vượng. Không nhập quẻ vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn

Nếu động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Quẻ không có Dụng thần, lấy hào nguyệt kiến làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

Hào gặp nguyệt kiến là vượng, nhưng gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Quy tắc luận đoán nguyệt kiến:

Tượng lớn là cát, tại tháng đó được phúc-83;

Tượng lớn là hung, sang tháng gặp tai ương-83.

Dụng thần gặp được, được phúc không nhỏ-84;

Kỵ thần gặp được, mắc hoạ chẳng nhẹ-84.

Sinh phò Kỵ thần, giúp kẻ ác làm điều bạo ngược-84;

Khắc chế Nguyên thần, là đón lõng để cắt đường lương-84.

Sự vật cùng cực sẽ biến, đồ đựng đầy quá phải tràn-84.

Gặp Tuyệt mà không tuyệt, gặp xung mà không tán-85

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh, nếu bị xung khắc vẫn suy nhược.

Nguyệt tướng nắm quyền, không thể suy tuyệt;

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Nhật nguyệt ngang quyền, nếu có hào sinh khắc xung hợp thì theo thế có lợi, hại dụng thần.

Nguyệt khắc nhật sinh, được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị khắc chế cũng phải suy vong.

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Nhật Xung Hào

4- NHẬT NGUYỆT

Quyền: Nhật Nguyệt ngang quyền. Hào được sinh nhiều khắc ít là Cát, ngược lại là hung. 1 sinh 1 khắc là ngang hoà, cần xem bị hào khác khắc xung, hợp, hợp hoá, động hoá mộ tuyệt có lợi cho Dụng, nguyên thần đến đâu để kết luận.

Quyền năng: Chỉ có Nhật, Nguyệt có quyền sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại ....các hào động, tĩnh và hào biến, hào phi, phụcCòn các hào tĩnh hay động của quẻ thể-dụng không thể thương hại giờ, ngày, tháng, năm được. Hào vượng bị Nhật xung là ám động, không bị tán mà càng trở lên vượng. Hào suy mộ tuyệt bị Nhật xung là Nhật phá, càng thêm vô dụng.

Ví dụ điển hình về Quyền của Nhật Nguyệt:

- Xung khắc Hào biến: TSBD, 505;

 

Nhật thần: Chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Nhật: Sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Nhật: Khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.

Nhật xung: H.động & vượng > Càng cường-89; H.động & suy > Thành tán bại;

Nhật xung: H. tĩnh & vượng > ám động; H.tĩnh suy nhược > Nhật phá.

Nhật: Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai.   

Hào gặp Nhật: Bị tuyệt, mộ tại nguyệt, bị nguyệt khắc xung > Được sinh=Cát, bị khắc=Hung.

Hào gặp Nguyệt: Bị tuyệt, mộ tại nhật, bị nhật khắc xung > Được sinh =Cát, bị khắc chuyển hung.

Hào gặp Nguyệt: Vượng trong mùa-Được thời, cũng vô sự vì qua thời sẽ suy, phải xem tổng hợp mới xét lâu dài.

Nguyệt: Chủ nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào. Không thể suy tuyệt trong mùa;

Nguyệt: Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Nguyệt sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ > Hào suy cũng lên vượng.

Nguyệt xung, khắc, hình, phá> Hào vượng cũng thành suy.

Nguyệt hợp H. sẽ trở lên hữu dụng; H.bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhật-Nguyệt không nhập quẻ: Vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn nhập quẻ

Nhật Nguyệt làm Dụng: Quẻ không có Dụng thần, lấy Nhật, Nguyệt làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

H.động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Hào Nguyệt kiến vượng, gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong, xuất không ứng nghiệm cát hung.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Kị, cừu bị Nhật, Nguyệt, Hào động xung khắc là Cát, hoặc động hoá hồi đầu khắc là cát. Dụng bị 1 trong 4 cái đó là hung.

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị xung/ khắc chế cũng phải suy vong.

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Dụng thần bị phá vẫn vượng(Dụng thần và Hào thế tương sinh, trợ): Tổng hợp sinh khắc mà vẫn vượng, đợi điền thực sẽ ứng cát hung.

Dụng thần bị phá đến cùng: gặp nguyệt phá là trái thời, như cây khô rễ mục, gặp sinh cũng không sống nổi, gặp thương khắc thì tổn thương càng nghiêm trọng, tuy có xuất hiện trong quẻ, cũng bằng không. Nếu quẻ toàn hào tĩnh, không có nhật thần, hào động sinh chợ, là bị phá đến cùng, cực xấu.

Phi-Phục thần: Dụng không hiện, tìm trong quẻ bản cung, chọn Lục thân. Phục ở dưới, phi ở trên Phục thần. Vượng mới hữu dụng, suy không hiện nên được

Nhật thần:

Nhật thần là chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Hào tĩnh vượng tướng, bị nhật thần xung tức là ám động (động ngầm)

Hào tĩnh suy nhược, bị nhật thần xung tức là Nhật phá.

Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai

Được sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Bị khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.   

Hào vượng mà động, bị nhật thần xung càng vượng cường-89;

Hào suy mà động, bị nhật thần xung thành tán bại.

Gặp nguyệt phá mà không phá, gặp xung khắc mà vô hại.

Mộ, tuyệt tức hào có ngũ hành gặp mộ, tuyệt tại nhật thần.

Nguyệt kiến:

Chủ tể nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào.

Hào suy nhược được sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ, thì suy cũng lên vượng.

Hào vượng cường, mà bị xung, khắc, hình, phá, thì vượng cũng thành suy.

Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Hào được nguyệt hợp sẽ trở lên hữu dụng; Hào bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhập quẻ Hào càng vượng. Không nhập quẻ vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn

Nếu động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Quẻ không có Dụng thần, lấy hào nguyệt kiến làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

Hào gặp nguyệt kiến là vượng, nhưng gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Quy tắc luận đoán nguyệt kiến:

Tượng lớn là cát, tại tháng đó được phúc-83;

Tượng lớn là hung, sang tháng gặp tai ương-83.

Dụng thần gặp được, được phúc không nhỏ-84;

Kỵ thần gặp được, mắc hoạ chẳng nhẹ-84.

Sinh phò Kỵ thần, giúp kẻ ác làm điều bạo ngược-84;

Khắc chế Nguyên thần, là đón lõng để cắt đường lương-84.

Sự vật cùng cực sẽ biến, đồ đựng đầy quá phải tràn-84.

Gặp Tuyệt mà không tuyệt, gặp xung mà không tán-85

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh, nếu bị xung khắc vẫn suy nhược.

Nguyệt tướng nắm quyền, không thể suy tuyệt;

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Nhật nguyệt ngang quyền, nếu có hào sinh khắc xung hợp thì theo thế có lợi, hại dụng thần.

Nguyệt khắc nhật sinh, được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị khắc chế cũng phải suy vong.

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Nhật Hợp Hào

VII - TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

TƯƠNG HỢP:

+ Việc tốt lên gặp Hợp(Dụng cần vượng, suy vô ích): Hợp= Hợp bạn, hợp hóa phù, hợp hảo ..v..v.=Tốt, Hợp Nhật, Nguyệt càng tốt; suy cũng nên vượng; Thái tuế càng tuyệt diệu.

+ Việc xấu là kị: Hợp=Ràng buộc, giữ chặt >> Không lợi xuất hành ..v.v..; Hợp Nhật, Nguyệt là do hoàn cảnh/ Thời thế/ ràng buộc

Hào tĩnh hợp Nhật, Nguyệt và Hào động <=> Khởi phát, hưu tù=Vượng tướng

Hào động hợp Hào=Người khác đến hợp ta

 

4- NHẬT NGUYỆT

Quyền: Nhật Nguyệt ngang quyền. Hào được sinh nhiều khắc ít là Cát, ngược lại là hung. 1 sinh 1 khắc là ngang hoà, cần xem bị hào khác khắc xung, hợp, hợp hoá, động hoá mộ tuyệt có lợi cho Dụng, nguyên thần đến đâu để kết luận.

Quyền năng: Chỉ có Nhật, Nguyệt có quyền sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại ....các hào động, tĩnh và hào biến, hào phi, phụcCòn các hào tĩnh hay động của quẻ thể-dụng không thể thương hại giờ, ngày, tháng, năm được. Hào vượng bị Nhật xung là ám động, không bị tán mà càng trở lên vượng. Hào suy mộ tuyệt bị Nhật xung là Nhật phá, càng thêm vô dụng.

Nhật thần: Chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Nhật: Sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Nhật: Khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.

Nhật xung: H.động & vượng > Càng cường-89; H.động & suy > Thành tán bại;

Nhật xung: H. tĩnh & vượng > ám động; H.tĩnh suy nhược > Nhật phá.

Nhật: Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai.   

Hào gặp Nhật: Bị tuyệt, mộ tại nguyệt, bị nguyệt khắc xung > Được sinh=Cát, bị khắc=Hung.

Hào gặp Nguyệt: Bị tuyệt, mộ tại nhật, bị nhật khắc xung > Được sinh =Cát, bị khắc chuyển hung.

Hào gặp Nguyệt: Vượng trong mùa-Được thời, cũng vô sự vì qua thời sẽ suy, phải xem tổng hợp mới xét lâu dài.

Nguyệt: Chủ nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào. Không thể suy tuyệt trong mùa;

Nguyệt: Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Nguyệt sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ > Hào suy cũng lên vượng.

Nguyệt xung, khắc, hình, phá> Hào vượng cũng thành suy.

Nguyệt hợp H. sẽ trở lên hữu dụng; H.bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhật-Nguyệt không nhập quẻ: Vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn nhập quẻ

Nhật Nguyệt làm Dụng: Quẻ không có Dụng thần, lấy Nhật, Nguyệt làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

H.động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Hào Nguyệt kiến vượng, gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong, xuất không ứng nghiệm cát hung.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Kị, cừu bị Nhật, Nguyệt, Hào động xung khắc là Cát, hoặc động hoá hồi đầu khắc là cát. Dụng bị 1 trong 4 cái đó là hung.

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị xung/ khắc chế cũng phải suy vong.

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Dụng thần bị phá vẫn vượng(Dụng thần và Hào thế tương sinh, trợ): Tổng hợp sinh khắc mà vẫn vượng, đợi điền thực sẽ ứng cát hung.

Dụng thần bị phá đến cùng: gặp nguyệt phá là trái thời, như cây khô rễ mục, gặp sinh cũng không sống nổi, gặp thương khắc thì tổn thương càng nghiêm trọng, tuy có xuất hiện trong quẻ, cũng bằng không. Nếu quẻ toàn hào tĩnh, không có nhật thần, hào động sinh chợ, là bị phá đến cùng, cực xấu.

Phi-Phục thần: Dụng không hiện, tìm trong quẻ bản cung, chọn Lục thân. Phục ở dưới, phi ở trên Phục thần. Vượng mới hữu dụng, suy không hiện nên được

Nhật thần:

Nhật thần là chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Hào tĩnh vượng tướng, bị nhật thần xung tức là ám động (động ngầm)

Hào tĩnh suy nhược, bị nhật thần xung tức là Nhật phá.

Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai

Được sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Bị khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.   

Hào vượng mà động, bị nhật thần xung càng vượng cường-89;

Hào suy mà động, bị nhật thần xung thành tán bại.

Gặp nguyệt phá mà không phá, gặp xung khắc mà vô hại.

Mộ, tuyệt tức hào có ngũ hành gặp mộ, tuyệt tại nhật thần.

Nguyệt kiến:

Chủ tể nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào.

Hào suy nhược được sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ, thì suy cũng lên vượng.

Hào vượng cường, mà bị xung, khắc, hình, phá, thì vượng cũng thành suy.

Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Hào được nguyệt hợp sẽ trở lên hữu dụng; Hào bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhập quẻ Hào càng vượng. Không nhập quẻ vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn

Nếu động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Quẻ không có Dụng thần, lấy hào nguyệt kiến làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

Hào gặp nguyệt kiến là vượng, nhưng gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Quy tắc luận đoán nguyệt kiến:

Tượng lớn là cát, tại tháng đó được phúc-83;

Tượng lớn là hung, sang tháng gặp tai ương-83.

Dụng thần gặp được, được phúc không nhỏ-84;

Kỵ thần gặp được, mắc hoạ chẳng nhẹ-84.

Sinh phò Kỵ thần, giúp kẻ ác làm điều bạo ngược-84;

Khắc chế Nguyên thần, là đón lõng để cắt đường lương-84.

Sự vật cùng cực sẽ biến, đồ đựng đầy quá phải tràn-84.

Gặp Tuyệt mà không tuyệt, gặp xung mà không tán-85

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh, nếu bị xung khắc vẫn suy nhược.

Nguyệt tướng nắm quyền, không thể suy tuyệt;

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Nhật nguyệt ngang quyền, nếu có hào sinh khắc xung hợp thì theo thế có lợi, hại dụng thần.

Nguyệt khắc nhật sinh, được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị khắc chế cũng phải suy vong.

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Nguyệt Sinh Hào: Là Hào có gốc rễ

4- NHẬT NGUYỆT

Quyền: Nhật Nguyệt ngang quyền. Hào được sinh nhiều khắc ít là Cát, ngược lại là hung. 1 sinh 1 khắc là ngang hoà, cần xem bị hào khác khắc xung, hợp, hợp hoá, động hoá mộ tuyệt có lợi cho Dụng, nguyên thần đến đâu để kết luận.

Quyền năng: Chỉ có Nhật, Nguyệt có quyền sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại ....các hào động, tĩnh và hào biến, hào phi, phụcCòn các hào tĩnh hay động của quẻ thể-dụng không thể thương hại giờ, ngày, tháng, năm được. Hào vượng bị Nhật xung là ám động, không bị tán mà càng trở lên vượng. Hào suy mộ tuyệt bị Nhật xung là Nhật phá, càng thêm vô dụng.

Nhật thần: Chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Nhật: Sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Nhật: Khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.

Nhật xung: H.động & vượng > Càng cường-89; H.động & suy > Thành tán bại;

Nhật xung: H. tĩnh & vượng > ám động; H.tĩnh suy nhược > Nhật phá.

Nhật: Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai.   

Hào gặp Nhật: Bị tuyệt, mộ tại nguyệt, bị nguyệt khắc xung > Được sinh=Cát, bị khắc=Hung.

Hào gặp Nguyệt: Bị tuyệt, mộ tại nhật, bị nhật khắc xung > Được sinh =Cát, bị khắc chuyển hung.

Hào gặp Nguyệt: Vượng trong mùa-Được thời, cũng vô sự vì qua thời sẽ suy, phải xem tổng hợp mới xét lâu dài.

Nguyệt: Chủ nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào. Không thể suy tuyệt trong mùa;

Nguyệt: Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Nguyệt sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ > Hào suy cũng lên vượng.

Nguyệt xung, khắc, hình, phá> Hào vượng cũng thành suy.

Nguyệt hợp H. sẽ trở lên hữu dụng; H.bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhật-Nguyệt không nhập quẻ: Vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn nhập quẻ

Nhật Nguyệt làm Dụng: Quẻ không có Dụng thần, lấy Nhật, Nguyệt làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

H.động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Hào Nguyệt kiến vượng, gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong, xuất không ứng nghiệm cát hung.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Kị, cừu bị Nhật, Nguyệt, Hào động xung khắc là Cát, hoặc động hoá hồi đầu khắc là cát. Dụng bị 1 trong 4 cái đó là hung.

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị xung/ khắc chế cũng phải suy vong.

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Dụng thần bị phá vẫn vượng(Dụng thần và Hào thế tương sinh, trợ): Tổng hợp sinh khắc mà vẫn vượng, đợi điền thực sẽ ứng cát hung.

Dụng thần bị phá đến cùng: gặp nguyệt phá là trái thời, như cây khô rễ mục, gặp sinh cũng không sống nổi, gặp thương khắc thì tổn thương càng nghiêm trọng, tuy có xuất hiện trong quẻ, cũng bằng không. Nếu quẻ toàn hào tĩnh, không có nhật thần, hào động sinh chợ, là bị phá đến cùng, cực xấu.

Phi-Phục thần: Dụng không hiện, tìm trong quẻ bản cung, chọn Lục thân. Phục ở dưới, phi ở trên Phục thần. Vượng mới hữu dụng, suy không hiện nên được

Nhật thần:

Nhật thần là chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Hào tĩnh vượng tướng, bị nhật thần xung tức là ám động (động ngầm)

Hào tĩnh suy nhược, bị nhật thần xung tức là Nhật phá.

Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai

Được sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Bị khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.   

Hào vượng mà động, bị nhật thần xung càng vượng cường-89;

Hào suy mà động, bị nhật thần xung thành tán bại.

Gặp nguyệt phá mà không phá, gặp xung khắc mà vô hại.

Mộ, tuyệt tức hào có ngũ hành gặp mộ, tuyệt tại nhật thần.

Nguyệt kiến:

Chủ tể nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào.

Hào suy nhược được sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ, thì suy cũng lên vượng.

Hào vượng cường, mà bị xung, khắc, hình, phá, thì vượng cũng thành suy.

Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Hào được nguyệt hợp sẽ trở lên hữu dụng; Hào bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhập quẻ Hào càng vượng. Không nhập quẻ vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn

Nếu động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Quẻ không có Dụng thần, lấy hào nguyệt kiến làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

Hào gặp nguyệt kiến là vượng, nhưng gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Quy tắc luận đoán nguyệt kiến:

Tượng lớn là cát, tại tháng đó được phúc-83;

Tượng lớn là hung, sang tháng gặp tai ương-83.

Dụng thần gặp được, được phúc không nhỏ-84;

Kỵ thần gặp được, mắc hoạ chẳng nhẹ-84.

Sinh phò Kỵ thần, giúp kẻ ác làm điều bạo ngược-84;

Khắc chế Nguyên thần, là đón lõng để cắt đường lương-84.

Sự vật cùng cực sẽ biến, đồ đựng đầy quá phải tràn-84.

Gặp Tuyệt mà không tuyệt, gặp xung mà không tán-85

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh, nếu bị xung khắc vẫn suy nhược.

Nguyệt tướng nắm quyền, không thể suy tuyệt;

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Nhật nguyệt ngang quyền, nếu có hào sinh khắc xung hợp thì theo thế có lợi, hại dụng thần.

Nguyệt khắc nhật sinh, được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị khắc chế cũng phải suy vong.

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Nguyệt Khắc hào:

4- NHẬT NGUYỆT

Quyền: Nhật Nguyệt ngang quyền. Hào được sinh nhiều khắc ít là Cát, ngược lại là hung. 1 sinh 1 khắc là ngang hoà, cần xem bị hào khác khắc xung, hợp, hợp hoá, động hoá mộ tuyệt có lợi cho Dụng, nguyên thần đến đâu để kết luận.

Quyền năng: Chỉ có Nhật, Nguyệt có quyền sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại ....các hào động, tĩnh và hào biến, hào phi, phụcCòn các hào tĩnh hay động của quẻ thể-dụng không thể thương hại giờ, ngày, tháng, năm được. Hào vượng bị Nhật xung là ám động, không bị tán mà càng trở lên vượng. Hào suy mộ tuyệt bị Nhật xung là Nhật phá, càng thêm vô dụng.

Ví dụ điển hình về Quyền của Nhật Nguyệt:

- Xung khắc Hào biến: TSBD, 505;

Nhật thần: Chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Nhật: Sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Nhật: Khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.

Nhật xung: H.động & vượng > Càng cường-89; H.động & suy > Thành tán bại;

Nhật xung: H. tĩnh & vượng > ám động; H.tĩnh suy nhược > Nhật phá.

Nhật: Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai.   

Hào gặp Nhật: Bị tuyệt, mộ tại nguyệt, bị nguyệt khắc xung > Được sinh=Cát, bị khắc=Hung.

Hào gặp Nguyệt: Bị tuyệt, mộ tại nhật, bị nhật khắc xung > Được sinh =Cát, bị khắc chuyển hung.

Hào gặp Nguyệt: Vượng trong mùa-Được thời, cũng vô sự vì qua thời sẽ suy, phải xem tổng hợp mới xét lâu dài.

Nguyệt: Chủ nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào. Không thể suy tuyệt trong mùa;

Nguyệt: Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Nguyệt sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ > Hào suy cũng lên vượng.

Nguyệt xung, khắc, hình, phá> Hào vượng cũng thành suy.

Nguyệt hợp H. sẽ trở lên hữu dụng; H.bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhật-Nguyệt không nhập quẻ: Vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn nhập quẻ

Nhật Nguyệt làm Dụng: Quẻ không có Dụng thần, lấy Nhật, Nguyệt làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

H.động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Hào Nguyệt kiến vượng, gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong, xuất không ứng nghiệm cát hung.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Kị, cừu bị Nhật, Nguyệt, Hào động xung khắc là Cát, hoặc động hoá hồi đầu khắc là cát. Dụng bị 1 trong 4 cái đó là hung.

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị xung/ khắc chế cũng phải suy vong.

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Dụng thần bị phá vẫn vượng(Dụng thần và Hào thế tương sinh, trợ): Tổng hợp sinh khắc mà vẫn vượng, đợi điền thực sẽ ứng cát hung.

Dụng thần bị phá đến cùng: gặp nguyệt phá là trái thời, như cây khô rễ mục, gặp sinh cũng không sống nổi, gặp thương khắc thì tổn thương càng nghiêm trọng, tuy có xuất hiện trong quẻ, cũng bằng không. Nếu quẻ toàn hào tĩnh, không có nhật thần, hào động sinh chợ, là bị phá đến cùng, cực xấu.

Phi-Phục thần: Dụng không hiện, tìm trong quẻ bản cung, chọn Lục thân. Phục ở dưới, phi ở trên Phục thần. Vượng mới hữu dụng, suy không hiện nên được

 

Nhật thần:

Nhật thần là chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Hào tĩnh vượng tướng, bị nhật thần xung tức là ám động (động ngầm)

Hào tĩnh suy nhược, bị nhật thần xung tức là Nhật phá.

Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai

Được sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Bị khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.   

Hào vượng mà động, bị nhật thần xung càng vượng cường-89;

Hào suy mà động, bị nhật thần xung thành tán bại.

Gặp nguyệt phá mà không phá, gặp xung khắc mà vô hại.

Mộ, tuyệt tức hào có ngũ hành gặp mộ, tuyệt tại nhật thần.

 

Nguyệt kiến:

Chủ tể nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào.

Hào suy nhược được sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ, thì suy cũng lên vượng.

Hào vượng cường, mà bị xung, khắc, hình, phá, thì vượng cũng thành suy.

Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Hào được nguyệt hợp sẽ trở lên hữu dụng; Hào bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhập quẻ Hào càng vượng. Không nhập quẻ vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn

Nếu động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Quẻ không có Dụng thần, lấy hào nguyệt kiến làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

Hào gặp nguyệt kiến là vượng, nhưng gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

 

Quy tắc luận đoán nguyệt kiến:

Tượng lớn là cát, tại tháng đó được phúc-83;

Tượng lớn là hung, sang tháng gặp tai ương-83.

Dụng thần gặp được, được phúc không nhỏ-84;

Kỵ thần gặp được, mắc hoạ chẳng nhẹ-84.

Sinh phò Kỵ thần, giúp kẻ ác làm điều bạo ngược-84;

Khắc chế Nguyên thần, là đón lõng để cắt đường lương-84.

Sự vật cùng cực sẽ biến, đồ đựng đầy quá phải tràn-84.

Gặp Tuyệt mà không tuyệt, gặp xung mà không tán-85

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh, nếu bị xung khắc vẫn suy nhược.

Nguyệt tướng nắm quyền, không thể suy tuyệt;

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Nhật nguyệt ngang quyền, nếu có hào sinh khắc xung hợp thì theo thế có lợi, hại dụng thần.

Nguyệt khắc nhật sinh, được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị khắc chế cũng phải suy vong.

 

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Nguyệt Xung Hào

4- NHẬT NGUYỆT

Quyền: Nhật Nguyệt ngang quyền. Hào được sinh nhiều khắc ít là Cát, ngược lại là hung. 1 sinh 1 khắc là ngang hoà, cần xem bị hào khác khắc xung, hợp, hợp hoá, động hoá mộ tuyệt có lợi cho Dụng, nguyên thần đến đâu để kết luận.

Quyền năng: Chỉ có Nhật, Nguyệt có quyền sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại ....các hào động, tĩnh và hào biến, hào phi, phụcCòn các hào tĩnh hay động của quẻ thể-dụng không thể thương hại giờ, ngày, tháng, năm được. Hào vượng bị Nhật xung là ám động, không bị tán mà càng trở lên vượng. Hào suy mộ tuyệt bị Nhật xung là Nhật phá, càng thêm vô dụng.

 

Ví dụ điển hình về Quyền của Nhật Nguyệt:

- Xung khắc Hào biến: TSBD, 505;

 

Nhật thần: Chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Nhật: Sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Nhật: Khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.

Nhật xung: H.động & vượng > Càng cường-89; H.động & suy > Thành tán bại;

Nhật xung: H. tĩnh & vượng > ám động; H.tĩnh suy nhược > Nhật phá.

Nhật: Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai.   

Hào gặp Nhật: Bị tuyệt, mộ tại nguyệt, bị nguyệt khắc xung > Được sinh=Cát, bị khắc=Hung.

Hào gặp Nguyệt: Bị tuyệt, mộ tại nhật, bị nhật khắc xung > Được sinh =Cát, bị khắc chuyển hung.

Hào gặp Nguyệt: Vượng trong mùa-Được thời, cũng vô sự vì qua thời sẽ suy, phải xem tổng hợp mới xét lâu dài.

Nguyệt: Chủ nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào. Không thể suy tuyệt trong mùa;

Nguyệt: Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Nguyệt sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ > Hào suy cũng lên vượng.

Nguyệt xung, khắc, hình, phá> Hào vượng cũng thành suy.

Nguyệt hợp H. sẽ trở lên hữu dụng; H.bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhật-Nguyệt không nhập quẻ: Vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn nhập quẻ

Nhật Nguyệt làm Dụng: Quẻ không có Dụng thần, lấy Nhật, Nguyệt làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

H.động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Hào Nguyệt kiến vượng, gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong, xuất không ứng nghiệm cát hung.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Kị, cừu bị Nhật, Nguyệt, Hào động xung khắc là Cát, hoặc động hoá hồi đầu khắc là cát. Dụng bị 1 trong 4 cái đó là hung.

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị xung/ khắc chế cũng phải suy vong.

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Dụng thần bị phá vẫn vượng(Dụng thần và Hào thế tương sinh, trợ): Tổng hợp sinh khắc mà vẫn vượng, đợi điền thực sẽ ứng cát hung.

Dụng thần bị phá đến cùng: gặp nguyệt phá là trái thời, như cây khô rễ mục, gặp sinh cũng không sống nổi, gặp thương khắc thì tổn thương càng nghiêm trọng, tuy có xuất hiện trong quẻ, cũng bằng không. Nếu quẻ toàn hào tĩnh, không có nhật thần, hào động sinh chợ, là bị phá đến cùng, cực xấu.

Phi-Phục thần: Dụng không hiện, tìm trong quẻ bản cung, chọn Lục thân. Phục ở dưới, phi ở trên Phục thần. Vượng mới hữu dụng, suy không hiện nên được

Nhật thần:

Nhật thần là chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Hào tĩnh vượng tướng, bị nhật thần xung tức là ám động (động ngầm)

Hào tĩnh suy nhược, bị nhật thần xung tức là Nhật phá.

Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai

Được sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Bị khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.   

Hào vượng mà động, bị nhật thần xung càng vượng cường-89;

Hào suy mà động, bị nhật thần xung thành tán bại.

Gặp nguyệt phá mà không phá, gặp xung khắc mà vô hại.

Mộ, tuyệt tức hào có ngũ hành gặp mộ, tuyệt tại nhật thần.

Nguyệt kiến:

Chủ tể nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào.

Hào suy nhược được sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ, thì suy cũng lên vượng.

Hào vượng cường, mà bị xung, khắc, hình, phá, thì vượng cũng thành suy.

Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Hào được nguyệt hợp sẽ trở lên hữu dụng; Hào bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhập quẻ Hào càng vượng. Không nhập quẻ vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn

Nếu động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Quẻ không có Dụng thần, lấy hào nguyệt kiến làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

Hào gặp nguyệt kiến là vượng, nhưng gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Quy tắc luận đoán nguyệt kiến:

Tượng lớn là cát, tại tháng đó được phúc-83;

Tượng lớn là hung, sang tháng gặp tai ương-83.

Dụng thần gặp được, được phúc không nhỏ-84;

Kỵ thần gặp được, mắc hoạ chẳng nhẹ-84.

Sinh phò Kỵ thần, giúp kẻ ác làm điều bạo ngược-84;

Khắc chế Nguyên thần, là đón lõng để cắt đường lương-84.

Sự vật cùng cực sẽ biến, đồ đựng đầy quá phải tràn-84.

Gặp Tuyệt mà không tuyệt, gặp xung mà không tán-85

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh, nếu bị xung khắc vẫn suy nhược.

Nguyệt tướng nắm quyền, không thể suy tuyệt;

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Nhật nguyệt ngang quyền, nếu có hào sinh khắc xung hợp thì theo thế có lợi, hại dụng thần.

Nguyệt khắc nhật sinh, được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị khắc chế cũng phải suy vong.

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Nguyệt Hợp Hào

VII - TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

TƯƠNG HỢP:

+ Việc tốt lên gặp Hợp(Dụng cần vượng, suy vô ích): Hợp= Hợp bạn, hợp hóa phù, hợp hảo ..v..v.=Tốt, Hợp Nhật, Nguyệt càng tốt; suy cũng nên vượng; Thái tuế càng tuyệt diệu.

+ Việc xấu là kị: Hợp=Ràng buộc, giữ chặt >> Không lợi xuất hành ..v.v..; Hợp Nhật, Nguyệt là do hoàn cảnh/ Thời thế/ ràng buộc

Hào tĩnh hợp Nhật, Nguyệt và Hào động <=> Khởi phát, hưu tù=Vượng tướng

Hào động hợp Hào=Người khác đến hợp ta

 

4- NHẬT NGUYỆT

Quyền: Nhật Nguyệt ngang quyền. Hào được sinh nhiều khắc ít là Cát, ngược lại là hung. 1 sinh 1 khắc là ngang hoà, cần xem bị hào khác khắc xung, hợp, hợp hoá, động hoá mộ tuyệt có lợi cho Dụng, nguyên thần đến đâu để kết luận.

Quyền năng: Chỉ có Nhật, Nguyệt có quyền sinh, khắc, xung, hợp, hình, hại ....các hào động, tĩnh và hào biến, hào phi, phụcCòn các hào tĩnh hay động của quẻ thể-dụng không thể thương hại giờ, ngày, tháng, năm được. Hào vượng bị Nhật xung là ám động, không bị tán mà càng trở lên vượng. Hào suy mộ tuyệt bị Nhật xung là Nhật phá, càng thêm vô dụng.

Nhật thần: Chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Nhật: Sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Nhật: Khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.

Nhật xung: H.động & vượng > Càng cường-89; H.động & suy > Thành tán bại;

Nhật xung: H. tĩnh & vượng > ám động; H.tĩnh suy nhược > Nhật phá.

Nhật: Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai.   

Hào gặp Nhật: Bị tuyệt, mộ tại nguyệt, bị nguyệt khắc xung > Được sinh=Cát, bị khắc=Hung.

Hào gặp Nguyệt: Bị tuyệt, mộ tại nhật, bị nhật khắc xung > Được sinh =Cát, bị khắc chuyển hung.

Hào gặp Nguyệt: Vượng trong mùa-Được thời, cũng vô sự vì qua thời sẽ suy, phải xem tổng hợp mới xét lâu dài.

Nguyệt: Chủ nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào. Không thể suy tuyệt trong mùa;

Nguyệt: Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Nguyệt sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ > Hào suy cũng lên vượng.

Nguyệt xung, khắc, hình, phá> Hào vượng cũng thành suy.

Nguyệt hợp H. sẽ trở lên hữu dụng; H.bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhật-Nguyệt không nhập quẻ: Vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn nhập quẻ

Nhật Nguyệt làm Dụng: Quẻ không có Dụng thần, lấy Nhật, Nguyệt làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

H.động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Hào Nguyệt kiến vượng, gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong, xuất không ứng nghiệm cát hung.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Kị, cừu bị Nhật, Nguyệt, Hào động xung khắc là Cát, hoặc động hoá hồi đầu khắc là cát. Dụng bị 1 trong 4 cái đó là hung.

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị xung/ khắc chế cũng phải suy vong.

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Dụng thần bị phá vẫn vượng(Dụng thần và Hào thế tương sinh, trợ): Tổng hợp sinh khắc mà vẫn vượng, đợi điền thực sẽ ứng cát hung.

Dụng thần bị phá đến cùng: gặp nguyệt phá là trái thời, như cây khô rễ mục, gặp sinh cũng không sống nổi, gặp thương khắc thì tổn thương càng nghiêm trọng, tuy có xuất hiện trong quẻ, cũng bằng không. Nếu quẻ toàn hào tĩnh, không có nhật thần, hào động sinh chợ, là bị phá đến cùng, cực xấu.

Phi-Phục thần: Dụng không hiện, tìm trong quẻ bản cung, chọn Lục thân. Phục ở dưới, phi ở trên Phục thần. Vượng mới hữu dụng, suy không hiện nên được

Nhật thần:

Nhật thần là chủ tể của sáu hào, vượng tướng suốt bốn mùa-89.

Hào tĩnh vượng tướng, bị nhật thần xung tức là ám động (động ngầm)

Hào tĩnh suy nhược, bị nhật thần xung tức là Nhật phá.

Xung không sẽ khởi, xung hợp sẽ khai

Được sinh phù củng hợp, như mầm non gặp được trận mưa lành;

Bị khắc hại hình xung, tựa cỏ cây tàn úa vì sương giá.   

Hào vượng mà động, bị nhật thần xung càng vượng cường-89;

Hào suy mà động, bị nhật thần xung thành tán bại.

Gặp nguyệt phá mà không phá, gặp xung khắc mà vô hại.

Mộ, tuyệt tức hào có ngũ hành gặp mộ, tuyệt tại nhật thần.

Nguyệt kiến:

Chủ tể nắm quyền, đắc lệnh một tháng. Giữ cương lĩnh muôn quẻ, kiểm soát thiện ác 6 hào.

Hào suy nhược được sinh, hợp, tỷ hoà, nâng đỡ, phò trợ, thì suy cũng lên vượng.

Hào vượng cường, mà bị xung, khắc, hình, phá, thì vượng cũng thành suy.

Chế phục hào động, hào biến để hào khác yên ổn. Có thể hưng khởi Dụng thần phi, phục.

Hào được nguyệt hợp sẽ trở lên hữu dụng; Hào bị nguyệt phá sẽ trở lên vô lực.  

Nhập quẻ Hào càng vượng. Không nhập quẻ vẫn hữu dụng, nhưng tác dụng hỷ, kị kém hơn

Nếu động thành Nguyên thần, phúc sẽ càng lớn; động thành Kỵ, hoạ càng nặng.

Quẻ không có Dụng thần, lấy hào nguyệt kiến làm Dụng thần, không cần tìm Phục thần.

Hào gặp nguyệt kiến là vượng, nhưng gặp tuần không trong tuần đó vẫn coi là không vong.

Nếu Dụng thần ẩn tàng, bị Phi thần đè nén thì nguyệt kiến có thể xung khắc Phi thần, sinh trợ cho phục thần, khiến nó trở nên hữu dụng.

Quy tắc luận đoán nguyệt kiến:

Tượng lớn là cát, tại tháng đó được phúc-83;

Tượng lớn là hung, sang tháng gặp tai ương-83.

Dụng thần gặp được, được phúc không nhỏ-84;

Kỵ thần gặp được, mắc hoạ chẳng nhẹ-84.

Sinh phò Kỵ thần, giúp kẻ ác làm điều bạo ngược-84;

Khắc chế Nguyên thần, là đón lõng để cắt đường lương-84.

Sự vật cùng cực sẽ biến, đồ đựng đầy quá phải tràn-84.

Gặp Tuyệt mà không tuyệt, gặp xung mà không tán-85

Nhật sinh nguyệt khắc nếu được hào động sinh, phù trợ vẫn vượng;

Nhật khắc nguyệt sinh, nếu bị xung khắc vẫn suy nhược.

Nguyệt tướng nắm quyền, không thể suy tuyệt;

Vượng tướng đang có, không thể xung tán.

Nhật nguyệt ngang quyền, nếu có hào sinh khắc xung hợp thì theo thế có lợi, hại dụng thần.

Nguyệt khắc nhật sinh, được trợ giúp sẽ càng lên vượng; bị khắc chế cũng phải suy vong.

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

Hào Sinh Hào

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

 

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Hào Khắc Hào

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

 

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Hào Xung Hào

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

 

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Hào Hợp Hào

VII - TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

TƯƠNG HỢP:

+ Việc tốt lên gặp Hợp(Dụng cần vượng, suy vô ích): Hợp= Hợp bạn, hợp hóa phù, hợp hảo ..v..v.=Tốt, Hợp Nhật, Nguyệt càng tốt; suy cũng nên vượng; Thái tuế càng tuyệt diệu.

+ Việc xấu là kị: Hợp=Ràng buộc, giữ chặt >> Không lợi xuất hành ..v.v..; Hợp Nhật, Nguyệt là do hoàn cảnh/ Thời thế/ ràng buộc

Hào tĩnh hợp Nhật, Nguyệt và Hào động <=> Khởi phát, hưu tù=Vượng tướng

Hào động hợp Hào=Người khác đến hợp ta

 

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

 

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Hào Tương Hình

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

 

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Tham Sinh-Hợp

VII - TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

TƯƠNG HỢP:

+ Việc tốt lên gặp Hợp(Dụng cần vượng, suy vô ích): Hợp= Hợp bạn, hợp hóa phù, hợp hảo ..v..v.=Tốt, Hợp Nhật, Nguyệt càng tốt; suy cũng nên vượng; Thái tuế càng tuyệt diệu.

+ Việc xấu là kị: Hợp=Ràng buộc, giữ chặt >> Không lợi xuất hành ..v.v..; Hợp Nhật, Nguyệt là do hoàn cảnh/ Thời thế/ ràng buộc

Hào tĩnh hợp Nhật, Nguyệt và Hào động <=> Khởi phát, hưu tù=Vượng tướng

Hào động hợp Hào=Người khác đến hợp ta

 

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

 

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Hào Nhập Mộ

3- NGŨ HÀNH: HỘI HỢP HÌNH XUNG KHẮC HẠI, TUẦN KHÔNG, SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT

- Ở Trời: Thể Khí, m.sắc: Phong-Nhiệt-Thấp-Táo-Hàn; Xanh-Đỏ-Vàng-Trắng-Đen. Thiên khí trong sạch, sáng sủa, vận động không ngừng. 

- Ở Đất: Thành Hình, 5 vị: Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thuỷ; Chua-Cay-Ngọt-Đắng-Mặn. AD 4 mùa là gốc rễ muôn vật.
- 4 Mùa-Vượng-Tướng ....: Xuân: Mộc vượng, Hỏa Tướng, còn lại hưu tù. Hạ, Thu, Đông: tương tự.

* Thủy: Các sách đều nói - Thủy Tù ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi;

NGŨ HÀNH TƯƠNG TÁC: Vượng suy là do lệnh tháng >> muốn xét suy vượng phải chờ tháng vượng suy mộ tuyêt mới có lực hay mất lực để tương tác + xét xem việc cần xem là sa hay gần để quyết định. Tuần không thì thường xét ngày/ tháng, nhưng cũng có thể là năm >> nên xem quẻ khác nếu là việc lâu dài.

TƯƠNG TÁC:  Thế/ Dụng không động, vẫn phải xét sinh khắc của Hào động, nhât, nguyệt tác động đến thành Cat-Hung bình thường, Ngũ hành càng vương càng phải xét. N.Hành H động suy tĩnh thì lực yếu, tuy việc mà xét. Nguyên lý chung là các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v..có lực > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng => Bỏ qua

SINH VƯỢNG MỘ TUYỆT của Hào: Bàn về Bảng T.sinh; Kim T.sinh Tị nếu Kim vượng/ dược sinh. Ngược lại là bị Hỏa khắc; Thổ tuyệt ở Tị, nếu được xung khai/ nhiều thổ hỗ trợ=Sinh; Hỏa T.sinh ở Dần nhưng nếu đủ 3 Hình=Tam hình, không gọi là Tị trường sinh ở Dần. Hào quẻ Thổ Mộ ở Thìn (Ngũ hành mộ ở Mùi).

TƯƠNG SINH: Giúp/Tốt/Hòa hảo/Cứu trợ nhau, chung sống, tồn tại lâu dài. Sinh=Thiệt, Hao tổn.

Hào: Được sinh=Gặp Cát, tin mừng/ được cứu.

Động > T.sinh Hào phải vượng khí/ Hưu tù =Khắc, không sinh. Sinh gặp Hình > Xem là Hình

TƯƠNG KHẮC: Hại /Khống chế/ tổn hại/ tổn thương/ xung/ lừa dối nhau > gây bất hòa, bất lợi.

Bị khắc: Nặng=Chết, tàn phế. Nhẹ=Trắc trở, lo lắng, Bị lao dịch/ Bồn chồn/ Bệnh tật/ Phá tài/ Mất chức/ Khắc vợ, Chồng, Con và những tai họa bản thân/Gia đình.

HỒI ĐẦU KHẮC: Quẻ động > Biến hồi đầu khắc = Xấu, không cần xét Dụng. Hào thì có xâu/ tốt tùy Dụng/ kị bị khắc.

TƯƠNG HỢP: Quá 1 là tranh hợp=Không bền. Là tương hòa, lâu dài, hội tụ, gắn chặt, giữ chặc, lứu kéo;

Càn+Khôn hợp đức=Cương nhu có Hình; Nam Nữ cấu tình =Vạn vật hóa sinh >Đều là tương hợp.

Hợp lâu >phân; Phân lâu> Hợp; Trong hợp có Sinh/Khắc và Xấu, tốt.

Tham sinh vong Khắc/Hình; Tham Hợp vong Sinh

Dụng thần/Hào Thế ở trong Cục hoặc Cục sinh Hào Thế/ Dụng = Cát;

1- TAM HỘI : Cùng 1 phương, hòa hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết,  

Quyền: Chỉ Nhật nguyệt, H.động, ám động, H.biến mới tham gia sinh khắc hợp hình …. trừ quẻ lục hợp, lục xung biến lục hợp.

Ly-Hợp: Hợp lâu > ắt phân -Ngược lại. 6 Hợp với nhật nguyệt, H.động/ Tĩnh, quẻ nội/ngoại; chủ/ biến, biến hoá vô cùng-Linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

Tác dụng Tốt-Xấu: Hợp cục sinh Ta=Tốt/ Khắc Ta=Hung. Dụng thần cũng vây.

Đ.kiện: Dụng vượng=tốt, vô khí thất hãm=vô ích ).

Hội Cát= Sự việc sẽ thành: Được công danh, lợi lộc, hôn sự ắt thành, bản thân sẽ phấn khát; gia trạch hưng vượng, về phong thuỷ mộ phần, là thế tụ khí tang phong; mưu sự toại nguyện như ý ….. nói chung được lâu dài, có thuỷ có chung.

Hội Hung: Ngược với Cát không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Việc cần làm cũng không làm, tránh được thì nên tránh.

2- TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

3- LỤC HỢP: Tý-Sửu, Dần-Hợi, Mão-Tuất, Thìn - Dậu, Tỵ- Thân, Ngọ- Mùi-96. Có 6 dạng sau:

Nguyên tắc: Sinh vượng =Hợp; Suy chỉ hợp khi trong khắc được vượng sinh; Còn lại xem là Khắc/K.hợp. VD: Tý-Sửu, xem vào ngày/tháng Thổ mà H.Tý không được sinh= khắc/ không hợp.

Hào hợp - 6 trường hợp: 1-H với nhật, nguyệt; 2-H.động+H.động; 3-H.động và H.biến > Hoá phù; 4-Quẻ 6 hợp; 5-Quẻ 6 xung > 6 hợp-Trước xấu sau tốt,No cần xem D.Thần6-Quẻ 6 hợp >6 hợp=> Cực tốt.

Hợp khởi: H. Tĩnh được nhật, nguyệt, H.động hợp > Khởi phát > H. hưu tù cũng lên vượng.

Ràng buộc: H.động hợp với Nhật, nguyệt > bị ràng buộc=Tĩnh

Trợ giúp: H.động hợp H.động = Là có người trợ giúp, nâng đỡ cho ta.

Phù trợ: H.biến ra từ H.động lại hồi đầu hợp hào gốc = được người khác phù trợ.

Được hợp: Dụng có khí- Cát, ứng nhanh “công danh, lợi lộc được; hôn sự ắt thành; bản thân-tiến; gia trạch vượng; mộ, tụ khí tàng phong; mưu sự toại nguyện…được lâu dài, thuỷ chung. Kị xem việc xấu không nên gặp, vì sẽ chuốc lấy tai hoạ. Được hợp, Dụng vô khí, bị khắc: Cát-vô ích, Hung – càng hung. Kị về kiện tụng-thù oán khó giải; Chuyện ngờ vực, quái đản-đeo đẳng, khó tường; Thai ngén-an lành nhưng sinh sản-khó sinh.

4- LỤC XUNG: Xung chủ về phá tán, phân ly. Kỵ thần nên bị xung tán.-111.

Có 6 dạng xung: 1- Nhật nguyệt xung hào; 2- Gặp quẻ 6 xung; 3- Quẻ 6 hợp biến 6 xung; 4- Quẻ 6 xung biến 6 xung; 5- Hào động biến xung; 6- Hào xung với hào=đánh nhau.H No có quyền xung nhật, nguyệt

Hào xung có 5 loại:1- Hào bị nguyệt xung- Nguyệt phá; 2- Hào tĩnh: Vượng bị nhật xung- ám động/ 3- Hưu tù - Nhật phá; 4- Hào động hoá hồi đầu xung, tựa như gặp kẻ thù; 5- Hào xung với hào = Đánh nhau.

Xung: Bị khắc-tiêu giảm sức; Có xung vượng/ suy. Trong xung có khắc, có vượng xung suy, có suy xung vượng, có loại bị xung mà động, có loại bị xung mà phá tán. Xung có nguyên lý thần bí, huyền nhiệm của thiên cơ-biến hoá của xung-111.

Chuyện hung, cần phân: nên gặp xung; Xem chuyện cát, cần gắn bó, bền vững: Phần nhiều đều không nên gặp xung.

Đặc quyền: Chỉ nhật, nguyệt mới có quyền xung phá, tán, khởi H trong quẻ, còn các Hào không có quyền xung động nhật, nguyệt.

Quẻ lục xung: Xung là phá tán, phân ly, là động trong ngoài, trên dưới, xem sinh vượng để đoán có xung tán không. Dụng vượng xét đoán theo chiều Cát nhiều hung ít. Dụng bị khắc-Đại hung.

* Quẻ 6 xung, nhưng hào nếu không động thì vẫn xem là các Hào tĩnh, nên có thể ứng nghiệm vào lúc gặp nhật, nguyệt đến Xung

Quẻ xung - Cát: Xem về kiện tụng, bệnh tật. Bệnh mới sẽ khỏi, bệnh lâu thành Hung, mất. Dụng thần, bị khắc, không, tuyệt, biến hồi đầu khắc .....vẫn hung.

Quẻ xung - Hung: Xem phong thuỷ là tượng đá chạy cát bay, không phải thế lâu dài bền vững.

Quẻ 6 xung => 6 xung: Chủ về trên dưới bất hoà, trái lòng, người thân trở mặt, lòng gian giảo, việc khó thành, không bền vững. Dụng vượng thì đỡ, Dụng suy đại hung. Đặc kị xem phong thuỷ, thứ cần bền vững lâu dài. Xem việc kiện tụng có thể xung tán, phải xem việc lớn nhỏ kết hợp Dụng thần.

Quẻ 6 xung => 6 hợp: Trước tan sau hợp, sơ rồi thân, ly rồi lại hợp, .......Xem Hợp > Xung

Quẻ 6 hợp => 6 xung: Trước hợp sau tan, thân rồi sơ, nồng hậu sau nhạt phai, vinh rồi lụi, tốt rồi xấu, hanh thông rồi bế tắc, được trước mất sau, thành rồi bại, thuận lợi lại biến khó khăn, trắc trở, khó lành. Không kị: Xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt gặp được là tốt.

4- TƯƠNG HÌNH-112: Xấu, Chủ về bị thương, bệnh tật, tai nạn, lao tù. Đặc biệt là Thế/ Dụng >>> Tôn trọng pháp luật

Gồm: Dần,Tỵ,Thân-Vong ơn hoặc Sửu,Mùi,Tuất-Quyền thế, đủ 3 là hình, thiếu 1 phải chờ; Tý-Mão=Vô lễ bị hình; Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là tự hình.

Hóa giải-Tốt: Hình được hoá giải không còn hung hại. Tĩnh cũng không đáng ngại, Dụng không bị khắc, được sinh=Đại Cát. Có tham Sinh/Hợp vong Hình.

Dạng hóa giaỉ: Nếu gặp xung, hợp=Hình được giải; Hào hình Dụng bị khắc chế/ Tham sinh/ Hợp quên hình, đều được hoá giải. Dụng vượng, Hình vô lực=Không hình được.  

Hình xấu: Quẻ có 3 hình, Dụng suy + bị H khắc; hoặc H hình vượng hình Dụng thần suy mà không có hoá giải = là hung hại, thành quẻ xấu.

Hình tốt: Quẻ có 3 hình nhưng không động, Dụng thần không bị tổn hại, có hào khác sinh phò Dụng là quẻ đại cát.

* 3 Hào Hình 1=Xấu; 2 Hào Hinh 1 thì không Hình; Thiêu 1 không thành 3 Hình >>Chờ đủ thì Xâu ứng nghiệm

5- MỘ KHO: Thủy mộ ở Thìn; Tuất; Sửu; Mùi <=> Các sách đều thống nhất

Mộ-Kho: Nhiều=Hung địa > Là phần mộ/ phòng giam/ Y viện/ động huyệt. Thìn-Tuất-Sửu-Mùi là Mộ của vạn vật/ nơi tích trữ khí trời đất.

 Vượng-xung = Cát lợi; Suy nhược hưu tù-Xung = Gặp hung hại. Nên Vượng = nhập khố; Suy = Nhập mộ. Phải căn cứ vào Dụng thần vượng tướng hay hưu tù, mới suy được cát hung.

Nguy hiểm: Hào Thế, Dụng theo Quỷ nhập nhật mộ; Nhập động mộ; Động mà hoá mộ  mà bản thân hào lại hưu tù vô khí sẽ gặp phải hung hiểm;

Được giải cứu: Nếu Thế, Dụng vượng hoặc được trợ giúp, vẫn sẽ được giải cứu. Còn bản mệnh, thân quẻ, thân thế không ứng nghiệm.

Theo Quỷ nhập Mộ - Cực xấu:-166- Có 3 dạng - Việc gì xấu:

1- H.Thế theo Quỷ nhập mộ ở nhật, Nguyệt; 2- H.Thế nhập động mộ (nhập mộ ở H.động); 3- H.Thế động hoá mộ

>>>>> Xem C.danh cần đề phòng tai nạn trước mắt, một đời không được hiển đạt. Xem về hôn nhân, cần đề phòng sản phụ nguy hiểm đến tính mạng. Nếu xem về cầu quan chức, việc sẽ không thành/ có thành thì một đời cũng không được cất nhắc. Nếu nhập sát mộ (Đinh Mùi, Mậu Tuất), càng là điềm đại hung. Xem về kiện tụng gặp quẻ này, sẽ có hoạ gông cùm, tù ngục, hoặc là sau khi bãi kiện gặp nguy, hoặc là trong khi kiện tụng mắc bệnh. Xem về xuất hành gặp quẻ này, phần nhiều đều là không xuất hành được, có đi được cũng gặp nguy hiểm. Xem về gia trạch, gia trưởng gặp hoạ. Xem về bệnh tật, xem 10 người thì 09 người chết.

 

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Tam Hợp

VIII- QUẺ HÀO 3 HỢP

1- HÀO TAM HỢP: Hợp là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ, gắn kết, trói chặt .... Có 4 dạng:

- 01 quẻ: 3 H.động= Cục; Có 2H.động, 1 không=cục-nhưng phải đợi.

- Quẻ nội: H 1+3 động > hào biến = cục với H 1/3 đó.

- Quẻ ngoại: H 4+6 động > hào biến = cục với H 4/6 đó.

- Nếu 2 H.động/ 1 H.động, 1 ám động No=Cục. Cần đợi ngày, tháng bổ sung=Cục- Thiếu 1 đợi dùng.

- Nếu 1 H. không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực=Cục.

- Nếu 1 H nhập mộ, đợi đến ngày xung khai=Cục.

* Đủ 3 chữ=Cục. Nhiều 1 chữ=Không hợp > Đợi ngày/tháng Hợp đi chữ thừa đó=Hợp cục; 1 Hào nhập mộ đợi Xung=Hợp cục; Thiếu 1 đợi dùng=Cục(Ngày, tháng nhập Hào quẻ tĩnh/ điền thực)

* Hào Thế cục-tốt/ sinh Thế-cát, khắc Thế-hung. Có hào gặp không, phá-ngày, tháng điền thực-thành cục. 1 hào nhập mộ- xung khai-thành cục. Ngoại “Người” khắc nội “Mình”-hung. Hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp; Hợp-là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. 3 hợp, 6 hợp biến hoá vô cùng, cần linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu.

2- QUẺ TAM HỢP: Tam hợp cục có hung, cũng có cát.

Như xem về công danh, nếu hợp thành Quan cục, gọi là quan vượng.

Hợp thành Tài cục, Tài vượng sẽ sinh Quan.

Nếu hợp thành Tử Tôn cục, sẽ gây tổn hại đến Quan.

Nếu xem về cầu tài, quẻ hợp thành Tài cục, gọi là Tài khố (kho của)

Nếu hợp thành Tử Tôn cục, gọi là thế Tử cục sinh tài.

Nếu hợp thành Huynh Đệ cục, là thế hao tài tán của, ngăn trở chia cách.

Nếu xem về mộ tổ, gia trạch, nếu hào Phụ Mẫu hợp cục là tốt.

Nếu xem về hôn nhân, vợ chồng, hào Tài, Quan vượng mà hợp cục là tốt.

Nếu xem về truyện tốt đẹp, nếu thành cục là tốt, là thế vững bền, trường cửu.

Nếu xem về kiện tụng, nghi ngờ mà gặp hợp cục, thì một đời phiền muộn uất kết trong lòng, khó có thể trừ bỏ.

- Hào Thế ở cục=Tốt. Ngoài cục > Cục sinh Thế=Cát, Khắc=Hung. Nguyệt, nhật nếu 1 thứ ở trong=Cục vượng, càng cát lợi.

- Phàm cầu danh lợi, hôn nhân, gia trạch, phong thuỷ, mà Dụng vượng, thì việc xem đều tốt. (Thế ở cục mới tốt/ Sinh Thế =cát, khắc là hung)

Xem công danh: Quan cục sinh Thế, lợi bản thân; Sinh Ứng, lợi người.

Xem Tiền tài:Tài cục sinh Thế, lợi cho bản thân; Sinh Ứng, lợi người khác.

Xem Xuất hành: Dụng trong cục > sẽ bị hợp mà phải ở lại.

Xem người đi xa: Dụng trong cục > sẽ bị hợp mà không thể trở về.

Nếu quẻ nội và quẻ ngoại đều hợp, đều hợp thành tam hợp cục > phải phân chia rõ nội và ngoại.

* Tam hợp cục Cat-Hung

Như xem về công danh, nếu hợp thành Quan cục, gọi là quan vượng.

Hợp thành Tài cục, Tài vượng sẽ sinh Quan.

Hợp thành Tử Tôn cục, sẽ gây tổn hại đến Quan.

Hợp thành Tử Tôn cục, gọi là thế Tử cục sinh tài.

Hợp thành Huynh Đệ cục, là thế hao tài tán của, ngăn trở chia cách.

Xem về mộ tổ, gia trạch, nếu hào Phụ Mẫu hợp cục là tốt.

Xem về cầu tài, quẻ hợp thành Tài cục, gọi là Tài khố (kho của)

Xem về hôn nhân, vợ chồng, hào Tài, Quan vượng mà hợp cục là tốt.

Xem về truyện tốt đẹp, nếu thành cục là tốt, là thế vững bền, trường cửu.

Xem về kiện tụng, nghi ngờ mà gặp hợp cục, thì một đời phiền muộn uất kết trong lòng, khó có thể trừ bỏ.

Xem về công danh, được tam hợp Quan cục sinh hào Thế, sẽ có lợi cho bản thân; Nếu hợp cục sinh hào Ứng, sẽ lợi cho người khác.

Xem về tiền tài, được Tài cục sinh hào Thế, sẽ có lợi cho bản thân; Nếu Tài cục sinh hào Ứng, sẽ có lợi cho người khác.

Xem về xuất hành, nếu Dụng thần nằm trong tam hợp, sẽ bị hợp mà phải ở lại.

Xem về người đi xa, nếu Dụng thần nằm trong tam hợp, sẽ bị hợp mà không thể trở về.

Hào Thế phải ở trong cục mới là tốt. Nếu hào Thế ở ngoài cục, thì cục tương sinh ra hào Thế là cát, cục tương khắc hào Thế là hung.

Nguyệt kiến, nhật thần, nếu được một thứ ở trong cục, thì được gọi là cục vượng, càng cát lợi.

3 H. cục, nếu 2 H.động hoặc 1 H.động, 1 H. ám động sẽ không thành cục, phải đợi đến ngày, tháng sau này bổ sung, bù đắp, mới hợp thành được cục > thiếu một đợi dùng.

3 H. cục nếu có một hào gặp không, phá, phải đợi đến ngày, tháng hào đó được điền thực, mới có thể thành cục.

3 H.cục nếu có một hào nhập mộ, đợi đến ngày xung khai, mới có thể thành cục.

3 H.cục xem danh lợi, hôn nhân, gia trạch, phong thuỷ, mà Dụng vượng đều tốt. Nhưng hào Thế phải  ở trong cục mới tốt. Nếu hào Thế ở ngoài cục, nếu được cục tương sinh là cát, nếu bị cục tương khắc là hung.

- Nếu quẻ nội và quẻ ngoại đều hợp, đều hợp thành tam hợp cục, phải phân chia rõ nội và ngoại.

Ví dụ: Xem về gia trạch, mà ở nhà phía ngoài, nếu quẻ nội khắc quẻ ngoại là không nên; Nếu ở nhà trong, thì được quẻ nối sinh quẻ ngoại là tốt.

           Xem về tình trạng của mình và người khác: Thì quẻ nội tượng trưng cho bản thân, quẻ ngoại tượng trưng cho người khác. Nếu quẻ ngoại hợp cục, mà sinh ra quẻ nội, là tốt; Quẻ ngoại khắc quẻ nội là hung.

+ Tất cả các sự vật trên thế gian đều tồn tại trong mối quan hệ sinh khắc, xung hợp của ngũ hành, nhưng trong hợp có phân, hợp lâu ắt phải phân, phân lâu ắt phải hợp; Trong hợp có hợp là nên, có cái hợp là kỵ. Nói tóm lại, hợp có nghĩa là thu hút, hoà hợp, tụ tập, sinh trợ. Lục hợp có rất nhiều mối quan hệ qua lại với nhật nguyệt, hào động, hào tĩnh, quẻ nội, quẻ ngoại, quẻ chủ, quẻ biến, biến hoá vô cùng. Học chương này cần phải biết biến hoá linh hoạt, thông suốt, để ngộ ra chỗ vi diệu của Lục hợp.

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

+ Quẻ Lục hợp: Hào Thế/ Dụng thất hãm cũng vô ích (TSBD,98)

2- QUẺ LỤC HỢP: Chủ về giao kết bạn tốt, hoà nhã vui vẻ, tượng lòng đã quyết, Dụng thần Cát mọi sự như ý, Dụng hung thì tốt cũng như không.

- Quẻ 6 hợp không động, cần xét kỹ Dụng thần với nhật, Nguyệt sinh khắc xung hợp thêm ..v.v..>>> Dụng được sinh phò trợ giúp nhiều, vượng hơn là Cát. Ngược lại là hung, là thua...

2.1- QUẺ 6 HỢP BIẾN LỤC HỢP

Quẻ Lục hợp biến Lục hợp-Đại Cát: Quẻ Lục hợp đã là điềm tốt. Nhưng hào động mà lại biến ra quẻ Lục hợp, được gọi là thuỷ chung tương hợp - Cực tốt.

Xem về phong thuỷ, sẽ hiển đạt trăm năm.

Xem về gia trạch, sẽ vững nghiệp muôn đời.

Xem về hôn nhân, sẽ chung sống đến bạc đầu.

Xem về bạn làm ăn, tất cả đều trung thành tận tuỵ.

Xem về công danh, đường mây rộng mở.

Xem về tiền tài, chất ngất bằng non.

Xem về anh em, sẽ đời đời chung sống.

Xem về học tập, sẽ thành tựu liên tiếp.

Xem về tu luyện, sẽ thành công nhanh chóng.

Xem về thai ngén, gặp quẻ này sẽ được an lành

Nếu thêm Dụng thần vượng khí, lại gặp nguyệt kiến, nhật thần, là đã tốt lại càng thêm tốt, như áo gấm lại có thêu hoa, long lượng.

Loại trừ: Kiện tụng là bất lợi, chủ về thù oán khó giải. Chuyện ngờ vực, quái đản, sẽ không toại nguyện. Sinh sản, sẽ khó sinh. Nếu Dụng bị khắc, hại càng là điểm hung hại gia tăng-99.

2.2- QUẺ 6 HỢP BIẾN LỤC XUNG

 

2.3- QUẺ 6 XUNG BIẾN LỤC HỢP

Với các dạng hợp, nếu Dụng thần vượng sẽ tốt, duy chỉ có trường hợp quẻ Lục xung biến thành Lục hợp là không cần xem Dụng thần cũng có thể đoán là tốt; Xem thi cử, đỗ hàng đầu; Xem về hôn nhân, trước là cách trở, sau lại nên duyên. Xem về vợ chồng, trước là chia lìa, sau lại hoà hảo. Xem về công danh, trước gian nan, sau được vinh hiển. Xem về mưu kế, trước khó khăn, sau sẽ dễ dàng. Xem về vận mệnh, trước khốn khó sau được hưởng thụ. Xem về phong thuỷ, sẽ tìm được đất tốt. Xem về gia trạch, trước nghèo khổ sau phát đạt. Từng có người vợ bị cướp bắt, sau vẫn được đoàn tụ. Có người ruộng vườn bán hết, sau vẫn được lấy về.

 

2- QUẺ LỤC XUNG

* Xem việc Cát không nên gặp, việc hung thì tốt. Quẻ lục xung biến hôi đầu khắc = Đại hung, không cần xem dụng thần. Cho dù Hào vượng, cát cũng không dài vì không có gốc rễ (Như nhổ cây cả gốc rễ)

* Quẻ 6 xung, nếu có Nhật/ Nguyệt xung Hào trong quẻ vẫn phải xét sự xung đó gây tốt xấu với việc xem.

2.1- QUẺ 6 XUNG TĨNH

 

2.2- QUẺ 6 XUNG BIẾN 6 XUNG

    * Đều là các Quẻ thuần. Xem mọi việc Cát đều xấu, đặc biệt được Quẻ hồi đầu khắc > Đại hung, mất người.

2.3- QUẺ 6 XUNG BIẾN 6 HỢP: Quẻ Lục xung biến Lục hợp-Cát: Không cần xem Dụng thần cũng có thể đoán là tốt về sau:  Xem hôn nhân, trước là cách trở, sau lại nên duyên. Xem vợ chồng, trước là chia lìa, sau lại hoà hảo. Xem về công danh, trước gian nan, sau được vinh hiển. Xem về mưu kế, trước khó khăn, sau sẽ dễ dàng. Xem về vận mệnh, trước khốn khó sau được hưởng thụ. Xem về phong thuỷ, sẽ tìm được đất tốt. Xem về gia trạch, trước nghèo khổ sau phát đạt. ví như vợ bị cướp bắt, sau vẫn được đoàn tụ. Có người ruộng vườn bán hết, sau vẫn được lấy về.

 

2- QUẺ PHẢN NGÂM:

Phản ngâm nghĩa là tương phản, là điềm âu lo, buồn phiền. Cần xem kỹ Dụng thần vượng suy hay xung khắc luận cát hung hoạ phúc.

- Phần nhiều chủ về sự việc tráo trở thất thường, cũng đều không có như ý, chẳng bằng bỏ đó không làm.

Chủ về thành mà bại, bại lại thành, có mà không, không lại có, mất mà đặng, đặng lại mất, lại rồi đi, đi rồi lại, tụ rồi tán, tán rồi tụ, động thì muốn tịnh, tịnh thì muốn động....

- Công danh: Dụng vượng, rời đổi chỗ luôn; đi rồi trở về cũ. Dụng tốt thì không mất chức nhưng không ở yên ... hay chỉ di chuyển ngang hoà. Dụng suy tuyệt ... thì thăng giáng, được mất ..
- Tài vật: Tụ tán bất thường, mua bán kinh doanh, hưng phế qua lại không định. Không lợi lộc còn lỗ vốn.
- Phần mộ, gia trạch: muốn dời mà chẳng được, ở chẳng yên hoặc dời rồi còn dời nữa, hoặc hiện giờ đang lo dời.
- Xem về việc đã trải qua thời gian dài, trước mắt lại sanh biến động.
- Xem về thiên-thời, phải lúc tạnh, rồi sẽ mưa, mưa rồi lại tạnh, lại mưa.
- Xem về hôn-nhân, trắc trở khó thành.
- Xem về tật-bịnh, khỏi rồi lại ốm.
- Trộm cướp, Kiện tụng: Hết lần này đến lần khác, lại tiếp.
- Xuất-hành, tới nửa đường rồi quay lại, dẫu có tới nơi cũng không được việc gì.
- Người đi xa: nếu ngoại phản ngâm, dụng-thần vượng tướng sẽ trở về hoặc tiếp tục đi nơi khác.
- Người ở bên ngoài xem gia trạch, nội quái phản ngâm, tức người ở nhà không yên ổn.
- Xem tình hình hai bên: nếu nội phản thì ta loạn, họ định. Nếu ngoại phản, thì họ loạn, ta định.

- Xem về mộ phần, gia trạch, thì chuyển chỗ không được, ở cũng chẳng yên; Bệnh tật triền miên, hôn nhân trắc trở, kiện tụng không dứt, xuất hành trở ngại….
* Dụng thần vượng, không biến thành xung khắc, tuy là việc có phản-phục sự việc vẫn được thành.

>> Chỉ e dụng-thần hóa hồi đầu xung khắc, tức là quẻ biến ra tượng đại hung.

 

- QUẺ PHỤC NGÂM  3 loại: Về trình tự nạp Chi tức đều là Tý Dần Thìn hoặc quẻ biến biến thành Tý Dần Thìn=Quẻ chính nó.

Quẻ nội, ngoại phục ngâm: Quẻ Càn biến thành Chấn, Chấn biến thành Càn; Vô vọng biến thành Đại Tráng biến thành Vô Vọng.

Quẻ ngoại phục ngâm: Quẻ Cấu biến thành Hằng biến thành Cấu; Độn biến thành Tiểu Quá, Tiểu Quá biến thành Độn; Bĩ biến thành Dự, Dự biến thành Bĩ; Phong biến thành Đồng Nhân, Đồng Nhân biến thành Phong; Lý biến thành Quy Muội, Quy Muội biến thành Lý; Giải biến thành Tụng, Tụng biến thành Giải. Về trình tự nạp địa chi tức đều là Ngọ Thân Tuất biến thành Ngọ Thân Tuất.

Quẻ nội Phục ngâm: Quẻ Đại Hữu biến thành Phệ Hạp, Phệ Hạp biến thành Đại Hữu; Truân biến thành Nhu, Nhu biến thành Truân; Đại Súc biến thành Di, Di biến thành Đại Súc; Tuỳ biến thành Quải, Quải biến thành Tuỳ; Tiểu Súc biến thành Ích, Ích biến thành Tiểu Súc; Thái biến Phục, Phục biến Thái. Về trình tự nạp địa chi tức đều là Tý Dần Thìn biến thành Tý Dần Thìn.

Chủ về: Nội, ngoại Phục ngâm- Điềm trong ngoài lo âu đau buồn, nơi đó bất an, ưu phiền, buồn bã, không có như ý, động cũng như không động, chẳng bằng bỏ đó không làm.
- Công danh: Thì đường quan trắc trở, lận đận không thăng tiến.
- Lợi lộc: Thì tiền tài hao tán, mất cả vốn lẫn lời.
- Phần-mộ, gia trạch: Muốn dời thì không dời được, muốn giử nguyên thì bất lợi.
- Hôn-nhơn: Lo âu buồn phiền chứ không vui.
- Bịnh tật: đau lâu rên siết triền miên khổ sở.
- Kiện tụng, thị phi: Sự việc khó kết thúc
- Xuất-hành: Khó mà xuất hành.
- Người đi sa: ắt ở ngoài gặp chuyện không hay.
- Tình thế hai bên: Nội quái là ta, ngoại quái là người. Nội phục-ngâm tâm ta chẳng toại. Ngọai phục-ngâm, ý họ chẳng yên, bất an.

* Cần xem kỹ Dụng thần vượng suy hay xung khắc luận cát hung hoạ phúc hay chỉ di chuyển ngang hoà.

XIV- DU HỒN: Là đi xa, tâm bât định, Lòng K.yên, không định hướng, thay đổi thất thường. Chiêm thân mạng, bình sanh không được an cư lạc nghiệp, đi hay không chẳng định.Chiếm phần-mộ, vong chẳng an.

 

XV- QUY HỒN: Quay trở lại. Chẳng ra khỏi biên cương, mọi việc câu nệ chẳng lành, lấy tương phản với du-hồn mà đoán, thì trúng.

 

 

5- QUẺ, HÀO DỊCH; THẾ-ỨNG;  ĐỘC PHÁT; ĐỘC TĨNH; TUẦN KHÔNG; PHẢN, PHỤC NGÂM; TAM HỘI, TAM HỢP, LỤC HỢP VÀ HÌNH - XUNG - KHẮC - HẠI - DU VÀ QUY HỒN;

I- QUẺ ĐƠN, KÉP:

Quẻ đơn: 8 Quẻ thuần, được quy nạp vạn vật - Mai Hoa;  Quẻ kép - Quẻ Dịch: Tổng quy nạp các Quẻ đơn;

Quẻ kép: Chủ về trên dưới, trong ngoài, sa gần, cao thấp, nhà mình nhà người, nhà trong nhà ngoài ...v...
Quẻ Thể-quẻ gốc, quẻ chính, chính quái: Là thời hiện tại, trước mắt. Là mình, là người cần xem, như gốc rễ con người, người xem.
Quẻ Dụng-quẻ chi, chi quái: Quẻ Thế có Hào động sẽ biến Quẻ biến. Là người khác, tương lai, kết quả cuối cùng. 

 * Quẻ Thể như gốc rễ thân thể người. Quẻ Thể là mình, Quẻ biến là người khác > Khắc Thể = Đại hung với mọi việc, xem việc nhỏ ứng Hung lớn cần nhớ kỹ.

Quẻ không động: Thì không biến; Xem Mất của > chưa mất....

Quẻ động: Quẻ có Hào động > Thì biến > Sự vật, việc có biến đổi;

Quẻ biến: Sinh ta có lợi. Tỷ hoà bình thường, ta người cùng lợi, sự việc duy trì dài lâu, không suy không phát.

Quẻ biến: Quẻ Biến bị quẻ chủ khắc, là mình khắc người nên là bình thường, hoá khắc mà không hẳn khắc. Quẻ biến hồi đầu khắc như cây bị nhổ gốc rễ, tuy trước mắt được thời, được thế vẫn vượng, cành lá vẫn xanh tốt đấy, nhưng cũng khó duy trì được bền lâu mãi, qua thời sẽ suy vi.

Quẻ biến hồi đầu khắc (Chỉ có ở Quẻ thuần; Các Quẻ khác là xét Phản, Phục. Không xét là Quẻ hồi đầu khắc): Rất hungtức quẻ hoá lai thì đoán luôn là cực hung, bất luận Dụng suy hay vượng, tức không xét Dụng thần. Khi được quẻ biến hồi đầu khắc, chỉ xem tượng quẻ, không xét Dụng thần. Tại sao? Là vì dù Dung vượng, được sinh nhưng là RỄ KHÔ, NGUỒN CẠN=KHÔNG LÂU DÀI. Ứng nghiệm hung vào lúc Ngũ hành quẻ là Kị thần vượng tướng, thường theo mùa. (Thường nhầm với Quẻ Phản ngâm.)

II- HÀO QUẺ:

6 đặc tính: 1- ngôi trên, dưới; quẻ thượng, hạ; 2- ngôi trong, ngoài, quẻ nội, ngoại; 3 (6)- 2 quẻ giống nhau có ngôi trước, sau; ngôi xa, gần; thượng, tiền, hạ, hậu; 4- 2 quẻ khác nhau có ngôi âm, dương; quẻ âm, dương, ngoài - trong +; 5- ngôi cứng, ngôi mềm, ngoài cứng trong mềm;

Hào dương: Dương, trời, vua, quân tử, đại nhân, cha, đàn ông, việc đã qua, số lẻ, vật dương tính, cứng, mạnh, động, v.v…

Hào âm: Đất, người dân, tiểu nhân, mẹ, đàn bà, số chẵn, vật tính âm, mềm, yếu, tĩnh, v.v…

Ngôi Hào: Đạo Thiên là âm - dương; Địa là mềm với cứng; Nhân là thiện với ác. Tam tài đó là thiên, địa, nhân vậy.

Ngôi: hào 5 và 6 là ngôi thiên, 3,4 là ngôi nhân; 1,2 là ngôi địa. Hào 5, 3, 1 là ngôi chính của thiên, nhân, địa.

Thượng, trung, hạ: Hào thượng là ngôi thượng. Hào trung của quẻ thượng và hào trung của quẻ hạ là ngôi trung, hào đầu là ngôi hạ.

Ngôi âm dương: Hào 1,3,5 là ngôi dương; hào 2,4,6 là ngôi âm.

Đồng ngôi: Hào 1,4 ; 2,5; 3,6 đồng ngôi.

Ngôi sang và hèn: Trời sang đất hèn, càn khôn đã định. Hào năm là ngôi sang của thiên tử, cái hèn của hào hai là hèn của tiểu nhân.

Cương nhu, tôn quý: Hào năm của quẻ là ngôi trời, ngôi vua, ngôi tôn quý. Dương - Âm ở hào năm là tôn quý, như người ở ngôi đế vương.

Được ngôi và không: + ở +; - ở - là xứng ngôi, chính vị, tại vị. Nếu âm ở dương, dương ở âm là không được ngôi, mất ngôi, không xứng. Được ngôi như người ở địa vị đáng được, ở hoàn cảnh có lợi, hoặc tài đức tương xứng với chức vụ, hoặc việc làm tương xứng với chức vụ, nếu không thì không tương xứng, không lợi. Được ngôi thì thuận lợi, không được ngôi tượng trưng cho bất lợi, không bền.

Cương, nhu cùng thắng: 5 hào ở dưới là cương, H.trên cùng là nhu. Cương thắng nhu là cương chế được nhu. Ngược lại năm hào dưới là nhu, hào trên cùng là cương. Nhu thắng cương là nhu chế được cương.

Nhu phục tùng: Hào âm dưới hào dương là hình tượng nhu thuận theo cương, như thần dân thuận theo vua chúa, nữ theo nam, nhu thuận theo cương.

Nhu vượt cương: Hào âm trên dương là hình tượng giả dối, như thần dối vua, nữ lừa nam vậy.

Thuận - Nghịch: Năm nhu ứng một cương, là thuận. Ngược lại là vua theo tiểu nhân.

Tương ứng: Thứ tự 1,4; 2,5; 3,6. dương với dương, âm với âm, là không tương ứng, là âm dương bất hoà.

Ngôi hào cát hung: Hai và bốn Đồng công nhưng khác ngôi, đều là số chẵn, âm, nhu, nên lấy nhu để vâng mệnh. Nhưng 2 nội, 4 thuộc ngoại, do đó chúng khác ngôi.

Vinh Nhục: Hai thì vinh dự, bốn thì sợ hãi. Hào hai chỗ gần, nhiều vinh dự. Hào bốn, chỗ xa, nên nhiều lo sợ.

Sang hèn: Ba nhiều hung, năm nhiều công, nên khác nhau về cấp sang hèn. 3 ở cực của quẻ hạ, chỗ bỉ hèn. 5 ở giữa quẻ thượng, chỗ tôn quý.

Tổng Hợp Sinh Khắc

* Nguyên tắc xét đoán cát hung:

1- Sinh Hợp nhiều-Xung khắc ít là Cát nhiều Hung ít; Ngược lại là Hung nhiều Cát ít.

2- Nếu 2 chỗ Khắc-2 chỗ sinh > Cần xét vượng suy: Sinh dụng vượng=Cát; Khắc dụng vượng=Hung

3- Nếu 3 chỗ khắc-1 chỗ sinh mà chỗ Sinh vượng tướng=Khắc sứ phùng sinh > Hung được Cát

4- Nếu 3 chỗ khắc-1 chỗ sinh mà chỗ Sinh Hưu tù <=> 4 chỗ đều khắc > Mọi việc Hung hại

* Cần xét kỹ về trong hợp có khắc/ Có sinh/ Có hợp được không ..v.v..

Kị thần nên gặp Không, Phá, Xung tán >>> không hại đến Dụng thần nhiều

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

 

2.7  Thời gian ứng nghiệm Cát Hung(Ứng kỳ 135)

2.7.1 Xung Khắc Động Tĩnh Biến:

        Động: Gặp hợp, gặp Trực

        Động biến: Có khi ứng vào Hào Biến của Hào động       

        Tĩnh: Gặp Trực, gặp Xung.

        Đại tượng Cát bị khắc: Đợi đến Khắc mất thần Khắc hại     

        Đại tượng Hung bị khắc: Đề phòng Khắc lại được Sinh

2.7.2 Sinh Vượng Mộ Tuyệt Không(Tuần)

        Vượng quá gặp Mộ, Xung

        Suy Tuyệt gặp Sinh, Vượng

        Tam Mộ gặp Xung khởi

        Tuần không gặp Điền(Xuất không); Gặp Xung

        Hào thế Không: Nguyên thần động đợi đến khi Nguyên thần trực

        Hào thế Suy: Nguyên thần Tĩnh đợi đến khi Nguyên thần gặp Xung

2.7.3 Niên Nguyệt Nhật Thời

        Nguyệt Phá: Gặp Điền(Xuất không); Gặp hợp

2.7.4 Hội Hợp Hình Hại

        Lục Hợp Hào: Chờ khi Xung

2.7.5 Dụng Nguyên Kị Cừu thần

        Nguyên thần tương hợp, phù trợ, cần xem Dụng thần Suy hay vượng

        Kị thần Xung, tương khắc, cần xem Nguyên khí Hưng Suy

2.7.6 Tiến Thoái thần và Độc phát, độc tĩnh

        Hoá tiến thần gặp Trực, gặp Hợp

        Hoá thoái thần kị Trực, Xung

        Gặp Độc phát/ Độc tĩnh: Có thể sảy ra ứng Hào Động/ Tĩnh duy nhất đó

2.7.7 Hào Thế Hào Ứng và Hào Biến       

        Hào thế Không: Nguyên thần động đợi đến khi Nguyên thần trực

        Hào thế Suy: Nguyên thần Tĩnh đợi đến khi Nguyên thần gặp Xung

        Hào là nguyên nhân sinh ra hoạ, khi gặp sẽ ứng việc hung

2.7.1 Ứng Kỳ (Thời gian ứng nghiệm)-135

Tĩnh thì gặp trực, gặp xung

Động thì gặp hợp, gặp trực.

Quá vượng mà gặp mộ, gặp xung.

Suy tuyệt mà gặp sinh gặp vượng.

Nhập tam mộ cần phải xung khởi.

Gặp Lục hợp cũng nên tương xung.

Nguyệt phá nên gặp điền, gặp hợp.

Tuần không nên gặp điền gặp xung

Đại tượng cát mà bị khắc, nên đợi đến khi khắc thần bị khắc.

Đại tượng hung mà bị khắc, cần đề phòng khắc lại gặp sinh.

Nguyên thần tương trợ tương phù, cần xem Dụng thần suy hay vượng;

Kỵ thần tương xung, tương khắc, cần xem nguyên khí hưng hay suy.

Hoá tiến thần, gặp trực gặp hợp.

Hoá Thoái thần, kỵ trực kỵ xung.

Có lúc ứng nghiệm vào độc phát độc tĩnh (hào động, hào tĩnh duy nhất)

Có khi ứng nghiệm vào hào biến hào động.

Việc xa thì định bằng năm tháng, việc gần thì định bằng ngày giờ.

Hào Thế không, Nguyên thần động, cần đợi Nguyên thần gặp trực.

Hào Thế suy, Nguyên thần tĩnh, cần đợi nguyên khí gặp xung.

Thời gian ứng nghiệm theo nội dung đã dự đoán

Hào Thế - Lục Thú

6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.

- Thanh Long-Mộc: là cát thần, thuần hậu, nhân từ, bổ trợ cho Dụng thần vượng tướng- tiến tài tiến lộc.

       Động: Vui mừng khánh trúc. Lâm H.Dụng phúc lớn. Lâm quẻ tốt, H.Tử động  > biến Quỷ vẫn là tốt; Lâm H.xấu/Kị thần/ Cừu thần= khó tránh được hung hại=Họa tửu sắc.

- Chu Tước-Hoả: là thần lừa đảo, chủ về thị phi, điên cuồng, kiện tụng, văn chương in ấn, tài ăn nói, nếu khắc hào Thế sẽ chuốc điều tiếng thị phi, sinh Dụng thần sẽ có tin tức đến.

      Động: Văn ấn vượng. Gặp sát thần không lập được công danh+Cãi vã. Xuất sinh Thân=lợi việc công

- Câu Trần-Thổ: là âm thần, chủ về điền sản, công trình, ngục tù, phù thũng, tính tình chất phác, chủ về gặp chuyện lạ vậy, rắc rối. Câu Trần khắc Huyền Vũ, nên hợp với việc truy bắt trộm cướp.

      Động: lo về điền thổ. Sinh Dụng=Cát tình duyên. Tĩnh= không mê muội

- Đằng Xà-Thổ: là kinh thần, chủ về kinh sợ, không chung thuỷ, không có chữ tín, chủ về hương hoả trong gia đình. Gặp Mộc là không vong, không cát lợi; Bị nhật xung, khó thoát hung hại.

     Động: Bị Quỷ khắc=Lo lắng triền miên, toàn việc quái dị/ không rõ ràng.

- Bạch Hổ-Kim: là huyết thần-thần cường bạo, chủ về tang ma, háo thắng, hung hăng, hữu dũng vô mưu.

     Động: Chủ hình phạt, kiện tụng, bệnh tật.Trì thế động=hại trong gia đình.Gặp cát thần=không hại đến cát. Gặp hào Kim= Bạch Hổ ngậm đao > tổn thương nhân khẩu, nếu thân được Hoả sinh thì không sao.

- Huyền Vũ-Thuỷ: là đạo thần-thần trộm cướp, dâm thần, tư tình ám muội, giận giữ uất ức, tham bát bỏ mâm-92.

     Động: Ám muội. Nếu động sinh Thế thì tốt. Lâm quỷ/ động gặp Kị, cừu thần >> Phòng bị trộm cắp, cướp.

Dụng Thần - Lục Thú

6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.

- Thanh Long-Mộc: là cát thần, thuần hậu, nhân từ, bổ trợ cho Dụng thần vượng tướng- tiến tài tiến lộc.

       Động: Vui mừng khánh trúc. Lâm H.Dụng phúc lớn. Lâm quẻ tốt, H.Tử động  > biến Quỷ vẫn là tốt; Lâm H.xấu/Kị thần/ Cừu thần= khó tránh được hung hại=Họa tửu sắc.

- Chu Tước-Hoả: là thần lừa đảo, chủ về thị phi, điên cuồng, kiện tụng, văn chương in ấn, tài ăn nói, nếu khắc hào Thế sẽ chuốc điều tiếng thị phi, sinh Dụng thần sẽ có tin tức đến.

      Động: Văn ấn vượng. Gặp sát thần không lập được công danh+Cãi vã. Xuất sinh Thân=lợi việc công

- Câu Trần-Thổ: là âm thần, chủ về điền sản, công trình, ngục tù, phù thũng, tính tình chất phác, chủ về gặp chuyện lạ vậy, rắc rối. Câu Trần khắc Huyền Vũ, nên hợp với việc truy bắt trộm cướp.

      Động: lo về điền thổ. Sinh Dụng=Cát tình duyên. Tĩnh= không mê muội

- Đằng Xà-Thổ: là kinh thần, chủ về kinh sợ, không chung thuỷ, không có chữ tín, chủ về hương hoả trong gia đình. Gặp Mộc là không vong, không cát lợi; Bị nhật xung, khó thoát hung hại.

     Động: Bị Quỷ khắc=Lo lắng triền miên, toàn việc quái dị/ không rõ ràng.

- Bạch Hổ-Kim: là huyết thần-thần cường bạo, chủ về tang ma, háo thắng, hung hăng, hữu dũng vô mưu.

     Động: Chủ hình phạt, kiện tụng, bệnh tật.Trì thế động=hại trong gia đình.Gặp cát thần=không hại đến cát. Gặp hào Kim= Bạch Hổ ngậm đao > tổn thương nhân khẩu, nếu thân được Hoả sinh thì không sao.

- Huyền Vũ-Thuỷ: là đạo thần-thần trộm cướp, dâm thần, tư tình ám muội, giận giữ uất ức, tham bát bỏ mâm-92.

     Động: Ám muội. Nếu động sinh Thế thì tốt. Lâm quỷ/ động gặp Kị, cừu thần >> Phòng bị trộm cắp, cướp.

 

III- NGUYÊN, KỊ, CỪU THẦN

A- Nguyên Thần (NT): Hào sinh cho Dụng thần. Có 5 loại sinh được. 6 loại không sinh.

Có 5 loại sinh được: Nguyên Thần cần phải Vượng Tướng mới có sức sinh. Xem các việc đều cát.
1. NT Vượng hoặc đặng ngày tháng, hay động hào sinh phò.
2. NT Động hóa hồi đầu sinh, hay hóa tiến thần.
3. NT Trường Sinh, Đế Vượng ở ngày chiếm quẻ. 
4. NT cùng Kỵ Thần đồng động. 
5. NT vượng động, bị không hay hóa không. Sau ngày xung Không hoặc ngày xuất Không vẫn hữu dụng.
Có 6 loại không sinh: Nguyên Thần tuy hiện, tương sinh mà chẳng có sức sinh, là Nguyên Thần vô dụng. Tuy có, mà như không.
1. NT hưu tù chẳng động, hoặc động mà hưu tù, lại bị tương khắc.
2. NT hưu tù lại gặp Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 NT hưu tù, động hóa thoái thần
4.
 NT hưu tù mà lại suy tuyệt trái mùa
5.
 NT nhập tam Mộ: Nhật Mộ, động Mộ, Hóa mộ (động hóa Mộ ở H.biến).
6. NT hưu tù, động và hóa tuyệt, hoá khắc, hóa phá, hóa tán.
B- Kị thần: Hào khắc Dụng thần. Suy vượng có 5 loại khắc được. 7 loại không khắc được

5 loại Kỵ Thần động khắc hại Dụng Thần: Dẫn lên các Kỵ Thần cũng như búa riều. Chiếm mọi việc đều hung.
1. Kỵ Thần vượng tướng, hoặc gặp ngày, tháng, động hào sinh phò, hoặc đồng với ngày tháng chiếm quẻ
2. Kỵ Thần động, hóa hồi đầu sinh, hóa tiến thần
3.
 Kỵ Thần vượng động, trúng Không hay hóa Không
4.
 Kỵ Thần trường sinh, đế vượng, nhằm nhật thần (lâm ngày)
5.
 Kỵ Thần và cừu Thần đồng động
7 loại Kỵ Thần khó khắc Dụng Thần: Kỵ Thần không có sức, hóa hung làm cát, Dụng Thần cũng cần phải có khí. Dụng Thần không có gốc, nếu Nguyên Thần có sức cũng khó sinh. Cho nên Kỵ Thần không đủ sức, thì cũng không đủ mừng.
1. Kỵ Thần Hưu Tù chẳng động, động mà hưu tù, bị ngày, tháng, H.động khắc
2. Kỵ Thần tịnh trúng Tuần Không, Nguyệt Phá
3.
 Kỵ Thần nhập Tam Mộ
4.
 Kỵ Thần suy, động hóa thoái thần (Việc gần không thoái)
5.
 Kỵ Thần suy, mà lại tuyệt
6.
 Kỵ Thần động, hóa tuyệt, hóa khắc, hóa phá, hóa tán
7.
 Kỵ Thần cùng Nguyên Thần đồng động >>> Tương sinh liên tục.
C- Cừu thần: Là hào khắc chế Nguyên thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần.

Số Hào Động

III- HÀO ĐỘNG-TĨNH-BIẾN-TƯƠNG TÁC

Tương tác: Các Hào trong Quẻ phải cùng động/ ám động mới tương tác sinh khắc hình hại ..v.v.. > Xem Quẻ có 1 số hào động nhưng không liên quan gì đến Thế/ Dụng = Bỏ qua

- Nhật, nguyệt T.tuế: Mới có quyền sinh, khắc, xung, hình, hại, hợp ...với các H quẻ chủ và quẻ biến. Các H quẻ chủ, biến đều căn cứ vào nhật, nguyệt để xét trường sinh.

- Các Hào: H.tĩnh vượng không sinh khắc H.động, H.biến, nhưng có thể sinh hay khắc Hào tĩnh suy. H.động có thể sinh khắc H.động khác, H. tĩnh, nhưng không thể sinh khắc Hào biến, Nhật, Nguỵệt. Hào biến ra chỉ sinh khắc xung hạp Hào gốc động tại bổn vị, không có thể sinh khắc xung hợp các hào khác động hay tĩnh, hay Nhật Nguyệt. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể sinh khắc nó, nhưng vẫn sinh khắc ... hào gốc vừa động biến ra nó.

Động-Tĩnh: Tĩnh-người ngồi, nằm; động như đi, chạy. Hào suy động => vượng, có thể khắc chế được hào tĩnh. Hào tĩnh  không sinh khắc xung hợp hào động, dù vượng tướng.

Hào tĩnh: Là các hào trong Quẻ không có hào động, ám động, H. vượng/ suy không có lực tương tác sinh khắc hình hai ..v.v...với các Hào khác trong quẻ. Chỉ xét khi quẻ không có hào động

Hào tĩnh-Nhật phá: Hào tĩnh hưu tù bị nhật thần xung, khắc > Nhật phá. Nếu vượng thì lại gọi là ám động.

Hào tĩnh trong Quẻ tĩnh: Hào ám động, hào vượng  Xung, khắc, Hình, hại, sinh, hợp .. dụng thần, Hào khác. Nhật, nguyệt có toàn quyền với các H trong quẻ.

Hào tĩnh trong quẻ có hào động: Hào tĩnh không xét sinh khắc xung hợp với các hào khác khi Quẻ không có hào động.

Hào Ám động(Động ngầm): Hào tĩnh vượng tướng bị Nhật thần xung. Hào ám động không biến, nhưng được vượng lên. Ám động cũng coi là động, sinh khắc .... các hào khác trong quẻ.

Ám động Cát-Hung: Như người làm việc dấu giếm, âm thầm. Phúc đến không biết-Họa đến không hay; Căn bản xem hỷ-kị với H. Thế, Dụng; Hung cần đề cao cảnh giác

Hào động: Dù hưu tù cũng có khả năng sinh khắc xung hợp các hào tĩnh trong quẻ.

Hào động: Cơ trời ở hào động, động ắt sẽ có nguyên nhân, cần phải xem xét thật kỹ mới không mắc sai lầm.

Hào biến: Hào động > Biến hồi đầu sinh, khắc, hợp, xung H.gốc. Hào gốc không khắc, hình, hại được Hào biến. Nhưng nếu H.biến bị Nhật, Nguyệt xung phá thì H.biến cũng không thể sinh, khắc H. gốc

Động biến hồi đầu khắc: Hào biến có ngũ hành tương khắc lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể khắc H. gốc.
Động biến hồi đầu sinh: Hào biến có ngũ hành tương sinh lại Hào động Quẻ gốc, Nhưng nếu bị Nhật, Nguyệt xung phá Hào biến thì H.biến cũng không thể sinh H. gốc.

Hào biến từ hào vượng: Hoá mộ tuyệt-xung, lúc vượng ứng cát.

Hào biến từ hào Dụng hưu tù: Hoá mộ tuyệt hồi đầu khắc càng hung, biến quỷ đại hung. Hoá mộ tuyệt-xung, điền thực ứng hung, là tượng ám muội, chốn kỹ.

Hào biến hoá quan quỷ: Thế vượng thì được quan, gặp cát. Thế suy tuyệt thì được quỷ, gặp hung

Hào biến hoá tiến có 4 loại-164.

1.Hào động vượng hoá thành vượng, thừa kế mà tiến, kể cả bị nhật, nguyệt phá hay hoá không vẫn có thể tiến vượng.

2.Hào động hưu tù hoá thành hưu tù, đợi thời mà tiến thành vượng.

3.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào hưu tù, cần đợi đến ngày vượng sẽ tiến.

4.Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào gặp không, phá, đợi lúc điền thực sẽ tiến thành vượng.

Hào biến hoá thoái có 4 loại.

1-Hào động vượng, hoá thành sì hơi hoặc được hào động nhật thần, nguyệt kiến sinh phò, nếu xem về việc gần, sẽ được thời mà không thoái.

2-Hào động hưu tù, hoá thành hưu tù, đến lúc sẽ thoái.

3-Hào động và hào biến, nếu một trong hai hào vượng tướng, đến lúc hưu tù sẽ phải thoái

4-Hào động và hào biến, nếu một trong hài hào gặp không, phá, thì đợi đến lúc điền thực sẽ phải thoái.

Hào Quỷ động biến: Thần chủ về nghi hoặc, Hung nhiều Cát ít. Lấn ướt Thế-Tài bị hao tán. Động khắc Huynh. Rất nên tĩnh, không nên động. Biến ra lục thân gì cũng thường là hung, nếu bị nhật nguyệt khắc phá Hào biến, hoặc Hào biến mộ tuyệt tai Nhật nguyệt là Hung

Hào Phụ mẫu động: Khắc thương Tử tôn, trợ giúp huynh đệ. Mỗi trạng huống một điểm thích hợp riêng.

Hào Huynh đệ động: Chủ về phá Tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Quan động sẽ bị chế ngự. Động khắc thương Thê và sinh giúp Phúc đức-Tử tôn

Hào Thê Tài động: Mọi sự gặp được không gì không Cát lợi. Trừ xem về Phụ mẫu hoặc việc Phụ đại diện sẽ không nên gặp. Gặp huynh sẽ bị tổn thương. gặp Tử sẽ được giúp đỡ. Gặp Quan quỷ bị tiết khí, nên tĩnh thì Cát, không nên phát động.

Hào Tử tôn động: Thần Phúc chủ Phúc đức, đoạt tước Quan. Gặp được là cát lợi, bị xung khắc thương sẽ không được Phúc. Trong Quẻ không có Hào Phụ sẽ không bị khắc thương, là Cát. Động sẽ sinh Thê tài, khắc Quan.

IV - ĐỘC PHÁT: Mà kị thần trì thế là hung, dụng thần là cát tuỳ vào sinh vượng.

Quẻ có Hào độc phát: Thì rõ ràng, nhiều hào động khó đoán-175. Ứng nghiệm nhanh, chậm xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh-172.

a- Tử độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm, tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

b- Huynh độc phát: Huynh Đệ là vị thần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

c- Phụ độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

d- Quan Quỷ độc phát:

- Xem việc cầu danh: Được hào Quan vượng, Nguyên thần hưu tù, chủ về lập thân thanh cao. Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái.

- Xem về việc: Nếu Quỷ vượng, biến vượng khắc Thế là việc mong cầu là Hung, tượng xấu. Xem về cầu tài -điềm hao tài. Xem nhà cửa là tượng không tốt ... nhưng phải là Hào biến giúp quỷ, hại thân hoặc quỷ vượng tướng khắc thế, biến Nhật, nguyệt hoặc là Nhật, nguyệt.

e- Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Xem tiêu thụ hàng hoá: Tài động - Tốt. Xem về hôn nhân: Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng: Chủ về khắc văn thư.

Hỏi - Ứng Đoán Đa Nội Dung: Người hỏi một nội dung, nhưng xem quẻ có thể đoán ra nội dung khác không hỏi

Hỏi - Ứng Quẻ Dị Biệt: Hỏi một sự việc - Quẻ Linh ứng việc cấp thiết sắp sảy ra, thường là đại họa sống chết sắp đến

Hỏi - Ứng Quẻ Đúng Câu Hỏi: Không có sự sai khác giữa ý định muốn hỏi và Quẻ hiển linh sự nhất quán, đồng bộ với câu hỏi

BÍNH HỎA
1. Nhiệt tình, thích chăm sóc người khác. Cá tính tích cực, thích quyền thế, háo sắc, háo danh, hiếu khách. Nội tâm phong phú mà không giỏi biểu đạt, bạn bè khắp thiên hạ, tri âm chỉ vài người. Không chú ý chi tiết nhỏ, hay lơ đãng. Là người trung thực nhưng thường hời hợt, dễ nổi nóng cũng nhanh trấn tĩnh, dễ thu hút sự chú ý, thích hợp biểu diễn trên sân khấu. Tuy nhiên sau khi tiếp nhận vấn đề thường không biết phân tích cho đúng, thích náo nhiệt mà không biết kết thúc như thế nào cho thỏa đáng. Lửa có ánh sáng nhưng không có thực chất, chỉ để lại cảm giác cho mọi người. Chú ý bệnh ở ruột non, bả vai.
2. Tính cách tích cực
Thoải mái, thăng thắn, khẳng khái, không tính toán, thân thiết, khả năng lý giải tốt. Tinh lực dồi dào, làm việc tích cực, dễ được mọi người yêu quý. 
3.  Tính cách tiêu cực
Dễ kích động, tính tình bất định, vui buồn thất thường, hay thay đổi.

ĐINH HỎA
1. Lễ phép, biết lễ nghĩa, kính trọng bề trên, quan tâm người khác, nhiệt tình với công tác từ thiện. Bên ngoài bình thản nhưng nội tâm nóng vội, giác quan thứ 6 nhạy bén, trực giác tốt. Có thể thấu tỏ tâm tình người khác nhưng lại không hiểu chính mình. Tình cảm phong phú nhưng không giỏi biểu đạt, hay đố kỵ, buồn chán. Đốt cháy mình thắp sáng cho người, dễ nhìn thấy thị phi bên ngoài, không muốn liên lụy thị phi nhưng lại dễ bị cuốn vào thị phi. Cảm giác nhạy bén, trí nhớ tốt hơn Bính Hỏa. Bính Hỏa là ký ức kiểu trọng điểm, Đinh Hỏa là ký ức kiểu chi tiết. Giống một ngọn đèn thắp sáng, là tượng trưng cho ánh sáng, dễ đau lòng cũng dễ lơ là. Dễ bị người thân hãm hại. Chú ý bệnh ở tim và bệnh về đường máu.
2. Tính cách tích cực
Ôn hòa, có lễ nghĩa, nhiệt tình, suy nghĩ thấu đáo, làm việc cẩn thận, có thể cống hiến hy sinh bản thân, không dễ biểu cảm tình cảm. 
3. Tính cách tiêu cực
Dễ mềm lòng, mọi việc do dự không quyết đoán dễ nghi ngờ.

MẬU THỔ
1. Cổ chấp với ý kiến bản thân, muốn người khác thuận theo ý mình, ngoài nhu trong cường, trầm tĩnh, dễ chìm đắm vào sắc tình, Biết chăm sóc người khác, từ bi, khả năng thích ứng nhanh và biết chấp nhận nghịch cảnh, nỗ lực cố gắng lại thường không được người khác coi trọng. Chí lớn không gặp thời, trọng chữ tín, bảo thủ không chịu thay đổi mà khá khép mình, bên ngoài trầm tĩnh mà nội tâm nóng vội. Như đất trên núi cao không dễ khai thác, thích sự vật cũ, không thích di chuyển, trọng chữ tín. Chú ý bệnh ở dạ dày.
2. Tính cách tích cực
Cẩn trọng, cương trực, lạc quan, không thích lòa loẹt. Làm việc hợp tình, có kế hoạch hợp lý, trọng tình cảm, thích giúp đỡ người khác. 
3. Tính cách tiêu cực
Tùy tiện ngoan cố, lấy mình làm trung tâm, thiếu tính dugn hòa, không lãng mạn, thích nịnh bợ, trọng hư danh không chủ động.

KỶ THỔ
1. Cố chấp với ý kiến của mình, trọng nghĩa khí, giỏi giao tiếp, thân thiết với mọi người. Bề ngoài ôn hòa nhưng nội tâm nhiều toan tính. Có tính bao dung nhưng chí lớn không gặp thời, giữ chữ tín, cương nhu hài hòa. Tuy cố chấp nhưng sau khi xác định phương hướng đúng đắn có thể thành tài. Giao tiếp rộng, vì có tính cách thân thiện dễ gần nên giao tiếp không bị hạn chế. Trung thành nên có thể duy trì quan hệ lâu dài. Đôi khi có cảm giác thiếu an toàn, cần học cách trấn an bản thân. Chú ý bệnh ở lá lách, vùng bụng.
2. Tính cách tiêu cực
Tiếp thu nhanh, có nhiều tài năng, có thể hiểu sâu vấn đề. Cương nhu hài hòa, không cố chấp, thích học tập.
3. Tính cách tiêu cực
Nội tâm phức tạp mâu thuẫn, tâm tư không dễ tập trung, dễ sai lầm. Có khuynh hướng tiêu cực thỏa hiệp, dễ bị lợi dụng.

CANH KIM
1. Coi trọng nghĩa khí, thị phi phân rõ, quả quyết, không sợ khó khăn, cường quyền, thẳng thắn không thích vòng vo. Thích đi thẳng vào vấn đề, thích mềm dẻo mà không thích cứng nhắc, không chú ý chi tiết nhỏ, ánh mắt nhạy bén, nhanh nhạy, có khí phách, thích đấu tranh. Bề ngoài mạnh mẽ, nội tâm tinh tế. Luôn thu mình mà không có tâm cơ. Thường tay trắng lập nghiệp, đi thẳng vào vấn đề, da đắc tội với người khác, thích thân mật. Tứ trụ có nhiều Thổ khó thể hiện tài năng có Hỏa sẽ tăng thêm độ mềm mại, có thể co có thể duỗi. Chú ý bệnh ở ruột già và vùng rốn.
2. Tính cách tích cực
Kiên cường không chịu thua, tích cực quyết đoán theo chính nghĩa, không giả dối, có khả năng biểu đạt, giỏi biện luận.
3. Tính cách tiêu cực
Thẳng tính kích động, dễ vì xung đột mà đắc tội với người khác, thích biểu hiện, không cần thận.

TÂN KIM
1. Không cầu hư vinh, khả năng nhẫn nại tốt, hành sự tuần tự, nỗ lực theo đuổi mục tiêu, trọng nghĩa khí. Thường chú ý chi tiết nhỏ, ánh mắt nhạy bén, cảm giác nhanh nhạy, văn nhã, nhu hòa, có quý khí, khả năng ăn nói tốt. Tay trắng lập nghiệp, cả đời lao tâm vì tiền tài, dù cuộc sống đầy đủ vẫn không thấy thỏa mãn. Vì có bệnh về thần kinh nên chất lượng giấc ngủ kém. Khác với thuộc tính của Canh Kim, Tân Kim giống như kim cương, có uy lực, một khi phát huy tính chất sẽ khiến người khác khó chịu. Thích luận đoán đúng sai, nên nghĩ kỹ mới làm. Chú ý bệnh ở phổi và vùng ngực.
2. Tính cách tích cực
Nhạy cảm tinh tế, biết đồng cảm, thích sáng tạo, quan hệ giao tiếp tốt, thiện ác phân minh, có suy nghĩ độc đáo.
3. Tính cách tiêu cực
Trọng hư vinh, cương nhu hài hòa, có tính mềm dẻo, chú ý bề ngoài, dễ tham lam mà mất đi lý trí. Ý chí kém dễ lùi bước khi gặp khó khăn.

NHÂM THỦY
1. Có tài trí, coi trọng trách nhiệm, giao tiếp rộng, nhân duyên tốt, phản ứng nhanh nhạy, khéo léo, không dễ đắc tội người khác. Giỏi tính toán, bề ngoài bình tĩnh nhu hòa, mạnh bạo tinh tế, thích thay đổi, dễ kích động. Làm việc biến hóa linh hoạt, khả năng thích ứng và tính dẻo dai tốt. Chỉ tin mình, không dễ tin người khác. Biết thuận theo thời thế, không dễ tiếp thu ý kiến của người khác. Dã tâm lớn, cơ hội thành công cao. Không thích bị bó buộc, tính khí nóng nảy nhưng cũng nhanh trấn tĩnh. Chú ý bệnh ở bàng quang, bắp chân.
2. Tính cách tích cực
Tự do, nhàn nhã, lạc quan, có dũng khí, thông minh, duệ trí. Có thể đối diện khó khăn mà không lùi bước, mà không lùi bước, văn võ song toàn, có năng lực lãnh đạo.
3. Tính cách tiêu cực
Tuy khéo léo nhưng tùy tiện, lười nhác hay dựa dâm xvaof người khác, không kiên trì theo đuổi mục tiêu đến cùng. Có khuynh hướng lụy tình.

QUÝ THỦY
1. Bề ngoài bình tĩnh, nội tâm nồng nhiệt, giỏi ứng biến, có tầm nhìn xa, hướng nội, bảo thủ, tiết kiệm, thích sạch sẽ, đa sầu đa cảm, thích ảo tưởng, như khe suối nhỏ quanh co uốn lượn, lãng mạn phong tình. Cảm giác cân bằng kém, dễ mất thăng bằng. Thích sạch sẽ, ngược lại dễ sinh bệnh. Thích đọc tin tức, dễ phiền não, chú ý từ việc lớn đến việc nhỏ. Chú ý bệnh ở thận, bàn chân.
2. Tính cách tích cực
Coi trọng quy tắc và đạo đức, thích sạch sẽ, hướng nội, nỗ lực phấn đấu và nhẫn nại. Nội tâm chân thật, ôn hòa tinh tế, bình tĩnh.
3. Tính cách tiêu cực
Khá cau nệ, dễ ảo tưởng, không thiết thực, dễ bi quan, đa sầu, đa cảm.

ẤT MỘC
1. Thích làm lãnh đạo, giỏi tham mưu, lắm mưu lược, trầm tĩnh mà biết thuận theo thời thế, cương nhu hài hòa. Thích âm thầm thực hiện kế hoạch mà không muốn công khai với mọi người, không thích nổi tiếng, thích hợp làm đạo diễn, lập kế hoạch, thiết kế, trợ lý, quân sư. Ôn hòa, khiêm nhường, biết tích lũy đợi thời cơ. Dễ mệt mỏi, đau mỏi cổ, cần chú ý vùng đầu, gan, mật, dạ dày. Dẻo dai, khả năng thích ứng tốt, dù khó khăn cũng kiên cường chống chọi, thích dựa vào người khác, tình nguyện cùng phối hợp. Từng bước chắc chắn, cần chú ý ngón tay, tỳ vị. Chú ý bệnh ở gan, cổ.
2. Tính cách tích cực:
Nhu thuận ôn hòa, có năng lực biểu đạt phong phú, phản ứng nhanh nhạy, có tính hài hòa, không kiên trì với ý kiến bản thân. Giỏi quản lý tiền tài, khả năng tiết chế cảm xúc tốt cương nhu hài hòa.
3. Tính cách tiêu cực
Biết thuận theo thời thế, linh hoạy ứng biến, thực tế, có tâm cơ. Dễ mất đi tự tin, nhút nhát, ỷ lại, cũng dễ bị dụ dỗ hoặc bị lừa gạt, dễ một lòng hai dạ, mềm lòng, không có chủ kiến.

GIÁP MỘC
+ Nhân từ, thích lãnh đạo mà không muốn bị sai khiến. Thích công việc có tính phục. Lương thiện, mềm lòng, dễ bị lợi dụng, thích cạnh tranh công khai mà không năng động, không thích tùy tiện thay đổi, nỗ lực cố gắng mà không cam tâm khuất thích âm thầm đấu tranh, dễ mệt mỏi, cần chú ý vấn đề gan, mật. Giống như cây đại thụ sinh trưởng hưởng lên, tán lá rộng bao trùm che bóng mát cho con người. Nhìn tưởng phức tạp thực ra thuần phác, đứng thẳng không lung lay, không chịu khuất phục, dễ ngạo mạn. Có thể gánh trách nhiệm, biết cách chăm sóc người khác, thích mềm dẻo không thích cứng nhắc. Chú ý bệnh ở mật, đầu.
- Tính cách tích cực 
Học tập tiến bộ, quyết đoán, chính trực, làm việc có đầu có cuối, có thể giúp đỡ và cảm thông cho người khác, có trách nhiệm.
- Tính cách tiêu cực
Không biết thỏa hiệp, thiếu tính nhanh nhạy, quá chủ quan. Đôi khi can thiệp quá sâu vào chuyện người khác, dễ sụp đổ khi đi quá giới hạn.

Tổng quan: Khôn Vi Địa-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Khôn-Thuận tự nhiên, thích ứng thay đổi: Vận thăng giáng bất định, lấy nhu khắc cương, tĩnh chế động vận may tự sẽ đến. nên đi theo người khác thì được, mình khửi xướng thì sai lầm. Đi về Tây Nam có bạn, về phía Đông Bắc thì mất bạn. Không nên lộ mình và nôn nóng, cần chờ thời cơ.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: Nóng vội sẽ hỏng cả khí vận bản thân. Nên lắng nghe ý kiến người trên và cùng hành động với số đông.● Hy vọng:Không thể thành công vì mê muội, hãy hạ thấp mục tiêu sẽ thành.
● Tài lộc: Chưa đến, phải thay đổi sách lược.
● Sự nghiệp: chưa có thời cơ, có thể chung vốn với mọi người.
● Nhậm chức: chưa như ý, cần có sự giúp đỡ từ phía trên.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: Nữ có thể thành công, nam tốn nhiều thời gian.
● Hôn nhân: Cần thời gian tìm hiểu mới thành.
● Đợi người: Không đến
● Đi xa: nên bỏ ý định.
● Pháp lý: bất lợi, nên hoà giải.
● Sự việc: nên uỷ quyền cho người khác giải quyết.
● Bệnh tật: bệnh nặng.
● Thi cử: kết quả không như ý muốn.
I- Giảng giải Truyện: [Lờì chua: Quẻ 3 đơn; Lời Kinh Quẻ kép]: 
Quẻ khôn: Nguyên/ Đầu cả, hanh thông, Lợi về nết trinh của ngựa cái. Quân tử có sự đi. Trước mê, sau được. Yên phận giữ nết trinh thì tốt; 4 đức giống Càn. Kiền - Chính bền làm trinh. Khôn thì mềm thuận làm trinh. Âm phải theo Dương, ắt đợi xướng rồi mới họa. Âm đi trước Dương, tức là mê lẫn, phải ở sau Dương mới đúng lẽ thường. Chủ về lợi/ Sinh thành cho muôn vật đều chủ ở Khôn/ Công của đất cả. Đạo làm bầy tôi - vua sai tôi làm, vất vả về làm việc là cái chức trách của kẻ làm tôi. Tây nam/ Âm phải theo Dương/ Đông bắc, lìa bỏ bầy loại => hóa dục, yên phận giữ nết trinh. (đúng với lẽ thường thì yên, yên với lẽ thường thì trinh = Cát).
Khôn thuận, 3 vạch chẵn = Đất. Quẻ kép là Âm đến thuần túy, thuận đến cùng tột, cho nên cái tên và cái tượng của nó [“Đại” chữ “Thủy” ở lời Thoán quẻ Kiền] đều không thể đổi. Ngựa cái ngoan và đi khỏe. Dương/ Nghĩa trước, Âm/ Lợi sau. Hễ gặp quẻ này, thì lời Chiêm là cả hanh thông mà lợi, phải lấy nết thuận, đức mạnh làm chính, chịu yên về đường chính thì tốt. Không lợi cho nết cương kiện. Âm không thể sánh Dương, Âm chỉ lý hội được một nửa, không như Dương gồm được cả Âm, cho nên không gì không lợi.
THOÁN TRUYỆN: Cùng tột thay cái đức đầu cả của Khôn, muôn vật nhờ nó mà sinh ra, bèn thuận theo trời; “Thủy” là khởi đầu của phần khí/ Kiền, “sinh” nhở Khôn là khởi đầu của phần hình, “Thuận theo trời” tức là thi hành đạo của đất vậy. Khí tới thì sinh - Khôn nguyên; Sức dầy của Khôn, chở được các vật, đức nó hợp với đức không bờ; Bao dung rộng rãi, sáng láng, lớn lao, các phẩm, các vật đều hanh thông => Khôn sánh với Kiền.
 “Hàm” là bao dung, “Hoằng” là không gì không có, “Quang” là tỏ rạng, “Đại” là che trùm => 4 chữ là đạo Khôn, ứng đức cương, kiện, trung, chính, thuần, túy của Kiền. Hỏi: Kiền mạnh, Khôn thuận, Khôn cũng mạnh ư? Đáp rằng: Chưa có bao giờ Kiền đi mà Khôn đỗ. Nó động thì cứng, nhưng với đức mềm lợi về nết trinh là đức của Khôn, điều mà quân tử vẫn làm. Đó là đạo của quân tử với đức Khôn.
Lợi trinh. Ngựa là tượng của Kiền mà lại cho là loài của đất, là vì giống cái là vật thuộc âm, mà ngựa lại là con vật đi đất. 
Trước mê mất đường, sau thuận được như thường, Tây Nam được bạn, bèn đi với loài, Đông Bắc mất bạn, bèn chót có phúc.
Chu Hy: Dương lớn, Âm nhỏ, Dương được kiêm Âm. Âm không được kiêm Dương, cho nên đức Khôn kém nửa Kiềm
Hỏi: người mềm thuận trung chính làm việc giữ phận tôi thì làm được việc? Đáp: Là thế.
Trình Di:Kiền là việc của Dương, Khôn là việc của Âm. Từ những hình tượng trở lên, gọi là đạo của trời đất; từ những hình tượng trở xuống, gọi là công của Âm Dương.
Chu Hy. - Yên mà lại trinh, đó là đức của đấtThế đất là quẻ Khôn - Lý, hình xuôi thuận, đấng quân tử coi đó mà dùng đức dày chở các vật.
Hào dùng 6 - Khôn và 9 - Càn: Lợi về vĩnh viễn chính đínhSáu, lợi ở thịnh lớn trong lúc chót. Hễ lớn đến chót, thì mới vĩnh viễn chính đính.
Đạo Khôn rất mềm mà động thì cứng, rất tĩnh mà đức vuông, sau được, chủ lợi, mà có thường, ngậm muôn vật mà có sáng. Đạo Khôn là thuận chăng? Theo trời mà làm việc có thời; Vì nó động thì cứng nên ứng với Kiền không sai; Đạo Âm không xướng mà họa theo, mà chủ về lợi, làm nên muôn vật là sự thường cửa Khôn; ngậm chứa muôn loài, đó là công và đức hóa của nó vừa sáng vừa lớn.

Từ đây bàn lại về Quẻ và động/ Tịnh các Hào trong Quẻ

Cái nhà tích chứa điều thiện, ắt có phúc thừa; cái nhà chứa điều bất thiện, ắt có vạ thừa. Tôi giết vua nó, con giết cha nó, không phải là cớ một mai một hôm, cái mà nó đã bởi đó mà đến vẫn là dần dần ...; Quân tử lấy Thẳng/ Kính (bên trong) tức là chính, vuông/ Nghĩa để làm cho vuông bên ngoàiKính - công phu trì thủ. “Nghĩa - công phu giảng học.
Âm tuy có sự tốt đẹp, phải ngậm nó lại để đi theo việc nhà vua, không dám nhận sự thành công, đó là đạo đất, đó là đạo vợ, đó là đạo kẻ làm tôi
Trong trời đất: muôn vật sán lạn trưng bày, đều là Âm bám vào Dương, cái đẹp hiển hiện ra ngoài đó thôi. Hào Sáu 3 và hào Sáu 5 đều là Âm ở ngôi Dương. 3 - Có sự đẹp, còn phải ngậm lại; hào 5 chính ngôi - cái tốt đẹp ở trong phát ra thành sự nghiệp. Kẻ đi làm tôi người ta, sự nghiệp rõ rệt với đời vẫn có từng thì, không thể cậy về tài năng, mà cứ tiến tràn, để mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét của hào 3 và hào 5.
Hào Tư ở trên gần vua mà không có nghĩa tương đắc, cho nên là tượng cách tuyệt. Trời đất cảm nhau thì biến hóa, muôn vật cỏ cây đều rậm tốt; vua tôi giao tế với nhau thì là đạo hanh thông. Trời đất bế cách thì muôn vật không được thỏa thê; vua tôi tuyệt đường thì bậc hiền giả phải ẩn trốn. Hào Tư ở vào giữa lúc bế cách, thắt túi, giấu kín, tuy là không có tiếng khen, nhưng mà có thể không lỗi, ý nói nên tự giữ gìn cẩn thận vậy. Thái thì hiện, bĩ thì ẩn, cũng như mùa xuân thì sinh, mùa thu thì rụng. Sở dĩ chỉ nói người hiền ẩn là vì người thường thì vẫn tự mình cách tuyệt, cho nên, với khí trời đất, không thông nhau. Khí tới mà biết, chỉ có người hiền mà thôi.
Đấng quân tử văn vẻ bên trong mà đạt về lý, ở ngôi chính mà vẫn không mất thể của kẻ dưới. Năm là ngôi tôn, ở quẻ Khôn chỉ lấy cái nghĩa trung chính mà thôi. Cái tốt đẹp chứa ở bên trong mà thông xướng ra bốn chi, phát hiện ra sự nghiệp. Đó là đức tốt đến cùng tột, ngôi tôn mà vẫn thể dưới.
Dương lớn Âm nhỏ, Âm phải theo Dương. Âm đã thịnh cực, đều nhau cùng Dương, đó là ngờ với dương. Không theo nhau thì phải đánh nhau
Quẻ Khôn tuy không có Dương, nhưng Dương vẫn chưa từng không có. Máu thuộc về Âm, nghĩa là khí là Dương mà máu là Âm. Xanh vàng là sắc chính của trời đất, câu ấy ý nói Âm Dương đều bị thương.
Tháng 10 là tháng Khôn (Thanh nhân gọi Rồng), Tháng Khôn sáu hào đều là thể Âm, nhưng mà cái lẽ sinh rồi lại sinh lại vẫn không phút chốc dừng nghỉ. Một khí dương tuy là sinh ở tháng tý mà thật ra, nó đã khởi đầu từ tháng hợi. Khí Dương của tháng 10, chỉ có chưa thành ra hào mà thôi - Lý do gọi tháng 10 là dương. (Trích Kinh dịch - Ngô Tất Tố)
Xem chi tiết: Mời xem tại đây

+ Sách Trích Thiên Tủy - Nhâm Thiết Tiều: Đương nhiên, cách nói phẩm hành chia thành 6 loại như thế, trong thực tế vận dụng, cần có sự phần đoán thích hợp. Trong bình chú Nhâm Thiết Tiều nhấn mạnh “nhu có thể khắc chế cương, cương không thể chế khắc nhu”, mà mấu chốt chính là cần kiên trì lý luận trung dung bình hòa, khí thế của ngũ hành bình thuận, trung chính, cân bằng, tứ trụ bát tự có âm dương cân bằng, không lệch không dựa, trung hòa, cân bằng, sẽ không xuất hiện tình cảnh bất lợi do sự thiên lệch gây ra. Câu cuối cùng trong phần bình chú này, Nhâm Thiết Tiều đưa ra lời nhắc nhỏ với người suy đoán mệnh: “đạo giữ minh ở đời, tất phải trước biết người, chọn người thiện mà theo đạo của người đó, điều này không thể không biết”. trọng tâm của câu này là “chọn người thiện mà theo đạo của người đó”; đây là câu mà người suy đoán mệnh cần nhớ kỹ. (Nguồn: Sách Trích Thiên Tủy - Tr 119)

+ 6 KIỂU NGƯỜI THEO CÁCH PHÂN CHIA CỦA NHÂM THIẾT TIỀU
Trong chú giải “Trích Thiên Túy? của Nhâm Thiết Tiều, có rất nhiều điều bản thân ông lĩnh hội một cách sâu sắc, ví dụ về phần ứng dụng tính chất đặc trưng của âm can, dương can vào trong con người ở phần trên, ông đã đưa ra kiến giải độc đáo. Ông căn cứ vào tình huống của âm can, dương can mà phân thành sầu loại:
1. Thứ nhất, chỉ có duy nhất dương khí; vì tính chất của dương can là mạnh mẽ, tràn đầy sức lực, nên người kiểu này không sợ tài, sát, hơn nữa giàu lòng trắc ẩn, nhân từ, là người chính trực, cẩn thận, khẳng khái, phóng khoáng, có khí nghĩa hiệp.
2. Thứ hai lò ôm khí uượng thỉnh, vì tính chất của âm can là nhu thuận, nên người kiểu này “gió chiều nào che chiều ấy”, bợ đỡ, nịnh nọt, lại keo kiệt, bủn xỉn, ứng nhân xử thế kiêu ngạo và xiểm ninh, kiểu người tiểu nhân thấy lợi quên nghĩa.
3. Thứ ba lò trong dương có ôm, tính chất của dương can lộ ra ở bề ngoài, tính chất của âm can tàng ẩn vào bên trong; người kiểu này bề ngoài nhân nghĩa nhưng nội tâm gian tá.
4. Thứ tư lò trong âm có dương, tính chất của âm can thể hiện bên ngoài, tính chất của dương can ẩn tàng vào bên trong; người kiểu này, bề ngoài hung hiểm nhưng thực chất tấm lòng nhân từ.
5. Thứ năm là kiểu dương ngoại âm nội, ở tình huống này, là người có lòng độc ác gây họa.
6. Thứ sáu là biểu âm ngoại dương nội, là người tốt, kiên trì chính nghĩa.

Đương nhiên, cách nói phẩm hành chia thành sáu loại như thế, trong thực tế vận dụng, cần có sự phần đoán thích hợp. Trong bình chú Nhâm Thiết Tiều nhấn mạnh “nhu có thể khắc chế cương, cương không thể chế khắc nhu”, mà mấu chốt chính là cần kiên trì lý luận trung dung bình hòa, khí thế của ngũ hành bình thuận, trung chính, cân bằng, tứ trụ bát tự có âm dương cân bằng, không lệch không dựa, trung hòa, cân bằng, sẽ không xuất hiện tình cảnh bất lợi do sự thiên lệch gây ra. Câu cuối cùng trong phần bình chú này, Nhâm Thiết Tiều đưa ra lời nhắc nhỏ với người suy đoán mệnh: “đạo giữ minh ở đời, tất phải trước biết người, chọn người thiện mà theo đạo của người đó, điều này không thể không biết”. trọng tâm của câu này là “chọn người thiện mà theo đạo của người đó”; đây là câu mà người suy đoán mệnh cần nhớ kỹ. (Nguồn: Sách Trích Thiên Tủy - Tr 119)

+ Hợp Tạp thành Cách Quý:

- Hợp quan thành cách Sát Ấn tương sinh, gặp cách Tài Sát Ấn thì phú quý song toàn

Tài Nhiều Hoại Ấn

Tỷ Kiếp Nhiều Cha Mất Trước

Chưa có câu mẫu phù hợp

Cách Chính Ấn

Cách Thiên Ấn

Thủy vượng thiếu Mộc Hỏa

Kim vượng thiếu Thủy Mộc

Thổ vượng thiếu Kim Thủy

Hỏa vượng thiếu Thổ Kim

Mộc Vượng thiếu Hỏa Thổ

Thủy Vượng Thiếu Mộc

Kim Vượng Thiếu Thủy

Thổ Vượng Thiếu Kim

Hỏa Vượng Thiếu Thổ

Mộc Vượng Thiết Hỏa

Tổng quan: Phong Thủy Hoán - Thời kỳ chia rẽ, ly tán, tưởng như bế tắc. Cần Dự án chung để hợp sức hoàn thành
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Hoán- Thay đổi, chuyển vận, cẩn thận thuận theo thời thế, bắt đầu tiến. Vận chuyển tốt, trở ngại tan dần, thách thức là cơ hội. việc phải liên kết với người khác mà làm mới tốt, khi cần ly tán để đạt mục đích thì ly tán. Việc lớn muốn thành phải có sự kết hợp với người có khả năng, người có tài muốn đạt mục đích phải thống nhất nhân tâm
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: thời gian khó đã qua, đã sang giai đoạn thuận lợi, tốt đẹp
● Hy vọng: chưa như ý, phải nỗ lực tiếp mới thành
● Tài lộc: trước mắt chưa có
● Sự nghiệp: phải sau một thời gian nữa mới thành
● Nhậm chức: có chức vị tốt nhưng ở nơi khác
● Nghề nghiệp: nên đổi nghề thì mới tốt
● Tình yêu: nghi ngờ người mình quan hệ nên có thay đổi thái độ
● Hôn nhân: khó thành
● Đợi người: không tới
● Đi xa: vui vẻ
● Pháp lý: nóng vội sẽ thất bại
● Sự việc: nên nghờ khười khác hòa giải
● Bệnh tật: nguy hiểm
● Thi cử: kết qủa ngoài dự kiến
● Mất của: khó tìm, có thầy không còn nguyên dạng
● Người ra đi: người bỏ nhà đi xa, khó xác định địa điểm
Quẻ: Phong Thủy Hoán - Tốn trên; Khảm dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di.- Quẻ Hoán, Tự quái nói rằng: Đoái là đẹp lòng, đẹp lòng mà sau tan đó, cho nên tiếp đến quẻ Hoán, tức là đẹp lòng thì phải giãn tan. Khí của người ta, lo thì kết lại, đẹp lòng thì giãn tan. Vì vậy quẻ Hoán [1-Chữ 渙 (hoán) nghĩa là tan] mới nối quẻ Đoái. Nó là quẻ Tốn trên Khảm dưới gió đi trên nước, nước gặp gió tan, cho nên là hoán.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Hoán hanh, vương cách hữu miếu, lợi thiệp đại xuyầg, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Hoán hanh, vua đến có miếu, lợi sang sông lớn, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hoán là lìa tan. Người ta lìa tan bởi ở bên trong, lòng người lìa thì tan; chứa sự lìa tan cũng gốc ở bên trong, thu thập lòng người thì tan có thể hợp; cho nên nghĩa quẻ đều chủ về bên trong. “Lợi trinh” nghĩa là cái đao hợp sự lìa tan, cốt ở chính bền.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hoán là tan. Nó là quẻ dưới Khảm trên Tốn, gió đi trên nước, là Tượng tơi tả giải tán cho nên là tan. Sự biến hóa của nó thì vốn tự quẻ Tiệm, hào Chín ở ngôi Hai mà được giữa, hào Sáu đi ở ngôi Ba được ngôi của hào Chín, mà phía trên cùng nhau với hào Tư, cho nên lời Chiêm của nó là có thể hanh. Lại vì tinh thần tỏ khảo đã tan, cho nên kẻ làm vua phải đến miếu thờ mà hợp lại. Lại vì Tón cây Khảm nước, có Tượng thuyền lái, cho nên lợi sang sống lớn. Còn nói “lợi về chính bền” thì là lời răn kẻ xem.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Thoát viết: Hoán hanh, cương lai nhi bất cùng, nhu đắc vị hồ ngoại nhi thượng đồng.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Hoán hanh, cứng lại mà cùng[2-Hai chữ “cùng” nghĩa khác nhau], mềm được ngôi ngoài mà cùng [3-Hai chữ “cùng” nghĩa khác nhau] trở lên.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Hoán có thể hanh thông, là vì tài quẻ như thế. Quẻ Hoán là thành quẻ Hoán là bởi hào Chín đến ở ngôi Hai, hào Sau lên ngôi Tư. Dương cứng lại thì không cùng cực ở duwois mà được chỗ giữa; mềm đi thì được ngôi chính mà trên cùng với hào Năm là hào có đức giữa. Nhún nhuận với hào Năm là “cùng trở lên”. Hào Tư hào Năm là ngôi vua tôi, đường thời tan mà liền lại nghĩa là thông nhau. Cùng hào Năm mà theo đức giữa. Đương thời tan mà giữ được đức giữa thì không đến nỗi lìa tan, cho nên có thể hanh thông.
LỜI KINH 
Dịch âm. – Vương cách hữu miếu, cương nãi tại trung dã.
Dịch nghĩa. – vua đến có miếu, vua bèn ở trong vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Đi. - Nghĩa câu” Vua đến cô miếu” ở quẻ Tụ rõ rồi.Trong thì thiên hạ lìa tan, kẻ làm vua thu hợp lòng người, đến chưng có miếu, thế là ở giữa. Ở giữa nghĩa là tìm được chỗ giữa, tức là thu được lòng họ vậy. Giữa là tượng trái tim, cứng lại mà chẳng cùng, mềm được ngôi mà cùng trở lên, nghĩa của tài quẻ đều chủ về chô giữa. Cái đạo cứu cuộc tản của kẻ làm vua, cố ở được đạo giữa mà thôi. Thày Mạnh nói rằng:”Được dân có cách, được lòng họ là được dân rồi”. Cúng trời dựng miếu là việc lòng dân theo về. Cái cách làm cho lòng dân theo về khồng gì lớn hơn thế, cho nên nói rằng “đến chưng có miếu” cái đạo cứu vớt cuộc tan, cùng cực ở chỗ đó.
LỜI KINH
Dịch âm. – lợi thiệp đại xuyên, thừa mộc hữu công dã. Dịch nghĩa. – lợi sang sông lớn, cưỡi cây có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Cách chữa cuộc tan, nên vượt qua chỗ hiểm nạn, mà quẻ này có Tượng cưỡi cây sang sông. Trên Tốn là cây, dưới Khảm là sông lớn, tức là lợi về việc sang khỏi chỗ hiểm để vượt qua cuộc tan. Cây ở trên nước là Tượng cưỡi cây, cưỡi cây là để sang sông. Sang được thì có công vượt qua cuộc tan, quả có nghĩa đó, có Tượng đó.
LỜI KINH 
Dịch âm. – Tượng viết: Phong hành thủy thượng, Hoán, tiên vương dĩ hưởng vu đế, lập miếu.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Gió đi trên nước là quẻ Hoán. Đấng tiên vương coi đó mà cúng chưng trời, dựng miếu.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. Gió đi trên nước, có tượng tan lìa, đâng tiên vương coi tượng đó mà cứu sự tan lìa của thiên hạ, đến chưng cúng trời dựng miếu. Thu họp lòng người không gì bằng nhà tôn miếu; sự báo đáp trong việc cúng tế, do ở trong lòng mà ra; cho nên cúng trời, dựng miếu là việc mà lòng người theo về. Cái đạo buộc lòng người, họp sự lia tan không gì lớn hơn thế.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Hợp Hóa Mệnh: Thiên can hoặc địa chi hợp hóa thành

Xét Thiên Khắc - Địa Xung (TKĐX) hay Thiên hợp địa hợp hay ...

Tương hình gồm nhị hình hoặc tam hình Mệnh

Tam Hội nguyên Mệnh

Tam Hợp theo Nguyên mệnh

Ngọ hợp Mùi - Mệnh

Tị hợp Thân - Mệnh

Thìn hợp Dậu - Mệnh

Mão hợp Tuất - Mệnh

Dần hợp Hợi - Mệnh

Tý hợp Sửu - Mệnh

Nguyên mệnh có Sửu Mùi xung đơn (1 Sửu xung với 1 Mùi)

Thìn Tuất Xung - Nguyên Mệnh

Nguyên mệnh có Tị Hợi xung đơn (1 Tị xung với 1 Hợi)

Nguyên mệnh có Dần Thân xung đơn (1 Dần xung với 1 Thân)

Nguyên mệnh có Mão Dậu xung đơn (1 Mão xung với 1 Dậu)

Tý - Ngọ Xung - Mệnh

Thiên Can Hợp theo nguyên mệnh

Phân loại Quản trị Lá số: Gồm nhiều nội dung

1- Nhắc khách bổ xung thông tin để dự đoán

2- Các cấp độ lưu trữ Lá số

Những pháp đối là (Xem: Tooltip):
– Năm pháp đối của loài vô tình ở ngoại cảnh: Trời đối với đất, mặt nhật đối với mặt nguyệt, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối với lửa. Ấy là năm pháp đối.
Diễn bày về pháp tướng thì có mười hai đối: Tiếng nói đối với pháp, có đối với không, có sắc chất đối không sắc chất, có tướng đối với không tướng, hữu lậu đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tịnh, trong đối với đục, phàm đối với thánh, tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ. Ấy là mười hai pháp đối.
Tánh mình (tự tánh) khi khởi dụng sanh ra mười chín pháp đối: Dài đối với ngắn, tà đối với chánh, si đối với huệ, ngu đối với trí, loạn đối với định, từ đối với độc, giới đối với phi, ngay đối với vạy, thật đối với dối, hiểm đối với bình, phiền não đối với Bồ-đề, thường đối với không thường, bi đối với hại, vui đối với giận, bố thí đối với bỏn sẻn, tới đối với lui, sanh đối với diệt, pháp thân đối với sắc thân, hóa thân đối với báo thân. Ấy là mười chín pháp đối.
Ba mươi sáu pháp đối ấy, nếu hiểu mà dùng, thì nói suốt tất cả kinh pháp, ra vào đều lìa cả hai bên. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3 
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - ­Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)

+ Các Nguyên lý gốc: 
I. Nguyên Lý Cơ Bản I. Có một Nguyên Lý Bất Biến Vô Biên; một Thực Tại Tuyệt Đối đi trước tất cả Hiện Hữu biểu lộ theo điều kiện. Nó vượt ngoài phạm vi và tầm với của bất kỳ tư duy hay sự diễn đạt nào của con người.
Vũ Trụ biểu hiện được chứa đựng bên trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một biểu tượng có hạn định của Thực Tại Tuyệt Đối đó.
Trong toàn thể Vũ Trụ được biểu hiện này, có ba phương diện phải được nhận thức (3)
1. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 1, vô ngã và không biểu lộ, có trước của cái được Biểu Hiện.
2. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 2, Tinh thần-Vật chất, Sự sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 3, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Phổ quát..
+ Kiến thức về vũ trụ gốc Tam phân – năng lượng gốc vũ trụ là chính. Từ năng lượng này, vô số Thái dương hệ hình thành, mỗi thái dương hệ có một sự sống biểu lộ, chúng ta thường gọi là Đấng Thái Dương Thượng Đế . (QU1. Ma Kết)

+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3 
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - ­Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)

+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3 
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - ­Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)

+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3 
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - ­Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)

+ Lửa trong Đại thiên địa: Lửa có bản chất chính yếu là tam phân, nhưng khi biểu lộ, nó có thể được xem  như biểu hiện ngũ phân, và có thể được định nghĩa như sau:
Lửa do ma sát, hay lửa sinh động nội tại. Các lửa này làm sinh động và đem sinh khí cho Thái Dương Hệ biểu lộ bên ngoài. Chúng là toàn thể hỏa xà của Thượng Đế khi hoạt động đầy đủ trong Thái Dương Hệ.
Lửa Thái Dương hay lửa trí tuệ vũ trụ. Đây là phần của cõi trí vũ trụ được dùng làm sinh động thể trí của Thượng Đế. Lửa này có thể được xem như là toàn thể tia lửa của trí tuệ (mind), các lửa của các hạ trí (mental bodies) và nguyên khí linh hoạt của các đơn vị tiến hóa của nhân loại trong ba cõi thấp.
Lửa điện, hay Ngọn Lửa Thiêng của Thượng Đế. Ngọn lửa này là dấu hiệu phân biệt của Thượng Đế (Logos) của chúng ta và chính nó giúp phân biệt Ngài với các vị Thượng Đế khác, đó là đặc điểm nổi bật của Ngài và là dấu hiệu vị trí của Ngài trong cơ tiến hóa của vũ trụ. (LVLCK, 37–38)

+ Lửa vũ trụ là nền tảng của cuộc tiến hóa của chúng ta. Lửa của cõi trí kiểm soát và ngự trị nội tại và có khả năng tinh luyện cùng những hiệu quả thanh lọc để tiến hóa. Khi hợp nhất Nội hỏa cõi trí và lửa các hạ thể với lửa thiêng Tam nguyên Tinh thần => Một vị Chân sư, do nhờ sự hợp tác của Hỏa đức Tinh quân (Các hiện tượng tâm lý địa cầu đều ở dưới quyền Ngài kiểm soát) và các vị thần cao cấp ở cõi trí, họ làm việc với vị Chúa tể của cõi này, và vị Đại Thiên vương, Chúa tể của cảnh giới thứ hai. Tương tự: Nội hỏa ở tâm địa cầu sẽ hòa hợp với lửa thiêng của mặt trời ở cuối đại chu kỳ này => Thái dương hệ sẽ đạt mức thánh hóa (TTHM, Thư: 27/8/20))

+ Định đề (Postulate): Quyển “Luận về Huyền linh thuật” được căn cứ vào 4 định đề căn bản mà kẻ nghiên cứu phải chấp nhận vì nó cung cấp một giả thuyết đáng nghiên cứu và thử nghiệm, thứ tự quan trọng là:
1. Trong vũ trụ biểu lộ của chúng ta có tồn tại sự biểu hiện của một Năng lượng hay Sự sống vốn là nguyên nhân chịu trách nhiệm cho vô số hình hài sắc tướng và một huyền giai rộng lớn các thực thể có khả năng cảm thụ tạo thành toàn thể những gì hiện tồn. Định đề này thường được gọi là Vật–Hoạt–Thuyết, mặc dù thuật ngữ này chỉ làm cho rối trí.
2. Định đề này xuất phát từ định đề thứ nhất và được phát biểu như sau: Sự sống Duy Nhất, biểu lộ qua vật chất, tạo ra một yếu tố thứ ba đó là ý thức. Ý thức này, vốn dĩ là kết quả của sự hợp nhất của hai cực tinh thần và vật chất, là linh hồn của vạn vật; nó thấm nhuần mọi chất liệu hay năng lượng biểu lộ ra bên ngoài; nó nằm dưới mọi hình hài, dù cho đó là hình hài của đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là một nguyên tử, hay là hình hài của con người, một hành tinh hay một Thượng Đế. Đây là Tự Định Thuyết.
3. Được phát biểu như sau: Mục tiêu mà theo đó sự sống chiếm ngự hình hài và mục tiêu của thực thể biểu lộ là việc khai mở ý thức hay là sự thiên khải của linh hồn. Định đề này có thể được gọi là Thuyết Tiến Hóa Ánh sáng.
4. Mọi sự sống đều biểu hiện theo chu kỳ. Đây là Thuyết Tái Sinh hay Thuyết Luân Hồi, minh chứng của định luật chu kỳ.  Đó là các đại chân lý ẩn tàng tạo thành nền tảng của Minh triết Muôn đời - Sự hiện tồn của sự sống và việc phát triển của ý thức qua việc chiếm hữu hình hài theo chu kỳ.(LVHLT, 8–10)

+ Nguồn gốc vũ trụ - Các đấng vũ trụ - Thượng đế biểu hiện:
Nhưng chúng ta là ai, xuất phát từ đâu? Câu trả lời của Minh Triết Thiêng Liêng là tất cả chúng ta đều xuất phát từ Sự Sống Duy Nhất Đại đồng (One Universal Life). Chúng ta là một phần bất khả phân của Sự Sống Duy Nhất đó, là Tia lửa của Ngọn Lửa Thiêng hay điểm Linh Quang, Chân thần, chảy ra xuyên qua các Đấng Vũ trụ (Universla Beings), xuyên qua các Đấng nhỏ hơn như các chòm sao, đến hành tinh của chúng ta, cuối cùng đến con người chúng ta trên trái đất này.
Các đấng Vĩ đại này, mà cơ thể của các Ngài là vũ trụ hay các chòm sao, phân thành 7 dạng biểu lộ, thể hiện 7 lọai năng lượng hay là 7 Cung (7 Rays).
Khi Thượng đế khai sinh một vũ trụ mới, từ Ngài phóng ra bảy phát xạ (emanations). Cổ thư hay dùng từ “thở ra” (breathe out) để mô tả tiến trình này. Sự Sống Duy Nhất thở ra hay phân hóa thành bảy luồng năng lượng được biết đến như là Bảy Cung.
Bảy Cung cung ứng toàn bộ môi trường thể hiện cho Thượng đế Biểu hiện, và bản thân chúng là các phẩm tính như Bác Ái, Sùng Tín, Mỹ Lệ. Mỗi cung có cung bậc, âm thanh, màu sắc, và rung động riêng của nó. Ta có thể thấy chúng trong màu sắc của cầu vồng, bảy note của âm giai. Ta còn thấy các ví dụ khác về số bảy như 7 ngày trong tuần, 7 tội lỗi chết người, Bảy Kỳ quan của thế giới, 7 Luân xa hay 7 tuyến …(Nguồn: Cấu tạo con người 1)

+ Các Đấng Thiêng Liêng:
– Ah–hi tức là Thiên Trí (Universal mind) – Ah–hi, các Đấng Kiến Tạo vĩ đại (greater Builders), các Ngài là các Tinh Quân thi hành ý chí của Thái Dương Thượng Đế, các Ngài sử dụng phần lớn hai cõi để giao tiếp với nhau và với các đoàn thể của các Ngài: Một là cõi thứ hai, nơi mà các Ngài giao tiếp bằng phương tiện tinh thần mà hiện nay con người không thể hiểu được. Hai là cõi trí, nơi mà các Ngài giao tiếp với tất cả các sự sống thứ yếu bằng loại viễn cảm thuộc thể trí. (LVLCK, 815)
– Ah–hi: các Đấng Thiêng liêng (Celestial Beings). (GLBN I, III)

I- Cung "Nguyên Thuỷ/ Cung Gốc Vũ Trụ" là Cung và là phân thân trực tiếp của Tứ Linh Diệu. (Giáo Lý Bí Nhiệm I, 115, 116)

+ Tứ Linh Diệu Của Đại Vũ Trụ là: 

1. Nhất Nguyên: Cha - Mahadeva - Thượng Đế Ngôi Một - Ý chí Tinh thần

2. Nhị nguyên: Con - Vishnu - Thượng Đế Ngôi Hai - Bác ái Minh triết

3. Tam Nguyên: Mẹ - Brahma - Thượng Đế Ngôi Ba - Trí tuệ Hoạt động

* Tứ Linh diệu: Biểu lộ hợp nhất của cả ba - Đại vũ trụ (TCF/ LVLVT, 118)

+ Tứ Linh Diệu Của Đại Thiên Địa là: Nhất Nguyên (Unity)

a/ Cha …  Mahadeva … Thượng Đế Ngôi Một  … Ý chí–Tinh thần  (1st Logos) Nhị Nguyên (Duality)

b/ Con …  Vishnu … …   Thượng Đế Ngôi Hai …..  Bác ái–Minh triết  (2nd Logos) Tam nguyên (Trinity)

c/ Mẹ  …  Brahma  …   Thượng Đế Ngôi Ba  …….  Hoạt động–Trí tuệ    (3rd Logos) Tứ Linh Diệu

* Biểu lộ kết hợp (united manifestation) của bộ ba (the three) – Đại Thiên Địa (Macrocosm) (TCF/ LVLCK, 41)

+ Tứ Linh Diệu: Đến lượt mình, con người trở thành một “Tứ Linh Diệu” – Tinh thần và bộ ba biểu lộ (spirit and the three of manifestation). (LVHLT, 75)

+ Tứ linh diệu (Tetraktys): Bộ Ba, được chiếu rọi bởi ánh sáng của Đấng Duy nhất là ba Ngôi của Tam hạ thể (lower Triad), tức thể hạ trí, thể cảm dục và thể xác. Ba thể này cùng với Đấng Soi sáng (Illuminator) tạo thành “Bốn” được nói đến và như thế hiển nhiên trở thành Tứ linh diệu của tiểu thiên địa. (LVLCK, 1000)

II- Tứ nguyên biểu lộ và 7 Đấng Kiến Tạo xuất phát từ Mẹ . (GLBN, 402)

a/ 7 Đấng Kiến Tạo là Trí Tinh Quân, các con sinh ra từ Trí của Brahma, Ngôi Ba. (GLBN III, 540)

b/ Các Ngài biểu lộ để phát triển Ngôi Hai. (GLBN I, 108)

c/ Phương pháp của các Ngài là biểu lộ ra ngoại cảnh.

3. Năng lượng được khơi hoạt lại phóng vào không gian.

a/ Chúng là sự tổng hợp còn ẩn giấu (GLBN I, 362)

b/ Chúng là toàn thể mọi biểu lộ (GLBN I, 470)

c/ Chúng là tiền vũ trụ (GLBN I, 152, 470)

+ Tứ nguyên bản nguyên vũ trụ|Tam nguyên bản nguyên - Ba ngôi I + II + III hợp thành

* Nguồi cội của vạn sự biểu hiện vũ trụ đều tương ứng các ngôi và sự phân thân của các ngài

Xem giải thích về Tam giác Tam nguyên: Ba ngôi sinh ra vạn Ba cung và bảy cung

+ Kinh dịch nói: Có Trời Đất, rồi có vạn vật; Có vạn vật rồi có Nam Nữ; Có Nam Nữ rồi có Vợ Chồng; Có vợ chồng rồi có Cha Con; Có cha con rồi có Vua Tôi; Có vua tôi rồi có Trên Dưới => Sinh ra Lễ nghi.

- Ngôi Hai (xuất phát từ Ngôi 1): Biểu lộ ra 2 trạng thái là Sự sống và Sắc tướngLưỡng nguyên nguyên thủy ===> Tạo thành 2 cực của Thiên Nhiên, mạng lưới vũ trụ được tạo ra giữa 2 cực đó:
Sự sống – Sắc Tướng,
Tinh thần – Vật chất,
Dương – Âm,
Chủ động – Thụ động,
Phụ – Mẫu của các thế giới.

Tổng quan: Thiên Sơn Độn
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Độn-Quân tử phòng thân, thuận theo thời cuộc, Lùi cũng là tiến: Nhượng bộ là thông minh. Nên an phận thu thường, không nên tham gia vào các việc cho dù có lợi trước mắt mà cần ẩn mình đi. Các việc nhỏ, khi tiến hành cũng cần hết sức thận trọng, không chủ quan.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: những điều kiện thuận lợi ngày càng giảm dần,nên tránh khỏi đầu việc mới, giữ việc cũ thì hơn.
● Hy vọng: có trở ngại, khó thực hiện.
● Tài lộc: chưa có, có sự hao tổn.
● Sự nghiệp: chưa gặp thời.
● Nhậm chức: khó như ý, vì có người ngăn trở.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: đơn phương, một phía, không thành.
● Hôn nhân: khó thành lương duyên.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: bất lợi.
● Pháp lý: thua kiện, cố dàn hòa.
● Sự việc: sơm giải quyết thì tốt.
● Bệnh tật: nguy, người già khó qua.
● Thi cử: không đạt.
● Mất của: khó tìm.
● Người ra đi: đi xa nguy hiểm.
+ Theo Kinh Dịch word (Tr473):
.Quẻ: Thiên Sơn Độn - Kiền trên ; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Quẻ Độn, Tự quái nói rằng; Hằng nghĩa là lâu, các vật không thể ở lâu nơi chốn của nó, cho nên tiếp đến quẻ Độn [1-Độn nghĩa là trốn, là tránh đi]. Độn tức là lui. Ôi, lâu thì phải đi, đó là cái lẽ “chờ nhau”. Vì vậy quẻ Độn mới nối quẻ Hằng. Độn là lui, là tránh, nghĩa là bỏ chỗ này đi chỗ kia. Nó là quẻ dưới trời có núi, trời là vật ở trên, tính Dương tiến lên; núi là vật cao vót, hình tuy cao vót mà thể thì là vật đậu, có Tượng lấn lên, mà bị đậu lại không tiến lên, trời bèn tiến lên mà bỏ nó. Dưới lấn lên mà trên bỏ đi, ấy là xa nhau, cho nên là nghĩa lánh đi. Hai hào Âm sinh ở phía dưới, là khí Âm đương lớn sắp thịnh, khí Dương phải tiêu mà lui, kẻ tiểu nhân thịnh dần, đấng quân tử lui mà tránh nó, cho nên là trốn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Độn hanh, tiểu lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ độn hanh, nhỏ lợi trinh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Độn là lúc Âm lớn Dương tiêu, đấng quân tử trốn nấp. Đấng quân tử lui nấp, là để làm cho đạo của mình thẳng ra. Đạo không bị khuất thì là hanh, cho nên quẻ Độn có nghĩa hanh. Trong việc, cũng có khi vì sự trốn lánh mà hanh thông, dẫu là lúc đạo kẻ tiểu nhân đương lớn, đấng quân tử biết cơ lui tránh vẫn phải, nhưng mà việc đời có lúc không giống nhau, phải tùy theo thời thế, không cần phải ắt như nhau. Âm mềm đương lớn mà nó chưa đến thịnh lắm, đấng quân tử cũng có cách từ từ ra sức, tuy không thể trinh lớn mà còn lợi cho sự trinh nhỏ vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Độn là lui tránh, nó là quẻ hai khí Âm lớn dần, khí Dương nên lui tránh, cho nên là trốn, tức là quẻ thuộc về tháng sáu. Dương tuy nên lánh, nhưng hào Chín Năm ở vào chính vị, phía dưới có hào Sáu Hai ứng với, giống như còn có thể làm việc. Có điều hai khí Âm lớn dần ở dưới, thì thế của mình không thể không lánh, cho nên lời Chiêm của nó là: Đấng quân tử lánh được thì thân mình dù lui, đạo mình vẫn hanh, kẻ tiểu nhân thì lợi về sự giữ đường chính đính, không thể lấy cớ lớn dần mà lấn bách khí Dương. Chữ “nhỏ” là chỉ về bọn Âm nhu tiểu nhân. Lời Chiêm quẻ này với hai hào Đầu và Hai của quẻ Bĩ giống nhau.
Lời bàn của Tiên Nho. - Có người hỏi rằng: chữ ⼩利貞 (tiểu lợi trinh) trong quẻ Độn, sách Bản nghĩa bảo là kẻ tiểu nhân, xét trong Kinh Dịch, chữ ⼩(tiểu) chưa có khi nào dùng làm kẻ tiểu nhân, ví như ⼩ 利 有 攸 往 (tiểu lợi hữu du vãng) ⼩ 貞 吉 (tiểu trinh cát) đều nghĩa là nhỏ, như chữ ⼩ (tiểu) trong tiếng ⼤⼩ (đại tiểu). Chưa rõ nghĩa ấy ra sao? Chu Hy đáp rằng: Lời kinh vẫn không có lệ đó [2-Lệ dùng chữ ⼩ (tiểu) chỉ kẻ tiểu nhân] nhưng lấy Thoán truyện mà suy, thì là chỉ về kẻ tiểu nhân, nay hãy theo lời kinh mà giữ nghĩa truyện.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Độn hanh, Độn nhi hanh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Độn hanh, là lánh đi mà hanh vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong lúc đạo kẻ tiểu nhân, đương lớn lên, đấng
quân tử lui tránh, tức là đạo mình được hanh, đấng quân tử tránh nấp, là để cho Đạo thẳng duỗi. Đây là nói về cách ở thì Độn, từ chữ “cứng đương ngôi mà ứng” trở xuống, thì bàn về lẽ “thì và tài quẻ còn có thể làm việc”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cương đương vị nhi ứng, dữ thì hành dã.
Dịch nghĩa. - Cứng đương ngôi mà ứng, cũng thì đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dù là thì trốn, đấng quân tử ở lúc đó cũng chưa có nghĩa ắt phải trốn, hào Năm lấy đức Dương cứng, ở ngôi trung chính, phía dưới lại có hào Sáu Hai lấy đức trung chính ứng nhau với nó, dẫu lúc khí Âm Dương lớn, như tài quẻ này, cũng còn có thể tùy thời nghe ngóng, nếu mà có thể ra sức, thì phải đem lòng chí thành phủ trì cho đạo, không nhất định là cứ phải lánh nấp không làm, cho nên nói là “cùng thì đi vậy”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng một hào Chín Năm thích nghĩa chữ “hanh”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tiểu lợi trinh, tẩm nhi trưởng dã.
Dịch nghĩa. - Nhỏ lợi trinh, dần dần mà lớn vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Từ đây trở xuống, lấy hai hào Âm thích chữ “tiểu lợi trinh”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Độn chi thì nghĩa đại hỷ tai!
Dịch nghĩa. - Thì nghĩa của quẻ Độn lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong lúc khí Âm đương lớn, không thể trinh lớn mà còn lợi về trinh nhỏ, là vì khí Âm 1ớn lên, ắt phải dần dà chưa thể thịnh ngay, đấng quân tử còn có thể làm chính đạo mình bằng cách nho nhỏ. Gọi là “nhỏ lợi trinh” tức là phù trì cho nó, đừng để nó phải đến mất. Quẻ Độn là lúc đầu của khí Âm, đấng quân tử biết cơ từ khi nhỏ nhặt, cho nên phải răn cho sâu, mà ý của thánh nhân, thì chưa muốn cho vội thôi, cho nên mới có những lời dạy bảo như hai câu “cùng thì đi” và “nhỏ lợi trinh”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Khí Âm đương lớn dần, ở vào cảnh đó cùng khó, cho nên thì nghĩa của nó càng lớn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thiên hạ hữu sơn, Độn; quân tử dĩ viễn tiểu nhân, bất ác nhi nghiêm.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới trời có núi, là quẻ Độn, đấng quân tử coi đó mà xa kẻ tiểu nhân, không ác mà nghiêm.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dưới trời có núi, núi ở dưới nổi lên mà đậu, trời ở trên tiến lên mà lánh, ấy là cái tượng trốn lánh, đấng quân tử coi tượng đó mà lánh xa kẻ tiểu nhân. Cách xa kẻ tiểu nhân, nếu dùng tướng gắt, vẻ dữ, chỉ để làm cho nó oán, chỉ cần trang trọng uy nghiêm, khiến cho nó bỉết kinh sợ, tự nhiên phải xa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thể trời không cùng, núi cao có hạn, là Tượng “lánh”. Nghiêm là sự thường trong việc tự nhủ của đấng quân tử, mà kẻ tiểu nhân không dám gần.

Tổng quan: Thủy Địa Tỷ
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Vận chuyển tốt, có quý nhân: Thân cận, thân thiết được giúp đỡ. gần gũi tiếp xúc với người mình quan tâm thì tốt và xây dựng tình thân dài lâu. Nên giúp người khó khăn. Kị dương dương đắc ý > hậu quả khôn cùng. Nếu có địa vị xã hội, cần chính trực, luôn xét mình thì không sai lầm.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: Thuận lợi
● Hy vọng: thành đạt như ý
● Tài lộc: hanh thông, nên bàn bạc với người thân nhất (vợ)
● Sự nghiệp: dựa vào người khác thành công. Tự ý mình hỏng việc
● Nhậm chức: Nhờ bề trên có địa vị tốt
● Nghề nghiệp: Đổi nghề sẽ tốt hơn
● Tình yêu: quan hệ tới lúc cầu hôn
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên, bỏ qua dư luận
● Đợi người: đến sớm
● Đi xa: đi chơi thì tốt
● Pháp lý:nên hòa giải sẽ tốt
● Bệnh tật: Thuyên giảm
● Thi cử: kết quả tốt
● Mất của: không dễ tìm
● Người ra đi: đến nhà bạn thân.
Quẻ: Thủy Địa Tỷ - Khảm trên; Khôn dưới
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tỵ, Tự quái nói rằng: Nhiều người ắt phải liền nhau, cho nên tiếp đến quẻ Tỵ, Tỵ là gần vào, giúp vào, loài người ắt phải gần nhau giúp nhau, rồi sau mới yên, cho nên đã có nhiều người, thì phải liền nhau, liền nhau là để đóng quân. Quẻ này trên Khảm, dưới Khôn, nói về hai thể, thì là nước ở trên đất; các vật liền khít với nhau không có ngăn cách, không gì bằng nước ở trên đất, cho nên mới là quẻ Tỵ. Lại nữa, các hào đều thuộc về Âm, riêng có hào Năm là Dương cương, ở ngôi vua, chúng đều thân phụ, mà kẻ trên cũng thân với người dưới, cho nên mới là quẻ Tỵ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tỵ cát, nguyên phệ nguyên, vĩnh, trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung.
Dịch nghĩa. - Liền nhau tốt, truy nguyên việc bói, đầu cả, lâu dài, chính bền, không lỗi! Chẳng yên mới lại, sau trễ trượng phu, hung!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Liền nhau là tốt, người ta gần liền với nhau, tức là đạo tốt. Có người gần liền với nhau, thì phải có cách để mà gần liền với nhau. Nếu không phải cách, thì có hối lận, cho nên cần phải suy nguyên bói tính, kẻ nào có thể gần được thì gần. Phệ là bói tính đắn đo, không phải là dùng cỏ thi mai rùa. Cái người mình gần nếu được có những đức tính đầu cả, lâu dài, chính bền, thì không có lỗi. Đầu cả có đạo quân trưởng, dài lâu là có thể thường lâu, trinh là chính đạo. Người trên gần với kẻ dưới, ắt có ba đức tính ấy: kẻ dưới gần với người trên, cũng phải có ba đức tính ấy thì không có lỗi. Người ta đến khi không thể giữ sự yên ổn của mình, mới đến cầu thân, được kẻ gần liền thì mới giữ được yên ổn. Trong lúc không yên, chỉ nên kíp kíp để tìm người gần liền, nếu đứng một mình, và tự cậy mình, chỉ cầu thân không nóng, mà chậm lại sau, thì tuy là đấng trượng phu cũng hung, huông chi kẻ nhu nhược. Những thứ sinh trong trời đất, không thứ gì không liền nhau mà có thể tự tồn, tuy rất cương cường, chưa có kẻ nào đứng một mình được. Đạo quẻ Tỵ do ở hai chí liền nhau, nếu không liền nhau, thì là quẻ Khuê. Ông vua vỗ về kẻ dưới; kẻ dưới thân bám người trên; họ hàng, bè bạn, làng xóm đều vậy. Cho nên, trong khi kẻ trên người dưới hợp chí để theo nhau, nếu không có ý tìm nhau, thì phải lìa nhau mà hung. Đại để tình người tìm nhau thì hợp, găng nhau thì lìa, găng nhau nghĩa là kẻ nọ chờ kẻ kia, chẳng ai chịu làm trước. Người ta thân nhau đành vẫn có cách, nhưng mà cái chí muốn gần liền nhau thì không thể hoãn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tỵ là gần nhau liền nhau, hào Chín Năm lấy tư cách Dương cương ở giữa quẻ trên mà được chỗ chính, năm hào Ảm ở trên và dưới đều gần lại mà theo đó là cái tượng một người vỗ về muôn nước, bốn bề trông lên một người, cho nên kẻ bói được quẻ này thì sẽ được người thân bám vào mình, nhưng phải bói lại để tự xét định, hễ mà có đức cả lành, dài lâu, chính bền, thì mới có thể để cho người ta theo về mà không có lỗi. Còn kẻ chưa gần mà có sự không yên, cũng đương sắp sửa theo về, nếu lại chầy chậm mà đến sau, thì kẻ này giao kết đã chặt, kẻ kia đi lại đã muộn, mà được sự hung. Những kẻ muốn gần với người, cũng nên lấy đó mà coi ngược lại.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tỵ cát dã; tỵ phụ dã, hạ thuận tòng dã; nguyên phệ nguyên vĩnh trinh, vô cữu, dĩ cương trung dã; bất ninh phương lai, thượng hạ ứng dã; hậu phu hung, kỳ đạo cùng dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tỵ là tốt, tỵ là giáp lại, kẻ dưới thuận theo vậy; truy nguyên việc bói, đầu cả, lâu dài, chính bền, không lỗi, vì cứng giữa vậy, không yên mới lại, trên dưới ứng nhau vậy: sau trượng phu, hung, vì đạo cùng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tỵ là tốt, nghĩa là gần nhau thì tốt, các vật gần liền với nhau tức là đạo tốt. Tỵ là giáp lại, tức là thích nghĩa chữ tỵ, tỵ là gần nhau, giáp lại với nhau. Kẻ dưới thuận theo, là giải quẻ này sở dĩ gọi là quẻ Tỵ. Hào Năm lấy đức Dương cương ở ngôi tôn, các hào dưới thuận theo mà gần giáp với, vì vậy mới là quẻ Tỵ. Suy nguyên cái đạo bói quyết, hễ được đầu cả, lâu dài, chính bền thì sau mới không có lỗi. Gọi là đầu cả, lâu dài, chính bền, tức như hào Năm. Hào ấy lấy đức Dương cương, ở chỗ trung chính, tức là kẻ hết sự khôn khéo trong cách liền nhau. Là Dương cương, ở ngôi tôn, là đức ông vua, tức là đầu cả; ở giữa được chỗ chính đính, tức là có thể dài lâu, chính bền. Lời quẻ vốn nói rộng về cách liền lại với nhau, lời Thoán nói nguyên, vĩnh, trinh là vì hào Chín Năm lấy đức Dương cương ở chỗ trung chính. Người ta sinh ra, không thể giữ được yên ổn, mới đến mà cầu để bám vào; kẻ dân không thể tự giữ được mình, cho nên phải nâng đội ông vua để cầu sự yên; ông vua không thể đứng một mình, cho nên phải giữ dân để làm cho yên. Không yên mà lại gần liền với nhau, tức là trên dưới ứng nhau. Nói về thánh nhân là bậc chí công, thì vẫn chí thành cầu cho thiên hạ liền lại để yên dân; nói về hậu vương là người có lòng riêng tây, thì không cầu kẻ dân phụ vào với mình, thì sự nguy vong sẽ đến nơi. Cho nên chí của kẻ trên người dưới, ắt phải ứng nhau; nói về quẻ, thì các hào Âm ở trên và dưới liền lại với hào Năm, hào Năm liền lại với dân chúng, tức trên dưới ứng nhau. Đông người phải liền lại với nhau thì mới được thoả sự sống. Trong khoảng trời đất, chưa có thứ gì không gần liền nhau mà được thoả thuê, nếu chí theo nhau không nóng mà trễ lại sau, thì không thể thành liền nhau, dù là trượng phu cũng hung, ấy là không có chỗ nào gần liền, nên phải khốn khuất rồi đến hung cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ba chữ “tỵ cát dã” là chữ thừa. Đoạn đầu dùng thể quẻ thích nghĩa tên quẻ; các đoạn dưới cũng lấy thể quẻ để thích lời quẻ; cương trung chỉ về hào Năm, trên dưới chỉ về năm hào Âm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Địa thượng hữu thuỷ, Tỵ tiền vương dĩ kiến vạn quốc, thân chư hầu.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên đất có nước, là quê Tỵ, đấng Tiên vương coi đó mà dựng muôn nước, thân chư hầu.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Loài vật gần liền với nhau mà không ngăn cách, không gì bằng nước ở trên đất, cho nên mới là quẻ Tỵ, đấng Tiên vương coi tượng liền nhau đó để dựng muôn nước, gần gũi với chư hầu. Dựng muôn nước là để liền nhau với dân; gần gũi vỗ về chư hầu là để liền nhau với thiên hạ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trên đất có nước, nước liền với đất, không để có chỗ khe cách; dựng muôn nước gần chư hầu, cũng là Tiên vương làm cho liền với thiên hạ mà không có chỗ khe cách, ý lời Thoán lấy về nghĩa người đến liền lại với nhau, đây lấy về nghĩa mình đi liền lại với người.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thủy Thiên Nhu
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Nghỉ ngơi dưỡng sức, tự nhiên thành công: Nắm bắt sự việc chưa đủ rõ, Tiền đồ tươi sáng nhưng trước mắt có nguy hiểm, cần kiên định chờ thời cơ, tiến lên tuần tự sẽ thành công. Trung thực, thành thật và kiên nhẫn. Không chờ đợi sự giúp đỡ của người khác. Cần chờ thời cơ không nóng vội.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: mọi việc thuận lợi, sẽ như ý
● Hy vọng: không nóng vội sẽ thành công
● Tài lộc: an tâm chờ đợi sẽ tới
● Sự nghiệp: chưa có thời cơ, phải đợi chờ
● Nhậm chức: chờ đợi sẽ có địa vị tốt
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề
● Tình yêu: tiến triển nhanh, bình tĩnh tránh đổ vỡ
● Hôn nhân: chờ đợi sẽ thành
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: chờ lúc thuận lợi
● Pháp lý: nhẫn lại sẽ thắng kiện
● Bệnh tật: sẽ thuyên giảm sau một thời gian
● Thi cử: kết quả tốt
● Mất của: không dễ tìm
● Người ra đi: chưa thể về ngay
Quẻ: Thủy Thiên Nhu - Khảm trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Quẻ Nhu, Tự quái nói rằng: Mông tức là đội, là vật còn non, vật non thì tất phải nuôi, cho nên tiếp đến quẻ Nhu. Nhu tức là việc ăn uống. Vật còn non nớt, phải đợi nuôi nấng mới lớn mà cái cần dùng trong sự nuôi nấng các vật thì là sự ăn uống, cho nên nói rằng quẻ Nhu là việc ăn uống. Mây [1-Chỉ về Khảm] bay lên trời [2-Chỉ về Kiền] có tượng hun bốc nhuần ướt, ăn uống là để nhuần ích cho các loài vật, cho nên quẻ Nhu - là việc ăn uống - sở dĩ nối dưới quẻ Mông. Đại ý quẻ này có nghĩa chờ đợi. Cái tính Kiền mạnh nhất định phải tiến, vậy mà nó lại ở dưới quẻ Khảm là tượng chỗ hiểm, chỗ hiểm làm ngăn trở nó, cho nên cần phải chờ đợi rồi sau mới tiến.
LỜI KINH
Dịch âm. - Nhu, hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. - Quẻ Nhu, có đức tin, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt! Lợi sang sông lớn.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Nhu là chờ đợi. Nói về hai thể, thì Kiền cứng mạnh cần tiến lên, mà gặp chỗ hiểm, chưa thể tiến được, cho nên là nghĩa chờ đợi. Nói về tài quẻ, thì hào Năm ở ngôi vua, là chủ sự chờ đợi, có đức cứng mạnh, trung chính, mà sự thành tín đầy đặc bên trong, tức là bên trong đầy đặc có đức tín; có đức tín thì sáng láng mà có thể hanh thông, được trinh chính và tốt. Dùng những cái đó mà chờ đợi, thì gì mà không qua: dù hiểm cũng không khó, cho nên mới lợi về việc sang sông lớn. Đại phàm trinh cát, có khi là đã chính lại tốt, có khi là có chính mới tốt, cần phải phân biệt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nhu nghĩa là đợi. Quẻ Kiền gặp quẻ Khảm, Kiền mạnh Khảm hiểm, sức mạnh gặp chỗ hiểm mà không vội tiến cho mắc vào chỗ hiểm đó, ấy là cái nghĩa chờ đợi. Phu là đức tin ở trong. Quẻ này hào Chín Năm là thể Khảm bên trong đã đầy đặc, lại có những tính Dương cương, trung chính mà ở ngôi tôn, tức là cái tượng “có đức tin được ngôi chính”. Nước Khảm ở phía trước, Kiền mạnh kề tới, ấy là cái tượng “sắp sang sông lớn mà chưa tiến lên một cách khinh thường”. Cho nên, kẻ xem, nếu là có sự chờ đợi mà tự mình sẵn có đức tin thì sẽ sáng láng hanh thông; nếu lại được chính thì tốt mà lợi về việc sang sông lớn. Chính bền thì không cái gì không tốt, mà sự sang sông lại càng quý ở chờ đợi. Đó là không vì lòng muốn mau chóng mà phạm vào chỗ hiểm nạn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Nhu, tu dã; hiểm tại tiền dã; cương kiện nhi bất hãm, kỳ nghĩa bất khôn cùng hỹ.
Dịch nghĩa. - Lời thoán nói rằng: Nhu tức là đợi, chỗ hiểm ở trước vậy. Cứng mạnh mà không bị hãm, nghĩa là nó không khốn cùng rồi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Nghĩa của quẻ Nhu là đợi, vì có chỗ hiểm ở phía trước, chưa thể vội tiến, nên phải chờ đợi rồi sau mới đi. Là hạng cứng mạnh như Kiền mà biết chờ đợi, không dám khinh thường mà động, cho nên không bị hãm vào chỗ hiểm, cái nghĩa của nó không đến khốn cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy, - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Nhu hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, vị hồ thiên vị, dĩ chính trung dã; lợi thiệp đại xuyên, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Nhu có đức tin, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt, là vì ở vào ngôi trời, để chính giữa vậy. Lợi về sự sang sông lớn, đi thì có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hào Năm cứng đặc, ở giữa, là tượng đức tin, mà lại được cái nó vẫn chờ đợi, cũng là nghĩa có đức tin. Vì là Kiền cương, rất thành, cho nên đức nó sáng tỏ mà có thể hanh thông, được trinh chính mà tốt. Sở dĩ có thể như thế, là vì nó ở ngôi trời mà được chính giữa. Đã có đức tin là lại trinh chính, tuy qua chỗ hiểm mặc lòng, hễ đi thì có công, đó là điều chí thiện trong đạo Nhu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể và hai tượng của quẻ để thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm: - Tượng viết: Vân thướng ư thiên, Nhu, quân tử dĩ ẩm thực yến lạc.
Dịch nghĩa. - Lời tượng nói rằng: mây lên trời, là quẻ Nhu, đấng quân tử coi đó mà ăn uống yên vụi.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hơi mây hun nấu mà bốc lên trời, phải đợi Âm Dương hòa hợp mới thành mưa; mây đương lên trời, thì chưa thành mưa, cho nên là nghĩa chờ đợi. Khí của Âm Dương cảm nhau mà chưa thành mưa, cũng như đấng quân tử còn nuôi tài đức chưa thi thố ra việc làm. Đấng quân tử coi tượng mây đương lên trời đợi để làm mưa, mà mang bọc đạo đức ở yên đợi thời, ăn uống để nuôi khí thể, yên vui để hòa tâm chí. Đó là “Ở cách bình dị để chờ số mệnh”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Mây lên trời, không còn làm gì nữa, chỉ đợi Âm Dương hòa hợp tự nhiên sẽ mưa. Việc còn phải chờ, thì cũng đừng chờ làm gì nữa, chỉ hãy ăn uống yên vui, đợi nó đến mà thôi. Nếu lại làm một sự gì, thì không phải là chờ đợi nữa.

 + Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Trạch Thiên Quải
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Quải-Quyết đoán, hung hiểm, cần ứng biến linh hoạt, trí tuệ, tránh do dự. Vận nguy hiểm khắp nơi. Cẩn thận tranh tai họa. phải nêu vấn đề rõ ràng, công khai trước cơ quan có thẩm quyền, song không dùng vũ lực và nêu cao phẩm chất đạo đức của bản thân mình thì có lợi. Khi sử phạt cần công bố công khai tội, làm gương.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hết sức thận trọng trong hành động, chỉ một sai lầm nhỏ sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm.
● Hy vọng: khó thành.
● Tài lộc: không có.
● Sự nghiệp: khó thành.
● Nhậm chức: không như ý, không hay.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề bình thường.
● Tình yêu: chia tay vì đôi bên không hợp.
● Hôn nhân: không như ý, có thành cũng bất hạnh.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: không nên.
● Pháp lý: thất bại.
● Sự việc: chậm, một thời gian sau mới giải quyết.
● Bệnh tật: nặng, nhất là bệnh lâu.
● Thi cử: khó đạt kết quả.
● Mất của: khó tìm.
● Người ra đi: người nhà ra đi không biết ở đâu.
Quẻ: Trạch Thiên Quải - Đoái trên ; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tự Quái nói rằng: Ích mà chẳng thôi, ắt quyết, cho nên tiếp đến quẻ Quải, Quải nghĩa là quyết [1-Chữ “quải” nghĩa là quyết, chữ quyết lại có nghĩa là vỡ lở, vì vậy họ Trình mới giải bằng lối dây cà dây muốn như vậy] ích đến cùng cực, ắt phải quyết liệt rồi sau mới thôi, lý không ích mãi mà chẳng thôi, thôi tức là quyết, vì vậy quẻ Quải mới nối quẻ Ích. Nó là quẻ Đoái trên Kiền dưới, lấy hai thể mà nói, thì chầm là chỗ nước tụ mà lên ở chốn rất cao, có tượng vỡ lở [2-Chữ “quải” nghĩa là quyết, chữ quyết lại có nghĩa là vỡ lở, vì vậy họ Trình mới giải bằng lối dây cà dây muốn như vậy], lấy hào mà nói, thì năm hào Dương ở dưới, lớn lên sắp cùng cực, một Âm ở trên, tiêu đi sắp hết, các hào Dương tiến lên, quyết trừ một hào Âm, vì vậy mới là quyết. Quải là nghĩa cương quyết, mọi hào Dương tiến lên mà trừ một hào Âm, đó là lúc đạo đấng quân tử lớn lên, kẻ tiểu nhân tiêu suy vậy hầu hết vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quyết, dương vu vương đình, phu hiệu [3-Theo Chu Hy, thì trong quẻ Quải này, chỉ có chữ (號) ở lời quẻ đọc là hiệu, nghĩa là gọi, còn các chữ (號) ở các hào, đều đọc là hào, nghĩa là kêu] hữu lệ. Cáo tự ấp, bất lợi tức nhưng, lợi hữu dù vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Quải, giơ chưng sân vua, tin gọi, có nguy. Bảo từ làng, chẳng lợi tới quân, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lúc kẻ tiểu nhân đương thịnh, đạo đấng quân tử chưa thắng, có thể nào hiển nhiên dùng chính đạo mà quyết trừ nó, cho nên phải kín đáo đợi thời, dần dần tính cách làm tiêu nó đi. Nay đảng tiểu nhân đang suy, quân tử đương thịnh, nên làm rõ rệt ở công triều, khiến cho người ta biết rõ sự thiện ác, cho nên nói rằng “giơ chưng sân vua”. Phu là Điều tin ở trong lòng, tức là cái ý thành thực, hiệu là lời sai nhiều người, đạo đấng quân tử lớn thịnh, mà không giảm sự răn ngừa, cho nên dùng sự chí thành để sai mọi người, khiến họ biết rằng còn có sự nguy, ắt phái có lòng răn sợ, thì không có gì…Đấng quân tử trị kẻ tiểu nhân, vì nó bất thiện, ắt lấy đạo thiện của mình mà đổi được nó, cho nên đấng thánh nhân trừ kẻ làm loạn ắt trước sửa mình, tức như vua Thuấn sửa đức văn vậy [4-Kinh Thư nói rằng: Vua Thuấn đánh rợ Miêu không được, bèn rút quân về, thôi vũ dùng văn, rối múa cái can cái vũ (hai thứ binh khí) ở hai thềm, bảy tuần mà rợ Miêu quy phục]. Ấp là làng riêng, “bảo từ làng” nghĩa là trị mình. Đem sự thịnh vượng của các hào Dương, mà quyết trừ một hào Âm, sức vẫn có thừa, nhưng không nên dùng cách cương quyết thái quá, thái quá thì nó sẽ đến làm giặc như hào Chín Trên quẻ Mông. Nhung là việc cường vũ của nhà binh, chẳng lợi tới quân tức là chẳng lợi về mặt chuộng sự tráng vũ, “tức” là tới, “tới quân” nghĩa là chuộng võ vậy. Lợi có thửa đi, nghĩa là khi Dương tuy thịnh, nhưng chưa tới ngôi Trên, khí Âm tuy suy, nhưng còn chưa đi hết, đó là tiểu nhân hãy còn, đạo của quân tử chưa thật đến nơi, cho nên, nên tiến mà đi chẳng chuộng cương vũ, mà đạo càng tiến, ấy là sự quyết rất khéo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Quải nghĩa là quyết [5-Chữ 决 (quyết có nghĩa là tháo, như khơi nước tháo nước], tức là khí Dương khơi tháo khí Âm, nó là quẻ về tháng ba. Lấy năm hào Dương trừ một hào Âm, chẳng qua khơi tháo nó đi mà thôi. Nhưng khi khơi tháo nó đi, ắt phải nêu rõ tội nó, mà hết lòng thành thực để hò gọi quân mình hợp sức với mình, và cũng còn phải lo sợ, không thể yên ổn phóng tứ, lại nên trị trước chỗ riêng tây mà không thể chuyên chuộng oai vũ, thì lợi có thửa đi. Hết thảy đều là lời răn người ta.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Có người bảo rằng: Quẻ Quải, thánh nhân với lúc Âm tiêu Dương lớn, cũng răn sợ như thế, cái ý cảnh giới người ta sâu lắm. Đáp rằng: Không thể nói thế. Nguyên là không có lúc nào mà không răn giữ lo sợ, chẳng phải đến khi đó mới răn sợ đâu. Nói rằng thiên hạ đã bình trị, có thể yên lòng phóng chí, hễ hơi có chút phóng tứ, liền đẻ ra không thiếu cái gì.
Hồ Vân Phong nói rằng: Quẻ Quải lấy năm hào Dương trừ một hào Âm, cũng là việc dễ dàng, thế mà lời Thoán (tức lời quẻ) làm ra nhiều lời lo sợ răn dỗ, là vì: ắt phải giơ chưng sân vua, khiến tội tiểu nhân được rõ, lấy lòng chí thành hò gọi mọi người, khiến bọn quân tử hợp lại, không thể vì tiểu nhân đã suy liền phóng tứ, thì phải có lo lắng đó, không thể vì quân tử đương thịnh mà chuộng uy vũ, thì có cách tự trị đó, ắt phải như thế mới có lợi có thửa đi. Quẻ Phục lợi về sự đi, là đi mà làm quẻ Kiền. Đấng thánh nhân đặt lời Thoán quẻ Phục, chỉ nói bằng giọng bình thường, đặt lời Thoán quẻ Quải, thì nói bằng giọng lo sợ. Bởi vì thế Âm tuy suy, nó lan ra hoặc có thể sinh sôi, nó cùng quá hoặc lại thành kẻ chống chọi. Đấng quân tử không lúc nào mà không răn sợ, mà lúc tiểu nhân đã suy, lại càng không thể quên sự răn sợ.
Đấng thánh nhân lo cho bọn quân tử thật cùng tột vậy.
LỞI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Quải quyết dã, cương quyết nhu dã, kiện nhi duyệt, quyết nhi hòa.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quải là quyết vậy, cứng quyết mềm vậy, mạnh mà đẹp lòng quyết mà hòa.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ và thích đức quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Dương vu vương đình, nhu thừa ngũ cương dã.
Dịch nghĩa. - Giơ chưng sân vua, hào mềm cưỡi năm hào cứng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phần mềm tuy đã tiêu nhưng nó ở trên năm hào ứng, còn là cái Tượng cưỡi lấn. Âm mà cưỡi Dương, trái lẽ thái thậm, đấng quân tử thế đủ trừ nó, thì nên nêu rõ tội nó ở sân lớn phong trào nhà vua, khiến cho mọi người biết rõ sự thiện ác.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phu hiệu hữu lệ, kỳ nguy nãi quang dã.
Dịch nghĩa. - Tin gọi, có nguy, thửa nguy bèn sáng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hết lòng thành tín để sai mọi người, mà biết có sự lo sợ, thì đạo quân tử mới khỏi lo mà được sáng lớn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cáo tự ấp, bết lợi tức nhung, sở thượng nãi cùng dã.
Dịch nghĩa. - Bảo tự làng, chẳng lợi tới quân, thửa chuộng bèn cùng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nên trước trị mình, chẳng nên chuyên chuộng sự cương vũ, tới quân thì cái mình chuộng bèn đến cùng cực. Trong thí quyết, cái thửa chuộng là nói về sự cương vũ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi hữu du vãng, cương trưởng nãi chung dã.
Dịch nghĩa. - Lợi có thửa đi, cứng lớn [6-Tức là khí Dương lớn lên] bèn trọn vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dương cứng tuy đã thịnh lớn, nhưng còn chưa chót, vì còn có một hào Âm, còn phải quả quyết trừ đi, thì đạo quân tử mới được thuần nhất mà không có kẻ hại mình, thế là sự chót của cuộc cứng lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích lời quẻ. Hào mềm cưỡi năm hào cứng là lấy thế quẻ mà nói, ý bảo lấy một kẻ tiểu nhân ở trên các đấng quân tử, là tội của nó. “Cứng lớn bèn chót”, nghĩa là biến một lần nữa, thì thành quẻ thuần Kiền.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch thượng ư thiên, Quải, quân tử dĩ thí, lộc cập hạ, cư đức tắc ky.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chằm lên chưng trời, là quẻ Quải. Đấng quân tử coi đó mà ra lộc tới dưới, ở đức phép ky [7-Dịch theo ý Trình Di].
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chằm là chỗ nước tụ mà lên trên trời là chốn rất cao, cho nên là Tượng sự khỏi. Đấng quân tử coi tượng chằm khỏi ở trên mà chảy xuống dưới để ra lộc tới dưới, nghĩa là ban ơn lộc của mình cho kẻ dưới vậy: coi Tượng vỡ lở của nó, thì để ở đức phép ky. Ở đức nghĩa là ở yên với đức của mình, phép là ước, ky là ngừa, tức là ước dựng ra ngừa ngăn, có ngừa ngăn thì không vỡ tan. Chữ 則 忌 (tẳc ky). Vương Bật đổi làm 明 忌 (minh kỵ - tỏ sự kiêng) cũng thông. Không nói chằm ở trên trời mà nói chằm lên chưng trời, là vì “lên chưng trời” thì có ý không nên mà có thể vỡ lở, “ở trên trời” thì là lời nói có vẻ yên ổn vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chằm lên chưng trời là thế vỡ lở, ra lộc tới dưới là ý vỡ lở, mây chữ 居德則忌 (cư đức tắc ky) chưa rõ ý nghĩa ra sao.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trương Trung Khê nói rằng: Mây lên chưng trời là quẻ Nhu, thì ơn chẳng tới dưới, chằm lên chưng trời là quẻ Quải, thì cái mà trời để làm ơn cho muôn vật đã bị khỏi rồi. Đấng quân tử coi tượng chằm khỏi ở trời mà rút xuống dưới, để ra ban ơn lộc cho kẻ dưới. Cư 居 nghĩa là đậu, nếu tự ngừng đậu cái đức của mình mà ơn không ban xuống thì không hợp nghĩa khỏi tháo, cho nên phải kiêng.
Lý Long Sơn nói rằng: Trong câu “cư đức tắc ky”, chữ “cư” nghĩa là chưa lại mà không chảy đi, cũng như chữ 居 (cư) trong câu 奇货可居 (kỳ hóa khả cư - của lạ đáng chứa) ở Liệt truyện vậy.
Hạng Bình Âm nói rằng: Chữ 居 (cư) chua nghĩa là chứa, nhưng chữ 化居 (hóa cư) trong Kinh Thư, chữ 居 業 (cư nghiệp) trong Kinh Dịch, đều thế cả. Người đời Hán hãy còn nói tiếng cư tích (ở chứa).
Hồ Vân Phong nói rằng: Câu “cư đức tắc kỵ”. Trình truyện giải tắc là ước, kỵ là ngừa, cho là ước dựng ngừa ngăn, thì trái với ý vỡ lở. Vương Bật đổi là 明則 (minh tắc) cũng sai. Các nhà cho là “ngừng đậu đức mình thì kiêng” thì là trái lại ý trên, mà ở Đại tượng không có lệ nói trái lại, sách Bản nghĩa chừa lại chỗ đó là phải.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Lôi Thiên Đại Tráng-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Đại tráng-Lấy trí để thắng. Quân tử lớn manh, Thanh danh lừng lẫy thi nghiêm túc thuần chính , rễ chuyển thành suy, chuyện Nhỏ rễ thành, lớn khó thành. Chỉ mạnh mẽ, có lực. khi đã đạt được danh, lợi thì càn ẩn nhẫn, khiêm nhường, giữ điều chính thì mới có lợi. Lúc thắng lợi phải nghĩ ngay lúc mình suy vi thì mới toại nguyện.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”. 
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang phát triển, song vì đó mà mở rộng quy mô thì sẽ thất bại.
● Hy vọng: đạt sở nguyện.
● Tài lộc: hữu danh vô thực.
● Nhậm chức: không như ý vì nôn nóng.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: không thành.
● Hôn nhân: không có kết quả.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: không nên.
● Pháp lý: bất lợi.
● Sự việc: nên giải quyết sớm để lâu rắc rối.
● Bệnh tật: nặng dần lên.
● Thi cử: thất bại không ngờ.
● Mất của: chưa tìm thấy.
● Người ra đi: đi xa.
Quẻ: Lôi Thiên Đại Tráng - Chấn trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Đại Tráng, Tự quái nói rằng: Trốn là lui thôi, vật không thể trốn đều cùng chót, cho nên tiếp đến quẻ Đại Tráng [1-Chữ Đại tráng nghĩa lớn mạnh]. Độn là nghĩa bỏ đi, tráng, là nghĩa tiến mạnh, quẻ Độn là khí Âm lớn lên mà khí Dương phải trốn, quẻ Đại tráng thì là khí Dương mạnh thịnh. Suy ắt có thịnh, sự tiêu đi và sự sinh ra phải chờ nhau, cho nên đã trốn thì ắt phải mạnh, vì vậy quẻ Đại tráng mới nối quẻ Độn. Nó là quẻ Chấn trên Kiền dưới, Kiền cứng mà Chấn động, lấy đức cứng mà động là nghĩa lớn mạnh. Dương cứng là lớn tức là khí Dương lớn lên quá bậc giữa rồi. Lớn là mạnh thịnh. Lại, oai dữ như sấm mà ở trên trời, cũng là nghĩa lớn mạnh.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đại tráng lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Đại tráng lợi về sự chính.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái đạo lớn mạnh lợi về trinh chính. Lớn mạnh mà không đúng với chính đạo, tức là sự hành vi của kẻ hung tợn, không phải đạo đấng quân tử.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lớn chỉ về Dương, bốn hào Dương thịnh lớn, cho nên là lớn mạnh, tức là quẻ về tháng hai. Dương mạnh thì kẻ xem tốt lành hanh thông, không cần phải nói, có điều lợi ở chính bền mà thôi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Đại tráng, đại giả tráng dã, cương dĩ động, cố tráng.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ tráng, là lớn thì mạnh vậy. Dùng đức cứng mà động, cho nên lớn mạnh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sở dĩ gọi là quẻ Đại tráng, nghĩa là lớn thì mạnh vậy. Âm là nhỏ, Dương là lớn, khí Dương lớn lên và thịnh vượng, thế là cái lớn thì mạnh. Dưới cứng mà trên động, lấy thể Kiền là vật rất cứng mà động, cho nên là lớn mạnh, là cái lớn thì mạnh, là sự mạnh to lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ. Nói về thể quẻ thì khí Dương lớn lên, đã quá bậc giữa, tức là cái lớn thì mạnh. Nói về đức quẻ, thì Kiền cứng, Chấn động, cho nên là mạnh.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đại tráng lợi trinh, đại giả chính dã, chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến hỹ.
Dịch nghĩa. - Lớn mạnh lợi về sự chính, là cái lớn thì chính vậy; chính lớn mà tình trời đất có thể thấy được.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái lớn đã mạnh, thì lợi về sự trinh chính. Chính mà lớn, tức là Đạo đó. Cùng cực cái lẽ chính lớn thì tình của trời đất có thể thấy được. Đạo của trời đất thường lâu không thôi, là cái rất lớn rất chính. Cái lẽ “chính lớn” kẻ học phải im lặng ghi lấy và hiểu ở trong lòng, mới được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa chữ lợi trinh mà nói: cho cùng cực ra.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi tại thiên thượng. Đại tráng, quân tử dĩ phi lễ vật lý.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sấm ở trên trời, là quẻ Đại tráng. Đấng quân tử coi đó mà không phải lễ chớ xéo vào.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm động ở trên trời, là lớn mà mạnh, đấng quân tử coi Tượng lớn mạnh đó mà thực hành sự mạnh của mình. Cái lớn mạnh của đấng quân tử, không gì bằng nén lòng riêng mình, trở lại điều lễ. Người xưa nói rằng: “Mình thắng được mình gọi là mạnh”; sách Trung Dung nói những sự “hòa mà không trôi”, “đứng giữa mà không tựa” đều nói là “mạnh thay mạnh”. Nhảy vào nước sôi, lửa nóng, xéo lên lưỡi gươm sắc, bọn vũ phu hung tợn có thể làm được. Đến như nén lòng riêng mình, trở lại điều lễ, phi đấng quân tử cả mạnh thì không làm nổi, cho nên nói rằng: “Đấng quân tử coi đó mà không có lễ đừng xéo vào”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Mình thắng được mình là mạnh

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Địa Thiên Thái-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Cát tường như ý nhất trong 64 quẻ"Qua bĩ cực đến thái lai". Tai ương, họa hoạn đã qua, muôn việc thuận lợi. cần khiêm nhường. Biết bỏ cáo nhỏ để đạt cái lớn hơn. Nếu sống đại lượng, biết tha thứ, không chấp nhặt thì người gây khó khăn cho mình giảm dần, việc làm của mình thuận lợi. có mất mát nhỏ nhưng được việc lớn.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: tương đối thuận lợi, song sẽ khó khăn, cần có kế hoạch ứng phó.
● Hy vọng: như ý. Cuối cùng có thể thất bại vì chủ quan.
● Sự nghiệp: thành công. Song mau chóng suy vi
● Nhậm chức: có chức nghiệp tốt, sau dễ thất bại, cần đề phòng
● Nghề nghiệp: chuyển nghề được
● Tình yêu: đôi bên gần gũi, dễ tuỳ tiền
● Hôn nhân: Thành nhân duyên tốt
● Đợi người: đang đến
● Đi xa: chuyến đi vui vẻ tốt đẹp
● Sự việc: Tiếp xúc bàn bạc sẽ xong
● Bệnh tật: thuyên giảm dần
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: tìm được
● Người ra đi: sẽ trở về
Quẻ: Địa Thiên Thái - Khôn trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Thái, Tự quái nói rằng: Xéo mà hanh thái mới yên, cho nên tiếp đến quẻ Thái. Xéo được nơi chốn thì thư thái, thư thái thì yên ổn, vì vậy quẻ Thái mới nối quẻ Lý. Nó là quẻ Khôn Âm ở trên. Kiền Dương ở dưới, khí của trời đất Âm Dương giao nhau mà dung hòa, thì muôn vật sinh thành, cho nên mới là thông thái.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thái, tiểu văng, đại lai, cát hanh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Thái, nhỏ đi, lớn lại, lành tốt hanh thông.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nhỏ là Âm lớn là Dương, “đi” là đi ra ngoài, “lại” là ở bên trong, khí Âm hạ xuống, khí Dương bốc lên, tức là giao nhau. Âm Dương lợi xướng thì muôn vật được sống thỏa, ấy là trời đất thông thái. Nói về việc người, thì lớn là đấng quân thượng, nhỏ là kẻ thần hạ, ông vua suy lòng thành thật để dùng kẻ dưới, bề tôi hết lòng thành thật để thờ vua, chí của kẻ trên người dưới thông nhau, ấy là cuộc thái của triều đình; Dương là quân tử, Âm là tiểu nhân, quân tử lại ở bên trong, tiểu nhân đi ở bên ngoài, quân tử được ngôi, tiểu nhân ở dưới, ấy là cuộc thái của thiên hạ. Đó là đạo của cuộc thái, tốt mà lại hanh. Không nói “nguyên cát” mà nói “cát hanh” là vì thời có khi lên khi xuống, trị có cuộc lớn cuộc nhỏ, tuy là hanh thái, củng không thể nói nhất khái. Nói “cát hanh” thì bao bọc được cả.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thái là hanh thông, nó là quẻ trời đất giao nhau mà hai khí thông nhau, cho nên là thái, quẻ tháng giêng đó. Nhỏ là Âm, lớn là Dương, ý nói Khôn đi ở ngoài, Kiền đến ở trong, lại tự quẻ Qui muội mà lại, thì là hào Sáu đi ở ngôi Tư, hào Chín lại ở ngôi Ba. Kẻ xem có đức cương Dương thì tốt mà hanh thông.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Thái tiểu vãng, đại lai, cát hanh, tức thị thiên địa giao nhi vạn vật thông dã; thượng hạ giao nhi kỳ chí đồng dã. Nội Dương nhi ngoại Âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân, quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu dã.
Dịch nghĩa.- Lời Thoán nói rằng: Quẻ Thái, nhỏ đi lớn lại, tốt và hanh thông, trời đất giao nhau mà muôn vật hanh thông vậy; trên dưới giao nhau mà trí giống nhau vậy. Trong Dương mà ngoài Âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài tiểu nhân, đạo quân tử lớn lên, đạo tiểu nhân tiêu đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nhỏ đi lớn lại, tức là Âm đi mà Dương lại, thì là khí của trời đất Âm Dương giao nhau mà muôn vật được thỏa sự thông thái của nó; ở người ta thì tình trên dưới giao nhau mà chí ý giống nhau. Dương lại ở trong, Âm đi ở ngoài là Dương tiến mà Âm lui; Kiền mạnh ở trong, Khôn thuận ở ngoài là trong mạnh và ngoài thuận, tức là đạo của đấng quân tử, quân tử ở trong, tiểu nhân ở ngoài là đạo quân tử lớn lên, đạo tiểu nhân tiêu đi, vì vậy mới là Thái.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Thiên địa giao. Thái; hậu dĩ tài thành thiên địa chỉ đạo, phụ tường thiên địa chi nghi, dĩ tả hữu dân.
Dịch nghĩa.- Lời Tượng nói rằng: Trời đất giao nhau là quẻ Thái, ông vua coi mà sửa nên đạo của trời đất, giúp tập sự nên phải của trời đất, để đỡ đần dân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di.- Trời đất giao nhau mà Âm Dương hòa nhau, thì muôn vật tươi tốt thỏa thuê, vì vậy mới thái. Đấng nhân quân nên thể theo cái tượng trời đất thông thái để sửa nên đạo của trời đất; giúp tập sự nên phải của trời đất, để đỡ đần cho kẻ sinh dân. “Tài” là thể theo cái đạo giao thái của trời đất mà sửa chế đi cho thành cái phép thi thố công việc.“Giúp lập sự nên phải của trời đất”, là trời đất thông thái thì muôn vật tươi tốt thỏa thuê, đấng Nhân quân thể theo chỗ đó mà làm phép tắc, khiến cho kẻ dân dùng thời của trời, nhân lợi của đất, giúp đỡ công việc hỏa dục, cho thành cái lợi thịnh tốt, ví như khí mùa xuân phát sinh muôn vật, thì làm ra phép gìeo trồng khí mùa thu kết chắc muôn vật, thì làm ra phép thu liễm, đó là giúp lập sự đáng nên của trời đất để đỡ dần phụ trợ cho dân. Dân sống, ắt nhờ đấng quân thượng làm rạ phép tắc, để đạy bảo dắt dìu giúp đỡ cho họ, mới được thỏa sự sinh dưỡng. Thế là đỡ đần cho họ.
Bản nghĩa của Chu Hy.- “Tài thành” là để nén bớt chỗ thái quá, “phụ tướng” là để bù đắp chỗ bất cập.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Địa Trạch Lâm
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Lâm-Đạo của đế vương. Đích thân Giám sát thiên hạ, Lãnh đạo ân huệ+uy nghiêm: đường lối đúng đắn đã tới lúc có điều kiện thuận lợi. Kị kiêu căng, tự đại. Cũng không nên quá khắt khe với người.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận : đang vận tốt. Chủ quan hỏng việc
● Hy vọng: sắp tới lúc thực hiện, hãy nỗ lực tới cùng
● Tài lộc: gần được như ý
● Sự nghiệp: thành công, càng về cuối càng phát triển
● Nhậm chức: sẽ như ý sau một thời gian
● Nghề nghiệp: hiện chưa phải lúc, phải chờ ít lâu
● Tình yêu: có khả năng tiến triển tốt đẹp, nếu thành tâm
● Hôn nhân: thành lương duyên sau một thời gian dài
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: vui vẻ, tới đích
● Pháp lý: được kiện
● Sự việc: sau một thời gian mới giải quyết xong, không nóng vội
● Bệnh tật: kéo dài, nhưng sẽ đỡ dần
● Thi cử: phải nỗ lực lớn mới có kết quả
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: có đi có về bình thường
Quẻ: Địa Trạch Lâm - Khôn trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lâm, Tự quái nói rằng: Có việc mà sau mới có thể lớn, cho nên tiếp đến quẻ Lâm, lâm tức là lớn. Cổ là việc, có việc thì có thể lớn, cho nên tiếp đến quẻ Lâm [1-臨 (lâm) nghĩa là tới, tức là tiến sát tới nơi]. Hàn Phương Bá nói: “Cái nghiệp có thể làm lớn, đo việc mà ra”. Hai khí dương lớn mà sắp thịnh đại, cho nên là lâm. Nó là quẻ trên chằm có đất, đất ở trên chằm là bờ, giáp nhau với nước, tới gần với nước, cho nên là lâm. Các vật ở gần trời, gần sát tới nhau, không gì bằng đất và nước, cho nên trên đất có nước là quẻ Tỵ, trên chằm có nước là quẻ Lâm. Lâm là tới dân, tới việc, những cái thửa tới đều là lâm. Ở quẻ thì lấy về nghĩa “tự trên tới dưới”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lâm nguyên hanh lợi trinh, chí vu bát nguyệt hữu hung.
Dịch nghĩa. - Quẻ Lâm, cả, hanh, lợi, trinh, đến chưng tám tháng, có hung.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là nói về cái tài của quẻ. Đạo tới như tài quẻ này, thì có thể cả hanh mà chính. Hai khí Dương đương lớn lên ở dưới, là lúc Dương đạo sắp thịnh, thánh nhân răn sẵn mà rằng: “Khí đương tuy đương thịnh, đến tám tháng thì nó tiêu đi, ấy là có hung”. Đại để thánh nhân dăn dổ, ắt là tự lúc đương thịnh mà lo rằng suy, thì mới có thể ngăn ngừa sự quá đầy mà mưu tính cuộc lâu dài. Nếu để đã suy mới răn, thì không kịp nữa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lâm là tiến lên mà lấn sát đến một vật gì. Hai khí Dương đương lớn, dần dần lấn bức khí Âm, cho nên là Lâm, tức là quẻ về tháng chạp. Lại, nó là quẻ dưới thì Đoái vui, trên thì Khôn thuận, hào Chín Hai lấy đức cứng ở ngôi giữa, trên thì ứng với hào Sáu Năm, cho nên kẻ xem cả hanh mà lợi về đường chính đính. Nhưng đến tám tháng thì nên có sự hung. Tám tháng chỉ về từ quẻ Phục, tháng một khí Âm, đến quẻ Độn tháng hai khí Âm, là lúc khí Âm lớn lên, khí Dương trốn đi. Hoặc có người nói: Bát nguyệt chỉ về tháng thứ tám trong lịch nhà Hạ, về quẻ là Quan, cũng là phản đối với quẻ Lâm. Lại nhân kẻ xem mà răn bảo họ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Lâm, cương tẩm nhi trưởng, duyệt nhi thuận, cương trung nhi ứng, đại hanh dĩ chính, thiên chi đạo dã. Chí vu bát nguyệt hữu hung, tiêu bất cửu dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Lâm, đức cứng dần dần lớn lên, đẹp lòng mà thuận, cứng giữa mà ứng, cả hanh và chính, đạo của trời vậy. Đến chưng tám tháng có hung, sự tiêu đi không lâu vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tám là dần dần; hai khí Dương đương lớn ở dưới mà dần dần tiến lên. Dưới Đoái trên Khôn, tức là hòa đẹp mà thuận. Cứng được đạo giữa mà có ứng giúp, cho nên có thể cả hanh mà được chính đính, hợp với đạo trời. Cứng chính, mà hòa thuận, đó là đạo trời. Cái công hóa dục sở dĩ không tắt là vì cứng chính hòa thuận mà thôi. Dùng cách đó mà tới người tới việc, tới thiên hạ, thì không cái gì không cả hanh mà được chính đính. Hai khí Dương mới sinh, là lúc khí Dương đương lớn dần dần, thánh nhân răn sẵn mà rằng: “Khí Dương tuy là đương lớn, nhưng đến tám tháng thì nó tiêu đi mà hung”. Tám tháng chỉ về tám tháng khí Dương sinh ra, khí Dương bắt đầu sinh tự quẻ Phục, từ quẻ Phục đến quẻ Độn, tất cả tám tháng, tức là tự tháng kiến tý [2-Tức tháng mười một âm lịch] đến tháng kiến vị [3-Tức tháng sáu âm lịch], hai khí Âm lớn lên mà khí Dương tiêu đi, cho nên nói rằng: “Tiêu đi không lâu”. Nói về hai khí Âm Dương, thì sự tiêu lớn như lần vòng tròn, không thể thay đổi. Nói về nhân sự, thì Dương là quân tử. Âm là tiểu nhân, đương khi đạo của quân tử lớn lên, thánh nhân răn sẵn, khiến cho người ta biết rõ cái lẽ “quá cực thì hung”, mà lo lắng ngăn ngừa, thường thường không đến đầy quá, thì không đến nỗi bị hung.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu dùng thể quẻ để thích tên quẻ. Câu thứ hai dùng đức quẻ, thể quẻ để nói cái hay của quẻ. Đương lúc đức cứng lớn lên, lại có được cái hay ấy, cho nên lời chiêm của nó như câu thứ ba. Câu thứ tư ý nói vận trời như thế, nhưng đấng quân tứ nên biết răn sợ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch thượng hữu địa, Lâm, quân tử dĩ giáo tư vô cùng, dung bảo dân vô cương.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên chằm có đất là quẻ Lâm, đấng quân tử coi đó mà tứ dậy không cùng, dong giữ dân không bờ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên chằm có đất, tức là bờ chằm, chỗ khoảng nước vậy. Các vật tới cùng ngậm chứa với nhau không gì bằng nước có đất, cho nên trên chằm có đất là quẻ Lâm. Đấng quân tử coi Tượng thân tới thì tứ dậy không cùng. Nghĩa là thân tới với dân, thì có ý tứ dạy dẫn cho họ. Không cùng tức là không hề chán nản; coi Tượng ngậm chứa thì có lòng dong giữ cho dân; không bờ tức là không có bờ ngăn. Ngậm chứa có ý rộng lớn, cho nên là nghĩa không cùng không bờ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đất tới với chằm là trên tới dưới. Hai điều đó đều là việc bậc trên tới với bậc dưới. “Dậy không cùng” là quẻ Đoái, “chứa không bờ” là quẻ Khôn.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Địa Lôi Phục-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Phục- Qua bĩ cực này sẽ đến thái lai. Thời kỳ quá độ, bỏ cũ thay mới, xuất phát lại, vạn vật đổi mới, tiên đồ rộng mở. Phòng ngự là phản công. Cần nghị lực và nhẫn lại. báo có sự thuận lợi, tiến triển, tự do hành động không bị phiền phức, có bạn bè hướng tới mình, ít bị sai lầm.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: bắt đầu tốt dần nhưng chậm, phải kiên nhẫn, đừng làm tình thế xấu đi
● Hy vọng: có, nhưng phải tốn thời gian mới có
● Tài lộc: có nhưng phải chờ đợi
● Sự nghiệp: khó khăn vất vả bớt dần, kết quả có khá lên
● Nhậm chức: cần kiên nhẫn sẽ có chức vị tốt
● Nghề nghiệp: thay đổi hay không thay đổi như nhau
● Tình yêu : diến biến tự nhiên có thể thành công
● Hôn nhân: gặp trở ngại kiên nhẫn có thể thành
● Đợi người: sẽ tới nhưng muộn
● Đi xa: được, giữa chừng có thể quay về
● Pháp lý: kéo dài, cuối cùng giành phần thắng
● Sự việc: cần giải quyết từ từ
● Bệnh tật : dây dưa, tái phát
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: có thể tìm lại
● Người ra đi: có đi có về sớm
Quẻ: Địa Lôi Phục - Khôn trên; Chấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Phục, Tự quái nói rằng: Vật không trọn hết, sự đẽo đã cùng ở trên, thì quay xuống dưới, cho nên tiếp quẻ Phục [1-Chữ 後 (Phục) nghĩa là trở lại]. Vật không có lẽ đẽo hết, cho nên sự đẽo cùng cực thì phải trở lại, Âm cực thì Dương sinh, Dương bị đẽo cùng cực ở trên mà quay xuống dưới, vì vậy quẻ Phục mới nối quẻ Bác. Nó là quẻ một hào Dương sinh ở dưới năm hào Âm, đó là Âm cực mà Dương trở lại. Trong một năm, Âm thịnh đã cực, ngày Đông chí thì một khí Dươmg lại sinh ra ở trong đất, cho nên là quẻ Phục. Dương là đạo đấng quân tử, khí Dương tiêu cực mà lại trở lại, tức là đạo đấng quân tử tiêu đến cùng cực mà lại lớn lẻn, cho nên là nghĩa “trở lại đường thiện”-
LỜI KINH
Dịch âm. - Phục hanh xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu.
Dịch nghĩa. - Quẻ Phục hanh, ra vào không tật, bạn đến không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phục hanh nghĩa là đã trở lại thì hanh thông. Khi Dương đã sinh ở dưới, dần dần hanh thịnh mà sinh nuôi muôn vật; đạo đấng quân tử đã trở lại thì dần dần hanh thông, tưới tắm cho thiên hạ, cho nên quẻ Phục có lẽ hanh thịnh. - Ra vào không tật: Ra vào chỉ về sinh lớn, lại sinh ở trong là vào; lớn tiến ở ngoài là ra, nói “ra” trước, là nói cho thuận mà thôi, khí Dương sinh ra, không phải là tự bên ngoài. Đến ở bên trong gọi là vào. Vật mới sinh khí nó rất nhỏ, cho nên phần nhiều hay gian truân, Dương mới sinh khí nó rất nhỏ, cho nên phần nhiều hay bị gẫy. Khí Dương mùa xuân phát ra khí Âm lạnh bẻ gẫy, cứ coi cây cỏ về lúc sớm tối có thể thây rõ. “Ra vào không tật” nghĩa là cái khí Dương nhỏ sinh rồi lớn, không có cái gì hại nó. Đã không có cái gì hại nó mà loại của nó dần dần tiến đến thì là sắp sửa hanh thịnh, cho nên không lỗi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phản phúc kỳ đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Lật đi lật lại thửa đạo, bảy ngày lại trở lại, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ý nói cái đạo tiêu, lớn, lật đi, lặt lại, đắp đổi mà đến, khi Dương tiêu đi, đến bảy ngày mà lại trở lại. Quẻ Cấu là Dương mới tiêu, bảy lần biến mà thạnh quẻ Phục, cho nên nói rằng bảy ngày, nghĩa là bảy lần đổi. Quẻ Lâm nói rằng: “Tám thống có hung^, nghĩa là từ lúc Dương lớn đến lúc Âm lớn trải tám tháng vậy. Dương tiến thì Âm lui, đạo đấng quân tử lớn lên thì đạo kẻ tiểu nhân tiêu đi, cho nên lợi có thửa đi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Phục là Dương lại sinh ở dưới, đẽo hết thì là quẻ thuần Khôn, tức quẻ thuộc về tháng mười, mà khi Dương đã sinh ở dưới, chứa lại hơn tháng, rồi sau cái thể một phần khí Dương mới thành mà lại trở lại, cho nên tháng mười một, về quẻ là Phục, vì rằng khi đã đi lại trở lại, cho nên cái đạo hanh thông. Lại, trong Chấn ngoài Khôn, có Tượng “Dương động ở dưới mà theo đường thuận đi lên, cho nên lời chiêm của nó là ”mình ra vào đã được không tật, thì bè loại đi đến cũng không được lỗi”. Lại, vì tháng năm quẻ Cấn, một phần Âm mới sinh, đến đây là bảy hào, mà một phần Dương lại trở lại, đó là sự tự nhiên trong cuộc vận hành của trời. Nhưng lời Chiêm của nó là “lật đi lật lại thửa đạo, đến bảy ngày nên được trở lại”. Lại, vì đức cứng đang lớn lên, cho nên lời Chiêm của nó là “lợi có thửa đi”. Lật đi lật lại có thửa đạo, đến bảy ngày mới được trở lại”. Lại, vì đức cứng đang lớn lên, cho nên lời Chiêm của nó là “lợi có thửa đi”. “Lật đi lật lại thửa đạo” là ý “đi mà lại lại, lại mà lại đi”. Bảy ngày là kỳ trở lại của sự xem.
LỜI KINH
Dịch âm. - Táohn viết: Phục hanh, cương phản, động nhi dĩ thuận hành, thị dĩ xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Phục hanh là cứng trở lại; động mà thấy sự thuận đi lên; cho nên ra vào không tật, bạn đến không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phục hanh nghĩa là đức cứng trở lại mà hanh, Dương cứng tiêu đã cùng cực mà lại trở lại, đã trở lại thì dần dần thịnh mà hanh thông. “Động mà lấy sự thuận đi lên, cho nên ra vào không tật, bạn đến không lỗi” là nói về tài của quẻ, tức là nói cái cớ tại sao mà thế. Dưới động mà trên thuận, đó là “động mà lấy sự thuận đi lên”, Dương cứng trở lại mà động bằng cách xuôi thuận, cho nên được ra vào không tật, bạn đến mà không lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy đức quẻ mà nói.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phản phúc kỳ đạo, thất nhật lai phục, thiên hành dã.
Dịch nghĩa. - Lật đi lật lại thửa đạo, bảy ngày lại trở lại, vận trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Âm Dương tiêu sinh, vận trời thế đó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi hữu du vàng, cương trưởng dã.
Dịch nghĩa. - Lợi có thửa đi, cứng lớn vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ mà nói. Đã sinh ra thì phải dần dần lớn lên.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phục kỳ hiến thiên địa, tạo hóa chi tâm hồ.
Dịch nghĩa. - Quẻ Phục thửa thấy lòng của trời đất tạo hóa chăng?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái đạo của nó trở đi trở lại, đắp đổi tiêu đi, đắp đổi sinh ra, bảy ngày mà lại trở lại là cuộc vận hành của trời như thế. Tiêu, lớn nhân nhau, đó là lẽ của trời đất. Đạo của đấng quân tử, Dương cương lớn được, cho nên lợi có thửa đi. Một phần Dương trở lại ở dưới, đó là lòng của trời đất, Tiên nho đều cho là tĩnh thì thấy lòng trời đất, nhưng không biết rằng đầu mối sự động, tức là lòng của trời đất đó. Không phải là kẻ hiểu đạo, thì biết sao được lẽ ấy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dưới những phần Âm chồng chất, một phần Dương lại sinh ra, lòng sinh vật của trời đất đã hầu tắt đứt, đến đó lại thấy; ở người ta thì là tĩnh cực mà động; ác cực mà thiện, cái lòng sẵn có của mình hầu tắt mà lại hiện ra. Trình Tử bàn về lẽ đó kỹ rồi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi tại địa trung, Phục, Tiên vương dĩ chí, nhật bế quan, thương lữ bất hành, hậu bất tỉnh phương.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sấm ở trong đất, là quẻ Phục, đấng Tiên vương coi đó mà ngày chí đóng cửa ải, kẻ thương lữ [2-Thương là người buôn bán, lữ là kẻ đi đường] không đi, các vua không xét các phương.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm là Âm Dương xát nhau mà thành tiếng, đương lúc khí Dương còn nhỏ, chưa thể phát ra. Sấm ở trong đất là lúc khí Dương mới trở lại. Khi Dương mới sinh ở dưới mà còn rất nhỏ, yên lặng mà sau mới lớn được. Đấng Tiên vương thuận theo dạo trời, khi ngày “chí”, khí Dương mới sinh, yên lặng mà nuôi nó, cho nên đóng cửa ải lại, khiến kẻ thương lữ không được đi, ông vua không coi xét bốn phương, đó là xem tượng quẻ Phục mà thuận theo đạo trời vậy. Ở thân một người cùng vậy, nên yên lặng để nuôi khí Dương.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đó là yên lặng để nuôi khí Dương. Thiên Nguyệt lệnh, tháng ấy phải trai giới che mình, để đợi sự định đoạt của khí Âm khí Dương.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY


Quẻ: Phong Sơn Tiệm – Tốn trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tiệm. Tự quái nói rằng: các vật không thể đậu mãi, cho nên tiếp đến quẻ Tiệm [1*Chữ 漸 (tiệm) nghĩa là dần dần]. Tiệm là tiến lên, đậu ắt có tiến, đó là lẽ co duỗi, tiêu sinh [2-Tức là tiêu đi, sinh ra]. Cái của sự đậu sinh ra, cũng là sự tiến, cái phản lại sự đậu, cũng là sự tiến vì vậy quẻ Tiệm mới nối quẻ Cấn. Tiến bằng thứ tự là dần dần, ngày nay người ta bảo tiến thong thả là tiến dần dần, vì không vượt qua thứ tự mới thong thả. Nó là quẻ trên Tốn dưới Cấn, trên núi có cây, cây cao nhân núi, sự cao của nó có chỗ nhân theo. Sự cao của nó có nhân thwo,, tứ là sự tiến của nó có thứ tự. Vì vậy mới là quẻ Tiệm.
LỜI KINH 
Dịch âm.- Tiêm, nữ qui, cát, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tiệm, con gái về, tốt, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tìa quẻ gồm nghĩa chữ “tiệm” mà nói. Kiền Khôn viến đi là Tốn, Cấn, Tốn, Cấn chồng lại là quẻ Tiệm. Nói về thể quẻ Tiệm, thì hai hào giao nhau, bởi sự giao nhau của hai hào ấy mà sau cin trai con gái đều được chính ngôi; hai hào đầu và hào chót tuy không đáng ngôi, nhưng cũng Dương trên Âm dưới, tôn ty chính đáng con trai con gái bên nào được chính đạo của bên ấy, như thế cũng là được ngôi, rõ ràng đối nhau với quẻ Qui muội. Con gái về nhà chồng, có thể chính đính như thế thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tiệm là tiến lên dần dần. Nó là quẻ đậu ở dưới mà nhún ở trên, tức là nghĩa không tiến gấp vội, có Tượng con gái về nhà chồng. Lại, tức hào Hai đến hào Năm, ngôi đều được chính, cho nẻn lời Chiêm của nó là con gái về nhà chồng thì tốt, và lại răn rằng: lợi về chính bền.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: Tiệm chi tiến dã, nữ qui cát dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tiệm là tiến vậy, con gái về nhà chồng tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Theo nghĩa quẻ Tiệm mà tiến, tức là sự tốt của con gái về nhà chồng, nghĩa là chính đáng mà đi dần dần vậy. Con gái về nhà chồng là chỉ nói về việc lớn hơn thôi, các sự tiến khác cũng thế cả.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ 之 (chi) ngờ thừa, hoặc chữ 漸 (tiệm).
LỜI KINH
Dịch âm.- Tiến đắc vị, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Tiến được ngôi, đi có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong thì dần tiến mà Âm Dương đều được ngôi, tức là tiến mà có công.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tiến dĩ chính, khả dĩ chính bang dã.
Dịch nghĩa. - Tiến bằng cách chính đáng, có thể chính nước vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lấy đạo chính đáng mà tiến lên, có thể làm cho chính đính nước nhà đến cả thiên hạ. Phàm tiến về việc, tiến về đức, tiền về ngôi, cái gì cũng nên dùng cách chính đáng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy sự biến đổi của quẻ mà thích hai chữ “lợi trinh”. Bởi vì quẻ này, một phần do quẻ Hoán lại, thì hào Chín tiến lên ngôi
Ba, một phần do quẻ Lữ lại, thì hào Chín tiến lên ngôi Năm, đều là được ngôi đáng.
LỜI KINH
Dịch âm.- Kỳ vị, cương đắc trung dã.
Dịch nghĩa. - Thửa ngôi, cứng được giữa vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chữ “ngôi” này chỉ về hào Năm lấy chất Dương cứng trung chính được ngôi tôn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thế quẻ mà nói và chỉ về hào Chín Năm.
LỜI KINH
Dịch âm.- Chỉ nhi tốn, động bất cùng dã.
Dịch nghĩa. - Đậu mà nhún, động chẳng cũng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong ngừng đậu ngoài nhún thuận, đậu là Tượng yên tĩnh, nhún là nghĩa hòa thuận. Người ta tiến lên, nếu theo sự động của lòng dục, thì sẽ nóng nảy mà không thể dần dần, cho nên có sự khốn cùng. Ở nghĩa quẻ Tiệm, trong đậu im mà ngoài nhún thuận, cho nên sự tiến động của nó không bị khốn cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đậy lấy đức quẻ nói về nghĩa dần tiến.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Sơn thượng hữu mộc, Tiệm, quân tử dĩ cư hiền đức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên núi có cây là quẻ Tiệm, đấng quân tử coi đó mà chứa đức hiền, làm hay thói tục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên núi có cây, sự cao của nó có chỗ nhân theo, đó là nghĩa dần dần. Đấng quân tử coi Tượng “dần dần” mà chứa đức hiền thiện, làm tốt cho phong tục. Người ta tiến về hiền đức ắt, phải tập dần mới được, không thể vượt qua chừng độ mà tới ngay. Ở mình còn thế, thì dạy bảo người, nếu không dùng cách dần dần sao được? Dời thói dổi lễ, không thể là việc một sớm một tối có thể làm xong, cho nên làm hay phong tục cũng phải dần dần.

Xem đầy đủ chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Phong Trạch Trung Phu
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Trung phu-Thành tín, cảm hóa vạn vật. Thành tâm đối đãi mọi người. Vận thuận lợi quyết định bằng giao tiếp. bằng lòng chí thành nên đã vượt qua được sự khó khăn, cảm hóa được mọi người.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang an ổn. Đề phòng sự mất yên ổn vì quan hệ nam nữ
● Hy vọng: Phải gắng sức mời như ý
● Tài lộc: có khoản tiền nhỏ
● Sự nghiệp: sẽ thành công nếu kiên trì, thành thực
● Nhậm chức: có địa vị tốt
● Nghề nghiệp: bất lợi khi chuyển nghề
● Tình yêu: đôi bên chân thành, gắn bó
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên
● Đợi người: đang tới
● Đi xa: thuận lợi, trở về bình an
● Pháp lý: hòa giải sẽ tốt
● Sự việc: thể hiện sự thiện chí sẽ giải quyết xong
● Bệnh tật: thuyên giảm nhanh
● Thi cử: kết quả tốt
● Mất của: tìm được
● Người ra đi: biết được chỗ người ra đi
Quẻ: Phong Trạch Trung Phù - Tốn trên; Đoài dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Trung Phu, Tự quái nói rằng: Dè dặt mà tin đó, cho nên tiếp đến quẻ Trung Phu [1-Chữ 中 孚 (trung phu) nghĩa là giữa tin hay trong tin]. Dè dặt là làm ra tiết chế, khiến cho không đến quá vượt, có tin mới thực hành được. Người trên biết tin mà giữ, kẻ dưới biết tin mà theo, tức là dè dặt mà tin, vì vậy quẻ Trung Phu mới nối quẻ tiết. Nó là quẻ trên Chằm là gió, gió đi trên chằm, mà cảm với trong nước, là Tượng “Trong tin”. Cảm nghĩa là cảm mà động. Trong ngoài đều đặc mà giữa rỗng, là Tượng “giữa tin”. Lại hai hào Năm và Hai đề là chất Dương, giữa đặc, cũng là nghĩa tin. Ở hai thể thì giữa đặc, ở cả quẻ thì giữa rỗng; giữa rỗng là gốc sự tin, giữa đặc là chất sự tin.
LỜI KINH
Dịch âm. – Trung phu, đôn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.
Dịch nghĩa. – Quẻ Trung phu: Cá lợn tốt, lợi sang sông lớn, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Lợn nóng nảy, cá lờ mờ, là giống khó cảm trong loài vật. Sự tin có thể cảm đến cá lớn, thì không đâu không tới, vì vậy mới tốt. Lòng trung tín có thể xéo lên nước sôi lửa bong huống chi sang sông, cái đạo giữ đức tin, cốt ở kiên chính, cho nên lợi về chính bền.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Phu là tin. Nó là quẻ hai hào Âm ở trong, bốn hào Dương ở ngoài, mà hai hào Dương Hai và năm đều được chỗ giữa. Nói về quẻ giữa rỗng, nói về hai thể thì giữa đặc, đều là Trượng phu tín. Lại cây ở trên Chằm, ngoài đặc trong rỗng đều là Tượng thuyền lái. Rất tin có thể cảm được cá lợn, có thể qua chỗ hiểm nạn, mà không thể làm cho sự chính bền lớn ra cho nên kẻ xem hễ có thể đem đến sự cảm ứng của loài lớn cá thì tốt mà lợi về sang sông lớn, lại ắt lợi về chính bền.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thoán viết: Trung phu, nhu tại nội nhi cương đắc trung. Duyệt nhi tốn, phu nãi hóa bang dã; đôn ngư cát, cập đồn ngư dã; lợi thiệp đại xuyên, thừa mộc châu hư dã; trung phu dĩ lợi trinh nãi ứng hồ thiên dã.
Dịch nghĩa. – Lời thoán nói rằng: Quẻ Trung Phu, mềm ở trong mà cứng được giữa, đẹp lòng mà nhún, tin bèn hóa nước vậy: Lợn cá tốt, tin kịp lợi cá vậy; lơi sang sông lớn, cưỡi cây thuyền không vậy; giữ tin đề lợi về chính bền, bèn ứng với trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Hai hào mêm ở trong, giữ rông là Tượng thành thực; hai hào cứng được chỗ giữa của hai thể trên duwois, giữa đặc là Tượng đức tin, vì vậy quẻ này mới là quẻ Trung phu. Trên nhún dưới đẹp lòng, tức là người trên đem lòng chí thành mà nhún thuận với kẻ duwois có đức tin để đẹp lòng theo với người trên, như thế thì sự tin mới có thể hóa được bang quốc. Sự tin có thể tới loài lợn cá, tức là là tin tột bậc, vì vậy mới tốt. Dụng sự trung tín mà vượt chốn hiểm nạn thì, cái lợi đó như thể cưỡi cậy vượt ra mà dùng thuyền không vậy. Thuyền không thì không lo chìm đắm, quẻ này rồng giữa là Tượng thuyền không. Giữa tin mà chính bền, thì ứng với trời, đạo trời chỉ có chính bền mà thôi.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Trạch thượng hữu phong, Trung phu, quân tử di nghị ngục hoãn tử.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Trên chằm có gió là quẻ Trung phu. Đâng quan tử coi đó mà bàn việc ngục, hoãn tội chết.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trên chằm có gio, cảm ở trong chằm. Thể nước trông không, cho nên gió mới vào được; lòng người trống không, cho nên các việc mới cảm được. Gió động ở trong chằm cùng như đức tin cảm ở trong lòng, cho nên là Tượng “trung tín – giữa tin”. Đấng quân tử coi tượng đó để bàn việc ngục và hoãn tội chết. Đâng quân tử với sự bàn ngục, chỉ biết lòng thành thực mà thôi; với việc quyết đoán tội chết, cực kỳ thương xót mà thôi, cho nên thành ý thường cần được thư hoãn, thư hoãn là rộng rãi vậy. Với việc thiên hạ không việc gì không hết lòng thành thật của mình, bàn viejc ngục, hoãn tội chết là việc lớn nhất trong các việc đó.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Gió cảm nước nhận, là Tượng “giữa tin”, bàn việc ngục, hoãn tội chết, là ý “giữa tin”.

 + Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thiên Trạch Lý
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Trắc trở, không nguy, có cảm giác sợ hãi, cần dũng cảm, kiên cường mới chiến thắng. Vận rơi vào tình trạng rất hợp lẽ cho mình, nên lấy sự nhu thuận mà ứng phó. Hiện đang có sự ủng hộ của người khác. Không bồng bột ứng xử để người có quyền lực với mình ghét bỏ. Nên hòa mình vào giúp đỡ người xung quanh thì kết quả tốt đến với mình.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: gặp nguy. Hết sức thận trọng. nên dựa vào người trên, cần chu đáo
● Hy vọng: chưa thực hiện được vì chưa nỗ lực lớn
● Tài lộc: không như ý
● Sự nghiệp: gian khó mà không xong
● Nhậm chức: khó như ý, phải chờ thời.
● Nghề nghiệp: chưa thích hợp chuyên nghề, cuối cùng xong
● Tình yêu: đôi bên chưa chín muồi
● Hôn nhân: tưởng thuận lợi, song khó thành
● Đợi người: chờ lâu, đến
● Đi xa: nên bỏ ý định vì sẽ gặp bất trắc
● Pháp lý: cố tránh để khỏi thất bại
● Bệnh tật: nhiều khó khăn khó giải quyết
● Thi cử: nguy, có biến chứng
● Mất của: bị vật khác che lấp
● Người ra đi: hiện chưa về

Quẻ: Thiên Trạch Lý - Kiền trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lý [1-Chữ 履(lý) nghĩa là giày lên, xéo lên]. Tự Quái nới rằng: Người ta chứa họp rồi mới có lẽ, cho nên tiếp đến quẻ Lý. Ôi, người ta họp lại, thì có lớn nhỏ, cao thấp, tốt xấu khác nhau, đó là người ta chứa họp, rồi mới có lễ, vì vậy quẻ Lý mới nối quẻ Tiểu súc. Lý tức là lễ, lễ là cái cái mà người ta xéo lên [2-Chữ “xéo lên” này nghĩa là theo đó mà đi, không phải có ý đầy đọa như chữ “xéo lên” mà ta vẫn nói]. Nó là quẻ trời nên chằm dưới, trời mà ở trên, chằm mà ở dưới, đó là phận trên dưới, là nghĩa tôn ty, lẽ phải như thế. Lễ là gốc của đạo làm người và là con đường người ta thường thường xéo lên, cho nên mới là quẻ Lý. Lý nghĩa là giầy, là bị giầy…Là kẻ mềm yếu mà giầy lên kẻ cứng mạnh cho nên là Lý. Không nói cứng giầy lên mềm mà nói mềm giầy lên cứng, là vì kẻ cứng cưỡi lên kẻ mềm tức là lẽ thường, không đáng nói. Cho nên trong Kinh Dịch chỉ nói kẻ mềm cưỡi kẻ cứng, không nói kẻ cứng cưỡi kẻ mềm.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Lý hổ vĩ, bất chất nhân, hanh!
Dịch nghĩa. - Xéo đuôi cọp, không cắn người, hanh!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lý là đường người ta vẫn xéo, trời ở trên mà chằm ở dưới, lấy kẻ mềm bị gìầy xéo với kẻ cứng, trên dưới đều đúng nghĩa, là việc rất thuận, lẽ rất đáng, người ta cứ thế mà đi, tuy xéo vào chỗ nguy hiểm cũng không hại gì, cho nên xéo lên đuôi cọp mà không bị cắn, vì vậy mớihanh được.
Bản nghĩa của Chu Hy.- Đoái cũng là tên quẻ ba vạch, một vạch Âm hiện ở trên hai vạch Dương, cho nên đức nó là đẹp lòng, Tượng nó là chằm. “Lý” nghĩa là cố chỗ noi theo mà lên, Đoái mà gặp Kiền tức là hòa thuận đẹp lòng để theo sau kẻ cứng mạnh, có Tượng “xéo lên đuôi cọp mà không bị cắn”, cho nên quẻ Lý nó là Lý mà Chiêm thì thế. Người ta có thể như thế thì tuy ở chỗ hiểm nghèo cũng không hại gì.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Lý, nhu lý cương dã; duyệt nhi ứng hồ Kiền, thị dĩ lý hổ vĩ, bất chất nhân, hanh. Cương trung chính, lý đế vị bất khứu, quang minh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Lý là mềm xéo theo cứng. Đẹp lòng mà ứng với trời, thế cho nên xéo đuôi cọp, không cắn người, hanh. Dương cương trung chính, xéo ngôi vua mà không mỏi mệt, sáng láng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đoái là Âm mềm, xéo tựa Kiền là Dương cứng, đó là mềm xéo theo cứng. Đoái lấy đức đẹp lòng xuôi thuận ứng với Kiền là Dương cương mà xéo tựa nó, ấy là dưới thuận với trên, Âm vâng theo Dương, chính là lý chí trong thiên hạ. Xéo mà như thế, rất thuận rất đáng, tuy xéo đuôi cọp cũng không bị đau hại. Cứ thế xéo đi, sự hanh thông có thể biết chắc. Hào Chín Năm lấy đi đức Dương Cương trung chính, cao xéo ngôi vua mà không mệt mỏi, ấy sự rất khéo trong cách “xéo”, tức là kẻ sáng láng vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy.- Câu đầu dùng hai thể thích nghĩa tên quẻ, câu giữa dùng đức quẻ thích lời Thoán [3-Chỉ về lời Thoán của Văn Vương, tức câu 履虎尾,不唾⼈亨(lý hổ vĩ bất chất nhân, hanh)] câu cuối lại lấy thể quẻ nói rõ cho ra, có ý chỉ về hào Chín Năm.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Thượng thiên hạ trạch, Lý, quân tử dĩ biện thượng hạ, định dân chí.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên trời dưới chằm, là quẻ Lý, đấng quân vương coi đó mà phân biệt trên dưới, định chí dân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trời ở trên, chằm ở dưới, tức là chính lý trong thiên hạ. Sự xéo đi của người ta cũng nên như thế, nên mới lấy tượng của nó mà làm quẻ Lý. Đấng quân tử theo Tượng quẻ Lý mà phân biệt phận của trên dưới, để định chí dân của mình.
 + Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Hỏa Trạch Khuê
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Khuê-Bất hòa quan điểm, lập trường sinh tranh chấp. Cần An phận thủ thường, cố tìm điểm chung, khéo léo dẫn dắt. Trên dưới không thông nhau, mọi việc bế tắc. Nếu làm việc nhỏ thì được.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: do phán đoán và tính sai lầm mà gặp khó khăn. Không nên tranh chấp, hãy thoát ra sự mâu thuẫn.
● Hy vọng: khó thành hiện thực.
● Tài lộc: không có.
● Sự nghiệp: có sai lầm dẫn đến thất bại.
● Nhậm chức: khó được như ý.
● Nghề nghiệp: giữ việc cũ thì hơn.
● Tình yêu: hai bên không hợp nhau.
● Hôn nhân: khó thành, không phải lương duyên.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: giữa đường gặp trở ngại.
● Pháp lý: nên hoà giải vì có cơ thất bại.
● Sự việc: cần tính toán kỹ.
● Bệnh tật: thay đổi phương án điều trị sẽ khỏi.
● Thi cử: kết quả xe với dự kiến.
● Người ra đi: không rõ mục đích.
Quẻ: Hỏa Trạch Khuê - Ly trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khuê. Tự quái nói rằng: Đạo nhà cùng ắt phải trái, cho nên tiếp đến quẻ Khuê [1-Chữ 睽(Khuê) nghĩa là trái lìa nhau]. Khuê nghĩa là trái, đạo nhà cùng thì sai trái lìa tan, lý ắt phải thế, cho nên sau quẻ Gia nhân tiếp đến quẻ Khuê. Nó là quẻ trên Ly dưới Đoái, lửa Ly bốc lên chằm Đoái thấm xuống, là nghĩa hai thể trái lìa nhau vậy. Lại, con gái giữa và út tuy là cùng ở mà chỗ về khác nhau, ấy là chí không cùng đi với nhau, cũng là nghĩa trái lìa.
LỜI KINH
Dịch âm. - Khuê, tiểu sự cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Khuê, việc nhỏ tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khuê là thì sai trái lìa tan, chẳng phải đạo tốt. Vì tài quẻ này, tuy ở thì “lìa” mà việc nhỏ thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Khuê là trái khác. Là quẻ trên lửa dưới chằm, tính trái khác nhau; con gái giữa, con gái út, chí không cùng về với nhau, cho nên là lìa. Nhưng lấy đức quẻ mà nói, thì trong đẹp lòng mà ngoài sáng sủa; lấy sự biến đổi của quẻ mà nói, thì: ở quẻ Ly lại, là hào mềm tiến lên ở ngôi Ba; ở quẻ Trung phu lại, là hào mềm tiến lên ở ngôi Năm, ở quẻ Gia nhân lại, thì gồm cả hai kiểu đó; lấy thể quẻ mà nói, thì, hào Sáu Năm được chỗ giữa mà phía dưới ứng vớí hào Chín Hai là hào cứng, cho nên lời Chiêm của nó không thể làm việc lớn, mà việc nhỏ còn có cách tốt.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết; Khuê, hỏa động nhi thượng, trạch động nhi hạ, nhị nữ đồng cư, kỳ chí bất đồng hành.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Khuê, lửa động mà lên, chằm động mà xuống, hai gái cùng ở, mà chí họ không cùng đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lời Thoán trước thích nghĩa chữ “khuê”, thứ nói tài quẻ, chót nói về cách hợp lại sự lìa tan mà ngợi khen công dụng về thì đại của nó lớn lao. Tính lửa động mà lên, tính chằm động mà xuống, tính của hai vật trái khác hẳn nhau, cho nên là lìa, hai gái giữa út, tuy là cùng ở, mà chí họ không cùng đi, cũng là nghĩa lìa. Con gái, lúc nhỏ còn ở chung, lúc lớn, ai về nhà chồng nấy, thế là chí họ khác nhau. Nói “lìa” là gốc chung nhau, nếu gốc không chung nhau thì không phải là lìa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy tượng quẻ thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Duyệt nhi lệ hồ minh, nhu tiến nhi thượng hành, đắc trung, nhi ứng hồ cương, thị dĩ tiểu sự cát.
Dịch nghĩa. - Đẹp lòng mà bám vào sáng, mềm tiến mà đi lên, được giữa mà ứng với cứng, vì vậy việc nhỏ tốt.
GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. - Tài quẻ như thế, cho nên việc nhỏ tốt. Đoái là đẹp lòng, Ly là bám vào, lại là sáng, cho nên mới là đẹp lòng phụ bám vào chỗ sáng. Hễ quẻ Ly ở trên, lời Thoán muốn cho thấy rõ chất mềm ở ngôi tôn, thì nói “mềm tiến mà đi lên”, tức như quẻ Tấn quẻ Đinh đó. Đương thời trái lìa, hào Sáu Năm lấy chất mềm ở ngôi tôn, có cái hay về sự đẹp lòng thuận bám chỗ sáng, lại được trung đạo mà ứng với kẻ cứng, tuy không thể làm hợp sự lìa của thiên hạ, làm nên việc lớn trong thiên hạ, nhưng cũng có thể làm được việc nhỏ. Thế là việc nhỏ thì tốt. Hào Năm lấy chất sáng mà ứng với kẻ cứng, sao lại không thể đem lại được sự tốt lớn? Đáp rằng: Hào Năm là hạng Âm mềm, tuy có ứng với hào Hai, mà trong thì “lìa” cái cách chung cùng với nhau chưa được sâu bền, cho nên hào Hai ắt phải “gặp chúa ở ngõ”, hào Năm “cắn da”, thì không có lỗi. Trong thiên hạ lìa tan ắt phải vua tôi đều là Dương cương trung chính, thật lòng hiệp sức, thì mới có thể hợp được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy đức quẻ, sự biến đổi của quẻ, và thể quẻ mà thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa khuê nhi kỳ sự đồng dã, nam nữ khuê nhi kỳ chí thông dã, vạn vật khuê nhỉ kỳ sự loại dã. Khuê chi thì dụng đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Trời đất lìa nhau mà thửa việc cùng nhau, trai gái lìa nhau mà thửa chi thông nhau vậy, muôn vật lìa nhau mà thửa việc giống nhau vậy. Thời dụng của quẻ Khuê lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Suy chỗ đồng nhau của vật lý để tỏ thời dụng của quẻ Khuê, đó là cái đạo thánh nhân làm hợp sự lìa. Thấy đồng nhau là đồng nhau, đó là trí thức của bọn thế tục, thánh nhân thì biết rõ chỗ vốn đồng nhau của vật lý, vì vậy mới có thể thông đồng thiên hạ, hòa hợp muôn loài. Lấy trời đất muôn vật mà nói cho rõ, thì: trời cao đất thấp, thể nó lìa nhau, nhưng Dương xuống Âm lên, hòa hợp nhau mà làm nên việc hóa dục thì vẫn đồng nhau, sinh vật khác nhau muôn vẻ lìa nhau, nhưng được sự hòa hợp của trời đất, bấm thục khí của Âm Dương thì vẫn giống nhau. Vật tuy khác mà lý vốn giống nhau. Cho nên lớn như thiên hạ, nhiều như các sinh vật, lìa tan muôn ngả đấng thánh nhân có thể làm cho đồng nhau. Ở thì quẻ Khuê, hợp sự, dùng của quẻ Khuê, việc đó rất lớn, cho nên nói rằng “lớn vậy thay”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cực cái lý của nó, mà người khen thêm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thượng hỏa, hạ trạch, Khuê, quân tử dĩ đồng nhi dị.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên lửa, dưới chằm, là quẻ Khuê. Đấng quân tử coi đó để cùng mà khác.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên lửa dưới chằm, tính của hai vật trái khác nhau, vì vậy mới là tượng lìa cách. Đấng quân tử coi Tượng lìa khác nhau đó, mà trong chỗ đại đồng, biết cái nên khác nhau. Ôi, thánh hiền ở đời, về sự thường của “lẽ người”, chẳng cái gì mà chẳng đại đồng với thế tục, nhưng chỗ đồng nhau đó, có khi lại riêng khác họ. Nghĩa là về sự “cẩu đạo thường của trời cho” thì đồng nhau, mà về sự lỗi lầm của thế tục thì khác nhau. Không thể đại đồng, tức là kẻ thế tục quen làm xằng, cốt ở đồng nhau mà biết khác nhau thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hai quẻ hợp thể mà tính không giống nhau.

 + Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Sơn Trạch Tổn
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tổn-Hung trước, Cát sau. Kiên trì không nản, công thành danh toại. Tượng trưng cho tổn thất, phá hỏng, phải biết tuỳ thời, giảm cương nếu cương, giảm nhu nếu như, nếu vơi quá phải làm cho bớt vơi đi, nếu sáng quá hãy giảm sáng đi… nghĩa là hãy quay về với cái dung dị, với cái quân bình thì mọi việc mới ổn. nên biết mất, biết hy sinh, biết chịu thiệt thì mới thành công.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang suy vi, tổn thất nhưng sắp chuyển sang vận tốt. Có nền tảng cho phát triển trong tương lai.
● Hy vọng: không nóng vội, chờ ít lâu sau sẽ được như ý.
● Tài lộc: hiện chưa có, nếu an tâm chờ đợi sẽ như ý.
● Sự nghiệp : chưa gặp thời cơ
● Nhậm chức: dần dần sẽ có địa vị cao.
● Nghề nghiệp: chưa thể chuyển nghề, nên làm việc cũ.
● Tình yêu: không thành.
● Hôn nhân: khó thành.
● Đợi người : đến muộn.
● Đi xa : bình thường.
● Pháp lý: nên hoà giải vì bất lợi.
● Bệnh tật: lâu khỏi.
● Thi cử: kết quả không như ý.
● Mất của: không tìm được.
● Người ra đi: không lợi.

Quẻ: Sơn Trạch Tổn - Cấn trên ; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tổn. Tự Quái nói rằng: Giải nghĩa là hoãn, hoãn thì có mất, cho nên tiếp đến quẻ Tổn [1-Chữ 损 (tổn): Nghĩa là bớt đi, là hao tổn, trái với chữ 益 (ích)]. Hoãn thì ắt có cái bị mất, mất thì là tổn, vì vậy quẻ Tổn mới nối quẻ Giải. Nó là quẻ Cấn trên Đoái dưới, thể núi cao, thể chằm sâu, dưới sâu thì trên càng cao, là nghĩa ích trên tổn dưới. Lại, chằm ở dưới núi, khí nó thông lên, nhuần tới cây cỏ trăm vật, đó là tổn dưới mà ích trên. Lại, dưới là quẻ Đoái chủ sự đẹp lòng, ba hào đều ứng lên trên, đó là chỉ thích phụng thửa người trên, cũng là nghĩa tổn dưới ích trên. Lại, quê Đoái ở dưới mà thành quẻ Đoái, là do ở hào Sáu Ba biến đi, quẻ Cấn ở trên mà thành quẻ Cấn, là do ở hào Chín Trên biến đi hào Ba vốn cứng mà hóa mềm, hào Trên vốn mềm mà hóa cứng, cũng là nghĩa tổn dưới ích trên. Bớt của trên mà thêm cho dưới là quẻ Ích, lấy của dưới mà thêm cho trên là quẻ Tổn. Kẻ ở trên người ta thi ân tới kẻ dưới là ích, lấy của kẻ dưới để thêm cho mình là tổn. Ví như đầy lũy, lấy bớt trên để đắp đầy nền gốc, thì trên dưới yên chắc, há chẳng phải ích? Lấy ở dưới để làm cho trên cao thêm, thì sẽ nguy đồ tức thì, há chẳng phải là tổn. Cho nên quẻ Tổn là nghĩa tổn dưới ích trên, quẻ Ích thì trái hẳn thế
LỜI KINH
Dịch âm. - Tổn hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh, lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tổn, có tin, cả tốt, không lỗi, khá trinh, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tổn là giảm bớt, phàm việc nén bớt sự thái quá, để tới nghĩa lý, đều là đạo “bớt” vậy. Đạo “bớt” ắt có thành tín, nghĩa là chí thành thuận lý vậy. Bớt mà thuận lý thì cả thiện mà tốt. Cái đã bớt mà không quá sai, thì có thể chính bền, thường làm mà lợi có thửa đi vậy. Sự bớt của người ta hoặc thái quá hoặc bất cập, hoặc bất thường, đều không hợp chính lý, không phải có tin, thì không tốt mà có lỗi, không phải cái đạo có thể chính bền, thì không nên làm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tổn là giảm bớt. Nó là quẻ bớt vạch Dương trên của quẻ dưới, thêm vào vạch Âm trên của quẻ trên, lấy bớt sự sâu của chằm Đoái, thêm vào sự cao của núi Cấn, tổn dưới ích trên, tổn trong ích ngoài, là Tượng đẽo gọt cửa dân để cung phụng vua, vì vậy mới là quẻ Tổn. Bớt cái đáng bớt mà có tin tín, thì Chiêm của nó sẽ ứng với bốn điều dưới (tức là cả tốt, không lỗi có thể chính bền, lợi có thửa đi).
LỜI KINH
Dịch âm. - Hạt chi dụng? Nhị quĩ khả dụng hưởng.
Dịch nghĩa. - Chưng dùng gì? Hai quĩ [2-Coi lời chua quẻ khảm] khá dùng hưởng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tổn là bớt Cái thái quá mà tới mực vừa phải, bớt cái nổi nênh, ngành ngọn mà tới chỗ rễ gốc đầy đặc vậy. Đấng thánh lấy nhân lấy sự “thà kiệm” làm gốc của lẽ, cho nên vì sự “bớt” mà phát minh cái nghĩa của nó. Lấy sự cúng tế mà nói, cái lễ cúng tế, nghi văn rất phiền phức, nhưng phải lấy sự thành kính làm gốc. Lắm nghi tiết nhiều đồ vật là để đưa sức lòng thành kính đố. Nếu sự trang sức quá sự thành kinh, thì là giả dếỉ.
Bởi sự trang sức là để cho còn sự thành kính, cho nên nói rằng: “Chưng dùng gì? Hai quĩ, khá dùng hưởng”. Tần tiện đến hai quĩ, mà có thể dùng để cúng tế, ý nói cốt ở lòng thành mà thôi. Lòng thành tức là cái gốc. Tai hại của thiên hạ, không cái gì không do ở ngọn lớn quá: nóc cao tường trạm, gốc ở cửa nhà, ao rượu rừng thịt, gốc ở ăn uống, dâm bạo tàn nhẫn gốc ở hình phạt, cũng binh độc võ, gốc ở đánh dẹp, phàm lòng ham muốn cúa người ta mà đến thái quá, đều gốc ở sự phụng dưỡng, rồi ngành ngọn của nố xa đi, thì thành tai hại. Đấng tiên vương hạn chế cái gốc, ấy là lẽ trời, người sau trôi theo cái ngọn, ấy là lòng ham muốn của người. Nghĩa quẻ Tổn là bớt lòng ham muốn của người để khôi phục lẽ trời mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ý nói nên bớt đi, dù rất bạc cũng không hại gì.
Lời bàn của Tiên Nho. - Từ Tiến Trai nói rằng: “Chưng dùng gì” là lời hỏi “Hai quĩ, khá dùng thưởng”, là lời đáp. Kẻ dưới cung phụng người trên, đều gọi là “hưởng”, không phải “hưởng” là cúng tế.
Hồ Vân Phong nói rằng: Người trên có khi vì bất đắc dĩ mà lấy bớt của kẻ dưới, không phải để cung phụng cho mình. “Chưng dùng gì? Hai quĩ, khá dùng hưởng”, chữ “hưởng” làm lời dạy, là vì trong thì “tổn”, sự hưởng tự còn không quá đáng, thì cái để cung phụng cho mình có thể biết được. Đời xưa lễ cúng bày đồ cúng, quĩ là thịnh soạn, bốn quĩ là trung bình hai quĩ là giản. Thì quẻ Khảm, chỉ dùng một quĩ, một chén, thì là giản nữa.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tổn, tổn hạ ích thượng, kỳ đạo thượng hành.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: quẻ Tổn, bớt dưới thêm trên, thửa đạo đi lên.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tổn sở dĩ là tổn, vì nó tổn ở dưới mà ích lên trên. Lấy của dưới để thêm cho trên, cho nên nối rằng thửa đạo đi lên. Ôi, bớt của trên mà thêm cho dưới thì là quẻ Ích, bớt của dưới mà thêm cho trên thì là quẻ Tổn, lấy bớt nền gốc để đắp cho cao, há gọi là ích được chăng?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể quẻ thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tổn nhi hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Tổn mà có tin, cả tốt, không lỗi, có thể chính bến, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ý nói tổn mà dùng sự chí thành, thì được bốn điều từ chữ “cả tốt” trở xuống, đó là sự rất phải trong đạo tổn vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Hạt chi dụng? Nhị quĩ, khả dụng hưởng, nhị quĩ ưng hữu thì, tổn cương ích nhu, hữu thì.
Dịch nghĩa. - Chưng dùng gì? Hai quĩ, khá dùng hưởng. Hai quĩ nên có thì, bớt cứng thêm mềm có thì.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là đức Phu Tử thích riêng câu “Chưng dùng gì? Hai quĩ, khá dùng hưởng”. Lời quẻ chỉ nói vắn tắt là nên bỏ bớt sự phù hoa mà rằng “Dùng làm gì đâu? Hai quĩ có thể cứng rồi” ấy là dầy gốc mà bớt ngọn vậy. Đức Phu Tử sợ rằng người sau không hiểu, bèn cho là nên bỏ hết sự văn sức, cho nên nói cho rõ ra. Có gốc ắt có ngọn, có thực ắt có văn, muôn việc thiên hạ, không việc gì không thể. Không có gốc thì không đứng được, không có văn thì không thực hành được: cha con chủ về ân, ắt phải có đạo nghiêm thuận, vua tôi chủ về kinh, ắt phải có phép thừa tiếp lễ nhượng chứa ở trong, phải chờ dáng dấp mới thi hành được, tôn ty có thứ tự, nhưng không có văn vẻ của đồ vật thì không phân biệt, văn với thực vẫn phải chở nhau, không thể thiếu thứ nào. Tới khi lễ văn hơn lên, ngành ngọn trôi đi, xá gốc, mất thực, ấy là thời đáng bớt, cho nên nói rằng: “Dùng làm gì đâu? Hai quĩ đủ để dâng lòng thành rổi”. Ý nói nên chăm vào sự thực mà giảm bớt sự phù sức vậy. Đức Phu Tử sợ rằng người ta câu nệ về lời nói ấy, cho nên lại nói rõ rằng: “Dùng cách chất phác như có hai quĩ nên có từng thời, không phải lúc đáng dùng mà dùng thì không thể được”. Nghĩa là sự văn sức chưa thái quá mà đã bớt đi, và bớt đi mà đến thái quá, thì là không phải. Bớt cứng thêm mềm có thì là sao? Cứng là thái quá, mềm là không đủ, sự thêm bớt đều là bớt của cái cứng thêm cho cái mềm, ắt phải thuận thời mà làm, thời không đáng thêm bớt mà thêm bớt thì là không phải.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tổn ích doanh hư, dữ thì giai hành.
Dịch nghĩa. - Bớt thêm đầy rỗng, cùng thì đều đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hoặc bớt, hoặc thêm, hoặc đầy, hoặc rộng, chỉ là tùy thời mà thôi, thái quá thì bớt đi, không đủ thì thêm vào, vơi thì làm cho đầy, đặc thì làm cho rỗng, thế là cùng thì đều đi.
Bản nghĩa của Chu Hy. Đây thích lời quẻ. Thời là lúc nên bớt đi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn hạ hữa trạch, Tổn, quân tử dĩ trừng phẫn, chất dục.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới núi có chằm, là quẻ Tổn đấng quân tử coi đó mà răn sự giận, lấp lòng dục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dưới núi có chằm, khí nó thông lên, và thấm lên, và đào chỗ thấp để làm cho tăng bề cao, đều là Tượng “bớt của kẻ dưới”. Đấng quân tử xem Tượng “sự bớt” đó mà tự mình bớt đi. Trong đạo sửa mình, cái nên bớt chỉ là sự tức giận và lòng tham muốn, cho nên mình phải lấy đức mà răn sự giận, lấp hết ý muốn của mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đấng quân tử sửa mình, cái nên giảm bớt, không gì quan hệ bằng mấy điều này.

 + Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Sơn Thiên Đại Súc
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Đại súc-Chờ thời, bảo toàn lực lượng, tuân tự tiệm tiến sẽ, tiến lùi theo thời thế sẽ phát triển lớn. cho thấy làm những việc chính đáng thì rất tốt, được hưởng tài lộc từ xã hội làm các việc lớn cho xã hội thì rất tốt cho bản thân.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: vượt qua được khó khăn, vận thế tốt dần song mọi việc làm phải thận trọng.
● Hy vọng: phải chờ đợi mới như ý.
● Tài lộc: sắp tới có nhiều nguồn, thu nhập cao.
● Sự nghiệp: ban đầu khó khăn, sau dần dần thuận lợi, cuối cùng có thành công.
● Nhậm chức: phải chờ đợi một thời gian mới có địa vị như ý.
● Nghề nghiệp: an phận nghề hiện tại, chờ ít lâu sau chuyển thì mới tốt.
● Tình yêu: đến nhanh, nhưng cuối cùng không thành.
● Hôn nhân: có thể đến hôn nhân nhưng tốn thời gian. Đề phòng giữa chừng đoạn tuyệt.
● Đợi người: có đến nhưng muộn.
● Đi xa: vui vẻ.
● Pháp lý: tốn nhiều thời gian thì được kiện, hòa giải là tốt nhất.
● Sự việc: không nóng vội mới giải quyết xong.
● Bệnh tật: tình trạng kéo dài, lúc nặng lúc nhẹ.
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: tìm ở bên dưới vật khác sẽ thấy.
● Người ra đi: chưa có hướng và mục đích.
Quẻ: Sơn Thiên Đại Súc – Cấn trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Đại Súc, Tự quái nói rằng: Có không càn rồi sau mới có thể chứa, cho nên tiếp đến quẻ Đại Súc [1-Đại Súc nghĩa là chứa lớn]. Không càn thì tức là có thực chất, cho nên có thể chứa họp. Vì vậy, quẻ Đại Súc mới nối với quẻ Vô Vọng. Nó là quẻ Cấn trên Kiền dưới, trời mà ở vào trong núi, là Tượng cái chứa rất lớn. Súc là chứa ngăn, lại là chưa họp, ngăn thì phải họp, lấy Tượng trời ở trong núi thì là chứa họp; lấy nghĩa Cấn mà ngăn Kiền thì là chứa ngăn. Ngăn rồi mới chứa, cho nên ngăn là nghĩa chứa.
LỜI KINH
Dịch âm. – Đại Súc lợi trinh bất gia thực, cát, lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. – Quẻ Đại Súc lợi về sự chính, chẳng ăn ở nhà, tốt lợi sang sông lớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Chẳng gì lớn bằng trời, mà lại ở vào trong núi, Cấn ở trên mà ngăn Kiền ở dưới, đều là Tượng chứa đựng rất lớn. Ở người ta thì là đạo đức học thuật đầy chứa ở trong, tức là cái chứa lớn lắm. Phàm sự chứa họp, đều chuyên nói về cái lớn hơn. Sự chứa đựng, nên được chính đạo, cho nên nói là lợi về sự chính. Ôi những dị đoan, thiên học [2-Dị đoan nghĩa là mối khác. Tiếng của nhà Nho thì những học phái ngoài phái mình. Thiên học là học chuyên về một phương diện như Hình danh học, Âm Dương học v.v…], họ chứa rất nhiều, mà sự bất chính vẫn có. Đã có đạo đức đầy chứa ở trong, nên ở ngôi trên, để hưởng lộc trời, thi thố với thiên hạ, thì chẳng những là tốt một mình, mà lại tốt cả thiên hạ. Nếu phải ở vào hoàn cảnh cùng mà ăn ở nhà, thì là đạo gặp lúc bĩ, cho nên, chẳng ăn ở nhà thì tốt. Cái chứa đã lớn, nên đem thi thố với đời, giúp sự gian hiểm của thiên hạ, ấy là sự dùng của cái chứa lớn, cho nên lợi sang sông lớn. Đây chỉ theo nghĩa dưới lớn mà nói, lời Thoán lại lấy tài đức của quẻ mà nói. Các hào thì chỉ có nghĩa chứa ngăn. Bởi vì Kinh Dịch chủ về thể đạo tùy nghi [3-Trong tiếng thể đạo, chữ thể là động từ (verbe), nghĩa là thể theo. Thế đạo tức uốn nắn, đo đắn cho đúng với đạo, như thể lấy đạo làm hình thể vậy. Nêu thể nào làm theo thể ấy, tức là tùy nghi], chỉ lấy những điều rõ và gần hơn.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Lớn tức là Dương, lấy Cấn chứa Kiền, lại là sự chứa to lớn. Lại nữa, trong là thể Kiền cứng mạnh, ngoài là thể Cấn dày đặc sáng sủa, cho nên có thể mỗi ngày mỗi làm cho đức của mình mới ra, mà thành sự chứa to lớn. Nói về sự biến hóa của quẻ, thì quẻ này do ở quẻ Nhu đi lại, hào Chín bởi tự hào Năm đi lên. Nói về thể quẻ, thì hào Sáu Năm tôn mà chuộng nó. Nói về đức quẻ, thì nó ngăn được sự mạnh. Bấy nhiêu điều đó, không phải là bậc cả chính thì không làm nổi. Cho nên lời Chiêm của nó là lợi về đường chính, không ăn ở nhà thì tốt. Lại, hào Sáu Năm dưới ứng với Kiền là ứng vớí trời, cho nên lời Chiêm của nó lại là lợi sang sông lớn. Chẳng ăn ở nhà nghĩa là ăn lộc ở triều, không ăn ở nhà.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thoán viết: Đại Súc cương kiện, đốc thực, huy quang, nhật tân kỳ đức.
Dịch nghĩa. – Lời Thoán nói rằng: Quẻ Đại Súc cứng mạnh, dầy đặc, sáng sủa ngày ngày làm mới đức nó.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Đây nói về tài đức của quẻ. Thể Kiền cứng mạnh, thể Cấn dầy đặc, tài của người ta cứng mạnh dầy đặc, thì cái chứa của họ dầy đặc mà có ánh sáng, chứa mãi không thôi, thì đức của họ một ngày một mới.
Bản nghĩa của Chu Hy. Đây lấy đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. – Cương thượng nhi thượng hiền, năng chỉ kiện, đại chính dã.
Dịch nghĩa. – Cứng lên mà chuộng trời, hiền, ngăn được sự mạnh, cả chính vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Cứng lên là Dương ở trên. Dương cứng ở trên ngôi tôn là nghĩa chuộng người hiền; sự đậu ở trên sự mạnh là nghĩa ngăn được sự mạnh. Ngăn đậu sự mạnh, không phải là bậc cả chính thì làm không nổi. Lấy đức Dương cương ở trên và tôn chuộng người hiền đức, ngăn được sức rất mạnh, đều là đạo cả chính.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây dùng sự biến hóa của quẻ và thể thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. – Bất gia thực, cát, dưỡng hiền dã.
Dịch nghĩa. – Chẳng ăn ở nhà, tốt, là nuôi người hiền vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây cũng láy tượng chuộng người hiền.
LỜI KINH
Dịch âm. – Lợi thiệp đại xuyên, ứng hồ thiên dã.
Dịch nghĩa. – Lợi về sự sang sông lớn, là ứng với trời vậy.
GIẢI NGHỈA
Truyện của Trình Di. – Người có chứa lớn, nên phải đem cái chứa ra để giúp thiên hạ, cho nên không ăn ở nhà thì tốt, nghĩa là ở ngôi tôn, hưởng lộc trời vậy. Đó là nhà nước nuôi người hiền, người hiền được thi hành cái đạo của mình. Lợi sang sông lớn, nghĩa là những người có chứa đựng lớn nên giúp cho thiên hạ vượt qua sự gian hiểm. Lời Thoán lại phát minh tài quẻ mà rằng “Sở dĩ sang được sông lớn là vì nó ứng với trời”, hào Sáu Năm phía dưới ứng với hào giữa của quẻ Kiền, ấy là ông vua chứa lớn theo trời mà làm việc. Việc làm đã ứng với trời, thì không có sự gian hiểm nào mà không thể vượt qua, huống chi việc khác.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây cũng lấy thể quẻ mà nói.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Thiên tại sơn trung, Đại Súc, quân tử dĩ đa chí tiền ngôn vãng hạnh, dĩ súc kỳ đức.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Trời ở trong núi, là quẻ Đại Súc, đấng quân tử coi đó mà ghi nhiều lời trước, nết xưa, để nuôi đức mình.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trời là vật rất lớn mà ở trong núi, đó là Tượng “thửa chứa rất lớn” đấng quân tử coi Tượng đó mà làm cho lớn cái chứa đựng của mình. Sự chứa đựng của người ta bởi học mà lớn, cốt ở nghe nhiều lời nói và việc làm của các thánh hiền đời xưa, khảo nghiệm để xem sự dùng của họ, xét lời họ để tìm bụng họ, ghi cho được những cái ấy để nuôi nên cái đức của mình, đó là nghĩa “đại súc”.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Trời ở trong núi, chẳng cứ thật có việc đó, chỉ lấy cái tượng mà nói đó thôi.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Sơn Hoả Bí-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Bí-Mở đường khi vận đến, dựa vào thực lực để bức phá. Vận thế tốt, cân Hình tương và nhân cách đi đôi, sự việc sẽ có hanh thông, thuận lợi nhưng không lâu và nhiều. Do vậy, muốn có sự thuận lợi đòi hỏi bản thân phải thể hiện khả năng thực lực, chứ không phải ban những biện pháp ngoại giao, làm đẹp lòng người khác.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện trong tình trạng có khó khăn, không toại ý. Muốn thoát ra được phải hành động đúng theo thân phận hiện tại để vượt qua, sau đó qua được thì tiến lên.
● Hy vọng: có hy vọng, nhưng còn xa, hiện không nên hy vọng nhiều
● Tài lộc: có, nhưng chưa đến ngay
● Sự nghiệp: ban đầu có, đề phòng sự sa sút về sau và lúc hữu danh vô thực
● Nhậm chức: chưa hoàn toàn như ý
● Nghề nghiệp: giữ nguyên việc cũ, nghề cũ thì tốt
● Tình yêu : đôi bên không ưa nhau
● Hôn nhân: khó hợp, không nên tin người ngoài
● Đợi người: sắp tới
● Đi xa: có tốn kém nhưng đạt mục đích
● Pháp lý: nên hoà giải thì tốt, nếu cố tranh chấp sẽ thất bại
● Sự việc: khó xong vì chưa đồng lòng
● Bệnh tật: có nhẹ, nhưng đề phòng trầm trọng
● Thi cử: đạt mức bình thường
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: không mục đích ra đi, sau trở về
Quẻ: Sơn Hỏa Bí - Cấn trên; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Bí, Tự quái nói rằng: “Hạp” nghĩa là hợp, các vật không thể hợp lại bằng cách cầu thả, cho nên tiếp đến quẻ Bi. Bí là trang sức, các vật hợp nhau, ắt có văn vẻ, văn vẻ tức là trang sức. Ví như người ta tụ họp thì có dáng dấp lên xuống, các vật tụ họp thì có thứ tự hàng dãy, đó là họp nhau ắt có văn vẻ. Vì vậy, quẻ Bí mới nối quẻ Phệ hạp. Nó là quẻ dưới núi có lửa, núi là cây cỏ trăm vật tụ họp, dưới núi có lửa chiếu lên, cỏ cây phẩm loại đều được chùm trong ánh sáng màu vẻ của nó, đó là cái tượng phần sức, cho nên mới là quẻ Bí.
LỜI KINH
Dịch âm. - Bí hanh, lợi tiểu hửu du vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Bí hanh, hơi lợi có thửa đi,
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Các vật có trang sức mới có thể hanh thông, cho nên nói rằng: “Không gốc không đứng, không có văn vẻ thì không làm được, có sự thực mà thêm văn sức, thì có thể hanh. Cái đạo văn sức, có thể thêm phần sáng sủa văn vẻ, chữ nên lợi về sự tiến lên.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bí là trang sức. Trong quẻ này, một phần tự quẻ
Tổn lại, là chất mềm tự hào Ba, lại mà văn sức cho hào Hai, chất cứng tự hào
Hai lên mà văn sức cho hào Ba; một phần tự quẻ Ký tế lại, là chất mềm tự hào Trên lại mà văn sức cho hào Năm, chất cứng tự hào Năm lên mà văn sức cho hào Trên. Lại, trong Ly ngoài Cấn, có tượng văn vẻ sáng sủa, ai được phận nấy, cho nên là Bí. Kẻ xem vì nó mềm đến văn sức cho cứng, Dương được Âm giúp, ma có quẻ Ly sáng tỏ ở trong, cho nên là hanh; vì nó cứng lên văn sức cho mềm, mà có quẻ Cán dừng đỗ ở ngoài, cho nên hơi lợi về có sự đi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Bí hanh.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Bí hanh.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chứ 亨(hanh) ngờ là chữ thừa.
LỜI KINH
Dịch nghĩa. - Nhu lai nhi văn cương, cố hanh; phân cương thượng nhi văn nhu, cố tiểu lợi hữu du vãng, thiên văn dã.
Dịch âm. - Mềm lại mà văn sức cho cứng, cho nên hanh; chia cứng lên mà văn sức cho mềm, cho nên hơi lợi có thửa đi, văn vẻ của trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng sự biến đổi của quẻ để thích lời quẻ.
Cứng mềm giao nhau là tượng tự nhiên, cho nên gọi là “văn vẻ của trời’ Tiên nho nói rằng: trên chữ 天 ⽂ (thiên văn) nên có bốn chữ 柔 交 錄 (cương nhu giao thác: cứng mềm xen lẫn), lý hoặc như thế.
LỜI KINH
Dịch nghĩa. - Văn minh dĩ chỉ, nhân văn dã.
Dịch âm. - Văp vẻ sáng sủa để đỗ, văn vẻ của người vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Quẻ này là tượng trang sức rõ ràng, vì hai thể trên, dưới, cứng, mềm, cùng làm văn sức cho nhau. Thể dưới vốn là quẻ Kiền có chất mềm đến văn sức ở giữa mà thành quẻ Ly. Thể Trên vốn là quẻ Khôn, có chất cứng đến văn sức ở trên mà thành quẻ Cấn, mới là “dưới núi có lửa”, đỗ trong văn vẻ sáng sủa mà thành rỡ ràng. Việc thiên hạ không trang sức thì không làm được, cho nên rỡ ràng thì có thể hanh thông. “Mềm lại văn sức cho cứng, cho nên hanh”, nghĩa là mềm đến văn sức cho cứng mà thành cái tượng văn vẻ sáng sủa. Văn vẻ sáng sủa sở dĩ thành quẻ Bí. Đạo quẻ Bí có thể đến hanh thông, thực bởi trang sức mà có thể hanh thông. “Chia cứng lên mà văn sức cho mềm, cho nên hơi lợi có thửa đi”, nghĩa là chia hào giữa của quẻ Kiền đi văn sức cho hào trên của quẻ Cấn vậy. Các việc bởi văn sức mà thêm thịnh, bởi văn sức mà có thể thực hành, cho nên hơi lợi có thửa đi. Ôi, đi mà lợi được là vì có gổc, Cái đạo bí sức không phải thêm được sự thực, chỉ thêm văn vẻ cho nó mà thôi. Các việc bởi văn sức mà thêm tỏ rõ thịnh vượng, cho nên là “hơi lợi có thửa đi”. Hanh là hanh thông, đi làm tiến thêm. Hai quẻ biến đổi, cùng làm nên cái nghĩa bí sức, thế mà lời Thoán lại chia trên dưới, mỗi quẻ chủ về một việc, là vì quẻ ly sáng sủa có thể đem lại sự hanh, mà nó văn sức cho hào mềm, thì lại có thể tiến lên một ít. Hai câu “Thiên văn dã, văn minh dĩ chỉ, nhân văn dã” là lời tiếp theo đoạn trên, ý nói: Âm Dương cứng mềm giao nhau, tức là văn vẻ của trời; đỗ trong văn vẻ sáng sủa, tức là văn vẻ của người. “Chỉ” là ở trong văn vẻ sáng sủa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn này lại lấy đức quẻ mà nói. “Chỉ” là ai được phận nấy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quan hồ thiên văn, dĩ sát thì biến.
Dịch nghĩa. - Xem chưng văn vẻ của trời, để xét sự biến của các mùa.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Văn vẻ của trời tức là mặt trời mặt trăng ngôi sao sắp bày, rét nắng Âm Dương thay đổi. Xem cuộc vận hành của nó, để xét sự dời đổi của bốn mùa.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quan hồ nhân văn, dĩ hóa thành thiên hạ.
Dịch nghĩa. - Xem chưng văn vẻ của người, để hóa nên thiên hạ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Văn vẻ của người tức là thứ bậc của đạo người. Xem văn vẻ của người để giáo hóa thiên hạ, thiên hạ thành được lễ tục, đó là đạo dùng quẻ Bí của đấng thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn này cực nói về sự lớn lao của đạo quẻ Bí.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn hạ hữu hỏa, Bí, quân tử dĩ minh thứ chính, vô cảm chiết ngục.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới núi có lửa là quẻ Bí, đấng quản tử coi đó mà tỏ mọi chính, không quả cảm về việc đoán ngục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Núi là chỗ sinh tụ của cỏ cây trăm vật, lửa ở dưới nó mà chiếu lên, mọi loài đều bị chùm trong ánh sáng, đó tức là tượng bí sức. Đấng quân tử coi tượng dưới núi có lửa sáng soi, để sửa rõ mọi chinh, gây nên cuộc trị văn vẻ sáng sủa, mà không quả cảm về việc đoán ngục. Đoán ngục là việc cần phải cẩn thận của kẻ làm vua, há khá cậy về sự sáng của mình mà tự dụng một cách khinh suất? Đây là chỗ dụng tâm của thánh nhân: răn người sâu lắm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dưới núi có lửa, ánh sáng không tới chỗ xa. “Tỏ mọi chính” là việc còn nhỏ, “Đoán ngục” là việc đã lớn. Trong quẻ Ly sáng sủa mà ngoài quẻ Cấn ngưng đậu, cho nên lấy tượng như thế.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thuần Cấn-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Cấn-Dừng, vận đình trệ, cố thủ là tốt. Bình tĩnh là trí tuệ. Cần bình tĩnh mà xét đoán sự việc hoặc trước khi hành động mới không phạm sai lầm. Việc muốn thành chỉ khi biết tiến đúng lúc, giữ được thành quả mình khi biết dừng đúng lúc, hãy đồng thuận với người, làm tròn bổn phận của mình thì mọi cái đều thành công.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang tạm thời đình đốn, gặp gian nạn. Kiên nhẫn chịu đựng sẽ sang vận tốt.
● Hy vọng: không như ý, hãy thay đổi mục đích
● Tài lộc: không có
● Sự nghiệp: chưa đến thời cơ
● Nhậm chức: khó có chức vị tốt
● Nghề nghiệp: không chuyển nghề được
● Tình yêu: đôi bên không hợp ý
● Hôn nhân: không duyeenn phận với nhau
● Đợi người: không tới
● Đi xa: bất lợi
● Pháp lý: dây dưa, tốn kém
● Sự việc: hãy dừng lại, chờ thời cơ
● Bệnh tật: lâu khỏi
● Thi cử: khó đạt kết quả cao
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người ra đi không biết đi đâu
TỔNG QUAN: Thuần Cấn
Cấn-Dừng, vận đình trệ, cố thủ là tốt. Bình tĩnh là trí tuệ. Cần bình tĩnh mà xét đoán sự việc hoặc trước khi hành động mới không phạm sai lầm. Việc muốn thành chỉ khi biết tiến đúng lúc, giữ được thành quả mình khi biết dừng đúng lúc, hãy đồng thuận với người, làm tròn bổn phận của mình thì mọi cái đều thành công.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- T.Long-thuần, nhân từ, tiến tài, động- vui/// B.Hổ-huyết- C.bạo, tang ma,H. hăng, vô mưu. Hào Kim-B.Hổ ngậm dao /// C.Tước- lừa đảo, thị phi, kiện tụng, văn thư, tài ăn nói, khắc Thế-thị phi, sinh D.thần có tin /// H.Vũ-Tr.cướp, dâm, tư tình /// C.Trần- âm thần, điền sản, c.trình, ngục tù, chất phác, chuyện lạ, rắc rối. khắc H.Vũ, hợp bắt cướp /// Đằng Xà-kinh sợ, No C.thuỷ & chữ tín. hương hoả. Gặp Mộc K.vong, hung; Bị N.thần xung,rễ hunG

hại.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang tạm thời đình đốn, gặp gian nạn. Kiên nhẫn chịu đựng sẽ sang vận tốt.
● Hy vọng: không như ý, hãy thay đổi mục đích
● Tài lộc: không có
● Sự nghiệp: chưa đến thời cơ
● Nhậm chức: khó có chức vị tốt
● Nghề nghiệp: không chuyển nghề được
● Tình yêu: đôi bên không hợp ý
● Hôn nhân: không duyeenn phận với nhau
● Đợi người: không tới
● Đi xa: bất lợi
● Pháp lý: dây dưa, tốn kém
● Sự việc: hãy dừng lại, chờ thời cơ
● Bệnh tật: lâu khỏi
● Thi cử: khó đạt kết quả cao
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người ra đi không biết đi đâu

Quẻ: Thuần Cấn - Cấn trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Cấn, Tự quái nói rằng: Chấn là động, các vật không thể động mãi, ngăn nó cho nên tiếp đến quẻ Cấn [1-Chử ⾉ (cấn) có nghĩa là “ngăn, là đậu”]. Cấn nghĩa là ngăn, động với tĩnh phải nhân nhau, động thì có tĩnh, tĩnh thì có động, các vật không lẽ động luôn, vì vậy quẻ Cấn mới nối quẻ Chấn. Cấn là đậu, không nói đậu mà nói cấn, là vì Cấn là Tượng núi, có ý yên nặng rắn đặc, nghĩa chữ “đậu” không thể hết được. Kiền Khôn giao nhau, ba lần mà thành quẻ Cấn, một khí Dương ở trên hai khí Âm, Dương là vật động mà tiến lên, đã đến bậc trên thì phải đậu lại. Âm là im lặng, trên đậu mà dưới im lặng, cho nên là Cấn. Thế thì với nghĩa “chứa đậu” khác nhau thế nào? Đáp rằng: Chứa đậu là nghĩa ngăn chế mà chứa lại, lấy sức mà làm cho đậu; cấn đậu là nghĩa yên ổn mà đậu, tức là đậu vào nơi chốn của nó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, thành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Đậu thửa lưng, chẳng được thửa mình, đi thửa sân, chẳng thấy thửa người, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Người ta sở dĩ không yên đậu [2-Đậu là dừng lại, đứng lại, đỗ lại] được là vì bị động
về sự ham muốn. Sự ham muốn có kéo ở đằng trước, mà cần nó đậu thì không thể được, cho nên đạo đậu, nên đậu cái lưng. Những cái trông thấy đều ở đằng trước, mà lưng thì trái ngược lại, ấy là nó không trông thấy. Đậu vào chỗ không trông thấy, thì không có sự ham muốn làm loạn lòng mình, sự đậu mới yên. “Chẳng được thửa mình” tức là chẳng thấy mình mình, nghĩa là quên mình đi vậy. Không có mình nữa, thì là đậu rồi… “Đi thửa sân chẳng thấy thửa người” là sao? Sân thềm là chỗ rẩt gần, ở đằng lưng tuy chỗ rất gần cũng không thấy, nghĩa là không giao tiếp với vật ngoài nữa. Vật ngoài không tiếp xúc, sự ham muốn bên trong không sinh ra; như thế mà đậu, mới đúng đạo “đậu”, với thì đậu là không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cấn là đậu. Một Dương đậu trên hai Âm, Dương tự dưới lên, đến chỗ nhất thì đậu. Tượng nó là núi, lấy về dáng “đất Khôn cao lên”, cũng là ý “đậu chỗ cùng tột mà không tiến nữa”. Lời Chiêm của nó thì là “ắt phải đậu ở đằng lưng mà không có mình, đi ở sân mà không thấy người, mới là không lỗi”. Bởi vì thân thể là vật hay động, chỉ có cái lưng là đậu, đậu ở lưng thì là đậu chỗ đáng đậu, đậu chỗ đáng đậu thì sẽ không theo thân thể mà động, ấy là không có mình nữa. Như thế thì tuy đi ở sân thềm là chỗ có người mà cũng không trông thấy người. Bởi vì “đậu thửa lưng mà chẳng thấy được mình” là đậu mà đậu. “Đi thửa sâu mà chẳng thấy thửa người” là đi mà đậu. Động tĩnh đều đậu vào nơi chốn mà lưng thì chủ về tĩnh, vì vậy mới được không lỗi.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Thoán viết: Cấn chỉ dã. Thì chỉ tắc chỉ, thì hành các hành. Động tĩnh bất thất kỳ thì, kỳ đạo quang minh.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Cấn là đậu vậy. Lúc đáng đậu thì đậu, lúc đáng đi thì đi. Động tĩnh không lỗi thửa thì, thửa đạo sáng tỏ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cấn là đậu, Đạo “đậu” chỉ cốt ở thời Đi đậu, động tĩnh không theo thời là càn. Chẳng lỗi thời thì là thuận lẽ mà hợp nghĩa. Ở việc là lẽ, khu xử với việc là nghĩa. Động tĩnh hợp lẽ và nghĩa là không lỗi thời, ấy là đạo mình sáng tỏ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ. Nghĩa Cấn là đậu, nhưng đi hay đậu đều phải có thời, cho nên lúc đáng đậu mà đậu là đậu, lúc đáng đi mà đi cũng là đậu. Thể Cấn dầy đặc, cho nên có nghĩa sáng tỏ. Quẻ Đại xúc vè thể Cấn cũng nói sáng láng.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cấn kỳ chỉ, chỉ kỳ sở dã.
Dịch nghĩa. - Đậu thửa đậu, là đậu thửa chốn vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Đậu thửa đậu” nghĩa là bị ngăn đậu lại mà đậu vậy. Bị ngăn đậu lại mà là tại đậu được nơi chốn. Đậu mà không đúng nơi chốn thi không có lẽ đậu được.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Thượng hạ địch ứng, bất tương dữ dã.
Dịch nghĩa. - Trên dưới chọi ứng, chẳng cùng nhau vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ mà nói. Hai thể trên dưới, lấy sự chọi nhau mà ấn với nhau, thì không có nghĩa cùng với nhau, Âm Dương ứng nhau thì tình thông nhau mà cùng với nhau, đằng này vì sự chọi nhau, cho nên không cùng với nhau. Không cùng với nhau thì là trái nhau.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Thị dĩ bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình bất kiến kỳ nhân, vồ cữu dã.
Dịch nghĩa. - Vì vậy chẳng được thửa mình, đi thửa sân chẳng thấy thửa người, không lỗi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Trái nhau cho nên chẳng thấy thửa mình, chẳng thấy thửa người nên mới đậu được, đậu được thì không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích lời quẻ, đổi chữ 背 (bối) làm chữ ⽌ (chỉ) [3-Tức là chữ 趾(chỉ) trong câu ⾉ 其 趾(Cấn kỳ chỉ) ở đoạn trên], để tỏ lưng tức là đậu. Lưng là chốn đậu. Lấy thể quẻ mà nói: quẻ trong quẻ ngoài. Âm Dương chọi ứng với nhau mà không cùng nhau. Không cùng nhau thì trong chẳng thấy mình, ngoài chẳng thấy mình, và không có lỗi. Họ Triều nói rằng: “Câu ⾉ 其 ⽌ cấn kỳ chỉ”, chữ ⽌ (chỉ) nên theo lời quẻ [4-Tức là câu ⾉ 其 背 (Cấn kỳ bối)] đổi làm chữ (bối).
LỜI KINH 
Dịch âm. - Tượng viết: Kiêm sơn Cấn, quân tử dĩ tư bất xuất kỳ vị.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Gồm núi là quẻ Cấn. Đấng quân tử coi đó mà nghĩ chẳng việc thửa ngôi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên dưới đều là núi, cho nên nói là gồm núi. Cái này nhập với cái kia là “gồm” tức là trùng điệp vậy. Trùng điệp là tượng của Cấn. Đấng quân tử coi tượng Cấn đậu mà nghĩ chỗ đậu không vượt ra ngoài ngôi mình. Ngôi tức là phận mình ở. Muôn việc đều có nơi chốn, hễ đúng nơi chốn thì là đậu yên. Hoặc thái quá, hoặc bất cập, đều là vượt ra ngoài ngôi.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

 

Tổng quan: Địa Thủy Sư
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Nghệ thuật lãnh đạo. Thuận theo thời thế, nỗ lực tiến thủ có thể thành công, cần tướng tài và tài dùng người: Vận nhiều trở ngại, thường phát sinh sự cố, căng thẳng, đau đầu. Cần kỷ luật, việc làm chính đáng, bền chí nhưng có người chỉ huy có kinh nghiệm thì mới tốt, không sai lầm. Làm trái/ thủ đoạn sẽ mang họa.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đang ở thời kỳ khó khăn nguy hiểm, nhẫn nại chờ thời cơ
● Hy vọng: hiện chưa thành, chờ đợi sẽ có
● Tài lộc: chờ lâu mới có
● Sự nghiệp: nỗ lực sau mới thành. Dễ bỏ cuộc giữa chừng
● Nghề nghiệp: nên tham khải ý kiến người khác hãy chuyển nghề
● Tình yêu: kiên nhẫn chờ đợi, nữ có tình địch
● Hôn nhân: khó hành, có kết hợp thì sau sẽ không hay
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: nên đi ngắn hạn và đi gần
● Pháp lý: có rắc rối, nên hòa giải
● Sự việc: tranh chấp, khó giải quyết, thận trọng trông hành động
● Bệnh tật: có thuyên giảm, song dễ tái phát
● Thi cử: nếu thủ khoa sẽ hỏng mặc dù có khả năng
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: tạm thời chưa đi.
Quẻ: Địa Thủy Sư - Khôn trên; Khảm dướỉ
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Quẻ Sư, Tự quái nói rằng: đã kiện ắt có đông người nổi lên, cho nên tiếp đến quẻ Sư [1-Chữ Sư (chữ hán) có nghĩa là quân gia, là đông người, hay quần chúng]. Sư lữ dấy lên, bởi tại có sự tranh giành, cho nên quẻ Sư mới nối quẻ Tụng. Nó là quẻ Khôn trên, Khảm dưới. Nói về hai thể, thì trong đất có nước, tức là cái tượng đông người tụ họp. Nói về nghĩa của hai quẻ, thì trong hiểm [2-Chỉ về quẻ khảm], ngoài thuận [3-Chỉ về quẻ khôn] đi đường hiểm bằng cách xuôi thuận, đó là nghĩa trẩy quân; nói về các hào, thì một hào Dương làm chủ các hào Âm, tức là cái tượng tóm cả đông người. Quẻ Tỵ một hào Dương làm chủ các hào Âm mà ở trên, là tượng ông vua; quẻ Sư một hào Dương làm chủ các hào Âm mà ở dưới, là tượng tướng súy,
LỜI KINH
Dịch âm. - Sư Trinh, trượng nhân cát, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Quân chính, bậc trượng nhân tốt, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Cái đạo quân gia, lấy sự đính chính làm gốc. Dấy quân động chúng, để làm độc hại thiên hạ, mà không dùng cách chính đính thì dân không theo, chẳng qua cưỡng bách mà xua họ đi mà thôi. Cho nên quân gia phải lấy chính đính làm chủ. Hành động tuy chính đính, những kẻ làm tướng phải là bậc trương nhân mới tốt mà không có lỗi. Bởi vì, có khi tốt mà có lỗi, có khi không lỗi mà không tốt. Tốt và không lỗi, mới là tận thiện. Trượng nhân là tên gọi bậc tôn nghiêm, đem quân coi chúng, nếu không phải kẻ mà mọi người tôn tín sợ phục, thì sao cho được lòng người vâng theo?… Gọi là trượng nhân, bất tất phải người vốn vẫn ở ngôi cao quí, hễ mà tài mưu đức nghiệp đủ khiến mọi người sợ phục thì nhằm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Sư là quần chúng. Quẻ này dưới Khảm trên Khôn, Khảm hiểm mà Khôn thuận, Khảm là nước mà Khôn là đất, đời xưa ngụ hình ở nông, núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu cái không thể lường trong chỗ rất tĩnh. Lại nữa, trong quẻ chỉ hào Chín Hai là một hào Dương ở giữa quẻ dưới, là Tượng làm tướng; trên dưới năm hào Âm đều phải thuận mà theo, là Tượng làm quân. Hào Chín Hai lấy tư cách Dựơng cương ở dưới làm việc, hào Sáu Năm là hạng mềm yếu ở trên mà dùng người, tức là cái Tượng ông vua sai tướng ra quân, cho nên quẻ này gọi tên là Sư. Trượng nhân là tiếng để gọi bậc trưởng lão, cái đạo dùng quân lợi về được chính đính, mà phải dùng người lão thành, mới được tốt mà không có lỗi. Đó là răn kẻ xem cũng phải như thế
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Sư chúng dã, trinh chính dã, năng dĩ chúng chính, dĩ chúng chính, khả dĩ vương hỷ.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Sư là nhiều người, trinh là chính, khiến được nhiều người chính đính, thì có thể làm nên nghiệp vương.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Khiến mọi người chính đính thì có thể trị thiên hạ. Được lòng người phục theo mà về với mình, đạo “vương” có thế mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ thích nghĩa hai chữ sư trinh. Dĩ 以 nghĩa là sai khiến được người, một hào Dương ở giữa quẻ dưới mà năm hào Âm đều bị sai khiến vậy. Có thể khiến cho mọi người đều phải chính đính, thì là quân của đấng vương giả.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cương trung nhi ứng, hành hiểm nhi thuận, dĩ thử độc thiên hạ nhi dân tòng chi, cát, hựu hà cữu hỹ?
Dịch nghĩa. - Cứng giữa mà có chính ứng, đi chỗ hiểm mà xuôi thuận, dùng cái đó để làm độc hại thiên hạ mà dân theo, tốt! Còn lỗi gì nữa?
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Đây là nói về hào Hai. Hào ấy là kẻ cứng, ở ngôi giữa mà được đạo trung, có ông vua ở hào Sáu Năm làm chính ứng, tin dùng một cách chuyên nhất, dù đi đường hiểm mà cứ lấy sự xuôi thuận hành động, đó là nghĩa binh, tức lấy quân của đấng vương giả. Trên thuận dưới hiểm là đi chỗ hiểm mà thuận. Sư lữ nổi lên, không khỏi hại của, hại người, độc hại thiên hạ, vậy mà lòng dân vẫn theo mình, là vì mình chỉ theo nghĩa hành động. Đời xưa, đánh bên Đông thì bên Tây oán [4-Oán vì chậm đến đánh xứ mình] ấy là lòng dân theo về. Như thế, cho nên tốt mà không lỗi. Tốt là ắt được, không lỗi là hợp với nghĩa, thì còn lỗi gì?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lại lấy thể quẻ thích nghĩa câu “trượng nhân cát, vô cữu”. Cương trung chỉ hào Chín Hai ứng là hào Sáu Năm ứng nhau với nó. Hành hiểm là đi vào đường hiểm nghèo. Thuận là thuận lòng người. Bấy nhiêu điều đó phi người có đức lão thành, thì không làm nổi. Độc nghĩa là hại, sư lữ dấy lên, không khỏi làm hại thiên hạ, nhưng vì có tài đức ấy, cho nên dân mới vui lòng mà theo.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Địa trung hữu thủy, Sư, quân tử dĩ dung dân súc chúng.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong đất có nước, là quẻ sư, đấng quân tử coi đó là dung dân, nuôi quân.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Trong đất có nước, nước tụ trong đất, là tượng đông người tụ họp, cho nên mới là quẻ Sư. Đấng quân tử coi tượng trong đất có nước đó, để dung giữ dân của mình, nuôi họp quân của mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nước không thể ngoài đất, quân không thể ngoài dân, cho nên hễ nuôi được dân, thì có thể nuôi được quân.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Địa Hỏa Minh Di
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Minh dị-Mọi việc không như ý, cẩn thận hành sự. Hiền tài đức độ sáng suốt bị tổn thương, sự chính trực, ngay chính, tài năng này không để làm gì cả. Khi có tài và có năng lực lúc này cần ẩn đi thì có lợi, nếu phô trương sẽ gặp nguy.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: tình thế khó khăn, mọi việc bị ngăn trở, song tình trạng này kéo dài không lâu, chịu đựng giữ gìn thì có vận tốt.
● Hy vọng: khó thành, không nản lòng sẽ như ý.
● Sự nghiệp: không thành.
● Nhậm chức: hiện tại chưa như ý.
● Nghề nghiệp: nếu chuyển nghề, bất lợi.
● Tình yêu: đôi bên không thật lòng.
● Hôn nhân: khó thành lương duyên.
● Đợi người: không thể đến sớm.
● Đi xa: dừng lại giữ chừng.
● Pháp lý: thua kiện.
● Sự việc: tốn nhiều thời gian mới song.
● Bệnh tật: nguy hiểm.
● Thi cử: không đạt.
● Mất của: chưa tìm ra, bị lẫn ở đâu đó.
● Người ra đi: nguy hiểm.
Quẻ: Địa Hỏa Minh Di - Khôn trên; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Minh di, Tự quái nói rằng: Tấn nghĩa là tiến, tiến ắt bị đau, cho nên tiếp đến quẻ Minh di. Di nghĩa là đau, cả tiến không thôi, ắt có bị đau là lẽ tự nhiên, vì vậy quẻ Minh di mới nối quẻ Tấn. Nó là quẻ Khôn trên Ly dưới tức là sự sáng vào trong đất. Phản lại quẻ Tấn thành quẻ Minh di, cho nên nghĩa nó với quẻ Tấn đều trái lại nhau. Tấn là quẻ sáng thịnh, ông vua sáng sủa ở trên là lúc mọi người hiền cùng tiến; Minh di là quẻ tối tăm, ông vua tối tăm ở trên là lúc kẻ sáng bị đau. Mặt trời vào trong đất, tức là sự sáng bị thương mà tối tăm, cho nên gọi là Minh di.
LỜI KINH

Dịch âm. - Minh di lợi gian trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Minh di lợi về khó nhọc trinh chính.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đấng quân tử gặp thời Minh di, lợi ở biết khó nhọc mà không lỗi đạo trinh chính. Ở thời tối tăm khó khăn mà có thể không mất sự trinh chính của mình, vì vậy mới là quân tử sáng láng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Di nghĩa là đau. Là quẻ dưới Ly trên Khôn, mặt trời vào trong đất, tức là cái Tượng sáng mà bị đau, cho nên gọi là Minh di. Lại, hào Sáu Trên quẻ này là chủ sự tối mà hào Sáu Năm gần nó, cho nên kẻ xem lợi về khó nhọc để giữ sự chính mà tự che sự sáng của mình.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Minh nhập địa trung, Minh di.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Sáng vào trong đất, là quẻ Minh di.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây dùng tượng quẻ để thích tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Nội văn minh nhi ngoại nhu thuận, dĩ mông đại nạn, Văn vương dĩ chi.
Dịch nghĩa. - Trong văn vẻ sáng láng mà ngoài mềm thuận để đội nạn lớn, vua Văn dùng cách đó.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sáng vào trong đất tức là tự sáng bị diệt, cho nên là sáng đau. Quẻ trong nhà Ly, Ly là Tượng văn vẻ sáng láng; quẻ ngoài là Khôn, Khôn là Tượng mềm thuận; đó là bên trong có đức văn vẻ sáng láng, bên ngoài lại biết mềm thuận xưa kia vua Văn như thế, cho nên nói rằng vua Văn dùng cách đó. Đương lúc vua Trụ tối tăm, tức là thì sáng đau, mà vua Văn trong có đức văn vẻ sáng láng, ngoài mềm thuận để thờ vua Trụ, đội phạm nạn lớn [1-Văn Vương bị vua Trụ giam ở ngục Dũ lý] mà bên trong không mất cái đức thành sáng của mình, bên ngoài đủ để tránh xa tai vạ, đó là đạo Văn Vương đã dùng, cho nên nói rằng vua Văn dùng cách đó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa quẻ. “Đội nạn lớn” chỉ về gặp loạn vua Trụ mà bị giam.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi gian trinh, hối kỳ minh dã; nội nạn nhi năng chính kỳ chí, Cả tử dĩ chi.
Dịch nghĩa. - Lợi về khó nhọc trinh chính, là làm cho tối thửa sự sáng vậy; trong nạn mà hay chính thửa chí, ông Cơ tử dùng cách đó.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong thì sáng đau, lợi về xử cách khó khăn mà không mất sự trinh chính của mình, nghĩa là biết che giấu sự sáng của mình. Không làm cho tối sự sáng của mình, thì bị vạ lo, không giữ được sự chính đính của mình thì không phải là người hiền minh, ông Cơ Tử [2-Ông Cơ Tử là anh ruột vua Trụ; thấy vua Trụ càn dỡ, không thể can được, ông ấy giả rồ đi làm đứa ở, sau về với nhà Chu] đương thời vua Trụ, thân với nước ấy, bên trong sát gần nạn của vua ấy, cho nên nói rằng “Trong nạn”. Nhưng ông Cơ Tử biết giấu kín sự sáng của mình và tự giữ lấy chí chính đáng, đó là cái đạo ông Cơ Tử vẫn dùng, cho nên nói rằng “Ông Cơ Tử dùng cách đó”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lây nghĩa một hào Sáu Năm để thích lời quẻ. “Trong nạn”, nghĩa là họ gần vua Trụ về ở trong nước vua ấy như hào Sáu Năm gắn hào Sáu Trên.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Minh nhập địa trung, Minh di, quân tử dĩ ly chúng, dụng hối nhi minh.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sáng vào trong đất là quẻ Minh di. Đấng quân tử coi đó để trị dân chúng, dùng tối mà sáng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sự sáng là để mà soi, đấng quân tử không đâu không soi, nhưng quá dùng sự sáng, thì hại về đường xét nét, xét nét quá thì hết việc mà không có độ lượng bao dung cho nên đấng quân tử coi Tượng “Sáng vào trong đất”,mà về cách trị người không soi, xét cùng cực mà dùng sự tối, rồi mới có thể dong người hào chúng. Người ta thân với mình mà đâu yên đó, thế là dùng sự tối cốt để cho sáng. Nếu tự dùng sự sáng của mình, không gì không xét, thì tự mình không thắng được sự giận ghét mà không có đức khoan hậu bao dung, lòng người xa lìa ngờ vực không yên, thế là lỗi đạo trị người, chỉ để thành ra không sáng mà thôi.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Lôi Hỏa Phong
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Phong-Bội thu lớn, vận đang phát, sự nghiệp thành công, lên đỉnh sẽ xuống, đề phòng gặp họa. Nếu hành động thì đạt kết quả lớn. Hành động chính trực thì mọi việc sẽ thành công.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: có điều kiện thuận lợi, mọi việc xuôi thuận không chủ quan
● Hy vọng: được như ý nếu ước muốn vừa sức
● Tài lộc: đầy đủ
● Sự nghiệp: phát triển mạnh
● Nhậm chức: không như ý, thất vọng
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề
● Tình yêu: sẻ chia tay nhau
● Hôn nhân: thành lương duyên, nhưng gặp nhiều điều tiếng
● Đợi người: đang tới
● Đi xa: có chuyến đi vui vẻ
● Pháp lý: ban đầu có lợi cho mình, sau ngược lại
● Sự việc: có thể giải quyết êm đẹp
● Bệnh tật: thuyên giảm
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: có tin về người đi xa
Quẻ: Lôi Hỏa Phong - Chấn trên; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Phong, Tự quái nói rằng: Được chỗ về ắt lớn, cho nên tiếp quẻ Phong [1-Chữ 豐 (Phong) có nghĩa là thịnh, là giàu, là lớn lao]. Loài vật về họp, ắt thành sự lớn, cho nên sau quẻ Qui muội, tiếp đến quẻ Phong. Phong là nghĩa thịnh lớn. Nó là quẻ Chấn trên Ly dưới. Chấn là động, Ly là sáng, lấy sự sáng mà động, động mà sáng được, đều là cách làm đến cuộc thịnh. Sáng đủ để soi, động đủ để hanh, rồi mới đem đến được cuộc thịnh lớn.
LỜI KINH
Dịch âm.- Phong hanh, vương cách chi, vật ưu nghi nhật trung.
Dịch nghĩa. - Quẻ Phong hanh thông, vua đến đấy, chớ lo, nên mặt trời giữa.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phong là thịnh lớn, nghĩa nó vẫn hanh thông. Làm cho tột bậc sang lớn ở gầm trời, chỉ đấng vương giả có thể được thế. Đến là tột bậc vậy. Cao đến như ngôi trời, giàu đến như bốn bể, nhiều đến như các loài, lớn đến như đạo vương, làm cho cùng tột đạo thịnh, chỉ có đấng vương giả. Trong thời thịnh, nhân dân đông nhiều, các vật thịnh vương, trị chúng há dễ? Việc đó vẫn đáng lo lắng, phải nên như mặt trời giữa trưa, sáng rõ soi rộng, không đâu không tới, rồi mới không lo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Phong là lớn, lấy sức sáng mà động, tức là cái thế
thịnh lớn, cho nên lời Chiêm của nó có đạo hanh thông. Nhưng đấng Vương giả tới bậc đó, thịnh cực sẽ suy, có cách đáng lo, thánh nhơn cho rằng lo suông vô ích, hễ biết giữ thường, chẳng đến quá thịnh thì được, cho nên răn rằng: “Chớ lo, nên mặt trời giữa”.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: Phong đại dã, minh dĩ động; cố phong; vương cách chi, thượng đại dã; vật ưu, nghi nhật trung, chiếu thiên hạ dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: thịnh là lớn vậy; sáng và đông cho nên thịnh; vua đến đó, chuộng lớn vậy; chớ lo, nên mặt trời giữa, soi gầm trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phong là nghĩa thịnh lớn. Ly sáng mà Chấn động, sáng và động giúp nhau mà thành thịnh lớn. Kẻ làm vua có đất rộng đến bốn bể, dân nhiều hàng triệu, tức là cùng tột sự lớn ở gầm trời, cho nên cái đạo thịnh lớn, chỉ có kẻ làm vua đem đến được. Cái của họ có đã lớn; thì đạo trị những cái ấy, giữ những cái ấy cũng phải lớn. Cho nên điều của kẻ làm vua vẫn chuộng, là điều rất lớn. Cái của họ có đã rộng, cái của họ trị đã nhiều, thì nên lo rằng không thể tới khắp, phải sáng rõ như mặt trời giữa trưa, soi khắp gầm trời, không đâu không tới, thì mới khỏi lo.
LỜI KINH
Dịch âm.- Nhật trung tắc trắc, nguyết doanh tắc thực; thiên dịa doanh hư dữ thì tiêu tức, nhi huống ư nhân hồ? Nhi huống ư quỷ thần hồ?
Dịch nghĩa. - Mặt trời giữa thì dé, mặt trăng đầy thì khuyết trời đất đầy rỗng, cũng thì cùng tiêu sinh, mà phương chi với người? Phương chi với quỷ thần?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên đã nói sự tột bậc của cuộc phong, thịnh đây lại tỏ rằng: Khó giữ được nó thường thường như thế để răng người ta mà rằng: Mặt trời giữa là thịnh cực rồi thì phải dé tối; mặt trăng đầy tròn thì phải vơi thiếu, sự đầy rỗng của trời đất, còn theo thời mà tiêu sinh, huống chi người và quỷ thần? Tiêu sinh nghĩa là tiến lui, vận của trời, cũng phải theo thời mà tiến lui. Quỷ thần là dấu của tạo hóa, với sự thịnh suy của muôn vật, có thể thấy sự tiêu sinh của quỷ thần.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lại phát minh cái ý ở ngoài lời quẻ nói là không thể quá mực giữa vậy.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Lôi điện giai chí, Phong, quân tử dĩ triết ngục trí hình.
Dịch nghĩa. - Sấm chớp đều đến là quẻ Phong. Đấng quân tử coi mà bẻ ngục đến hình.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm chớp đều đến, tức là sự sáng và sự động cùng đi; hai thể hợp nhau, cho nên nói là “đều đến”. Sự sáng và sự động giúp nhau thành ra tượng thịnh, Ly là sáng, tức là Tượng soi xét; Chấn là động, tức là Tượng oai đoán. Bẻ ngục [2-Tức là xét án] phải soi cho đến tình thật, chỉ có sáng suốt mới có thể tin. Đến hình [3-Tức là ghép vào tội] là ra oai với kẻ gian tà, phải quyết đoán mới được.
Cho nên đấng quân tử coi Tượng sấm chớp sáng động để mà bẻ ngục đến hình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Là lấy về Tượng “oai và sự sáng cùng đi với nhau”.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Trạch Hỏa Cách
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Cách- Cải cách, đổi mới. Nguy cơ là cơ hội, dũng cảm sáng tạo xoay chuyển tình thế. phải chứng minh khả năng của bản thân mình và phải qua thời gian thử thách thì mới lấy được lòng tin của mọi người, việc mình mới thành.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: phải thay đổi phương pháp và ý định thì mới đạt mục đích. Không đi quá khả năng của mình thì việc mơi yên.
● Hy vọng: chưa thấy, xem lại mục tiêu của mình.
● Tài lộc: có, nhưng phải thay đổi phương pháp hành động.
● Sự nghiệp: chưa thành vì chưa có mục tiêu hành động.
● Nhậm chức: phải chuyển đến nơi khác mới có chức vị.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề có lợi.
● Tình yêu: có thể tiến tới.
● Hôn nhân: phải tìm đối tượng khác.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: có thể đi xa.
● Pháp lý: thay luật sư, có thể thắng.
● Sự việc: hành động tích cực mới thành.
● Bệnh tật: bệnh có biến chứng hoặc đột phát.
● Thi cử: ngược với mong đợi.
● Mất của: khó tìm.
● Người ra đi: người ra đi luôn thay đổi địa chỉ.
Quẻ: Trạch Hỏa Cách - Đoái trên ; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Cách Tự quái nói rằng: Đào giếng không thể không đổi, cho nên tiếp đến quẻ Cách [1-Chữ (cách) nghĩa là cải cách, thay cũ đổi mới]. Giếng là một vật chứa mãi thì dơ hỏng, đổi đi thì trong sạch, không thể không đổi, cho nên ở sau quẻ Tỉnh, tiếp đến quẻ Cách. Nó là quẻ Đoái trên Ly dưới, tức là trong chằm có lửa. Cách là biến đổi, nước lửa là giống làm tắt lẫn nhau, nước diệt lửa, lửa làm cạn nước, ấy là biến đổi cho nhau. Tính lửa bốc lên, tính nước chảy xuống, nếu có trái nhau mà đi, thì đi quẻ Khuê mà thôi. Nay lửa ở dưới mà nước ở trên, ấy là nói tới với nhau, khắc chế nhau, làm tắt dứt nhau, vì vậy là cách. Lại, hai con gái cùng ở, mà chỗ về khác nhau, chí không giống nhau, tức là không tương đắc với nhau, cho nên là Cách.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cách, dĩ nhật nãi phu, nguyên hanh lợi trinh, hối vong.
Dịch nghĩa. - Quẻ Cách, hết ngày bèn tin, cả hanh lợi trinh, ăn năn mất.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cách là đổi cái cũ, đổi cái cũ thì người ta chưa chịu tin ngay, cho nên phải đợi hết ngày, lòng người mới tin theo “Cả hanh lợi trinh, ăn năn mất” là sao? Có hỏng nát mới phải thay đổi, mà thay đổi là để làm cho hanh thông, cho nên, đổi đi mà có thể cả hanh, đổi đi mà lợi về chính đạo, thì có lâu dài mà được cái nghĩa “bỏ cũ”, không phải ăn năn về sự biến động, thế là “ăn năn mất”. Đổi thay mà không ích lắm, còn đáng ăn năn, huống chi đổi thay mà lại có hại. Vì vậy, cố nhân mới coi việc cải cách là việc quan trọng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cách là biến đổi, chằm Đoái ở trên, lửa Ly ở dưới, lửa cháy thì nước cạn, nước vỡ thì lửa tắt. Hai gái nhỡ và nhỏ hợp làm một quẻ, mà gái nhỏ ở trên, gái nhỡ ở dưới, chí không tương đắc với nhau, cho nên quẻ nó là Cách. Lúc mới biến cách người ta chưa tin, cho nên mới đợi hết ngày mới tin. Lại vì bên trong mà đức văn vẻ sáng sủa, bên ngoài có vẻ hào vui đẹp lòng, cho nên lời Chiêm của nó là hễ có thay đổi thì đều cả hanh, mà được chính đạo, những sự thay đổi xứng đáng mà sự ăn năn về cái thay đổi đó đều mất. Nếu có gì bất chính, thì việc thay đổi không được ai tin, không thể hanh thông, lại có ăn năn nữa.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Trịnh Đông Hương giải nghĩa quẻ Cách, cho là hỏa lò. Giải vậy cũng hay. Hào Đầu là đáy lò, hào Hai là mặt lò, hào Ba, hào Tư, hào Năm là chỗ lưng lò, hào Trên là miệng lò. Trong quẻ, muốn xem đến nơi đến chốn, cần phải xem gồm cả Tượng, có điều Tượng đã thất truyền mất rồi. Trịnh Đông Hương là người chuyên lấy về Tượng, như bảo quẻ Đỉnh là cái vạc, quẻ Cách là cái lò, quẻ Tiểu quá là con chim bay, cũng đủ nghĩa lý, ngoài ra còn nhiều chỗ hay, nhưng cũng có chỗ bịa tạc.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Thoán viết: Cách, thủy hỏa tương tức, nhị nữ đồng cư, kỳ chí bất tương đắc, viết Cách.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Cách, nước lửa làm tắt lẫn nhau, hai con gái cùng ở, mà bụng dạ không hợp nhau, gọi rằng Cách.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chằm và lửa làm tắt dứt nhau, lại hai con gái bụng dạ không hợp nhau, cho nên là Cách. Chữ “tức” nghĩa là thôi tắt, lại là sinh đẻ, loài vật phải có thôi tắt rồi mới sinh đẻ. Chữ “tương tức” trong quẻ Cách thì là thôi tắt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy tượng quẻ thích nghĩa tên quẻ đại lược cũng giống quẻ Khuê, nhưng trái nhau là quẻ Khuê, mà làm tắt nhau thì là quẻ Cách. Tức là dứt tắt, lại là nghĩa sinh đẻ, có đứt mà sau mới sinh đẻ được.
LỜI KINH
Dịch âm. - Dĩ nhật nãi phu, cách nhi tín chi.
Dịch nghĩa. - Hết ngày bèn tin, đổi mà tin đó.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Việc mới thay đổi, nhân dân đâu đã tin ngay? Ắt phải hết ngày rồi họ mới tin. Kẻ ở trên, trong khi cải cách, cần phải tuyên cáo rành rọt, nhắc lại mệnh lệnh, cho đến hết ngày, khiến người ta tin. Lòng người không tin, khó mà bắt họ làm gương, không thể thành công. Chính lệnh của tiên vương, có khi lúc đầu lòng người còn ngờ, nhưng chẳng bao lâu rồi họ ắt tin. Dân không tin mà nên được cuộc thiên trị, thì chưa từng có.
LỜI KINH
Dịch âm. - Văn minh dĩ duyệt đại hanh dĩ chính, cách nhi đảng, kỳ hối nãi vong
Dịch nghĩa. - Văn vẻ sáng sủa và đẹp lòng, cả hanh và chính, đổi mà xứng đáng, sự ăn năn ấy mới mất.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ mà nói về đạo thay đổi. Ly là văn vẻ sáng sủa, Đoái là đẹp lòng, văn vẻ sáng sủa thì không lẽ gì không nết, không việc gì không xét, đẹp lòng thì người hòa thuận, thay đổi mà soi xét được sự lý, hòa thuận được lòng người thì có thể đem đến sự cả hanh mà được trinh chính, nếu thế thì việc biến cách được xứng đáng, cho nên sự ăn năn phải mất. Việc trong thiên hạ, thay đổi không phải đạo, thì sẽ lại đến tệ hại, cho nên việc thay đổi có thể phải ăn năn, chỉ có thay đổi rất xứng đáng, thì sự ăn năn mới cũ đều mất.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa cách nhi tứ thì thành, Thang Vũ cách mệnh, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân, Cách chi thì đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Trời đất đổi mà bốn mùa nên; vua Thang vua Vũ đổi mệnh thuận với trời mà ứng với người, thì của quẻ Cách lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là suy rộng đạo đổi, cùng cực cho đến trời đất biến đổi, bốn mùa đầu chót vậy. Trời đất Âm Dương dời dịch thay đổi mà thành bốn mùa, muôn vật nhờ đó mà đẻ ra, lớn lên, thành hình, chót đời, vật nào được sự thích nghi của vật ấy, đó là “đổi mà bốn mùa thành”. Thì vận đã hết, ắt nó thay đổi cho mới ra đấng vương giả dấy lên, chịu mệnh ở trời, cho nên đổi đời gọi là “đổi mệnh”. Vua Thang vua Vũ làm nên nghiệp vua, trên thì thuận với mệnh trời, dưới thì ứng lòng người, đó là “thuận với trời mà ứng với người”. Đạo trời biến cải, cuộc dời lần dời, ấy là việc lớn trong sự thay đổi, cho nên khen rằng “thì của quẻ Cách lớn vậy thay”.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch trung hữu hỏa, cách, quân tử dĩ trị lịch minh thì.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong chằm có lửa, là quẻ Cách. Đấng quân tử coi đó mà trị lịch rõ mùa.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nước lửa làm tắt lẫn nhau là quẻ Cách. Cách là thay đổi, đấng quân tử coi Tượng thay đổi, suy xét sự dời dịch của mặt trời mặt trăng ngôi sao, vì sao, để làm lịch số, tỏ rõ thứ tự của bốn mùa. Ôi, trong đạo biến đổi, việc rất lớn, lẽ rất rõ, dấu rất rệt, chẳng gì bằng bốn mùa, xem bốn mùa mà thay đổi theo đó, thì sẽ hợp thứ tự với trời đất vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bốn mùa là cuộc thay đổi lớn.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thủy Hỏa Ký Tế
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Ký tế- Thịnh biến suy. Sự việc cũ đã thành- Hiện cát, rễ Hung, quẻ 6 hào, cương nhu đều đủ, quá hoàn chỉnh. Rất cần xác định mục tiêu mới. Giảm bớt tham vọng. công việc phải hoàn thành đến cùng mới đạt kết quả mong muốn. Cần đề phòng lúc đầu thuận lợi, nhưng kết cục lại nhiều rắc rối.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: mọi việc thuận lợi. Nếu sau đó có xu hướng sa sút thì nên dùng lại
● Hy vọng: nếu ước vọng sẽ thành hiện thực
● Tài lộc: tạm đủ
● Sự nghiệp: hiện tại tốt, sau đó có thể suy vi
● Nhậm chức: khó xong
● Nghề nghiệp: nếu chuyển nghề, lúc đầu bình thường sau đó tốt
● Tình yêu: sau một thời gian gắn bó, sau lại chia tay
● Hôn nhân: bình thường
● Đợi người: chưa đến
● Đi xa: nên thay đổi thời gian đi
● Pháp lý: tốt nhất là hòa giải
● Sự việc: có thể giải quyết xong
● Bệnh tật: chậm thuyên giảm
● Thi cử: bình thường
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người ra đi chưa biết ở đâu
Quẻ: Thủy Hỏa Ký Tế - Khảm trên; Ly Dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Ký Tế, Tự quái nói rằng: Có qua vật ắt phải sang, cho nên tiếp đến quẻ Tế [1-Chữ 既濟 (ký tế) nghĩa là sang sông, đã nên việc, hay đã xong việc]. Qua được với vật, ắt có thể sang, cho nên sau quẻ Tiểu Quá đến quẻ Ký Tế. Nó là quẻ nước ở trên lửa, nước lửa giao nhau, thì thành công dụng. Vật nào xứng đang sự dùng của vật ấy, cho nên là đã sang, tức là cái thì muốn việc thiên hạn đã nên vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. – Ký Tế hanh, tiểu lợi trinh, sơ cát, chung loạn.
Dịch nghĩa. – Quẻ ký tế hanh, nhỏ lợi về chính bền, đầu tốt, chót loạn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trong thì đã sang, cái lớn đã hanh thông rồi, cái nhỏ còn chưa hanh thông. Tuy là trong thì đã sang, không thẻ không có cái nhỏ chưa hanh thông. Chữ “nhỏ” ở duwois, lời nói lên thế. Nếu nói”nhỏ hanh” thì sự hanh thông nho. Lợi về chính bền là vì ở thì sang, lợi ở gìn giữ bằng cách chinh bền. Đầu tốt là lúc đương sang, chót loạn là tại sang đà dùng cực thì phải trái lại.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đã sang là việc đã nên. Nó là quẻ nước lửa giao nhau, thứ nào được dùng của thứ ấy. Ngôi của sau hào đều được chính đinh, cho nên đã sang. Chữ “hanh nhỏ” nên đổi ra làm “nhỏ hanh”. Đại đẻ quẻ này và lời Chiêm của sau hào đều có ý răn dỗ, thì nên thế vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thoán viết:Ký tế hanh, tiểu giả hanh dã.
Dịch nghĩa. – Lời Thoán nói rằng: Quẻ Ký tế hanh, cái nhỏ hanh vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Dưới chữ 濟 (tế) ngờ sót chữ ⼩ (tiểu).
LỜI KINH
Dịch âm. – Lợi trinh, cương nhu chính nhi vị đáng dã.
Dịch nghĩa. – Lợi về chính bền, cứng mềm chính mà ngôi đáng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trong thì đã sang, cái lớn chỉn đã hanh thông rồi, chỉ có cái nhỏ chưa hanh thông. Thì đã hanh thông, chỉn nên chính bền mà giữ. Tài quẻ cứng mềm cứng đáng với ngôi của nó đang ngôi là sự thường, đó tức là nghĩa chính bên, lời về nết chinh, như thế, Âm Dương đều được chính ngôi, cho nên mới là đã sang.
LỜI KINH
Dịch âm. – Sơ cát, nhu đắc trung dã; chung chỉ tắc loạn, kỳ đạo cùng dã.
Dịch nghĩa. – Đầu tốt, mềm được giữa vậy; chót đậu thì loạn, thửa đạo cùng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Hào Hai là chất mềm thuận, văn vẻ, sáng lang mà được chỗ giữa, cho nên mới làm nên công “đã sang”. Hào hai ở thể duwois, là lúc đầu cuộc “đương sang” mà lại khéo xư, cho nên mới tốt. Việc trong thiên hạ, không tiến thì lùi, không có cái lẽ nhất định. Đến chót cuộc sang, chẳng tiên mà đâu, tức là sự đậu bất thường, suy loạn đến rồi, vì là đạo nó đã cùng cực rồi. Tài hào Chín Năm, không phải không hai, chỉ vì thời cực, đạo cùng, lẽ ắt phải biến.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Thủy tại hỏa thượng, Ký tế, quan tử dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Nước ở trên lửa là quẻ Ký tế, đáng quan tử coi đó để nghĩ sự lo mà ngừa sẵn đấy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Nước lừa đã giao nhua, thứ nào được dùng của thứ ấy, tức là đã sang. Gặp thì “đã sang”. Chỉ sợ vạ hại sinh ra, cho nên nghĩ cách ngừa sẵn đi, khiên cho không đến phải lo. Từ xưa thiên hạ yên rồi mà lại đến phải vạ loạn, đều tại không biết lo nghĩ mà ngừa sẵn cả.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thuỷ Lôi Truân
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
-Vạn sự khởi đầu nan, có cầu vồng sau mưa: Chỉ sự gian nan điển hình do mọi việc bắt đầu, nhiều trắc trở. Muốn thành công phải ngay chính, đừng tiến vội. Khi hành động cần có người tốt giúp đỡ sẽ thành đạt. bên cạnh cơ hội, có hiểm nguy, tiến hành từng bước, cần chọn bạn cùng thực hiện, chấp nhận sự giúp đỡ của người khác. Cần ý trí kiên cường mới lên sự nghiệp.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. 
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang ở thời kỳ khó khăn nhất. Nhẫn nại chờ thời thì tốt. Nên nhờ phía trên giúp.
● Hy vọng: khó đạt
● Tài lộc: khó có
● Sự nghiệp: hiện còn khó khăn, có thể sau này thành công. Đề phòng bỏ cuộc giữa chừng.
● Nhậm chức: chưa như ý.
● Nghề nghiệp: nên làm nghề cũ, không nên đổi nghề.
● Tình yêu: không như ý.
● Hôn nhân: tranh chấp lâu dài
● Đợi người: không tới.
● Đi xa: gặp rắc rối, không nên đi.
● Pháp lý: khó hoà giải.
● Sự việc: nôn nóng thì sự việc phức tạp thêm.
● Bệnh tật : ốm nặng.
● Thi cử: chưa đủ thực lực.
● Mất của: ở ngay trong nhà, tìm ra.
● Người ra đi: muốn đi nơi khắc, khó như ý.
Quẻ: Thủy Lôi Truân - Khảm trên; Chấn dưới
Truyện của Trình Di - Quẻ Truân, Tự quái nói rằng: Có trời đất, rồi sau muôn vật mới sinh. Đầy trong trời đất, chỉ có muôn vật, cho nên tiếp đến quẻ Truân; truân là đầy, truân là muôn vật mới sinh. Muôn vật mới sinh, uất kết chưa thông, cho nên thành ra đầy tắc ở trong trời đất; đến khi nó đã vọt tốt, thì ý đầy tắc mất rồi. Trời đất sinh ra muôn vật, quẻ truân là tượng các vật mới sinh, cho nên nối sau hai quẻ Kiền Khôn. Nói về hai tượng, thì mây [1-Tức là Khảm], sấm [2-Tức là Chấn] nổi lên, ấy là Âm Dương mới giao; nói về hai thể thì Chấn mới giao ở dưới, Khảm mới giao ở giữa, Âm Dương giao nhau mới thành mây sấm. Âm Dương mới giao mây sấm ứng nhau mà chứa thành mưa, cho nên là truân; nếu đã thành mưa thì là giải rồi. Lại động [3-Chỉ về Chấn] ở trong hiểm [4-Chỉ về Khảm] cũng là nghĩa truân, Âm Dương không giao nhau là Bỉ, Âm Dương mới giao nhau mà chưa xướng là Truân, về thì vận, thì nó là lúc thiên hạ gian truân, chưa được hanh thái.
LỜI KINH
Dịch âm. - Truân nguyên hanh lợi trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.
Dịch nghĩa. - Truân đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền, chớ dùng có thửa đi, lợi về dựng tước hầu.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Quẻ Truân có cách cả hanh, mà ở vào đó thì lợi ở chính bền. Không chính bền lấy gì để qua lúc truân? Lúc truân chưa thể có thửa đi. Thiên hạ đương truân, há rằng sức một người nào có thể làm cho qua được? Ắt phải rộng nhờ về sức giúp đỡ, cho nên lợi về việc dựng nước hầu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chấn, Khảm đều là tên quẻ ba vạch. Quẻ Chấn một hào Dương động ở dưới hai hào Âm, cho nên, tính nó là động, tượng nó là sấm. Quẻ Khảm, một hào Dương hãm ở giữa hai hào Âm, cho nên tính nó là hãm, là hiểm, tượng nó là mây, là phương Nam, là nước. Truân là tên quẻ sáu vạch, nghĩa nó là khó, tức là cái ý vật mới mọc mà chưa thông đạt,cho nên chữ 屯 (truân) do ở chữ ⼬中 (thảo) mà ra, giống như mầm có dùi đất mới mọc mà chưa duỗi thẳng. Quẻ này là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm, cho nên tên nó là Truân, Chấn động ở dưới, Khảm hãm ở trên, còn động được chăng? Trong chỗ hiểm mà còn động được, tuy có thể hanh thông, mà ở chỗ hiểm, thì nên giữ đường ngay thẳng, chưa thể vội tiến, cho nên bói được quẻ này, thì lời chiêm là cả hanh và lợi về đường ngay thẳng, mà chưa nên vội có thửa đi. Lại: hào Chín Năm Dương ở dưới Âm mà là chủ sự làm quẻ, đó là cái nghĩa hiền nhân chịu nhường người ta mà được lòng dân có thể làm vua. Cho nên hễ bói về việc dựng vua, gặp quẻ này thì tốt.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Hỏi rằng: Quẻ Truân lợi về sự dựng nước hầu. Lời chiêm ấy với câu “lợi về sự thấy người lớn” ở quẻ Kiền có đồng lệ không? Đáp rằng: Có. Đó cũng là chỉ đại khái như thế. Nếu mà tự bói việc làm vua, thì dựng tước hầu là mình, nếu bói việc lập vua, thì dựng tước hầu là chỉ về vua. Chỗ đó lại xem rõ cái duyên mình gặp thế nào. Kinh Dịch không phải là thứ văn tự trói chặt. Cho nên nói rằng: “Không thể dùng làm điển yếu”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Truân, cương nhu thủy giao nhi nạn sinh, động hồ hiểm trung, đại hanh trinh, lôi vũ chi động mãn doanh. Thiên tạo thảo muội, nghi kiến hầu nhi bất ninh.
Dịch nghĩa. - Quẻ truân, cứng mềm mới giao nhau mà nạn sinh, động ở trong chỗ hiểm, cả hanh trinh, sấm mưa động đến đầy rẫy. Vận trời bối rối, mờ tối, nên dựng tước hầu, mả chớ cho là yên.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Nói về hai tượng mây sấm, thì là mềm cứng mới giao nhau. Nói về hai thể Chấn Khảm thì là động ở trong chỗ hiểm. Cứng mềm mới giao nhau mà chưa thông xưởng thì phải gian truân, cho nên nói là “nạn sinh”. Lại “động trong chỗ hiểm”, cũng là nghĩa gian truân. Cái mà gọi là “cả hanh và trinh” tức là sấm mưa động đến đầy dẫy. Âm Dương mới giao nhau thì còn gian truân chưa thể thông xướng, tới khi tràn hòa lan khắp thì thành sấm mưa đầy dẫy trong khoảng trời đất, sinh vật mới được thỏa thê, đó là Truân có cách cả hanh. Sở dĩ có thể cả hanh là do ở trinh. Nếu không chính bền, thì sao ra khỏi cảnh Truân? Người ta ở vào cảnh Truân có cách làm cho cả hanh cũng là do ở chính bền. Thiên tạo chỉ về thì vận, thảo là rối loạn,không có trật tự, là mờ tối không sáng, gặp thì vận đó, nên gây dựng kẻ giúp đỡ, thì có thể qua được cảnh Truân. Tuy dựng tước hầu để giúp cho mình, nhưng mà cũng nên siêng năng lo sợ, không dám ở yên, đó là lời răn sâu sa của thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu dùng hai thể để thích nghĩa tên quẻ, mới giao là Chấn, nạn sinh là Khảm. Câu thứ hai dùng đức của hai thể để thích lời quẻ: động là việc của thể Chấn, hiểm là đất của thể Khảm. Từ đó trở xuống, thích về nguyên hanh lợi trinh, bèn dùng ý gốc của Văn Vương. Câu “sấm mưa” dùng tượng hai thể để thích lời quẻ. Sấm là tượng của Chấn, mưa là tượng của Khảm. Thiên Tạo như nói thiên vận, thảo muội tức là rối loạn tối tăm. Âm Dương giao nhau mà sấm mưa nổi lên, những cảnh tạp loại, tối tăm đầy dẫy trong hai khoảng (trời đất). Thiên hạ chưa định, danh phận chưa rõ, nên lập vua để thống trị, chưa thể vội cho là lúc yên ổn. Chỗ này không dùng nghĩa của hào Chín Đầu, là vì sự dùng nghĩa có nhiều mối, đây cũng là dùng về một mối của nó.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Sấm mưa động đến đầy dẫy, cũng là cái ý uất tắc, “Vận trời rối loạn mờ tối nên dựng nước hầu mà chẳng cho là yên” là do Khổng Tứ phát minh riêng ra một lẽ. Ý nói: Đương lúc rối ren đó, không thể không có ông vua, cho nên phải lập vua, rút lại vẫn không thể cho dựng ra tước hầu là xong, phải tự lấy làm không yên mới được. Bởi vì mới động mà gặp chỗ hiểm thánh nhân thấy cỏ tượng ấy nên mới nhân đó mà đặt lời răn.
LỜI KINH
Dịch âm, - Tượng viết: Vân lôi Truân, quân tử dĩ kinh luân.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Mây sấm là quẻ Truân, đấng quân tử coi đó mà sửa sang thiên hạ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Quẻ Khảm không nói là mưa mà nói là mây vì mây tức là mưa mà chưa thành; chưa từng mưa cho nên là truân. Đấng quân tử coi tượng quẻ Truân, sửa sang việc thiên hạ để qua lúc truân nan.
Bản nghĩa của Chu Hy, - Quẻ Khảm không nói nước mà nói mây, là ý chưa được hanh thông. Kinh luân là công việc làm tơ, kinh là kéo, luân là gỡ. Cái đời truân nàn là lúc quân tử có thể làm việc.
Lời bàn của Tiên Nho. - Ngô Lâm Xuyên nói rằng: “Quân tử trị đời như làm tơ. Muốn gỡ sự rối bời, cũng như lúc truân muốn giải sự uất kết. Kinh là tóm các mục nó làm một mà sau chia ra, giống như tiếng sấm do một mà chia: luân là gỡ các mối nó làm hai mà sau hợp lại, giống như tiếng sấm tự hai mà hợp lại.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thủy Trạch Tiết-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tiết- Nghệ thuật tiết chế, điều chỉnh. Chừng mực là nguồn hạnh phúc. Lượng sức được viên mãn. mọi hành động đều phải vừa mức thì mới đạt kết quả
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: có nhiều việc thuận lợi. Đề phòng chủ quan nóng vội và quá tự tin mà hỏng việc
● Hy vọng: nôn nống kỳ vọng thì khó như ý
● Tài lộc: có nhưng sau một thời gian nữa
● Sự nghiệp: sau một thời gian mới phát triển mạnh
● Nhậm chức: hiện chưa như ý, sau có chức vị cao
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề
● Tình yêu: đôi bên chưa thực sự gắn bó
● Hôn nhân: phải qua một thời gian mới thành lương duyên
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: thuận lợi
● Pháp lý: hòa giải là hơn
● Sự việc: nếu từ từ sẽ giải quyết xong
● Bệnh tật: kéo dài
● Thi cử: kết quả bình thường
● Mất của: tìm thấy
● Người ra đi: chưa biết đang ở đâu

Quẻ: Thủy Trạch Tiết - Khảm trên ; Đoài dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Tiết, Tự quái nói rằng: Hoán lìa, loài vật không thể lìa đến cùng chót, cho nên tiếp đến quẻ Tiết [1-Chữ 節 (tiết) nghĩa chính là dóng tre, nghĩa bóng là chừng mực, là tiết độ, là dè dặt, là nết cứng thẳng kiên nhẫn, như nói tiết nghĩa, tiết tháo v.v…]. Loài vật đã lìa tan, thì nên ngắn chỉ nó lại, vì vậy quẻ Tiết mới nói quẻ Hoán. Nó là quẻ trên chằm có nước, sự chứa của chằm có hạn, trên chằm để nước, đầy thì không chứa được nữa, là Tượng có tiết độ, cho nên là tiết.
LỜI KINH 
Dịch âm. – Tiết hanh, khổ tiết bất khả trinh.
Dịch nghĩa. – Quẻ Tiết hanh, sự dè dặt khổ không thể chính bền
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Việc mà đã có tiết độ, thì có thể đem đến được sự hanh thông, cho nên quẻ Tiết có nghĩa hanh. Tiết chế quí ở vừa phải, thái quá thì khổ: tiết chế đã đến khổ, há giữ thường thường được sao? Không thể cố giữa làm sự thường thường tức là không thể chính bền.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Tiết là có hạn mà ngừng lại. Là quẻ dưới Đoái trên Khảm, trên chằm có nước, sức chứa có hạn, cho nên là tiết. Quẻ Tiết tự nó có nghĩa hanh thông. Lai thể quẻ Âm Dương đều một nửa, mà hào Hai hào Năm đề là Dương, cho nên lời Chiêm được hanh nhưng đến thại thậm thì khổ, cho nên lại răn rằng: Không thể giữ làm chính bền.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thoán viết: Tiết hanh, cương nhu phân nhi cương đắc trung. Khổ tiết bất khả trinh kỳ đạo cùng dã. Duyệt dĩ hành hiểm, đáng vị dĩ tiết, trung chính dĩ thông. Thiên địa tiết nhi tứ thì thành. Tiết dĩ chết độ, bá thương tài, bất hại dân.
Dịch nghĩa. – Lời Thoán nói rằng: Quẻ Tiết hanh, cứng mềm bằng nhau mà cứng được giữa. Tiết khổ không thể chính bền, thửa đạo cùng vậy. Đẹp lòng để đi chỗ hiểm, đáng ngôi để dè dặt, giữa chính để suốt. Trời đát có chừng mực là bốn mùa nên. Chừng mực bằng phép tắc, chẳng hại của ai, chẳng hại dân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Đạo tiết tự nó đã có nghĩa danh. Việc tiết độ thì có thể hanh thông. Tài quẻ cứng mêm ngang nhau, cứng được giữa mà không thái quá, vì vậy mới là tiết độ, vì vậy mới hanh. Tiết chế đến cùng cực mà khổ, thì không nên kiên cố giữa mãi, đạo đó đã cùng cực rồi. Trong đoái ngoài Khảm, tức là dụng sự đẹp lòng mà đi vào chỗ hiểm. Người ta với điều mình đẹp lòng thì không biết thôi, gặp giản hiểm thì muốn ngừng lại, đương đẹp mà ngững là nghĩa là tiết chế. Hào Năm ở ngôi tôn là đang ngôi, ở trên chằm là tiết độ. Đáng ngôi mà tiết độ, tức là chủ về tiết độ. ở được giữa chính, tức là tiết độ mà thông suốt được giữa chính thì thông, quá thì khổ. Trời đát có chừng mực cho nên bốn mùa. Đấng thánh nhân dực phép tắc để làm chừng mực cho nên không hải của hại dân. Lòng ham muốn của người ta không biết thế nào là cùng, nếu không lập ra phép tắc, thì sẽ xa xỉ không dở, rồi đến hại của hại dân.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Trạch thượng hữu thuy, Tiết, quân tử dĩ tiết chế số độ, nghị đức hạnh.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Trên chằm có nước là quẻ Tiết. Đấng quân tử coi đó mà chế độ, bàn đức nết.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Chằm nó chứa nước có hạn, quá hạn thì đầy tràn. Đó là có tiết độ, cho nên mới là quẻ Tiết. Đấng quân tử cọi tượng quẻ Tiết mà chế dựng số độ, phàm trong các vật lớn nhỏ, nhẹ nặng, cao thấp, văn hoa, mộc mạc đều có số độ để làm chừng mực,”số” là kẻ về nhiều ít, “độ” là nói khuôn phép. Bàn đức nết là gì? Cái chứa ở trong cái đức, cái phát ra ngoài là nết, đúng nghĩa thì trúng tiết độ, bàn là cân nhắc so đo, cầu trung tiết độ vậy.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thuần Khảm-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tập Khảm-Thận trọng giữ mình vượt qua cửa ải khó khăn. Vận không tốt, đáy vực khó tiến, khốn khó trùng trùng, nguy hiểm rất khó đột phá. Sự cố, biến đổi không ngừng, chịu nhục bản thân, đang ở tình trạng nguy hiểm, do vậy, khi hành động phải lượng sức mình và hết sức thận trọng. cuối cùng sẽ qua.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng. 
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: Mọi sự đều chưa như ý, tình hình có chiều hướng ngày xấu đi, đề phòng bệnh tật, trộm cướp.
● Hy vọng: không như ý.
● Tài lộc: Không có, đề phòng hao tổn.
● Sự nghiệp: chưa gặp thời, không nên miễn cưỡng.
● Nhậm chức: không như ý.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: chưa chân thành với nhau.
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên.
● Đợi người: chưa đến.
● Đi xa: không lợi gì, nên bỏ ý định.
● Pháp lý: nên hòa giải, cương cứng chỉ thua.
● Sự việc: cần dứt điểm cho dù tốn kém.
● Bệnh tật: nghiêm trọng.
● Thi cử: không đạt.
● Mất của: không thấy.
● Người ra đi: nguy đến tính mạng.
Quẻ: Thuần Khảm - Khảm trên; Khảm dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tập Khảm, Tự quái nói rằng: Các vật không thể quá mãi, cho nên tiếp đến quẻ Khảm. Khảm là lõm xuống. Không có lẽ nào quá mãi không thôi. Quá đến cùng cực thì phải lõm xuống [1-Chữ 坎 (Khảm) có nghĩa là hãm, là hiểm, là hố sâu], vì vậy quẻ Khảm mới nối quẻ Đại quá. Tập là hai lần, quẻ khác tuy cũng hai lần mà không dùng chữ “tập” vào tên, riêng có quẻ Khảm lại thêm chữ “tập”, thấy nó là hai lần hiểm, trong chỗ hiểm lại có chỗ hiểm, nghĩa đó lớn lắm. Quẻ này giữa một hào Dương, trên, dưới là hai hào Âm, Dương thực, Âm hư, trên dưới không có sở cứ, một hào Dương bị hãm trong hai hào Âm, cho nên là nghĩa trũng lõm. Dương ở trong Âm là hãm, Âm ở trong Dương là mắc. Hễ Dương ở trên là Tượng đậu, ở giữa là Tượng hãm, ở dưới là Tượng động. Âm ở trên là Tượng đẹp lòng, ở giữa là Tượng mắc, ở dưới là Tượng nhún. Khảm là hãm, trong quẻ thửa nói, đều là cách xử trí lúc hiểm nạn. Khảm lại là nước, số một bắt đầu ở giữa là cái trước nhất của sự sinh, cho nên là nước Trũng lõm là thể của nước.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tập Khảm hữu phu duy tâm, hanh, hành hữu thượng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Khảm kép, có tin, bui [2-Chữ “Bui” là một tiếng cổ của ta, nghĩa nó gần như tiếng “chỉ” “chỉ co” “chỉ vì theo”] lòng, hanh, đi có chuộng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dương đặc ở giữa, là trong có sự phu tín. Bui lòng hanh, nghĩa là chỉ vì trong lòng thành thực chuyên nhất, cho nên có thể hanh thông. Lòng chí thành có thể suốt được vàng đá, nhẩy vào nước lửa còn sự hiểm nạn nào mà không thể hanh? Đi có chuộng ý nói lấy sự thành thật chuyên nhất mà đi, thì có thể ra khỏi chỗ hiểm đáng được khen chuộng, tức là có công vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tập là kép, Khảm là hiểm hãm, Tượng nó là nước. Dương hãm ở trong Âm, ngoài hư mà trong thực vậy. Quẻ này trên dưới là thể Khảm, đó là hai lần hiểm, giữa đặc là Tượng có tin, lòng hanh thông; dùng cách đó mà đi, ắt là có công, cho nên lời Chiêm của nó như thế.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tập Khảm trùng hiểm dã. Thủy lưu nhi bất doanh, hành hiểm nhi bất thất kỳ tín. Duy tâm hanh nãi dĩ cương trung dã; hành hữu thượng, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Lời thoán nói rằng: Quẻ Khảm kép là hai lần hiểm vậy. Nước chảy mà không đẩy, đi chỗ hiểm mà không mất điềm tín của mình. Bui lòng hanh vì cứng giữa vậy: đi có chuộng lạ đi có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tập Khảm chỉ về hai lần hiểm. Trên dưới đều thể Khảm, đó là hai chỗ hiểm chồng nhau. Hào Sáu Đầu nói là “Hố trũng”’ tức là Khảm ở trong Khảm, đó là hai lần hiểm vậy. Nước chẩy mà không đầy: khí Dương động trong chỗ hiểm, mà chưa ra khỏi chỗ hiểm, đó là tính nước chảy đi mà chưa đầy chỗ trũng - đầy rồi thì đã ra khỏi chỗ hiểm. Đi chỗ hiểm mà không mất điều tin của mình: Dương cứng giữa đặc ở trong chỗ hiểm tức là kẻ đi chỗ hiểm mà không mất điều tin của mình. Thể Khảm giữa đặc, tính nước chảy xuống chỗ thấp, đều là tín nghĩa có tin vậy. Chỉ theo lòng mình có thể hanh thông là vì cái đức cứng giữa. Giữa đặc là Tượng có tin; cái đạo chí thành, chỗ nào mà thông suốt được! Dùng đạo cứng giữa mà đi thì có thể qua chỗ hiểm nạn mà hanh thông. Lấy tài cứng giữa mà đi thì có công, cho nên đáng được khen chuộng. Nếu đậu mà không đi, thì vẫn ở trong chỗ hiểm. Quẻ Khảm lấy sự đi được làm có công.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu thích nghĩa tên quẻ; câụ thứ hai Tượng của quẻ để thích chữ hữu phu, ý nói trong đặc mà nết có thường. Lấy cứng ở giữa là Tượng trong lòng hanh thông. Cứ thế mà đi ắt là có công.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên hiểm bất khả thăng dã, địa hiểm sơn xuyên khâu lăng dã, vương công thiết hiểm dĩ thủ kỳ quốc, hiểm chi thì dụng đại hỹ tại!
Dịch nghĩa. - Trời hiểm không thể lên được, đất hiểm thì là núi sông gò đống, tước vương tước công đặt chỗ hiểm để giữ thửa nước, thì dụng [3-Sự dùng của từng thì] của sự hiểm lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cao không thể lên là cái hiểm của trời, núi sông gò đống là cái hiểm của đất. Tước vương tước công là kẻ làm vua người ta, coi Tượng quẻ Khảm biết rằng chỗ hiểm không thể lấn được, nên mới đặt ra chỗ hiểm như là thành quách, ngòi ao để giữ nước mình dân mình: Đó là có thì dùng đến chỗ hiểm, sự dùng ấy rất lớn, vì thế mới tán là “lớn vậy thay”!
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cực mà tán dương sự lớn của nó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thủy tấn chi tập Khảm, quân tử dĩ thường, đức hạnh, tập giáo sự.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Nước lại tới, là quẻ Khảm kép, đấng quân tử coi đó mà giữ cho đức hạnh có thường, tập cho giáo sự được quen.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Khảm là nước, nước chảy phải liền liền kéo đến, hai thể Khảm chồng nhau, là Tượng nước chảy liền mà đến. Nước tự một hạt, một giọt đến hàng tầm [4-Năm thước là một tầm] hàng trượng [5-Mười thước là một trượng], đến thành sông thành biển, đều là liền lù không vội, sự “theo thế mà chảy xuống thấp” của nó đúng mà có thường, cho nên đấng quân tử coi Tượng nước Khảm đó, theo sự có thường của nó mà giữ cho đức hạnh cho mình được thường thường và lâu dài - đức hạnh người ta mà không thường thường, thì là giả dối, cho nên cần phải như nước có thường - theo sự liền liền chịu nhau của nó để tập cho quen công việc giáo lệnh -phát chính hành giáo, phải khiến cho dân nghe quen, nếu bảo gấp chưa hiện mà vội bắt họ phải theo, dù dùng hình phạt nghiêm ngặt đuổi họ đi cũng không thể được, cho nên cần như nước chảy luôn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trị mình, trị người ắt phải tập đi, tập lại, rồi sau mới quen.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Sơn Phong Cổ
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Cổ-Cần xét lại bản thân, không có trợ giúp,tiến hành cách tân thận trọng, chuyển xấu thành tốt: Vận thế hỗn loạn, đình trệ không tiến lên được, mất phương hướng, cần thay đổi, làm tuần tự, cho biết trên dưới chưa đồng lòng, các đối tác chưa nhất trí với nhau. Cần làm lại từ đầu, gặp khó khăn cố mà vượt qua, tuy vậy phải nghĩ trước, nghĩa sau để đề ra kế hoạch.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện bình thường. Do chủ quan mà lâm vào tình thế nguy hiểm. Thay đổi cách ứng xử sẽ trở lại bình thường.
● Hy vọng: có nhiều trở ngại, khó đạt
● Tài lộc: chưa có
● Sự nghiệp: dễ đổ vỡ, nên tạm dừng
● Nhậm chức: có trở ngại, khó như ý
● Nghề nghiệp: sau khi chuyển nghề tạm thời sút kém rồi sau chuyển biến tốt.
● Tình yêu: đối tượng chưa gắn bó, còn đắn đo
● Hôn nhân: không thành
● Đợi người: chưa đến, phải chờ lâu
● Đi xa: nên bỏ ý định vì sẽ có trở ngại
● Pháp lý: nên hoà giải
● Sự việc: giải quyết ngay thì ổn, kéo dài bất lợi
● Bệnh tật: lâu khỏi
● Thi cử: không đạt
● Mất của: bị che lấp, bị biến dạng
● Người ra đi: ra đi không biết nương vào đầu

Quẻ: Sơn Phong Cổ - Cấn trên ; Tốn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Cổ, Tự quái nói rằng: Kẻ dùng sự vui theo người, ắt phải có việc, cho nên tiếp đến quẻ Cổ [1-Chữ 蠱 (cổ) có nghĩa là giống bọ nuôi để hại người lại có nghĩa là làm mê hoặc người ta]. Đó là vâng theo nghĩa của hai quẻ kia [2-Chỉ về hai quẻ Dự, Tùy] mà làm thứ ba. Ôi vui đẹp để theo người, ắt phải có việc, nếu không có việc thì vui gì theo gì? Vì vậy, quẻ cổ mới nối quẻ Tùy. Cổ tức là việc. Nó là quẻ ở dưới núi có gió. Gió ở dưới núi, gặp núi mà lật lại, thì các vật rối loạn, đó là tượng cổ. Chữ “cổ” nghĩa là nát loạn, mặt chữ #, (trùng: sâu bọ) và #(mãnh: cái chậu). Trong chậu có bọ, là nghĩa cổ hoại. Truyện của họ Tạ nói rằng: “Gió lạc núi, con gái làm mê hoặc con trai”. Lấy người trưởng nữ [3-Là quẻ Tốn] mà chịu ở dưới kẻ thiếu nam [4-Là quẻ Cấn] là loạn về tình. Gió gặp núi mà lộn lại, các vật đều rối loạn, là Tượng có việc. Đã rối loạn mà phải trị lại, cũng là việc. Nói về lượng quẻ, thì cái Tượng đó là vật làm thành sự cố. Nói về tài quẻ, thì là cái tai để trị việc cổ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cổ nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên, tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật.
Dịch nghĩa. - Quẻ Cổ cả, hanh, lợi về sang sông lớn. Trước giáp ba ngày, sau giáp ba ngày.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đã loạn thì có lý lại trị, từ xưa, cuộc trị ắt nhân cuộc loạn, cuộc loạn thì mở ra cuộc trị, là lẽ tự nhiên. Như tài quẻ này, dùng để trị cuộc loạn, thì có thể đem đến sự cả hanh. Sự lớn nhất trong cuộc loạn là phải vượt qua sự gian nan hiểm trở của đời, cho nên nói là “lợi về sang sông lớn”. Giáp là chữ đầu của hàng can, là buổi đẩu của công việc, tức là mối của các việc. Cách trị cuộc cổ, phải nghĩ ngợi trước sau ba ngày. “Trước giáp” là trước lúc đó xem xét tại sao mà thế, “sau giáp” là sau lúc đó, lo rằng sắp sửa đến thế. Một ngày hai ngày, đến ba ngày, ý nói lo cho sâu mà suy cho xa. Xét xem tại sao như thế, thì biết cách để cứu chữa, lo rằng sắp sửa đến thế, thì biết mẹo để phòng bị. Khéo cứu chữa thì tệ trước có thể cải cách; khéo phòng bị thì lợi sau có thể lâu dài. Đó là phương pháp của đấng thánh vương đời xưa làm mới thiên hạ mà để lại cho đời sau. Những người trị cuộc cổ loạn sau này, không rõ cái ý trước giáp sau giáp của đấng thánh nhân, lo nông mà làm việc gần, cho nên nhọc về cứu đời mà loạn không khỏi; công chưa thành mà tệ đã sinh rồi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cổ là nát hỏng đến cực điểm mà phải có việc. Quẻ đó Cấn cứng ở trên, Tái mềm ở dưới, trên dưới không dưới không giao với nhau, dưới mềm nhún mà trên cẩu thả dừng dậu, cho nên là cổ. Cổ là nát hỏng cực điểm, loạn rồi thì phải lại trị, cho nên lời Chiêm của nó là cả hanh mà lợi về sang sông lớn. Giáp là đầu của các ngày, mối của các việc. Trước giáp ba ngày là tân, sau giáp ba ngày là định. Việc trước đã quá mức mà sắp hỏng, thì có thể tự làm mới ra, để làm manh mối cho việc sau là không đến hỏng quá; việc sau đương bắt đầu mà hãy còn mới, thì nên hết ý đinh ninh, để chừa cái lỗi của việc trước mà không để cho đến nỗi chóng hỏng. Lời răn của thánh nhân sâu lắm.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Vân Phong nói rằng: Mấy chữ “Tiên giáp, hậu giáp”, mỗi người chú giải một khác. Tôi thì cho rằng: Quẻ Cổ do ở Tốn Cấn thành ra, nên theo Tốn Cấn mà coi. Trong hình vẽ tiên thiên, giáp ở phương Đông, từ giáp kể ngược, qua ba ngôi Ly, Chấn, Khôn, thì được Cấn, đó là “trước giáp ba ngày”; từ giáp kể xuôi, qua ba ngôi Ly, Đoái, Kiền thì được Tốn, đó là “sau giáp ba ngày”…
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Cổ, cương thượng nhi nhu hạ, tốn nhi chỉ, cổ.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Cổ, cứng lên mà mềm xuống, nhún mà đậu, là quẻ Cổ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lấy nghĩa quái biến và hai thể của quẻ mà nói, thì cứng trên mà mềm dưới, nghĩa là hào Chín Đầu của quẻ Kiền lên làm hào Chín Trên, hào Sáu Trên của quẻ Khôn xuống làm hào Sáu Đầu. Dương cương là kẻ tôn mà ở trên, nay đi ở trên, Âm nhu là kẻ ty mà ở dưới, nay đến ở dưới, trai tuy trẻ mà ở trên, gái tuy lớn mà ở dưới, tôn ty được chính đính, trên dưới thuận lẽ, đó là đạo trị cuộc cổ. Do ở cứng đi lên mềm đi xuống, biến làm Cấn Tốn, Cấn là ngừng đậu, Tốn là xuôi thuận, dưới nhún mà trên đậu, ấy là ngừng đậu trong sự nhún thuận. Lấy đạo nhun thuận mà trị cuộc cổ, cho nên cả hanh.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là thể quẻ, sự biến đổi của quẻ và đức qué để thích nghĩa tên quẻ. Nghĩa là nhir thế, thì cái mối tệ chứa lại mà đến cổ loạn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cổ nguyên hanh nhi thiên hạ trị dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ cổ cả hanh mà thiên hạ trị vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái đạo trị cuộc cổ, như tài quẻ này thì cả hanh mà thiên hạ trị. Kẻ trị cuộc loạn, nếu biết khiến họ nghĩa tôn ty trên dưới được đâu vào đó, kẻ dưới thì nhún thuận, kẻ ở trên, biết ngừng đậu chỉnh tề, những việc sắp đặt, đều phải đậu trong sự thuận, thì cuộc cổ loạn nào mà không trị nổi? Đạo đó rất phải mà hanh, như thế thì thiên hạ trị.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi thiệp đại xuyên, văng hữu sự dã.
Dịch nghĩa. - Lợi về sang sông lớn, đi có việc vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đương lúc thiên hạ nát loạn, nên vượt qua sự gian hiểm mà đi, để giúp cho đời, đó là đi có việc.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật, chung tắc hữu thủy, thiên hành dã.
Dịch nghĩa. - Trước giáp ba ngày, sau giáp ba ngày, chót thì có đầu, cuộc vận hành của trời đất vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Ôi, có đầu thì ắt có chót, đã chót thì ắt có đầu, đó là đạo trời. Đấng thánh nhân biết đạo chót, đầu, cho nên có thể suy nguyên lúc đầu mà xét cái lẽ tại sao mà thế, rút lại lúc chót mà ngừa cái sự sắp sửa đến thế, trước giáp sau giáp mà lo, cho nên có thể trị cuộc cổ loạn mà đem đến sự cả hanh.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là thích về lời quẻ. Trị cuộc cổ mà đến hanh, thì cái tượng loạn mà lại trị. Chót cuộc loạn, là đầu cuộc trị, vận trời như thế.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn hạ hữu phong, Cổ, quân tử dĩ chấn dân dục đức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới núi có gió, là quẻ Cổ, đấng quân tử coi đó mà nhức [5-Tức là nhắc nhở, như nói phấn chấn] dân nuôi đức.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dưới núi có gió, gió gặp núi mà lộn lại, các vật đều tán loạn, cho nên là Tượng “có việc”. Đấng quân tử coi Tượng “cóviệc” để nhức giúp cho dân, gây nuôi đức mình, ở mình nuôi đức, ở thiên hạ thì giúp dân, việc của đấng quân tử, không gi lớn hơn hai điều ấy.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Dưới núi có gió, các vật hư hỏng mà có việc rồi, mà việc, không gì lớn hơn hai điều ấy (nhức dân nuôi đức) đó là đạo trị mình, trị người.

 + Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Sơn Lôi Di
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Di-Bảo dưỡng, Thận trọng lời nói, hành động. Vận có su hướng thuận lợi, cần vừa mức, thận trọng trong giao tiếp, nói năng, ăn uống thì sẽ không mắc sai lầm. Việc nhỏ rễ thành, việc lớn rễ thất bại, cần nắm bắt cơ hội.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: ngược với cái gì mình mong muốn, tưởng là tốt đẹp nhưng ngược lại.
● Hy vọng: có nhưng không như ý.
● Tài lộc: chưa thấy.
● Sự nghiệp: giữa chừng có nhiều trở ngại. Nếu hợp tác với nhiều người mới thành công.
● Nhậm chức: chưa được như ý.
● Nghề nghiệp: nên chờ thời cơ
● Tình yêu: đôi bên chưa tiến tới.
● Hôn nhân: khó thành.
● Đợi người: chưa đến.
● Đi xa: không nên.
● Pháp lý: nên hòa giải.
● Sự việc: chưa xong.
● Bệnh tật: không nặng.
● Thi cử: không đạt.
● Mất của: do nhầm lẫn, để quên
● Người ra đi: chưa rõ mục đích.

Quẻ: Sơn Lôi Di – Cấn trên; Chấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Di, Tự quái nói rằng; Chứa rồi mới có thể nuôi [1-Chữ 觀 (di) có nghĩa là mép, có nghĩa là nuôi] cho nên tiếp đến quẻ Di. Ôi loài vật đã có chứa họp, thì ắt có cái nuôi nó, không có cái nuôi thì không thể tồn tại, sinh sôi, vì vậy quẻ Di mới nối quẻ Đại Súc. Quẻ này trên Cấn dưới Chấn, trên dưới hai hào Dương, giữa ngậm bốn hào Âm, trên đậu mà dưới đông, ngoài đặc và trong rỗng, là Tượng mép cắm người ta. Di là nuôi, miệng người ta cốt để ăn uống, nuôi thân người ta. Cho nên gọi là quẻ Di. Đấng thánh nhân đặt quẻ, suy rộng nghĩa của chữ nuôi, lớn thì đến như trời đất nuôi nấng muôn vật, đấng thánh nhân nuôi người hiền, cho đến muôn dân và người ta nuôi đời sống, nuôi hình hài, nuôi đạo đức, nuôi người khác, đều là đạo nuôi nấng. Động cựa hay nghĩ ngơi, dè dặt hay phát tiết, là để nuôi đời sống, ăn uống quần áo là để nuôi hình hài, dáng dấp hạnh nghĩa, là để nuôi đạo đức, suy mình ra người là để nuôi người khác.
LỜI KINH
Dịch âm. – Dì trinh cát, quan di tự cầu khẩu thực.
Dịch nghĩa. – Quẻ Di chính tốt, xem sự nuôi, tự tìm cái thật của miệng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Đạo của sự nuôi, hễ chính đạo thì tốt. Người ta nuôi thân mình, nuôi đạo đức, nuôi kẻ khác, và được người khác nuôi, đều theo chính đạo thì tốt; trời đất tạo hóa nuôi nấng muôn vật, vật nào được sự thích nghi của vật ấy, cũng là chính đạo mà thôi. Xem sự nuôi, tự tìm cái thật của miệng, nghĩa là xem cái người ta thửa nuôi và cách tự tìm cái thật cho miệng của họ, thì sự thiện ác lành dữ có thể thấy được.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Di là chỗ cạnh miệng, miệng ăn đồ ăn để tự nuôi, cho nên mới là nghĩa nuôi. Nó là quẻ trên dưới hai hào Dương, trong ngậm bốn hào Âm, ngoài đặc, trong rỗng, trên đậu dưới động, là Tượng cái mép, và nghĩa sự nuôi. Trinh cát nghĩa là kẻ xem được chính thì tốt. Quan Di nghĩa là xem cách thửa nuôi. Tự cầu khẩu thực nghĩa là xem xét thuật nuôi mình, hễ đều được chính thì tốt.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thoán viết: Di trinh cát, dưỡng chinh tắc cát dã; quan di, quan kỳ sở dưỡng dă; tự cầu khẩu thực, quan kỳ tự dưỡng dã.
Dịch nghĩa. – Lời Thoán nói rằng: Quẻ Di chính tốt, là thửa nuôi được chính thì tốt vậy; xem sự nuôi, là xem cái thửa nuôi vậy; tự tìm cái thật của miệng, là xem cái tự nuôi của người ta vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trinh cát là thửa nuôi được chính thì tốt, “thửa nuôi” chỉ về người nuôi và cách nuôi, tự tìm cái thật của miệng, chỉ về cách tự tìm để nuôi thân mình, hễ đều dùng sự chính đính thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thiên địa dưỡng vạn vật, thánh nhân dưỡng hiền dĩ cập vạn dân. Di chi thì đại hỹ tai.
Dịch nghĩa. – Trời đất nuôi muôn vật, đấng thánh nhân nuôi người hiền để đến muôn dân, thì của quẻ Di lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây là thánh nhân nói cho cùng tận đạo nuôi mà tán dương sự lớn của nó. Đạo của trời đất là nuôi nấng muôn vật, mà đạo nuôi nâng muôn vật chỉ có sự chính mà thôi. Đấng thánh nhân thì nuôi nấng những bậc hiền tài, cùng họ chung ngôi trời, để họ ăn lộc trời, khiến họ thi ân với thiên hạ, đó là nuôi người hiền để tới muôn dân, nuôi người hiền là nuôi muôn dân vậy. Ôi, ở trong trời đất, phẩm vật đông nhiều, không nuôi thì không thể sống, đấng thánh nhân sửa nên đạo của trời đất, giúp tập sự thích nghi của trời đất, để nuôi thiên hạ, cho đến chim muông cây cỏ, cũng đều có những chính sự để nuôi nó. Đạo ấy sánh với trời đất, cho nên đấng phu tử suy rộng đạo nuôi, tán dương công của trời đất và đấng thánh nhân mà rằng: “Thì của sự nuôi lớn vậy thay”.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây là nói cho cũng cực đạo nuôi mà ngợi khen nó. .
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Sơn hạ hữu lôi, Di, Quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Dưới núi có sấm, là quẻ Di, đâng quân tử
coi đó mà cẩn thận nói năng, dè dặt uống ăn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Lấy hai thể mà nói, dưới núi có sấm động ở dưới núi, sinh vật ở trên núi đều động ở rễ vỏ, mọc mầm mếng, là Tượng sự nuôi. Lấy nghĩa trên dưới mà nói, Cấn đậu mà Chấn động, trên đậu dưới động, là Tượng mép cằm. Lấy hình quẻ mà nói, trên dưới hai hào Dương, giữa ngậm bốn hào Âm, ngoài đặc trong rỗng, là Tượng mép miệng. Miệng là cái để nuôi thân, cho nên đấng quân tử coi Tượng của nó mà nuôi mình, cẩn thận nói năng để nuôi đức hạnh, dè dặt ăn uống để nuôi thân thể. Câu đố chẳng những theo Tượng cái miệng lấy nghĩa sự nuôi mà thôi, việc rất gần mà quan hệ rất lớn, cũng không gì hơn nói năng ăn uống.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Hai điều đó [2-Tức là nói năng, ăn uống] là việc thiết yếu trong sự nuôi đức hạnh và nuôi thân thể.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Hoả Lôi Phệ Hạp
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Phệ hạp-Cần kế hoạch quyết đoán, hành động quả cảm, kiên trì thay đổi, vượt qua mâu thuẫn, xung đột, đấu tranh cục bộ dần sẽ thành. Phải dùng hành động cứng rắn, hình phạt mới giải quyết vấn đề được. Song phải có nhân đức, không sát phạt mà phải mở đường thoát, đường sinh. Luôn xét lại bản thân.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện gặp nhiều trở ngại, nếu nỗ lực cao sẽ cải thiện tình hình
● Hy vọng: Phải vượt qua trở ngại mới thành
● Tài lộc: chưa có hao tổn
● Sự nghiệp: không như ý
● Nhậm chức: khó thành công
● Nghề nghiệp: chuyển nghề xong vẫn khó như cũ
● Tình yêu: đôi bên không thuận lợi, chia tay
● Hôn nhân: khó thành vì trở ngại
● Đợi người: không đến
● Đi xa: nên từ bỏ ý định
● Pháp lý: Hành động quả quyết mới thắng kiện
● Sự việc: khó giải quyết
● Bệnh tật: ốm nặng, sẽ qua
● Thi cử: khó đạt kết quả
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: bất lợi
Quẻ: Hỏa Lôi Phệ Hạp - Ly trên; Chấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Phệ hạp Tự quái nói rằng: đáng xem mà sau mới có thửa hợp, cho nên tiếp đến quẻ Phệ hạp. Hạp nghĩa là hợp. Đã có đáng xem, rồi sau mới có kẻ đến hợp với nó, vì vậy quẻ Phệ hạp mới nối quẻ Quán. “Phệ” nghĩa là cắn, “hạp” nghĩa là hợp, trong miệng có vật ngăn cách, phải cắn mới hợp lại được. Trong quẻ trên dưới có hai hào cứng mà giữa thì mềm, ngoài cứng trong rỗng, là Tượng trong miệng mép người ta; lại một hào cứng ở giữa, là Tượng trong miệng có vật gì. Trong miệng có một vật gì, thì nó làm cho trên dưới ngăn cách, không thể hợp lại, ắt phải cắn đi, thì mới hợp được, cho nên là quẻ Phệ hạp. Thánh nhân lấy Tượng quẻ đó mà suy ra việc thiên hạ: ở cái miệng thì là có vật ngăn cách, không thể hợp được, ở thiên hạ thì có kẻ cường ngạnh, hoặc kẻ sàm tà, ngăn cách ở giữa, cho nên việc trong thiên hạ không thể hợp được; phải dùng hình pháp, nhỏ thì trừng giới, lớn thì giết chóc, để trừ bỏ đi, rồi sau cuộc trị thiên hạ mới thành. Phàm trong thiên hạ, cho đến một nước một nhà, cho đến muôn việc, sở dĩ không hòa hợp đều vì có sự ngăn cách, không ngăn cách thì sẽ hợp được; cả đến trời đất sinh ra muôn vật dựng nên, đều phải hợp rồi mớỉ được toại. Hễ mà chưa hợp, đều là có sự ngăn cách… Trừ bỏ sự ngăn cách trong thiên hạ thì phải dùng hình phạt, cho nên quẻ này lấy sự dụng hình làm nghĩa, về hai thể của quẻ, thì là sáng soi mà oai nhức, tức là cái Tượng của việc dùng hình.
LỜI KINH
Dich âm. - Phệ hạp hanh, lợi dụng ngục.
Dịch nghĩa. - Quẻ Phệ hạp hanh, lợi dùng việc ngục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Phệ hạp hanh, vì quẻ tự có nghĩa hanh. Việc trong thiên hạ, sở dĩ không được hanh thông là vì có chỗ ngăn cách; cắn mà hợp lại, thì hanh thông rồi. Lợi dùng việc ngục, nghĩa là cái đạo “cắn mà hợp lại” nên dùng về việc hình ngục vậy. Lại, ngăn cách ở thiên hạ, phi hình ngục lấy gì mà trừ bỏ được? Không nói “lợi dùng việc hình” mà nói “lợi dùng việc ngục” là vì trong quẻ có tượng sáng soi, lợi về sự xét ngục vậy. Ngục là để xét trị sự thật sự dối. Biết được tình thật, thì biết cái đạo làm cho ngăn cách, rồi mới có thể đặt ngăn ngừa và dùng hình phạt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Phệ là cắn, hạp là hợp, vật có chỗ cách, phải cắn mới hợp lại được. Quẻ này trên dưới hai hào Dương mà giữa trống rỗng, là Tượng cái miệng. Chín Tư là một hào Dương ngăn cách ở giữa, phải cắn mới hợp lại được, cho nên là quẻ Phệ hạp. Lời Chiêm của nó nên được hanh thông, là vì bị có chỗ cách, cho nên mới không hanh thông, cắn chỗ cách đó mà hợp lại được thì hanh thông rồi. Lại, ba hào Âm, ba hào Dương, cứng mềm vừa nửa, trên động dưới sáng, dưới sấm trên chớp, vốn là từ hào Sáu Tư của quẻ Ích, là một hào mềm đi lên đến ngôi thứ năm mà được chỗ giữa. Coi đó biết rằng: Lấy hào Âm ở ngôi Dương tuy không đáng ngôi mà lợi về sự dùng ngục. Bởi vì trong việc trị ngục, quý có oai có sáng mà được vừa phải.
Cho nên kẻ nào bói được quẻ này, nếu có đức ấy, thì ứng với lời chiêm ấy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Dị trung hữu vật, viết Phệ hạp.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Trong mép có vật là quẻ Phệ hạp.
GIẢI NGHĨA/
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phệ hạp nhi hanh.
Dịch nghĩa. - cắn hợp mà hanh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong mép có vật, cho nên là quẻ Phệ hạp. Có vật ngăn cách trong mép thì là sự hại. Cắn mà hợp lại, thì sự hại đó phải mất, mới là hanh thông, cho nên nói rằng: “Cắn hợp mà hanh”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cương nhu phân động nhi minh, lôi điện hợp nhi chương.
Dịch nghĩa. - Cứng mềm chia động mà sáng, sấm chớp hợp lại mà rõ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là nói về tài quẻ. Hào cứng và hào mềm xen nhau, cứng mềm chia ra mà không lẫn lộn, là tượng minh biện, tức là cái gốc của sự xét ngục. Động mà sáng: dưới Trấn trên Ly, tác là “động mà sáng”. Sấm chớp hợp lại mà rõ: sấm động mà chớp lòe, chờ nhau cùng hiện, tức là “hợp lại mà rõ”. Sự soi và oai cùng đi, đó là cái đạo dùng ngục. Soi được thì không kẻ nào có sự ẩn tình, có oai thì chẳng kẻ nào còn dám chẳng sợ. Câu trên đã lấy hai Tượng để nói sự động mà sáng của nó, cho nên câu dưới lại nói về ý “oai và sự soi cùng dùng”
LỜI KINH
Dịch âm. - Nhu đắc trung nhi thượng hành, tuy bất đáng vị, lợi dùng ngục dã.
Dịch nghĩa. - Mềm được giữa mà đi lên, tuy không đáng ngôi, lợi về sự dùng ngục vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu Năm lấy chất mềm ở ngôi giữa, là nghĩa “dùng ngục được vừa phải”. Đi lên nghĩa là ở ngôi tôn; tuy không đáng ngôi, nghĩa là lấy chất mềm mà ở ngôi Năm là không xứng đáng, thế mà lợi về sự dùng ngục, là vì cái đạo trị ngục, cứng cả thì hại về nghiêm bạo, mềm quá thì hỏng về khoan hoãn, hào Năm là chủ việc dùng ngục, lấy chất mềm, ở ngôi cứng mà được chỗ giữa, tức là được sự thích nghi của việc dùng ngục.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Các đoạn này dùng tên quẻ, thể quẻ, đức quẻ hai tượng và sự biến đổi của quẻ để thích lời quẻ.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Vân Phong nói rằng: Động không như sấm, không thể đoán ngục; sáng không như điện, không thể xét ngục, không mềm thì lỗi về bạo; mềm mà không giữa thì lỗi về phóng túng, nói sự cực dụng ngục là khó vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi điện Phệ hạp, tiên vương dĩ minh phạt sắc pháp.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sấm chớp là quẻ Phệ hạp, đấng Tiên vương coi đó để tỏ phạt truyền phép.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lời Tượng không đặt đảo, chỗ này ngờ là lộn nhau. Sấm chớp là vật chờ nhau cùng hiện, cũng có tượng hợp. Chớp sáng mà sấm oai, đấng Tiên vương coi tượng sấm chớp, bắt chước cái sáng cái oai của nó để tỏ hình phạt và sức pháp lệnh. Pháp là tỏ rõ sự lý mà đặt ra cách ngăn ngừa.Bản nghĩa của Chu Hy. - Hai chữ “lôi điện” nên đổi ra làm “điện lôi”.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thiên Lôi Vô Vọng-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Vô vọng-Từ bỏ tham vọng không chính, giữ phẩm chất. Cần thản nhiên vượt qua, Lượng sức hành động. hành động trái với lẽ của trời đất, với nhân tâm thì không thành công mà thất bại. Việc không chính sẽ gặp nguy ngay.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: mọi việc không như ý, dễ xảy ra bất trắc, bế tắc.
● Hy vọng: không có hy vọng gì, phải chờ thời.
● Tài lộc: hiện thời chưa thấy.
● Sự nghiệp: chưa có thời cơ.
● Nhậm chức: Không thể như ý.
● Nghề nghiệp: nên vẫn nghề cũ, thay đổi nghề là bất lợi.
● Tình yêu: hiện tại thuận lợi, sau bất lợi.
● Hôn nhân: không phải lương duyên, khó thành.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: Không tới nơi, giữa chừng dừng lại.
● Pháp lý: bất lợi cho mình, nên hòa giải.
● Sự việc: cứ để cho tiến triển tự nhiên.
● Bệnh tật: nguy hiểm, người già thận trọng giữ gìn.
● Thi cử: không đạt.
● Mất của: tìm được.
● Người ra đi: không nên.
Quẻ: Thiên Lôi Vô Vọng - Kiền trên; Chấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Vô Vọng [1-Chữ Vô Vọng tức là không càn, tức là thành thật khống có càn quấy], Tự quái nói rằng: Trở lại thì chẳng càn dỡ cho nên tiếp đến quẻ Vô Vọng. Trở lại tức là quay về với đạo, đã trở lại đạo thì hợp lẽ chính mà không càn dỡ, cho nên sau quẻ Phục tiếp đến quẻ Vô Vọng. Nó là quẻ Kiền trên Chấn dưới. Chấn về chủ động, động theo lẽ trời là không càn, động theo lòng dục của người là càn. Nghĩa quẻ Vô Vọng lớn lắm thay!
LỜI KINH
Dịch âm. - Vô Vọng nguyên hanh, lợi trinh, kỳ phỉ chính, hửu sảnh, bất lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Vô Vọng cả hanh, lợi về sự chính bền; thửa chẳng chính có tội, không lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Không càn tức là rất thành,rất thành thì là đạo trời. Ông trời biến hóa nuôi nấng các vật, muôn vật sinh sôi không cùng, vật nào nhằm đúng tính mệnh của vật ấy, đều là không càn. Người ta có thể hợp với đạo không càn, thì “hợp đức với trời đất” vậy. Không càn có lẻ cả hanh, đấng quân tử làm theo đạo không càn, thì có thể đem lại được sự cả hanh.
Vậy quẻ Vô Vọng tức là đạo trời, trong quẻ cốt nói về lẽ người ta theo đạo
“không càn” Lợi trinh nghĩa là cái cách bắt chước đạo không càn, lợi ở trinh
chính, không trinh chính là càn, tuy không tà tâm, mà nếu không hợp chính lý thì là càn, là có tà tâm cho nên chẳng chính thì là tội lỗi. Đã không càn thì không nên có sự đi, đi thì là càn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vô Vọng nghĩa là thực lý tự nhiên, sách Sử ký chép là 無望(Vô vọng) nghĩa là “không cần kỳ vọng mà cũng có được”, như thế cũng thông. Nó là một quẻ do ở quẻ Tụng biến ra, hào Chín quẻ này bởi hào Hai quẻ kia chuyển sang mà ở ngôi Đầu, lại là thể Chấn, chủ về sự động, động mà không càn, cho nên mới là vô vọng. Lại, trong hai thể, Chấn động mà Kiền mạnh, hào Chín Năm đứng cứng ở giữa mà ứng với hào Chín Hai, cho nên lời Chiêm của nó là “cả hanh mà lợi về sự chính, không chính thì có tội mà không lợi có thửa đi”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Vô vọng, cương tự ngoại lai, nhi vi chủ ư nội.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Vô Vọng, cứng tự ngoài đến, mà làm chủ ở trong.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây chỉ về hào Chín Đầu, hào Đầu thể Khôn, biến ra thể Chấn, đó là “cứng tự ngoài đến”. Chấn lấy hào Đầu làm chủ, quẻ này bởi đó mà ra, cho nên nó là chủ quẻ Vô Vọng. Động theo lẽ trời là không càn, đó là động mà lấy trời làm chủ: “Lấy chất cứng biến hóa chất mềm, là tượng lấy sự chính mà trừ điều càn”. Lại, hào cứng làm chủ ở trong, cũng là nghĩa không càn. Hào Chín ở ngôi Đầu, như thế là chính.
LỜI KINH
Dịch âm. - Động nhi kiện, cương trung nhi ứng, đại hanh dĩ chính, thiên chi mệnh dã.
Dịch nghĩa. - Động mà mạnh, cứng giữa mà có ứng với, cả hanh và chính, mệnh của trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dưới động [2-Chỉ về Chấn] mà trên mạnh [3-Chỉ về Kiền] cho nên sự động cứng mạnh. Cứng Mạnh tức là thể của quẻ Vô Vọng. “Cứng giữa mà có ứng với”, nghĩa là hào Năm lấy đức cứng ở ngôi trung chính, hào Hai lấy đức trung chính ứng lại với nó, ấy là thuận lẽ mà không càn, cho nên đạo đó cả hanh mà trinh chính, ấy là mệnh của trời đó. Mệnh trời chỉ về đạo trời, tức là cái không càn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Kỳ phi chính, hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng, vô vọng chi vãng, hà chi hỹ? Thiên mệnh bất hựu, hành hỹ tai.
Dịch nghĩa. - Thửa chẳng chính, có tội, chẳng lợi có thửa đi, không càn mà đi, đi đâu nhỉ? Mệnh trời không giúp, đi được chăng?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Gọi là không càn, chỉ có sự chính mà thôi. Hơi sai sự chính, thì có lỗi, tức là càn rồi, cái điều gọi là chẳng chính, chỉ bởi “có đi” mà ra. Nếu không càn mà chẳng đi thì lấy đâu có sự chẳng chính? Không càn là lẽ rất chính, lại còn đi nữa, thì sẽ đi đâu? Ấy là đi đến chỗ càn. Đi thì trái với lẽ trời, đạo trời không giúp, có thể đi chăng?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là sự biến đổi của quẻ và đức quẻ thể quẻ, để nói điều hay của quẻ như thế, cho nên lời chiêm của nó là cả hanh mà lợi về sự chính, tức là mệnh trời nên thế. Nếu có điều chẳng chính, thì không lợi về sự đi, muốn đi đâu nữa? Bởi vì trái vời mệnh trời mà trời không giúp, cho nên không thể có đi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thiên hạ lôi hành vật dữ, Vô Vọng; Tiên vương dĩ mậu đối thì, dục vạn vật.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Dưới trời sấm chạy vật được phú tính, là quẻ Vô Vọng; đấng Tiên vương coi đó mà tốt đối thì, nuôi muôn vật.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm chạy ở dưới trời, Âm Dương giao hòa, cọ nhau mà thành tiếng, bấy giờ sâu non còn náu phải kinh, mầm non mới nhú phải động, muôn vật đều phát sinh, trong sự phú dữ, lớn, nhỏ, cao, thấp, vật nào không nhằm đúng tính mệnh của vật ấy, không có sai càn, ấy là các vật phú tình không càn. Đấng Tiên vương coi tượng “dưới trời sấm chạy, phát sinh phú dữ các vật” để tốt đối thì trời, nuôi nấng muôn vật khiến cho vật nào được sự thích nghi của vật ấy, như việc phú dữ của trời không hề sai càn. “Mậu” nghĩa là thịnh, ý chữ “mậu đối” cũng như thịnh hành. Đối thì nghĩa là thuận hợp thì trời. Đạo trời sinh ra muôn vật, vật nào nhằm đúng tính mệnh của vật ấy mà không sai càn, đấng Tiên vương thể theo đạo trời, nuôi nấng nhân dân, cho đến sâu bọ cỏ cây, khiến cho giống nào được sự thích nghi của giống ấy, đó là đạo đối thì vật nuôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dưới trời sấm đi, chấn động phát sinh muôn vật, vật nào nhằm đúng tính mệnh của vật ây, đó là mỗi vật trời mỗi phú cho
bằng cách không càn, đấng Tiên vương bắt chước lượng đó để đối với thì, nuôi các vật, nhân theo bản tính của nó mà không tư túi với vật nào.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Phong Lôi Ích
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Ích-Giúp đỡ người khác, được lợi, quý nhân trọ giúp. Nắm bắt cơ hội, hành động kịp thời, làm việc lớn, tiến lên theo kế hoạch đã đề ra đều thành công và có lợi. Có nguy nan cũng vượt qua.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: rất thuận lợi, mọi việc thông đạt, chủ quan sẽ mắc sai lầm.
● Hy vọng: như ý.
● Tài lộc: có đủ.
● Sự nghiệp : thành công, nên duy trì thành quả lâu dài
● Nhậm chức: được trợ giúp nên có địa vị cao.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề có chiều hướng tốt.
● Tình yêu: có thể thành công.
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên.
● Đợi người : sẽ tới.
● Đi xa : đạt được mục tiêu.
● Pháp lý: thắng kiện.
● Sự việc: nên có người trung gian giải quyết.
● Bệnh tật: thuyên giảm.
● Thi cử: có kết quả tốt.
● Mất của: có thể tìm thấy.
● Người ra đi: không rõ mục đích.
Quẻ: Phong Lôi Ích - Tốn trên; Chấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ ích, Tự Quái nói rằng: Tổn mà không thôi, ắt phải ích, cho nên tiếp đến quẻ Ích. Thịnh suy, tổn ích như lần vòng tròn, tổn cực thì ắt phải ích, là lẽ tự nhiên, vì vậy quẻ Ích mới nối quẻ Tổn. Nó là quẻ Tốn trên Chấn dưới, đó là hai vật sấm gió làm ích cho nhau. Gió dữ thì sấm mạnh, sấm động thì gỉó gắt, hai đằng giúp ích cho nhau, cho nên mới là quẻ Ích. Đấy là lấy tượng mà nói. Hai quẻ Tốn, Chấn đều bởi vạch dưới biến đi mà thành ra. Dương biến ra Âm là quẻ Tốn. Âm biến ra Dương là quẻ Ích. Quẻ trên bớt đi mà quẻ dưới thêm lên, bớt trên thêm dưới, vì vậy mới là quẻ Ích. Đó là lấy nghĩa mà nói. Bên dưới đầy thì bên trên yên, cho nên thêm cho phía dưới là ích.
LỜI KINH
Dịch âm. - Ích lợi hữu du vãng, lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. - Quẻ Ích lợi có thửa đi, lợi về sang sông lớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Ích là đạo làm ích cho thiên hạ, cho nên lợi có thửa đi. Đạo ích có thể vượt qua hiểm nạn, đó là lợi sang sông lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ích là thêm ích. Nó là quẻ bớt vạch Dương ở ngôi đầu quẻ trên thêm vào vạch Âm ở ngôi đầu quẻ dưới, tự quẻ trên mà xuống phía dưới cho nên là ích. Trong quẻ, hào Chín Năm và hào Sáu Hai đều là trung chính, dưới Tốn trên Chấn đều là Tượng của loài cây, cho nên lời Chiêm của nó là “lợi có thửa đi mà lợi sang sông lớn”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Ích, tổn thượng ích hạ, dân nguyệt vô cương tự thượng há hạ, kỳ đạo đại quang.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Ích, bớt trên thêm dưới, dân đẹp lòng không bờ, tự trên xuống dưới, thửa đạo cả sáng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy nghĩa quẻ và tài quẻ mà nói. Quẻ này mà là quẻ Ích, vì nó bớt trên thêm dưới, bớt của trên để thêm cho dưới, thì dân đẹp lòng. “Không bờ” là không cùng cực vậy. Tự chỗ trên mà hạ mình xuống để xuống chỗ dưới, đó là đạo của nó cả sáng rệt vậy. Vạch Dương xuống ở ngôi Đầu, vạch Âm lên ở ngôi Tư, là nghĩa trên xuống dưới”.
Bán nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi hữu du vãng, trung chính hữu khánh.
Dịch nghĩa. - Lợi có thửa đi, trung chính có phúc.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Năm lấy đức Dương cứng, trung chính, ở ngôi tôn, hào Hai lại lấy đức trung chính ứng nhau với nó, đó là dùng đạo trung chính làm ích cho thiên hạ, thiên hạ chịu phúc khánh của nó vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi thiệp đại xuyên, mộc đạo nãi hành.
Dịch nghĩa. - Lợi sang lớn, đạo ích [1-Đây là theo ý Trình Di, đổi chữ ⼤ (mộc) ở lời kinh ra làm chữ 益 (ích) cho nên dịch là “đạo ích”] mới cả thi hành.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đạo ích, trong lúc bình thường vô sự, cái ích của nó còn nhỏ, đến khi gian nguy hiểm nạn, thì cái ích của nó càng lớn, cho nên lợi về sự sang sông lớn. Khi qua được chỗ hiểm nạn tức là lúc đạo ích cả được
thi hành. Chữ 益 (ích) làm ra chữ ⽊ (mộc). Có người nói rằng: Trên Tốn dưới Chấn, cho nên gọi là “mộc đạo”. Không phải thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ, tượng quẻ thích lời quẻ
LỜI KINH
Dịch âm. - Ích động nhi tốn, nhật tiến vô cương.
Dịch nghĩa. - Quẻ Ích động mà nhún, ngày tiến không bờ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lại lấy hai thể nói tài quẻ dưới động mà trên nhún, là động mà nhún. Là đạo ích, hễ động nhún thuận hợp lẽ, thì sự ích của nó mỗi ngày mỗi tiến, rộng rãi không có bờ ngăn nào hết. Động mà không thuận với lý, có thể nên được ích lớn chăng?
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên thi địa sinh, kỳ ích vô phương.
Dịch nghĩa. - Trời thi hành, đất sinh, thửa ích không phương.
GIẢI NGHĨA
- Lấy công trời đất mà nói cái lớn lao của đạo “ích”, đó là đấng thánh nhân thể theo công đó để làm ích cho thiên hạ vậy. Đạo trời giúp cuộc bắt đầu, đạo đất sinh ra các vật, trời thi hành, đất sinh, hóa nuôi muôn vật, nào đúng tính mệnh của vật ấy, cái ích đó có thể gọi là không phương. “Phương” là chốn, có phương chốn thì có hạn lượng, không phương chốn nghĩa là rộng lớn không cùng cực vậy. Trời đất ích cho muôn vật còn có cùng cực ư?
LỜI KINH
Dịch âm. - Phàm ích chi đạo, dữ thì giai hành.
Dịch nghĩa. - Phàm chưng đạo Ích, cùng thì đều đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ích của trời vô cũng, là lý mà thôi. Cái đạo thánh nhân làm ích cho thiên hạ, ứng thì, thuận lẽ, hợp với trời đất, thế là “cùng thì đều đi”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Động và nhún là đức của hai quẻ, Kiền thi hành trở xuống, Khôn sinh trở lên, cũng là nghĩa thể quẻ ở đoạn trên. Đây lại lấy quẻ Tốn mà nói, để tán dương sự lớn lao của đạo “ích”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Phong lôi Ích, quân tử dĩ kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Gió sấm là quẻ Ích, đấng quân tử coi đó mà thấy điều thiện thì dời sang, có lỗi thì đổi đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Gió dữ thì sấm mạnh, sấm động thì gió nổi, hai vật ích lẫn cho nhau. Đấng quân tử xem Tượng gió sấm ích nhau đó mà cầu ích cho mình. Cái đạo làm ích cho mình, không gì bằng thấy điều thiện, thì dời sang [2-Dời sang điều thiện nghĩa là bắt trước điều thiện của người ta], có lỗi thì đổi đi. Thấy điều thiện mà biết dời sang, thì có thể thu hết điều thiện trong thiên hạ, có lỗi biết đổi thì không lỗi nữa. Ích cho người ta, không gì lớn hơn thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thế của gió sấm giúp ích lẫn nhau. Dời điều thiện, đổi lỗi là việc lớn lao trong đạo “ích” mà sự “ích nhau” của nó cũng giống như thế.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Dời điều thiện nên chóng như gió, đổi lỗi nên mạnh như sấm… Gió là vật mau kíp, thấy điều thiện của người ta, mình sẽ không kịp, thì dời sang cho kịp như gió, sấm là vật hăng mạnh, minh có điều lỗi, thì cả quyết mà đổi cho mạnh như sấm, không nên có tí trì hoãn.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Phong Hỏa Gia Nhân
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Giai nhân-Lắng nghe, tương trợ tương ái. dù ở cương vị nào cũng phải có trách nhiệm chung với mọi người thì mới có lợi. Nếu chỉ thu mình, sẽ mắc sai lầm.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: bình an, gia đạo êm ấm.
● Hy vọng: thành đạt.
● Tài lộc: đầy đủ.
● Sự nghiệp: thành công.
● Nhậm chức: được đưa vào chức vụ tốt.
● Nghề nghiệp: nếu chuyển nghề, không lợi.
● Tình yêu: thuận lợi, đôi bên thành tâm.
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: vui vẻ.
● Pháp lý: hòa giải thì tốt.
● Sự việc: cần bàn bạc với mọi người trong gia đình.
● Bệnh tật: thuyên giảm.
● Thi cử: đạt kết quả tốt.
● Mất của: tìm thấy ở nhà.
● Người ra đi: bình thường.
Quẻ: Phong Hỏa Gia Nhân - Tốn trên; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Gia Nhân, Tự quái nói rằng: Di là đau, đau ở ngoài ắt trở vệ nhà, cho nên tiếp đến quẻ Gia Nhân [1-Gia nhân nghĩa là người nhà]. Ôi, đau khốn ở ngoài, thì phải trở vào bên trong, vì vậy, quẻ Gia nhân mới nối quẻ Minh di. Gia nhân là đạo trong nhà, tình cha con, nghĩa vợ chồng, thứ tự trên dưới, lớn nhỏ, chính luân lý, dốc ân nghĩa, đó là đạo người nhà. Nó là quẻ ngoài Tốn trong Ly, tức là gió tự lửa ra, lửa mạnh thì gió sinh, gió sinh thì lửa tự trong mà ra. Tự trong mà ra là Tượng từ nhà tới ngoài. Hào Hai và hào Năm chính ngôi trai, gái ở trong và ngoài, ấy là đạo người nhà; sáng ở trong mà nhún ở ngoài, ấy là cách khu xử trong nhà. Ôi, người ta, cái gì có ở mình thì hành được ở nhà, thi hành được ở nhà thì thi hành được ở nước rồi đến thiên hạ; cách trị thiên hạ tức là cách trị nhà, suy ra mà thi hành ở ngoài đó thôi. Cho nên mới lấy cái Tượng “từ trong mà ra” làm nghĩa quẻ Gia nhân.
LỜI KINH
Dịch âm. - Gia nhân lợi nữ trinh.
Dịch nghĩa.- Quẻ gia nhân lợi về gái chính.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đạo người nhà lợi ở con gái chính, con gái chính thì đạo nhà chính. Ôi, vợ ra vợ, chồng ra chồng thì đạo nhà mới chính, nay chỉ nói con gái chính là vì chính là cái thân chính đính, con gái chính, thì nhà chính, con gái chính thì chắc con trai cũng chính.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Gia nhân là người một nhà. Trong quẻ, hào Chín Năm và hào Sáu Hai, bên trong, bên ngoài, đều được chỗ chính, cho nên là quẻ “người nhà”. “Lợi con gái chính” là muốn chính bên trong trước, bên trong chính thì bên ngoài không gì không chính.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Gia nhân, nữ chính vị hồ nội, nam chính vị hồ ngoại; nam nữ chính; thiện địa chỉ đại nghĩa dã. Gia nhân hữu nghiêm quân yên, phụ mẩu chi vị dã. Phụ phụ, tử tử, huynh huynh, đệ đệ, phu phu, phụ phụ, nhi gia đạo chính, chính gia nhi thiên hạ định hỹ.
Dịch nghĩa. - Lời thoán nói rằng: Quẻ Gia nhân; con gái chính ngôi ở trong, con trai chính ngôi ở ngoài, trai gái chính, là nghĩa lớn của trời đất vậy. Người nhà cố vua nghiêm, là cha mẹ vậy. Cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em, vợ ra vợ, chồng ra chồng, mà đạo nhà chính. Chính được nhà thì thiên hạ phải đâu vào đấy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lời Thoán lấy tài quẻ mà nói, Dương ở ngôi Năm là ở ngoài, Âm ở ngôi Hai là ở trong, thế là trai gái đều được ngôi chính của mình. Cái đạo tôn ty, trong ngoài chính hợp với nghĩa lớn của trời đất Âm Dương. Trong đạo người nhà ắt phải có bậc tôn nghiêm mà làm chúa trùm, ấy là cha mẹ. Tuy là một nhà nhỏ nhặt, mà mất vẻ tôn nghiêm thì sự hiếu kính phải suy, không có bậc chúa trùm thì phép tắc phải bỏ, có vua nghiêm mà sau đạo nhà mới chính. Nhà là khuôn phép của nước vậy. Cha con, anh em, vợ chồng, ai giữ được đạo của nấy, thì đạo nhà chính. Suy đạo một nhà, có thể tới được thiên hạ, cho nên nỉíằ chính thì thiên hạ sẽ đâu vào đấy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn đầu lấy hai hào Chín Năm, Sáu Hai trong thể quẻ thích nghĩa chữ “lợi nữ trinh”. Đoạn thứ hai cũng chỉ vào hai hào thứ Hai thứ Năm. Đoạn thứ ba nói về cả quẻ, hào Trên là cha, hào Đầu là con, hào Năm hào Ba là chồng, hào Tư hào Hai là vợ, hào Năm là anh, hào Ba là em, lấy nét quẻ mà suy, lại có tượng đó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Phong tự hỏa xuất, Gia nhân, quân tử dĩ ngôn hữu vật, nhi hạnh hữu hằng.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Gió từ lửa ra, là quẻ Gia nhân, đấng quân tử coi đó mà nói có vật, nết có thường.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái gốc của việc chính nhà, cốt ở chính lấy mình mình; cái đạo tíhính mình,một câu hỏi, một sự hành động, không thể thay đổi. Đâng quân tử coi Tượng gió tự lửa ra, mà biết việc phải do ở trong mà ra, cho nên nói ắt có vật, làm ắt có thường. Vật là sự thực, thường là thường độ, tức là phép tắc vậy. Đức nghiệp tỏ rệt ra ngoài là bởi nói và nết cẩn thận ở trong. Nói gìn, nết sửa, thì mình chính mà nhà trị [2-“Trị” này nghĩa là kỷ cương, có trật tự, trái lại với chữ “loạn”].
Bản nghĩa của Chu Hy. - Mình chính thì nhà trị.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Phong Thiên Tiểu Súc
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Không ổn định, cần ổn định bình tĩnh, sắp thành công: Có lợi nhỏ, thời cơ chưa có, tốt xấu đan xen. Cần dũng cảm tiến lên. sức lực và khả năng chưa đạt tới thực hiện điều mong muốn nên trau dồi kiến thức, đừng manh động. Không nên hoạt động lãnh đạo người vì chưa đủ uy tín.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: có vẻ thuận lợi, song có trắc trở. Nên suy nghĩ thấu đáo
● Hy vọng: có người ngăn trở nên chưa thành
● Tài lộc: chưa phải lúc thành
● Sự nghiệp: chưa như ý, chờ đợi một thời gian
● Nhậm chức: chưa như ý, chờ đợi một thời gian
● Nghề nghiệp: nên suy nghĩ lại khi chuyển nghề
● Tình yêu: quan hệ chưa tiến triển
● Hôn nhân: bị ngăn trở
● Đợi người: không đến
● Đi xa: dự định đảo lộn
● Pháp lý: kéo dài, cuối cùng xong
● Sự việc: mở rộng, chưa giải quyết được
● Bệnh tật: không nghiêm trọng, có kéo dài
● Thi cử: chưa đạt như ý
● Mất của: chưa tìm được
● Người ra đi: hiện chưa quay về

Quẻ: Phong Thiên Tiểu Súc - Tốn trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tiểu súc [1-Súc nghĩa là chứa là nuôi], Tự quái nói rằng: Liền gần với nhau thì phải có sự nuôi chứa, cho nên tiếp đến quẻ Tiểu súc. Các vật gần liền là hợp, hợp tức là chứa. Lại, gần liền với nhau thì chí nuôi nhau, vì vậy quẻ Tiểu súc mới nối quẻ Tỵ. Súc tức là đậu, đậu thì là hợp. Nó là quẻ Tôn trên Kiền dưới, Kiền là vật ở trên, thế mà lại ở dưới Tốn. Ôi chứa đậu sự cứng mạnh, không gì bằng sự nhún thuận; bị sự nhún thuận chứa đậu, cho nên là súc. Nhưng mà Tốn thuộc về Âm, thể nó mềm thuận, chỉ biết dùng sự nhún thuận để làm cho mềm sự cứng mạnh, không phải sức nó có thể ngăn được. Đó là cách chứa còn nhỏ. Lại, hào Tư là một hào Âm, bị năm hào Dương đẹp lòng, được ngôi, tức là được đạo mềm thuận, có thể nuôi được chí ý của các hào Dương, cho nên là súc. Tiểu súc là lấy cái nhỏ mà chứa cái lớn, thì cái chứa hợp cũng nhỏ. Việc nó chứa hợp mà nhỏ, là vì nó thuộc về Âm. Lời Thoán chỉ lấy hào Sáu Tư chứa các hào Dương làm nghĩa thành quẻ, không nói đến hai thể của hai quẻ, ấy là chỉ nói điều trọng yếu hơn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tiểu súc hanh, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Dịch nghĩa. - Chứa nhỏ hanh thông, mây dầy không mưa, tự cõi tây ta.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Mây là khí của Âm Dương, hai khí đó giao nhau mà hoà hợp, thì nó chứa nhau, chắc lại thì thành ra mưa. Dương xướng lên, Âm hoạ theo, là thuận, nên mới hoà hợp. Nếu Âm xướng lên trước Dương, thì là không thuận, nên không hoà hợp, không hoà hợp thì không thể thành mưa. Mây tuy chứa hợp đã dầy mà không thể thành mưa, là vì nó ở cõi Tây. Đông Bắc là phương Dương, Tây Nam là phương Âm, tự Âm xướng lên, cho nên nó không hoà hợp mà không thành mưa. Lấy con mắt người ta mà coi, thì khí mây nổi lên, đều tự bốn chỗ thẳm xa, nên gọi là “giao”. Căn cứ vào hào
Tư mà nói, cho nên gọi là “tự ta”. Chứa khí Dương tức là hào Tư, nó là chủ của quẻ Xúc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tôn cũng là tên quẻ ba vạch, một vạch Âm núp ở dưới hai vạch dương, cho nên đức nó là nhún, tượng nó là gió, là cây. Tiểu (nhỏ) tức là Âm, xúc (chứa) nghĩa là ngăn lại; trên Tốn dưới Kiền, lấy Âm chứa Dương. Lại quẻ này chỉ hào Sáu Tư là một hào Âm, trên dưới năm hào Dương đều bị nó chứa, cho nên mới là tiểu súc (chứa nhỏ). Lại nữa, lấy Âm chứa Dương, buộc được mà không thể bền, cũng là tượng “cái chứa còn nhỏ”. Trong mạnh ngoài nhún, hào Hai hào Năm đều là Dương và đều ở giữa một quẻ mà làm việc, có tượng “cứng mà lại giữa, chí được thực hành”, cho nên lời chiêm của nó nên được hanh thông. Nhưng, sự chứa chưa được tột bậc, mà cái thi thố chưa được hiển hiện, cho nên có tượng “mây dầy không mưa, ở cõi tây ta”. Bởi vì mây dầy là vật thuộc về Âm, cõi tây là phương thuộc về Âm, ta là Văn vương tự xưng, vua Văn diễn Kinh Dịch ở ngục Dũ Lý [2-Văn Vương bị vua Trụ bắt giam ở ngục Dũ Lý], coi ra xứ Kỳ Chu [3-Nước của vua Văn] thì là phía Tây, chính là thời của quẻ Tiểu súc. Kẻ bói được quẻ này, thì sự chiêm cũng như tượng ấy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tiểu xúc, nhu đắc vị nhi thượng hạ ứng chi, viết Tiểu súc.
Dịch nghĩa. - Lời thoán nói rằng: Quẻ tiểu súc, mềm được ngôi mà trên dưới ứng nó, gọi là chứa nhỏ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là nói về nghĩa thành quẻ, lấy hào Âm ở ngôi Tư, lại ở quẻ trên, tức là mềm được ngôi. Trên dưới năm hào Âm đều ứng với nó, vì bị nó chứa. Là một hào Âm mà nuôi đến năm hào Dương, có thể buộc mà không thể bền, nên mới cho là chứa nhỏ. Lời Thoán giải nghĩa thành quẻ mà thêm chữ viết là đều trọng vê tên quẻ, the văn nên the.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ thích nghĩa tên quẻ. “Mềm được ngôi” chỉ về hào Sáu ở ngôi Tư, “Trên dưới” chỉ về năm hào Dương.
LỜI KINH
Dịch âm. - Kiện nhi tốn, cương trung nhi chí hành, nãi hanh. Dịch nghĩa. - Mạnh mà nhún, cứng giữa mà chí ý được, thì hành, mới hanh thông.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là nói về tài quẻ. Trong mạnh mà ngoài nhún, thế là mạnh mà biết nhún. Hào Hai hào Năm đều ở giữa quẻ, thế là cứng giữa. Tính dương tiến lên, mà ở dưới lại là thể Kiền, đó là có chí về đường làm việc. Cứng ở giữa là cứng mà được giữa, lại là ở giữa mà cứng. Nói về sự chứa khí Dương, thì cốt lấy đức mềm nhún; nói về sự được hanh thông, thì cốt ở đức cứng giữa; nói về nghĩa thành quẻ, thì là Âm chứa Dương; nói về tài quẻ thì là cứng giữa. Tài nó như thế, cho nên sự chứa của nó tuy nhỏ, mà cũng có thể hanh thông.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy đức quẻ thể quẻ mà nói, thì hào Dương còn có thể hanh thông.
LỜI KINH
Dịch âm. - Mật vân bất vủ, thượng vãng dã; tự ngã tây giao, thí vị hành dã.
Dịch nghĩa. - Mây dày không mưa, vì còn đi vậy; tự coi tây ta, sự thi thố chưa được thực hành vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đạo “chứa” không thể thành lớn, như mây dày mà không thành mưa. Âm Dương giao nhau được hoà hợp thì nó bền chắc với nhau mà thành mưa. Hai khí không hoà hợp nhau, Dương còn đi lên, cho nên không mưa. Bởi vì do ở khí của phương Âm ta xướng lên trước, nên không hoà hợp, mà không thể thành mưa, ấy là công lao chưa được thực hiện. Chứa nhỏ không thể thành lớn, cũng như mây của côi tây không thể thành mưa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Còn đi, ý nói sự chứa chưa cùng cực, khí nó còn tiến lên.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Phong hành thiên thượng, Tiểu súc, quân tử dĩ ý văn đức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Gió đi trên trời là quẻ Tiểu súc, đấng quân tử coi đó mà làm cho tốt đức văn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Kiền là quẻ cứng mạnh mà bị Tôn chứa. Ôi cái tính cứng mạnh còn có kẻ mềm thuận chứa ngăn được nó. Tuy là chứa ngăn được nó, nhưng mà không thể nén sự cứng mạnh của nó một cách bền chặt, chỉ lấy sự mềm thuận ràng buộc nó lại mà thôi, cho nên mới là chứa nhỏ. Đấng quân tử coi nghĩa chứa nhỏ đó mà làm tốt đẹp đức văn. Chứa hợp có nghĩa là uẩn xúc, cái uẩn xúc của đấng quân tử, lớn thì đạo đức kinh luân, nhỏ thì văn chương tài nghệ. Đấng quân tử coi tượng Tiểu súc để làm tốt đẹp đức văn; việc đó, so với đạo nghĩa, thì là còn nhỏ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Gió có khí mà không có chất, có thể chứa mà không thể lâu, cho nên là tượng chứa nhỏ. Làm tốt đức văn, ý nói chưa thể chứa chất được hậu, thi hành được xa.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thuần Tốn-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)

Tốn-Thuận theo, dung hòa.Kêu gọi đồng lòng, Kiên nhẫn làm việc lớn. có sự thuận lợi. cần phải làm một việc cụ thể thì mới tốt. Trăm nói không bằng một làm, làm là thắng lợi. Nhằm đại nhân quang minh chính đại thuận theo thì được lợi.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: thường không ổn định, nhiều mê hoặc, không vội, cần tham khảo ý kiến mọi người rồi hãy quyết
● Hy vọng: khó như ý
● Tài lộc: có nhưng không lớn
● Sự nghiệp: cần chờ thời cơ
● Nghề nghiệp: chuyển nghề bình thường
● Tình yêu: nóng vội, nên cuối cùng chia tay
● Hôn nhân: khó thành
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: thay đổi mục tiêu giữa chừng
● Pháp lý: nên hòa giải
● Sự việc: tốn kém nếu dây dưa
● Bệnh tật: kéo dài
● Thi cử: kết quả thấp
● Mất của: vật bị dấu dưới vật khác
● Người ra đi: người đi xa khó tìm

Quẻ: Thuần Tốn – Phong trên; Phong dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tốn, Tự quái nói răng: Hành lữ mà không có chỗ chứa, cho nên tiếp đến quẻ Tốn [1-Chữ 巽 (tốn) có nghĩa là núp, là vào, lại có nghĩa nhún nhường]. Tốn là vào, kẻ đi đường họ hàng ít, nếu không nhún thuận thì kiếm đâu được chỗ dung thân? Nếu biết nhún thuận, thì tuy ở cảnh hành lữ cùng khốn mà đi vào đâu không được? Vì vậy quẻ Tốn mới nối quẻ Lữ. Nó là quẻ một Âm ở dưới hai Dương, nhún thuận với Dương, vì vậy mới là Tốn.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tốn tiểu hanh, lợi hữu du vãng, lợi kiến đại nhân.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tốn nhỏ hanh thông, lợi có thửa đi, lời thấy người lớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tài quẻ này có thể nho nhỏ hanh thông, lợi có thửa đi, lợi thấy người lớn. Quẻ Tốn và quẻ Đoái đều là kẻ cứng được chỗ giữa chính, nhún và đẹp lòng, nghĩa cũng giống nhau thế mà quẻ Đoái thì hanh, quẻ Tốn thì nhỏ hanh, là vì quẻ Đoái Dương làm việc, quẻ Tốn Âm làm việc, quẻ Đoái hào mềm ở ngoài, tức là dùng cách mềm, quẻ Tốn hào mềm ở trong, tức là tính nó mềm, vì vậy sự hanh thông của quẻ Tốn mới nhỏ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tốn là vòa một hào Âm nấp dưới hai hào Dương, tính nó biết nhún để vào; Tượng nó là gió, cũng là lấy về nghĩa “vào”. Quẻ này hào Âm là chủ, cho nên lời Chiêm của nó là sự hanh nhỏ; lấy Âm theo Dương, cho nên lại “lợi có thửa đi”. Nhưng ắt biết chỗ đáng theo mới được chính đính, vì vậy lại nói “lợi thấy người lớn”.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: Trùng Tốn dĩ thân mệnh.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Hai lần nhún để nhắc lại mệnh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hai lần nhún tức là trên dưới đều nhún, người trên dùng đạo thuận mà ra mệnh lệnh, kẻ dưới vâng mệnh lệnh àm thuận theo, trên dưới đều thuận là Tượng “hai lần nhún”. Lại chữ “trùng” còn có ý nghĩa là trùng phúc nữa. Đấng quân tử thể theo nghĩa “hai lần nhún” đó mà nhắc lại mệnh lệnh của mình, nhắc lại tức là làm cho trùng phúc, nghĩa là đinh ninh vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - đây thích nghĩa quẻ. Nhún thuận mà vào ắt đến chỗ thấp là Tượng mệnh lệnh. Hai lần Tốn cho nên là nhắc lại mệnh.
LỜI KINH
Dịch âm.- Cương tốn hồ trung chính nhi chí hành, nhu giai thuận hồ cương, thị dĩ tiểu hanh, lợi hữu du vãng, lợi kiến đại nhân.
Dịch nghĩa. - Cứng vào chưng giữa chính mà chí được thi hành, mềm đều thuận chưng cứng, cho nên nhỏ hanh, lợi có thửa đi, lợi thấy người lớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ mà nói. Dương cứng ở thể Tốn mà được giữa chính, tức là nhún thuận về đạo giữa chính. Tính Dương đi lên, tức là chí nó muốn đem đạo giữa chính thi hành lên trên; lại các hào mềm trên dưới đều nhún thuận với hào cứng, tài nó như thế, tuy bên trong mềm, cũng có thể nho nhỏ hanh thông. Cái đạo nhún thuận, không đâu không vào được, cho nên lợi có thửa đi. Nhún thuận tuy là đạo hay, nhưng ắt phải biết chỗ đáng theo, nhún thuận với bậc người lớn trung chính, thì là lợi, cho nên lợi thấy người lớn. Dương cứng giữa chính như hào Năm hào Hai tức là người lớn đó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - :Cứng vào chưng giữa chí mà chí được thi hành” là chỉ vào hào Chín Năm, “mềm” chỉ vào hào Đầu và hào Tư.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Tùy phong Tốn, Quân tử dĩ thân mệnh hành sự.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Theo gió là quẻ Tốn. Đấng quân tử coi đó mà nhắc lại mệnh lệnh, làm việc.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hai luồng gió chồng nhau, tức là theo gió. “Theo” nghĩa là nối nhau, đấng quân tử coi Tượng hai lần Tốn nối nhau mà nhắc lại mệnh lệnh, thi hành chánh sự. “Theo” và “Chồng” tức là trên dưới đều thuận. Người trên thuận với kẻ dưới mà ban ra, kẻ dưới thuận với người trên mà làm theo, đó là trên dưới đều thuận theo cái nghĩa “hai lần nhún” vậy. Mệnh lệnh chính sự thuận lẽ thì hợp lòng dân mà dân thuận theo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - “Theo” là nghĩa nối nhau.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Quẻ: Trạch Lôi Tùy
Tổng quan:
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tùy-Thuận THEO (quy luật, thời thế, quân tử ...chọn 1 hướng-đẹp lòng > Tốt. Ngược lại xấu)
GIẢI ĐOÁN:
hdgfdsh
HÀO TỪ:
● Hào 1:
+ Theo Kinh Dịch word (Tr262):
Quẻ: Trạch Lôi Tùy - Đoái trên ; Chấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tùy, Tự quái nói rằng: Vui ắt có theo [1-Chữ “tùy” nghĩa là theo] cho nên tiếp đến quẻ Tùy. Cái đạo vui thích, người ta vẫn theo, cho nên quẻ Tùy mới nối quẻ Dự. Nó là quẻ Đoái trên Chấn dưới. Đoái là đẹp lòng, Chấn là động, đẹp lòng mà động, động mà đẹp lòng, đều là nghĩa của sự theo. Con gái là kẻ phải theo người, là con gái nhỏ
[2-Chỉ về quẻ Đoái] mà theo con trai trưởng [3-Chỉ về quẻ Chấn] cũng là nghĩa của sự theo. Chấn là sấm, Đoái là chằm sấm động ờ trong chằm, chằm cũng động theo, ấy là tượng của sự theo. Lại nữa, lấy lẽ quai biến mà nói, thì hào Trên quẻ Kiền đến ở ngôi dưới quẻ Khôn, hào Đầu quẻ Khôn, đi ở ngôi Trên quẻ Kiền, đó là Dương đến mà ở dưới Âm. Là Dương mà ở dưới Âm, Âm ắt đẹp lòng mà đi theo, cũng là nghĩa của sự theo. Phàm thành ra quẻ, đã dùng nghĩa của hai thể; có khi còn dùng nghĩa của các hào, có khi lại dùng nghĩa của luật quái biến, như sự dùng nghĩa của quẻ Tùy, càng là tường đủ.
LỜI KINH
Dịch âm. -Tùy nguyên hanh lợi trinh, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tùy cả, lợi, trinh, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đạo của sự theo có thể đem đến được sự cả hanh.
Đạo đấng quân tử được mọi người theo, và mình theo người, cùng là tới việc mà chọn đường nên theo, đều là theo cả. Theo được phải đạo, thì có thể đem đến sự cả hanh. Phàm như ông vua theo điều thiện, bề tôi vâng mệnh, kẻ học rời sang điều nghĩa, cùng là tới việc mà theo bậc trưởng thượng cũng là theo. Đạo của sự theo lợi ở trinh chính, hễ theo được chính đính, rồi mới cả hanh mà không lỗi. Nếu mất đường chính thì phải có lỗi, cả hanh sao được?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tùy tức là theo. Lấy lẽ quái biến mà nói, thì quẻ này vốn tự quẻ Khốn, hào Chín đến ở ngôi Đầu; lại tự quẻ Phệ hạp, hào Chín đến ở ngôi Năm; mà tự quẻ Vị tế lại, thì kiêm cả hai sự biến đổi đó; tất cả đều là nghĩa cứng đến theo mềm. Lấy hai thể mà nói, thì thể này động mà thể kia đẹp lòng, cũng là nghĩa của sự theo, cho nên mới là quẻ Tùy. Mình hay theo người, người đến theo mình, đằng nọ đằng kia theo nhau thì sự hanh thông rất dễ, cho nên lời Chiêm của nómới là cả hanh, nhưng phải lời về sự trinh thì mới không lỗi. Nếu mà việc theo không chính, thì không cả hanh mà sẽ không khỏi có lỗi.
LỜI KINH
Dịch âm. -Thoán viết: Tùy, cương lai nhi hạ nhu, động nhi duyệt, Tùy.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Tùy, cứng đến mà ở dưới mềm, động mà đẹp lòng, là quẻ Tùy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng lẽ quái biến và đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đại hanh trinh vô cữu, nhi thiên hạ tùy thì.
Dịch nghĩa. - Cả hanh trinh, không lỗi, mà thiên hạ tùy thì.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ này sở dĩ làm quẻ Tùy là vì kẻcứng mà đến ở dưới kẻ mềm, động mà đẹp lòng. Nghĩa là hào Chín Trên quẻ Kiền đến ở dưới quẻ Khôn, hào Sáu đầu quẻ Khôn đi ở trên quẻ Kiền. Là kẻ Dương cương mà đến ở dưới quẻ Âm nhu, ấy là người trên mà chịu nướcdưới kẻ dưới, người sang mà chịu nướcdưới kẻ hèn, có thể như thế, người ta sẽ đẹp lòng mà theo. Lại dưới động mà trên đẹp lòng, ấy là động mà có thể đẹp lòng, vì vậy mới theo. Như thế thì có thể cả hanh mà được chính đính. Hễ đã có thể cả hanh, không được chính đính thì không phải là đạo đáng theo, há có thể khiến cho thiên hạ theo mình? Cái mà thiên hạ cùng theo là thì, cho nên là tùy thì.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bản của Vương Túc, chữ 時(thì) chép làm chữ 之 (chi) nay nên theo đó. Đoạn này thích về lời quẻ, ý nói có thể như thế thì là người mà thiên hạ cùng theo.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tùy thì chỉ nghĩa đại hỷ tai!
Dịch nghĩa. - Cái nghĩa tùy thì lớn vậy thay [4-Nếu theo Chu Hy, chữ 時 (thì) ở dưới chữ 之 (chi) thì câu này phải dịch là “thì nghĩa của Tùy lớn lắm thay”]
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đạo đấng quân tử tủy thời mà động, theo với điều
nên, vừa với sự biến, không thể làm ra điền yếu nhất định, nếu không là người hiểu đạo đã sâu, biết cơ vỉ, biết quyền biến, không thể dự vào chỗ đó, cho nên mới tán thêm rằng: “Cái nghĩa tùy thời lớn vậy thay!”. Phàm những chỗ nào có lời tán thêm, là muốn người ta biết rằng nghĩa của nó lớn, phải ngẫm nghĩ mà ghi nhớ lấy. Chỗ này tán nghĩa tùy thờỉ là lớn, khác với lờí tán ở các quẻ khác, vì đây thì với nghĩa là thứ hai.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bản của Vương Túc, chữ 時 ở dưới chữ 之 (chi), nay nó theo đó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch trung hữu lôi, Tùy, qưân tử dĩ hướng hối nhập yến tức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong chằm có sấm, là quẻ Tùy, đấng quân tử coi đó mà sắp tối vào nghỉ ngơi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm nổi trong chằm, chằm theo sấm mà động, là Tượng của sự theo. Đấng quân tử coi Tượng đó để tùy thời mà động. Tùy sự nên phải của hịện thời, muôn việc đều thế. Lấy cái rõ nhất và gần nhất mà nói thì đấng quân tử coi Tượng đó mà khi sắp tối tự vào nghỉ ngơi. Đấng quân tử ban ngày thì tự cường không nghỉ, tới khi sắp sửa đêm tối, thì vào ở bên trong nghỉ ngơi, cho yên cái thân. Đó là khởi cơ tùy thời, vừa đúng với sự nên phải. Đấng quân tử ngày không ở trong, đêm không ở ngoài, ấy là đạo tùy thời.
Lời bàn của Tiên Nho. - Có người hỏi rằng: Trình Tử nói rằng: “Chằm theo sấm động, đấng quân tử nên tùy thời nghỉ ngơi” có phải hay không? Chu Tử đáp rằng: Đã nói sấm động, tại sao không nói quân tử động tác, mà lại nói nghỉ ngơi? Là vì quẻ này Chấn dưới Đoái trên, tức là cái Tượng sấm vào trong đất. Sấm phải tùy thời nấp náu, cho nên đấng quân tử cũng khi sắp tối thì vào nghỉ ngơi.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Trạch Phong Đại Quá
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Đại quá-Biết người biết ta, mục tiêu hợp lý. nghĩa là phải tìm phương pháp mà cải thiện tình thế mà hành động, dừng lại thì sai lầm.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Có thể thất bại do chủ quan và không đánh giá được khả năng nình thường của bản thân.
● Hy vọng: không như ý.
● Tài lộc: có nhưng ít.
● Sự nghiệp: không thành công vì sai về phương hướng.
● Nhậm chức: không toại ý.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề có kết quả tốt.
● Tình yêu: không thành.
● Hôn nhân: khó thành.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: bất lợi.
● Pháp lý: dây dưa kéo dài.
● Sự việc: không thể giải quyết vì đôi bên không nhượng bộ nhau.
● Bệnh tật: nặng lên.
● Thi cử: kết quả không như dự kiến.
● Mất của: khó tìm, nếu thấy không còn nguyên vẹn.
● Người ra đi: bỏ đi vì giận dữ, khó trở về.

Quẻ: Trạch Phong Đại Quá - Đoái trên; Tốn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Đại quá, Tự quái nói rằng: Di tức là nuôi không nuôi thì không thể động, cho nên tiếp đến quẻ Đại quá [1- Đại quả nghĩa là cả quá]. Phàm các vật, có được nuôi nấng mà sau mới có thể nên, nên được thì có thể động, đã động thì phải cả quá, vì vậy quẻ Đại quá mới nối quẻ Di. Nó là quẻ trên Đoái dưới Tốn, chằm ở trên cây, tức là ngập cây, chằm vốn là một vật thấm nhuần nuôi nấng cho cây mà đến ngập lụt mất cây, đó nghĩa là cả quá. Quá là Dương quá, cho nên là nghĩa “cái gì cả lớn thì quá”. Quá cả nghĩa là việc lớn quá: đạo đức công nghiệp của thánh nhân cả quá người thường, và những việc gì cả quá sự thường, đều là nó cả.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đại quá, đống nạo, lợi hữu du văng, hanh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Đại quá, cột ỏe, lợi có thửa đi, hanh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tiểu quá khí Âm quá ở trên và dưới, quẻ Đại quá khí dương quá ở giữa. Dương quá ở giữa mà trên, dưới yếu rồi, cho nên Là Tượng cột ỏe. Cột là lấy nghĩa chịu nổi sự nặng, bốn hào Dương họp cả ở giữa, có thể bảo là nặng rồi. Hào Chín Ba và hào Chín Tư đều lấy Tượng cái cột, ý nói nó gánh việc nặng, ỏe là lấy nghĩa gốc ngọn đều yếu, giữa mạnh mà gốc ngọn yếu, cho nên mới ỏe. Khí Âm yếu mà khí Dương mạnh, đấng quân tử thịnh mà kẻ tiểu nhân thì suy, cho nên lợi có thửa đi mà hanh.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cả chỉ về Dương. Bốn hào Dương ở giữa thịnh quá, cho nên mới là cả quá. Hai hào Âm ở trên và dưới không chịu xuể sự nặng của những hào kia, cho nên có Tượng cốt ỏe, lại vì bốn hào tuy quá, mà hào Hai hào Năm được giữa, trong nhún ngoài đẹp lòng, có cách làm được, cho nên lợi có thửa đi mà hanh.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Đại quá, đại giả quá dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Đại quá là cái cả lớn quá thường.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái cả lớn quá thường là chỉ về Dương quá thịnh. Ở việc, thì là những việc lớn lao quá thường và sự quá thường lớn lao.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đông nạo, bản mạt nhược dã.
Dịch nghĩa. - Cột ỏe, gốc ngọn yếu vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ý nói hai hào Âm ở trên và dưới suy yếu. Dương thịnh thì Âm suy, cho nên là cái cả lớn quá thường. Ở quẻ Tiểu quá nói rằng: “Cái nhỏ quá thường” tức lá khí Âm quá thường.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là lấy thể quẻ để thích lời quẻ. Gốc là hào Đầu, ngọn là hào Trên, yếu là Âm mềm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cương quá nhi trung, tốn nhi duyệt, hành, lợi hữu du vãng, nãi hanh.
Dịch nghĩa. - Cũng quá thường mà được giữa, nhún mà đẹp lòng, làm việc lợi có thửa đi, mới hanh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây nói cái hay của tài quẻ. Phần cứng tuy quá thường mà hào Hai hào Năm đều được chỗ giữa. Ấy là chỗ ở không mất trung đạo. Dưới nhún trên đẹp lòng, tức là dùng đạo nhún thuận hòa duyệt mà làm việc. Trong thì cả quá, biết lấy trung đạo và sự nhún thuận hòa duyệt làm vịệc, cho nên lợi có thửa đi, vì vậy mới hanh.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lại lấy thể quẻ, đức quẻ để thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đại quá chi thì đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Thì quẻ Đại quá lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong thì Đại quá, việc nó rất lớn, cho nên mới tán dương rằng: “Lớn vậy thay”. Như dựng việc lớn phi thường, lập công lớn không mấy đời có, gây đức lớn tót vời, đều là việc đại quá vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trong thì Đại quá, nếu không có tài cả quá người ta, thì không thể làm nên việc cho nên thánh nhân mới than thở về sự lớn của nó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch diệt mộc, đại quá, quân tử dĩ độc lập bất cụ, độn thế vô muộn.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chằm ngập cây, là quẻ Đại quá, đấng quân tử coi đó mà đứng một mình không sợ, trốn đời không buồn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chằm là vật thấm nhuần nuôi nấng cho cây, mà đến làm ngập cây, thì quá lắm rồi, cho nên mới là cả quá. Đấng quân tử coi tượng cả quá đó, để dựng cái nết cả quá người ta. Đấng quân tử sở dĩ cả quá người ta là vì có thể đứng một mình mà không sợ, trốn đời không buồn. Thiên hạ chê mình mà không đoái hoài, đó là đứng một mình mà không sự; cả đời không biết mình mà không ăn năn, đó là trốn đời không buồn. Có thế, mới tự giữ mình, vì vậy mới là cả quá người ta.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chằm làm ngập cây, là tượng cả quá. Không sợ không buồn, tức là nết cả quá.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Chằm ngập cây nghĩa là chằm đáng ở dưới mà cây ở trên, nay nước chằm dâng cao đến ngập lụt cây, đó là cả quá. Cây tuy đã bị ngập nước ngâm, mà chưa từng động cho nên đấng quân tử coi tượng mà đứng một mình không sợ, trốn đời không buồn.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

 

Tổng quan: Địa Phong Thăng-Phục Ngâm
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Thăng-Tài vận thăng tiến, cần bỏ nhỏ lấy lớn. Cần tuần tự tiến lên, cát lợi. Khi thực hiện công việc cần cộng tác với người có năng lực thì mới có kết quả tốt. Công việc cứ thế mà tiến lên.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: từ nay trở đi mọi việc sẽ phát triển, năng lực bản thân được phát huy, có sự trợ giúp của người khác.
● Hy vọng: chưa thực hiện được ngay, cần có thời gian.
● Tài lộc: đầy đủ.
● Nhậm chức: sẽ có chức vị cao.
● Nghề nghiệp: chưa có cơ hội chuyển nghề.
● Tình yêu: cần duy trì quan hệ, có thời gian sẽ thành công.
● Hôn nhân: thành lương duyên sau một thời gian dài.
Đợi người: đến muộn.
● Đi xa: vui vẻ.
● Pháp lý: sau một thời gian dài sẽ thắng.
● Sự việc: không nôn nóng, sẽ được giải quyết.
● Bệnh tật: giảm dần.
● Thi cử: đạt kết quả tốt.
● Mất của: tìm được.
● Người ra đi: bình thường.
Quẻ: Địa Phong Thăng - Khôn trên; Tốn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Thăng, Tự Quái nói rằng: Tụy là họp, họp mà cao lên gọi là lên, cho nên tiếp đến quẻ Thăng [1-Chữ 升(thăng) nghĩa là lên]. Các vật tích tụ mà càng cao lớn, ấy là họp mà cao lên, vì vậy quẻ Thăng mới nối quẻ Tụy. Nó là quẻ Khôn trên quẻ Tốn dưới, cây ở dưới đất, tức là trong đất mọc dậy. Cây mọc trong đất, lớn thì càng cao, đó là Tượng “lên”.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thăng nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Thăng, cả hanh, dùng thấy người lớn, chớ lo, đi về phương Nam tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Thăng là tiến mà lên, tiến lên thì có nghĩa hanh, mà vì tài quẻ hay khéo, cho nên cả hanh. Dùng cách đó để thấy người lớn, không cần lo lắng, tiến lên phía trước thì tốt, Đi về phương Nam tức là tiến lên phía trước vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy, - Thăng tức là tiến mà lên. Quẻ này vốn tụ quẻ Giải lai, chất mềm lên ở ngôi Tư, trong nhún ngoài thuận, hào Chín Hai cứng giữa mà hào Năm ứng nhau với nó, cho nên lời Chiêm của nó như thế, Đi về phương Nam, tức là tiến lên phía trước vậy.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: nhu dĩ thì thăng, tốn nhi thuận cương trung nhi ứng, thị dĩ đại hanh.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Mềm lấy thì lên, nhún mà thuận, cứng giữa mà ứng, cho nên cả hanh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy hai thể mà nói “Mềm lên”, là Khôn đi lên. Tốn đã thể chấp mà tới dưới, Khôn bèn thuận thì mà lên trên, thế là lấy thì mà lên. Thì nghĩa là lúc đáng lên vậy. Chất mềm đã lên mà thành quẻ Thăng, thì dưới nhún mà lên thuận, lấy đạo nhún thuận mà lên, có thể gọi là phải thì vậy. Hào Hai lấy đạo cứng giữa ứng với hào Năm, hào Năm lấy đức thuận ứng với hào Hai, biết nhún mà thuận, tiến lên Phải thì, cho nên cả hanh. Chữ 元亨 (nguyên hanh) lời Thoán lầm ra ⼤亨 (đại hanh) đã giải ở quẻ Đại hữu.
LỜI KINH
Dịch âm.- Dụng kiến đại nhân, vật tuất, hữu khanh dã, nam chinh cát, chí hành dã.
Dịch nghĩa. - Dùng thấy người lớn, chớ lo, có phúc vậy, đi về phương Nam tốt, chí được thi hành vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phàm đạo “lên” ắt bởi các bậc người lớn, lên về ngôi thì bởi tước vương, tước công, lên về đạo thì bởi ông thánh ông hiền.
Dùng đạo nhún thuận, cứng giữa mà thấy người lớn, ắt được thỏa mãn sự lên thì là phúc khánh của mình mà cũng là phúc khánh tới kẻ khác nữa. Nam là phương mà người ta thường vẫn ngoảnh trông, đi về phương Nam tức là tiến lên phía trước. Tiến lên phía trước thì thỏa mãn sự lên, mà được thi hành chí mình, vì vậy mới tốt.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Địa trung sinh mộc, Thăng, quân tử dĩ thuận đức, tích tiểu dĩ cao đại.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong đất mọc cây là quẻ Thăng, đấng quân tử coi đó mà thuận đức, chứa điều nhỏ để cao lớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cây mọc trong đất, lớn mà lên trên, là Tượng “lên”, đó mà thuận sửa đức mình, chứa chất những cái nhỏ nhặt, cho đến cao lớn. Hễ thuận thì có thể tiến, mà nghịch thì là phải lụi, muôn vật tiến lên đều dùng đạo thuận cả. Điều thiện nếu không chứa lại thì không có thể thành danh, học nghiệp được đầy đặc đạo đức được cao thẳm, đều bởi chứa chất mà ra, chứa cái nhỏ để làm nên cái cao lớn, đó là nghĩa “lên”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bản của Vương Túc, chữ 順 (thuận) chép làm chữ 慎 (thận), ý càng rõ ràng. Đó là cổ văn hai chữ vẫn thong dụng. Thuyết đó đã thấy ở quẻ Mông thiên trên.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

 

Tổng quan: Lôi Phong Hằng
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Hằng-Thường xuyên và vĩnh hằng. Kiên trì, bền bỉ là quý, nguyện vọng sẽ đạt được. những việc gì làm lâu dài thì thuận lợi, tốt. Nếu chính đáng thì muọi việc hều hanh thông. Nếu qua loa, đầu voi đuôi chuột thì hỏng.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: rất ổn, ngày càng tốt đẹp.
● Hy vọng: như ý, nếu không nhiều tham vọng.
● Tài lộc: có nhưng ít.
● Sự nghiệp: thành công tương xứng với sức bỏ ra.
● Nhậm chức: như ý.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: thành công, giữ được lâu dài.
● Hôn nhân: kết thành lương duyên.
● Đợi người: sắp đến.
● Đi xa: có chuyến đi thú vị.
● Pháp lý: nên hòa giải.
● Sự việc: cần giao tiếp thường xuyên mới thành.
● Bệnh tật: có giảm.
● Thi cử: đạt kết quả ứng với thực lực của bản thân.
● Mất của: chưa tìm thấy.
● Người ra đi: bình thường.
Quẻ: Lôi Phong Hằng - Chấn trên; Tốn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Quẻ Hằng, Tự quái nói rằng: Đạo vợ chồng không thể không lâu, cho nên tiếp đến quẻ Hằng[1-Chữ 恒(hằng) nghĩa là thường thường lúc nào cùng như lúc nào]. Hằng nghĩa là lâu. Quẻ Hàm là đạo vợ chồng, vợ chồng ăn ở với nhau trọn đời không đổi, cho nên sau quẻ Hàm tiếp đến quẻ Hằng. Quẻ Hàm, trai trẻ ở dưới gái trẻ, là trai mà chịu nhường gái, đó là nghĩa trai gái giao cảm; quẻ Hằng trai lớn ở trên gối lớn, trai tôn gái ty, đó là đạo thường của vợ chồng ở nhà. Bàn về tình giao cảm, thì bậc trẻ là thân thiết nhau; bàn về thứ tự tôn ty, thì bậc lớn phải cẩn thận đứng đắn, cho nên Đoái Cấn hợp nhau là quẻ Hàm, mà Chấn Tốn hợp nhau thì là quẻ Hằng. Trai ở trên gái, ấy là trai động ở ngoài, gái thuận ở trong, tức là lẽ thường của đạo người. Lại, cứng trên mềm dưới, sấm gió cùng nhau, nhún mà động, cứng mềm ứng nhau, đều là nghĩa hằng.
LỜI KINH
Dịch âm. - Hằng hanh, vô cữu, lợi trinh, lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Hằng hanh, lợi về sự chính, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hằng là thường lâu, đạo hằng có thể hanh thông, hễ thường thường theo giữ đạo ấy mà có thể hanh thông mới là không lỗi, nếu thường thường theo giữ đạo ấy mà không thể hanh thông, thì không phải là đạo có thể thường thường theo giữ, tức là có lỗi. Ví như đấng quân tử thường thường theo giữ điều thiện, đó là cái đạo có thể thường thường theo giữ; kẻ tiểu nhân thường thường theo giữ điều ác, đó là lỗi với cái đạo có thể thường thường, Đạo hằng sở dĩ hanh được, là vì trinh chính, cho nên nói là “lợi trinh”. Ôi gọi là hằng, tức là cái đạo có thể thường thường, không phải chỉ giữ một bề mà không thay đổi, cho nên mới lợi về có thửa đi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hằng là thường lâu. Là quẻ Chấn cứng ở trên, Tốn mềm ở dưới. Chấn sấm, Tốn gió, hai vật cùng nhau, Tốn nhún, Chấn động, là nhún mà động, hai thể sau hào đều ứng với nhau. Cả bốn điều đó đều là lẽ thường, cho nên mới là quẻ Hằng. Lời Chiêm của nó thì là hễ mà có thể giữ lâu đạo ấy thì hanh mà không lỗi, lại ắt lợi về giữ được nết trinh, mới là được cái đạo mình vẫn thường thường theo giữ mà lợi có thửa đi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Hằng cửu dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: - Hằng là lâu vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hằng tức là nghĩa dài lâu.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cương thượng nhi nhu hạ, lôi phong tương dữ, tốn nhi động, cương nhu giai ứng, Hằng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tài quẻ có bốn điều đó, tức là cái nghĩa làm nên quẻ Hằng. Cứng lên mà xuống, nghĩa là hào Đầu quẻ Kiền lên ngôi Tư, hào Đầu quẻ Khôn, xuống ở ngôi đầu, hào cứng lên mà hào mềm xuống, hai hào đổi chỗ thì thành Chấn Tốn, Chấn trên Tốn dưới, cũng là cứng lên mềm xuống. Cứng ở trên mà mềm ở dưới, tức là đạo hằng. Sấm gió cùng nhau, nghĩa là sấm động thì gió nổi, hai đàng chờ nhau, giữ lẫn cho nhau, cho nên nói là “cùng nhau”, đó cũng là sự thường của nó. Nhún mà động, nghĩa là dưới Tốn thuận mà trên Chấn động, tức là lấy đức nhún mà động. Trời đất tạo hóa thường lâu không thôi, cũng là động bằng cách thuận mà thôi. Nhún mà động tức là đạo thường lâu vậy. Động mà không thuận, có thể thường thường mãi chăng? Bốn điều đó tức là đạo hằng, vì vậy quẻ này mới là quẻ Hằng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ, tượng quẻ, đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ. Có người lấy sự biến đổi của quẻ giải nghĩa mấy chữ “cứng lên mềm xuống mà rằng: “Quẻ Hằng do ở quẻ Phong mà lại, hào cứng lên ngôi Hai, hào mềm xuống ở ngôi Đầu” cũng thông.
LỜI KINH
Dịch âm. - Hằng hanh, lei trinh, vô cữu, cửu ưkỳ đạo dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Hằng hanh, lợi về sự chính, không lỗi, là vì lâu với thửa đạo vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đạo Hằng có thể đem lại sự hanh thông mà không tội lỗi, nhưng cái mà mình vẫn thường giữ; nên được chính đính, nếu không chính đính thì không phải là đạo có thể thường giữ, cho nên nói là lâu với thửa đạo. Thửa đạo tức là cái đạo có thể thường giữ vậy. Không giữ được đều thường thường và thường thường giữ đạo bất chính, đều không thể hanh thông mà có lỗi vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa chi đặo, hằng cửu nhi bất dĩ dã.
Dịch nghĩa. - Đạo của trời đất, thường lâu mà không thôi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trời đất sở dĩ không bị ngừng tắt, là vì có đạo thường lâu, người mà thường giữ được cái đạo có thể thường giữ, thì hợp với lẽ trời đất.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đạo hằng vẫn có thể hanh và không lỗi nữa, nhưng ắt lợi về sự chính mới là lâu với thửa đạo, không chính thì là cái giữ lâu đó không phải chính đạo. Đạo của trời đất sở dĩ lâu dài được, cũng vì sự chính mà thôi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi hữu du vẵng, chung tắc hữu thủy dã.
Dịch nghĩa. - Lợi có thửa đi, chót thì có đầu vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lý trong thiên hạ, chưa có khi nào không động mà lại có thể thường thường. Động thì chót rồi lại đầu vì vậy mới thường thường mà không cùng tận. Phàm những vật do ở trời đất sinh ra, dẫu đến núi non rắn dầy, cũng phải biến đổi, cho nên “hằng” không phải là nhất định, nhất định thì không phải hằng, chỉ có tùy thời biến đổi, mới là đạo thường, cho nên nói rằng “lợi có thửa đi”. Tỏ ra là phải như thế, là sợ người ta câu nệ về thói thường.
Bản nghĩa của Chu Hy. - “Lâu với thủ đạo” là chót, “lợi có thửa đi” là đầu. Động tĩnh sinh lẫn cho nhau, đó là lẽ tuần hoàn, nhưng phải lấy tĩnh làm chủ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Nhật nguyệt đắc thiên nhi năng cửu chiếu, tứ thì biến hóa nhi năng cửu thành, thánh nhân cửu ư kỳ đạo nhi thiên hạ hóa thành, quan kỳ sở hằng, nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ.
Dịch nghĩa. - Mặt trời mặt trăng được trời mà có thể soi lâu, bốn mùa biến hóa mà có thể nên lâu, đấng thánh nhân lâu với thửa đạo mà thiên hạ hóa nên; xem cái thửa thường, mà tình trời đất muôn vật có thể thấy vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là nói cho cùng cực lẽ thường. Mặt trời mặt trăng chỉ là tính khí Âm Dương mà thôi, vì nó thuận đạo trời mà đi lại đầy vơi, cho nên có thể soi lâu không thôi, “được trời”, là thuận lẽ trời vậy; bốn mùa chỉ là khí của Âm Dương mà thôi, đi lại biến hóa, sinh nên muôn vật, cũng vì được lẽ trời, cho nên có thể thường lâu không thôi; đấng thánh nhân đem đạo thường lâu, thực hành có thường độ, mà thiên hạ hóa theo, thành ra tục tốt. “Xem cái thửa thường”, nghĩa là xem mặt trời mặt trăng lâu soi, bốn mùa lâu nên và cái lẽ thánh nhân sở đĩ thường lầu, xem những cái đó thì tình lý của trời đất muôn vật có thể thấy được. Cái đạo thường lâu của trời đất, cái lý thường lâu của thiên hạ, nếu không phải kẻ biết đạo, ai mà hiểu được?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói thật cùng cực cái đạo thường lâu.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi phong Hằng, quân tử dĩ lập bất dịch phương.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sấm gió là quẻ Hằng, đấng quân tử coi đó mà đứng chẳng đổi phương.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đấng quân tử coi tượng sấm gió cùng nhau làm thành quẻ Hằng, để giữ cho đức của mình thường lâu, tự đứng trên đường trung chính thường lâu, không đổi phương sở.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Lôi Thuỷ Giải
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Giải-Việc phải giải quyết, hóa giải hiểu lầm, hoa nên hái thì phải hái: mọi việc lợi ở phía Tây Nam, giữ nguyên nếp cũ thì tốt. Mọi việc làm cần hoàn tất mau chóng thì có lợi.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng. 
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: Không nên nôn nóng, khó khăn đương được giải quyết dần dần, tình hình đang được cải thiện.
● Hy vọng: đã đạt như ý muốn, đề phòng cuối cùng bị hỏng việc.
● Tài lộc: không nhiều, khó dự liệu trước.
● Sự nghiệp : thành công.
● Nhậm chức: có thể theo ý muốn.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề có lợi.
● Tình yêu: nếu trước thân sau sơ, nếu trước sơ sau thân.
● Hôn nhân: có thể thành, song cuối cùng có thể tan rã.
● Đợi người : có đến, muộn.
● Đi xa : vui vẻ.
● Pháp lý: nên hoà giải.
● Sự việc: có thể được giải quyết sớm.
● Bệnh tật: giảm dần.
● Thi cử: đạt kết quả tốt.
● Mất của: chưa thấy
● Người ra đi: bình thường.
Quẻ: Lôi Thủy Giải – Chấn trên; Khảm dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Giải, Tự quái nói rằng: kiển là khó, các vật không thể khó khăn đến cùng, cho nên tiếp đến quẻ Giải [1-Chữ 解 (giải) nghĩa là cởi ra, là giải tán, là gỡ ra]. Các vật không lẽ khó khăn đến cùng, khó cực thì phải tan giải, vì vậy quẻ Giải mới nối quẻ Kiển. Nó là quẻ Chấn trên Khảm dưới. Chấn là động, Khảm là hiểm, động ở ngoài chỗ hiểm, tức là ra khỏi chỗ hiểm, cho nên là tượng hoạn nạn giải tán. Lại, Chấn là sấm, Khảm là mưa sấm nổi lên, tức là Âm Dương cảm nhau, hòa khắp, dãn tan, cho nên là giải. Giải tức là lúc hoạn nạn của thiên hạ đã giải tán vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Giải lợi Tây Nam, vô sở vãng, kỳ lai phục, cát, hữu du vãng, túc cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Giải lợi về phương Tây Nam, không thửa đi, thì lại lại, có thửa đi, sớm thì tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tây Nam là phương Khôn, thể Khôn rộng lớn bằng phẳng, đương khi nạn của thiên hạ mới giải, người ta mới lìa khỏi sự gian khổ, không thể lại dùng chính sách phiền hà nghiêm ngặt mà trị họ, phải giúp thêm bằng cách khoan hồng giản dị, đó là nên lắm. Như thế thì lòng người yêu mến mà lấy làm yên, cho nên lợi về Tây Nam. “Không thửa đi, thì trở lại, tốt, có thửa đi, sớm tốt” là nghĩa làm sao? “Không thửa đi” ý nói nạn của thiên hạ đã giải tan rồi, không phải làm gì nữa, “có thửa đi” ý nói hãy còn có việc phải giải vậy. Ôi, thiên hạ nhà nước, ắt là pháp độ hỏng loạn mà sau họa hoạn mới sinh ra, đấng thánh nhân đã gỡ nạn đó, mà được bình yên vô sự rồi, thế là “không thửa đi vậy”, thì nên sửa sang trị đạo, chỉnh đốn kỷ cương, tỏ rõ pháp độ, tiến lên mà khôi phục cuộc thịnh trị của đấng tiên vương. Thế là “lại lại” nghĩa là trở lại chính lý, đó là sự tốt lành của thiên hạ.
Chữ 其 (kỳ) là tiếng phát ngữ, “có thửa đi, sớm, tốt” ý nói còn có việc phải giải, thì nên làm sớm mới tốt, Việc nên giải còn chưa giải hết, nếu không trừ sớm thì nó lại thịnh; việc lại sinh ra, nếu không trị sớm thì nó lại lớn dần; cho nên hễ sớm thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Giải là nạn đã tan rồi. Ở chỗ hiểm mà động được, thì ra được ngoài chỗ hiểm, đó là tượng của sự giải. Nạn đã giải thì lợi về bình dị yên tĩnh, không muốn làm phiền nhiễu lâu; vả lại, quẻ này vốn tự quẻ Thăng lại, hào Ba đi lên ở ngôi Tư vào thể Khôn, hào Hai ở nhằm chỗ của nó mà lại được giữa, cho nên lợi về Tây Nam là nơi bình dị. Nếu không đi đâu thì nên lại lại nơi chốn của mình mà cứ yên tĩnh; nếu có phải đi, thì nên đi sớm, về sớm, không thể phiền nhiễu lâu.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Giải, hiểm dĩ động, động nhỉ miễn hồ hiểm, giải.’
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Giải hiểm mà động, động mà khỏi chỗ hiểm, là giải.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Khảm hiểm, Chấn động, là hiểm mà động. Không hiểm thì không phải là nạn; không động thì không ra khỏi nạn, động mà ra thoát chỗ hiểm, ấy là khỏi được hiểm nạn, cho nên là giải.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜỊ KINH
Dịch âm. - Giải lợi Tây Nam vãng đắc chúng dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Giải lợi Tây Nam, đi thì được người vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Cách giải hoạn nạn, lợi ở chỗ rộng rãi bình dị, lấy cách khoan dị mà đi giúp cuộc giải thì được lòng người theo về.
LỜI KINH
Dịch âm. - Kỳ lai phục, cát, nãi đắc trung đã.
Dịch nghĩa. - Thì lạí lại, tốt, bèn được giữa vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Không nói đến câu “không thửa đi” là rút đi đó. Cứu loạn trừ nạn, việc trong một lúc chưa thể xong, trị đạo ắt phải đợi khi nạn đã giải rồi, không cần đi, rồi sau trở lại việc “trị” của đấng tiên vương, thế mới được là trung đạo, nghĩa là hợp với sự thích nghi vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Hữu du vãng, túc, cát, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Có thửa đi, sớm, tốt, đi thì có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Có việc phải làm thì sớm là tốt, sớm thì đi mà có công, chậm thì ác sinh thêm mà hại càng sâu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng sự biến đổi của quẻ để thích lời quẻ. Khôn là nhiều người, “được người” là hào Chín Tư đi vào thể Khôn: “được giữa” “có công” đều trỏ hào Chín Hai.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa giải nhi lôi vũ tác, lôi vũ, tác nhi bách quả thảo mộc giai giáp triết, Giải chi thì đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Trời đất giải mà sấm mưa nổi lên, sấm mưa nổi lên mà trầm quả cỏ cây đều vỏ nứt, thì của quẻ Giải lớn vậy thay?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đã tỏ rõ cách ở lúc giải, lại nói sự giải của trời đất, để thấy thì của quẻ ấy lớn lao! Khí của trời đất, tan ra, cảm nhau mà được hòa xướng thì thành sấm mưa, sấm mưa nổi lên mà muôn vật đều phát sinh, nứt vỏ: công của trời đất, do ở sự giải mà nên, cho nên khen rằng “thì của quẻ Giải lớn vậy thay!”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nó cho cùng cực mà khen sự lớn lao của nó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi vũ tác, Giải, quân tử dĩ xá quá hựu tội.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sấm mưa nổi lên, là quẻ Giải, đấng quân tử coi đó mà xá lỗi, tha tội.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trời đất giải tán mà thành sấm mưa, cho nên sấm mưa nổi lên mà là quẻ Giải. Xá là tha, hựu là khoan dong, lầm lỗi thì tha cũng được, tội ác mà tha thì không phải nghĩa, cho nên chỉ khoan dong mà thôi. Đấng quân tử coi tượng sấm mưa nổi lên thành quẻ Giải, thể theo sự phát dục của nó thì ân đức, thể theo sự giái tán của nó thì làm việc khoan thứ vậy.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Lôi Địa Dự-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Chuẩn bị lực lượng, cơ hội lỗ lực, chạy nước rút. "Tiếng sấm vang dội trời đất, phá vỡ sự trầm tĩnh, vạn vật đâm trồi sinh sôi. Cần phải có địa vị nào đó, hành động thuận theo lẽ tự nhiên thì mọi việc làm mới thành công. Mù quáng sẽ lỡ cơ hội.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đang thịnh, mọi việc như ý
● Hy vọng: nhiều khả năng thực hiện
● Tài lộc: có thể được. Nếu chủ quan ham chơi sẽ hao tài
● Sự nghiệp: phát triển mạnh. Đề phòng cuối cùng thất bại
● Nhậm chức: có thể đạt địa vị cao
● Nghề nghiệp không nên chuyển nghề
● Tình yêu: không cố chấp sẽ có triển vọng
● Hôn nhân: tuy bị ngăn trở, xong thành lương duyên
● Đi xa: vui vẻ
● Pháp lý: có lợi cho ta
● Sự việc: chân thành giải quyết sẽ xong
● Bệnh tật: bệnh nhẹ
● Thi cử: sơ suất nên không theo ý muốn
● Mất của: không tìm được
● Người ra đi: đi xa
Quẻ: Lôi Địa Dự - Chấn trên; Khôn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Dự, Tự quái nói rằng: Có sự lớn mà biết nhún, ắt vui, cho nên tiếp đến quẻ Dự [1-Chữ 豫(Dự) có nghĩa là vui]. Đó là dùng quẻ Dự nối theo hai quẻ kia [2-Quẻ Đại hữu và quẻ Khiêm] mà làm thứ ba. Sự có đã lớn mà có thể nhún thì cóvui vẻ. Dự nghĩa là yên hòa vui thích. Nó là quẻ Chấn trên Khôn dưới, tức là cái tượng thuận
[3- Chỉ về quẻ Khôn] mà động [4-Chỉ về quẻ Chấn]. Động là hòa thuận, cho nên mới vui. Hào Chín Tư là chủ cuộc động, các hào Âm ở trên và dưới cùng ứng với nó, quẻ Khôn lại vâng theo nó bằng sự thuận, cho nên, động thì trên dưới xuôi thuận ứng với, cho nên là nghĩa hòa vui. Nói về hai tượng, thì là sấm ra trên đất, khí Dương lúc đầu nấp náu trong đất, đến khi nó động mà ra trên đất, thì nó hăng hái mà đánh, thông xướng hòa vui, cho nên là Dự.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Dự, lợi kiến hầu, hành sư.
Dịch nghĩa. - Quẻ Dự, lợi cho sự dựng nước hầu, trẩy quân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dự là thuận mà động, nghĩa là quẻ Dự lợi ở sự dựng nước hầu, trẩy quân. Dựng nước là dựng phên tường để cho cùng yên, thiên hạ chư hầu hòa thuận thì muôn dân vui phục, quân lữ dấy lên, lòng người hòa đẹp, thì sẽ thuận theo mà có công, cho nên cái đạo đẹp vui lợi ở sự dựng nước hầu trẩy quân. Lại, trên động mà dưới thuận, đố là cái tượng chư hầu theo nhà vua, binh chúng thuận theo mệnh lệnh. Làm vua muôn nước, họp số quân lớn, không hòa vui thì không thể khiến họ phục theo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dự là hòa vui, tức là lòng người hòa vui để ứng nhau với người trên. Hào Chín Tư là một hào Dương, trên dưới ứng theo, chí nó được thực hành. Lại, Khôn mà gặp Chấn là thuận mà động, cho nên quẻ ấy là Dự, mà lời Chiêm của nó thì lợi về sự dựng vua, dùng quân.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Dự cương ứng nhi chí hành, thuận dĩ động, Dự.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Dự, kẻ cứng ứng với mà chí được thực hành, thuận để động, là quẻ Dự.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Cương ứng” chỉ về hào Tư được các hào Âm ứng với, từ là cứng mà được người ứng theo. “Chí hành” nghĩa là chí của khí Dương đi lên, động mà trên dưới thuận theo, chí nó được thực hành. “Thuận dĩ động, Dự” nghĩa là Chấn thì động mà Khôn thì thuần, tức là động mà thuận lẽ, thuận lẽ mà động, lại là động mà người ta thuận theo, cho nên mới vui.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ thể quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Dự thuận dĩ động, cổ thiên địa như chỉ, nhi huống kiến hầu hành sư hồ!
Dịch nghĩa. - Vui thuận mà động, cho nên trời đất củng giống như nó, huống chi là dựng nước hầu trẩy quân!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lấy sự vui thuận mà động, thì trời đất cũng đúng giống mà không trái, huống chi việc dựng nước hầu trẩy quân, còn có điều gì không thuận? Đạo của trời đất lẽ của muôn vật, chỉ có một điều rất thuận mà thôi. Bậc người lớn sở dĩ trước trời, sau trời mà trời không trái, cũng là thuận lẽ mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ để thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa dĩ thuận động, cố nhật nguyệt bất quá, nhi tứ thì bất thắc; thánh nhân dĩ thuận động, tắc hình phạt thanh nhi dân phục.
Dịch nghĩa. - Trời đất dùng sự xuôi thuận mà động cho nên mặt trời mặt trăng không quá độ, bốn mùa không sai; đấng thánh nhân dùng sự xuôi thuận mà động thì hành phạt thanh giản mà muôn dân phục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lại nói cho rõ cái đạo thuận động trời đất xoay vần lấy sự xuôi thuận mà động cho nên độ của mặt trời, mặt trăng không quá không sai, sự lưu hành của bốn mùa không lỗi; đấng thánh nhân dùng sự xuôi thuận mà động, cho nên mối giường đính chính, dân đều nô nức làm thiện, hình phạt thanh giảm mà muôn dân phục.
LỜI KINH
Dịch âm. - Dự chi thì nghĩa đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Thì nghĩa của quẻ Dự lớn vậy thay.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái đạo dự thuận đã nói qua rồi, song mà ý vị của nó rất là sâu xa, lời hết mà ý chưa hết, cho nên lại tán thêm rằng: “Thì nghĩa của quẻ Dự lớn vậy thay!”. Đó là muốn cho người ta ngẫm nghĩ cái lẽ của nó, thong thả ngắm nghía mà nhớ lấy nó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cực mà tán dương sự lớn của nó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi xuất địa phấn, Dự, tiên vương dĩ tắc nhạc sủng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng; Sấm ra, đất chuyển, là quẻ Dự, đấng tiên vương coi đó mà làm nhạc, chuộng đức, thịnh dâng đức Thượng đế để phối ông cha.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm là khí Dương phân phát, Âm Dương ứng nhau mà thành ra tiếng. Khí Dương lúc đầu thì bế trong đất, tới khi nó động thì ra khỏi đất, mà phấn chấn lên. Lúc bế thì mất, khi đã phân phát thì thông xướng hòa vui, cho nên mới là quẻ Dự. Khôn thì thuận, Chấn thì phát ra, đó là cái tượng hòa thuận chứa ờ bên trong mà phát ra thanh nhạc. Đấng tiên vương coi lượng sấm ra khỏi đất phấn chấn hòaxướng, phát ra thành tiếng, mà làm thanh nhạc để bao sùng công đức, nó thịnh đến nỗi đem mà dâng đấng Thượng đế, rồi suy rộng ra mà để cha ông phối hưởng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Sấm ra đất chuyển tức là hòa đến cùng tột. Đấng tiên vương làm ra âm nhạc, đã bắt chước cái tiếng của nó, lại lấy theo cái nghĩa của nó.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thiên Hoả Đồng Nhân
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Tập chung sức người được sẽ thành đại sự, đồng tâm hiệp lực chuyển cả thái sơn: Nhân hòa-Vận thịnh vượng, đang ở nơi rộng lớn với mọi người thì mọi việc đều thông, tốt. Đi vào nguy hiểm, gian khó cũng thu được lợi. Đối với bậc trí nhân chính trực rất lợi. Người lãnh đạo, người mình trí biết phân biệt phải trái, biết khả năng từng người mà giao việc, mà nhờ cậy thì đạt ý nguyện. quẻ có càn là cương kiện, Ly là sáng chói, tượng trưng cho quân vương ở ngôi cai trị thiên hạ.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đang thuận lợi, vượng phát, mọi việc dễ thành
● Hy vọng: nhiều khả năng được nhiều người ủng hộ, đề bạt, thành tựu
● Tài lộc: dồi dào
● Sự nghiệp: được thiên thời, địa lợi, nhân hoà
● Nhậm chức: có địa vị tốt
● Nghề nghiệp: có thể chuyển nghề
● Tình yêu: ưng ý nhau
● Hôn nhân: Thành lương duyên
● Đợi nguời: người đến, tin lành tới
● Đi xa: vui vẻ
● Pháp lý: tuy có thế nhưng nên hoà giải
● Sự việc: nên giải quyết bằng ôn hoà sẽ tốt
● Bệnh tật: nhẹ, nên thường xuyên kiểm tra sức khoẻ
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: đến thăm người thân, hoặc cùng xuất ngoại với bạn bè.

Quẻ: Thiên Hỏa Đồng Nhân - Kiền trên ; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Đồng nhân, Tự quái nói rằng: Vật lý không thể bĩ mãi, cho nên tiếp đến quẻ Đồng nhân [1-Đổng nhân nghĩa là cùng với người]. Trời đất không giao nhau là bĩ, trên dưới cùng nhà thì là cùng người. Nghĩa nó trái nhau với nghĩa quẻ Bĩ, cho nên nómới kế nhau. Lại nữa, cuộc đời đương bĩ ắt phải cùng người chung sức thì mới nên việc vì vậy quẻ Đồng nhân mới nối quẻ Bĩ. Nó là kẻ Kiền trên Ly dưới. Nói về hai Tượng, thì trời là đấng ở trên, tính lửa [2-Chỉ về quẻ Ly] bốc lên ngang với nhau, cho nên mới là cùng người. Nói về hai thể, thì hào Năm ở ngôi chính là chủ quẻ Kiền, hào Hai là chủ quẻ Khôn, hai hào lấy sự trung chính ứng nhau, trên dưới cùng nhau, đó là nghĩa cùng người. Lại nữa, quẻ này có một hào Âm, các hào Dương đều muốn chung cùng với nó, đó cũng là nghĩa cùng người. Quẻ khác cũng có một hào Âm, nhưng ở thời của kẻ Đồng nhân thì hào Hai hào Năm ứng nhau, trời với lửa chung cùng với nhau, cho nên nghĩa nó lớn hơn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đồng nhân vu dã, hanh, lợi thiệp đại xuyên; lợi quân tử trinh.
Dịch nghĩa. - Cùng người ở đồng, hanh thông, lợi về sự sang sông lớn, lợi cho sự chính bền của đấng quân tử.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đồng là nơi rộng rỗng, lấy nghĩa ở xa và ở ngoài. Ôi chung cùng với người bằng đạo đại đồng của thiên hạ là lòng rất công của thánh hiền. Người thường cùng nhau chí cốt ý riêng hợp nhau, nó là cái tình gần gũi mà thôi. Cho nên cần phải ở đồng, nghĩa là không vì tình riêng gần gũi, mà phải ở nơi đồng cõi rộng xa. Đã không vướng về sự riêng, mới là cái đạo đại đồng rất công, không chỗ xa nào đồng nhau, đủ biết là hanh. Hễ đã có thể đại đồng với thiên hạ thì thiên hạ cũng chung cùng với mình; thiên hạ đã chung cùng, thì còn sự hiểm trở nào không thể vượt qua? Còn sự gian nguy nào không thể hanh thống? Cho nên lợi về sự sang sông lớn, lợi cho sự chính bền của đấng quân tử. Trên nói “ở đồng”, nghĩa là không ở chỗ gần kề, đây lại nói “nên dùng chính đạo của đấng quân tử”, sự chính bền của đấng quân tử là đạo chí công đại đồng trong thiên hạ, cho nên dù ở xa nghìn dặm, sinh sau nghìn năm, so lại vẫn như hợp cái phù tích [3-Mảnh tre có in tên, họ, chức, tước của bọn nội giám treo ở cửa cung. Người nào muốn vào, so thấy hợp mảnh tre ấy mới cho vào. Phép của đời Hán như vậy] suy ra mà thi hành, tuy là rộng như bốn bể, nhiều như triệu dân, không gì không hợp. Kẻ tiểu nhân thì chỉ chuyên dùng ý riêng, người họ yêu dù trái họ cũng chung cùng người họ ghét dù phải họ cũng trái khác, cho nên sự chung cùng của họ chỉ là hùa đảng, vì là lòng họ bất chính. Cho nên cái đạo chung với người, lợi ở trinh của đấng quân tử.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ly cũng là tên quẻ ba vạch, một vạch Âm mắc ở giữa hai vạch Dương, cho nên đức nó là mắc, là văn minh tượng nó là lửa là mặt trời, là điện. Đồng nhân là chung cùng với người. Lấy quẻ Ly gặp quẻ Kiền, lửa lên chung cùng với trời, hào Sáu Hai được ngôi, được chỗ giữa mà ở trên ứng với hào Sáu Năm, lại trong quẻ chỉ có một hào Âm mà các hào Dương chung cùng với nó, cho nên là chung cùng với người. Ở đồng ý nói rộng xa mà không riêng tây, thì có đạo hanh, lấy đức mạnh mà đi, cho nên có thể sang sông. Nó là quẻ trong văn minh mà ngoài cương kiện. Hào Sáu Hai trung chính mà có kẻ ứng, đó là đạo đấng quân tử. Kẻ xem như thế thì hanh thông mà lại có thể vượt qua chỗ hiểm. Nhưng, cái người mà mình chung cùng phải hợp với đạo quân tử thì mới có lợi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Đồng nhân, nhu đắc vị, đắc trung nhi ứng hồ Kiền, viết Đồng nhân.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Đồng nhân, mềm được ngôi, được chỗ giữa, mà ứng với Kiền, gọi là Đồng nhân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây nói về nghĩa thành quẻ. Mềm được ngôi chỉ về hào Hai là thể Âm ở ngôi Âm, được chỗ chính vị của nó. Hào Năm là hào trung chính mà hào Hai lấy đức trung chính ứng nhau với nó, ấy là hào nào được sự chính đính của hào ấy; đức nógiống nhau, cho nên là “chung cùng với người”. Hào Năm là chủ quẻ Kiền, cho nên nói là “ứng với Kiền”. Lời tượng lấy tượng “trời lửa” mà lời Thoán thì chuyên nói về hào Hai.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn này dùng thể quẻ để thích nghĩa tên quẻ. Mềm chỉ về hào Sáu Hai. Kiền chỉ về hào Chín Năm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đồng nhân viết:
Dịch nghĩa. - Quẻ Đồng nhân nói rằng:
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ba chữ này thừa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là chữ thừa.
LỜI KINH
Dich âm. - Đông nhân vu dã, hanh, lợi thiệp đại xuyên Kiền hành dã.
Dịch nghĩa. - Cùng với người đồng hanh thông! Lợi về sự sang sông lớn, trời đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chí thành không riêng tây, có thể bước vào chỗ hiểm nan, tức là trời đi. Không riêng tây ấy là đức trời.
LỜI KINH
Dịch âm. - Văn minh dĩ kiện, trung chính nhi ứng, quân tử chính dã.
Dịch nghĩa. - Văn vẻ sáng sủa và mạnh, trung chính để ứng nhau chính đạo của đấng quân tử vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lại dùng hai thể để nói nghĩa nó có đức văn vẻ sáng sủa mà cứng mạnh, lấy đạo trung chính ứng nhau ấy là chính đạo của đấng quân tử.
LỜI KINH
Dịch âm. - Duy quân tử vi năng thông thiên hạ chi chí.
Dịch nghĩa. - Chỉ đấng quân tử là có thể thông được chí thiên hạ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chí của thiên hạ muôn thứ khác nhau, lý thì có một. Đấng quân tử tỏ rõ về lý do, cho nên có thể thông được chí thiên hạ. Đấng thánh nhân coi lòng của ức triệu người cũng như một lòng, là thông về lý mà thôi. Văn vẻ sáng sủa thì có thể soi các lý, cho nên mới rõ về nghĩa đại đồng; cứng mạnh thì có thể thắng lòng riêng mình, cho nên làm được hết đạo đại đồng. Như thế, rồi mới có thể trung chính, hợp với sự đi của trời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn này lấy đức quẻ, thể quẻ để thích lời quẻ. Thông được chí thiên hạ mới là đại đồng. Nếu không thế thì là sự kết hợp bằng tình riêng mà thôi, lấy gì mà đem đến cho sự hanh thông và lợi cho sự qua chỗ hiểm?
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thiên dữ hỏa, Đồng nhân, quan tử dĩ loại lộc biện vật.
Dịch nghĩa. - Lời tượng nói rằng: Trời với lửa là quẻ Đồng nhân, đấng quân tử coi đó mà chia loại các giống, phân biệt các vật.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Không nói “Lửa ở dưới trời”, “Dưới trời có lửa”, mà nói “trời với lửa’’ là vì trời ở trên, tính lửa bốc lên lửa với trời cùng nhau, cho nên là nghĩa “cùng người”, đấng quân tử coi tượng “cùng người” đó mà lấy nòi giống phân biệt các vật, nghĩa là theo từng nòi giống mà phận biệt các vật giống nhau khác nhau. Như đấng quân tử tiểu nhân, lẽ thiện ác phải trái, vật tình lìa nhau hợp nhau, sự lý giống nhau khác nhau, tất cả những cái giống nhau khác nhau, đấng quân tử có thể phân biệt rõ ràng, cho nên khu xử các vật không mất phương pháp.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trời ở trên mà lửa bốc lên, ấy là tính nó giống nhau, chia loại các giống, phân biệt các vật, là để xét sự khác nhau mà làm cho giống nhau.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thiên Thủy Tụng
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Nhiều thị phi, khiêm nhường, nhược bộ và hòa giải. Đang vận không tốt, nhiều trở ngại, cho biết đang rơi vào tình trạng thấy mình bị oan sinh ra lo sợ. Có thể giãi bày, nếu kiện cáo đến cùng thì không tốt. Cần nghe lời khuyên của người công minh chính trực.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: suy giảm, dễ phạm sai lầm, không nên đua chen, cẩn trọng trong lời nói hành động
● Hy vọng: chưa có, nên thay đổi mục tiêu
● Tài lộc: không có, không nên mong chờ
● Sự nghiệp: chưa có thời cơ
● Nhậm chức: kiên nhẫn chờ đợi
● Nghề nghiệp: công việc hiện tại là tốt. Có khả năng chuyển nghề
● Tình yêu: khó như ý
● Hôn nhân: khó có duyên phận
● Đợi người: không nên
● Đi xa: không nên
● Pháp lý: hòa giải thì hơn
● Bệnh tật: dễ bị ngộ độc, có thể bị chẩn đoán sai
● Thi cử: không đạt
● Mất của: không tìm được
● Người ra đi: tức giận mà ra đi, có bất trắc
Quẻ Thiên Thủy Tụng - Kiền trên; Khảm dưới
Bản nghĩa của Trình Di. - Quẻ Tụng, Tự quái nói rằng: Ăn uống thì phải kiện tụng, cho nên tiếp đến quẻ Tụng [1-Tụng nghĩa là kiện]. Cái mà người ta cần dùng là sự ăn uống, đã phải chờ đợi, thì sự tranh kiện ở đó mà ra. Vì vậy quẻ Tương mới nối quẻ Nhu. Nó là quẻ Kiền trên Khảm dưới. Nói về hai Tượng thì khí Dương của trời đi lên, tính nước đi xuống, sự đi của nó trái nhau, cho nên thành Kiện. Nói về hai thể, thì trên cứng dưới hiểm, cứng với hiểm gặp nhau, khỏi kiện sao được? Lại nữa, người ta bên trong hiểm trở mà bên ngoài cương cường, vì vậy sinh ra tranh kiện.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tụng, hữu phu chất Dịch, trung cát, chung hung, lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. - Kiện, có thật, bị lấp, phải sợ, vừa phải, tốt; theo đuổi đến chót, xấu; lợi về sự thấy người lớn, không lợi về sự sang sông lớn.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Phép kiện phải có sự thật, ở trong không có sự thật thì là kiểu của kẻ Vô võng, ấy là đạo hung. Quẻ này giữa đặc [2-Chỉ về quẻ khảm] tức là tượng có sự thật. Kẻ kiện tranh biện với người này mà đợi, người khác quyết đoán cho mình, dù có sự thật cũng nên lấp đi, nếu không lấp thì đã rõ rồi, không có kiện nữa. Việc đã chưa phân biệt, thì lành dữ chưa thể chắc, cho nên có sự sợ hãi. Trung cát nghĩa là vừa phải thì tốt, chung hung nghĩa là
theo đuổi công việc tới cùng thì xấu. Kẻ kiện cần để phân biệt cong ngay, cho nên lợi về sự thấy người lớn, vì rằng người lớn dùng đức cương minh trung chính quyết đoán việc kiện của họ. Kiện không phải là việc hòa bình, nên chọn chỗ yên ổn mà ở, không nên hăm vào chốn nguy hiểm, cho nên không lợi về sự sang sông lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tụng là tranh biện. Trên Kiền dưới Khảm, Kiền cứng Khảm hiểm, người trên dùng sự cứng để chế kẻ dưới, kẻ dưới dùng sự hiểm để nhòm người trên, lại là mình hiểm mà nó mạnh, đều là đạo kiện. Quẻ này hào Chín Hai giữa đặc mà không có kẻ ứng cùng, lại là thêm lo. Vả, theo quái biến, nó tự quẻ Độn mà hại, tức là kẻ cứng đến ở hào Hai mà nhằm vào giữa thể dưới, có Tượng có sự thật bị lấp, biết sợ mà hợp vớỉ lẽ vừa phải; hào Chín Trên quá cứng ở cuối sự kiện, có Tượng theo đuổi việc kiện đến cùng hào Chín Năm cứng mạnh, trung chính ở ngôi tôn, có tượng người lớn; lấy tư cách Dương cương cưỡi lên chỗ hiểm, ấy là sự dầy đặc xéo vào chỗ hãm, có Tượng không lợi về sự sang sông lớn, cho nên mới răn kẻ xem ắt có sự tranh biện và tùy theo chỗ ở của họ mà thành ra lành hay dữ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoắn viết: Tụng, thượng cương hạ hiểm, hiểm nhi kiện, Tụng.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Tụng, trên cứng dưới hiểm, hiểm mà mạnh, là quẻ Tụng.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Tụng là quẻ trên cứng dưới hiểm, hiểm mà lại mạnh, lại là hiểm với mạnh tiếp nhau, trong hiểm ngoài mạnh, đều là cái cớ sinh kiện. Nếu như mạnh mà không hiểm, thì không sinh ra kiện; hỉểm mà không mạnh, cũng không thể kiện; vì hiểm mà lại mạnh, nên mới thành kiện.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tụng hữu phu, chất Dịch, trung cát, cương lai nhi đắc trung dã; chung hung, tụng bất khả thành dã; lợi kiến đại nhân, thượng trung chính dã; bất lợi thiệp đại xuyên, nhập vu uyên dã.
Dịch nghĩa. - Kiện có sự thật, bị lấp, phải sợ, vừa phải tốt, cứng lại mà được vừa phải vậy: theo đuổi đến chót thì xấu, việc kiện không thể thành vậy; lợi về sự thấy người lớn, chuộng sự trung chính vậy; không lợi về sự sang sông lớn, vào chưng vực vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Lại cứ tài quẻ mà nói, hào Chín Hai lấy tư cách Dương cương ở ngoài đến, thì nó là chủ việc kiện. Lấy đức Dương cương ở giữa, tức là cái Tượng giữa đặc; cho nên là có sự thật. Trong thời kiện, dù có đức tin cũng phải ngăn trở, bị tắc lấp mà có sợ hãi, nếu không bị lấp thì không thành kiện. Lại, ở chỗ hãm hiểm, cũng là cái nghĩa tắc lấp sợ hãi. Hào Hai lấy đức Dương cương ở ngoài đến mà được vừa phải, nghĩa là lấy đức Dương cương đến kiện mà không làm quá. Kiện không phải việc hay, nó là việc bất đắc dĩ, đâu lại có thể làm đến cùng chót? Nếu có ý làm đến cùng chót thì là hung. Vì vậy mới nói là “không thể thành”, “thành” là làm cho việc đến cùng tận. Kẻ kiện chỉ cần phân biệt được sự phải trái, phân biệt được đúng tức là trung chính, cho nên mới lợi về sự thấy người lớn, vì cái mà người, đi kiện vẫn chuộng, là sự trung chính…Người lớn trung chính tức là hào Chín Năm, Kiện nhau với người, ắt phải để mình vào chỗ bình yên, nếu xéo vào chỗ nguy hiểm, thì là tự hãm thân mình, đó là vào vực. Trong quẻ này có Tượng trung chính hãm hiểm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là sự biến đổi của quẻ và thể quẻ, tượng quẻ để thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thiên dữ thủy vi hành, Tụng, Quân tử dĩ tác sự mưu thủy.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trời với nước đi trái nhau, là quẻ Tụng, đấng quân tử coi đó mà dấy việc mưu tính lúc đầu.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trinh Di. - Trời trên nước dưới, hai thể trái nhau mà đi, đó là cớ sinh ra kiện. Nếu như trên dưới thuận nhau, thì kiện còn bởi đâu mà sinh ra được? Đấng quân tử coi cái Tượng đó biết rằng tình người phải có tranh kiện, cho nên hễ làm việc gì, ắt phải mưu tính từ đầu, cho dứt mối kiện từ khi việc mới bắt đầu, thì kiện không bởi đâu mà sinh ra nữa. Nghĩa chữ “mưu thủy” rộng lắm, như là những việc cẩn thận giao kết, ghi rõ khế khoán v.v…
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trời trên nước dưới, thường đi trái nhau. Dấy việc, mưu tính từ đầu, mối kiện phải tuyệt.
Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Sơn Thủy Mông
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
-Tiền đồ trắc trở, ám muội không rõ, cần khiêm nhường thỉnh giáo người > chuyển vận : vào tình thế không rõ ràng. Có hiện tượng tự người khác tìm mình để tham vấn, học hỏi. Có hoàn cảnh thanh thông, thuận lợi. Đợi việc rõ, nắm bắt được hành động sẽ thắng. Cần học tập nâng cao bản thân.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: còn xa xôi mờ mịt, khó xoay sở
● Hy vọng: chưa đến, chờ thời cơ. Miễn cưỡng sẽ thất bại
● Tài lộc: khó cầu, lãng phí thời gian tiền của
● Sự nghiệp: chưa gặp thời
● Nhậm chức: gần như ý. Phải dựa người trên
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề
● Tình yêu: đôi bên chưa chân thành, lợi dụng lẫn nhau
● Hôn nhân: khó thành
● Đợi người: chưa đến
● Đi xa: không nên, có thể xảy ra bất trắc
● Pháp lý: khó xong, dù ta có lý
● Bệnh tật: lâu ngày, không thuyên giảm
● Thi cử: không đạt
● Người ra đi: không trở về ngay, khó tới đích
Quẻ Sơn Thủy Mông - Cấn trên; Khảm dưới
Truyện của Trình Di - Quẻ Mông, Tự quái nói rằng: Truân tức là đầy, Truân là các vật mói sinh, các vật sinh ra thì phải đội lên, cho nên tiếp đến quẻ Mông. Mông nghĩa là đội, tức là vật hãy còn non. Truân là các vật mới sinh, các vật mới sinh thì còn bé, mờ tối, chưa phát ra được, cho nên quẻ Mông mới nối quẻ Truân. Nó là quẻ Cấn trên Khảm dưới. Cấn là núi, là đỗ, Khảm là nước, là hiểm, dưới núi là chỗ hiểm; gặp chỗ hiểm thì đỗ, không biết đi đâu, đó là tượng của quẻ Mông. Nước là vật phải đi, mới ra chưa đi đâu, cho nên là mông. Tới khi nó tiến thì là nghĩa hanh.
LỜI KINH
Dịch âm. - Mông hanh, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơphệ cốc, tái tam độc, độc tắc bất cốc, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Mông hanh, chẳng phải ta tìm trẻ thơ [1-Chữ “Mông” có nghĩa là trẻ thơ, cũng có nghĩa là tối tăm], trẻ thơ tìm ta. Mới bói bảo: hai, ba lần nhàm, không bảo. Lợi về sự chính.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Chữ “mông”’ có lẽ khai phát, tức là nghĩa hanh. Quẻ này có tài thời trung, chính là cái đạo làm đến hanh thông. Hào Sáu Năm là chủ quẻ Mông, mà hào Chín Hai là người mở mang sự mờ tối. “Ta” là hào Hai. Hào Hai không phải là quẻ Mông, hào Năm đã nhún thuận vào hào Hai, hào Hai bèn mở mang sự mờ tối cho nó. Cho nên, mới lấy hào Hai, làm chủ mà nói: “Chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta”. Hào Năm ở ngôi tôn, có đức nhu thuận, quẻ này đương ở hồi trẻ thơ, chính ứng với hào Hai, mà đức “trung” lại cũng giống nhau, có thể dùng đạo của hào Hai để mở mang sự mờ tối. Hào Hai lấy đức cương trung, ở dưới, được vua tìm theo, phải nên lấy đạo tự giữ, đợi vua chí thành cầu mình mà sau mới ứng, thì có thể dùng được đạo của mình, đó là “không phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta” Bói là xem để quyết đoán. Mới bói, bảo, nghĩa là thật lòng, dốc ý để tìm mình thì mình bảo họ, đến hai, ba lần thì là nhảm nhí, cho nên không bảo. Cái đạo mở mang kẻ mờ tối, chỉ lợi về sự đính chính. Vả lại, hào Hai tuy là cương trung, nhưng ở ngôi Âm, cho nên, nên có răn bảo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cấn cũng là tên quẻ ba vạch, một hào Dương đỗ ở trên hai hào Âm, cho nên đức nó là đỗ, tượng nó là núi. Mông nghĩa là tối, các vật mới sinh, mờ tối chưa sáng. Quẻ này là Khảm gặp Cấn, dưới núi [2-Chỉ về khấn] có chỗ hiểm [3-Chỉ về Khảm] tức là cái đất mờ tối; trong hiểm ngoài đồ [4-Chỉ về cấn] tức là cái ý mờ tối, cho nên đặt tên là Mông. Từ chữ 亨 (hanh) trở xuống là lời Chiêm. Hào Chín Hai là chủ quẻ trong, tính cứng, ở giữa có thể mở mang sự mờ tối cho ngườí ta, mà với hào Sáu Hai Âm Dương ứng nhau, cho nên hễ gặp quẻ này thì có đạo hanh thông; “Ta” là hào Hai, “trẻ thơ” là kẻ trứng nước tối tăm, chỉ vào hào Năm. Kẻ bói là bậc sáng thì người ta nên đến tìm mình mà sự hanh thông ở người ta, kẻ bói là hạng tối, thì mình nên đi tìm người, mà sự hanh thông ở mình. Người ta tìm mình, thì mình nên xem lẽ nên chăng mà ứng với họ. Mình tìm người ta thì nên hết lòng trung thành chuyên nhất mà hỏi. Bậc sáng láng nuôi kẻ tối tăm và kẻ tối tăm tự nuôi lấy mình lại đều lợi về sự chính đính.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Mông, sơn hạ hữu hiểm, hiểm nhi chỉ, Mông.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Mông, dưới núi có chỗ hiểm, hiểm mà đỗ, là Mông.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng tượng quẻ, đức quẻ để thích tên quẻ có hai nghĩa.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Dưới núi có chỗ hiểm là tượng của quẻ, hiểm mà đỗ là đức của quẻ. Quẻ Mông có hai nghĩa. Hiểm mà đỗ là hiểm ở trong, đỗ ở ngoài, trong nhà đã không yên ổn, mặt ngoài lại đi không được, đó là cái tượng tối tăm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Mông hanh dĩ hanh hành thì trung dã. Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã, chí ứng dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Mông hanh, dùng lẽ hành mà làm cho đúng mực giữa của thời vậy. Chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ra, chí ứng nhau vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di – Dưới núi có chỗ hiểm, trong đã hiểm không thể ở, đỗ ở ngoài lại không thể tiến, chưa biết làm gì, cho nên mới là cái nghĩa tối tăm. Quẻ Mông hanh thông, vì nó dùng lẽ hanh thông để làm cho đúng mực giữa của thời. Thời là được vua hưởng ứng, giữa là ở được chỗ giữa. Được chỗ giữa thì là phải thời. Chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta, chí ứng nhau vậy. Hào Hai là người hiền cương minh ở dưới, hào Năm là hạng trẻ thơ ở trên, không phải là hào Hai tìm hào Năm, là chí hào Năm ứng với hào
Hai. Người hiền ở dưới, há lại có thể tự mình tiến lên để đi tìm vua. Nếu mà tự tìm, ắt không có lẽ mà được tin dùng. Người đời xưa sở dĩ phải đợi ông vua hết lòng kính lễ mà sau mới đi, không phải là tự tôn đại. Là vì người ta tôn đức vui đạo, không như thế thì không thể cùng nhau làm việc.
LỜI KINH
Dịch âm. - Sơ phệ, cốc, dĩ cương trung dã; tái tam độc, độc tắc bất cốc, độc mông dã.
Dịch nghĩa. - Mới bói, bảo, vì cứng giữa vậy; hai ba lần, nhàm, nhàm thì không bảo, vì làm nhàm trẻ thơ vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Mới bói, nghĩa là thành tâm chuyên nhất mà lại, cầu để quyết sự mờ tối, thì nên lấy đạo cương trung mà bảo, để mở mang cho họ. Hai ba lần thì là phiền nhiễu, cái ý đến bói đã là phiền nhiễu mà không thành chuyên tâm nhất; thì là nhảm nhí khinh nhờn, không nên bảo nữa. Bảo họ, họ cũng không thể tin nhận, chỉ làm phiền nhàm, cho nên nói là nhàm trẻ thơ. Kẻ tìm, kẻ bảo đều là phiền nhàm tất cả.
Lời bàn của Tiên Nho. - Lã Đông Lai nói rằng: “Mới bói bảo, vì là cứng giữa. Hào Chín Hai là người mở mạng trẻ thơ. Chín là cứng.
Hai là giữa, cứng giữa là toàn thể của hào Chín Hai. Đương lúc kẻ học mới lại hỏi, lòng họ thành thật chuyên nhất, cho nên đem luôn toàn thể mà bảo. “Hai ba lần nhàm, nhàm thì không bảo, vì nhàm trẻ thơ”, hai ba lần là nhàm, đó là trẻ thơ làm nhàm người mở mang trẻ thơ. Nay không nói “làm nhàm người mở mang trẻ thơ”, mà lại nói “nhàm trẻ thơ” là sao? Bởi vì thánh nhân dạy người không mỏi há lại chán kẻ trẻ thơ làm nhàm mình? Sở dĩ hai ba lần nhàm mà không bảo, là tại chí lý không thể so sánh bàn bạc, sau một lời nói, thì phải nhận hiểu tức thì; nếu chưa nhận hiểu thì ta cứ bỏ đó không bảo, kẻ kia tuy là chưa đạt mà cái lẽ trời ở trong bụng hắn vẫn còn nguyên vẹn không động. Nếu hai ba lần nhàm mà còn bảo họ, thì họ sẽ phải sánh bàn, đồ đoán, lại là làm nhàm lẽ trời của họ. Vì vậy mới nói là “nhàm trẻ thơ”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Mông dĩ dưỡng chính, thánh công dã.
Dịch nghĩa. - Trẻ thơ để nuôi sự đính chính, công bậc thánh vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Lời quẻ nói “lợi trinh”, lời Thoán lại nhắc cho rõ nghĩa để tỏ bất chính là điều đáng răn trong ở hào Hai, thật là đạo nuôi trẻ thơ vậy. Chưa được mở mang gọi là trẻ thơ; hạng trẻ thơ hãy còn thuần nhất chưa mở mang mà muôi lấy sự chính đính, ấy là cái công làm nên bậc thánh. Nếu đã mở mang mà sau mới cấm, thì nó ngăn cách mà khó thắng được. Nuôi sự đính chính từ thuở trẻ thơ là cách rất khéo trong việc học. Trong sáu hào quẻ Mông, hai hào Dương là người trị sự mờ tối, bốn hào Âm là người ở cảnh mờ tối.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lời Thoán này dùng thể quẻ để thích lời quẻ. Hào chín Hai đem cái đạo có thể hanh thông, mở mang sự tối tăm cho người khác, mà lại hợp với mực “giữa” của thời (tức vào những việc nói ở đoạn dưới), đều là dùng đạo hanh thông mà làm, mà nhằm với lẽ nên phải vậy. Chí ứng nghĩa là hào Hai cứng sáng, hào Năm mềm tối, cho nên hào Hai không tìm hào Năm mà hào Năm phải tìm hào hai, cái chí của nó tự nhiên ứng nhau. Dĩ cương trung, nghĩa là đã cứng lại giữa, cho nên biết cách giảng bảo mà có chừng độ. Nhàm, nghĩa là bói đến hai ba lần thì kẻ hỏi vẫn nhàm mà kẻ bảo cũng nhàm. Trẻ thơ để nuôi sự đính chính, tức là cái công làm nên thánh nhân, câu đó là để thích nghĩa hai chữ “lợi trinh”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn hạ xuất tuyền, Mông, quân tử dĩ quả hạnh, dục đức.
Dịch nghĩa. – Lời tượng nói rằng: Dưới núi ra suối, là quẻ Mông, đấng quân tử coi đó mà quyết việc làm, nuôi lấy đức.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Dưới núi ra suối, ra mà gặp phải chỗ hiểm, chưa đi, đó là tượng quẻ Mông, ví như người ta trẻ thơ, chưa hề đến đâu. Đấng quân tử xem tượng quẻ Mông mà quyết việc làm, nuôi lấy đức, nghĩa là coi nó chảy ra mà chưa thể thông đi, để mình quả quyết việc của mình làm; coi nó mới ra mà chưa thể ngảnh về đâu, để mình nuôi lấy cái mình sở đắc vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Suối là nước mới chảy ra, .tất nhiên phải đi, mà đi dần dần.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Hỏa Thủy Vị Tế
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Vị tể- Lỗ lực cố gắng. Tượng tương lai mù mờ, cát hung chưa định, không sáng sủa, nguy cơ khắp phía hoặc bằng phẳng, cần kiên nhẫn, dũng cảm xua tan mây thấy mặt trời. việc chưa xong. Cần phải xem xét cẩn thận, kỹ càng mọi việc trước khi hành động.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện tại đang khó khăn, song dần dần chuyển biến tốt. Cứ tiến hành công việc
● Hy vọng: được như ý song sau một thời gian
● Tài lộc: chưa có
● Sự nghiệp: còn nhiều trở ngại, khó khăn
● Nhậm chức: hiện khó thành
● Nghề nghiệp: chưa có thời cơ chuyển nghề
● Tình yêu: đôi bên chưa hòa hợp
● Hôn nhân: có lương duyên song phải tốn thời gian
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: nên tạm hoãn
● Pháp lý: còn dây dưa, nên hòa giải
● Sự việc: nhẫn nại mới có thể giải quyết
● Bệnh tật: ngày một giảm dần
● Thi cử: kết quả tạm được
● Mất của: có thể thấy
● Người ra đi: có thể tìm ra địa chỉ
Quẻ: Hỏa Thủy Vị Tế - Ly trên; Khảm dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Vị Tế, tự quái nói rằng: vật không thế cùng, cho nên tiếp đến quẻ vị tế [1-未濟 (Vị tế) nghĩa là chưa sang hay xong] là hết. Đã sang rồi là vật bị cùng. Vật đã cùng mà không biến đổi, thì không có lý “chẳng thôi”. Dịch là biến đổi mà chẳng cùng, cho nên sau quẻ ký tế là quẻ Vị tế mà hết. Chưa sang là chưa cùng. Chưa cùng có nghĩa là sinh sinh. Nó là quẻ Ly trên Khảm dưới, lửa ở trên nước, không làm sự dùng cho nhau, cho nên là chưa sang.
LỜI KINH
Dịch âm. – Vị tế hanh, tiểu hồ hất tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.
Dịch nghĩa. – Quẻ vị tế hanh, con cáo nhỏ hầu sang, ướt thửa đuôi, không thửa lợi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Thì chưa sang, có lẽ hanh thông, mà tài quẻ lại có cah theo đến sự hanh thông, chỉ cố xử cho cẩn thận. Con cáo là vật thể lội nước, ướt đuôi thì không sang được. Cáo già hay ngờ sợ, cho nên xéo nước thì còn nghe ngóng, sợ rằng hãm; cáo nhỏ chửa biết sợ hãi cẩn thận, cho nên mạnh bạo mà sang. Chữ 汔 nên đổi thành chữ 仡 Kinh Thư nói 仡 仡 勇 夫 (ngật ngật dũng phu – hăng hái kẻ mạnh), con cáo nhỏ quả quyết về sự sang, thì ướt thửa đuôi mà không sang được. Trong thì chưa sang, cái đạo cầu sang, nên rất cẩn thận thì có thể hanh thông. Nếu quả quyết như con cáo nhỏ, thì không sang được. Đã khong sang được thì không còn lại cái gì.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Quẻ Vị tế là lúc việc chưa thành. Nước lửa chẳng giao nhau, chẳng làm sự dùng cho nhau sau hào trong quẻ đều mất ngôi, cho nên chưa sang, 汔 (hất) nghĩa là hầu, hầu sang mà ướt đuôi là còn chưa sang. Kẻ xem như thế, thì còn lợi gì?
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Vị tế hanh, nhu đắc trung dã; tiểu hồ hất tế, vị xuất trung dã; nhu kỳ vĩ, vô sơ lợi, bất dục chung dã; tuy bất đang vị, cương nhu ứng dã.
Dịch nghĩa.- Lời thoán nói rằng: Quẻ Vị tế hanh, mềm được giữa vậy; cáo nhỏ hầu sang, chưa ra trong vậy; ướt thửa đuôi, không thửa lợi, chẳng nối chót vậy; tuy chẳng đang ngôi, cứng mềm ứng nhau vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. –Lấy Tài quẻ mà nói, sở dĩ hanh được, là vì chất mềm được ngôi giữa. Hào Năm lấy chất mềm ở ngôi tôn, ở chỗ cứng mà ứng với hào cứng là được mực giữa của đạo mềm. Cứng mềm được vừa phải, thì ở chưa sang cos theer hanh thoong. Theo hào Hai mà nói, hào Hai lấy chất Dương cứng ở chõ hiểm, là kẻ sắp sang, phía trên lại ứng với hào Năm, chỗ hiểm không phải nơi có thể yên, hào Năm có lẽ nên thao, cho nên nó mới quả quyết về sự sang, như con cáo nhỏ vậy. Đã quả quyết về sự sang, cho nên có cái lo về ướt duôi, chưa kể ra khỏi chỗ hiểm. Tiến mạnh thì lui chóng, lúc đầu tuy hăng hái về sự sang, nhưng không thể tiếp tục mà làm cho trọn, thì không đi đâu mà lợi. Tuy là Âm Dương không đang ngôi, nhưng cứng mềm đều ứng với nhau, đương thì chưa sang mà có kẻ cùng với, nếu biết thận trong thì có lẽ sang được. Hào hai vì hăng sang cho nên ướt đuôi. Các hào trong quẻ đều không được ngôi, cho nên chưa sang.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Hỏa tại thủy thượng. Vị tế, quân tử dĩ thận biện vật, cư phương
Dịch nghĩa.- Lời Tượng nói rằng: Lửa ở trên nước, là quẻ Vị tế, đấng quân tử coi đó mà cẩn thận phân biệt các vật, ở phương.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. –Nước lửa chẳng giao với nhau, không giúp nhau làm sa sự dùng, cho nên là chưa sang. Lửa ở trên nước là không phải nơi. Đâng quân tử coi Tượng “ở không đáng” đó, để cẩn thận xử với sự vật, phân biệt sự xứng đang của nó, khiến nó đều ở thửa phương, nghĩa là đâu vào nơi chốn của nó.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Nước lửa khác giống, thứ nào ở vào nơi chốn của thứ ấy, cho nên đấng quân tử coi Tượng đó mà xem xét phân biệt các việc các vật.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Hỏa Phong Đỉnh
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Đỉnh- Diều bay lên cao, chấp hành quyền lực lớn, có chi viện và phối hợp, thời vận đến danh lợi sòn toàn. thời cơ, điều kiện thuận lợi đã có, mọi việc tiến hành đạt kết quả như ý.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đang tốt lành, sự nỗ lực của bản thân hoặc sự giúp đỡ của người khác có hiệu quả.
● Hy vọng: lúc đầu tưởng khó thành, song có sự giúp đỡ của người khác có thể thành công.
● Tài lộc: bình thường.
● Sự nghiệp: hiện khó khăn, sau phát triển mạnh.
● Nhậm chức: nhờ bạn mà có địa vị tốt.
● Nghề nghiệp: đổi nghề sẽ gặp nhiều khó khăn.
● Tình yêu: đối tượng đang còn lựa chọn.
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên.
● Đợi người: sắp đến.
● Đi xa: chuyến đi thú vị.
● Pháp lý: thời gian kéo dài, nhưng thắng kiện.
● Sự việc: việc giải quyết được khi có người trung gian.
● Bệnh tật: đổi hướng điều trị bệnh sẽ khỏi.
● Thi cử: kết quả tốt.
● Mất của: có thể thấy.
● Người ra đi: có thể tìm được nới người bỏ đi.
Quẻ: Hỏa Phong Đỉnh - Ly trên; Tốn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Đỉnh, Tự quái nói rằng: Thay đổi các vật, không gì bằng cái vạc, cho nên tiếp đến quẻ Đỉnh [1-Chữ ⿍ (đỉnh) nghĩa là cái vạc]. Sự dùng của cái vạc, là để thay đổi các vật, biến thứ sống ra thứ chín, đổi cái rắn thành cái mềm. Nước lửa giống không thể cùng ở với nhau, mà lại có thể khiến nó hợp nhau làm việc, mà không hại nhau, ấy là nó đổi được các vật, vì vậy quẻ Đỉnh mới nối quẻ Cách. Nó là quẻ trên Ly dưới Tốn, sở dĩ là vạc, là lấy Tượng nó là lấy nghĩa nó. Sự lấy Tượng có hai cách: Nói về toàn thể, thì cắm xuống là chân, giữa đặc là lòng, tức là cái Tượng chứa nhận đồ vật; đối nhau mà dỏng lên ở trên là tai, nằm ngang ở trên là quai, đó là Tượng cái vạc. Nói về hai thể trên dưới thì bầu rỗng ở trên, phía dưới có chân đón lấy cũng là Tượng cái vạc. Còn sự lấy nghĩa, thì, cây là vật theo lửa, Tốn là vào, là nghĩa thuận theo. Lấy cây theo lửa, tức là Tượng cháy. Công dụng của lửa, có nướng với nấu, nướng không cần đồ, cho nên lấy về Tượng nấu mà là cái vạc; lấy cây vào lửa là Tượng ninh nấu vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đỉnh nguyên cát hanh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Đỉnh, cả tốt hanh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ mà nói. Như tài quẻ này, có thể đem
đến được sự cả hanh vậy. Chỉ nên nói, “nguyên hanh”, chữ “cát” là thừa. Vì tài quẻ này có thể đem đến được sự cả hanh, chưa thể có sự cả tốt. Lời Thoán nói “nguyên hanh” nghĩa đó rõ lắm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vạc là đồ để ninh nấu. Trong quẻ, hào Âm ở dưới chân, hào Hai, hào Ba, hào Tư, thuộc Dương, là lòng; hào Năm thuộc Âm là tai, hào Trên thuộc Dương là quai, có Tượng cái vạc. Lại lấy cây Tốn vào lửa Ly, mà nên ninh nấu, cũng là công dụng của cái vạc, cho nên mới là quẻ Đỉnh. Thể Tốn ở dưới là nhún, thể Ly ở trên là mắt, mà hào Năm là tai, có
Tượng trong nhún thuận mà ngoài sáng suốt [2-Sáng là tinh mắt, suốt là thính tai, hai chữ khác nghĩa nhau]. Quẻ này do ở quẻ Tốn mà lại; hào Âm lên ở ngôi năm mà phía dưới ứng nhau với hào Chín Hai là một hào Dương, cho nên lời Chiêm của nó là “cả hanh” chữ “cát” thừa.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Đỉnh tượng dã; dĩ mộc tốn hỏa, phanh nhẫm dã, Thánh nhân hanh dĩ hưởng thượng đế, nhi đại hanh dĩ dưỡng thánh hiền.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Đỉnh là Tượng vậy; lấy cây nhún lửa, ninh nấu vậy, đấng thánh nhân dùng sự hanh để cúng đấng thượng đế, dùng sự cả hanh để nuôi bậc thánh hiền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ này mà thành quẻ Đỉnh là lấy theo Tượng cái vạc; cái vạc mà thành ra đổ, là bắt chước Tượng của quẻ này “Lấy cây nhúm lửa” nghĩa là dùng cây theo lửa, để mà ninh nấu. Vạc là thứ đồ loài người phải nhờ, rất là cần thiết. Nói cho cùng cực công dụng lớn lao của nó, thì là “đấng thánh nhân dùng sự hanh để cúng đấng thượng đế, dùng sự cả hanh để nuôi bậc thánh hiền”. Chữ “thánh nhân” chỉ về các đấng thánh vương đời xưa, chữ “cả” là nói về sự rộng của nó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy hai Tượng trong thể quẻ thích nghĩa tên quẻ, nhân thể nói cho cùng cực sự lớn lao của nó. Cúng đấng thượng đế quý ở lòng thành, dùng con bê thôi; nuôi người hiền thì phải bữa sớm, bữa tối, có cỗ thịt bò, nên rất thịnh soạn, cho nên nói là “cả hanh”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tốn nhi nhĩ mục thông minh, nhu tiến nhi thượng hành, đắc trung nhi ứng hồ cương, thị dĩ nguyên hanh.
Dịch nghĩa. - Nhún mà tai mắt suốt sáng, mềm tiến mà đi lên được giữa mà ứng nhau với hào cứng cho nên cả hanh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên đã nói về công dụng của cái vạc, đây lại lấy tài quẻ mà nói. Người ta có thể như tài quẻ này, thì sẽ có thể đem đến được sự cả hanh. Thể dưới là quẻ Tốn, tức là nhún thuận với lẽ; quẻ Ly sang mà rỗng giữa ở trên, là tượng tai mắt suốt sáng. Hễ mà quẻ Ly ở trên đều nói “mềm tiến mà đi lên” mềm là vật ở dưới, thế mà lại ở ngôi tôn, tức là tiến mà đi lên. Lấy chất sáng ở ngôi tôn mà được đạo giữa, ứng nhau với hào cứng, ấy là biết dùng cách Dương cứng Hào Năm ở giữa, lại lấy chất mềm ứng nhau với hào cứng là được đạo giữa. Tài nó như thế, cho nên mới được cả hanh.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng tượng quẻ, sự biến đổi của quẻ và thể quẻ mà thích lời quẻ.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Tượng viết: Mộc thượng hữu hỏa, Đỉnh, quân tử dĩ chính vị ngưng mệnh.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên cây có lửa, là quẻ Đỉnh. Đấng quân tử coi đó mà chính ngôi đóng mệnh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên cây có lửa, ấy là lấy cây vào lửa, tức là Tượng việc ninh nấu, cho nên mới là cái vạc. Đấng quân tử coi Tượng cái vạc đó mà tự chính ngôi, đóng mệnh. Vạc là thứ đồ bắt chước ở Tượng mà làm ra, hình nó ngay thẳng, thể nó yên lặng. Lấy về tượng ngay thẳng của cái vạc, thì phải làm cho chính đính cái ngôi của mình ở. Đấng quân tử đã ở, ắt phải chính đính từ cái nhỏ nhặt, chiếu không ngay không ngồi, không khếch chân, không dựa dẫm. Lấy về Tượng yên lặng của cái vạc, thì phải “đóng đọng” mệnh lệnh của mình, nghĩa là làm cho mệnh lên yên trọng vậy. “Đóng” là “tụ lại”, “đậu lại”, chỉ về sự an trọng vậy. Đây chỉ nói về mệnh lệnh mà thôi, thật ra hết thảy các sự hành động đều nên an trọng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vạc là vật nặng, cho nên có ý “chính ngôi đóng mệnh”. Chữ “đóng” này cũng như chữ “đóng” trong câu “chí đạo chẳng đóng” [3-Nghĩa là cái đạo cùng tột, không có ngừng đọng] của sách Lão Tử, tức là cái ý “hợp chưng trên dưới, để vâng mệnh của trời” ở Thư truyện vậy.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Hỏa Sơn Lữ-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Lữ- Vận thế bấp bênh, giữ cân bằng gặp hung hóa cát. Chỉ sự cố bất ngờ, du lịch, đi xa, cẩn thận trong hành chình, cần thích ứng theo tự nhiên. Đang phải nương nhờ người khác, cần ứng xử mềm mỏng và sáng suốt thì mọi việc mới thuận.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: không chủ động được, nhiều khó khăn và sự biến động bất an
● Hy vọng: khó thực hiện được
● Tài lộc: chưa có, chưa tới
● Sự nghiệp: thời cơ chưa tới
● Nhậm chức: không như ý
● Nghề nghiệp: không có gì biến động
● Tình yêu: cản tính, cả thèm chóng chán
● Hôn nhân: không phải lương duyên nhưng có kết hợp
● Đợi người: người đến nhanh
● Đi xa: đạt mục đích
● Pháp lý: tốt nhất là hòa giải
● Sự việc: gây hậu quả khó giải quyết
● Bệnh tật: ốm nặng
● Thi cử: khó đạt kết quả tốt
● Mất của khó tìm
● Người ra đi: đã đi xa
Quẻ: Hỏa Sơn Nữ - Ly trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lữ, Tự quái nói rằng: Phong là lớn, lớn tới cùng ắt mất chỗ ở, cho nên tiếp đến là quẻ Lữ [1-Chữ 旅 (lữ) nghĩa là đường đi, ở trọ, tức là kẻ hành lữ]. Lớn thịnh cùng tột, thì ắt mất nơi yên ở, vì vậy quẻ Lữ mới nối quẻ Phong. Nó là quẻ Ly trên Cấn dưới, núi thì đậu mà không dời, lửa thì đi không ở, là Tượng “xa đi chẳng ở” cho nên là sự hành lữ. Lại, bám mắc ở ngoài, cũng là Tượng “hành lữ”.
LỜI KINH
Dịch âm.- Lữ tiểu hanh, lữ trinh cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Lữ nhỏ hanh thông sự đi đường chính bền tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ mà nói. Như tài quẻ này có thể hanh thông nho nhỏ được lẽ trinh chính của sự đi đường mà tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lữ là ky lữ, núi đậu ở dưới, lửa bốc ở trên, là Tượng “bỏ chổ ngừng đậu không ở” cho nên là lữ, lấy hào Sáu Năm được chỗ giữa ở ngoài, mà thuận với hào Dương ở trên và dưới Cấn đậu mà Ly thì bám vào chỗ sáng, cho nên lời Chiêm của nó là có thể nho nhỏ hanh thông, mà giữ được chính bền của việc hành lữ thì tốt. Hành lữ không phải chỗ ở thường, hình như có thể cẩu thả, song “đạo” không chỗ nào không ở, cho nên việc hành lữ cũng có chỗ chính của nó, không thể phút chốc mà lìa cái lẽ chính đó.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: Lữ tiểu hanh, nhu đắc trung hồ ngoại nhi thuận hồ cương, chỉ nhi lê hồ minh, thị dĩ tiểu hanh, lữ trinh cát dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Lữ nhỏ hanh thông, mềm được giữa ở ngoài mà thuận với cứng, đậu mà mắc với sáng, cho nên nhỏ hanh thông, đi đường chính bền tốt vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu Trên ở ngôi Năm là “mềm được giữa ở ngoài”, nó mắc vào hai hào cứng ở trên và dưới là “thuận với cứng”, dưới Cấn đậu mà trên Ly mắc là “đậu mà mắc với sáng”. Mềm thuận mà được chỗ giữa trong sự ở ngoài, chỗ đậu lại mắc vào thể sáng, cho nên nho nhỏ hanh thông được sự trinh chính của việc đi đường mà tốt. Trong lúc lữ khốn [2-Tức là cảnh trọ đậu cùng khốn], không phải là kẻ Dương cứng trung chính có người giúp đỡ dưới, thì không thể đem đến được sự cả hanh. Gọi là “chỗ giữa trong sự ở ngoài”, là vì chỗ giữa không phải chỉ có một lối, sự đi đường cũng có chỗ giữa của sự đi đường. Đậu vào chỗ sáng, thì không lỗi mất thì nghi [3-Tức là sự “nên phải” của từng thời] rồi mới đúng với cách xử cuộc hành lữ.
LỜI KINH
Dịch âm.- Lữ chi thì nghĩa đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Thì nghĩa của quẻ Lữ lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Việc trong thiên hạ, nên tùy thời mà làm cho việc nào đúng sự “nên phải” của việc ấy, mà riêng việc ky lữ là khó xử hơn, cho nên khen cái thời nghĩa của nó lớn lao.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thời cuộc của ky lữ là thời khó xử.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Sơn thượng hữu hỏa, Lữ quân tử dĩ minh thuận dụng hình nhi bất lưu ngục.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên núi có lửa là quẻ Lữ, đấng quân tử coi đó mà sáng ghín [4-Tức là cẩn thận]dùng hình, mà chẳng để ngục đọng lại.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lửa ở chỗ cao, cái sáng của nó không đâu không soi tới. Đấng quân tử coi Tượng sáng soi đó thì để sáng ghín dùng hình. Cái sáng không thể cậy, cho nên phải lấy sự ghín mà răn. Sáng mà đậu, cũng là Tượng ghín. Coi tượng “lửa đi không ở yên”, thì không để ngục đọng lại. Ngục là cái chẳng đừng được mà đặt ra. Kẻ dân có tội vào đó, há lại có thể để nó lưu đọng chậm trễ?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cẩn thận việc hình như núi, chẳng để đọng trễ việc ngục như lửa.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thuần Chấn-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Chấn- kinh hoàng, sợ hãi, không ngờ tới. Có cảnh báo cần xét lại để ung dung trấn tĩnh tiến tới. khi gặp điều kinh động mà bình tĩnh, xem xét lại thì không bị họa. Dù khó khăn, song vẫn chính trực, nghiêm túc, trước sau như một thì tương lai sẽ tốt đẹp.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”. 
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: tuy đang vượng và phát triển, song chớ chủ quan.
● Hy vọng: cứ để cho trôi đi tự nhiên thì như ý.
● Tài lộc: hữu danh vô thực.
● Sự nghiệp: đang phát triển mạnh, nếu năng lực thấp thì chóng tiêu vong.
● Nhậm chức: có thể đổi vị trí. Không nên dựa vào người khác: tốn công vô ích.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: phải chia tay vì không thực tâm.
● Hôn nhân: khó thành, nên im tiếng.
● Đợi người: sẽ tới sớm.
● Đi xa: bình thường.
● Pháp lý: nên hòa giải.
● Sự việc: không nghiêm trọng, có thể giải quyết xong.
● Bệnh tật: nguy hiểm tạm thời.
● Thi cử: đại kết quả tốt
● Mất của, tìm thấy
● Người ra đi, đi xa có tin tức

Quẻ: Thuần Chấn - Chấn trên; Chấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Chấn, Tự quái nói rằng: Chủ về đồ đạc, không ai bằng con lớn, cho nên tiếp đến quẻ Chấn. Quẻ Đỉnh là đồ đạc, quẻ Chấn là con trai lớn, cho nên lấy nghĩa làm chủ đồ đạc, mà nối đằng sau quẻ Đỉnh. Quẻ Chấn là quẻ một khí Dương sinh ở dưới hai khí Âm, đương động mà lên, cho nên là chấn [1-Chữ 震 (chấn) nghĩa là nhức động, khiếp sợ]. Chấn nghĩa là động. Không gọi rằng động, là vì chữ “chấn” có nghĩa động mà phấn phát, kinh sợ. Kiền Khôn giao nhau, một lần tìm mà thành Chấn, là trường của việc sinh ra các vật, cho nên mới là trai lớn, mà Tượng là sấm, nghĩa thì là động. Sấm có tượng phấn chấn, động là nghĩa kinh khiếp.
LỜI KINH
Dịch âm. - Chấn hanh, Chấn lại khích khích, tiếu ngôn ách ách, chấn kinh bách lý, bất táng … chủy Xưởng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Chấn hanh, sợ lại ngơm ngớp, cười nói khanh khách, nhức kinh trăm dậm, chẳng mất môi và rượu Xưởng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dương sinh ở dưới mà tiến lên có nghĩa là hanh thông. Lại, chấn là động, là sợ hãi, có khi chủ về nhức mà phấn phát, động mà tiến lên, sợ hãi mà sửa mình; có khi chủ về gìn giữ lấy sự lớn lao, đều có thể đem lại sự hanh thông, cho nên, nhức thì hanh. Đương lúc sự nhức động kéo lại, thì sợ hãi không dám, rồi liền ngảnh lại lo nghĩ, thì ngơm ngớp vậy: “khích khích” là vẻ đoái lo chẳng yên. Con nhện trắng có tên là “hích”, vì nó quanh co đoái lo, không dám tự yên. Ở thì nhức mà biết như thế, thì có thể giữ được sự yên ổn ung dung, cho nên cười nói khanh khách; “ách ách” là vẻ cười nói vui thích. Động lớn thì không gì bằng sấm. Chấn là Sấm, cho nên nói lây sấm mà nói: Sâm động sợ đến chỗ xa trăm dặm, người ta không ai không sợ mà tự mất, chỉ có cúng tế ở nhà tôn miếu, kẻ cầm môi và rượu Xưởng thì không đến nỗi mất. Người ta hết lòng thành kính, không gì bằng lúc cúng tế. Môi là cái để múc đồ nấu trong vạc mà đổ lên mâm; Xưởng là thứ rượu để rót xuống đất mà giáng thần, lúc rót phải bỏ trần tay áo mà cầu thân, dâng con sinh [2-Tức là con hy sinh] mà cầu hưởng, hết lòng thành kính như thế, thì tuy oai của sấm động, cũng không khiến mình sợ hãi to lớn, có thể yên ổn mà không hoảng hốt, chỉ nhờ về lòng thành kính mà thôi. Đó là cách ở thì “sợ“.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Chấn nghĩa là động, một khí Dương mới sinh dưới hai khí Âm, nhức mà tự động; Tượng nó là Sấm, loại nó là con lớn, nhức thì có cách hnh thông. ‚“Sợ lại”nghĩa là lúc sự nhức sợ kéo lại. “Ngơm ngớp là đáng khiếp sợ ngó đi ngó lại”. “Nhức sợ trăm dặm” là nói về sấm. “Môi” là cái để múc đồ múc trong vạc, “Xưởng” là thứ rượu dùng rượu gạo nếp trộn hòa lộn với nghệ, để đổ lộn xuống đất mà cầu thần xuống. “Chẳng mất môi và rượu Xưởng” là lấy con lớn mà nói. Lời Chiêm quẻ này là biết lo sợ thì đem được phúc đến mà chẳng bị mất cái sở chủ hệ trọng của mình.
LỜI KINH 
Dịch âm. – Thoán viết: Chấn hanh, chấn lại khích khích, khủy trí phúc dã, tiếu ngôn ách ách, hậu hữu tắc dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Chấn hanh, sợ lại ngơm ngớp, vì mà sợ đến phúc vậy: cười nói khanh khách, sau có phép vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Chấn tự nó đã có nghĩa hanh, không phải so tài que. Nhức lại mà biết lo sợ, tự sửa mình, tự giữ mình, thì lại có thể đem đến phúc lành. Cười nói khanh khách là nói về vẻ tự nhiên. Bởi biết lo sợ mà sau tự xử mới có phép tắc, có phép thì sẽ yên mà không sợ. Đó cách ở thì nhức.
LỜI KINH
Dịch âm. – Chấn kinh bách lý, kinh viễn nhi cụ nhỉ dã.
Dịch nghĩa. – Nhức kinh trăm dậm, kinh xa mà sợ gần vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Sấm động kịp tới trăm dặm, kẻ xa thì kinh, kẻ gần thì sợ, ý nói oai nó xa lớn vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Xuất khả dĩ thủ tôn miếu xã tắc, dĩ vi tế chủ dã.
Dịch nghĩa. - Ra khá lấy [3-Theo Trình Di, chữ này muốn chỉ về con trưởng của vua chúa] giữ tôn miếu xã tắc, để làm chủ tế vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Lời Thoán sót một câu “Chẳng mất môi và rượu Xưởng”. Lời quẻ nói “chẳng mất môi và rượu Xưởng” là nói “thành kính tột bậc, oai dọa không thể khiến nó tự mất, lời Thoán cho rằng con lớn phải nên như thế, nhân theo câu trên dùng nghĩa con lớn mà giải luôn đi, nói rằng: Nếu sự thành kính của nó có thể’’chẳng mất môi và rượu Xưởng, thì vua đi vắng, nó có thể giữ được tôn miếu xã tắc mà làm chủ tế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trình Tử cho là chữ dưới 邇 也 (nhĩ dã) sót mất bốn chữ 不 喪 ⼔ 爸 (bất táng chủy xưởng), ta cũng theo thế. “Ra” là nối đời mà làm chủ việc tế. Có người bảo chữ 出 (xuất) là do chữ 爸(xưởng) lầm ra.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Tấn lôi, Chấn, quân tử dĩ khủng cụ tu tĩnh.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Liền sấm là quẻ Chấn, đấng quân tử coi đó mà sợ hãi sửa xét.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Tấn” là lần kép, trên dưới đều là thể Chấn, cho nên liền sấm. Sấm động trùng điệp thì oai càng thịnh. Đấng quân tử soi sấm liền dữ dội đó mà sợ hãi, tự mình sửa sang, tự mình ngẫm xét. Đấng quân tử sự oai của trời thì sửa chính mình mình, nghĩa xét lỗi mình mà đổi nó đi. Chẳng những trong lúc sấm động, hễ gặp phải việc sợ hãi đều nên như thế.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thuần Ly-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)

Ly-Khá cát lợi, đẹp đẽ, thời cơ giải quyết rứt điểm, dũng mãnh tiến lên, hành động vừa mức nhưng rứt khoát. Giữ vững đạo chính, có điểm tựa. cho biết đang ở hoàn cảnh càn trầm tĩnh và khiêm nhường, có đức tin thì sẽ thành công và thắng lợi.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: bên ngoài thì tốt đẹp, bên trong có mâu thuẫn. Giữa nam và nữ có sự bất hòa.
● Hy vọng: phải đợi chờ, nôn nóng thì không như ý.
● Tài lộc: chưa đến.
● Sự nghiệp: không định, phiêu lưu và dễ thất bại.
● Nhậm chức: không như ý.
● Nghề nghiệp: nên ổn định, chuyển nghề chưa được.
● Tình yêu: có thể thành nhưng lại chia tay.
● Hôn nhân: khó thành.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: không nên, chờ lúc khác.
● Pháp lý: nên hòa giải, hiện bất lợi cho mình.
● Sự việc: đang dở dang, nôn nóng sẽ không thành.
● Bệnh tật: nguy nan.
● Thi cử: đạt kết quả tốt.
● Mất của: tìm ngay thì thấy, để lâu mất.
● Người ra đi: không lợi, nguy hiểm.
Quẻ: Thuần Ly - Ly trên; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Ly, Tự quái nói rằng: Khảm tức là hãm, bị hãm, thì phải bám [1-Chữ 灕 (Ly) có nghĩa là mắc, lại có nghĩa là sáng], cho nên tiếp quẻ Ly, tức là bám, bị hãm vào chỗ hiểm nạn ắt phảỉ có sự dính bám, đó là lẽ tự nhiên, vì vậy, quẻ Ly mới nối quẻ Khảm. Ly là bám lại là sáng nữa, lấy về hào Âm bị mắc giữa hai hào Dương thì nghĩa nó là dính bám, lấy về giữa trống, thì nghĩa là sáng; Ly là lửa, thể lửa bám hờ ở vật khác mà sáng; Ly lại là mặt trời, cũng là cái Tượng trống không mà sáng.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Ly lợi trinh, hanh, xúc tẫn ngưu, cát
Dịch nghĩa. - Quẻ Ly vệ sự chính, hanh, nuôi trâu cái, tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ly là bám, muôrĩ vặt chẳng vật nào không có chỗ bám. Có hình thì có bám, ở người ta, thì là: những kẻ thân phụ những đường noi theo, những việc chủ trương, đều là bám cả. Cái mà người ta vẫn bám, lợi về trinh chính, được chính thì có thể hanh thông, cho nên nói rằng quẻ Ly lợi về sự chính, hanh. Nuôi trâu cái tốt, nghĩa là: tính trâu đã thuận, mà lại cái nữa, tức là thuận đến tột bậc. Đã dính bám vào sự chính cần phải thuận theo chính đạo, như con trâu cái, thì tốt. Nuôi trâu cái tức là nuôi cái đức thuận. Đức thuận của người ta do ở sự nuôi mà nên, đã bám vào sự chính thì nên nuôi tập cho thành đức thuận của mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ly là bám. Âm bám vào Dương, Tượng nó là lửa; thể là Âm mà dụng là Dương. Sự dính bám của các vật quý được chính đạo.
Trâu cái là giống mềm thuận, cho nên kẻ xem chính đươc thì hanh, mà nuôi trâu cái thì tốt.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Ly lệ dã, nhật nguyệt lệ hồ thiên, bách cốc thảo mộc lệ hồ địa.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Ly tức là bám, mặt trời mặt trăng bám ở trời, trăm giống thóc, cây, cỏ bám ở đất.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ly là bám, tức là phụ bám, như mặt trời, mặt trăng thì bám ở trời, trăm giống thóc, cây, cỏ thì bám ở đất, muôn vật, chẳng vật nào không có chỗ bám, ở trong trời đất, không có vật nào là không bám vào đâu. Ở người ta nên xét chỗ bám của mình, hễ được chỗ chính thì hanh.
LỜI KINH
Dịch âm. - Trùng minh dĩ lệ hồ chính, nãi hóa thành, thiên hạ.
Dịch nghĩa. - Hai lần sáng để bám vào chỗ chính; bèn hóa nên thiên hạ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ mà nói. Trên dưới đều thể Ly, là hai lần sáng; hào Năm hào Hai đến chỗ trung chính, là bám vào chỗ chính. Vua tôi trên dưới đều có đức sáng mà ở được chỗ trung chính, có thể hóa được thiên hạ, làm nên thói tục văn vẻ sáng sủa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Nhu lệ hồ trung chính, cố hanh, thị dĩ xúc tẫn ngưu cát dã:
Dịch nghĩa. - Chất mềm bám vào chỗ trung chính cho nên hanh vì vậy, nuôi trâu cái thì tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Năm hào Hai lấy đức mềm thuận bám vào chỗ trung chính, vì vậy mới hanh. Người ta hễ nuôi được đức rất thuận để bám vào chỗ trung chính thì tốt, cho nên nói là nuôi trâu cái tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể quẻ để thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Minh lưỡng tác; Ly, đại nhân dĩ kê minh chiếu hồ tứ phương.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng; Sự sáng hai lần dấy, là quẻ Ly, bậc người lớn coi đó mà kế tiếp sáng soi ở bốn phương.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nếu nói hai sự sáng, thì là hai lớp ánh sáng, không thấy cái nghĩa kế tiếp sáng tỏ. Cho nên nói rằng sự sáng hai lần. Sáng mà trùng điệp, tức là nối nhau. Dấy, là sáng tỏ có đôi mà thành quẻ Ly nối nhau mà sáng. Quẻ Chấn quẻ Tốn cũng lấy cái nghĩa hai lần theo nhau, nhưng nghĩa quẻ Ly càng trọng yếu hơn. Người lớn, nói về đức thì là thánh nhân, nói về ngôi thì là đấng vương giả. Bậc người lớn xem tượng quẻ Ly sáng sủa kế tiếp, để đời đời nối nhau dùng đức soi dọi bốn phương. Hết thảy sự sáng nối nhau đều là nối sáng. Đây chỉ cử cái lớn hơn, cho nên lấy sự nối đời kế tiếp soi rọi mà nói.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tác là dấy lên.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Lôi Trạch Quy Muội
(Lời thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Quy muội-Tuân thủ quy định, tránh được tai họa. Vận không tốt, không tham vọng. Ngay từ đầu tự phối hợp không chính đáng. Quan hệ với người khác có thể trở nên xung khắc. Cách ứng phó với hiện tại là dũng cảm bền chí, mà chịu đựng, càng vùng vẫy, càng thất bại.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: cẩn thận rơi vào sự mê muội cầu lợi thì bị thất bại. Đề phòng người khác giới dẫn vào vòng nguy hiểm
● Hy vọng: ban đầu tưởng như ý, sau thất vọng
● Tài lộc: chưa có. Có thể bị mất tiền của
● Sự nghiệp: hãy duy trì và phát triển việc đang làm
● Nhậm chức: không xong
● Tình yêu: cả hai còn đang tính toán thiệt hơn
● Hôn nhân: có thể thành nhưng sau đó thường bất hòa
● Đợi người: nam thì không tới, nữ có thể tới
● Đi xa: bất lợi
● Pháp lý: bất lợi, nên hòa giải
● Sự việc: không cầu lợi thì thành công
● Bệnh tật: nguy hiểm, dễ tái phát
● Thi cử: không như dự tính
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người nhà bỏ đi, khó biết chố tìm
Quẻ: Lôi Trạch Quy Muội - Chấn trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ qui muội Tự quái nói rằng: Tiệm là tiến lên, tiến lên ắt có chỗ về, cho nên tiếp đến quẻ Qui muội [1-Chữ 歸妺 (qui muội) nghĩa là em gái về nhà chồng]. Tiến lên tất nhiên phải tới chỗ nào, cho nên quẻ Tiệm có nghĩa về. Vì vậy quẻ Qui muội mới nối quẻ Tiệm. Qui muội tức con gái về nhà chồng, chữ “muội” là tiếng để gọi những người thiếu nữ. Nó là quẻ Chấn trên Đoái dưới, ấy là gái nhỏ theo trai lớn vậy. Con trai động mà con gái đẹp lòng, lại, lấy sự đẹp lòng mà động, đều là nghĩa trai đẹp lòng gái, gái theo trai. Qui muội là quẻ trên chằm có sấm, sấm nhức mà chằm động, tức là tượng theo. Loại vật theo động, không gì bằng nước. Con trai động ở trên mà con gái theo đó gả về, ấy là gái theo trai. Chấn là trai lớn. Đoái là gái trẻ, gái trẻ theo trai lớn, lấy sự đẹp lòng mà rung động, tức là động mà đẹp lòng. Cái mà người ta đẹp lòng là con gái trẻ, cho nên nói là em gái, là Tượng con gái về nhà chồng, lại có ý nghĩa trai lớn đẹp lòng gái trẻ, cho nên là quẻ Qui muội.
LỜI KINH
Dịch âm.- Qui muội chinh hung, vô du lợi.
Dịch nghĩa. - Quẻ Qui muội, đi hung không thửa lợi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lấy sự đẹp lòng mà động, động mà.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đàn bà gọi sự lấy chồng là về; em gái là con gái trẻ. Đoái dưới lấy tư cách là gái trẻ theo Chấn là trai lớn, mà tính của nó lại là lấy sự đẹp lòng mà động, không phải chính đạo. Cho nên quẻ là “em gái lấy chồng” mà các hào trong quẻ, từ hào Hai đến hào Năm đều không chính, hào Ba hào Năm lại lấy chất mềm cưỡi chất cứng, cho nên lời Chiêm của nó là đi thì hung mà không lợi về sự gì.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: Qui muội thiên địa chi đại nghĩa dã. Thiên địa bất giao nhị vạn vật bất hưng, qui muội nhân chi chung thủy dã.
Dịch nghĩa. - Lời thoán nói rằng: Quẻ Qui muội là nghĩa lớn của trời đất vậy. Trời đất giao nhau mà muôn vật chẳng dấy lên. Quẻ Qui muội là chót và đầu của loài người vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Một Âm một Dương gọi là đạo. Âm Dương cảm nhau, trai gái sánh hợp, là lẽ thường của trời đất vậy. Quẻ Qui muội con gái về với con trai, cho nên gọi là nghĩa lớn của trời đất. Trời đât chẳng giao nhau thì muôn vật bởi đâu mà sinh ra? Gái theo trai là đạo sinh sinh nối nhau, trai gái giao nhau rồi sau mới có sinh đẻ, có sinh đẻ rồi sau đằng chót không cùng. Đằng trước có chót mà đằng sau có đầu, nối nhau không cùng, đó là chót và đầu của loài người.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ. Về nhà chồng là cuộc chót của con gái, sinh nuôi là cuộc đầu của loài người.
LỜI KINH
Dịch âm.- Duyệt dĩ động, sở qui muội dã; chinh hung, vị bất đáng dã; vô du lợi, nhu thừa cương dã.
Dịch nghĩa. - Đẹp lòng mà động, người về là em gái vậy; đi hung ngôi chẳng đáng vậy; không thửa lợi, mềm cưỡi cứng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trai gái cảm thích nhau mà động là việc của con gái trẻ, cho nên lấy sự đẹp lòng mà động, thì người theo về là em gái vậy. Sở dĩ đi thì bị hung, là vì các hào đều không đáng ngôi. Ở chỗ bất chính, hành động gì mà chẳng hung? Chẳng những là ngôi không đáng, lại có lỗi về “cưỡi cứng” nữa. Hào Ba hào Năm đều cưỡi kẻ cứng. Trai gái có thứ tự tôn ty, vợ chồng có lễ xướng tùy, ấy là lẽ thường, như quẻ Hằng đó. Nếu không do đạo đường chính, theo tình riêng, động tình dục, chỉ thấy đẹp lòng là đẹp, thì vợ chồng nhàm loạn, trai vướng lòng dục mà mất nết cứng, gái quen đẹp lòng mà quên nết thuận, như quẻ Qui muội cưỡi cứng đó, vì vậy mới hung, không đi đầu mà lợi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trai gái giao nhau, vốn vẫn đều là lẽ chính, chỉ như quẻ này, thì không được chính.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết; Trạch thượng hữu lôi, Qui muội, quân tử dĩ vinh chung tri tệ.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên chằm có sấm là quẻ Qui muội. Đấng quân tử coi đó mà dài lúc chót, biết điều hỏng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm nhức ở trên, chằm theo mà động, trai động ở trên, gái đẹp lòng mà theo, đó là Tượng con gái theo con trai, cho nên là quẻ “Em gái lấy chồng”. Đấng quân tử coi tượng trai gái sánh hợp, sinh đẻ với nhau, để làm dài lâu cuộc chót, biết có điều hỏng. Chót là sinh đẻ nối tiếp, dài là làm cho sự truyền nối được lâu: biết điều hỏng là biết các vật có lúc hư hỏng mà làm ra cách nối nhau vậy. Gái về nhà chồng thì có sinh đẻ, cho nên có nghĩa làm dài cuộc chót. Lại, đạo vợ chồng thì nên thường lâu có chót, ắt biết có lẽ hư hỏng, mà răn dỗ cẩn thận. Hư hỏng là chỉ về sự khích bác. Con gái trẻ đẹp lòng là do ở tình cảm động, động thì lỗi với chính đạo, không phải vợ chồng chính đáng có thể thường thường, lâu rồi ắt phải hư hỏng. Biết rằng ắt hỏng thì nên nghic cách làm dài cuộc chót. Những đôi vợ chồng trở mặt với nhau ở thiên hạ, điều là không có cuộc chót vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Sấm động chằm là theo, là Tượng “Em gái về nhà chồng” đấng quân tử coi tượng hợp nhau bất chính đó là biết lúc chót sẽ hỏng. Suy ra sự vật, cái gì cũng thế.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Lôi Sơn Tiểu Quá
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tiểu quá- Mất mát nhỏ, không nghiêm trọng. Cần lượng sức, trong hành động, chỉ nên làm quá điều nhỏ, điều lớn thì koong nên. Nhất thời người có trí chỉ nên làm việc vừa phải, không nên làm việc quá lớn
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: vì tự phụ nên thất bại. Cần tham khảo và lắng nghe ý kiến mọi người
● Hy vọng: khó như ý
● Tài lộc: chưa có
● Sự nghiệp: chưa thành
● Nhậm chức: chưa thành
● Nghề nghiệp: nếu chuyển nghề thì thất bại
● Tình yêu: cuối cùng chia tay vì đôi bên không hợp
● Hôn nhân: không thành
● Đợi người: không đến
● Đi xa: bất lợi
● Pháp lý: bất lợi
● Sự việc: mất thời gian cho giao dịch
● Bệnh tật: bệnh nặng
● Thi cử: trái với dự kiến qua kết quả
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người ra đi không rõ nơi đến
Quẻ: Lôi Sơn Tiểu Quá - Chấn trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Tiểu Quá , Tự quái nói rằng: Có sự tin ắt đi, cho nên tiếp đến quẻ Tiểu Quá [1-⼩過 (Tiểu quá) nghĩa là nhỏ quá, hay lỗi nhỏ]. Người ta đã tin thì ắt đi, đi thì ắt phải qua, vì vậy quẻ Tiểu Quá mới nối quẻ Trung Phu. Nó là quẻ trên núi có sấm, sâm nhức ở chỗ cao, tiếng nó quá mực thường cho nên là nhỏ quá. Lại, hào Âm ở ngôi tôn, hào Dương mất ngôi mà không được giữa, tức là kẻ nhỏ vượt quá mực thường. Nghĩa là kẻ nhỏ qua, lại là là việc nhỏ qua, lại là lỗi nhỏ.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tiểu quá hanh, lợi trinh.
Dịch nghĩa. – Quẻ Tiểu Quá hanh, lợi về chính bền
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quá là vượt qua mực thường. Nếu uốn cong là quá thằng, sự quá đó cốt để tới sự chính vậy, việc cũng có khi nên thế, phải đợi quá đi mới hanh được, cho nên quẻ Tiểu Quá tự nó đã nghĩa hanh. Lợi trinh nghĩa là đạo quá lời về chính bền. Chẳng lỗi với lẽ nên phải ở đương thời thì gọi là chính.
LỜI KINH
Dịch âm. – Khả tiểu sự, bất khả đại sự, phi điểu dị chi âm bất nghi thượng, nghi hạ đại cát.
Dịch nghĩa. – Khá Việc nhỏ, chẳng khá việc lớn, chim bay để chưng tiếng, chẳng nên lên, nên xuống, cả tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Qua là để cầu tới mực giữa. Cái quá là việc nhỏ việc lớn há lại quá, được? Nghĩa đó ở quẻ Đại quá nói đã rõ rồi. Chim bay để chưng tiếng, tức là sự qua chẳng xa vậy. Chẳng nên lên, nên xuống, nghĩa là nên thuận vậy, thuận thì cả tốt, qua để mà tới, tức là thuận lẽ, qua mà thuận lẽ, sự tốt ắt lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Chữ “nhỏ” chỉ về Âm, quẻ này là quẻ bốn hào Âm ở ngoài hai hào Dương ở trong. Âm nhiều hơn Dương, tức là cái nhỏ được qua. Đã qua với Dường thì có thể hanh. Nhưng ắt lợi về giữ đường chính đính, sự đó lại không thể không răn. Hào Hai hào Năm trong quẻ đều lấy chất mềm được chỗ giữa nên có thể làm việc nhỏ; hào Ba hào Tư đều là chất cứng mà mất ngôi không được giữa cho nên không thể làm việc lớn. Thể quẻ trong thực ngoài hư, như con chim nay, tiếng nó xuống mà không lên, cho nên, hễ đem đến được sự ứng nghiệm của con chim bay để tiếng thì nên trở xuống mà cả tốt. Cũng là loại không thể làm lớn vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. – Quá dĩ lợi trinh, dữ thì hành dã.
Dịch nghĩa. – Quá để lợi về chính bền, cùng thì đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quá mà lợi về chính bền, tức là cùng thì cùng đi.
Thì nên quá mà quá, không phải là quá, thì nên thế vậy, thế mới là chính.
LỜI KINH
Dịch âm. – Nhu đắc trung, thị dĩ tiểu sự cát dã.
Dịch nghĩa. – Mềm được giữa, cho nên việc nhỏ tốt vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Đây lấy hào Hài hào Năm mà nói.
LỜI KINH
Dịch âm. – Hữu phi điểu chi tượng yên. Phi điểu dị chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đạt cát, thượng nghiệp nhi hạ thuận dã.
Dịch nghĩa. – Có Tượng có chim bay vậy. Chim bay để chưng tiếng, chẳng nên lên, nên xuống, cả tốt, lên nghịch mà xuống thuận vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – cái đạo nhỏ qua với việc nhỏ có khi quá được thì tốt . Mềm được giữa chỉ hào Hai hào Năm ở giữa. Âm mềm được ngôi, có thể lam cho việc nhỏ tốt lành mà thôi, không thể làm việc lớn. Cứng mất ngôi mà không giữa cho nên không làm được việc lớn. Thời nhỏ quá vẫn là không thể làm việc lớn, mà tài quẻ này lại không khảm nổi việc lớn, tức là hợp với thời vậy. Câu “có tượng chim bay vậy” không giống thể Thoán. Đó là lời của kẻ giải lầm vào lời Thoán. Trong cừng ngoài mềm là Tượng chim bay, cho nên mới dùng “chim bay” làm nghĩa. Việc cũng có khi nên quá để thao với lẽ nên phải, nhưng mà há nên quá lắm? Như quá cung kinh, quá thương xót, quá tằn tiên.v.v..quá lớn thì không nên. Vì vậy ở thời nhỏ quá, cái quá nên như chim bay để tiếng mà lại thôi. Chim bay nhanh chong, tiếng phát ra thân đã qua rồi, sóng mà ha đi xa được? Việc mà nên quá như thế. Thân không thể xa hơn tiếng nhiều, việc không thể qua mực thường xa, cốt ở đúng mực vừa phải mà thôi. Không nên lên, nên xuống là theo tiếng chim bay là lấy về nghĩa nên thuận. Đạo “quá” nên như chim bay để tiếng, ôi tiếng, ngược mà đi lên thì khó, thuân mà đi xuống thì dễ, cho nên nó ở chỗ cao thì lớn vì thế trên núi có sấn mới là quá. Đạo quá đi thuận thì tốt, như chim bay lên để tiếng, là nên thuận vậy. Sở dĩ phải quá là để cho thuận với lẽ nên phải. Thuận được với lẽ nên phải, cho nên cả tốt.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Sơn thượng hữu lôi, Tiểu quá, quân tử dĩ hạnh quá hồ cung, tang quá hồ ai, dụng quá hồ kiệm.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Trên núi có sấm là quẻ Tiểu Quá. Đấng quân tử coi đó mà nên quá chưng kinh, tang quá chưng thương, dùng quá chưng kiệm.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Sâm nhức trên núi, tiếng nó vượt qua vượt thường, cho nên là nhỏ quá. Việc trong thiên hạ có khi nên quá mà không thể quá lắm, cho nên là nhỏ quá. Đấng quân tử coi tượng nhỏ quá đó mà việc gì nên quá thì cố gắng, như là nết quá chưng kính, tang quá chưng thương, dùng quá chưng kiệm. Đáng quá mà quá tức là nên phải; chẳng đáng quá mà quá thì quá rồi.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Trên núi có sấm, tiếng nói nhỏ quá [2-Tức là hơi quá mức thường]. Sự quá của ba điều đó [3-Tức là nết, tang và dùng], đều là sự quá của những việc nhỏ. Có thể quá viề việc nhỏ mà không thể quá về việc lớn, có thể quá nhỏ mà không thể quá lớn. Đó cũng là như lời Thoán nói “khá việc nhỏ” và “nên xuống” vậy.

Xem chi tiết?: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Địa Sơn Khiêm
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Khiêm tốn, thận trọng duy trì vận tốt, tự mãn sẽ tổn hại: Vận hưng vượng, điều kiện thuận lợi, tốt đẹp, người có trí giữ được phẩm chất và thành quả đến cùng. Cần giữ mình mọi lúc, mọi nơi.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện tại bình an vô sự
● Hy vọng: chưa thể thực hiện ngay. Sẽ đến lúc như ý
● Tài lộc: chờ lâu sẽ có
● Sự nghiệp: càng ngày càng tốt, không nên nôn nóng
● Nhậm chức: tuần tự như tiến, nên nhờ người trên giúp
● Nghề nghiệp: giữ việc cũ thì tốt
● Tình yêu: cần tôn trọng lẫn nhau sẽ tốt
● Hôn nhân: chờ thời gian kết hành lương duyên
● Đợi người: đến chậm
● Đi xa: bình an vui vẻ
● Pháp lý: nên hoà giải, tranh chấp bất lợi
● Sự việc: khiêm nhường mới giải quyết được
● Bệnh tật: không nặng
● Thi cử: bình thường
● Mất của: khó đoán, khó tìm
● Người ra đi: đi gần, bình an vô sự
Quẻ: Địa Sơn Khiêm - Khôn trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khiêm. Tự quái nói rằng: Có đến cả lớn thì không thể để cho đầy, cho nên tiếp đến quẻ Khiêm. Sự có đã cả lớn không thể để đến tràn đầy, ắt phải nhún bớt, cho nên sau quẻ Đại hữu tiếp đến quẻ Khiêm. Nó là quẻ Khôn trên Cấn dưới, tức là trong đất có núi. Thế đất thấp kém, mà núi là vật cao lớn, lại ở dưới đất, đó là Tượng khiêm tốn; lấy đức sùng cao ở chỗ thấp kém ấy là nghĩa khiêm tốn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Khiêm hanh, quân tử hữu chung.
Dịch nghĩa. - Quẻ Khiêm hanh thông, đấng quân tử có sau chót.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khiêm là quẻ có đạo hanh thông. Có đức mà không tự nhận, gọi là Khiêm. Người ta lấy sự khiêm tốn tự xử thì đi đâu mà không hanh thông? “Đấng quân tử có sau chót”,nghĩa là đấng quân tử chí ở khiêm tốn hiểu lẽ, cho nên vui với mệnh trời mà không cạnh tranh; bên trong đầy đủ, cho nên tự mình lui nhún, mà không khoe khoang, yên lặng xéo noi sự khiêm suốt đời không đổi, mình tự hạ mình mà người ta càng tôn lên, mình tự che cho tối đi, mà đức càng sáng tỏ; đó là đấng quân tử có sau chót. Ở tiểu nhân thì họ có sự ham muốn ắt phải cạnh tranh, có đức ắt phải hợm hĩnh, tuy có miễn cưỡng mến sự khiêm tốn, cũng không thể yên lòng mà
làm, bền chí mà giữ, ấy là không có sau chót.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Khiêm là có mà không ở. Đỗ [1-Chỉ về quẻ Cấn] ở trong, thuận [2-Chỉ về quẻ Khôn] ở ngoài, tức là khiêm. Núi là vật rất cao, đất là vật rất thấp, thế mà núi lại chịu khuất mà đỗ ở dưới đất, đó tức là Tượng khiêm tốn. Kẻ xem như thế thì được hanh thông mà có sau chót. Có sau chốt nghĩa là trước bị co lại, sau được duỗi ra.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Khiêm hanh, thiên đạo hạ tế nhi quang minh, địa đạo ty nhi thượng hành, thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm, địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm, quỉ thần hại doanh nhi phúc khiêm, nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm. Khiêm tốn nhi quang, ty nhi bất khả du, quân tử chi chung dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Khiêm hanh thông, đạo trời giúp xuống mà sáng láng, đạo đất thấp mà đi lên, đạo trời làm vơi chỗ đầy mà thêm chỗ khiêm, đạo đất biến đổi chỗ đầy mà trôi vào chỗ khiêm, quỉ thần làm hại chỗ đầy mà làm phúc cho chỗ khiêm, đạo người ghét chỗ đầy mà yêu chỗ khiêm. Sự khiêm cao mà sáng, thấp mà không hề vượt qua, đó là sau chót của đấng quân tử.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chữ 濟 (tế) nên đổi là chữ 際 (tế). Đây là nói rõ cái nghĩa “khiêm mà có thể hanh thông”, đạo trời vì khi giao tế xuống dưới, cho nên có thể hóa nuôi muôn vật, thành đạo sáng láng; đạo đất vì ở dưới thấp, khi nó đi lên giao nhau với trời, đều là vì sự thấp xuống mà được hanh thông. Lấy việc trời mà nói, thì cái đầy phải vơi, cái nhún được thêm, ví như mặt trời mặt trăng, khí Âm khí Dương. Lấy thế đất mà nói, thì cái gì đầy tràn ắt phải nghiêng đổ biến đổi, mà lại trũng xuống; cái gì thấp trũng thì chảy vào mà càng thêm lên. Quỉ thần tức là dấu vết của đấng Tạo hóa, cái gì đầy tràn quỉ thần làm hại, cái gì nhún bớt, quỉ thần giúp phúc, những việc thái quá mà bị tổn, không đủ mà được thêm, đều là lẽ ấy. Tình người ghen ghét kẻ đầy tràn mà yêu thích kẻ khiêm tốn. Khiêm là cái đức tột bậc của người ta, cho nên thánh nhân nói kỹ, để răn kẻ đầy, khuyến khích kẻ nhún. Khiêm là nhún thuận mà đạo của nó cao lớn và sáng rõ, tự xử tuy là thấp kém mà đức của nó thật cao không thể hơn, ấy là không thể vượt qua. Đấng quân tử rất thật với đức khiêm tốn, lúc nào cũng khiêm tốn mà không thay đổi, đó là sau chót, vì vậy mới được cao sáng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây nói kẻ khiêm tôn ắt được hanh thông. Biến nghĩa là nghiêng đổ, lưu nghĩa là tụ lại mà theo về. Người ta biết khiêm tốn thì kẻ ở ngôi cao đức càng sáng tỏ, kẻ ở ngôi thấp, người khác cũng không thể hơn, vì vậy đấng quân tử mới có câu sau chót.
LỜI KINH
Dịch âm. -Tượng viết: Địa trung hữu sơn, Khiêm, quân tử dĩ biểu đa ích quả, xứng vật bình thi.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong đất có núi, là quẻ Khiêm, đấng quân tử coi đó mà rút chỗ nhiều, thêm chỗ ít, cân lường các vật, làm cho sự thi thố được thăng bằng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Thế đất thấp lùn, núi là vật cao lớn mà ở trong đất, đó là tượng bên ngoài thấp lùn, mà bên trong chứa cái cao lớn, cho nên là Khiêm. Không nói núi ở trong đất, mà nói trong đất có núi, ý muốn tỏ rằng: trong chỗ thấp lùn, chứa cái cao chót. Nếu nói cái cao chốt chứa trong cái thấp lùn thì văn lý không xuôi, các tượng đều thế, coi lời văn thì có thể thấy. “Đấng quân tử coi đó mà rút chỗ nhiều, thêm chỗ ít, cân lường các vật, làm cho sự thi thố được thăng bằng”, nghĩa là đấng quân tử coi tượng quẻ Khiêm: núi mà lại ở dướiđất, ấy là cao thì hạ xuống, thấp thì nâng lên, thấy rõ cái nghĩa nén chỗ cao, nhắc chỗ thấp, bớt chỗ thái quá, thêm vào chỗ bất cập, đem ra thi thố công việc, thì rút lấy của chỗ nhiều, tăng thêm cho chỗ ít, cân nhắc sự nhiều ít của các vật mà làm cho sự thí cho được đều, khiến cho mọi việc được thăng bằng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy cái thấp mà chứa cái cao, là tượng khiêm tốn. Rút chỗ nhiều, thêm chỗ ít, là để làm cho xứng đáng với sự thích nghi của các vật; mà san đều việc thí cho, bớt chỗ cao thêm vào chỗ thấp, cho tới mực thăng bằng, cũng là ý khiêm tôn.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thuỷ Sơn Kiển
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)Kiển-Sự hung hiểm, núi cao, băng tuyết trùng trùng, cần hết sức cẩn thận, tiến dần từng bước, từng bước, chờ thời. Biết khó thì lùi, lên dừng thì dừng. mọi công việc ở phía Tây Nam thì thuận lợi, phía Đông Bắc thì bất lợi. Trong công việc nên nhờ vào sự giúp đỡ của những bậc đại trí, đại nhân thì mới thoát hiểm.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đang suy, mọi việc trắc trở, bệnh tật triển miên, ưu buồn.
● Hy vọng: khó thành
● Tài lộc: tiền bạc thiếu thốn, khó kiếm tiền.
● Sự nghiệp : thất bại
● Nhậm chức: không xong
● Nghề nghiệp: chuyển nghề thì bất lợi.
● Tình yêu: tan vỡ giữa chừng
● Hôn nhân: khó thành
● Đợi người : không đến
● Đi xa : bất lợi
● Pháp lý: kiện tụng thất bại
● Sự việc: chưa có cách giải quyết
● Bệnh tật: nặng lên
● Thi cử: không đạt
● Mất của: không tìm
● Người ra đi: không nên, vì nguy hiểm.
Quẻ Thuần Càn - Khảm trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Quẻ Kiển, Tự quái nói rằng: Lìa thì trái, trái thì khó, cho nên tiếp đến quẻ Kiển [1-Chữ 蹇(Kiển) chính nghĩa là khó khăn nhụt chậm]. Kiển là trái khó, trong thì lìa trái, ắt có kiển khó vì vậy quẻ Kiển mới nối quẻ Khuê. Kiển là nghĩa hiểm trở, cho nên mới là kiển khó: Nó là quẻ Khảm trên Cấn dưới, Khảm là hiểm, Cấn là đậu, tức là chỗ hiểm ở đằng trước, phải đậu lại không thể tiến được. Phía trước có chỗ hiểm trũng, phía sau có chỗ cao chắn, cho nên là Kiển.
LỜI KINH
Dịch âm. - Kiển lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc, lợi kiến đại nhân trinh cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Kiển, lợi Tây Nam không lợi Đông Bắc, lợi về sự thấy người lớn, chính thì tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tây Nam là phương Khôn, Khôn là đất, thể nó xuôi thuận bình dị. Đông Bắc là phương Cấn, Cấn là núi, thể nó ngừng đậu mà hiểm hóc. Trong thì kiển khó, lọi về xuôi thuận ở nơi bình dị không lợi về ngừng đậu ở chỗ nguy hiểm, ở chỗ thuận dễ thì nạn có thể thư, đậu chỗ nguy hiểm thì nạn càng tệ. Trong thì kiển khó, ắt có người thánh hiền, có thể làm cho thiên hạ qua nạn, cho nên lợi về sự thấy người lớn. Người làm qua nạn, ắt phải đùng đạo cả chính mà giữ cho bền, cho nên chính thì tốt. Đại phàm xử trí lúc nạn, cốt ở được trinh chính, dù cho không giải được nạn, cũng không bị mất chính đức, vì vậy mới tốt. Nếu gặp nạn mà không giữ vững được sự thao thủ, bị sa vào đường tà lam, tuy được cẩu thả khỏi nạn, cúng là ác đức, kẻ biết nghĩa mệnh không chịu làm thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Kiển nghĩa là nạn, cái nạn chân không đi được [2-Chữ 蹇(Kiển) lại có nghĩa là què chân]. Nó là quẻ Cấn dưới Khảm trên, thấy chỗ hiểm trở, đương ở trong hồi chữ
Kiển, không nên chạy vào chỗ hiểm. Lại, quẻ này tự quẻ Tiểu quá mà lại, khí Dương tiến lên thì ở ngôi Năm mà được ở giữa, lui xuống thì vào thể Cấn mà không tiến được, cho nên lời chiêm của nó là lợi Tây Nam, mà không có lợi Đông Bắc. Đương thì Kiển phải thấy người lớn, rồi mới có thể qua nạn, lại phải giữ cho chính đính, thì mới được tốt. Mà hào Chín Năm trong quẻ, cứng mạnh, trung chính, có Tượng người lớn, từ hào Hai trở lên, năm hào đều được ngôi chính, thì lại là nghĩa “trinh” nửa, cho nên lời chiêm của nó lại nói “lợi thấy người lớn, chính thì tốt”. Bởi vì thấy chỗ hiểm, quí ở biết đậu, mà lại không thể đậu đến cùng chót, ở chỗ hiểm thì lợi về tiến lên, nhưng không thể bỏ mất chính đạo.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Kiển nan dã, hiểm tại tiền đã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Kiển là khó vậy, hiểm ở trước vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Kiển là khó vậy, Kiển mà là khó, cũng như Kiển là mạnh. Hiểm ở trước nghĩa là Khảm hiểm ở phía trước, phải đậu lại mà không tiến được cho nên là Kiển.
LỜI KINH
Dịch âm. – Kiển hiểm nhi năng chỉ, tri hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Thấy hiểm mà biết đậu, khôn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ để nói cách xử trí lúc Kiển. Trên hiểm mà dưới đậu, tức là thấy hiểm mà đậu, nếu phạm vào chỗ hiểm mà tiến lên, thì có hối hận lầm lỗi, cho nên khen nó biết đậu là khôn. Đương lúc kiển khó, chỉ có biết đậu là hay, cho nên, các hào, trừ hào Năm và hào Hai, đều cho sự đi là hỏng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy đức quẻ thích nghĩa tên quẻ mà khen cái tốt của nó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Kiển lợi Tây Nam, vãng đắc trung dã, bất lợi Đông Bắc, kỳ đạo cùng dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Kiển lợi Tây Nam, đi được vào giữa vậy, chẳng lợi Đông Bắc, thuở đạo cùng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong khi Kiển, lợi về chỗ bình dị, Tây Nam phương Khôn, là chỗ xuôi thuận bằng phẳng, Đông Bắc phương Cấn, là chỗ hiểm trở. Hào Chín lên ở ngôi Năm, mà được chỗ trung chính, ấy là đi mà được chỗ bình dị, cho nên là lợi. Hào Năm ở trong Khảm hiểm mà bảo là chỗ bình dị, là vì quẻ này vốn là quẻ Khôn, bỏi hào Năm đi mà thành quẻ Khảm, cho nên, chỉ lấy về nghĩa “đi mà được giữa” không lấy đến nghĩa “hành quẻ”. Dương kiển mà lại đậu vào chỗ nguy hiểm, thì kiển, càng tệ, cho nên không lợi Đông Bắc, “Thửa đạo cùng” nghĩa là kiển đến tột bậc vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi kiến đại nhân, văng hữu công dã, đáng vị trình cát dĩ chính bang dã. Kiển chi thì dụng đại hỷ tai!
Dịch nghĩa. - Lợi thấy người lớn, đi có công vậy, đáng ngôi chính tốt, đẻ chính nước vậy. Thời dụng của quẻ Kiển lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong thì kiển khó, phi bậc thánh hiền không thể làm qua sự kiển của thiên hạ, cho nên lợi về sự thấy người lớn. Người lớn đáng ngôi, thì làm nên việc “vượt qua sự kiển” thế là đi mà có công. Làm qua được sự kiển của thiên hạ, chỉ có một cách “cả chính”, đấng Phu Tử lại theo tài quẻ mà nói, các hào quẻ Kiển, trừ hào Đầu ra, đều nhằm ngôi chính, cho nên trinh chính mà tốt. Hào Sáu Đầu tuy lấy chất Âm ở ngôi Dương nhưng nó ở dưới, cũng là chỗ chính của hào Âm. Dùng chính đạo như thế, mà chính nước mình, có thể qua được sự kiển. Ở thì kiển, cái đạo vượt qua sự kiển, công dụng rất lớn, cho nên nói rằng “lớn vậy thay”. Nạn của thiên hạ, há dễ làm cho yên? Phi bậc thánh hiền không thể làm nổi, sự dùng của nó có thể bảo là lớn vậy. Thuận thời mà xử, cân nhắc chỗ hiểm mà đi theo lối bình dị, nói lẽ rất chính, ấy là thời dụng của quẻ Kiển.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là sự biến đổi của quẻ và thể quẻ để thích lời quẻ mà khen thời dụng của nó lớn lao.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn thượng hữu thủy. Kiển, quân tử dĩ phản thân tu đức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên núi có nước, là quẻ Kiển, đấng quân tử coi đó mà trở lại mình, sửa đức.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cao thẳm như núi, trên lại có nước, nước Khảm là Tượng hiểm trũng, trên dưới hiểm trở, cho nên là kiển đấng quân tử coi Tượng hiểm khó đó mà trở lại mình, sửa đức. Đấng quân tử gặp sự hiểm trở, ắt phải trở lại tìm trong mình mình mà càng tự mình sửa mình. Thầy Mạnh nói rằng: “Làm có điều gì không được, đều trở lại tìm trong mình mình”, cho nên gặp sự khó kiển, ắt tự xét mình xem có điều gì lầm lỗi mà đến thế chăng, đó là trở lại mình. Có điều chưa phải thì chữa, không có điều gì áy náy trong bụng thì càng gắng thêm, đó là tự sửa đức mình. Đấng quân tử sửa đức, để chờ thời mà thôi.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Trạch Sơn Hàm
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Hàm-Trái tim thành thật tất sẽ ứng nghiệm. Thành, bại cũng là bạn. Vận khá cát lợi do đôi bên đồng giao cảm. nếu đôi bên (hoặc đối tác) mà đồng cảm với nhau thì mọi việc đều thuận lợi. Cần giữ giao kết bạn bè sẽ tiến lên.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: ổn định, đối với người trẻ tuổi thì tốt đẹp.
● Hy vọng: như ý.
● Tài lộc: có tài lộc nhỏ.
● Sự nghiệp: có thành công nếu biết liên kết với nhiều người.
● Nhậm chức: như ý.
● Nghề nghiệp: ổn định, không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: đôi bên đều vui vẻ tiến tới.
● Hôn nhân: thành lương duyên, tốt đẹp.
● Đợi người: sắp đến.
● Đi xa: có chuyến đi thăm quan thú vị.
● Pháp lý: nên hòa giải.
● Sự việc: có giải quyết ngay neeys thể hiện thành ý.
● Bệnh tật: giảm dần.
● Thi cử: đạt kết quả.
● Mất của: tìm thấy.
● Người ra đi: bình thường, đi cùng người khác giới.
HÀO TỪ:
● Hào 1: âm: những tá động, ý định của bản thân chưa thấu đáo được tới người khác. Bản thân mình chưa chứng minh được khả năng của bản thân với mọi người. Động: hiện có nhiều bất lợi hướng tới mình, nếu biết ứng phó, tất sẽ qua. Nên yên tâm trước khó khăn, vì có tài cao, đức dày nên mọi việc đâu vào đấy.
● Hào 2: âm: có ý định nhưng không nên thể hiện, mặc dù đang cần cho người khác biết. Cần tế nhị bày tỏ nguyện vọng của bản thân. Động: lúc ban đầu khó khăn nhưng sau đó được như ý. Tuy gặp thăng trầm, khó khăn, nhưng sẽ gặp điều kiện thuận lợi cho hiển đạt. Vì thời gian, năm Tỵ, tháng Tư mới qua được khó khăn.
● Hào 3: dương: có ý chí phấn đấu song nếu lộ ra thì bất lợi, hãy tìm phương pháp giải quyết vấn đề mềm dẻo, tế nhị và chính trực. Động: khi mưu sự, hành động việc gì phải đi phòng, lo toan, cảnh giác. Sẽ có người làm cho công việc hoàn hảo. Sự việc báo cho biết trước khó khăn sau cũng cải thiện được tình hình. Nếu có phụ nữ bảo trợ sẽ phát triển.
● Hào 4: dương: hành động mưu toan việc gì không nên tính toán hơn thiệt cho bản thân thì mọi việc đều tốt đẹp. Hãy cứ để mọi việc diễn tiến một cách tự nhiên. Động: không nên cạnh tranh, đối đầu mâu thuẫn trong công danh, sự nghiệp, tình duyên mà nên thầm lặng, kín đáo. Sự phô trương, lộ liễu chỉ dẫn đến thất bại.
● Hào 5: dương: cần mềm dẻo hơn và tránh cứng nhắc trong ứng xử, phong cách sống thì sẽ giành được sự ủng hộ của người khác. Động: nên đề phòng bất trắc, nhất là về mùa Đông. Đề phòng cơ nghiệp hao tổn. Muốn tiến thân cần tự lập, không phóng túng.
● Hào 6: âm: phải bằng hành động chứ không bằng lời nói để quan hệ, làm việc thì mới thành công. Động: chần chừ bỏ lỡ cơ hội đang đến thì hối hận. Sẽ gặp người hiền đ﯄31
+ Theo Kinh Dịch word (Tr447):
Quẻ: Trạch Sơm Hàm - Đoái trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Hàm, Tự quái nói rằng: Có trời đất rồi sau mới có muôn vật, có muôn vật rồi sau mới có trai gái, có trai gái rồi sau mới có vợ chồng, có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi, có vua tôi rồi sau mới có trên dưới, có trên dưới rồi sau lễ nghĩa mới có chỗ đặt. Trời đất là gốc muôn vật, vợ chồng là đạo người, cho nên kinh trên bắt đầu bằng quẻ Kiền quẻ Khôn, kinh dưới bắt đầu bằng quẻ Hàm, nối đến quẻ Hằng. Trời đất là hai vật, cho nên hai quẻ (Kiền Khôn) chia ra làm đạo trời đất; trai gái hợp nhau mà thành vợ chồng, cho nên quẻ Hàm và quẻ Hằng đều hai thể hợp lại làm nghĩa vợ chồng, Hàm tức là cảm [1-Chỉ quẻ Hàm] lấy sự đẹp long [2-Chỉ quẻ Hoái] làm chủ, Hằng là nghĩa thường lấy sự chính làm gốc, mà đạo đẹp lòng, tự nhiên phải có sự chính. Đạo của sự chính vẫn có đẹp lòng, nhún mà động, cứng mềm đều ứng, đó là đẹp lòng. Hàm là quẻ Đoái trên Cấn dưới. Tức là gái trẻ và trai trẻ vậy. Trai gái cảm nhau, chẳng ai nồng nàn bằng bậc trẻ, cho nên đôi trẻ hợp lại, thành ra quẻ Hàm. Thể Cấn đốc thực, chính là cái nghĩa thật thà. Chí trai đốc thực để giao xuống, lòng gái vui đẹp mà ứng lên, con trai là kẻ cảm trước, trai lấy lòng thành cảm trước, thì gái đẹp lòng mà ứng theo.
LỜI KINH
Dịch âm. - Hàm hanh, lợi trinh, thù nữ, cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Hàm hanh, lợi chính, lấy con gái, tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hàm tức là cảm, nhưng không nói cảm, vì Hàm còn có nghĩa nữa là đều, tức là trai gái cảm lẫn nhau vậy. Các vật cảm nhau, không gì thiết tha bằng trai với gái mà hạng tuổi trẻ càng thiết tha hơn. Các vật cảm nhau thì có lẽ hanh thông, cho nên quẻ Hàm mới có lẽ hanh, Lợi trinh nghĩa là cái đạo cảm nhau, lợi về sự chính. Lấy con gái tốt, là nói tài quẻ. Quẻ có mềm trên cứng dưới, hai khí cảm ứng với nhau, đậu mà đẹp lòng nghĩa trai chịu dưới gái, dùng cách đó mà lấy con gái, thì được chính đáng mà tốt lành.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hàm là giao cảm. Đoái mềm ở trên, Cấn cứng ở dưới, mà cùng cảm ứng với nhau. Lại, Cấn chủ đậu, thì sự cảm được chuyên nhất. Đoái chủ đẹp lòng thì sự ứng đến tột bậc. Lại nữa, Cấn lấy mình là hạng thiếu nam (trai trẻ), mà chịu dưới Đoái là hạng thiếu nữ (gái trẻ) trai trước gái, được chính đạo của trai gái, vừa đúng thì hôn nhân, cho nên quẻ của nó là Hàm, mà lời Chỉêm của nó là hanh mà lợi về sự chính, lấy con gái thì tốt. Bởi vì cảm thì phải thông, nhưng nếu lấy nhau không theo chính đạo, thì mất sự hanh, mà các việc làm đều hung!
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Hàm cảm dã, nhu thượng nhi cương hạ, nhị khí cảm ứng dĩ tương dữ, chỉ nhi duyệt, nam hạ nữ, thị dĩ hanh lợi trình, thú nữ cát dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Hàm là cảm vậy. Mềm trên mà cứng dưới, hai khí cảm ứng để cũng nhau, đậu mà đẹp lòng, trai dưới gái; vì vậy mới hanh lợi trinh, lấy con gái thì tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nghĩa của chữ Hàm là cảm, ở quẻ thì hào mềm trên, hào cứng dưới, mềm lên biến cứng mà thành thể Đoái, cứng xuống biến mềm mà thành thể Cấn, Âm Dương giao nhau là nghĩa trai gái giao cảm. Lại Đoái là con gái ở trên, Cấn là con trai ở dưới, cũng là mềm trên cứng dưới, hai khí Âm Dương cảm nhau ứng nhau, hòa hợp với nhau, thế là cùng nhau. Đậu mà đẹp lòng, nghĩa là đậu ở sự đẹp lòng, tức là ý kiên nhẫn thành thật. Cấn đậu ở dưới, ấy là gốc thực nhường nhau. Đoái đẹp lòng ở trên, tức là hòa vui ứng nhau. Trai mà nhường gái, tức là hòa đến tột bậc. Cái đạo cảm nhau như thế, cho nên có thể hanh thông, mà được chính đạo, hễ lấy con gái như thế thì tốt. Tài quẻ như vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu thích nghĩa tên quẻ, các câu dưới, dùng thể, đức quẻ, tượng quẻ để thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa cảm nhi vạn vật hóa sinh, thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hòa bình, quan kỳ sở cảm nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ.
Dịch nghĩa. - Trời đất cảm mà muôn vật hóa sinh, đấng thánh nhân cảm lòng người mà thiên hạ hòa bình; xem cái thửa cảm mà tình của trời đất muôn vật có thể thấy vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đã nói cái nghĩa trai gái cảm nhau, lại suy cho cùng cực đạo cảm, cho hết lẽ của trời đất và cách dùng của đấng thành nhân. Hai khí trời đất cảm nhau mà hóa sinh muôn vật, đấng thánh nhân dùng sự chí thành đề cảm lòng số dân ức triệu mà thiên hạ hòa bình, cái lòng thiên hạ sở dĩ hòa bình, là do đấng thánh nhân cảm hóa nó vậy. Xem cái lẽ trời đất giao cảm, hóa sinh muôn vật và cái cách của đất thánh nhân cảm hóa lòng người, để đem sự hòa bình đến, thì tình của trời đất muôn vật, có thể thấy được. Cái lẽ cảm thông, kẻ biết đạo im lặng mà xem mới được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cực cái lẽ cảm thông.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sợn thượng hữu trạch, Hàm, quân tử dĩ hư thụ nhân.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên núi có chầm, là quẻ Hàm, đấng quân tử coi đó mà trống rỗng lòng mình để nhận người ta.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tính chầm nhuần xuống, tính đất chịu sự nhuần chầm ở trên núi, mà sự thấm nhuần của nó thông suốt, ấy là khí của hai vật cảm thông với nhau. Đấng quân tử xem tượng núi chầm thông khí đó mà giữ cho lòng mình trống rỗng để nhận người ta. Ôi, người ta hễ trong bụng trống [3-Tức là bỏ hết thành kiến] rỗng thì có thể nhận, đầy đặc [4-Tức là có thành kiến] thì không thể nhận. Trống rỗng trong lòng tức là không có ý riêng vậy. Trong lòng đã không chuyên chủ, thì không sự cảm nào mà không thông. Nếu chỉ lấy lượng mà chứa, chọn sự hợp lý với mình mà nhận, thì không phải là đạo “có cảm ắt thông” của đấng thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trên núi có chầm là vì sự trống rỗng mà thông suốt vậy.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Trạch Địa Tụy
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tụy-Tụ tập, hội tụ. chủ vận thuận lợi, có minh chủ. Có sự dìu dắt, phát triển tốt : công việc làm theo nhóm đông, tập thể thì tốt. Việc nen công khai thì lợi. Cần có chi phí lớn việc mới thành, cứ tiến lên mà hành động đạt kết quả lâu dài.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: có thanh danh và tín nhiệm mà đang ở vận khí tốt đẹp.
● Hy vọng: được thực hiện.
● Tài lộc: có đủ.
● Sự nghiệp: thành đạt.
● Nhậm chức: có chức vị như ý.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề có địa vị tốt hơn.
● Tình yêu: ý hợp tâm đầu.
● Hôn nhân: thành lương duyên.
● Đợi người: đang đến.
● Đi xa: chuyến đi thú vị.
● Pháp lý: hòa giải là hơn sẽ có lợi cho mình.
● Sự việc: tự chủ động mà giải quyết.
● Bệnh tật: thuyên giảm.
● Thi cử: đạt kết quả tốt.
● Mất của: tìm thấy.
● Người ra đi: bình thường.
Quẻ: Trạch Địa Tụy - Đoái trên; Khôn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tụy, Tự Quái nói rằng: Cấu là gặp, các vật gặp nhau rồi sau mới họp, cho nên tiếp đến quẻ Tụy. Tụy là họp, các vật gặp gỡ với nhau thì phải thành đàn, vì vậy quẻ Tụy mới nối quẻ Cấu. Nó là quẻ Đoái trên Khôn dưới, chằm lên trên đất, tức là nước tụ, cho nên là họp. Không nói “chằm ở trên đất” mà nói “chằm lên trên đất” là vì nó “lên trên đất” thì là nghĩa tụ họp.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tụy hanh, vương cách [1-Chữ (cách), xưa vẫn cắt nghĩa là “đến”, tiếng “đến” này có khi nói về quỷ thuần. Khi cúng, được quỷ thần về hưởng, đó tức là “đến”] hữu miếu.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tụy hanh, vua đến có miếu.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ông vua có đạo tụ họp thiên hạ đến chưng có miếu là tột bậc rồi [2-Ý nói ông vua có cách tụ họp khôn khéo, đến nỗi khi cúng tôn miếu quỷ tuần về hưởng, thì là kết quả tột bậc]. Các loài là thứ rất nhiều, mà có thể thống nhất sự quy ngưỡng của chúng, lòng người là thứ không biết nơi đâu là nơi chốn, mà có thể cho họ phải thành kính, quỷ thần là đấng không thể lường biết, mà có làm cho các ngài lại đến, cái đạo tụ họp lòng người, tóm thu chí dân, không phải chỉ có một đường, nhưng trong đó, không gì lớn bằng tôn miếu, cho nên đạo họp thiên hạ của kẻ làm vua, đến chưng có miếu thì tột bậc của sự họp. Việc báo đáp trong cuộc tế tự vốn ở lòng người mà ra, đấng thánh nhân đặt ra lễ nghi để làm cho nên đức ấy, cho nên con chồn, con gái, cũng đều biết tế, tính nó như vậy. Quẻ Tụy có chữ 亨 (hanh), tức là lời khen ngợi, chữ 亨 (hanh) phải ăn xuống dưới, khác với quẻ Hoán. Quẻ Hoán trước nói tài quẻ, quẻ Tụy trước nói nghĩa Quẻ, ý đó coi ở lời Thoán rất rõ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi kiến đại nhân, hanh, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Lợi thấy bậc người lớn, hạnh, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Thiên hạ họp lại, phải được bậc người lớn trị cho. Người họp thì loạn, vật họp thì tranh nhau, các việc họp lại thì lộn xộn, không có bậc người lớn trị cho, thì sự họp tức là cái đưa đến sự tranh loạn. Họp lại bằng cách bất chính, thì người họp là cẩu hợp [3-Nghĩa là tụ bạ bằng cách cẩu thả] của họp là hội nhập [4-Nghĩa là đi vào bằng cách bất chính], không thể được hanh, cho nên lợi về chính bền.
LỜI KINH
Dịch âm. - Dụng đại sính cát, lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Dùng con sinh, lớn, tốt, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tụy là thời phong hậu, sự dùng nên cho xứng đáng, cho nên dùng con sinh lớn thì tốt. Việc không gì trọng bằng việc tế, cho nên lấy việc cúng tế, mà nói: Trên thì giao với quỷ thần, dưới thì tiếp với nhân vật, trăm thứ dùng đều vậy. Nhưng đương thời họp mà giao với người bằng cách hậu kỷ, thì ta được hưởng cái tốt của sự phong phú, thiên hạ không ai không chung cuộc giàu vui của mình. Nếu gặp thời phong hậu mà mình giao thiệp với người bằng cách bôi bác, thì là tự mình không muốn hưởng sự giàu đẹp, thiên hạ chẳng ai chung chạ với mình, mà sự hối tiếc sẽ sinh ra. Đó là theo sự thích nghi của từng thời, thuận lẽ mà làm, cho nên lời Thoán nói là thuận mệnh trời. Ôi, không thể có làm là vì sức không đủ làm, gặp thời họp, cho nên lợi có thửa đi, Đại phàm dấy công dựng việc, quý ở được thời đáng làm, mà sau nhúng tay vào đâu sẽ được dư dụ ở đấy, lẽ trời thế vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tụy nghĩa là hợp, Khôn thuận mà Đoái đẹp lòng, hào Chín Năm cứng giữa mà hào Hai ứng nhau với nó, lại là cái Tượng chằm lên trên đất, muôn vật tụ họp, cho nên là Tụy. Chữ 亨 (hanh) là chữ thửa. “Vua đến có miếu” nghĩa là kẻ làm vua có thể đến trong tôn miếu, tức là là lời Chiêm tốt lành về việc bói tế vậy. Thiên Tế nghĩa (ở Kinh Lễ) nói “Ông đến chưng nhà thái miếu” cũng là nghĩa thế. Miếu là chỗ để họp tinh thần của ông cha, lại, người ta ắt phải họp tinh thần của mình thì mới có thể đến miếu mà vâng ông cha. Người đã họp lại, thì ắt thấy bậc người lớn mà sau có thể được hanh, nhưng lại ắt phải lợi về chính đạo mới được, họp nhau không bằng chính đạo thì không thể hanh. Con sinh lớn ắt phải dùng đến rồi sau mới có sự họp, thì có thể thửa đi. Đều là lời Chiêm tốt lành mà phải có sự răn sợ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tụy tụ dã, thuận dĩ tuyệt, cương trung nhĩ ứng, có tụ.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tụy là họp vậy, thuận và đẹp lòng, cứng giữa mà có ứng, cho nên họp.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Nghĩa là của chữ Tụy là họp, Thuận và đẹp lòng, là lấy tài quẻ mà nói. Trên đẹp lòng mà dưới thuận, là nghĩa người trên dùng cách đẹp lòng sai dân mà thuận với lòng người, kẻ dưới đẹp lòng về chính lệnh của người trên mà thuận theo với người trên. Đã trên dưới thuận và đẹp lòng, lại Dương cứng ở ngôi trung chính mà dưới có ứng giúp như thế, cho nên thể họp được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy đức quẻ, thể quẻ thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Vương cách hữu miếu, trí hiếu hưởng dã.
Dịch nghĩa. - Vua đến có miếu, đem hết sự hiếu hưởng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đạo kẻ làm vua họp lòng người, đến chưng xây dựng tôn miếu, là để làm hết lòng thành về sự hiếu hưởng của mình vào đó. Tế tự là việc người ta tự phải hết lòng, cho nên họp lòng thiên hạ, không gì bằng việc hiếu hưởng. Đạo kẻ làm vua họp thiên hạ đến chưng có miếu, thì là tột bậc vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi kiến đại nhân, hanh, tu dĩ chính dã.
Dịch nghĩa. - Lợi thấy người lớn, hanh, họp bằng chính đạo vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Thì “họp”, thấy bậc người lớn thì có thể hanh, là vì họp bằng chính đạo vậy. Thấy bậc người lớn, thì sự họp của mình sẽ dùng chính đạo, hễ được chính đạo thì hanh, chẳng dùng chính đạo thì hanh sao được?
LỜI KINH
Dịch âm. - Dụng đại sinh cát, lợi hữu du vãng, thuận thiên mệnh dã.
Dịch nghĩa. - Dùng con sinh lớn, tốt lợi có thửa đi, thuận mệnh trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Dùng con sinh lớn” là nói theo chữ “có miếu” ở trên, lấy việc cúng tế mà nói, các việc đều thế, trong thì giàu họp giao tiếp với người nên hậu, mới xứng với sự thích nghi. Người ta họp lại mà sức đủ, mới có thể làm việc, lợi có thửa đi: đều là lẽ trời như thế, cho nên nói rằng “thuận mệnh trời”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quan kỳ sở tụ nhi thiên địa vạn vận chi tình khả kiến hỹ.
Dịch nghĩa. - Xem cái thửa họp, mà tình trời đất muôn vật khá thấy vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Xe lẽ sự “họp”, có thể thấy được tình của trời đất muôn vật. Trời đất hóa nuôi, muôn vật sinh nên, phàm những cái “có” đều là họp cả. Cái lẽ có không, động tĩnh, trước sau, chỉ là họp và tan mà thôi. Cho nên xem cái sở dĩ họp lại, thì tình trời đất muôn vật có thể thấy được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cái lẽ của nó mà khen ngợi thêm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch thượng ư địa, Tuy, quân tử dĩ trừ nhung khí, giới bất ngu.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chằm lên chưng đất, là quẻ Tụy, đấng quân tử coi đó mà trừ đồ quân, răn sự chẳng lường.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chằm lên chưng đất, là Tượng tụ họp, đấng quân tử xem Tượng “họp” đó mà trừ, sửa đồ binh, để răn ngừa việc chẳng lường. Phàm vật họp lại, thì phải có việc không thể lường đoán, cho nên loài người họp lại thì tranh nhau, loài vật họp lại thì cướp nhau, đại để chỉ vì đã họp thì nhiều, cho nên xem Tượng quẻ Tụy mà răn sợ sẵn. Trừ là kén chọn sửa trị, tức là bỏ cái nát xấu. Trừ mà họp, là để răn ngừa việc chẳng lường.
Bản nghĩa của Chu Hy. - “Trừ” là sửa sang mà họp nó lại.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Trạch Thủy Khốn-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Khốn-Tiến thoái lưỡng nan, nỗ lực đột phá. Khó khăn tột cùng, tính mạng nguy hiểm, không có trợ giúp, bình tĩnh chờ thời. Tự mình cứu mình, tĩnh tâm nhẫn lại. hiện đang ở vào hoàn cảnh bị người khác gây khó khăn, dèm pha. Cần đến công lý thì không có, càng nói ra càng vạ miệng. Nếu biết ẩn nhẫn chịu đựng chờ thời thì mọi việc sẽ qua.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đang bế tắc, tiến thoái khó khăn, không nên làm gì, chờ thời cơ.
● Hy vọng: khó thành. Cần thay đổi mục tiêu và phương pháp thực hiện.
● Tài lộc: khó khăn, nợ nần gia tăng.
● Sự nghiệp: chưa gặp thời, phương pháp hành động chưa thích hợp.
● Nhậm chức: không có.
● Nghề nghiệp: nếu chuyển nghề thì bất lợi.
● Tình yêu: chỉ có chuyện hão huyền.
● Hôn nhân: khó thành, bị cự tuyệt.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: không xong.
● Pháp lý: tốn kém có khi thua kiện.
● Sự việc: chưa giải quyết được.
● Bệnh tật: nguy hiểm, tăng dần.
● Thi cử: khó đạt kết quả.
● Mất của: khó tìm.
● Người ra đi: chưa có mục đích
Quẻ: Trạch Thủy Khốn - Đoài trên; Khảm dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khốn, Tự Quái nói rằng: lên mà chẳng thôi, ắt khốn, cho nên tiếp đến quẻ Khốn [1-Chữ 困 (Khốn) nghĩa là cùng khốn, mỏi mệt, thiếu thốn, bị hãm, bị mắc], cho nên sau quẻ Thăng tiếp đến quẻ Khốn. Khốn là nghĩa khốn thiếu. Nó là quẻ Đoài trên Khảm dưới, nước ở trên chằm, thì là trong chằm khô cạn không nước, nhưng nước lạo ở dưới chằm, thì tức là Tượng dưới chằm khô cạn không nước, đó là nghĩa khốn thiếu. Lạo Đoái là Âm ở trên. Khảm là Dương ở dưới và hào Sáu Trên ở trên hao haod Dương, mà hào Chín Hai bị hãm trong hai hào Âm, mềm lấp lên Dương cứng, vì vậy mới là khốn. Đấng quân tử bị kẻ tiểu nhân che lấp, là thời cùng khốn.
LỜI KINH
Dịch âm.- Khốn, hanh trinh, đại nhân cát, vô cữu, hữu ngôn bất tín.
Dịch nghĩa. - Quẻ Khốn hanh, chính bền, người lớn tốt , không lỗi, có nói không tin.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Như tài quẻ này, thì khốn mà có thể hanh vả được trinh chính là đạo người lớn ở thì khốn vậy, cho nên có thể tốt mà không lỗi. Người lớn ở thì khốn, chẳng những đạo của minh tự nhiên vẫn tốt, mà “vui trời yên mệnh” [2-Tức là vui với số phận tự nhiên], ấy là không mất sự tốt, huống chi theo thì khéo xử, lại
còn lỗi gì? Có nói chẳng tin, là vì đương thời Khốn mà nói, thì còn ai tin?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Khốn là cùng mà không thể tự mình nhấc lên. Khảm cứng bị Đoái mềm che lấp, hào Chín Hai bị hai hào Âm che lấp, hào Tư hào Năm bị hào Sáu Trên che lấp, cho nên là khốn. Khảm hiểm. Đoái đẹp lòng, ở chỗ hiểm mà đẹp lòng, ấy là thân tuy khốn mà đạo thì hanh. Hào Hai hào Năm cứng giữa, lại có Tượng người lớn, kẻ xem ở thì khốn có thể hanh thông và chính đính, không phải người lớn, ai được như thế? Cho nên nói rằng “chính bền”. Lại nói “người lớn” là để tỏ rằng: những kẻ tiểu nhân bất chính, không thể đương nổi? “Có nói không tin” là câu răn người đương vào cảnh đó cần phải kín đáo im lặng, chớ chuộng mồm miệng, mà càng rước lấy khốn cùng.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: Khốn cương yểm dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Khốn là cứng bị lấy vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ này sở dĩ là Khốn là vì kẻ cứng bị kẻ mềm che lấp, bị hãm ở dưới mà bị che ở trên, vì vậy mới là khốn. Hãm cũng là lấp. Đấng quân tử Dương cương, bị kẻ tiểu nhân Âm nhu che lấp, đó là lúc đấng quân tử khốn tắc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng quẻ thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm.- Hiểm dĩ huyệt, khốn nhi bất thât kỳ hanh, kỳ duy quân tử hồ?
Dịch nghĩa. - Hiểm mà đẹp lòng, khốn mà không mất cái hanh của mình, chỉ có đấng quân tử như thế chăng?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ nó cách ở thì khốn. Dưới hiểm mà trên đẹp lòng, tức là ở chỗ hiểm mà vẫn đẹp lòng, dẫu ở trong lúc khốn cùng gian hiểm, mà vui trời yêu nghĩa, tự mình được sự vui thích của mình. Thời tuy khốn, mình xử vẫn không mất nghĩa [3-Nghĩa như thế nào, thì yên lòng thế ấy], thì đạo của mình tựu nhiên vẫn hanh. Đó là “khốn mà không mất cái hanh của mình”. Có thể như thế chỉ có đấng quân tử. Nếu thời đương khốn của mình lại hanh, ấy là thân tuy hanh mà đạo thì khốn. Quân tử là tiếng gọi chung của bậc người lớn.
LỜI KINH
Dịch âm.- Trinh, đại nhân cát, dĩ cương trung dã.
Dịch nghĩa. - Chính bên, người tốt, vì cúng giữ vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Khốn mà vẫn chính, người lớn vì thế mới tốt lành, cũng là tại họ có đạo cứng giữa. Đây chỉ về hào Hai với hào Năm. Nếu không cứng giữa, thì gặp cảnh khốn sẽ mất sự chính.
LỜI KINH
Dịch nghĩa. - Hữu ngôn bất tín, thượng khẩu nãi cùng dã.
Dịch nghĩa. - Có nói chẳng tin, chuộng miệng bèn cùng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đương lúc khốn mà nói, người ta không tin, muốn lấy mồm miệng làm cho khỏi khốn, ấy là làm cho thêm cùng. Đấy vì lấy thể đẹp lòng mà ở thì khốn, cho nên mới có lời răn về sự chuộng miệng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là đức quẻ, thể quẻ mà thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Trạch vô thủy, Khốn, quân tử dĩ tri mệnh toại chí.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chằm không nước là quẻ Khốn, đấng quân tử coi đó mà đến mệnh thỏa chí.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chầm không nước là tượng khốn thiếu. Đấng quân tử đương lúc khốn cùng, đã hết cách ngừa lo, mà không được khỏi, thì là mệnh đó, nên suy đến mệnh mình để thỏa chí mình, biết là mệnh phải thế ấy, thì sự cùng tắc vạ lo không thể lay động lòng mình, mình chỉ làm theo cái nghĩa vụ của mình mà thôi. Nếu biết mệnh, thì sẽ lo sợ về hiểm nạn, luống cuống về cùng ách, cái thao thủ của mình ắt mất, đâu được thỏa chí làm điều thiện?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dưới rò thì trên khô, cho nên nói là “chằm không nước”. “Đến mệnh” như nói “trao mệnh”, tức là cầm mà cho người, mình không có nữa”. Có thể như thế thì tuy là khốn quẫn mà vẫn hanh thông.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thuần Đoài-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Đoài- Vui vẻ, hỗ trợ, cương nhu hài hòa, vui đến từ giao lưu, kết bạn. trước mắt thuận lợi. Hãy sẵn sàng vứt bỏ quá khứ, lạc quan, vui vẻ và chấp nhận cuộc sống hiện tại thì tương lai tốt đẹp.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: có điều kiện thuận lợi, bình ổn và và vô sự. Được mọi người ủng hộ, Cẩn thận trong quan hệ nam nữ
● Hy vọng: có thể đạt được, nếu chủ quan, sơ ý sẽ hỏng
● Tài lộc: đầy đủ
● Sự nghiệp: phát triển thuận lợi
● Nhậm chức: được người khác giúp, có chức vị tốt
● Nghề nghiệp: chuyên nghề tốt
● Tình yêu: được ái mộ
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: chuyến đi thú vị
● Pháp lý: hòa giải thì tốt
● Sự việc: phải đứng ra thương lượng trực tiếp
● Bệnh tật: đạt kết quả tốt
● Thi cử: bệnh nặng
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người bỏ đi không rõ tung tích.
Quẻ Thuần Đoài - Đoái trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Đoái, Tự quái nói rằng: Tốn là vào, vào mà sau mới đẹp lòng, cho nên tiếp đến quẻ Đoái. Đoái là đẹp lòng, loài vật vào nhau thì đẹp lòng nhau, đẹp lòng nhau thì vào nhau, vì vậy quẻ Đoái mới nối quẻ Tốn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đoái hanh lợi trinh.
Dich nghĩa. - Quẻ Đoái hanh, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Đoái là đẹp lòng, đẹp lòng tức là cách đem đến sự hanh thông. Có thể đẹp lòng với người ta, người ta ai cũng đẹp lòng mà cùng với mình? Như thế đủ để đem đến sự hanh thông. Nhưng cái đạo làm sự đẹp lòng, lợi tại trinh chính, nếu trái đạo mà cầu đẹp lòng thì tà xiểm, mà có hối lỗi, cho nên răn rằng “lợi về chính bền”.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đoái là đẹp lòng. Một Âm tiến lên hai Dương, tức là sự mừng hiện ra bên ngoài. Tượng nó là chằm lấy nghĩa đẹp lòng muôn vật, lại lấy về tượng nước Khảm mà lấp dòng dưới. Thể quẻ cứng trong mà mềm ngoài, cứng trong cho nên đẹp lòng mà hanh, mềm ngoài cho nên lời về chính bền. Bởi vì sự đẹp lòng vẫn có cách hanh thông, nhưng cái đẹp lòng càn bậy, thì không thể không răng, cho nên lời Chiêm của nó như thế. Lại, mềm ngoài cho nên đẹp lòng hanh thông, cứng trong cho nên lời về chính bền, cũng là một nghĩa nữa.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Đoái duyệt dã, cương trung nhi nhu ngoại, duyệt dĩ lợi trinh, thị dĩ thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Duyệt dĩ tiên dân, dân vong kỳ lao; duyệt dĩ phạm nan, dân niệm kỳ tử. Duyệt chi đại, dân khuyết hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Đoái là đẹp lòng. Cứng trong mà mềm ngoài, đẹp lòng và lợi về chính bên, cho nên thuận với trời mà ứng với người. Dùng sự đẹp lòng mà đi trước dân, dân quên sự nhọc của nó. Dùng sự đẹp để phạm vào hiểm nạn, dân nghĩ sự có chết của nó. Sự đẹp lòng lớn lao, dân khuyến khích vậy thay.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Nghĩa của quẻ Đoái là đẹp lòng. Một Âm ở trên hai dương, tức là Âm đẹp lòng với dương mà bị Dương đẹp lòng. Dương cúng ở trong, là Tượng trong lòng thành thực; hòa mềm ở ngoài, là Tượng tiếp người bằng cách hòa mềm, cho nên là đẹp lòng mà chính bền. Lợi trinh nghĩa là cái đẹp đẹp lòng cho nên chính đính vậy. Trong quẻ có đức cứng ở giữa, là kẻ có thể chính bền. Đẹp lòng mà lại chính bền, cho nên thuận lẽ trời, dưới ứng lòng người tức là việc rất chính phải trong đạo đẹp lòng. Đạo đấng quan tử đẹp lòng với dân, giống như đất ra ơn, cảm được lòng họ mà họ vui phục không chán. Cho nên dùng cách đó mà đi trước dân thì dân đẹp lòng theo mà quên sự khó nhọc; đẹp dân phạm vào sự hiểm nạn, thì dân thực bụng vui phục với nghĩa là không ngại sự chết. Cái đạo đẹp lòng lớn lao, dân không kẻ nào không biết khuyến khích. Khuyến khích nghĩa là tin mà cố sức thuận theo. Đạo của kẻ làm vua lấy sự lòng người vui phục làm gốc, cho nên thanh nhân khen ngợi cái lớn của nó.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây lấy thể quẻ thích lời quẻ mà nói cho thật cùng tột
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lệ trạch Đoái, quân tử dĩ bằng hữu giảng tập.
Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Bám chằm là quẻ Đoái, đấng quân tử coi đó mà bè bạn giảng tập.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Bám chằm nghĩa là tai chấm phụ bám vào nhau. Hai chằm bám nhau là Tượng thấm nhuần lẫn nhau, đắp đổi giúp ích cho nhau. Cho nên đấng quân tử coi tượng đó mà bè bạn giảng tập, bè bạn giảng tập tức là đắp đổi làm ích cho nhau. Tiên Nho bảo việc đẹp lòng ở gầm trời, không gì bằng bè bạn giảng tập. Bè bạn giảng tập vẫn là điều lớn trong sự đáng đẹp lòng, nhưng nên hiểu rõ cái Tương làm ích cho nhau.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hai chằm bám vào nhau đắp đổi thêm ích cho nhau. Bè bạn giảng tập, Tượng cũng như thế.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Hoả Thiên Đại Hữu
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Cơ hội thể hiện bản thân. Vạn sự đều đủ cả, Vận may, tránh vui quá hóa buồn, hành động phải có văn hoá, có văn minh và kiên quyết theo đúng thời điểm thì mọi việc thuận lợi. Người tỉnh táo nên phòng ngừa điều dữ, thể hiện cái ưu điểm của mình cho mọi người thấy. Tránh kiêu ngạo, xem thường người khác sẽ duy trì.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đang vượng nhưng sắp sauy thoái, cần phòng xa lúc đến suy thoái.
● Hy vọng: như ý, không nên tự mãn mà sai lầm
● Tài lộc: hanh thông, chớ tham
● Sự nghiệp: hưng vượng, sau kém dần
● Nhậm chức: địa vị cao hơn ý muốn
● Nghề nghiệp: có đổi nghề
● Tính yêu: đôi bên thuận lợi
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên
● Đợi người: sẽ đến
● Đi xa : như ý, song tốn kém
● Pháp lý: tưởng chừng thắng kiện, tốn phí nhiều
● Sự việc: giải quyết xong, nhưng tốn kém nhiều
● Bệnh tật: hiện đang bệnh nặng
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: tìm thấy
● Người ra đi: đi xa nhưng có tin tức

Quẻ: Hỏa Thiên Đại Hữu - Ly trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Đại hữu, Tự quái nói rằng: Kẻ nào cùng với người ta, thì người ta ắt về với mình, cho nên tiếp đến quẻ Đại hữu [1-Đại hữu có nghĩa là cả có]. Kẻ cùng với người ta tức là kẻ mà người ta theo về, vì vậy quẻ Đại hữu mới nối quẻ Đồng nhân. Nó là quẻ lửa ở trên trời, lửa ở chỗ cao, ánh sáng của nótới xa, thì dẫu nhiều đến muôn vật cũng không vật nào mà không soi thấy, ấy là cái tượng cả có. Lại nữa, một hào mềm ở ngôi tôn, các hào Dương cùng ứng với nó, ở ngôi tôn mà giữ đạo mềm mỏng, tức là kẻ mà người ta theo về, trên dưới ứng nhau, ấy là nghĩa cả có, cả có nghĩa là thịnh cả giàu có.
LỜI KINH
Dịch âm. -Đại hữu nguyên hanh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Đại hữu cả lớn hanh thông.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tức là tài quẻ có thể hơn hanh thông. Vì nó cương kiên văn minh, ứng nhau với trời mà làm việc phải thì, cho nên có thể cả lớn hanh thông.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đại hữu tức là sự “có” cả lớn. Ly ở trên Kiền, ấy là lửa ở trên trời, không gì không soi. Lại hào Sáu Năm là một hào Âm ở ngôi tôn, được chỗ giữa, mà năm hào Dương ứng theo với nó, cho nên là cả có. Kiền mạnh có Ly sống, ở ngôi tôn mà ứng với trời, có cơ hanh thông. Kẻ xem có đức ấy thì rất hay và hanh thông.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Đại hữu, nhu đắc tôn vị, đại trung nhi thượng hạ ứng chi, viết Đại hữu. Kỳ đức cương kiện nhi văn minh, ứng hồ thiên nhi thì hành, thị dĩ nguyên hanh.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ đại hữu, kẻ mềm được ngôi tôn, cả giữa mà trên dưới ứng nhau với nó, gọi là Đại hữu. Đức nó cứng mạnh mà văn vẻ sáng láng, ứng nhau với trời mà đi đúng thì, cho nên cả lớn hanh thông.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây nói tại sao quẻ này là quẻ Đại hữu. Hào Năm là hào Âm, ở ngôi vua, ấy là kẻ mềm được ngôi tôn; ở giữa tức là được đạo “cả giữa”; được các hào Dương tôn quý, tức là trên dưới ứng nhau với nó. Ở ngôi tôn giữ được mềm, vẫn là kẻ mà mọi người theo về, mà lại có đức trống giữa, văn vẻ sáng láng, cho nên trên dưới đồng lòng ứng nhau với nó, vì vậy mới là Đại hữu. Quẻ này trong cứng mạnh mà ngoài văn vẻ sáng láng, ông vua Sáu Năm ứng nhau với hào Chín Hai của quẻ Kiền. Tính hào Năm mềm thuận mà sáng suốt, có thể ứng nhau với hào Hai, hào Hai là chủ quẻ Kiền, ấy là ứng nhau với Kiền; êm thuận mà ứng nhau với quẻ Kiền, ấy là thuận theo thời trời, cho nên nói rằng: ứng nhau với trời mà đi đúng thì. Đức nó như thế, cho nên cả lớn hanh thông.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn trên dùng thể quẻ thích nghĩa tên quẻ. Nhu chỉ về hào Sáu Năm, thượng hạ chỉ về năm hào Dương; đoạn dưới dùng đức quẻ, thể quẻ để thích lời quẻ; ứng với trời, chỉ về hào Sáu Năm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Hỏa tại thiên thượng. Đại hữu, quân tử dĩ át ác dương thiện, thuận thiên hưu mệnh.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lửa cao ở trên trời, là quẻ Đại hữu, đấng quân tử coi đó mà ngăn kẻ ác, biểu dương người thiện, thuận theo mệnh tốt của trời.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lửa cao ở trên trời, soi thấy muôn vật đông nhiều, cho nên là quẻ Đại hữu. Đại hữu nghĩa là rậm nhiều. Đấng quân tử coi tượng Đại hữu, để ngăn dứt mọi kẻ ác, nêu rõ loài thiện, vâng theo cái mệnh tốt đẹp của trời. Muôn vật đông nhiều, thì có thiện ác khác nhau, đấng quân tử hưởng sự thịnh vượng của cuộc cả có, nên thay thợ trời trị nuôi mọi loài. Cái đạo trị người, cốt ở ngăn kẻ ác nêu kẻ thiện. Kẻ ác bị răn, kẻ thiện được khuyến khích, là để thuận theo mệnh trời, làm yên các loài “sống”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lửa ở trên trời, nó soi rất rộng, là tượng cả có.
Cái có đã cả, không có cách gì mà trị, thì sự hớ hé tai hạisẽ sinh ở trong. Mệnh trời có thiện không có ác cho nên ngăn ác nêu thiện là để thuận theo trời, quay lại mình mình cũng như thế mà thôi.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

 

 

Tổng quan: Hỏa Địa Tấn
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tấn-Tượng thăng tiến, nỗ lực sẽ có quý nhân đề bạt, cần thận trọng. Bình minh lên cao, hiện tại trên dưới đều đồng lòng, chính đáng. Do vậy mọi điều đề nghị cả hai phía đều được giải quyết. cần giữ tốt mối quan hệ tốt đẹp này bằng sự trung chính, nhân đức.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: cực thịnh được bề trên (có thể nhà lãnh đạo, bậc cha chú, bề trên…) hỗ trợ. Mọi việc như ý, danh vọng thăng tiến. Song không chủ quan sẽ phạm sai lầm.
● Hy vọng: đạt được, nhờ người có địa vị cao thì như ý.
● Tài lộc: đầy đủ.
● Sự nghiệp: phát triển mạnh.
● Nhậm chức: có địa vị tốt.
● Nghề nghiệp: ổn định việc đang làm sẽ phát triển.
● Tình yêu: đôi bên mãn nguyện.
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên.
● Đợi người: chắc đến.
● Đi xa: chuyến đi mãn nguyện.
● Pháp lý: ban đầu có lợi thế, nếu dây dưa thì bất lợi cho mình.
● Sự việc: có thể giải quyết được nhờ vào bề trên.
● Bệnh tật: có bệnh mãn tính.
● Thi cử: đạt kết quả tốt.
● Mất của: tìm được.
● Người ra đi: tốt.
Quẻ: Hỏa Địa Tấn - Ly trên; Khôn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tấn. Tự quái nói rằng: Các vật không thể mạnh mãi đến chót, cho nên tiếp được quẻ Tấn. Tấn là tiến lên, các vật không có lẽ nào đương mạnh mà tự ngừng đã mạnh thịnh thì phải tiến lên, vì vậy quẻ Tấn mới nối quẻ Đại tráng. Nó là quẻ Ly ở trên Khôn, tức là sự sáng ở trên đất. Mặt trời mọc ở trên đất, càng lên càng sáng, cho nên là Tấn, ấy là cái ý tấn tới mà sáng tỏ thịnh lớn vậy. Các vật, thịnh dần là tiến, cho nên lời Thoán nói rằng: “Tấn là tiến vậy”. Trong quẻ, có khi có đức, có khi không đức, tùy theo sự nên phải vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tấn, khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tấn, tước hầu yên dừng cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tấn là thì tiến thịnh, sự sáng lớn ở trên, mà thể dưới êm thuận phụ vào, tức là Tượng chư hầu vâng theo nhà vua, cho nên là tước hầu yên. Tước hầu yên nghĩa là tước là hầu trị an, gặp được bề trên cả sáng, mà biết dốc lòng để thuận theo, đó là tước hầu trị an, vì vậy mới được bề trên yêu đương, cho ngựa rất nhiều. Xe ngựa là của ban thưởng long trọng, “giậm nhiều” nghĩa là đông nhiều, chẳng những nhà vua ban cho hậu hỹ, lại được thân mật kính lễ, trong buổi ban ngày, đến ba lần tiếp, ý nói yêu đương đãi đọa đến tột bậc vậy. Quẻ Tấn là thì tiến thịnh, trên sáng dưới thuận, vua tôi hợp nhau, nói về người trên, thì là tiến về đường sáng thịnh, nói về bề tôi, thì là tiến lên mà ắt được sự vẻ vang yêu đương vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tấn là tiến lên, tước hầu yên là tước hầu làm yên được nước; ngựa cho giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp nghĩa là chịu nhiều ơn to, mà được thân mật kính lễ một cách rõ rệt vậy. Bởi vì quẻ này là quẻ trên Ly dưới Khôn, có tượng mặt trời mọc ở trên đất, bốn hào xuôi thuận mà bám vào chỗ cả sáng, do ở quẻ Quan biến lại, thành hào Sáu Tư, mềm mà tiến lên cho đến hào Năm. Kẻ xem có ba điều ấy, thì cũng có sự yêu ấy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tấn tiến dã, minh xuất địa thượng, nhi lệ hồ đại minh, nhu tiến nhi thượng hành, thị dĩ khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tấn là tiến. Sáng ra trên đất, mà bám vào chỗ sáng lớn, mềm tiến mà đi lên, thế cho nên tước hầu yên dùng cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tấn nghĩa là tiến, tức là sự sáng tiến lên mà thịnh. Sự sáng xuất hiện trên đất, càng tiến càng thịnh, cho nên là tấn. Sở dĩ không gọi là tiến, vì tiến chỉ là tiến lên không bao quát được nghĩa sáng thịnh. Sáng ra trên đất, tức là Ly ở trên Khôn. Khôn bám vào Ly để thuận phụ vào chỗ cả sáng, tức là bề tôi có đức thuận, phụ lên với ông vua cả sáng, “Mềm tiến mà đi lên” là thế nào? Các quẻ, Ly ở trên, hào mềm ở ngôi vua, phần nhiều vẫn nói “mềm tiến mà đi lên”, ví như quẻ Phệ hạp, quẻ Khuê, quẻ Đinh. Hào Sáu Năm của quẻ này lấy chất mềm ở ngôi vua, “sáng mà xuôi thuận bám vào”, nghĩa là biết đãi kẻ dưới bằng cách yêu đương thân mật, vì vậy mới là “tước hầu yên dùng cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp”. Ông vua cả sáng, tức là người làm yên thiên hạ. Chư hầu biết thuận phụ với đức sáng của thiên tử, ấy là tước hầu làm được yên dân yên nước, cho nên gọi là tước hầu yên. Vì vậy mới được hưởng sự yêu đương, ban cho, và được thân mật kính lễ, trong buổi ban ngày, ba lần tiếp kiến thiên tử. Không nói công khanh mà nói tước hầu, vì rằng: thiên tử là người trị ở bên trên, chư hầu là người trị ở bên dưới, ở dưới mà thuận phụ với ông vua cả sáng, là Tượng chư hầu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu thích tên quẻ, các câu sau lấy tượng quẻ, đức quẻ, và sự biến hóa của quẻ mà thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Hỏa tại địa thượng. Tấn, quân tử dĩ tự chiêu minh đức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lửa ở trên đất, là quẻ Tấn. đấng quân tử coi đó để tự làm tỏ đức sáng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Chiêu” là làm cho tỏ ra. Đấng quân tử coi tượng sáng ra trên đất mà càng sáng thịnh, để tự làm cho tỏ đức sáng của mình. Bỏ sự che lấp đi, đem sự biết lại, là tỏ đức sáng ở mình, làm rõ đức sáng với thiên hạ là tỏ đức sáng với bên ngoài. Làm rõ đức sáng ở mình, cho nên nói rằng “tự tỏ”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - “Chiêu” là làm cho rõ ra.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Sơn Địa Bác
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Bác- Rất nghiêm trọng, không thể cứu vãn. Vận chìm nổi bất định, thời kỳ Hủy hoại khốn cùng, xung đột không ngừng, Lúc này mọi điều lộn xộn, chính tà lẫn lộn. rễ bị hiểu lầm, hãm hại. Người trí phải biết thời mà hành động, tốt nhất là ẩn nhẫn chờ đợi, tiến bất cứ hướng nào đều bất lợi. Chủ tiểu nhân rất thịnh, vạn vật tàn lụi, lên thuận theo > Từ bỏ là thông minh.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”. - Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện khó khăn, gian khổ, Cần ẩn nhẫn chịu đựng
● Hy vọng: hiện tại không hy vọng
● Tài lộc: chưa có, gặp việc hao tổn
● Sự nghiệp: không thành, nên dừng lại
● Nhậm chức: khó thành
● Nghề nghiệp: Không thành
● Tình yêu: không thuận, phía nam giới bị thiệt vì nữ giới
● Hôn nhân: trắc trở, không thành
● Đợi người: không tới
● Đi xa; không nên, nếu đi giữa đường gặp sự cố
● Pháp lý: bất lợi về mình
● Sự việc: khó khăn, vất vả
● Bệnh tật: bệnh nang, khó qua với người già
● Thi cử: chưa đạt
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: nguy hiểm đến bản thân, đề phòng

Quẻ Sơn Địa Bác - Cấn trên; Khôn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Bác, Tự quái nói rằng: Bí là trang sức. Cố công trang sức về sau mới hanh, thì hết, cho nên tiếp đến quẻ Bác [1-Chữ 利(Bác), có nghĩa là gọt, có nghĩa là lột]. Ôi, vật đến văn sức, là hanh cùng cực, cùng cực thì ắt trở lại, cho nên Bí hết đến Bác. Trong quẻ năm hào Âm mà một hào Dương, Âm bắt đầu sinh tự dưới, dần dần đến thịnh cực. Mọi khí Âm tiêu gọt khí Dương, cho nên là Bác. Lấy hai tượng mà nói, thì là núi [2-Chỉ về quẻ Cấn] phụ ở đất [3-Chỉ về quẻ Khôn]. Núi cao hơn đất mà lại bám dính vào đất, đó là cái tương đồi bác.
LỜI KINH
Dịch âm. - Bác bất lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ bác không lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ bác là lúc các khí Âm lớn thịnh, tiêu gọt khí Dương, cũng tức là lúc những kẻ tiểu nhân gọt đẽo quân tử, cho nên đấng quân tử không lợi có thửa đi, chỉ nên nhún lời nói, giấu tung tích, tùy thời nghe ngóng, cho khỏi bị kẻ tiểu nhân làm hại.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bác nghĩa là rụng. Năm hào Âm ở dưới mà đương sinh, một hào Dương ở trên mà sắp hết, Âm thịnh lớn mà Dương tiêu rụng, đó là quẻ về tháng chín, Âm thịnh Dương suy, tiểu nhân mạnh mà quân tử mệt; lại trong Khôn ngoài Cấn, có tượng thuận mà đậu, cho nên kẻ xem mà gặp quẻ này thì không thể có sự đi đâu.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Bác, bác dã, nhu biến cương dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Bác là gọt vậy, mềm biến cứng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây dùng thể quẻ để thích nghĩa tên quẻ. Ý nói chất mềm tiến lên phần Dương, biến cứng ra mềm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Bất lợi hữu du vãng, tiểu nhân trưởng dã.
Dịch nghĩa. – Chẳng lợi có thửa đi, vì kẻ tiểu nhân đương thịnh vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Bác là gọt”. Ý nói “bác là gọt rụng”; “mềm biến cứng” nghĩa là chất mềm lớn lên mà chất cứng phải biến đổi. Ngày Hạ chí, một khí Âm bắt đầu sinh ra rồi lớn dần dần; một khí Âm lớn lên, thì một khí Dương tiêu đi, đến tháng Kiến tuất (tháng chín) thì nó cùng cực mà thành ra Bác, đó là Âm nhu biến đổi Dương cương, đạo kẻ tiểu nhân đương thịnh mà tiêu gọt phần Dương, cho nên đấng quân tử không có lợi thửa đi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thuận nhi chỉ chi, quan tượng dã; quân tử thượng tiêu tức doanh hư, thiên hành dã.
Dịch nghĩa. - Thuận mà đỗ đấy, xem tượng vậy, đấng quân tử chuộng sự nghe ngóng đầy vơi, vận trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đấng quân từ gặp phải thời bác,biết là không thể có thửa đi, thuận thời mà dừng,mới là biết xem Tượng của quẻ Bác. Trong quẻ có Tượng “thuận đỗ” [4-Thuận là quẻ Khôn, đỗ là quẻ Cấn], tức là đạo ở thời bác. Đấng quân tử nên phải xem đó mà thể theo. “Đấng quân tử chuộng sự nghe ngóng đầy vơi, vận trời vậy”, nghĩa là quân tử để bụng về sự tiêu tức doanh hư mà biết thuận theo, mới hợp cuộc vận hành của trời. Lẽ có khi tiêu suy, có khi sinh lớn, có khi đầy thịnh, có khi hư hao, thuận nó thì tốt, nghịch nó thì hung, đấng quân tử tùy thời giốc chuộng là để thờ trời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây đùng thể quẻ, đức quẻ, để thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn phụ ư địa, Bác, quân tử dĩ hậu hạ an trạch.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Núi phụ ở đất, là quẻ Bác, người trên coi đó mà hậu cho kẻ dưới, làm yên chỗ ở.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Cấn chồng lên quẻ Khôn tức là núi phụ ở đất.
Núi cao hơn đất mà lại đính bám vào đất, ấy là tượng quẻ Bác. Người trên, chỉ về ông vua và kẻ ở trên người ta, coi tượng quẻ Bác mà dầy bền cho kẻ dưới, để yên chỗ ở của họ. Dưới là gốc của trên, chưa có khi nào nền gốc đầy bền mà sụt lở được. Cho nên sụt phải từ dưới trước, dưới sụt thì trên nguy. Kẻ làm bề trên người ta biết lý như thế, thì nên yên nuôi nhân dân, để cho dầy cối gốc của mình, đó là để yên cái chỗ ở của mình vậy.

Xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Phong Địa Quán-Phục Ngâm
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Quán-Cát nhiều hơn hung, cần nhìn xa trông rộng, suy cho kỹ, quan sát toàn cục, chờ thời cơ đến. Lãnh đạo cần thu phục được lòng người thuận theo. quẻ này đòi hỏi cần có sự chí thành chứ không phải là lễ nghi và các thủ tục khác thì làm mọi việc đều tốt. Nếu lúng túng, bảo thủ quá sẽ thất bại.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang ở giai đoạn đầy biến động, có thể tốt mà cũng có thể xấu, tuỳ theo tính của bản thân mình.
● Hy vọng: có thể thành tựu nhưng trải qua nhiều rắc rối
● Tài lộc: có tài lộc song chờ thời gian
● Sự nghiệp: trải qua gian khổ mới thành công
● Nhậm chức: chưa thuận lợi, không nôn nóng
● Nghề nghiệp: tránh phải chuyển nghề
● Tình yêu: đôi bên chưa quyết định dứt khoát
● Hôn nhân: nên suy nghĩ kỹ trước khi kết hợp
● Đợi người: khó biết đến hay không
● Đi xa: nên thay đổi thời gian Pháp lý: dây dưa, nên sớm hoà giải Sự việc: giải quyết sớm chừng nào hay chừng ấy Bệnh tật: biết động đất thường khi tốt, khi xấu Thi cử: khó xác định Mất của: giao việc cho người khác Người ra đi: đi xa
HÀO TỪ:
● H1: phải nhìn vào bản chất của vấn đề, không nên chỉ qua hiện tượng bề ngoài mà tin ngay, mà thực hiện ngay. Đáng nói: đang thiếu thông tin về đối tượng cần quan tâm. Động: công việc hiện đang khó khăn, nhưng cũng đi đến kết quả theo ý định. Không nên do dự, cứ tiến hành theo mục tiêu đề ra.
● H2: khi giải quyết vấn đề cần nhìn xa trông rộng lớn hơn nữa, phải thận trọng xem xét nhiều vấn đề khác liên quan, không xét trong phạm vi hẹp. Nếu không sẽ mắc sai lầm. Động: nếu khiên cưỡng tiến hành công việc thì chỉ nhọc công vô ích. Mọi việc thành bại đều do ý mình định đoạt.
● Hào 3: âm: khi thực hiện công việc phải có lòng tự chủ, độc lập suy nghĩ, không nên nghe ngóng bên ngoài thì mới không mắc sai lầm mà việc mới thành. Động: trước thuận lợi sau khó khăn. Càng bôn ba, vùng vẫy càng sa lầy vào khó khăn. Hãy tạm hài lòng với cái gì đã có.
● Hào 4: âm: tận dụng sự tín nhiệm của cấp trên là địa vị hiện có của bản thân mà hành động lợi mình, lợi người. Động: hiện đang có người chính trực giúp đỡ và tin cậy, do vậy hãy giữ mối quan hệ này mà tiến hành công việc. Việc chậm chạp nhưng chắc thành. Mọi việc đạt ý nguyện.
● Hào 5: dương: hành động của mình chính trực, hợp lẽ, cứ thế mà tiến hành, không sai lầm. Động: lúc đầu khó khăn, xấu, nhưng cuối cùng lại tốt. Hiện có người ngáng trở, mọi việc khó khăn, song vững tâm mà hành động sẽ đạt kết quả.
● Hào 6: dương: hiện hành động của bản thân hợp với đạo chính trực nên không phạm sai lầm. Cũng cần xem xét lại quá khứ của bản thân để rút ra bài học trong tương lai. Động: đang vào hoàn cảnh khó khăn, bế tắc, nhưng cứ hành động, cuối cùng thuận lợi. Nếu kinh doanh, nên trữ vốn, có lúc thắng lớn.
+ Theo Kinh Dịch word (Tr301):
Quẻ: Phong Địa Quán - Tốn trên; Khôn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Quán, Tự quái nói rằng: Lâm tức là lớn, các vật có lớn rồi mới đáng xem, cho nên tiếp đến quả Quán [1-Chữ 觀 có âm là quan, nghĩa là xem, lại có âm là quán, nghĩa là bị xem]. Vì vậy quẻ Quán mới nối quẻ Lâm. Trông xem các vật là quan, làm cái xem cho kẻ dưới là quán [2-Chữ 觀 có âm là quan, nghĩa là xem, lại có âm là quán, nghĩa là bị xem]. Ông vua trên xem đạo trời, dưới xem tục dân là quan, sửa đức làm chính, bị dân ngửa xem là quán. Gió đi trên đất; đụng khắp muôn loài, là Tượng “khắp xem”; hai hào Dương ở trên, bốn hào Âm ở dưới, Dương cương ở đầu, bị mọi kẻ dưới thửa xem ngửa, đó là nghĩa quan. Ở trong các hào, chỉ lấy cái nghĩa xem thấy, đó lả tùy thời dùng nghĩa vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quan, quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược.
Dịch nghĩa. - Quẻ quan, rửa mà không cứng, có tin, dường cung kính vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ta nghe Hồ Dực Chi tiên sinh nói rằng: “Đấng quân tử ở trên, làm nêu cho thiên hạ, nghĩa là phải cực kỳ trang kính, thì kẻ dưới ngửa xem mà hóa. Cho nên làm người để thiên hạ xem, phải như cuộc tế tôn miếu, trong khi mới rửa, không thể như sau khi đã cúng, thì kẻ hạ dân hết lòng chí thành cung kính mà ngửa xem mình”. Rửa là lúc bắt đầu tế tự, rửa tay rót rượu cự xưởng xuống đất để cầu thần; cúng là lúc dâng đồ tươi, dâng đồ chín. Rửa tay là khi việc mới bắt đầu, người ta đương hết lòng tinh thành, nghiêm trang tột bậc. Sau khi đã cúng, lễ số phiền phức rắc rối, thì lòng người tản mác mà sự tinh nhất không bằng lúc mới rửa tay. Kẻ ở trên, làm cho biểu ghi ngay thẳng, để kẻ hạ dân xem lên, thì nên trang kính như khi tế mới rửa tay, chớ để thành ý hơi tan, như lúc tế đã cúng rồi, thì người thiên hạ, ai cũng hết lòng tin thật, ngửa lên xem mình. Ngung là ngửa lên mà trông.
Bản nghĩa của Chu Hy. - 觀 (Quán) là lấy sự trung chính bảo người, bị người ngửa lên mà trông. Hào Chín Năm ở trên, bốn hào Âm ngửa lên trông nó;
lại, trong thuận người nhún, mà hào Chín Năm lấy sự trung chính bảo thiên hạ, cho nên là quan 盥 (quan) là khi sắp tế rửa tay cho sạch; 薦 (tiến) là bưng rượu, đồ ăn để tế 顒 然 (ngung nhiên) là vẻ tôn kính: ý nói hết lòng tinh khiết mà không khinh thường tự dụng, thì sự phu tín ở trong, ra vẻ trang kính đáng xem. Răn kẻ xem phải nên như thế. Hoặc có người nói: # (hữu phu ngưng nhược), nghĩa là người dưới tin mà ngửa lên xem mình. Quẻ này bốn hào Âm dương lớn là hai hào Dương phải tiêu chính là quẻ tháng tám, mà về sự đặt tên quẻ, lời Hệ lại lấy nghĩa khác, cũng là ý phò Dương nén Âm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Đại quan tại thượng, thuận nhi tốn, trung chính dĩ quan thiên hạ.
Dịch nghĩa - Lời Thoán nói rằng: Xem lớn ở trên, thuận mà nhún, trung chính để thiên hạ xem.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hào Năm ở ngôi tôn, lấy đức Dương cương trung chính, làm cho kẻ dưới xem lên, đức ấy rất lớn, cho nên nói là “xem lớn ở trên”. Dưới khôn mà trên Tốn, ấy là biết thuận mà nhún. Đó là hào Năm ở chỗ trung chính, lấy đức trung chính nhún thuận làm cái xem cho thiên hạ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể quẻ, đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quan, quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược, hạ quan nhi hóa dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ quán, rửa mà không cúng, có tin, dường cung kính vậy, ấy là kẻ dưới xem mà hóa vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cách làm cái xem cho thiên hạ, phải nghiêm kính như khi cuộc tế mới rửa tay, thì kẻ hạ dân thành thật ngửa xem, theo mình mà hóa. Không cúng nghĩa là không để thành ý hơi tan.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quan thiên chỉ thần đạo nhi tứ thì bất thắc: thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo, nhi thiên hạ phục hỹ.
Dịch nghĩa. - Xem thần đạo của trời mà bốn mùa không sai; đấng thánh nhân dùng thần đạo đặt sự dạy bảo mà thiên hạ phục vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đạo trời rất thiêng, cho nên gọi là thần đạo. Xem sự vận hành của trời, bốn mùa không hề sai lỗi, thì thấy được sự thần diệu của trời. Đấng thánh nhân thấy đạo trời thiêng liêng, thể theo cái thần đạo đó mà đặt ra sự dạy bảo, cho nên thiên hạ không ai không phục.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cực sự xem. Bốn mùa không sai, đó là trời làm cái xem; dùng đạo thần đặt sự dạy bảo, đó là đáng thánh nhân làm cái xem.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Phong hành địa thượng, quán, tiên vương dĩ tỉnh phương, quan dân, thiết giáo.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Gió đi trên đất là quẻ Quán, đấng tiên vương coi đó mà xét các phương, xem tục dân, đặt sự dạy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Gió đi trên đất, khắp tới mọi vật, là Tượng qua trải khắp xem, cho nên đấng Tiên vương thể theo Tượng đó, làm ra lễ xét các phương, để xem tục dân mà đặt chính giáo, Đấng thiên tử đi tuần bốn phương, coi xem tục dân, đặt làm chính giáo, ví như chỗ nào xa xỉ thì thắt lại bằng sự tằn tiện, chỗ nào tằn tiện thì bảo họ lấy đường lễ nghĩa. Xét các phương tức là xem dân, đặt sự dạy tức là làm cái xem cho dân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Xét các phương để xem dân, đặt sự dạy để làm cái xem.
+ Mời xem chi tiết đầy đủ: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thủy Phong Tỉnh
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tỉnh-Nỗ lực lâu dài, lượng sức mình, chờ vận chuyển tốt. cần biết giúp đỡ người khác thì mới tốt. Cần làm việc gì cũng phải cẩn thận đến nơi đến chốn, nếu không bị thất bại nửa chừng.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện tình trạng đình đốn, phải chờ thời.
● Hy vọng: sẽ có quý nhân phù trợ.
● Tài lộc: có, do tích lũy được.
● Sự nghiệp: nếu lấy sự tự lực hành động thì thành công.
● Nhậm chức: có người tiến cử thì thành.
● Nghề nghiệp: cần suy nghĩ kỹ trước khi đổi nghề.
● Tình yêu: thành hay không do tư cách bản thân mình.
● Hôn nhân: có thể thành.
● Đợi người: đến nhưng chờ lâu.
● Đi xa: bất lợi.
● Pháp lý: nên hòa giải, tranh chấp sẽ kéo dài rất lâu.
● Sự việc: đang dở dang, nôn nóng sẽ không thành.
● Bệnh tật: không nặng.
● Thi cử: đạt kết quả bình thường.
● Mất của: có thể tìm thấy.
● Người ra đi: mục đích không rõ ràng.
Quẻ: Thủy Phong Tỉnh - Khảm trên; Tốn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tỉnh, Tự quái nói rằng: Khốn ở phía trên, ắt phải trở lại phía dưới, cho nên tiếp đến quẻ Tỉnh [1-Chữ 井 (tỉnh) có nghĩa là giếng, có nghĩa là làng, lại có nghĩa là tề chỉnh rành rọt. Tiếp theo câu “lên mà chẳng thôi, ắt khốn” ở trên mà nói, ý bảo “lên trên không thôi mà khốn, thì ắt trở lại phía dưới”. Các vật ở dưới, không gì bằng giếng, vì vậy, quẻ Tỉnh mới nói quẻ Khốn. Nó là quẻ Khảm trên Tốn dưới, Khảm là nước, mà tượng của Tốn là cây, nghĩa của Tốn thì là vào. Cái Tượng đồ gỗ vào dưới nước mà lên khỏi nước, ấy là tượng múc nước giếng.
Lời bàn của Tiên Nho. - Từ Tiến Trai nói rằng: Lấy thẻ quẻ mà nói, thì hào Đầu mềm là mạch suối, hào Hai, hào Ba cứng là đá suối, hào Tư mềm là chỗ rỗng trong giếng, hào Năm cứng là nước suối đã kín sắp ra khỏi giếng, hào Trên lại là chỗ rỗng trong giếng, có tượng cả một cái giếng.
Lý Long Sơn nói rằng: Đời xưa dựng nên ấp nước, ắt phải tìm chỗ có suối [2-Ta gọi mạch nước], vì vậy mà ông Công Lưu [3-Ông tổ nhà Chu] mở kinh đô ở đất Mân, phải xem khí Âm Dương của đất ấy, xem nước suối của đất ấy, trước hết hãy bói xem suối giếng có tiện hay không, rồi sau mới ở. Lại rằng: Khảm là thứ nước do số một của trời sinh ra; hiện ở quẻ khác, nó đều hỏng vì trôi xuống, cho nên phần nhiều đều ví nó với chỗ hiểm; không mất tính trinh của nước, chỉ có quẻ Tỉnh mà thôi. Lấy nết quẻ mà xem, thì một hào Dương đầy đặc ở trong, hai hào Âm bao vây ở ngoài, cũng ví như khí Dương mới đem sức nóng về trong Âm lạnh, nước mùa Đông nhân đó mà thành ra ấm, ấy là chân tính của Khảm. Từng dùng sách đó mà xem nước ở gầm trời, trong mùa đông mà nước ấm, chỉ có nước giếng mà thôi, ấy là nó được mạch đất, không mất cái tính bản chân. Tới khi chảy ra sông chằm, gió mưa sương móc đẽo gọt, nó mất bản tính, không còn cái ấm áp của một khí Dương khi trước nữa. Lại xem trong đáy giếng, ở thân thể người ta thì là tinh huyết; nước trong sông ngòi ở thân thể người ta thì là nước mắt nước mũi. Tính huyết chứa đựng chắc chắn, tức là tính sinh động của nước giếng, mà nước mắt mũi đi rồi không lại, tức là cái hỏng của những dòng chảy xuống chỗ thấp.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tỉnh, cải ấp bất cải tỉnh, vô đắc vô táng, vãng lai tỉnh tỉnh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tỉnh, đổi làng chẳng đổi giếng, không mất không được, đi lại giếng giếng [4-Theo Trình Di và Trương Trung thì hai chữ “giếng giếng” chữ trên là động từ (verbe), chữ dưới là danh từ (nom). Giếng giếng là “giếng cái giếng” cũng như nói “cuốc cái cuốc” “cày cái cày” “quạt cái quạt” vậy].
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Giếng là một vật mà không thể đổi, làng có thể đổi đi chỗ khác, mà giếng thì không thể đổi, cho nên nói rằng: “Đổi làng không đổi giếng”. Giếng, múc nó chẳng hết, để nó chẳng đầy, tức là không mất được. Người nào đến đó cũng được dùng nó, tức là đi lại giếng giếng. Không mất không được là đức của giếng, đi lại giếng giếng là công dụng của giếng vậy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trương Trung Khê nói rằng: Đức của giếng là trời đất vậy, mà nó lấy sự chẳng đổi làm đức riêng. Thể dưới vốn là Kiền, thể trên vốn là Khốn, hào Đầu hào Năm cứng mềm đối nhau mà thành quẻ Tỉnh. Khôn là làng, đổi Khôn là Khảm là đổi làng. Nước Khảm là giếng, hào Năm lấy chất cứng ở ngôi giữa mà không thay đổi, thế là không đổi giếng. Làng ở nơi chốn của nó mà họp được, có thể dời đi tới giếng; giếng ở nơi chốn của nó mà có thường, không thể dời đi tới làng. Múc nó không hết cho nên không mất; không múc nó cũng không đầy, cho nên không được. Cứng đi ở ngôi Năm, mềm lại ở ngôi Đầu, kẻ đi được nước mà lên, kẻ lại tìm nước ở dưới, đi lại đều “giếng” [5-Nghĩa là múc nước giếng mà dùng] cái giếng của mình, không bị hại về đói khát, cho nên nói rằng “đi lại giếng giếng”.
LỜI KINH 
Dịch âm. - Hất chí, diệc vị quất tỉnh, luy kỳ bình hung.
Dịch nghĩa. - Hầu đến, cũng chưa dong trạc đến giếng, hỏng thửa lọ, hung.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Hất” là “hầu ’’quất” là dây chạc. Cái giếng lấy sự nên dùng làm công, hầu đến mà chưa kịp dùng thì cũng như cha buông chạc xuống giếng. Đạo đấng quân tử quý ở có nên, vì vậy mà ngũ cốc không chín, chẳng bằng cây đề bãi [6-Một thứ cỏ sàn ở phía Bắc nước Tàu, có hột như lúa, nhưng phần nhiều chỉ để nuôi gia súc]; đào giếng chín bậc mà chưa tới suối, cũng là giếng bỏ. Có công dụng giúp cho các vật chưa tới các vật, cũng như không có vậy. Làm hỏng cái lọ mà đánh mất đi, thì sự dùng của nó mất rồi, cho nên mới hung. “Luy” là hủy cho hỏng đi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Giếng là chỗ đào đất ra nước, lấy cây Tốn vào dưới nước Khảm mà đưa nước lên, cho nên là giếng. Đổi làng không đổi giếng, cho nên không mất không được, mà kẻ đi kẻ lại đều được “giếng” cái giếng đó. “Hất” là hầu “quất” là dây chạc “luy” là hỏng. Múc nước giếng, khi hầu tới, chưa hết dây chạc mà hỏng lọ thì hung. Lời Chiêm của nó, là, các việc cứ để như cũ thì không được gì, mất gì, lại nên kính cẩn cố gắng, chớ để hầu thành mà hỏng.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tốn hồ thủy nhi thượng thủy, tỉnh, tỉnh dưỡng nhi bất cùng dã, cải ấp bất cải tỉnh, nãi dĩ cương trung dã, hất chí, diệc vị quất tỉnh, vị hữu công dã, huy kỳ bình, thị dĩ hung dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Vào chưng nước mà đưa nước lên, là giếng, giếng là vật nuôi mà không cùng vậy, đổi làng chẳng đổi giếng, bèn vì cứng giữa vậy, hầu tới, cũng chưa dong chạc đến giếng, chưa có công vậy, hỏng thửa lọ, cho nên hung vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nhún vào trong nước mà đưa nước lên là giếng. Giếng nuôi các vật không hề cùng thôi, lấy mãi mà không hết ấy là đức nó có thường độ, làng có thể đổi, giếng không thể dời, cũng là thường độ của đức giếng đó. Đức cứng giữa của hai hào Hai, Năm có thường độ đến thế, do ở tài quẻ hợp với nghĩa vậy. Dẫu cho hầu đến, nếu chưa được dùng, thì cũng giống như chưa dòng dây chạc đến giếng, là vì giếng phải lấy sự nên dùng làm công, nước ra mới là có dùng, chưa ra thì còn công gì? Lọ là cái để đun nước lên mà dùng hư hỏng cái lọ, tức là không được việc gì, vì vậy mới hung.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn trên dùng Tượng quẻ thích nghĩa tên quẻ, đoạn dưới dùng thể quẻ thích lời quẻ. Hai câu “không mất không được, đi lại giếng giếng” với câu “không đổi giếng” cùng ý, cho nên không nhắc lại nữa.
Cứng giữa chỉ về hai hào Hai, Năm, chưa có công mà hỏng mất lọ, cho nên là hung.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Mộc thượng hữu thủy, Tỉnh, quân tử dĩ lạo dân khuyến tưởng.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Trên cây có nước là quẻ Tỉnh, đấng quân tử coi đó mà yên ủi dân, khuyến khích sự giúp đỡ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cây hứng nước mà lên, là Tượng cái đồ máu mắt đầm múc nước ra khỏi giếng. Đấng quân tử coi tượng giếng, bắt chước đức giếng, để yên ủi dân mình mà khuyến miễn họ về cách giúp nhau. Yên ủi dân mình là bắt chước sự dùng của cái giếng, khuyên dân khiến họ giúp nhau là bắt chước sự ra ơn của cái giếng vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trên cây có nước thấm nhuần đi lên là Tượng cái giếng, Yên ủi dân là để trị nuôi dân, khuyến khích sự giúp đỡ là để dân nuôi nhau, đều lấy về nghĩa “cái giếng nuôi người”.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: “Trên cây có nước là quẻ Tỉnh” câu đó, những người chú giải cho là đồ múc nước, thì ở trên có lọ, lọ là đồ sành (không phải đồ gỗ), chỗ đó không thể hiểu. E đó chỉ nói tính nước nhuần thấm đi lên, đến tận ngọn cây, ấy là Tượng nước giếng đi lên… Trong loài cây cỏ, tân dịch đều đi lên, thẳng đến ngọn cây, đó là nghĩa trên cây có nước.
Có người hỏi rằng: “Câu đó, Trình Tử cho là cái thùng múc nước ở giếng”, có phải hay không? Đáp rằng: Không phải. “Trên cây có nước” tức là cây dùi trong nước, đưa nước ấy lên, nếu cho là cái thùng múc nước, thì giải không thông và lại không hợp với câu “hỏng thưa lọ” nữa.

+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY

Tổng quan: Thiên Địa Bĩ-LH-
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Đình trệ, nên chờ đợi "Không cát lợi trong 64 quẻ, như đêm đen trước bình minh", âm dương đảo lộn: Vận đình trệ, bế tắc, tràn đầy bất hòa. Cần tu dưỡng, làm phong phú bản thân, chờ thời. Vì cái lớn đã đi, cái nhỏ đến, không hợp với đạo người, người tốt bên mình thì ít, người xấu với mình nhiều. Đang tiến hành việc gì đó nên dừng lại. Không màng đến dang lợi dù nhỏ, nên tránh và ẩn đi sẽ tốt.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: mọi việc không thuận lợi, nghịch cả nếu nỗ lực phấn đấu sẽ vượt qua.
● Hy vọng: khó thành vì viển vông
● Tài lộc: Không có
● Sự nghiệp: Khó thành vì sai phương pháp và khó gặp thời
● Nhậm chức: hiện chưa có
● Nghề nghiệp: Không chuyển nghề thì có lợi
● Tình yêu: sắp chia tay
● Hôn nhân: khó thành lương duyên
● Đợi người: không đến
● Đi xa: không nên, vô ích
● Pháp lý: thua kiện
● Sự việc: khó bề dự liệu
● Bệnh tật: khá nguy kịch
● Thi cử: không đạt
● Mất của: bị bán rẻ cho người khác
● Người ra đi: có đi không về
Quẻ Thiên Địa Bĩ - Kiền trên; Khôn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Bĩ, Tự quái nói rằng: Thái tức là thông, các vật không thể thông mãi, cho nên tiếp đến quẻ Bĩ. Ôi vật lý đi lại, hanh thái đã cực thì ắt phải bĩ, vì vậy quẻ Bĩ nối quẻ Thái.Nó là quẻ trời trên đất dưới, trời đất giao nhau. Âm dương hòa hợp là thái; trời ở trên, đất ở dưới, thì là trời đất cách tuyệt, không giao thông với nhau, cho nên là bĩ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Bĩ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
Dịch nghĩa. - Bỉ đây (?) chạng phải người. Chẳng lợi cho sự chính bền của đấng quân tử, lớn đi nhỏ lại.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trời đất giao nhau mà muôn vật sinh ở bên trong, rồi sau mới đủ ba Tài. Người là bậc rất thiêng, cho nên làm đầu muôn vật. Phàm những cái sống trong trời đất đều là đạo người. Trời đất không giao nhau, thì không sinh ra muôn vật, ấy là không có đạo người, cho nên nó là “phỉ nhân”, nghĩa là không phải đạo người. Tiêu đi, lớn lên, đóng lại, mở ra, những sự đó theo nhau không dừng. Thái cực thì trở lại, bĩ hết thì nghiêng đi, cái lẽ không thể thường mãi không thay đổi, đạo người há lại không có? Đã bĩ thì thái rồi. Trên dưới giao thông, cứng mềm hòa hợp, đó là đạo đấng quân tử. Cuộc bĩ thì trái hẳn thế, cho nên không lợi cho người quân tử. Trinh tức
là chính đạo của đấng quân tử, bị bĩ tắc mà không thực hành được, lớn đi nhỏ lại, tức là Dương đi mà Âm lại. Đó là Tượng “đạo kẻ tiểu nhân lớn lên, đạo người quân tử tiêu đi”, cho nên là bĩ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bĩ là bế tắc, tức là quẻ tháng bảy, trái nhau với què thái, cho nên nói là “phỉ nhân”, nghĩa là không phải đạo người. Lời Chiêm của nó không lợi về chính đạo của quân tử. Bởi vì Kiền đi ở ngoài, Khôn lại ở trong, nó lại do ở quẻ Tiệm mà lại, thì hào Chín ở vào ngôi Tư, hào Sáu ở vào ngôi Ba. Có người ngờ ba chữ 之 匪 ⼈ “chi phỉ nhân” là thừa, nó ở hào Sáu ba quẻ Ty làm ra.Tượng truyện không giải riêng về nghĩa của nó, coi đó cũng đủ thấy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai, tắc thị thiên địa bất giao nhi vạn vật bất thông dã; thượng hạ bất giao nhi thiên hạ vô bang dã, nội Âm nhi ngoại Dương, nội nhu nhi ngoại cương, nội tiểu nhân nhi ngoại quân tử, tiểu nhân đạo trưởng: quân tử đạo tiêu dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Bĩ đấy? Chẳng phải đạo người, chẳng lợi cho sự chính bền của đấng quân tử, lớn đi nhỏ lại, thì là trời đất thông giao nhau mà muôn vật không thông vậy; trên dưới không giao nhau mà thiên hạ không có nước vậy; trong Âm mà ngoài Dương, trong mềm mà ngoài cứng, trong kẻ tiểu nhân mà ngoài đấng quân tử, ấy là đạo kẻ tiểu nhân lớn lên, đạo đấng quân tử tiêu đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Khí của trời đất không giao nhau, thì muôn vật không có lẽ sinh thành; nghĩa của kẻ trên người dưới không giao nhau thì thiên hạ không có đạo bang quốc. Dựng lên bang quốc để làm việc chính trị, người trên thi hành chính sự để trị dân, dân nương đội vua mà theo mệnh lệnh, trên dưới giao nhau là để tìm việc chính trị. Nay trên dưới không giao nhau, ấy là thiên hạ không có đạo bang quốc; Âm mềm ở trong, Dương cương ở ngoài đấng quân tử đi mà ở phía ngoài, kẻ tiểu nhân lại ở phía trong, đó là lúc đạo kẻ tiểu nhân lớn lên.đao đấngquân tử tiêu đi.
LỜI KINH
Dịch âm.-Tượng viết: Tiên địa bất giao, Bĩ, quan tử dĩ kiệm đức ty nạn, bất khả vinh dĩ lộc.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trời đất không giao nhau là quẻ Bĩ, đấng quân tử coi đó để dè đức, lánh nạn, không thể vẻ vang bằng lộc.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trời đất không giao thông với nhau, cho nên là Bĩ. Trong lúc bĩ tắc, đạo đấng quân tử phải tiêu, nên coi tượng bĩ tắc đó mà dè dặt về đức, lánh tránh vạ nạn, không thể vẻ vang ở chỗ lộc vị. Bĩ là lúc tiểu nhân đắc chí, đấng quân tử ở hiển vinh, vạ lo ắt tới thân mình, cho nên cần nên ẩn lánh vào nơi bần cùng chật hẹp.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thu liễm đức mình, không cho hình hiện để tránh cái nạn tiểu nhân, không được cho lộc vị là vẻ vang.

Xem chi tiết tại: TẠI ĐÂY

 Quẻ: Kiền trên - Kiền dưới. Càn Vi Thiên - Thuần Càn-LX
+ Nguyên Quẻ không có Hào động: "Nguyên hanh lợi trinh". Nghĩa Kiền: Đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền.
Nguyên là khởi đầu của sinh vật, đức của trời đất, không có cái gì trước nó, ở bốn mùa là Xuân, ở người ta là nhân mà là trùm trường của các điều thiện.
Hanh là sự thông đạt của các sinh vật, các vật tới đó, vật nào cũng tốt, cho nên về bốn mùa là Hạ, ở người ta là lễ, mà là cuộc tụ hội của các điều hay.
Lợi là sự thỏa thuê của các sinh vật, vật nào được cái sở nghi của vật ấy, cho nên ở bốn mùa là Thu, ở người ta là nghĩa mà được sự hòa hợp của từng phần.
Trinh là sự thành công của sinh vật, thực lý đầy đặn, đâu đó đều đủ cho nên ở bốn mùa là Đông, ở người ta là trí, và là gốc của các sự việc; gốc là thân của loài cây, cành lá đều tựa vào đó mà đứng. (Kinh Dịch, Tr20)
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Danh lợi song toàn, tránh tự cao tự đại: Vận đang vượng. Càn chủ vận động không ngừng nghỉ. Cơ hội tuyệt vời, rất cát lợi, đã có điều kiện cho sự thành công, nếu có mục tiêu thì hãy hành động. Nếu cương cứng kiêu ngạo thì thất bại sẽ cận kề.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: Trước mắt thì tốt, nóng vội sẽ thất bại, hãy chờ thời cơ.
● Hy vọng: có thể như ý.
● Tài lộc: nỗ lực mới có, phải dựa vào người khác.
● Sự nghiệp: Hiện tại khó khăn, tương lai thành công.
● Nhậm chức: chưa được.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề phải chờ thời cơ.
● Tình yêu: Nam có duyên phận, nữ thì không.
● Hôn nhân: giữa chừng không thành, nữ thì tốt.
● Đợi người: đến muốn.
● Đi xa: chờ cơ hội khác.
● Sự việc: hợp chính nghĩa thì không bị ngăn trở.
● Bệnh tật: ốm nặng.
● Thi cử: đạt kết quả.
● Mất của: khó tìm.
● Người đi xa: sẽ tới phương xa.
HÀO TỪ:
Xem thêm chi tiết: Càn Vi Thiên

Tổng quan: Thiên Phong Cấu
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Cấu- Hợp tan do duyên, gặp gỡ ngắn ngủi, không bền, kịp thời tỉnh ngộ, ngăn chặn mỹ sắc tiểu nhân. xung quanh có nhiều việc liên quan đến bản thân, cần tỉnh táo mà quan hệ, mà lựa chọn. Song người xấu với mình thì nhiều, người tốt ít.
- Càn vi Thiên: Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Tốn vi Phong: Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đề phòng gặp tai nạn bất ngờ. Khó giải quyết vấn đề với người khác giới.
● Hy vọng: không thể thực hiện được.
● Tài lộc: chưa có.
● Sự nghiệp: không thành vì quan hệ.
● Nhậm chức: chưa đem lại ngay kết quả.
● Nghề nghiệp: chưa phải lúc chuyển nghề.
● Tình yêu: chưa rõ ràng, chưa biết ai chọn ai.
● Hôn nhân: có thể thành, nhưng không tốt đẹp.
● Đợi người: sẽ đến.
● Đi xa: chuyến đi bị thay đổi, mục đích.
● Pháp lý: nếu tranh chấp, bất lợi.
● Sự việc: bình thường. Nếu có sự sẽ giải quyết xong, nhưng tốn thời gian.
● Bệnh tật: không nặng, nhưng có biến chứng.
● Thi cử: bình thường.
● Mất của: khó tìm, liên quan đến Nữ.
● Người ra đi: do người rủ mà đi.
+ Theo Kinh Dịch word (Tr632):
Quẻ: Thiên Phong Cấu - Càn trên; Tốn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Cấu, Tự Quái nói rằng: Quải nghĩa là quyết, quyết ắt có gặp, cho nên tiếp đến quẻ Cấu. Cấu là gặp, quyết là ghẽ ra [1-Chia ra, tách ra, phân biệt]. Các vật quyết ghẽ thì có gặp hợp, cái gốc hợp nhau, thì có thể gặp nhau, vì vậy quẻ Cấu mới nối quẻ Quải. Nó là quẻ Kiền trên, Tốn dưới, lấy hai thể mà nói, thì là gió đi dưới trời, dưới trời tức là muôn vật, gió đi, không đâu mà trả đụng, tức là Tượng “gặp”. Lại, một hào Âm mới sinh ở dưới tức là Âm với Dương gặp nhau, cho nên là Cấu.
Lời bàn của liên Nho. - Phùng Hậu Trai nói rằng: Trong Kinh Dịch, cổ, chữ 垢 (cấu) viết làm chữ 遘 (cấu), nghĩa là gặp, cũng là dâu gia, lây sự con gái gặp con trai làm Tượng. Bản Kinh Dịch của Vương Thù mới đổi ra chữ ngày nay [2-Tức là chữ 垢 (cấu)], ở Tạp quái còn là chữ đời cổ [3-Tức là chữ 遘 (cấu)], bản Kinh Dịch của Trịch Huyền cũng vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cấu, nữ tráng, vật dụng thú nữ.
Dịch nghĩa. - Quẻ Cấu, con gái mạnh, chớ dùng lấy con gái.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Một khi Âm mới sinh, từ đó mà lớn dần dần, rồi đến thịnh lớn, đó là con gái sắp sửa lớn mạnh, Âm lớn thì Dương tiêu, con gái mạnh thì con trai yếu, cho nên nói rằng: “Chớ lấy hạng con gái như thể”. Lấy vợ muốn được những người mềm mỏng, thuận theo, để làm cho nên đạo nhà. Quẻ Cấu là khí Âm tiến, dần dần mạnh lên mà địch nhau với khí Dương, cho nên không thể lấy. Con gái mạnh dần thì mất sự chính đính trong đạo trai gái, thế là đạo nhà hỏng rồi. Quẻ Cấu tuy một hào Âm rất nhỏ, nhưng nó có cơ lớn dần, vì vậy phải răn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cấu nghĩa là gặp, quyết hết thì là quẻ thuần Kiền, tức là quẻ về tháng Tư, đến quẻ Cấu, rồi một khí Âm có thể hiện được, mới quẻ tháng Năm. Vì nó vốn không phải cái là mong đợi, thình lình gặp nó, như kẻ chẳng hẹn mà gặp, cho nên là gặp, sự gặp, như thế đã bất chính rổi. Lại một hào Âm mà gặp đến năm hào Dương, thì là đức của con gái không trinh mà lại mạnh lắm. Lấy người ấy để sánh với mình, ắt là làm hại đến khí Dương, cho nên Tượng, Chiêm của nó như thế.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Cấu ngộ dã nhu ngộ cương dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Cấu là gặp vậy, mềm gặp cứng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nghĩa Cấu là gặp. Quẻ này mà là quẻ Cấu vì chất mềm gặp chất cứng, một Âm mới sinh, bắt đầu gặp Dương.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm.- Vật dụng thú nữ, bất khả dữ trường dã.
Dịch nghĩa. - Chớ dùng lấy con gái, chẳng khá cùng dài lâu vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Một Âm đã sinh, dần dần lớn thịnh, Âm thịnh thì Dương phải suy, lấy con gái muốn ở với nhau dài lâu, để thành cửa nhà, khí Âm dương thịnh dần đó, sẽ làm tiêu mất khí Dương, không thể cùng nó ăn ở lâu dài, cho nên nói rằng: Chớ lấy những người con gái như thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa tương ngộ, phẩm vật hàm chương dã.
Dịch nghĩa. - Trời đất gặp nhau, các phẩm các vật đều rõ vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Cấu, Âm mới sinh ở dưới, gặp nhau với Dương, tức là trời đất gặp nhau. Trời đất không gặp nhau, thì muôn vật không thể sinh ra; trời đất gặp nhau thì sẽ hóa nuôi mọi loài. Các phẩm các vật đều rõ, tức là muôn vệt rõ rệt vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ mà nói.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cương ngộ trung chính, thiên hạ đại hành dã.
Dịch nghĩa. - Cứng gặp giữa chính thiên hạ cả thi hành vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lấy tài quẻ mà nói, hào Năm và hào Hai đều lấy chất Dương cứng ở vào ngôi giữa và chính, đó là lấy sự giữa chính gặp nhau. Ông vua được người bề tôi cứng giữa, bề tôi gặp ông vua giữa chính, vua tôi lấy chất Dương cứng gặp kẻ giữa chính thì đạo của họ có thể cả được thi hành ở thiên hạ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây chỉ về hào Chín Năm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cấu chi thì nghĩa đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Thì nghĩa của quẻ Cấu vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Khen thì quẻ Cấu và nghĩa quẻ Cấu rất lớn. Trời đất không gặp nhau thì muôn vật không sinh, vua tôi không gặp nhau, thì chính trị không dấy lên, thánh hiền không gặp nhau thì đạo đức không hanh thịnh, sự vật không gặp nhau thì công dụng không thành. Thì và nghĩa quẻ Cấu đểu rất lớn cả.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thiện hạ hữu phong, Cấu, hậu dĩ thi mệnh cáo tứ phương.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới trời có gió, là quẻ Cấu vui coi đó mà ra mệnh bảo bốn phương.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Gió đi dưới trời, không đâu không khắp, kẻ làm vua chúa coi tượng quay khắp đó để thi hành mệnh lệnh, bảo khắp bốn phương. Giá đó trên đất, với dưới trời có gió, đều là Tượng “quanh khắp mọi vật” mà đi ở trên đất, khắp đụng muôn vật thì là quẻ Quán, đó là Tượng, từng trải xem xét vậy, “đi ở dưới trời quanh khắp bốn phương” thì là quẻ Cấu, đó là Tượng thi hành mệnh lệnh vậy. Các Tượng, hoặc nói “đấng tiên vương”, hoặc nói “vua”, hoặc nói “đấng quân tử”, bậc “người lớn”, nói “đấng tiên vương” như “đấng tiên vương” dùng để lập phép, dựng nước, dấy nhạc, xét các phương, truyền pháp, đóng ải, nuôi các vật, cúng trời, nói “vua” là việc vua cháa thửa làm, như “sử nên đạo trời đất” “ra mệnh bốn phương”, “quân tử” là tiếng gọi chung người trên người dưới, “người lớn” thì tiếng gọi tước vương công.

+ Xem thêm chi tiết : xem tại đây 

Biểu Tượng Hình Xung ...

Thần Sát trong Tứ trụ: Lấy Hỷ Dụng thần ngũ hành là trung tâm, theo đó Cát thần hay Hung thần tùy theo hỷ dụng mà dự đoán xu hướng tăng cát hay giảm hung của Thần sát

Mười Thần

Mệnh Tứ Trụ

I- Quẻ kép: Đoài Vi Trạch – Xung

H6

P.Mẫu

Mùi

0

T

Cột chính, nóc; Tường vách/ Trời; Tổ tiên; Về hưu/ Quốc Hội

H5

H. Đệ

Dậu

1

 

Đường đi; Người/ Vua; Cha/ Chính phủ

H4

T.Tôn

Hợi

1

 

Cửa; Phòng chính; Cổng ngõ/ Thần; Mẹ/ Bộ; Tỉnh, T.Phố

H3

P.Mẫu

Sửu

0

Ư

Cửa; Giường/ Huynh đệ/ Quận/ Huyện

H2

T.Tài

Mão

1

 

Gian ở chính; Bếp/ Vợ/ Xã Phường

H1

Q.Quỷ

Tỵ

1

 

Nền nhà; Giếng nước/ Con, Giúp việc/ Nhân Dân

II- Chữ số Tiên thiên/ Hậu thiên 

Càn 1/ 6 | Khảm 6/ 1 | Cấn 7/ 8 | Chấn 4/ 3 | Đoài 2/ 7 | Khôn 8/ 2 | Ly 3/ 9 | Tốn 5/ 4

III- Quẻ đơn: Quẻ hay Cung Đoài

Khẩu quyết

ĐOÀI

Ngũ hành

Kim

Tượng trưng

Ao đầm

Thời tiết

Mưa, lầy, ao, trăng non

Địa lý

Phương tây. Ao đầm. Chỗ nước nhiều. Chỗ trũng. Chỗ giếng cũ, hào rãnh.

Nhân vật

Thiếu nũ, tì thiếp, ca kỹ nữ, thầy bói.

Nhân sự

Vui mừng; Miệng lưỡi; dèm pha; nói phỉ báng người khác; ăn uống.

Thân thể

Lưỡi, miệng, phổi, đờm dãi.

Thời gian

Tháng 8 mùa thu; năm tháng ngày giờ ngũ kim; tháng ngày 2, 4, 9.

Động vật

Dê, các con vật trong đầm lầy.

Tính vật

Nhẫn vàng, vật bằng vàng, nhạc khí, vật phế thải.

Nhà cửa

Nhà gần ao đầm, nhà tường vách đổ nát, nhà rách nát, nhà hướng tây.

Gia trạch

Không yên ổn, đề phòng cãi nhau, được nhà vào mùa thu thì vui mừng, mùa hạ dễ có tai vạ.

Hôn nhân

Không lợi, giận dỗi hại cho thai, sinh con gái.

Ăn uống

Thịt dê, thịt các vật trong đầm, có vị cay.

Sinh đẻ

E là thai có bị tổn hại, hoặc sinh con gái,

Cầu danh

Khó thành, vì danh mà bị tổn thất, dễ là quan toà, võ chức, người phiên dịch

Mưu lợi

Khó thành, khi cầu mưu bị tổn thất, mùa thu xem quẻ thì có tin mừng, mùa hạ không toại nguyện.

Giao dịch

Khó thu lợi đề phòng cãi vã, có cạnh tranh.

Xuất hành

Không nên đi xa, đề phòng cãi vã, nên đi phía tây, quẻ mùa thu nên đi, có lợi.

Mong gặp

Đi gặp người ở phía tây, có chửi rủa nhau.

Bệnh tật

Bệnh ở cổ họng, miệng, nôn ngược, ăn uống không điều hoà

Phương hướng

Tây

Màu sắc

Trắng

Họ tên

Tên họ có chữ khẩn, chữ kim, chữ hệ bên cạnh, hàng thứ 4, 2, 9.

Chữ số

4, 2, 9

 

I- Quẻ kép: Khôn Vi Địa (Khôn) – Xung

 

H6

T. Tôn

Dậu

0

T

Cột chính, nóc; Tường vách/ Trời; Tổ tiên; Về hưu/ Quốc Hội

H5

T.Tài

Hợi

0

 

Đường đi; Người/ Vua; Cha/ Chính phủ

H4

H. Đệ

Sửu

0

 

Cửa; Phòng chính; Cổng ngõ/ Thần; Mẹ/ Bộ; Tỉnh, T.Phố

H3

Q.Quỷ

Mão

0

Ư

Cửa; Giường/ Huynh đệ/ Quận/ Huyện

H2

P.Mẫu

Tỵ

0

 

Gian ở chính; Bếp/ Vợ/ Xã Phường

H1

H. Đệ

Mùi

0

 

Nền nhà; Giếng nước/ Con, Giúp việc/ Nhân Dân

Càn 1/ 6 | Khảm 6/ 1 | Cấn 7/ 8 | Chấn 4/ 3 | Đoài 2/ 7 | Khôn 8/ 2 | Ly 3/ 9 | Tốn 5/ 4

II- Quẻ đơn: Quẻ hay Cung Khôn

Khẩu quyết

KHÔN

Ngũ hành

Thổ

Hệ thống

Địa lôi phục, Địa trạch lâm, Địa thiên thái, Địa thiên đại tráng, Trạch thiên phù, Thuỷ thiên nhuThuỷ địa tỉ.

Tượng trưng

Đất

Thời tiết

Mây, âm, u, sương mù

Địa lý

Phương tây nam.; Ngoài đồng ruộng.; Nông thôn.; Bình địa.

Nhân vật

Cụ già, mẹ kế, vợ, người thôn quê, nhiều người, người bụng to bệ vệ.

Nhân sự

Tiếc; nhu; thuận; nhu nhược; nhiều người.

Thân thể

Bụng, lá lách, dạ dày, thịt.

Thời gian

Tháng thìn tuất sửu mùi, năm tháng ngày giờ mùi thân, tháng ngày 5, 8, 10.

Động vật

Trâu, cầm thú, ngựa con.

Tính vật

Vật vương, vật mềm, vải vóc, tơ gấm, lúa gạo, đồm sứ, búa rìu.

Nhà cửa

Thôn xóm, nhà thấp bé nhà ở phía tây nam.

Gia trạch

Yên ổn, nhiều âm khí, được nhà ở mùa xuân ở không yên ổn.

Hôn nhân

Gia đình đó có đóng thuế, gia đình nông thôn, nhà quả phụ.

Ăn uống

Thịt dê, vật sống trong đất, vị ngọt, thức ăn dân dã, ngũ cốc, vật ở vùng bụng.

Sinh đẻ

Mùa xuân khó đẻ hoặc không lợi cho mẹ, dễ ngồi, nên ngồi theo hướng tây nam

Cầu danh

Có danh, hợp hướng tây nam, dễ làm chức dạy học, chức trông coi đất đai.

Mưu lợi

Nên cầu lợi ở nông thôn, trong tĩnh thu được lợi, hoặc được lợi ở phụ nữ.

Giao dịch

Thích hợp với giao dịch về điền thổ, dễ có lợi về ngũ cốc.

Xuất hành

Có thể đi, nên đi phía tây nam, đi về nông thôn, đi bộ, quẻ mùa xuân không nên đi.

Mong gặp

Có thể gặp, dễ gặp người nông thôn, bạn quen, người đã mất, mùa xuân không nên gặp.

Bệnh tật

Bệnh về bụng, dạ dày do ăn uống ngưng trễ; bệnh ăn không tiêu.

Phương hướng

Tây nam

Màu sắc

Vàng đen

Họ tên

Âm thổ bên cạnh, hàng thứ 8, 5, 10.

Chữ số

8, 5, 10

 

KHÔN

 

I- Quẻ kép: Ly Vi Hỏa (Ly) – Xung

 

H6

H. Đệ

Tỵ

1

T

Cột chính, nóc; Tường vách/ Trời; Tổ tiên; Về hưu/ Quốc Hội

H5

T.Tôn

Mùi

0

 

Đường đi; Người/ Vua; Cha/ Chính phủ

H4

T.Tài

Dậu

1

 

Cửa; Phòng chính; Cổng ngõ/ Thần; Mẹ/ Bộ; Tỉnh, T.Phố

H3

Q.Quỷ

Hợi

1

Ư

Cửa; Giường/ Huynh đệ/ Quận/ Huyện

H2

T.Tôn

Sửu

0

 

Gian ở chính; Bếp/ Vợ/ Xã Phường

H1

P.Mẫu

Mão

1

 

Nền nhà; Giếng nước/ Con, Giúp việc/ Nhân Dân

II- Chữ số Tiên thiên/ Hậu thiên 

Càn 1/ 6 | Khảm 6/ 1 | Cấn 7/ 8 | Chấn 4/ 3 | Đoài 2/ 7 | Khôn 8/ 2 | Ly 3/ 9 | Tốn 5/ 4

III- Quẻ đơn: Quẻ hay cung Ly

Khẩu quyết

LY

Ngũ hành

Hoả

Tượng trưng

Lửa

Thời tiết

Mặt trời, điện, ráng đỏ, cầu vồng

Địa lý

Phương nam.; Chỗ khô ráo.; Chỗ lò luyện.; Chỗ khô cứng.; Chỗ nắng ráo.

Nhân vật

Trung nữ; Văn nhân; Người bụng to, mắt có tật

Nhân sự

Có sở trường về văn học; thông minh học giỏi; khiêm tốn; việc sách vở.

Thân thể

Mắt, tim, thượng tiêu.

Thời gian

Tháng 5 mùa hạ; năm tháng ngày giờ ngọ hoả, ngày 2, 3, 7

Động vật

Chim trĩ, rùa, ốc, cua.

Tính vật

Sách, tài liệu, ảo học, vật khô héo, vật màu đỏ.

Nhà cửa

Nhà ỏ chỗ sáng sủa, cửa sổ lấy ánh sáng, nhà hướng nam.

Gia trạch

Yên ổn, được nhà vào mùa đông phải đề phòng hoả hoạn.

Hôn nhân

Trắc trở khó thành, thành thì đã muộn; lợi cho con trai út.

Ăn uống

Thịt gà, thức ăn quạt nướng, thịt khô.

Sinh đẻ

Dễ sinh, đẻ con gái thứ, nên ngồi hướng nam.

Cầu danh

Dễ nhậm chức phía nam, chức quan văn, chức lò luyện, hầm hào.

Mưu lợi

Có thể mưu lợi, nên làm chức văn thư.

Giao dịch

Có sự giao dịch về văn thư.

Xuất hành

Nên đi về hướng nam, đi vì việc văn thư, không nên đi thuyền.

Mong gặp

Dễ gặp người phương nam, quẻ mùa đông không thuận, mùa thu gặp người văn nhân, tài sĩ.

Bệnh tật

Bệnh đau mắt, đau tim, bệnh ở thượng tiêu, bệnh nhiệt, bệnh dịch.

Phương hướng

Nam

Màu sắc

Đỏ, tím

Họ tên

Trong tên họ có chữ thứ hoặc chữ nhân đứng, hàng thứ 3, 2, 7.

Chữ số

3, 2, 7

 

LY

 

I- Quẻ kép: Tốn Vi Phong (Tốn) – Xung

 

H6

H. Đệ

Mão

1

T

Cột chính, nóc; Tường vách/ Trời; Tổ tiên; Về hưu/ Quốc Hội

H5

T.Tôn

Tỵ

1

 

Đường đi; Người/ Vua; Cha/ Chính phủ

H4

T.Tài

Mùi

0

 

Cửa; Phòng chính; Cổng ngõ/ Thần; Mẹ/ Bộ; Tỉnh, T.Phố

H3

Q.Quỷ

Dậu

1

Ư

Cửa; Giường/ Huynh đệ/ Quận/ Huyện

H2

P.Mẫu

Hợi

1

 

Gian ở chính; Bếp/ Vợ/ Xã Phường

H1

T. Tài

Sửu

0

 

Nền nhà; Giếng nước/ Con, Giúp việc/ Nhân Dân

II- Chữ số Tiên thiên/ Hậu thiên 

Càn 1/ 6 | Khảm 6/ 1 | Cấn 7/ 8 | Chấn 4/ 3 | Đoài 2/ 7 | Khôn 8/ 2 | Ly 3/ 9 | Tốn 5/ 4

III- Quẻ đơn: Quẻ hay cung Tốn

Khẩu quyết

TỐN

Ngũ hành

Mộc

Tượng trưng

Gió

Thời tiết

Gió

Địa lý

Vùng đông nam.; Nơi cây cỏ rậm rạp.; Vườn cây ăn quả.

Nhân vật

Trưởng nữ; Tu sĩ; Quản phụ; Người ẩn giật trên núi

Nhân sự

Nhu hoà; không nhất định; cổ vũ; tiến thoái ngập ngừng.

Thân thể

Cánh tay, đùi, khí, bệnh phong.

Thời gian

Giao thời giữa xuân và hạ; tháng ngày giờ 3, 5, 8; tháng 3, tháng 4, năm tháng ngày giờ thìn tỵ.

Động vật

Gà, cầm thú, sâu bọ trong rừng sâu.

Tính vật

Mộc hương, dây thừng, vật bằng tre gỗ dài, các vật dụng bằng đồ gỗ chạm khắc.

Nhà cửa

Chùa, lầu quan sát, nhà trong rừng, nhà hướng đông nam.

Gia trạch

Yên ổn, lợi, được nhà mùa xuân tốt, mùa thu không tốt.

Hôn nhân

Lợi cho trưởng nam, lợi về phương bắc, không được kết hôn các tháng thìn tuất sửu mùi.

Ăn uống

Thịt gà, thịt loài vật ở rừng, rau, thức ăn chua.

Sinh đẻ

Thai lần đầu sinh con gái, gieo quẻ vào mùa thu hại thai, nên ngồi hướng đông nam.

Cầu danh

Hợp với nhậm chức phương đông nam, chức văn thư, chức thu thuế các hành tre và gỗ.

Mưu lợi

Có mưu lợi, có được của, có thể thành.

Giao dịch

Có thể thành, tiến thoái bất nhất, lợi trong giao dịch, lợi về hàng lâm nghiệp như gỗ, tre, nứa, chè.

Xuất hành

Có cả lợi cả hại, nên đi hướng đông nam.

Mong gặp

Dễ gặp người miền núi, dễ gặp văn nhân, tài sĩ.

Bệnh tật

Bệnh tê, phong thấp, ở cánh tay, bắp đùi, trúng phong, cảm hàn.

Phương hướng

Đông nam

Màu sắc

Xanh lục ngọc bích sáng.

Họ tên

Tên họ có chữ mộc, hàng thứ 5, 3, 8.

Chữ số

5, 3 8

 

TỐN

 

I- Quẻ kép: Chấn Vi Lôi (Chấn) – Xung

 

H6

T.Tài

Tuất

0

T

Cột chính, nóc; Tường vách/ Trời; Tổ tiên; Về hưu/ Quốc Hội

H5

Q.Quỷ

Thân

0

 

Đường đi; Người/ Vua; Cha/ Chính phủ

H4

T.Tôn

Ngọ

1

 

Cửa; Phòng chính; Cổng ngõ/ Thần; Mẹ/ Bộ; Tỉnh, T.Phố

H3

T.Tài

Thìn

0

Ư

Cửa; Giường/ Huynh đệ/ Quận/ Huyện

H2

H. Đệ

Dần

0

 

Gian ở chính; Bếp/ Vợ/ Xã Phường

H1

P.Mẫu

1

 

Nền nhà; Giếng nước/ Con, Giúp việc/ Nhân Dân

II- Chữ số Tiên thiên/ Hậu thiên 

Càn 1/ 6 | Khảm 6/ 1 | Cấn 7/ 8 | Chấn 4/ 3 | Đoài 2/ 7 | Khôn 8/ 2 | Ly 3/ 9 | Tốn 5/ 4

III- Quẻ đơn: Quẻ hay Cung Chấn

Khẩu quyết

CHẤN

Ngũ hành

Mộc

Tượng trưng

Sấm

Thời tiết

Sấm

Địa lý

Phương đông.; Cây cối.; Chợ búa.; Xa cuộc đi xa.; Tre pheo, lau cỏ.; Chỗ rậm rạp.

Nhân vật

Trưởng nam

Nhân sự

Khởi động; giận; lo vô cớ; nhảy cẫng; hay động.

Thân thể

Chân, gan, tóc, thanh âm.

Thời gian

Tháng 3, mùa xuân; năm tháng ngày giờ mão; tháng 3, 4; tháng ngày 8.

Động vật

Rồng, rắn.

Tính vật

Tre nứa, nhạc cụ bằng gỗ, vật loại cây cỏ tươi.

Nhà cửa

Chỗ trong rừng sâu, nhà gác.

Gia trạch

Ở trong nhà có lúc kinh sợ; được nhà vào mùa xuân, đông thì tốt, được nhà vào mùa thu thì không lợi.

Hôn nhân

Nhà khá giả, có danh tiếng, trưởng nam thì hôn nhân có lợi.

Ăn uống

Thịt ở bàn chân, đồ nướng thịt rừng, thịt tươi, quả chua, rau.

Sinh đẻ

Hay kinh sợ, thai động không yên thai, có thai lần đầu thường là con trai, nên ngồi hướng đông

Cầu danh

Hợp với nhậm chức ở phương đông, chức ra mệnh lệnh, chức cai ngục, chức thu thuế hàng lâm nghiệp.

Mưu lợi

Nên hy vọng, nên cầu lợi, mưu meo linh hoạt.

Giao dịch

Lợi về giao dịch, động có thể thành, lợi về các hàng lâm thổ sản.

Xuất hành

Lợi về phương đông, lợi với người miền núi.

Mong gặp

Dễ gặp người miền núi, dễ gặp người có danh tiếng.

Bệnh tật

Bệnh ở chân, ở gan,, lo sợ vu vơ.

Phương hướng

Đông

Màu sắc

Xanh da trời, mùa lục, ngọc bích.

Họ tên

Tên họ có chữ mộc, hàng 4, 8, 3.

Chữ số

4, 8, 3

 

CHẤN

 

I- Quẻ kép: Cấn Vi Sơn (Cấn) – Xung

 

H6

Q.Quỷ

Dần

1

T

Cột chính, nóc; Tường vách/ Trời; Tổ tiên; Về hưu/ Quốc Hội

H5

T.Tài

0

 

Đường đi; Người/ Vua; Cha/ Chính phủ

H4

H.Đệ

Tuất

0

 

Cửa; Phòng chính; Cổng ngõ/ Thần; Mẹ/ Bộ; Tỉnh, T.Phố

H3

T.Tôn

Thân

1

Ư

Cửa; Giường/ Huynh đệ/ Quận/ Huyện

H2

P.Mẫu

Ngọ

0

 

Gian ở chính; Bếp/ Vợ/ Xã Phường

H1

H. Đệ

Thìn

0

 

Nền nhà; Giếng nước/ Con, Giúp việc/ Nhân Dân

II- Chữ số Tiên thiên/ Hậu thiên 

Càn 1/ 6 | Khảm 6/ 1 | Cấn 7/ 8 | Chấn 4/ 3 | Đoài 2/ 7 | Khôn 8/ 2 | Ly 3/ 9 | Tốn 5/ 4

Càn 1/ 6

Khảm 6/ 1

Cấn 7/ 8

Chấn 4/ 3

Đoài 2/ 7

Khôn 8/ 2

Ly 3/ 9

Tốn 5/ 4

III- Quẻ đơn: Quẻ hay Cung Cấn

Khẩu quyết

CẤN

Ngũ hành

Thổ

Tượng trưng

Núi

Thời tiết

Mây, mù

Địa lý

Phương đông bắc.; Đường tắt qua núi.; Cạnh núi đồi.; Lăng mộ.

Nhân vật

Thiếu nam; Người nhàn rỗi; Người ở trong núi.

Nhân sự

Cách trở; khoanh tay ngồi chờ; tiến thoái chần chừ; quay lưng; ngừng lại; không gặp.

Thân thể

Tay, xương, lỗ mũi, lưng.

Thời gian

Tháng 12 của đông xuân, năm tháng ngày giờ sửu dần; tháng ngày 5,7,10

Động vật

Hổ, chó, cầm thú.

Tính vật

Đất, đá, quả dưa, vật màu vàng, vật vùi trong lòng đất

Nhà cửa

Nhà trong núi đá, nhà gần đường đi, nhà hướng đông bắc.

Gia trạch

Ở yên ổn, công việc hay trắc trở người nhà không hoà thuận, được nhà vào mùa xuân không yên ổn.

Hôn nhân

 

Ăn uống

Vật vùi trong đất, thịt các loài thú, trúc măng ở cồn bãi

Sinh đẻ

Khó sinh, có nguy hiểm, nên ngồi hướng đông bắc

Cầu danh

Trắc trở, không có danh, nhậm chức ở phía bắc, đông bắc, chức quản lý công nghiệp, chức vùng núi.

Mưu lợi

Cách trở khó thành, tiến thoái chần chừ.

Giao dịch

Khó thành, có sự giao dịch về núi rừng ruộng vườn.

Xuất hành

Không nên đi xa, có trở ngại, nên đi bộ, đi gần.

Mong gặp

Không gặp được có trở ngại, gặp người miền núi.

Bệnh tật

Bệnh ở ngón tay, dạ dày.

Phương hướng

Đông bắc

Màu sắc

Vàng

Họ tên

Tên họ có chữ thổ bên cạnh, hàng thứ 5, 7.

Chữ số

5, 7

 

CẤN

 

I- Quẻ kép: Càn vi thiên

H6

P.Mẫu

Tuất

1

T

Cột chính, nóc; Tường vách/ Trời; Tổ tiên; Về hưu/ Quốc Hội

H5

H.Đệ

Thân

1

 

Đường đi; Người/ Vua; Cha/ Chính phủ

H4

Q.Quỷ

Ngọ

1

 

Cửa; Phòng chính; Cổng ngõ/ Thần; Mẹ/ Bộ; Tỉnh, T.Phố

H3

P.Mẫu

Thìn

1

Ư

Cửa; Giường/ Huynh đệ/ Quận/ Huyện

H2

T.Tài

Dần

1

 

Gian ở chính; Bếp/ Vợ/ Xã Phường

H1

T.Tôn

1

 

Nền nhà; Giếng nước/ Con, Giúp việc/ Nhân Dân

II- Chữ số Tiên thiên/ Hậu thiên 

Càn 1/ 6 | Khảm 6/ 1 | Cấn 7/ 8 | Chấn 4/ 3 | Đoài 2/ 7 | Khôn 8/ 2 | Ly 3/ 9 | Tốn 5/ 4

III- Quẻ đơn: Quẻ hay cung Càn

Khẩu quyết

CÀN

Ngũ hành

Kim

Tượng trưng

Trời

Thời tiết

Băng, đá, ráng mây, mặt trời

Địa lý

Phương tây bắc.; Kinh đô.; Quận lớn.; Danh lam thắng địa.; Nơi cao ráo.

Nhân vật

Vua, cha, đại nhân, người già, bậc trưởng giả, danh nhân, người nhà nước.

Nhân sự

Cứng; khỏe; võ; thông; quả quyết, động nhiều; tĩnh ít; cao, trên.

Thân thể

Đầu, xương phổi

Thời gian

Mùa thu, giao thời giữa tháng 9 và tháng 10, năm tháng ngày giờ tuất hợi, năm tháng ngày giờ ngũ kim.

Động vật

Ngựa, thiên nga, sư tử, voi.

Tính vật

Vàng ngọc, vật quý, vòng chuỗi, vật cứng, vòng kính.

Nhà cửa

Công sở, nhà lầu, cao ốc, nhà ở hướng tây bắc.

Gia trạch

Được nhà vào mùa thu thì hưng thịnh, được nhà mùa hạ thì không tốt, được vào mùa đông nhà cô vắng, được mùa xuân thì tốt.

Hôn nhân

Nhà quan quý, nhà có thanh danh.

Ăn uống

Thịt ngựa, thức ăn quý, nhiều xương, gan phổi, thịt khô, hoa quả, đầu các con vật, vật hình tròn, vật cay.

Sinh đẻ

Dễ sinh, ngồi nên ngoảnh phía tây bắc, mùa thu dễ sinh quý tử, mùa hạ dễ tổn thương.

Cầu danh

Có danh, dễ nhậm chức toà án, nắm quyền quan võ, hợp hướng tây bắc, quan trạch mã (liên lạc), quan thiên sứ.

Mưu lợi

Có thành, lợi cho việc công, thu được tiền, của trong hoạt động, mùa hè đoán quẻ thì không lợi, mùa đông đoán quẻ thì nhiều mưu nhưng thành đạt ít.

Giao dịch

Thích hợp với giao dịch về vàng ngọc châu báu, dễ thành, mùa hạ chiếm có lợi.

Xuất hành

Lợi về xuất hành, nên vào kinh đô, đi phía đông bắc có lợi, quẻ mùa hè không lợi

Mong gặp

Dễ gặp đại nhân, người có đức hạnh sẽ gặp được người giàu sang.

Bệnh tật

Bệnh ở đầu, mặt, bệnh về phổi, gân, xương, ở thượng tiêu.

Phương hướng

Tây bắc

Màu sắc

Màu đỏ, màu hồng huyển

Họ tên

Có chữ kim bên cạnh, hàng 1, 4, 9.

Chữ số

1, 4, 9

 

CÀN

 

I- Quẻ kép: Khảm Vi Thủy (Khảm) – Xung

 

H6

H. Đệ

0

T

Cột chính, nóc; Tường vách/ Trời; Tổ tiên; Về hưu/ Quốc Hội

H5

Q.Quỷ

Tuất

1

 

Đường đi; Người/ Vua; Cha/ Chính phủ

H4

P.Mẫu

Thân

0

 

Cửa; Phòng chính; Cổng ngõ/ Thần; Mẹ/ Bộ; Tỉnh, T.Phố

H3

T.Tài

Ngọ

0

Ư

Cửa; Giường/ Huynh đệ/ Quận/ Huyện

H2

Q.Quỷ

Thìn

1

 

Gian ở chính; Bếp/ Vợ/ Xã Phường

H1

Tử Tôn

Dần

0

 

Nền nhà; Giếng nước/ Con, Giúp việc/ Nhân Dân

II- Chữ số Tiên thiên/ Hậu thiên 

Càn 1/ 6 | Khảm 6/ 1 | Cấn 7/ 8 | Chấn 4/ 3 | Đoài 2/ 7 | Khôn 8/ 2 | Ly 3/ 9 | Tốn 5/ 4

II- Quẻ đơn: Quẻ hay Cung Khảm

Khẩu quyết

KHẢM

Ngũ hành

Thuỷ

Tượng trưng

Nước

Thời tiết

Mưa, trăng, tuyết, sương mù mù

Địa lý

Phương bắc.; Sông hồ.; Khe suối.; Giếng sâu.; Nơi ẩm ướt.

Nhân vật

Trung nam; Người giang hồ; thuyền nhân; Bọn trộm cướp.

Nhân sự

Rơi vào chỗ thấp kém; yếu đuối bề ngoài; trôi dạt bất định; nước chảy bèo trôi.

Thân thể

Tai, máu, thận.

Thời gian

Tháng 11 mùa đông; năm tháng ngày giờ tý, tháng ngày 1, 6.

Động vật

Cá, các con vật trong nước.

Tính vật

Quả có nước, quả có hạt, vật hình cung, bình đựng rượu, bình đựng nước.

Nhà cửa

Gần nước, lầu trên nước, quán trà, tửu lầu, chỗ ẩm ướt trong nhà, nhà hướng bắc.

Gia trạch

Không yên ổn, ám muội, đề phòng trộm cắp.

Hôn nhân

Không thành, lợi cho trưởng nữ.

Ăn uống

Thịt lợn, đồ lạnh, hải sản, canh chua cá, lẫn huyết, các loại rau muối, vật có hạt, có nhân.

Sinh đẻ

Khó đẻ nguy hiểm, nên là con thứ, sinh vào các tháng thìn tuất sửu mùi thì không lợi.

Cầu danh

Gian nan, dễ rơi vào tai vạ, dễ nhậm chức phía bắc, dễ làm nghề quản lý cá, muối…

Mưu lợi

Không nên cầu mưu, thành công thì không có lợi, mùa thu, đông cầu mưu có hy vọng.

Giao dịch

Sợ sa lầy, nên giao dịch ở nơi gần nước hoặc người ở gần nước.

Xuất hành

Không nên đi xa, nên đi thuyền, nên đi phía bắc, đề phòng cướp, có thể gặp việc nguy hiểm.

Mong gặp

Khó gặp, dễ gặp người gianh hồ hoặc người họ tên có chữ thuỷ bên cạnh.

Bệnh tật

Đau tai, đau tim, cảm hàn, bệnh thận, dạ dày lạnh đi ngoài.

Phương hướng

Bắc

Màu sắc

Đen

Họ tên

Hàng thứ 1, 6.

Chữ số

1, 6

 

KHẢM

 

Bát Quái: Tám quẻ đơn

+ Tham Thiền Tu Định

-Tham thiền thông dụng

-Thiền định tuệ tri

-Thiền định thâm sâu

+ Án Ma Ni Bát Di Hồng - Lục Tự Đại Minh Thần Chú: ... Ta có thể biết một năm có bao nhiêu hạt mưa rơi xuống thế gian, sông Hằng có bao nhiêu hạt cát nhưng ta không thể nói hết về sức mạnh của câu thần chú này. Đây là câu thần chú có sức mạnh vô cùng to lớn một số những lợi ích to lớn như là:
* Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn là hiển lộ của ngôn ngữ và năng lực trí tuệ của tất cả chư Phật. Nó là một phương tiện để bảo vệ tâm khỏi những niệm tưởng mê lầm, chặt đứt vô minh và khai mở trí tuệ. Thần chú này có thể cứu giúp và làm nguôi dịu hàng trăm và hàng ngàn khổ đau và khốn khó của chúng sinh.
* Trong chính đời này, đơn giản trì tụng OM MANI PADME HUM sẽ xua tan bệnh tật, ốm đau và các thế lực ma quỷ, sẽ trở nên hạnh phúc, an lạc và đầy đủ.
* Trì tụng câu chú này sẽ tăng cường sức mạnh thiền định và phát triển những cấp độ thiền định sâu sắc hơn trong đời này, thứ sẽ tiếp tục trong nhiều đời tương lai.
* Lúc chết, sẽ không sinh vào ba đọa xứ mà vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc hay trong chính cõi Tịnh Độ của Đức Quán Thế Âm và ở đó, sẽ dần dần đạt đến Phật quả.
- Chính đức Quan Âm đã cúng dàng lên đức Phật câu chân ngôn Lục tự Đại Minh này, và đức Phật trở lại giao phó cho ngài Phật sự cao quý là cứu giúp tất cả chúng sinh thoát khỏi các khổ nạn trên con đường tiến đến giác ngộ. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương). Nguồn: Xem tại đây

+ Đọc Tụng Kinh Chú
Các Thần Chú Cải mệnh theo Dự đoán Thiên Cơ

Xưng Tán Tam Bảo

Lễ Lạy Tam Bảo

Thanh Luyện Thân Tâm

Thường Hành Bố Thí

Tu Niệm Thánh Hiền

Học Để Giác Ngộ: Học theo thứ tự

Ăn Chay Ít Nhiều

Buông Xả Vạn Duyên: Tức là buông bỏ các việc ác - Năng làm các việc lành, chấp nhận vạn sự sảy đến, tu hành tinh tấn để hóa giải

Nghiêm Giữ Ngũ Giới

Phát Tâm Hướng Thiện

Hành Văn Tư Tu

Các Pháp Tu Hành Cải Mệnh: Chủ yếu dựa trên kết quả Dự đoán Tứ trụ và Quẻ dịch

Tinh Bàn MT

Tháng Sao: Cách ghi tháng theo 27 chòm sao Nhị thập Bát tú (Theo Tinh Bàn Mật Tông - Phần Giới thiệu)

Quan Hệ Sao

+ Sách tổng hợp 64 Quẻ dịch: Xem tại đây

+ Không Tử tổng kết ra 9 Quẻ Dịch ứng Đạo Đức của con người: Lý - Khiêm - Phục - Hằng - Tổn - Ích - Khốn - Tỉnh - Tốn (Sách Dự đoán Khai vận đỏ - Thiệu Vĩ Hoa; Tr 41)

+ Lục Tự Đại Minh Thần Chú: 
Việt dịch: Án Ma Ni Bát Di Hồng
Nguyên bản: OM MANI PADME HUM

OM MANI PADME HUM: Đọc là Án Ma Ni Bát Di Hồng

Sinh Lão Bệnh Tử: Nói về quy luật sự sống bình thường một vòng đời của chúng sinh/ Con người

Sinh Lão Bệnh Tử tương đồng với Thành Trụ Hoại Không: Trên sao - Dưới vậy

+ Thời Kỳ Mạt Pháp – Thời Kỳ Đấu Tranh Kiên Cố
Tất cả mọi thứ trên thế gian, bất kể thứ gì, đều phải trải qua bốn giai đoạn:

1- Hình thành (thành)
2- Phát triển (trụ),
3- Suy tàn (hoại),
4- Diệt mất (không)

Đây cũng được gọi là bốn đại kiếp... Trong Phật giáo, có thời kỳ Chánh Pháp, thời kỳ Tượng Pháp, và thời kỳ Mạt Pháp... (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)

Theo Kinh Chiêm Sát

VỀ THỦY
- Xuân: tính chất dầm dề ướt át. Nếu gặp thổ để chế ngự thì nó có thể tránh được tai hoạ loang chảy lung tung. Nếu gặp thuỷ để hổ trợ cho nhau thì có thể dẫn đến nguy cơ nứt bờ, vỡ đê. Nên gặp kim để phù trợ, nhưng không nên kim nhiều quá. Mong gặp hoả để khống chế, nhưng hoả không nên mạnh quá. Gặp được mộc thì mộc được tưới nhuận, xum xuê, nếu không có thổ cản lại thì thủy sẽ tản mát chảy đi.
- Hạ: bề ngoài “thực”, bên trong “hư”. Đây chính là lúc đang khô cho nên hy vọng gặp được thuỷ để sánh vai chung sức. Nếu gặp được kim để phù trợ thân minh cũng tốt. Sợ nhất là gặp vượng hỏa. Mộc vượng quá sẽ làm xì hơi của thủy ; thổ vượng quá, nặng quá sẽ khắc mất nguồn của thuỷ.
- Thu:  kim và thuỷ hai mẹ con cùng vượng. Gặp được kim tương trợ thuỷ thì thuỷ càng trong , tinh khiết. Gặp vượng thổ thuỷ trở thành đục. Hỏa nhiều sẽ có lợi nhiều cho thuỷ, nhưng không nên hỏa nhiều quá, quá mạnh. Mộc nhiều cũng có thể khiến cho thuỷ tự mình phồn vinh, nhưng cũng chỉ nên mộc vừa phải mới thích hợp. Nếu gặp thuỷ qua nhiều thì sẽ tăng mối lo về sự tràn trề lênh láng, lúc đó nên có thanh bình. Như thế gọi là: “gặp thủy trùng trùng tăng thêm mối lo, gặp thổ trùng trùng mới bình tâm được”. 
- Đông: Chính là lúc đang có khí thế. Gặp được hỏa thì mới mong trừ được mối lo hàn khí đầy mình. Gặp được thổ sẽ dồn thuỷ hẹp lại. Gặp kim nhiều thì thuỷ không còn có nghĩa. Gặp mộc nhiều thì Thuỷ hữu tình. thuỷ mạnh gặp thổ làm đê chắn giữ.

VỀ KIM
- Xuân: trên thân còn tàn dư của khí lạnh chưa hết. Nếu gặp hỏa để làm cho kim thêm lớn mạnh, phồn vinh là rất quý. Kim mùa xuân thân thể còn yếu, tính cách mềm mại, hy vong gặp thổ chợ giúp mới tốt. Nếu gặp thuỷ quá nhiều kim sẽ trở nên hàn lạnh, vốn là có ích lại trở thành vô dụng. Nếu gặp mộc quá mạnh, kim dễ bị gãy vụn, vốn là cứng lại trở thành mềm. Kim gặp để sánh vai chung sức là điều tốt nhất, song nếu không có hoả thì cũng không phải là tốt lắm.
- Hạ: càng thêm yếu mềm, hình thể và phẩm chất chưa trưởng thành đầy đủ, lúc đó rất sợ thân thể biến thanh yếu đuối. Thuỷ mạnh đối vơi kim mùa hạ là tốt nhất, còn hỏa nhiều thì xấu. Kim gặp kim để hổ trợ lẫn nhau thì càng thêm mạnh. Nếu gặp phải mộc là tăng điều có hại cho bản thân. Thot dầy quá sẽ lập vùi kim, thổ mỏng thì có lợi cho kim sinh trưởng.
- Thu: là lúc khí thế đang mạnh. Gặp hỏa để tu luyện kim thì mới trở thành vật có ích như chuông, đỉnh, vạc. kim gặp thổ để tư dưỡng kim trưởng thành là tốt, nếu không gặp thổ thì kim sẽ đục, không hay. Nếu kim gặp thuỷ thì tinh thần càng thêm tươi đẹp. Kim gặp mộc thì sẽ có nhữn vật điêu khắc có giá trị nên rất tốt. Nếu kim gặp kim thì càng trở nên cường tráng. Điều cần chú ý là nếu cường tráng quá sẽ bị bẻ gẫy.
- Đông: hình thể hàn lạnh, tính chất cũng lạnh giá. nếu gặp mộc nhiều thì cũng khó làm thành rìu búa. Gặp thuỷ vượng quá thì khó tránh khỏi tai nạn bị chìm. Gặp thổ có thể chế ph uy thể của kim không đến nổi giá lạnh. Gặp hỏa để sinh thổ ( mẹ và con) thì cả hai đều tốt với kim. Nếu kim gặp kim để cùng hổ trợ, lại còn gặp quan ấn để ôn dưỡng thì sẽ càng diệu kỳ.

VỀ HỎA
- Xuân: mộc là mẹ hỏa ( mộc sinh hỏa ), mong gặp được để phù trợ, nhưng mộc không nên vượng quá, mộc vượng quá hỏa sẽ trở nên cháy bỏng, nếu thế mong có thuỷ để hòa nhã, nhưng thủy cũng không nên nhiều vì thuỷ quá nhiều hỏa sẽ bị dập tắt. Thổ nhiều thì hỏa sẽ biến thành âm ỉ không sáng, hỏa vượng qua thì sẽ bốc lên mãnh liệt. nếu gặp được kim có thể mở rộng uy thế của hỏa, cho kim rất nhiều cũng vẫn tốt.
- Hạ: chính là lúc đang có khí thế. Nếu gặp thủy để chế ngự nó thì sẽ tránh được tai nạn tự đốt minh. Nếu gặp được môc để phù trợ thì nhất định sẽ tránh được mối lo chết yểu. Nếu gặp được kim sẽ càng phát đạt ; gặp được thổ cũng tốt. Song gặp kim , thổ tuy có lợi nhưng nếu không có nước thì kim sẽ khô khan, thổ bị đốt nóng, nếu được thêm hỏa nữa thì thế mạnh quá dễ dẫn đến tổn hại.
- Thu:  tính chất đã trầm lặng, thân thể nhà nhã. Nếu gặp được mộc để phù trợ thì sẽ có điều tốt được sáng thêm lần nữa. Nếu gặp thuỷ xung khắc thì khó tránh khỏi bị dập tắt. Thổ quá nhiều sẽ bị che lấp làm cho mờ tối. Kim quá nhiều sẽ cướp đi uy thế của hoả. Hỏa gặp hoả sẽ làm tăng thêm độ sáng , do đó dù gặp hỏa nhiều cũng có lợi.
- Đông: hình thể đã tuyệt duyệt hao mòn, gặp mộc phù trợ thêm sức, gặp thuỷ xung khắc rễ gặp tai ương, hy vong gặp thổ khống chế bớt thuỷ. Gặp hoả nhiều thêm sức lực, có lợi cho việc sinh tồn. Gặp kim cũng khó khắc được kim, không gặp cũng không tổn hại.

VỀ MỘC
- Xuân: Mộc còn mang khí lạnh dư thừa, nếu gặp được hỏa để làm âm lại mới có thể tránh được những tai hoạ cây cành bị cong queo. Nếu gặp được thủy để tưới nhuận sẽ cảm thấy thoải mái, tươi tốt. Nhưng nếu thuỷ nhiều quá, cây sẽ bị ẩm ướt, dầm nát, thuỷ ỏ quá nhiều sẽ làm tổn hao nội lực của cây, cũng là điều đáng lo ngại ; nếu thổ mỏng, lỏng lẻo thì cây dễ xum xuê. Nếu mộc gặp kim thì sẽ biến thành cứng cáp, khi đó nếu gặp hỏa sẽ không đến nỗi bị tổn thương. Giả thiết mộc đã rất cường tráng thì có gặp kim cũng không còn đáng sợ, vẫn tiếp tục lớn lên như thường.
- Hạ: Rễ và là đều rất khô. Cây bắt đầu từ cong queo biến thành thẳng, cành tán vươn ra. Mong gặp được nước nhiều để tưới tắm, kị hỏa nhiều đốt nó; nên được sinh trưởng ở chỗ thổ mỏng, không nên thổ dày. Thổ dày quá đối với mộc là tai nạn. Nếu kim mạnh quá là không hay mà chỉ nên kim yếu, vì kim tầng lớp lớp, cành lá xum xuê chẳng mấy chốc thành rừng, hoa nở trùng trùng điệp điệp nhưng cuối cùng không có quả. Như thế gọi là : gặp mộc trùng trùng sắp thành rừng rậm, hoa nở khắp nơi nhưng không kết quả”.
- Thu: Đầu thu trời còn nóng, mong gặp được thuỷ, thổ để nuôi dưỡng phát triển vào giữa thu quả đã hình thành, mong gặp được kim cứng để làm rụng nó. Sau sương giáng đốt nóng, có như thế mộc mới chắc, bền. Mộc nhiều thì nguyên liệu tốt; thổ nhiều, mộc quá dày, thì mộc không thể sinh trưởng tốt tươi được.
- Đông: Mong gặp thổ nhiều để nuôi dưỡng, sợ thuỷ nhiều dìm lấp. Kim cho dù nhiều mộc vẫn không bị tổn hại, gặp hoả tác dụng sưởi ấm cho mộc. Khi lá rụng về cội là thế mộc suy yếu không thể tránh khỏi. Lúc đó chỉ sợ gặp tử tuyệt là gay go. Gặp cung sinh trưởng sẽ sống.

3.6. CUNG MỆNH- Chủ Thân mình
Xưa có nói : Thần không có miếu thì không có chỗ về, người không có nhà như không có chỗ bám víu. Không có cung mệnh là không có chủ, có ảnh hưởng đến Mệnh
Cung mệnh nên sinh vượng, không nên suy bại, nên tương sinh tương hợp với năm mệnh, không nên hình, xung, khắc, hại lẫn nhau. Tương sinh tương hợp thì tốt, hình xung khắc hại thì xấu. Nó là hỉ thần, dụng thần thì tốt, là kị thần thì xấu. Người mà trong thần sát có cát thân thì tốt, có hung thần là xấu.
Tra: Là sự thu nhỏ của mệnh. Phương pháp là lấy tí làm tháng giêng, hợi tháng hai, tuất tháng ba đếm ngược đến sửu là tháng 12. Sau đó cho giờ sinh rời vào chi của tháng sinh đếm thuận đến mão, mão là cung mệnh. Thiên can của cung mệnh theo phương pháp lấy tháng theo thiên can của năm sinh để xác định thiên can của cung mệnh.

3.5. THAI-MỆNH
Thai là chỉ tháng bắt đầu mang thai. Lấy thiên can của tháng liền sau tháng sinh phối với chi của tháng thứ ba sau tháng sinh, đó là thai nguyên. Thai nguyên làm mầm rễ của Tứ trụ, nếu không bị phạm, gặp đất vượng tướng lộc mã thì phúc tốt lại nhiều. Nếu ngày giờ gặp ngôi tốt, thai nguyên bị phạm thì tốt cũng như không.
Ưu sinh: Thai nguyên sinh cho mệnh tốt, khắc mệnh thì không lợi-nạp âm.
Thai nguyên thấy quý ( nhâm )- âm phúc. Thai nguyên bị hình, xung, khắc, hại là cuộc đời gian khổ. Nên sách có nói : “ Trong thai nguyên có lộc là sinh vào nhà giàu sang, còn nếu gặp tuần không, vong là rơi vào nhà đói khổ”. Nạp âm "Thai nguyên và giờ sinh" tương sinh-Sống lâu, nếu hai cái hình khắc nhau là đoản thọ. Thai gặp đế vượng tất sẽ thọ lâu.

Tóm lược

Tóm lược

Mệnh Chiêm Tinh

Các Chòm sao theo Dịch học và Chiêm tinh học, Phật học

Loại âm dương khá cân bằng

Thổ mùa Xuân: thế lực rất cô đơn yếu ớt, nên mong gặp hỏa để phù Tắc. Mong gặp thổ để cùng sánh vai chung sức, sợ gặp thủy cuốn trôi đi mất. Lúc này nếu gặp được kim để khống chế mộc thì thổ sẽ trở thành có sức, nhưng nếu kim vượng quá lại sẽ làm xì hơi của thổ.

Thổ mùa Hạ: tính cách của nó rất khô khan. Gặp được đại thuỷ để tưới nhuận là tốt nhất. Nếu gặp phải vượng hỏa thì càng khô khan hơn nên khó tránh khỏi tổn hại. Mộc có thể phù trợ thế của hỏa, cho nên mộc và hỏa đều không thích hợp thổ ở trường sinh. Kim có thể sinh thuỷ, thuỷ đầy đủ sẽ khiến cho thổ mùa hạ mạnh mẽ, lúc đó nếu gặp được thổ để sánh vai chung sức thì thổ càng thêm mạnh, ngược lại thì bị trắc trở, trì trệ không thông. Do đó nếu thổ mạnh quá thì nên gặp mộc để khống chế.

Thổ mùa Thu:  Thổ và kim là mẹ suy con vượng, kim nhiều qua sẽ xì hơi của thổ. Nếu mộc thịnh sẽ khống chế thổ. Hoả dù thịnh cũng không đáng sợ, chỉ sợ thuỷ mạnh thì không tốt. Nếu thổ gặp thổ để sánh vai chung sức thì sẽ làm cho thổ mạnh lên. Đến tiết sương giáng thì dù không gặp thổ để sánh vai chung sức cũng không còn gì đáng ngại. 

Thổ mùa Đông: bề ngoài giá lạnh, bên trong ôn ấm. Gặp được thuỷ mạnh, thổ sẽ càng tốt. Nếu kimnhiều quá, thổ sẽ trở thàn phú quý. Nếu hỏa thịnh quá sẽ làm cho thổ thêm phồn vinh ; mộc nhiều cũng không có gì trở ngại. Lúc nay nếu thổ gặp thổ thì càng thêm tốt tức là thân thể đã cường tráng lại càng thêm thọ.

VỀ THỔ
- Xuân: thế lực rất cô đơn yếu ớt, nên mong gặp hỏa để phù Tắc. Mong gặp thổ để cùng sánh vai chung sức, sợ gặp thủy cuốn trôi đi mất. Lúc này nếu gặp được kim để khống chế mộc thì thổ sẽ trở thành có sức, nhưng nếu kim vượng quá lại sẽ làm xì hơi của thổ.
- Hạ: tính cách của nó rất khô khan. Gặp được đại thuỷ để tưới nhuận là tốt nhất. Nếu gặp phải vượng hỏa thì càng khô khan hơn nên khó tránh khỏi tổn hại. Mộc có thể phù trợ thế của hỏa, cho nên mộc và hỏa đều không thích hợp thổ ở trường sinh. Kim có thể sinh thuỷ, thuỷ đầy đủ sẽ khiến cho thổ mùa hạ mạnh mẽ, lúc đó nếu gặp được thổ để sánh vai chung sức thì thổ càng thêm mạnh, ngược lại thì bị trắc trở, trì trệ không thông. Do đó nếu thổ mạnh quá thì nên gặp mộc để khống chế.
- Thu:  Thổ và kim là mẹ suy con vượng, kim nhiều qua sẽ xì hơi của thổ. Nếu mộc thịnh sẽ khống chế thổ. Hoả dù thịnh cũng không đáng sợ, chỉ sợ thuỷ mạnh thì không tốt. Nếu thổ gặp thổ để sánh vai chung sức thì sẽ làm cho thổ mạnh lên. Đến tiết sương giáng thì dù không gặp thổ để sánh vai chung sức cũng không còn gì đáng ngại. 
- Đông: bề ngoài giá lạnh, bên trong ôn ấm. Gặp được thuỷ mạnh, thổ sẽ càng tốt. Nếu kimnhiều quá, thổ sẽ trở thàn phú quý. Nếu hỏa thịnh quá sẽ làm cho thổ thêm phồn vinh ; mộc nhiều cũng không có gì trở ngại. Lúc nay nếu thổ gặp thổ thì càng thêm tốt tức là thân thể đã cường tráng lại càng thêm thọ.

+ Nhất Nguyên - Tánh Giác trong Hư Không

+ Hậu Thiên: Trạng thái Vũ trụ đã hình thành trời đất, các thế giới chúng sinh. Mỗi thế giới gồm một Mặt trời và một mặt trăng hoạt động theo định luật tuần hoàn:

Thế giới có Thành - Trụ - Hoại - Không

Chúng sinh có Sinh - Lão - Bệnh - Tử hay Sinh già bệnh chết. Chi tiết có 12 giai đoạn sinh diệt.

Con người có 12 nhân duyên tạo thành vòng Luân hồi vô tận

Quẻ biến Cát: Luận về quẻ biến cát hung

Quẻ biến Hung: Luận về quẻ biến hung họa

Quẻ hỗ Cát tường

Quẻ hỗ Hung họa

Quẻ biến trung bình: Cát hung theo quẻ biến

Quẻ hỗ trung bình: Cát hung theo quẻ biến

7.111 TRẠCH MÃ- Động-Nhanh-Đi xa-Phát-Ngã
Mã-Cát thần: Lớn thì tin vui ngất trời, nhỏ thì lợi về động.
Mã-Hung thần: Lớn thì tai vạ ngã lên ngã xuống, nhỏ thì chạy ngược chạy xuôi vất vả.
Xung-Hợp: Xung- Roi quất; Hợp- Được nghỉ chân, lưu niên cũng thế.
Phát tài nhanh: Gặp tài Lưu niên đại vận- Phát nhanh.
Nhâm Thân-Quý Dậu: Mã 2 ngày này là “Mã đầu đeo kiếm là uy trấn biên cương”.
Mã- Giờ: Người đó đi kinh doanh, hiếu động mới lợi cho cầu danh cầu lợi.
Mã- Kình dương-Lộc: Kình dương đầy máu; Gặp Lộc, khôi canh thì thông minh cao quý; gặp bệnh hại tử tuyệt thì đi giang hồ, bôn ba nơi xa.
Mã- Quý nhân: Quý nhân gặp Mã tinh= Thăng vượt cấp.
Mã- Người bình thường: Long đong lật đật.
Vượng Nhược: Trạch sinh vượng = Người nhanh nhẹn, trí lự, thông biến luôn luôn, bình sinh nhiều danh vọng; gặp tử tuyệt thì có đầu không có đuôi, cuộc đời ít thành công mà phiêu bạt vô định; gặp lộc thì phúc nhiều, gặp sát tương xung, hoặc cô thần, điếu khách, tang môn là người xa quê hương để đi theo tăng đạo hoặc buôn bán; gặp lưu niên thì ốm đau, bệnh tật kinh dị; gặp quan phù thì bị việc quan.
Mệnh có: Người hiếu động, đi khắp bốn phương như quân nhân, thương nhân hoặc làm ngoại giao thường đi công tác.
Mã- Đi xa: Tiêu chí dự đoán đi nước ngoài.
Bị hơp: Mã tinh bị hợp chặt - Có như không, mã tinh bị xung mất thì ngày đi nghìn dặm. Nữ giới gặp mã tinh thì tâm bất an, không ở một chỗ, là tượng bất lợi.
Tra: Thân tí thìn mã ở dần, dần ngọ tuất ở thân. Tị dậu sửu mã ở hợi, hợi mão mùi mã ở tị.

+ Pháp tu cho người thường phải đi các phương: Pháp tu theo Kinh “Diệt trừ tối tăm trong mười phương”, là đi về phương nào thì lễ Phật phương đó sẽ viễn mãn ý nguyện

+ Khách cần bổ xung thông tin: Liên hệ sao cho Khách đã bổ xung đầy đủ thông tin cần thiết thì chuyển sang các tiêu trí lưu trữ tương ứng

Tóm lược về Bính Dần

Bính dần, Đinh mão: Lô trung hỏa
Dần ở địa chi là ngôi thứ 3, Mão ở địa chi là ngôi thứ 4, (bính, đinh trong ngũ hành thuộc hỏa) hỏa đã đạt đến vị trí chính lại được dần mão thuộc mộc. Trong ngũ hành trợ giúp. Khi này trời đất phảng phất như lửa trong lò mới sinh, vạn vật vừa mới bắt đầu sinh trưởng mà gọi là Lô Trung hỏa trời đất như lò lửa, âm dương như than củi (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Ất Sửu

Giáp tý, Ất sửu : Hải trung kim
Bởi ngũ hành của tý đối ứng là thủy, thủy còn gọi là hồ lớn, nơi đó thế thủy thịnh vượng. Trong ngũ hành kim tử ở tý, tàng mộ ở sửu. Thủy thế thịnh vượng kim lại tử ở đó cho nên gọi là Hải trung kim (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

+ Tóm lược về Giáp Tý: Giáp tý, Ất sửu là Mệnh Hải trung kim
Bởi ngũ hành của tý đối ứng là thủy, thủy còn gọi là hồ lớn, nơi đó thế thủy thịnh vượng. Trong ngũ hành kim tử ở tý, tàng mộ ở sửu. Thủy thế thịnh vượng kim lại tử ở đó cho nên gọi là Hải trung kim (Nguồn: Can Chi Thông Luận).

Năm - Tháng - Ngày - Giờ. Mệnh TKĐX

Mệnh - Năm Xung Sửu - Mùi: 4 Xung 1

Mệnh - Năm Xung Sửu - Mùi: 3 Xung 1

MN Xung Sửu - Mùi: 2 - 1

Mệnh - Năm Xung Sửu - Mùi: 1 - 1

Mệnh - Năm Xung Thìn - Tuất: 4 - 1

Mệnh - Năm Xung Thìn - Tuất: 3 - 1

Mệnh - Năm Xung Thìn - Tuất: 2 - 1

Mệnh - Năm Xung Thìn - Tuất: 1 - 1

Mệnh - Năm Xung Tị - Hợi: 4 - 1

Mệnh - Năm Xung Tị - Hợi: 3 - 1

Mệnh - Năm Xung Tị - Hợi: 2 - 1

Mệnh Năm Xung Tị - Hợi: 1 - 1

Mệnh - Năm Xung Dần - Thân: 4 - 1

MN Xung Dần - Thân: 3 - 1

Mệnh - Năm Xung Dần - Thân: 2 - 1

Mệnh - Năm Xung Dần - Thân: 1 - 1

Mệnh - Năm Xung Mão - Dậu 4 X 1

Mệnh - Năm Xung Mão - Dậu 3 Xung 1

Mệnh - Năm Xung Mão - Dậu 2 Xung 1

Mệnh - Năm Xung Mão - Dậu 1 X 1

Mệnh - Năm Xung Tý - Ngọ: 4 - 1

Mệnh - Năm Xung Tý - Ngọ: 3 - 1

Mệnh - Năm Xung Tý - Ngọ: 2 - 1

Mệnh - Năm Xung Tý - Ngọ: 1 - 1

Mệnh - Vận Xung Sửu - Mùi: 4 - 1

Mệnh - Vận Xung Sửu - Mùi: 3 - 1

Mệnh - Vận Xung Sửu - Mùi: 2 - 1

Mệnh - Vận Xung Sửu - Mùi: 1 - 1

Mệnh - Vận Xung Thìn - Tuất: 4 - 1

Mệnh Vận Xung Thìn - Tuất: 3 - 1

Mệnh - Vận Xung Thìn - Tuất: 2 - 1

Mệnh - Vận Xung Thìn - Tuất: 1 - 1

Mệnh Vận Xung Tị - Hợi: 4 - 1

Mệnh - Vận Xung Tị - Hợi: 3 - 1

Mệnh - Vận Xung Tị - Hợi: 2 - 1

Mệnh - Vận Xung Tị - Hợi: 1 - 1

Mệnh Vận Xung Dần - Thân: 4 - 1

Mệnh Vận Xung Dần - Thân: 1 - 1

Mệnh - Vận Xung Dần - Thân: 2 - 1

Mệnh - Vận Xung Dần - Thân: 1 - 1

Mệnh - Vận Xung Mão - Dậu 4 Xung 1

Mệnh - Vận Xung Mão - Dậu 3 Xung 1

Mệnh - Vận Xung Mão - Dậu: 2 Xung 1

Mệnh - Vận xung Mão - Dậu 1 X 1

Mệnh - Vận Xung Tý - Ngọ: 3 - 1

Mệnh - Vận Xung Tý - Ngọ: 3 - 1

Mệnh - Vận Xung Tý - Ngọ: 2 - 1

Mệnh - Vận Xung Tý - Ngọ: 1 - 1

Trùng 6 trụ gồm 4 trụ Mệnh với Đại vận và Lưu niên Thái tuế

Trùng 5 trụ gồm 4 trụ Mệnh với Đại vận hoặc Lưu niên

Trùng các trụ Năm - Tháng và Vận và Lưu niên Thái tuế

Trùng các trụ Ngày - Giờ và Vận và Lưu niên Thái tuế

Trùng các trụ Tháng - Giờ và Vận và Lưu niên Thái tuế

Trùng các trụ Tháng - Ngày và Vận và Lưu niên Thái tuế

Trùng các trụ Năm - Giờ và Vận và Lưu niên Thái tuế

Trùng các trụ Năm - Ngày và Vận và Lưu niên Thái tuế

Trùng các trụ Tháng - Ngày - Giờ thuộc nguyên mệnh

Trùng trụ Năm - Tháng - Ngày - Giờ nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ Ngày - Giờ với trụ Lưu niên Thái Tuế

Trùng trụ Tháng - Giờ với trụ Lưu niên Thái Tuế

Trùng trụ Tháng - Ngày với trụ Lưu niên Thái Tuế

Trùng trụ Tháng với trụ Lưu niên Thái Tuế

Trùng trụ Năm - Giờ với trụ Lưu niên Thái Tuế

Trùng trụ Năm - Ngày với trụ Lưu niên Thái Tuế

Trùng trụ Năm - Tháng với trụ Lưu niên Thái Tuế

Trùng trụ Năm với trụ Lưu niên Thái Tuế

Trùng các trụ Ngày - Giờ - Vận giống nhau

Trùng các trụ Tháng - Giờ - Vận giống nhau

Trùng các trụ Tháng - Ngày - Vận giống nhau

Trùng trụ Tháng - Vận gống nhau

Trùng trụ Năm - Giờ - Vận gống nhau

Trùng trụ Năm - Ngày - Vận gống nhau

Trùng trụ Năm - Tháng - Vận gống nhau

Trùng trụ Năm - Vận gống nhau

Trùng trụ Năm - Tháng - Giờ nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ Năm - Tháng - Ngày nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ Ngày - Giờ nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ Tháng - Giờ nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ Tháng - Ngày nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ Năm - Giờ nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ Năm - Ngày nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ Năm - Tháng nguyên mệnh giống nhau

Trùng trụ: Thiên Địa giống nhau giữa Mệnh - Vận - Năm Thái tuế

Cách Kim thanh Thủy lạnh

Cách Mộc Hỏa phát sáng

Cách cục Ngũ Hành

Cách Cục đặc biệt

Cách Thực Thương sinh tài

Cách Sát Ấn tương sinh

Cách Tài Sát tương sinh

Lá số cấp II: Cần cập nhật sáu tháng/ lần: Cần quan tâm hỏi thăm, tư vấn tu hành cải mệnh miễn phí

Lá số cấp III: Cần cập nhật 03 tháng/ lần (Cần quan tâm tư vẫn tu hành cải mệnh)

Lá số cấp I -Cần cập nhật hàng năm (Cần quan tâm sinh nhật)

Mậu hợp Quý hóa Hỏa- Mệnh: 1 Mậu hợp 1 Quý

Mậu hợp Quý hóa Hỏa- Mệnh: 3 Mậu hợp 1 Quý hoặc 3 Quý hợp 1 Mậu

Mậu hợp Quý hóa Hỏa- Mệnh: 2 Mậu hợp 1 Quý hoặc 2 Quý hợp 1 Mậu

Đinh hợp Nhâm hóa Mộc- Mệnh: 3 Đinh hợp 1 Nhâm hoặc 3 Nhâm hợp 1 Đinh

Đinh hợp Nhâm hóa Mộc- Mệnh: 2 Đinh hợp 1 Nhâm hoặc 2 Nhâm hợp 1 Đinh

Đinh hợp Nhâm hóa Mộc- Mệnh: 1 Đinh hợp 1 Nhâm hoặc 1 Nhâm hợp 1 Đinh

Bính hợp Tân thành Thủy - Mệnh: 3 Bính hợp 1 Tân hoặc 3 Tân hợp 1 Bính

Bính hợp Tân thành Thủy - Mệnh: 2 Bính hợp 1 Tân hoặc 2 Tân hợp 1 Bính

Bính hợp Tân thành Thủy - Mệnh: 1 Bính hợp 1 Tân

Thiên can Mệnh: 2 Ất hợp 1 Canh hoặc 1 Ất hợp 2 Canh

Thiên can Mệnh: 1 Ất hợp 1 Canh

Thiên can Mệnh: 3 Ất hợp 1 Canh hoặc 1 Ất hợp 3 Canh

Can Giáp hợp Kỷ - Nhị hợp (1 Giáp hợp 3 Kỷ hoặc 3 Giáp hợp 1 Kỷ)

Can Giáp hợp Kỷ - Nhị hợp (1 Giáp hợp 2 Kỷ hoặc 2 Giáp hợp 1 Kỷ)

Nguyên mệnh: Can Giáp hợp Kỷ - Đơn hợp (1 Giáp hợp 1 Kỷ )

Tương Hình: Tuất hình Mùi Mệnh: 2 Tuất Hình 1 Mùi hoặc 2 Mùi hình 1 Tuất

Tương Hình: Tuất hình Mùi Mệnh: 3 Tuất Hình 1 Mùi hoặc 3 Mùi hình 1 Tuất

Tương Hình: Tuất hình Mùi Mệnh: 1 Tuất Hình 1 Mùi hoặc 1 Mùi hình 1 Tuất

Tương Hình: Sửu hình Tuất Mệnh: 3 Sửu Hình 1 Tuất hoặc 3 Tuất hình 1 Sửu

Tương Hình: Sửu hình Tuất Mệnh: 2 Sửu Hình 1 Tuất hoặc 2 Tuất hình 1 Sửu

Tương Hình: Sửu hình Tuất Mệnh: 1 Sửu Hình 1 Tuất hoặc 1 Tuất hình 1 Sửu

Tương Hình: Mùi hình Sửu Mệnh: 3 Mùi Hình 1 Sửu hoặc 3 Sửu hình 1 Mùi

Tương Hình: Mùi hình Sửu Mệnh: 2 Mùi Hình 1 Sửu hoặc 2 Sửu hình 1 Mùi

Tương Hình: Mùi hình Sửu Mệnh: 1 Mùi Hình 1 Sửu hoặc 1 Sửu hình 1 Mùi

Tam hình Mùi - Sửu - Tuất theo nguyên mệnh (2.3.4: Tháng ngày giờ tam hình)

Tam hình Mùi - Sửu - Tuất theo nguyên mệnh (1.2.4: Năm tháng giờ tam hình)

Tam hình Mùi - Sửu - Tuất theo nguyên mệnh (1.2.3: Năm tháng ngày tam hình)

Tam hình Dần - Tị - Thân theo nguyên mệnh (2.3.4: tháng ngày giờ tam hình)

Tam hình Dần - Tị - Thân theo nguyên mệnh (1.2.4: Năm tháng giờ tam hình)

Tam hình Dần - Tị - Thân theo nguyên mệnh (1.2.3: Năm tháng ngày tam hình)

Tương Hình: Thân hình Dần Mệnh: 3 Thân Hình 1 Dần hoặc 3 Dần hình 1 Thân

Tương Hình: Thân hình Dần Mệnh: 2 Thân Hình 1 Dần hoặc 2 Dần hình 1 Thân

Tương Hình: Thân hình Dần Mệnh: 1 Thân Hình 1 Dần hoặc 1 Dần hình 1 Thân

Tương Hình: Tị hình Thân Mệnh: 3 Tị Hình 1 Thân hoặc 3 Thân hình 1 Tị

Tương Hình: Tị hình Thân Mệnh: 2 Tị Hình 1 Thân hoặc 2 Thân hình 1 Tị

Tương Hình: Tị hình Thân Mệnh: 1 Tị Hình 1 Thân hoặc 1 Thân hình 1 Tị

Tương Hình: Dần - Tị Mệnh: 3 tý Hình 1 Mão hoặc 3 Mão hình 1 Tý

Tương Hình: Dần - Tị Mệnh: 2 tý Hình 1 Mão hoặc 2 Mão hình 1 Tý

Tương Hình: Dần - Tị Mệnh: 1 tý Hình 1 Mão hoặc 1 Mão hình 1 Tý

Tý hình Mão theo nguyên mệnh: Mệnh: 3 tý Hình 1 Mão hoặc 3 Mão hình 1 Tý

Tý hình Mão theo nguyên mệnh: Mệnh: 2 tý Hình 1 Mão hoặc 2 Mão hình 1 Tý

Tý hình Mão theo nguyên mệnh: Mệnh: 1 Hình 1

Hợp hóa Thủy - Mệnh

Hợp hóa Kim - Mệnh

Hợp hóa Thổ - Mệnh

Hợp hóa Hỏa - Mệnh

Hợp hóa Mộc - Mệnh

Tam hội Hợi Tý Sửu Mệnh (1.2.3: tháng ngày giờ hội)

Tam hội Hợi Tý Sửu Mệnh (1.2.3: Năm tháng giờ hội)

Tam hội Hợi Tý Sửu Mệnh (1.2.3: Năm tháng ngày hội)

Tam hội Mệnh Thân Dậu Tuất (2.3.4: Tháng ngày giờ hội)

Tam hội Mệnh Thân Dậu Tuất (1.2.4: Năm tháng giờ hội)

Tam hội Mệnh Thân Dậu Tuất (1.2.3: Năm tháng ngày hội)

Tam hội Mệnh Tị Ngọ Mùi (2.3.4: Tháng ngày giờ hội)

Tam hội Mệnh Tị Ngọ Mùi (1.2.4: Năm tháng giờ hội)

Tam hội Mệnh Tị Ngọ Mùi (1.2.3: Năm tháng ngày hội)

Tam hội Mệnh Dần Mão Thìn (1.2.3: tháng ngày giờ hội)

Tam hội Mệnh Dần Mão Thìn (1.2.4: Năm tháng giờ hội)

Tam hội Mệnh Dần Mão Thìn (1.2.3: Năm tháng ngày hội)

Tam hợp Tị Dậu Sửu - Mệnh (2.3.4: Tháng ngày giờ hợp)

Tam hợp Tị Dậu Sửu - Mệnh 1.2.4: Năm tháng giờ hợp

Tam hợp nguyên Mệnh: Tị Dậu Sửu (1.2.3: Năm tháng ngày hợp)

Dần Ngọ Tuất - Mệnh (2.3.4: Tháng ngày giờ hợp)

Tam hợp Dần Ngọ Tuất - Mệnh (1.2.4: Năm tháng giờ hợp)

Tam hợp nguyên Mệnh: Dần Ngọ Tuất (1.2.3: Năm tháng ngày hợp)

Hợi Mão Mùi - Mệnh (2.3.4: Tháng ngày giờ hợp)

Tam hợp Hợi Mão Mùi - Mệnh (1.2.4: Năm tháng giờ hợp)

Tam hợp nguyên Mệnh: Hợi Mão Mùi (1.2.3: Năm tháng ngày hợp)

Tam hợp nguyên Mệnh: Thân Tý Thìn (1.2.3: Năm Tháng Ngày hợp)

Tam hợp Thân Tý Thìn: Mệnh (1.2.4: Năm Tháng Giờ hợp)

Thân Tý Thìn-Mệnh (2.3.4: Tháng ngày giờ hợp)

T + N + G H Năm có Ngọ hợp Mùi

N + N + G H Tháng có Ngọ hợp Mùi

N + T + G H Ngày có Ngọ hợp Mùi

N + T + N H Giờ có Ngọ hợp Mùi

Ngày, Giờ H Tháng có Ngọ hợp Mùi

Năm, Giờ H Tháng có Ngọ hợp Mùi

Năm, Ngày H Tháng có Ngọ hợp Mùi

Ngày, Giờ H Năm có Ngọ hợp Mùi

Tháng, Giờ H Năm có Ngọ hợp Mùi

Tháng, Ngày H Năm Mệnh có Ngọ hợp Mùi

Năm, Tháng H Giờ Mệnh có Ngọ hợp Mùi

Năm, Tháng H ngày Mệnh có Ngọ hợp Mùi

Ngày - Giờ Mệnh có Ngọ hợp Mùi

Tháng - Giờ Mệnh có Ngọ hợp Mùi

Tháng - Ngày Mệnh có Ngọ hợp Mùi

Năm - Giờ Mệnh có Ngọ hợp Mùi

Năm - Ngày Mệnh có Ngọ hợp Mùi

Năm - Tháng Mệnh có Ngọ hợp Mùi

T + N + G H Năm Tị hợp Thân

N + N + G H Tháng Tị hợp Thân

N + T + G H Ngày Tị hợp Thân

N + T + N H Giờ Tị hợp Thân

Ngày, Giờ H Tháng Tị hợp Thân

Năm, Giờ H Tháng Tị hợp Thân

Năm, Ngày H Tháng Tị hợp Thân

Ngày, Giờ H Năm Tị hợp Thân

Tháng, Giờ H Năm Tị hợp Thân

Tháng, Ngày H Năm Tị hợp Thân

Năm, Tháng H Giờ Tị hợp Thân

Năm, Tháng H ngày Tị hợp Thân

Ngày - Giờ MH Tị hợp Thân

Tháng - Giờ MH Tị hợp Thân

Tháng - Ngày MH Tị hợp Thân

Năm - Giờ MH Tị hợp Thân

Năm - Ngày MH Tị hợp Thân

Năm - Tháng MH Tị hợp Thân

T + N + G H Năm Thìn hợp dậu

N + N + G H Tháng Thìn hợp Dậu

N + T + G H Ngày Thìn hợp Dậu

N + T + N H Giờ Thìn hợp Dậu

Ngày, Giờ H Tháng Thìn hợp Dậu

Năm, Giờ H Tháng Thìn hợp Dậu

Năm, Ngày H Tháng Thìn hợp Dậu

Ngày, Giờ H Năm Thìn hợp Dậu

Tháng, Giờ H Năm Thìn hợp Dậu

Tháng, Ngày H Năm Thìn hợp Dậu

Năm, Tháng H Giờ Thìn hợp Dậu

Năm, Tháng H ngày Thìn hợp Dậu

Ngày - Giờ MH Thìn-Dậu

Tháng - Giờ MH Thìn-Dậu

Tháng - Ngày MH Thìn-Dậu

Năm - Giờ MH Thìn-Dậu

Năm - Ngày MH Thìn-Dậu

Năm - Tháng MH Thìn-Dậu

T + N + G H Năm Mão hợp Tuất

N + N + G H Tháng Mão hợp Tuất

N + T + G H Ngày Mão hợp Tuất

N + T + N H Giờ Mão hợp Tuất

Ngày, Giờ H Tháng Mão hợp Tuất

Năm, Giờ H Tháng Mão hợp Tuất

Năm, Ngày H Tháng Mão hợp Tuất

Ngày, Giờ H Năm Mão hợp Tuất

Tháng, Giờ H Năm Mão hợp Tuất

Tháng, Ngày H Năm Mão hợp Tuất

Năm, Tháng H Giờ Mão hợp Tuất

Năm, Tháng H ngày Mão hợp Tuất

Ngày - Giờ MH Mão-Tuất

Tháng - Giờ MH Mão-Tuất

Tháng - Ngày MH Mão-Tuất

Năm - Giờ MH mão-Tuất

Năm - Ngày MH Mão-Tuất

Năm - Tháng MH Mão-Tuất

T + N + G H Năm Dần hợp Hợi

N + N + G H Tháng Dần hợp Hợi

N + T + G H Ngày Dần hợp Hợi

N + T + N H Giờ Dần hợp Hợi

Ngày, Giờ H Tháng Dần hợp Hợi

Năm, Giờ H Tháng Dần hợp Hợi

Năm, Ngày H Tháng Dần hợp Hợi

Ngày, Giờ H Năm Dần - Hợi

Tháng, Giờ H Năm Dần hợp Hợi

Tháng, Ngày H Năm Dần hợp Hợi

Năm, Tháng H ngày Dần hợp hợi

Năm, Tháng H Giờ Dần hợp Hợi

Ngày - Giờ MH Dần-Hợi

Tháng - Giờ MH Dần-Hợi

Tháng - Ngày MH Dần-Hợi

Năm - Giờ MH Dần-Hợi

Năm - Ngày MH Dần-Hợi

Năm - Tháng Mệnh Dần hợp Hợi

T + N + G Hợp Năm Tý - Sửu

N + N + G hợp Tháng Tý - Sửu

N + T + G hợp Ngày Tý - Sửu

N + T + N hợp Giờ Tý - Sửu

Ngày & Giờ Hợp Tháng Tý - Sửu

Năm & Giờ Hợp Tháng Tý - Sửu

Năm & Ngày Hợp Tháng Tý - Sửu

Ngày & Giờ hợp Năm Tý - Sửu

Tháng & Giờ hợp Năm Tý - Sửu

Tháng & Ngày hợp Năm Tý - Sửu

Năm & Tháng hợp Giờ Tý - Sửu

Năm & Tháng Hợp ngày Tý - Sửu

Ngày - Giờ Mệnh hợp Tý - Sửu

Tháng - Giờ Mệnh hợp Tý - Sửu

Tháng - Ngày Mệnh hợp Tý - Sửu

Năm - Giờ Mệnh hợp Tý - Sửu

Năm - Ngày Mệnh Hợp Tý - Sửu

Năm - Tháng Mệnh Tý hợp Sửu

Tam Hình MVN

Tam Hình MV

Tam Hội MVN

Tam Hội MV

Tam Hợp MVN

Tam Hợp MV

Thiên Địa MVN

Chi Hợp MVN

Chi Hợp MV

Đại Vận Và Thái Tuế xung: Thiên khắc Địa Xung - Thiên hợp Địa xung - Thiên sinh Địa xung

Chi Mệnh Xung Năm Thái Tuế

Chi Mệnh xung Vận

Quy Nạp Khác: Hợp câu mẫu thường nói, ví dụ: Tỷ kiếp nhiều là Cha mất trước

Vận - Thái tuế Thiên hợp Địa xung Sửu - Mùi

Vận - Thái tuế Thiên hợp Địa xung Sửu - Mùi

Vận - Năm Thái tuế Thiên khắc Địa xung Sửu - Mùi

Vận - Năm Thái Tuế Thiên sinh Địa xung Thìn - Tuất

Vận - Thái tuế Thiên hợp Địa xung Thìn - Tuất

Vận - Thái tuế Thiên sinh Địa xung Tị - Hợi

Vận - Thái tuế Thiên hợp Địa xung Tị - Hợi

Vận - Năm Thái Tuế Thiên khắc Địa xung Thìn - Tuất

Vận - Năm Thái Tuế Thiên khắc Địa xung Tị - Hợi

Vận - Thái tuế Thiên sinh Địa xung Dần - Thân

Vận - Thái tuế Thiên hợp Địa xung Dần - Thân

Vận - Thái tuế Thiên khắc Địa xung Dần - Thân

Vận - Thái tuế Thiên sinh Địa xung Mão - Dậu

Vận - Thái tuế Thiên hợp Địa xung Mão - Dậu

Vận - Năm Thái Tuế Thiên khắc Địa xung Mão - Dậu

VN: Tý - Ngọ Thiên sinh Địa xung

VN: Tý - Ngọ Thiên hợp Địa xung

Vận - Năm Thái Tuế Xung Tý - Ngọ: Thiên khắc địa xung

T + N + G Xung Năm Sửu - Mùi

N + N + G Xung Tháng Sửu - Mùi

N + T + G Xung Ngày Sửu - Mùi

N + T + N Xung Giờ Sửu - Mùi

Ngày & Giờ Xung Tháng Sửu - Mùi

Năm & Giờ Xung Tháng Sửu - Mùi

Năm & Ngày Xung Tháng Sửu - Mùi

Ngày & Giờ Xung Năm Sửu - Mùi

Tháng & Giờ Xung Năm Sửu - Mùi

Tháng & Ngày Xung Năm Sửu - Mùi

Năm & Tháng Xung Giờ Sửu - Mùi

Năm & Tháng Xung ngày Sửu - Mùi

Ngày - Giờ Mệnh Xung Sửu - Mùi

Tháng - Giờ Mệnh Xung Sửu - Mùi

Tháng - Ngày Mệnh Xung Sửu - Mùi

Năm - Giờ Mệnh Xung Sửu - Mùi

Năm - Ngày Mệnh Xung Sửu - Mùi

Năm - Tháng Mệnh Xung Sửu - Mùi

T + N + G Xung Năm Thìn - Tuất

N + N + G Xung Tháng Thìn - Tuất

N + T + G Xung Ngày Thìn - Tuất

N + T + N Xung Giờ Thìn - Tuất

Ngày & Giờ Xung Tháng Thìn - Tuất

Năm & Giờ Xung Tháng Thìn - Tuất

 Năm & Ngày Xung Tháng Thìn - Tuất

Ngày & Giờ Xung Năm Thìn - Tuất

Tháng & Giờ Xung Năm Thìn - Tuất

Tháng & Ngày Xung Năm Thìn - Tuất

Năm & Tháng Xung Giờ Thìn - Tuất

Năm & Tháng Xung ngày Thìn - Tuất

Ngày - Giờ Mệnh Xung Thìn - Tuất

Tháng - Giờ Mệnh Xung Thìn - Tuất

Tháng - Ngày Mệnh Xung Thìn - Tuất

Năm - Giờ Mệnh Xung Thìn - Tuất

Năm - Ngày Mệnh Xung Thìn - Tuất

Năm - Tháng Mệnh Xung Thìn - Tuất

T + N + G Xung Năm Dần - Thân

N + N + G Xung Tháng Dần - Thân

N + T + G Xung Ngày Dần - Thân

N + T + N Xung Giờ Dần - Thân

Ngày & Giờ Xung Tháng Dần - Thân

Năm & Giờ Xung Tháng Dần - Thân

Năm & Ngày Xung Tháng Dần - Thân

Ngày & Giờ Xung Năm Dần - Thân

Tháng & Giờ Xung Năm Dần - Thân

Tháng & Ngày Xung Năm Dần - Thân

Năm & Tháng Xung Giờ Dần - Thân

Năm & Tháng Xung ngày Dần - Thân

Ngày - Giờ Mệnh Xung Dần - Thân

Tháng - Giờ Mệnh Xung Dần - Thân

Tháng - Ngày Mệnh Xung Dần - Thân

Năm - Giờ Mệnh Xung Dần - Thân

Năm - Ngày Mệnh Xung Dần - Thân

Năm - Tháng Mệnh Xung Dần - Thân

T + N + G Xung Năm Mão - Dậu

N + N + G Xung Tháng Mão - Dậu

N + T + G Xung Ngày Mão - Dậu

N + T + N Xung Giờ Mão - Dậu

Ngày & Giờ Xung Tháng Mão - Dậu

Năm & Giờ Xung Tháng Mão - Dậu

Năm & Ngày Xung Tháng Mão - Dậu

Ngày & Giờ Xung Năm Mão - Dậu

Tháng & Giờ Xung Năm mão - Dậu

Tháng & Ngày Xung Năm Mão - Dậu

Năm & Tháng Xung Giờ Mão - Dậu

Năm & Tháng Xung ngày Mão - Dậu

Ngày - Giờ Mệnh Xung Mão - Dậu

Tháng - Giờ Mệnh Xung Mão - Dậu

Tháng - Ngày Mệnh Xung Mão - Dậu

Năm - Giờ Mệnh Xung Mão - Dậu

Năm - Ngày Mệnh Xung Mão - Dậu

Năm - Tháng Mệnh Xung Mão - Dậu

Tháng + Ngày + Giờ Xung Năm Tý - Ngọ Mệnh

Năm + Ngày + Giờ Xung Tháng Tý - Ngọ Mệnh

Năm + Tháng + Ngày Xung Giờ Tý - Ngọ Mệnh

Năm + Tháng + Ngày Xung Giờ Tý - Ngọ Mệnh

Ngày & Giờ Xung Tháng Tý - Ngọ Mệnh

Năm & Giờ Xung Tháng Tý - Ngọ Mệnh

Năm & Ngày Xung Tháng Tý - Ngọ Mệnh

Ngày & Giờ Xung Năm Tý - Ngọ Mệnh

Tháng & Giờ Xung Năm Tý - Ngọ Mệnh

Tháng & Ngày Xung Năm Tý - Ngọ - Mệnh

Năm và Tháng Xung Giờ Tý - Ngọ - Mệnh

Năm và Tháng Xung Ngày Tý - Ngọ Mệnh

Ngày - Giờ Mệnh Xung Tý - Ngọ

Tháng - Giờ Mệnh Xung Tý - Ngọ

Tháng - Ngày Mệnh Xung Tý - Ngọ

Năm - Giờ Mệnh Xung Tý - Ngọ

Năm - Ngày Mệnh Xung Tý - Ngọ

Năm - Tháng Mệnh Xung Tý - Ngọ

Tháng + Ngày + Giờ Tị - Hợi Xung Năm

Năm + Ngày + Giờ - Tị Hợi Xung Tháng

Năm + Tháng + Giờ Tị - Hợi Xung Ngày

Năm + Tháng + Ngày Tị - Hợi Xung Giờ

Ngày & Giờ Tị - Hợi Xung Tháng

Năm & Giờ Tị - Hợi Xung Tháng

Năm & Ngày Tị - Hợi Xung Tháng

Ngày & Giờ Tị - Hợi Xung Năm

Tháng & Giờ Tị - Hợi Xung Năm

Tháng & Ngày Tị - Hợi Xung Năm

Năm & Tháng Tị - Hợi Xung Giờ

Năm Tháng - Tị Hợi Xung Ngày

Tháng Giờ - Tị Hợi Mệnh Xung

Tháng Ngày - Tị Hợi - Mệnh Xung

Năm - Giờ - Tị Hợp Mệnh Xung

Năm - Ngày - Tị Hợi Mệnh Xung

Năm - Tháng - Tị Hợi Mệnh Xung

Ngày Giờ - Tị Hợi Mệnh Xung

Mệnh Thuần Tạp

+ Xét Âm Dương:
Nhân Cách: Người Hướng Nội - Hướng Ngoại

+ Bản Chất: Âm Dương Dị Đồng: Phật dậy A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện thành thế giới hữu vi. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; Những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
- Bản thể của hiện tượng là Như Lai Tạng thì bao trùm khắp 10 phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắp mà biến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong tiến trình bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Nói cách khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến hiện thành ra thế giới hữu vi.

- Phẩm Tính Âm Dương Đối Chọi: Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có 3 trường hợp về tánh đồng và dị:
1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì việc kéo rất dễ dàng.
Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội - Làm giảm bớt, hao tổn sức mạnh. Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn.
2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống thì khắc nhau (Tương khắc, đẩy nhau) và Dị tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau (Tương hợp, hút nhau). Thí dụ hai người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương thì nó sẽ hút lại.
3) Đồng chủng tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại thì phụ cho nhau nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay.
- Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật củ mất đi để hình thành sự vật mới nối tiếp.
- Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện chớp, có đó rồi mất đó. (Tooltip: Tương tác)

Mệnh Lưu Thông - Tắc nghẽn: Tánh ngửi

Kị Thần

Quẻ Thể Dụng Cùng Quẻ

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Người Lý Trí - Hạng Thượng Trí - Nghiệp nhẹ

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Người Lý Trí - Hạng Thượng Trí - Nghiệp vừa

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Người Lý Trí - Hạng Thượng Trí - Nghiệp nặng

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống của Người Trí Cảm - Hạng Thượng căn - Nghiệp nhẹ

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống của Người Trí Cảm - Hạng Thượng căn - Nghiệp vừa

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống của Mệnh Người Trí Cảm - Hạng Thượng căn - Nghiệp nặng

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống của Người Trí Cảm - Hạng Trung căn - Nghiệp nhẹ

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống của Người Trí Cảm - Hạng Trung căn - Nghiệp vừa

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống của Người Trí Cảm - Hạng Trung căn - Nghiệp nặng

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống Thuần Cảm dục - Hạng Hạ căn - Nghiệp nhẹ

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống Thuần Cảm dục - Hạng Hạ căn - Nghiệp vừa

Đẳng cấp tiến hóa của tâm thức: Xu hướng sống Thuần Cảm dục - Hạng Hạ căn - Nghiệp nặng

Đẳng Cấp Tiến Hóa Tâm Thức

Con Đường hướng đến Tâm Linh Tinh Thần

Con Đường kết hợp giữa Vất Chất Và Tâm Linh

Đi sâu vào Đời Sống Vật Chất nếm trải đau khổ và diệt trừ đau khổ

Con đường đạo - Mục Tiêu tiến hóa Của Kiếp Sống: Là mục tiêu của Linh hồn ấn định khi đầu thai tái sanh với tình trạng cá nhân như sức khỏe, tuổi thọ, xinh sấu, cao thấp, giầu nghèo ..... và hoàn cảnh sống như có cha mẹ, anh em, bạn bè, đồng nghiệp ... như thế là để trả nghiệp.

Cách Theo 10 Thần

Thân Vượng Nhược

Hướng ngoại - Hướng nội. Tính chất Ngũ hành/ Tứ đại:
Tính chất: Phong - Động hay Tĩnh
Ngũ khiếu/ Giác quan: Tánh nghe

Tính chất Ngũ hành/ Tứ đại:
Tính chất Hỏa: Tánh nóng
Ngũ khiếu/ Giác quan: Mắt - Sáng Tối và cái thấy biết

Tính Khô Ướt

Mệnh cương hay nhu

Người hướng nội

Người thiên về hướng nội

Người thiên về hướng ngoại

Là Kim - Thực Thương

Là Kim - Thê Tài

Là Kim - Quan Quỷ

Là Thủy - Tỷ Kiếp

Là Kim - Tỷ Kiếp

Là Thổ - Tỷ Kiếp

Là Hỏa - Tỷ Kiếp

Là Mộc - Quan Quỷ

Là Mộc - Thực Thương

Là Mộc - Thê Tài

Là Giáp - Dần Mộc và Hướng Đông. Là Tỷ Kiếp

Người Trung dung

Mệnh thiên về khô nóng

Mệnh Khô Nóng

Thiên về hàn lạnh

Mệnh ấm ấp

Trong vòng 10 năm

Trong vòng 7 năm

Trong vòng 5 năm

Trong vòng 3 năm

Trong vòng 24 tháng

Ứng nghiệm trong vòng 5 ngày kể từ khi dự đoán

Ứng nghiệm rất nhanh

Ứng nghiệm trong vòng 365 ngày kể từ khi dự đoán

Ứng nghiệm trong vòng 270 ngày kể từ khi dự đoán

Ứng nghiệm trong vòng 180 ngày kể từ khi dự đoán

Ứng nghiệm trong vòng 90 ngày kể từ khi dự đoán

Ứng nghiệm trong vòng 60 ngày kể từ khi dự đoán

Ứng nghiệm trong vòng 30 ngày kể từ khi dự đoán

Ứng nghiệm trong vòng 20 ngày kể từ khi dự đoán

Ứng nghiệm trong vòng 10 ngày kể từ khi dự đoán

Mệnh Khá Lưu Thông

Thuần Dương

Dương nhiều Âm ít

Mệnh 1 Dương Xen 1 Âm

Mệnh Dương bao Âm

Mệnh Âm bao Dương

Thân Cực Vượng

Mệnh Hàn Lạnh

Mệnh Lưu Thông

Mệnh Khá Thuần

Mệnh Khá Tạp

Mệnh Khí Thuần

Mệnh Khí Tạp

Chi Ngày

Ngũ H Can ngày

Can Năm

Trụ Năm

Giờ Thìn

Giờ Hợi

Giờ Tuất

Giờ Dậu

Giờ Thân

Giờ Mùi

Giờ Ngọ

Giờ Tị

Giờ Mão

Giờ Dần

Giờ Sửu

Giờ Tý

Giờ Quí

Giờ Nhâm

Giờ Tân

Giờ Canh

Giờ Kỷ

Giờ Mậu

Giờ Đinh

Giờ Bính

Can giờ là Ất

Can giờ là Giáp

Năm Hợi

Năm Tuất

Năm Dậu

Năm Thân

Năm Mùi

Năm Ngọ

Năm Tị

Năm Thìn

Năm Mão

Năm Dần

Năm Sửu

Năm Tý

Tháng Quí

Tháng Nhâm

Tháng Tân

Tháng Kỷ

Tháng Mậu

Tháng Đinh

Tháng Canh

Tháng Bính

Can tháng là Ất Mộc

Can tháng là Giáp Mộc

Chi Ngày Mùi

Chi Ngày Hợi

Chi Ngày Tuất

Chi Ngày Dậu

Chi Ngày Thân

Chi Ngày Ngọ

Chi Ngày Tị

Chi Ngày Mão

Chi Ngày Mão

Chi Ngày Dần

Chi Ngày Sửu

Chi Ngày Tý

Là Quý Thủy

Là Nhâm Thủy

Là Tân Kim

Là Canh Kim

Là Kỷ Thổ

Là Mậu Thổ

Là Đinh hỏa

Là Bính hỏa

Là Ất Mộc

Là Giáp Mộc

Mệnh Ướt

Mệnh khô

Mệnh trung bình

Người Hướng ngoại

Gió - Mộc
+ Gió chính là phong giới, vì thế gian căn cứ vào sự chuyển động để gọi tên hoặc giống như trường hợp của đất v.v. Ở đây cũng tùy theo cách gọi của thế gian nên gọi là gió. Gió chính là màu sắc và hình dạng vì thế mới nói là “cũng như vậy” (diệc dĩ).  Như thế gian nói “gió đen,” “gió xoáy,” v.v., tức đã dựa vào màu sắc và hình dạng để chỉ cho gió. (Nguồn: (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q3- HT Tuyên Hóa)

Hào Động Sinh Kị Thần khắc hại Thế/ Dụng

Hào Động Sinh Thế/ Dụng Thần

Hào Kị Thần động Sinh Hỷ, Hỷ thần cũng động Sinh hào Dụng Thần hoặc hào Thế. Hào Kị phát động ở gần hào Thế/ Dụng, nhưng trong quẻ có hào khác động được hào kị động tương sinh thì vẫn được xem là tương sinh liên tục, chứ không xem là hào Kị động khắc hào Thế/ Dụng do ở liền, gần hào kị phát động.

Các VD: Xem Quẻ con ; 

Mệnh Cứng nhắc - Cương cường

Mệnh khá Cứng - Khá cương cứng

Mệnh thiên về nhu thuận

Mệnh nhu thuận

Mệnh quân bình - Cương nhu thông biến

Ngày, Tháng Hợp Hào Động

+ Ngày Thực động và Giờ Xung Hào động bị Hợp

Ví như Hào động là Dụng thần, bị ngày, tháng hay Hào động hợp chặt, thì thời điểm ứng nghiệm là ngày thực động, với giờ là giờ Xung yếu tố đang hợp Hào động. (Quẻ ví dụ: Xem tại đây)

+ Ví dụ: Như tháng Mùi, ngày Bính Tý, chiêm xuất môn, được quẻ Minh Di biến Tiểu Quá. Đoán về ứng nghiệm: (1) Ứng không đi được là Thế động mà gặp hợp. (2) Ứng con gái chết về ngày Thìn, vì lẽ Mão mộc Tử tôn biến ra Thìn thổ. Đó là chỗ ứng nghiệm của hào gặp hợp, quẻ gặp lục hợp (Tr 53 - Fai MT)

+ Ví dụ: Như tháng Mùi, ngày Bính Tý, chiêm xuất môn, được quẻ Minh Di biến Tiểu Quá. Đoán về ứng nghiệm: (1) Ứng không đi được là Thế động mà gặp hợp. (2) Ứng con gái chết về ngày Thìn, vì lẽ Mão mộc Tử tôn biến ra Thìn thổ. Đó là chỗ ứng nghiệm của hào gặp hợp, quẻ gặp lục hợp (Tr 53 - Fai MT)

Toàn Khắc Không Sinh, Cực Xấu

Sinh Ít Khắc Nhiều - Xấu nhiều Tốt Ít

Vào Ngày, Tháng Xung Mất Hào biến hồi đầu Hợp

Vào Ngày, Tháng Là Hào Biến Hồi Đầu Sinh

Vào Ngày Tháng Là Hào Biến Hồi Đầu Khắc

Ngày Tháng Khắc Mất Hào Khắc

Ngày, Tháng Xung Hào Tham Hợp Quên Sinh

Quẻ này tự xem bệnh cho mình, nên lấy hào Thế Hợi Thủy làm Dụng thần, bị Kỵ thần là Mùi Thổ động nên khắc Thủy, may nhờ có Nguyên thần là Dậu Kim cũng động, nên Kỵ thần Mùi Thổ hồi đầu sinh Nguyên thần Dậu Kim. Kim lại sinh Dụng thần Hợi Thủy, tiếp tục tương sinh, nên hóa hung thành cát. Thế nhưng Hợi Thủy lại bị nguyệt kiến xung (tháng xung), nhật thần khắc ( ngày khắc), gặp nguyệt phá nên bị khắc, tuy được sinh phò, nhưng được sinh cũng không khởi vượng được. Cũng như cây không rễ, cằn cỗi không thể hồi sinh.

Quả nhiên người này chết vào ngày Quý Mão. Sở dĩ ứng vào ngày Mão, vì ngày đó xung mất Nguyên thần. Như vậy gọi là Dụng thần vô căn (bộ Nguyệt phá), cho dù Nguyên thần có lực cũng khó sinh.

Nguồn Xem quẻ TSBD: Xem Về Bệnh Tật Cho Mình

Trang đầu - VII
XEM VỀ CHỨNG KHOÁN
NGÀY KỶ SỬU THÁNG TÝ,
ĐƯỢC QUẺ QUY MUỘI BIẾN ĐOÀI

Lời bàn của Dã Hạc lão nhân:
Tài gặp vượng, suy, hộ, tuyệt, ắt cũng có ngày được lệnh;
Thê gặp không, phá, phục, không, ắt phải có lúc phục hồi.
Nếu hào Tài quá vượng, sẽ đắc lợi vào tháng nhập mộ;
Hào Tài hưu tù, sẽ chấn hưng tại thời điểm sinh vượng;
Hào Tài nhập mộ, cần đợi lúc xung khai;
Hào Tài gặp tuyệt, cần đợi lúc sinh vượng;
Hào Tài gặp nguyệt phá, cần đợi khi điền thực;
Hào Tài bị khắc, đợi đến thời điểm xung mất hào khắc;
Hào Tài phục, đợi đến khi xuất hiện sẽ được giá;
Hào Tài bị hợp mất, cũng phải đợi đến lúc xung khai.

PHÂN TÍCH:
Hào Tài Mão Mộc được nguyệt kiến Tý Thủy tương sinh, là Tài có gốc rễ.
Cổ phiếu trước mắt chưa được giá, vì bị Thân Kim động khắc chế, cần đợi đến tháng Dần xung mất Thân Kim, giá sẽ tăng. Quả nhiên sau đến tháng Dần giá tăng mạnh. Như vậy, nếu hào Tài bị khắc, cần phải đợi đến tháng xung mất hào khắc.

Ất - Tân: 1 khắc 1. Mệnh

Tóm lược về Quý Hợi

Nhâm tuất, Quý hợi: Đại hải thủy
Thủy trong ngũ hành tại tuất là giai đoạn đã thành thục, tại hợi cũng là giai đoạn thành thục. Do đó thủy ở đây thế lực hùng hậu, đồng thời ngũ hành của hợi thuộc thủy đại biểu ý nghĩa của sông đổ ra biển, cho nên gọi nó là nước biển lớn.
Biển cả mênh mông thế vô cùng tận không có gì có thể so sánh được. Nó là nơi quy tụ của các con sông, cho nên các loại nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn...gặp nước biển lớn đều tốt. Nhâm thìn trong nước sông dài phối hợp với nước biển lớn gọi “ Rồng quay về biển” mệnh này phú quý một đời không ai so nổi.
Trong hỏa nó thích lửa trên trời vì mặt trời mọc ở biển Đông. Trong kim nó thích kim đáy biển, trong mộc nó thích gỗ cây dâu, gỗ cây dương liễu, trong thổ nó thích đất dịch chuyển và đất bên đường. Ngoài ra tất cả đều không chịu nổi nước biển lớn gặp nhau tất sẽ lớn, như nước biển lớn gặp lửa sấm sét tạo thành thế nước sung hãn, phong ba bão táp, mệnh người như vậy một đời lao khổ. Cho nên cần phải có thế núi hùng hậu để trấn giữ biển. (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Thiên K - Địa X: Ngày - Giờ. Mệnh

Thiên K - Địa X: Tháng - Giờ. Mệnh

Tháng - Ngày - Giờ. Mệnh TKĐX

Thiên K - Địa X: Tháng - Ngày. Mệnh

Thiên K - Địa X: Năm - Giờ. Mệnh

Năm - Ngày - Giờ. Mệnh TKĐX

Thiên K - Địa X: Năm - Ngày. Mệnh

Thiên K - Địa X: Năm - Tháng. Mệnh

Năm - Tháng - Ngày. Mệnh TKĐX

Âm nhiều Dương ít

Mệnh thuần âm

Mệnh Tinh Bàn MT

Mệnh Cung Quẻ

Mệnh Cung Chiêm Tinh

Mệnh Nạp âm

Cung Mọc: Mặt trời ở vào cung Hoàng đạo nào, xác định theo giờ sinh

Cung mặt Trăng:  Mặt Trăng xuất hiện trong Cung Hoàng đạo nào, xác định sự phát triển năng lượng thay đổi theo mức chiếu sáng tròn khuyết của mặt trăng

Cung Mặt Trời: Mặt trời xuất hiện trong Cung Hoàng đạo nào, xác định theo tiết khí

Cung Mộc Tinh: Xuất hiện trong Cung Hoàng đạo nào, xác định theo tiết khí

Hỷ Là Mộc - Huynh Đệ

Can tàng: Quý Thủy

Hồng Diễm

Thiên Địa Sát

7.213 TỨ PHẾ: Giam nhốt mãi, không năng lực, việc không thành, nhiều bệnh, rễ bị giam, theo Đạo
Tra: Xuân: canh thân, tân dậu; hạ: Nhâm tí, quý hợi; thu: giáp dần, ất mão; đông: bính tị, đinh tị. Trụ ngày sinh trong Tứ trụ vào mùa như trên là tứ phế.
Nghĩa: Giam nhốt mãi, mọi việc không thành, có đầu không có đuôi.
Chủ: Thân yếu, nhiều bệnh, không có năng lực, nếu không gặp sinh, phù trợ mà còn bị khắc hại, hung sát áp chế thì chủ về thương tật tàn phế, kiện tụng cửa quan, thậm chí bị giam, hoặc người theo tăng đạo. Năm tháng ngày giờ gặp phải đều không tốt, đặc biệt là nhật nguyên thì càng không tốt

Thiên Hỷ

7.211 HỒNG LOAN/ CÔ LOAN- Ngày giờ gặp = Khắc Vợ chồng
At tị, đinh tị, tân hợi, mậu thân, mậu dần, mậu ngọ, nhâm tí, bính ngọ.
Ngày, giờ đồng thời xuất hiện các trụ trên đều = Cô loan. Chủ yếu Nam khắc vợ, nữ khắc chồng, nên tham khảo kỹ.

Hung thần 1

Hung thần 1

Hung thần 3

Hung thần 4

Hung thần 5

Hung thần 6

Hung thần 7

Hung thần 8

Hung thần 9

Cát thần 3

Cát thần 4

Cát thần 5

Cát thần 6

Cát thần 7

Cát thần 8

Thiên xá

Củng lộc

Thiên Y

Thiên trù quý nhân

Kim thần

7.113 TƯỚNG TINH- Lộc trọng quyền cao + 10 Thần > Nghành nghề.
Chủ: Tốt - Như Đại tướng, đường quan hiển đạt, nắm quyền bính. Là Sao quyền lực, có tài tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, có uy trong quần chúng.
Mừng có cát thần phù trợ là tốt-Sang quí, nếu gặp vong thần thì chỉ là quan rường cột của quốc gia. Cát thần, thêm mộ kho, thuần tuý không tạp là xuất tướng nhập tướng.
Nghành nghề: Đóng ở chính quan- Lãnh đạo quản lý tài ba. Đóng Chính tài- GĐ tài chính. Nghề khác rễ thành công.
Xấu: Tử tuyệt xung phá- Bất lợi, hợp với hung tinh- Tăng thế cho hung tinh. Mệnh kị kiếp tài, gặp phải tướng tinh > Điều hại càng tăng gấp bội.
Tra Chi 5, N: Dần ngọ tuất thấy ngọ, tị dậu sửa thấy dậu, thân tí thìn thấy tí, tân mão mùi thấy mão.

Kim Dư
7.114 KIM DƯ - Xe quan sang-LỘC KIM DƯ
Chủ: Xe chở vàng, hoa lệ, xe mà quân tử, quý nhân đi, có nó thì phúc đặc biệt.
Tâm tính: Thông minh, phú quý, tính cách uyển chuyển ôn hòa, dáng người thanh thản. Gặp Ngày giờ sinh- Người có phúc, con cháu đông. Nữ phú quý.
Xe + Mã: Kim dư, mã tinh > Người ra vào tấp nập, uy phong lừng lẫy.
Tra - Can Ng: Giáp rồng, ất rắn, bính mậu dê, đinh kỉ khỉ, canh chó, tân lợn, nhâm trâu, quý hổ. Trước Lộc 2 ngôi

7.117 LỘC THẦN-Tài Phúc
Lộc: Tước lộc, có thế lực, là nguồn dưỡng mệnh. Tuế lộc, Kiến lộc, ngày Chuyên lộc, Quy lộc.
Suy tuyệt: Nếu không có Cát thần hỗ trợ thì nhất đinh phá tan sự nghiệp tổ tiên. Còn sợ nhất nhập không vong hoặc bị xung lại là dụng thần, không có cát thần giải cứu thì nhất định có như không, đói rách ăn xin, làm thuê, phiêu bạt khắp nơi.
Lộc bị xung: Là phá lộc > Khí tán không tụ, quý nhân thì bị đình chức, tước quan, thường dân thì cơm áo không đủ. Lộc tháng gặp xung là nghèo đến mức không được hưởng nhà cửa cha mẹ để lại, hoặc rời bỏ quê hương, đi mưu sinh nơi khác.
Thân vượng Lộc nhiều: Tránh gặp kình dương (Kiếp tài), gặp sẽ khắc vợ (chồng), khắc cha.
Thân yếu gặp Lộc: Thần lộc giúp đỡ, lại gặp ấn sinh cát tinh trợ giúp thì sẽ thành sự nghiệp, là người có phú.
Giáp Lộc: Gặp giáp dần là lộc trường sinh, đại cát. Kị Can Chi khắc nhau.
Ất Lộc: Ất mão- Hỉ thần vượng, chỉ về cát; Đinh mão là cắt ngang đường, chủ về hung. Kỉ mão là lộc tiến thần, Tân mão là lộc phá hay là lộc giao, nửa tốt nửa xấu. Quý mão có kèm theo thiên ất là lộc chết, tuy sang nhưng nghèo suốt đời.
Bính lộc: Gặp Kỉ tị là lộc kho trời, chủ về cát. Tân tị là đứt đường, coi như bị tuần không, vong. Gặp quý tị là lộc phục quý thần, nửa tốt nửa xấu, gặp ất tị là lộc mã, gặp đinh tị là lộc khố, đều tốt.
Đinh lộc: ở ngọ, gặp canh ngọ là đứt đường giống như không vong, xấu. Gặp nhâm ngọ là lộc đức hợp , gặp giáp ngọ là lộc tiến thần, đều tốt. Gặp bính ngọ là mừng gặp lộc thần, gặp kình dương thì nửa tốt nửa xấu. Gặp mậu ngọ là gặp kình dương, phần nhiều là xấu.
Mậu lộc: ở tị, gặp kỉ tị là lộc kho trời, tốt. Gặp tân tị là đứt đường, tuần không, vong.
Gặp quý tị là gặp quý thần, hoá hợp với mậu quý là được chức quan quan trọng; gặp ất tị, trạch mã là lộc đồng hương; gặp đinh tị vượng là lộc kho, đều tốt.
Kỉ lộc: ở ngọ, gặp canh ngọ là đứt đường, tuần không, vong, gặp nhâm ngọ là lộc tử quý, đều xấu. Gặp giáp ngọ là lộc hợp tiến thần, là tượng hiển đạt. Gặp bính ngọ là mừng gặp được lộc thần. Gặp mậu ngọ là lộc phục thần kình dương .
Canh lộc: ở thân, gặp nhâm thân là lộc đại bại, gặp giáp thân là lộc đứt đường, tuần không, vong, đều xấu. Gặp bính thân là lộc đại bại. Gặp mậu thân là lộc phục mã, trì trệ; nếu gặp phúc tinh quý nhân thì tốt. Gặp canh thân là lộc trường sinh, đại cát.
Tân lộc: ở dậu, gặp quý dậu là lộc phục thần, xấu. Gặp ất dậu là lộc bị phá , phần nhiều thất bại. Gặp đinh dậu là lộc quý thần nhưng tuần không vong, nên chủ về những việc gian dâm, nếu gặp được hỉ thần thì tốt. Gặp kỉ dậu là lộc tiến thần, gặp tân dậu là chính lộc, đều tốt.
Nhâm lộc: ở hợi, gặp ất hợi là lộc thiên đức, gặp đinh hợi là lộc hợp quý thần, gặp kỉ hợi là lộc vượng, gặp tân hợi là lộc cùng với mã, đều là tốt cả. Gặp quý hợi là lộc đại bại, chủ về đói khó suốt đời.
Quý lộc: ở tí, gặp giáp tí là lộc tiến thần, chủ về đăng khoa tiến đạt. Gặp bính tí là lộc kình dương, nếu có cả thần tinh quý nhân thì có quyền. Gặp mậu tí là lộc kình dương phục nấp, hợp với lộc quý là chỉ tốt một nửa. Gặp canh tí ấn lộc là cát. Gặp nhâm tí là chính lộc kình dương, xấu.
Tra: Giáp lộc ở dần, ất ở mão, bính mậu ở tị, đinh kỉ ở ngọ, canh ở thân, tân ở dậu, nhâm ở hợi, quý ở tí.

Nguyệt đức QN
7.103 THIÊN - NGUYỆT ĐỨC-Thần cứu giải-Công thành danh toại.
Thích nghĩa: Thiên đức nguyệt đức là mặt trời và mặt trăng hội hợp chiếu vào, mọi sự ám muội không tồn tại được trong đó. Gặp xấu: mọi sự cướp bóc, độc ác đều có cứu giải. Nó sẽ biến tài quan ấn thụ tăng lên gấp bội, làm cho can ngày thêm tốt.
Thiên-Nguyệt Đức: Thần cứu giải, mọi nạn đều qua, hoá hung thành cát, có phúc đức. Thiên đức làm đầu-Đại cát, Nguyệt đức tốt thứ 2.
Kị: Sợ nhất bị xung khắc tất nhiên vô lực. Nếu bị tử tuyệt, thương, phá thì việc gì cũng không thành.
Được một: Mọi điều xấu được giải thoát. Sỹ-Nông-Công-Thương làm việc, nghề gì cũng may, lợi, thành công. Anh em vợ chồng không khắc hại nhau, âm đức tổ tiên dồi dào, còn trẻ đã thành đạt. Gặp ngày giờ là rất tốt, thi cử sẽ đỗ cao,
Có nhị đức: Đại Phúc Đức, Người hiền từ hay bố thí, làm việc theo công bằng, yêu nước thương dân, thông minh trí tuệ, tài cán hơn người, ít bệnh tật, không bị hình phạt, gặp hung hóa cát, gặp nạn được cứu.
Nữ: Có hai đức thì lấy được chồng đẹp, thông minh con nhà giàu sang, dễ sinh đẻ.
Nhị đức lâm Nhật: Suốt dời An Lành. Nam gặp nó đường công danh thênh thang, Nữ gặp nó phúc đức thì âm dương cân bằng, văn học siêu quần, chức tước thanh hiển.
Nhị Đức gặp Tài, ấn, thực: Giảm được điều xấu, phúc được tăng thêm. Người gặp kiêu, sát, thương, kiếp những việc ngang trái dễ hóa phúc.
Cùng Thần Sát: Gặp Cát thần- Tốt càng thêm tốt. Nhị đức + Tướng tinh thì công thành danh toại. Nhị đức+ Tam kỳ, Ngũ hành sinh vượng, không bị thương khắc phá hại thì hiển đạt vinh hoa, suốt đời không gặp điều gì ngang ngược.
Tra Thiên Đức: Tháng giêng thấy đinh, 2 thấy thân, 3 thấy nhâm, 4 thấy tân, 5 thấy hợi, 6 thấy giáp, 7 thấy quý, 8 thấy dần, 9 thấy bính, 10 thấy ất, 11 thấy tị, 12 thấy canh.
Tra Nguyệt Đức: Tháng dần ngọ tuất thấy bính - Thân tí thấy nhâm - Hợi mão mùi thấy thân - Tị dậu sửu thấy canh. Phàm Can của năm tháng ngày giờ thấy là có Nguyệt đức.

7.103 THIÊN - NGUYỆT ĐỨC-Thần cứu giải-Công thành danh toại.
Thích nghĩa: Thiên đức nguyệt đức là mặt trời và mặt trăng hội hợp chiếu vào, mọi sự ám muội không tồn tại được trong đó. Gặp xấu: mọi sự cướp bóc, độc ác đều có cứu giải. Nó sẽ biến tài quan ấn thụ tăng lên gấp bội, làm cho can ngày thêm tốt.
Thiên-Nguyệt Đức: Thần cứu giải, mọi nạn đều qua, hoá hung thành cát, có phúc đức. Thiên đức làm đầu-Đại cát, Nguyệt đức tốt thứ 2.
Kị: Sợ nhất bị xung khắc tất nhiên vô lực. Nếu bị tử tuyệt, thương, phá thì việc gì cũng không thành.
Được một: Mọi điều xấu được giải thoát. Sỹ-Nông-Công-Thương làm việc, nghề gì cũng may, lợi, thành công. Anh em vợ chồng không khắc hại nhau, âm đức tổ tiên dồi dào, còn trẻ đã thành đạt. Gặp ngày giờ là rất tốt, thi cử sẽ đỗ cao,
Có nhị đức: Đại Phúc Đức, Người hiền từ hay bố thí, làm việc theo công bằng, yêu nước thương dân, thông minh trí tuệ, tài cán hơn người, ít bệnh tật, không bị hình phạt, gặp hung hóa cát, gặp nạn được cứu.
Nữ: Có hai đức thì lấy được chồng đẹp, thông minh con nhà giàu sang, dễ sinh đẻ.
Nhị đức lâm Nhật: Suốt dời An Lành. Nam gặp nó đường công danh thênh thang, Nữ gặp nó phúc đức thì âm dương cân bằng, văn học siêu quần, chức tước thanh hiển.
Nhị Đức gặp Tài, ấn, thực: Giảm được điều xấu, phúc được tăng thêm. Người gặp kiêu, sát, thương, kiếp những việc ngang trái dễ hóa phúc.
Cùng Thần Sát: Gặp Cát thần- Tốt càng thêm tốt. Nhị đức + Tướng tinh thì công thành danh toại. Nhị đức+ Tam kỳ, Ngũ hành sinh vượng, không bị thương khắc phá hại thì hiển đạt vinh hoa, suốt đời không gặp điều gì ngang ngược.
Tra Thiên Đức: Tháng giêng thấy đinh, 2 thấy thân, 3 thấy nhâm, 4 thấy tân, 5 thấy hợi, 6 thấy giáp, 7 thấy quý, 8 thấy dần, 9 thấy bính, 10 thấy ất, 11 thấy tị, 12 thấy canh.
Tra Nguyệt Đức: Tháng dần ngọ tuất thấy bính - Thân tí thấy nhâm - Hợi mão mùi thấy thân - Tị dậu sửu thấy canh. Phàm Can của năm tháng ngày giờ thấy là có Nguyệt đức.

7.101 THIÊN ẤT-Phát Đại phúc đức (Năm To hơn Ngày)
Quý dương-Âm: Lấy Dần-Thân chia: Sinh sau đông chí= Dương, Hạ chí=Âm.
Đại Cát Tinh: Tôn quý đứng đầu, Hung Sát lánh xa, có thì vinh hiển, công danh sớm đạt, dễ thăng quan. Mệnh thừa vượng- Danh tướng, công hầu. Tọa ngày-Thanh cao
Mệnh có: Gặp Hung-Hóa Cát > Sao giải ách, sao cứu trợ, gặp việc có người giúp, gặp tai ách có người giải cứu, Người đó ngoài đời tương ứng Chi trong Mệnh có Thiên Ất
Mệnh không có: Khi gặp việc xấu hoặc đại nạn sẽ khó mà khắc phục.
Sinh vượng: Diện mạo hiên ngang, nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt, mà thẳng thắn, người ôn hòa đức độ, mọi người ủng hộ yêu mến khâm phục, thông minh tháo vát, gặp việc linh lợi, hào phóng, hay giúp người, tâm tư hiền lành, giao thiệp rộng rãi > Cần sinh vượng; Cát tinh trợ giúp. Kị Hình-Xung-Khắc-Hại-Không vong.
Tử tuyệt: Tính tình cố chấp, gặp thì giảm phúc, suốt đời vất vả, có thái ất sẽ đỡ.
Cùng Sao khác: Kiếp sát = Có uy, đa mưu túc kế. Quan phù= Văn chương bay bổng, lời lẽ hùng biện. Kiến lộc= Văn chương thành thật, ân huệ khắp nơi, là người quân tử.
Cùng Nhị đức: Cùng Thiên, Nguyệt đức Quý vô cùng > Thông minh trí tuệ tuyệt đỉnh.
Đại tiểu vận: Hành đến năm đó thì nhất định sẽ được thăng quan, gặp là gặp tin vui, mọi việc đều thuận.
Tra: Can 5, N: Giáp ất-Tí Ngọ. Bính Đinh- Dậu Mão(Thỏ). Mậu kỷ-Tứ quý. Canh tân-Dần Hợi-Lộc rồi rào. Nhâm Quý-Tị Thân -Tốt đẹp. Cả Thai nguyên, cung mệnh.

7.210 HÀM TRÌ - ĐÀO HOA- Cả nhà khỏe xinh đẹp-Gian dâm-Rộng dãi, hiền lành,
Sinh vượng: Đẹp, đam mê tửu sắc, coi thường tiền của, ham vui, phá tan gia nghiệp, tất sẽ hiền, công năng tốt, hiền lành, tinh lực dồi dào, ham muốn phải mạnh mẽ
Tử tuyệt: Nói năng xảo trá, lang bạt cờ bạc, vong ân thất tín, tư lãm gian dâm, không nên việc gì. Đi với Nguyên thần và sinh vượng thì làm vợ đầu đảng cướp; nếu gặp quý nhân, kiến lộc thì kiếm được sinh lợi nhờ tiền bất chính của phụ nữ mà nên nhà nên cửa; cũng có thể gặp tai hoạ dưới nước. Nữ kị gặp
Điều tốt: Người thông minh, hiếu học, đẹp, tính tình khảng khái, rất khéo tay, phong lưu, đẹp, tính nóng nhưng giỏi nhiều nghề. Đào hoa phần nhiều là nghệ nhân.
* Thông minh, linh lợi, khéo léo chính là nguồn tiến bộ của văn hoá nghệ thuật; đẹp là biểu hiện thể chất ưu việt của đất nước, khảng khái hào phóng là mỹ đức của dân tộc.
10 Thần: Gặp Ấn thụ- Văn chương; gặp Quan thì được thăng chức; gặp Tài thì chủ về quan quý. Rất nhiều bậc quan quý cao sang, thương nhân giàu có, nhiều nghệ sĩ và nhà khoa học, danh nhân tướng soái đều có hàm trì.
Tra - Ngày, 5: Thân tí thìn hàm trì ở dậu, tị dậu sửu ở ngọ, dần ngọ tuất ở mão, hợi mão mùi ở tị, đều ứng nghiệm

7.209 THẬP ÁC ĐẠI BẠI - 10 trọng tội, No đại xá, kị giao tranh, Người, Tài tiêu tan=Cát bụi
Nghĩa: Thập ác- Phạm 10 trọng tội trong luật pháp, không được giảm xá. Đại bại- Giao tranh thất bại, không sót một ai, nghĩa là rất nặng nề. Giao tranh rất kiêng kị.
Chủ: Kho vàng bạc hóa thành đất bụi. Cần gặp cát thần, quý khí trợ giúp thì còn tốt, nếu gặp thiên đức, nguyệt đức thì không còn điều kị nữa, hoặc gặp tuế kiến, nguyệt kiến, thái dương điền đầy cũng không còn là kị nữa.
Tra- Ngày: Có 10 ngày gặp lộc nhập không vong: giáp thìn, ất tị là ngày không có lộc; canh thìn, tân tị; bính thân, mậu tuất; đinh hợi, kỉ sửu; nhâm thân, quý hợi= Thập ác đại bại.

7.205 CÔ T. QUẢ TÚ- Hôn nhân trắc trở.
Thích nghĩa: Đàn bà già mất chồng là quả, trẻ em không có cha là cô. Nam hay nữ mệnh gặp dù có sinh con cũng phần nhiều giữa mình với con không hòa thuận.
Quả tú: Người nét mặt không hiền hòa, không lợi cho người thân. Mệnh sinh vượng còn đỡ, tử tuyệt thì nặng hơn
Gặp Sao khác: Trạch mã thì lang thang bốn phương. Gặp tuần không, vong là từ bé đã không có nơi nương tựa. Gặp tang điếu thì cha mẹ mất liền nhau, suốt đời hay gặp trùng tang hoặc tai hoạ chồng chất, anh em chia lìa, đơn hàn bất lợi.
Vận: Gặp vận tốt- Hôn nhân muộn; Kém thì lang thang dời chuyển mãi.
Nam Nữ: Nam gặp cô thần nhất định tha phương cầu thực, sinh chỗ vợ tuyệt lại còn gặp cô thần thì suốt đời khó kết hôn.
Nữ: Gặp quả tú thường là mất chồng, sinh chỗ chồng tuyệt còn gặp quả tú thì có lấy được chồng cũng khó mà bách niên giai lão.
Chủ: Hôn nhân không thuận, mệnh khắc lục thân, tai vạ hình pháp. Nếu Mệnh phối hợp được tốt, có quý thần sẽ đỡ.
Cô quả gặp Quan ấn: Làm đầu đảng ở rừng sâu, chắc chắn hôn nhân không thuận, hơn nữa lúc phạm vào ngày tháng sẽ khắc phụ mẫu.
Tra- Chi 5: Hợi tí sửu thấy dần là cô, thấy tuất là quả. Dần mão thìn tị là cô, sửu là quả. Tị ngọ mùi thân là cô, thìn là quả. Thân dậu tuất hợi là cô, mùi là quả.

7.205 CÔ T. QUẢ TÚ- Hôn nhân trắc trở.
Thích nghĩa: Đàn bà già mất chồng là quả, trẻ em không có cha là cô. Nam hay nữ mệnh gặp dù có sinh con cũng phần nhiều giữa mình với con không hòa thuận.
Quả tú: Người nét mặt không hiền hòa, không lợi cho người thân. Mệnh sinh vượng còn đỡ, tử tuyệt thì nặng hơn
Gặp Sao khác: Trạch mã thì lang thang bốn phương. Gặp tuần không, vong là từ bé đã không có nơi nương tựa. Gặp tang điếu thì cha mẹ mất liền nhau, suốt đời hay gặp trùng tang hoặc tai hoạ chồng chất, anh em chia lìa, đơn hàn bất lợi.
Vận: Gặp vận tốt- Hôn nhân muộn; Kém thì lang thang dời chuyển mãi.
Nam Nữ: Nam gặp cô thần nhất định tha phương cầu thực, sinh chỗ vợ tuyệt lại còn gặp cô thần thì suốt đời khó kết hôn.
Nữ: Gặp quả tú thường là mất chồng, sinh chỗ chồng tuyệt còn gặp quả tú thì có lấy được chồng cũng khó mà bách niên giai lão.
Chủ: Hôn nhân không thuận, mệnh khắc lục thân, tai vạ hình pháp. Nếu Mệnh phối hợp được tốt, có quý thần sẽ đỡ.
Cô quả gặp Quan ấn: Làm đầu đảng ở rừng sâu, chắc chắn hôn nhân không thuận, hơn nữa lúc phạm vào ngày tháng sẽ khắc phụ mẫu.
Tra- Chi 5: Hợi tí sửu thấy dần là cô, thấy tuất là quả. Dần mão thìn tị là cô, sửu là quả. Tị ngọ mùi thân là cô, thìn là quả. Thân dậu tuất hợi là cô, mùi là quả.

7.204 TAI SÁT- Bạch hổ dũng mãnh, phá Tướng tinh.
Thích nghĩa: Tên Bạch hổ, tính dũng mãnh, thường ở trước kiếp sát, xung phá tướng tinh >>> Tai sát là tai vạ tướng tinh bị xung khắc.
Sinh Khắc: Tai sát sợ khắc, nếu gặp sinh lại tốt. Mệnh gặp tai sát thì phúc ít hoạ nhiều.
Chủ: Sát chủ về máu me, chết chóc. Sát đi với thủy, hoả phải đề phòng bỏng, cháy, đi với kim mộc đề phòng bị đánh, đi với thổ phải đề phòng đổ sập, ôn dịch.
Cứu giải: Sát khắc thân là rất xấu, nếu có thần phúc cứu trợ, phần nhiều có quyền lực, cũng như kiếp sát, gặp quan tinh ấn thụ là tốt.
Tra- Chi 5: Dần ngọ tuất thấy tí, thân tí thìn thấy ngọ, hợi mão mùi thấy dậu, tí dậu sửu thấy mão.

7.204 CẤU GIẢO - Ngày, Tuế, Vận gặp > Tai nạn nát thân, trói buộc liên lụy
Thích nghĩa: Cấu nghĩa là liên luỵ, giảo nghĩa là trói buộc, cột vào.
Chủ: Thân bị khắc sát, nhưng nhiều cơ mưu, chủ về nắm các việc hình phạt hoặc là tướng soái, những việc sát hại.
Mệnh Vận: Ngày hoặc Tuế, Vận gặp cấu hay giảo là chủ về Tai nạn nát thân.
Gặp Thái tuế: Năm hành đến đó thường gặp chuyện cãi cọ, hình phạt. Gặp cả 2 càng nặng, gặp một thì nhẹ hơn, đi với quan sát thì nặng.
Tra- Chi làm chủ: Nam dương nữ âm, ngôi thứ ba sau mệnh là cấu, ngôi thứ ba trước mệnh là giảo. Nam - nữ + ngôi thứ ba sau mệnh là giảo, ngôi thứ ba trước mệnh là cấu.

7.203 KIẾP SÁT - Tai vạ bệnh tật bị thương hình pháp
Thích nghĩa: Kiếp ở tuyệt địa, có nghĩa là đoạt, bị cướp đoạt từ ngoài là kiếp.
Chủ về hung: Phát các tai vạ bệnh tật, bị thương hình pháp, Không gặp là tốt nhất.
Kị thần: Tính cách cường bạo, gian hoạt giảo trá, thường chuốc lấy tai hoạ.
Hỉ dụng thần: Gặp cát tinh hoặc hỉ thần, dụng thần thì là người hiếu học, cầu tiến bộ, ham lập nghiệp, công việc chuyên cần, quả đoán trong công việc, thông tuệ nhạy bén, tài trí hơn người, lòng rộng bao la, cao minh nhanh nhẹn, vũ đức đều cao= Rễ thành công. Sinh vượng đi với quý sát là gặp lộc ngay.
Gặp Hung sát: Tâm độc ác, binh nghiệp thì bị thương, cướp bóc vô tình. Là vạ không lường, tài lợi danh trường bỗng nhiên mất hết, phải đề phòng tổ nghiệp tiêu tan, vợ con không kéo dài được cuộc sống.
Phùng sinh và kiếp sát: Sẽ trở thành bậc nho sĩ chấn hưng sự nghiệp cho triều đình, nếu giờ sinh có quan quý thì làm quan to. Kiếp thân gặp quan tinh là chủ về người nắm binh quyền, có uy và được nhiều người ngưỡng mộ.
Tra-Chi 5, N: Thân tí thìn thấy tị, dần ngọ tuất thấy hợi, tị dậu sửu thấy dần, hợi mão mùi thấy thân.

7.201 T.LA Đ.VÕNG- Lao tù hình pháp, tai nạn bệnh tật, ngu đần.
Chủ: Nam sợ thiên la, nữ kị địa võng= Rồng rắn, Lợ Chó hỗn tạp, gặp phải là hôn nhân không thành, hại con cái, nghèo đói, bệnh tật, đần độn ngu ngốc, cản trở cha mẹ, khắc vợ.
Tính thời gian: Ví dụ sinh ngày mồng một tháng tuất năm tuất tức là phạm cả năm thiên la. Người sinh ngày 15 là phạm 15 năm thiên la.
Sửa Mệnh: Cuộc sống cần cẩn thận, tôn trọng luật pháp, không nên manh động, phạm pháp nếu không khó tránh khỏi lao tù, hình pháp.
Thiên là địa võng còn chủ về tai nạn, bệnh tật. Mệnh có nó, khi hành vận đến đó đều thường bất lợi cho thân thể nên phải chú ý rèn luyện và đề phòng bệnh tật.
Mệnh có cứu: Gặp Thiên Nguyệt Đức hoặc Mệnh có giải cứu, không gặp tai vạ mà còn gặp tin mừng bất ngờ.
Tra-Chi 5, N: Thìn là thiên la, tuất là địa võng. Mệnh hỏa gặp tuất hợi là thiên la, Mệnh thủy thổ gặp thìn tị là địa võng. Nam kị thiên la, nữ kị địa võng.
Thích nghĩa: Trời nghiêng về Tây bắc mà tuất hợi là cùng cực của lục âm; đất thấp ở Đông nam mà thìn tị lại là cùng cực của lục dương. Cùng cực âm dương là ám muội, bất minh như người rời vào mênh mông, mờ mịt, cho nên nói tuất hợi là thiên la, thìn tị là địa võng.

7.201 T.LA Đ.VÕNG- Lao tù hình pháp, tai nạn bệnh tật, ngu đần.
Chủ: Nam sợ thiên la, nữ kị địa võng= Rồng rắn, Lợ Chó hỗn tạp, gặp phải là hôn nhân không thành, hại con cái, nghèo đói, bệnh tật, đần độn ngu ngốc, cản trở cha mẹ, khắc vợ.
Tính thời gian: Ví dụ sinh ngày mồng một tháng tuất năm tuất tức là phạm cả năm thiên la. Người sinh ngày 15 là phạm 15 năm thiên la.
Sửa Mệnh: Cuộc sống cần cẩn thận, tôn trọng luật pháp, không nên manh động, phạm pháp nếu không khó tránh khỏi lao tù, hình pháp.
Thiên là địa võng còn chủ về tai nạn, bệnh tật. Mệnh có nó, khi hành vận đến đó đều thường bất lợi cho thân thể nên phải chú ý rèn luyện và đề phòng bệnh tật.
Mệnh có cứu: Gặp Thiên Nguyệt Đức hoặc Mệnh có giải cứu, không gặp tai vạ mà còn gặp tin mừng bất ngờ.
Tra-Chi 5, N: Thìn là thiên la, tuất là địa võng. Mệnh hỏa gặp tuất hợi là thiên la, Mệnh thủy thổ gặp thìn tị là địa võng. Nam kị thiên la, nữ kị địa võng.
Thích nghĩa: Trời nghiêng về Tây bắc mà tuất hợi là cùng cực của lục âm; đất thấp ở Đông nam mà thìn tị lại là cùng cực của lục dương. Cùng cực âm dương là ám muội, bất minh như người rời vào mênh mông, mờ mịt, cho nên nói tuất hợi là thiên la, thìn tị là địa võng.

7.210 HÀM TRÌ - ĐÀO HOA- Cả nhà khỏe xinh đẹp-Gian dâm-Rộng dãi, hiền lành,
Sinh vượng: Đẹp, đam mê tửu sắc, coi thường tiền của, ham vui, phá tan gia nghiệp, tất sẽ hiền, công năng tốt, hiền lành, tinh lực dồi dào, ham muốn phải mạnh mẽ
Tử tuyệt: Nói năng xảo trá, lang bạt cờ bạc, vong ân thất tín, tư lãm gian dâm, không nên việc gì. Đi với Nguyên thần và sinh vượng thì làm vợ đầu đảng cướp; nếu gặp quý nhân, kiến lộc thì kiếm được sinh lợi nhờ tiền bất chính của phụ nữ mà nên nhà nên cửa; cũng có thể gặp tai hoạ dưới nước. Nữ kị gặp
Điều tốt: Người thông minh, hiếu học, đẹp, tính tình khảng khái, rất khéo tay, phong lưu, đẹp, tính nóng nhưng giỏi nhiều nghề. Đào hoa phần nhiều là nghệ nhân.
* Thông minh, linh lợi, khéo léo chính là nguồn tiến bộ của văn hoá nghệ thuật; đẹp là biểu hiện thể chất ưu việt của đất nước, khảng khái hào phóng là mỹ đức của dân tộc.
10 Thần: Gặp Ấn thụ- Văn chương; gặp Quan thì được thăng chức; gặp Tài thì chủ về quan quý. Rất nhiều bậc quan quý cao sang, thương nhân giàu có, nhiều nghệ sĩ và nhà khoa học, danh nhân tướng soái đều có hàm trì.
Tra - Ngày, 5: Thân tí thìn hàm trì ở dậu, tị dậu sửu ở ngọ, dần ngọ tuất ở mão, hợi mão mùi ở tị, đều ứng nghiệm

7.112 HOA CÁI -Nghệ thuật-Tính cô-Dịch học-Trẻ bất hiếu
Chủ: Sao hiển uy. Cao sang, cô đơn, thông minh hiếu học. Sao nhệ thuật, hội hoạ, âm nhạc, hợp với thần linh, mệnh lý, theo đạo, nên có hiểu biết siêu quần, tài hoa nổi tiếng.
Tâm tính: Tính cô độc ít tình, thanh tĩnh, ít ham muốn, không xem ai ra gì, người thân không nương nhờ được, tự mình trôi nổi. Cần
Xấu: Gặp Tuần không, vong hoặc bị phá, hại, tử tuyệt, tổ hợp xấu thì đi tu, hoặc cô, hoặc quả, nếu không cũng là loại thừa ế, phiêu bạt giang hồ. Rất cần tới chùa thì trẻ dễ nuôi, lớn lên ít bệnh tật, nếu không, trước 24 tuổi thường tai hoạ liên miên hoặc luôn gặp việc xấu, hay bị bệnh lạ, thậm chí khó qua. Sau tuổi 24, có người suốt đời trắc trở, cô đơn.
Trẻ: Bất hiếu với cha mẹ, lười học, hay cãi vã; có đứa tù tội; có đứa bệnh tật liên miên ....Nếu thành tâm sửa chữa có thể sẽ tốt, học giỏi, có tài.
Thực tiễn TVH: Còn có những biệt tài riêng, có lúc biểu hiện khác thường giống như điên, chữa lầm thì không khỏi được > Nên mời người giúp đỡ.
Tra Chi 5, N: Dần ngọ tuất thấy tuất, hợi mão mùi thấy mùi, thân tí thìn thấy thìn, tị dậu sửu thấy sửu.

7.212 ÂM DƯƠNG LỆCH NHAU- Hôn nhân cản trở, bị chối bỏ; Nhiều-Nặng, Thông gia oán thù-Rất nghiệm
Nữ: Chị em dâu không toàn vẹn, hoặc bị nhà chồng từ chối.
Nam: Bị nhà vợ từ chối, hoặc cãi cọ mâu thuẫn với nhà vợ.
Nhiều: Tháng ngày giờ có hai cái hay ba cái trùng nhau là rất nặng.
Cưới: Dù cưới thì vẫn là hư vô, thậm chí về sau còn oán thù lẫn nhau, không đi lại nữa. Thông tin rõ nhất về hôn nhân không thuận, thực tế rất ứng nghiệm.
Tra- Ngày: Bính tí, đinh sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thìn, quý tị, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi.

7.202 KÌNH DƯƠNG - Cứng rắn, hung cực độ, hao tổn tài lực; Sợ Vận, xung T.Tuế
Thích nghĩa: Cứng rắn, là Sát đã đạt đến cực độ của hung, ở cực đỉnh của đế vượng. Mệnh vượng gặp kình dương thì hay phát sinh những vấn đề nghiêm trọng.
Vận Kình dương: Gặp kình dương, nó chủ về sự trì trệ, kéo dài, vận gặp kình dương thì của cải hao tán.
Kình kiêm ác sát: Thì tai hoạ vô cùng. Sợ gặp tuế vận, xung tuế quân thì tai vạ cực xấu. Cái chết của Nhạc Phi là kình dương gặp tuế quân.
Là Chi năm: Chủ về phá hoại những cái tổ tiên để lại hoặc có khuynh hướng lấy oán đức;
Là Chi tháng: Chủ về mắt lồi, tính nóng hung bạo hại người, hay theo bè đảng, gặp sinh vượng còn đỡ, gặp tử tuyệt thì nặng hơn.
Chủ xấu: Kình dương thì dễ gặp tai nạn máu me, ngày gặp kình dương chủ về khắc vợ, khắc con hoặc cuối năm hay gặp tai hoạ, nếu gặp tài quan thì hoạ khá sâu, tương xung hoặc tương hợp với tuế vận thì tai hoạ ập đến ngay. Phần nhiều chủ về tai hoạ, thương tật và cũng chủ về những tội phạm pháp.
Có câu: Kình dương trùng phùng thì bị thương tổn, chủ nhân tinh khí nóng gấp, nếu gặp hình xung thì rơi vào tai ách, nếu bị chế ngự thì mới tốt.
Kình-Sát: Quan ấn tương trợ, nhờ có kình mới đem lộc về. Sát, không kình= Không thành đạt; Kình không sát= Không có uy; Kình gặp Sát= Lập công kiến nghiệp, thành tướng.
Thân nhược: Có công năng bảo vệ, giúp thân. Phàm người có lộc, còn phải có kình dương để bảo vệ, gặp quan ấn phải có kình dương mới tốt. Mệnh có kình dương, không bị sát, khi tuế vận bị sát cũng có thể gặp phúc.
Cải Mệnh: Nên làm việc thiện, kiềm chế mình, tôn trọng pháp luật thì tránh được điều xấu, giữ được an thân, nếu không suốt đời trắc trở.
Tra- Can Ng: Giáp kình dương ở mão, ất ở dần, bính mậu ở ngọ, đinh kỉ ở tị, canh ở dậu, tân ở thân, nhâm ở tí, quý ở hợi.

7.206 VONG THẦN- 10 thần Vượng theo cục Vong T, Liệu việc như thần; Thân suy+Sát-Đại Tiểu Nhân
Thích nghĩa: Vong là mất, mất từ bên trong gọi là vong. Kiếp ở chỗ tuyệt trong ngũ hành, còn vong ở chỗ vượng trong ngũ hành .
Vượng cục: Gặp tài cục là tài vượng, Quan cục là quan vượng, gặp thương quan cục là xì hơi. Gặp tài, quan, thương mà lớn cần Thân vượng, thân nhược là hại, gặp ấn cục là tốt.
Thân vượng quý Sát: Sắc sảo uy lực, mưu lược tính toán, liệu việc như thần, binh cơ biến hoá, cuối cùng rồi sẽ thắng, nói năng hùng biện, lưu loát, tuổi trẻ tiến nhanh.
Thân suy ác Sát: Mệnh tử tuyệt, ác sát, là người ngông cuồng đảo điên, trắng đen thị phi lẫn lộn, lòng dạ hẹp hòi, đam mê tửu sắc, việc quan kiện tụng, phạm quân pháp.
Gặp Lộc: Quý nhân kiến lộc, gặp vong thần thì chuyên về công việc bút nghiên, văn tự, nên nghiệp nhờ việc công.
Xưa nói: Vong thần thất sát thì họa không nhẹ, tìm đủ mọi cách việc vẫn không thành, khắc vợ khắc con, không nối được nghiệp, cha kẻ tử sĩ thì vô danh.
Gặp Tuần không: Mệnh đã tuần không còn gặp vong thần thì hoạ không nhẹ, nghèo đói suốt đời.
Tra- Chi 5, N: Mệnh có 3 hợp cục và tra thêm Dần ngọ tuất hoả cục thấy tị, tị dậu sửu kim cục thấy thân, thân tí thìn thuỷ cục thấy hợi, hợi mão mùi mộc cục thấy dần.

7.208 KHÔNG, VONG- Tổ nghiệp, Mẹ móm; Họa bất ngờ, kết hôn muộn. Cát-Thích được Hợp, Hung-Kị;
Nghĩa: Không là ngược với thật, vong là ngược với có. Không vong là thời gian chưa đến. Không vong bị xung hoặc hợp, hoặc hình thì không phải là không nữa, mà ngược lại là chân không. Cát thần không vong thì mừng gặp hợp, hung tinh không vong thì kị gặp hợp.
Chi năm: Tổ nghiệp không có gì, thứ hai là mẹ không vong, tạ thế hoặc cải giá, hoặc đi xa, hoặc mẹ không nuôi con, có mẹ như không.
Chi tháng: Phần nhiều chỉ không có anh chị em hoặc có anh chị em nhưng không nương tựa được.
Chi giờ: Thứ nhất là sau khi kết hôn không thể có con ngay, thứ hai là không có con hoặc có con mà không nương tựa được.
Sát Cát Hung: Nhiều hung tinh, ác sát là đất tụ hội tai hoạ, cần có không vong giải cứu. Phúc tụ: Lộc mã tài quan không nên gặp không vong vì sẽ làm tiêu tan.
Nhiều ít: Tháng, ngày, giờ sinh đều không vong thì lại tốt, là quý nhân. Nếu gặp hai ngôi là không vong thì có làm quan nhưng chức to không.
Thân vượng: Rộng rãi, phong độ, người to lớn đẫy đà, nhưng hay có hoạ bất ngờ.
Thân nhược: Lên voi xuống chó, phiêu bạt, khi bản thân có khí vận cũng khó mà thành phúc.
Kị: Can chi tương hợp với thiên trung, là tiểu nhân thắng thế lên ngôi, gian trá quỷ quyệt. Đi với quan phù là người hay nịnh chồng; đi với kiếp sát thì hẹp hòi, nhút nhát; đi với vong thần là bồng bềnh trôi nổi; đi với đại hao là điên đảo thất thường; đi vơi giáp góc, hoa cái, tam kì thì lại là kẻ sĩ thông minh thoát tục.
Gặp Lộc: Học hành không thành đạt, nếu được trạch mã cứu trợ thì có được nhận chức cũng mất luôn. Chi giờ thì tính tình bướng bỉnh, đi với hoa cái là chủ về ít con.
Tra- Ngày:

Đại Hải Thủy - Nước biển lớn

Đại Hải Thủy - Nước biển lớn

Thạch Lựu Mộc - Gỗ cây lựu

Thạch Lựu Mộc - Gỗ cây lựu

Thiên Thượng Hỏa - Lửa trên trời

Thiên Thượng Hỏa - Lửa trên trời

Sa Trung Thổ - Đất pha cát

Sa Trung Thổ - Đất pha cát

Đại Khe Thủy - Nước khe lớn

Đại Khe Thủy - Nước khe lớn

Tang Đố Mộc - Gỗ cây dâu

Tang Đố Mộc - Gỗ cây dâu

Thoa Xuyến Kim - Vàng trang sức

Thoa Xuyến Kim - Vàng trang sức

Đại Trạch Thổ - Đất nền nhà

Đại Trạch Thổ - Đất nền nhà

Thiên Hà Thủy - Nước trên trời

Thiên Hà Thủy - Nước trên trời

Phú Đăng Hỏa - Lửa đèn to

Phú Đăng Hỏa - Lửa đèn to

Kim Bạch Kim - Vàng pha bạc

Kim Bạch Kim - Vàng pha bạc

Bích Thượng Thổ - Đất tò vò

Bích Thượng Thổ - Đất tò vò

Bình Địa Mộc - Gỗ đồng bằng

Bình Địa Mộc - Gỗ đồng bằng

Sơn Hạ Hỏa - Lửa trên núi

Sơn Hạ Hỏa - Lửa trên núi

Sa Trung Kim - Vàng trong cát

Sa Trung Kim - Vàng trong cát

Trường Lưu Thủy - Nước chảy mạnh

Trường Lưu Thủy - Nước chảy mạnh

Tùng Bách Mộc - Gỗ tùng bách

Tùng Bách Mộc - Gỗ tùng bách

Thích Lịch Hỏa - Lửa sấm xét

Thích Lịch Hỏa - Lửa sấm xét

Ốc Thượng Thổ - Đất nóc nhà

Ốc Thượng Thổ - Đất nóc nhà

Tuyền Trung Thủy - Nước trong suối

Tuyền Trung Thủy - Nước trong suối

Dương Liễu Mộc - Gỗ cây Dương

Dương Liễu Mộc - Gỗ cây Dương

Bạch Lạp Kim - Vàng chân đèn

Bạch Lạp Kim - Vàng chân đèn

Thành Đầu Thổ - Đất trên thành

Thành Đầu Thổ - Đất trên thành

Giản Hạ Thủy - Nước cuối khe

Giản Hạ Thủy - Nước cuối khe

Sơn Đầu Hỏa - Lửa trên núi

Sơn Đầu Hỏa - Lửa trên núi

Kiếm Phong Kim - Vàng mũi kiếm

Kiếm Phong Kim - Vàng mũi kiếm

Lộ Bàng Thổ - Đất đường đi

Lộ Bàng Thổ - Đất đường đi

Đại Lâm Mộc - Gỗ rừng già

Đại Lâm Mộc - Gỗ rừng già

Lư Trung Hỏa - Lửa trong lò

Lư Trung Hỏa - Lửa trong lò

Hải Trung Kim - Vàng trong biển

Hải Trung Kim - Vàng trong biển

Đức QN

Tú QN

Học đường

Từ quán

Quốc ấn QN

Khôi canh QN

Văn xương QN

Phúc Tinh QN

Tam kỳ QN

Thái cực QN

Nguyên thần

Cát thần 2

Cát thần 1

Các Thần Thiện - Cát thần

Các hung thần

Lưu niên

Tiểu vận

Đại vận

Lục thần - Thiện ác khác nhau, chỉ là thần phụ trợ. Để đoán cát hung, chủ yếu căn cứ sinh khắc trong ngũ hành/ Lục thân, Dụng thần. Cát thần gặp hào xấu, vẫn không tránh được hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại đến cát lợi => Có thể tham khảo lục thần, để đoán định về tính tình hoặc tính chất của sự vật.
Huyền Vũ thuộc Thuỷ, được gọi là đạo thần (thần trộm cướp), dâm thần (thần dâm dật), chủ về trộm cướp, tư tình ám muội, tham bát bỏ mâm.
6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.
- Huyền Vũ-Thuỷ: là đạo thần-thần trộm cướp, dâm thần, tư tình ám muội, giận giữ uất ức, tham bát bỏ mâm-92.
Động: Ám muội. Nếu động sinh Thế thì tốt. Lâm quỷ/ động gặp Kị, cừu thần >> Phòng bị trộm cắp, cướp.

+ Huyền vũ: Phương Bắc chùm sao Huyền Vũ có 7 sao: Đẩu, Nữ, Ngưu, Hư, Nguy, Thất, Bích. (Nhị thập bát tú)

Lục thần - Thiện ác khác nhau, chỉ là thần phụ trợ. Để đoán cát hung, chủ yếu căn cứ sinh khắc trong ngũ hành/ Lục thân, Dụng thần. Cát thần gặp hào xấu, vẫn không tránh được hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại đến cát lợi => Có thể tham khảo lục thần, để đoán định về tính tình hoặc tính chất của sự vật.
Chu Tước thuộc Hoả, được gọi là trá thần (thần lừa đảo), chủ về thị phi, kiện tụng, văn chương in ấn, tài ăn nói, nếu khắc hào Thế sẽ chuốc điều tiếng thị phi, sinh Dụng thần sẽ có tin tức đến.
6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.
- Chu Tước-Hoả: là thần lừa đảo, chủ về thị phi, điên cuồng, kiện tụng, văn chương in ấn, tài ăn nói, nếu khắc hào Thế sẽ chuốc điều tiếng thị phi, sinh Dụng thần sẽ có tin tức đến.
Động: Văn ấn vượng. Gặp sát thần không lập được công danh+Cãi vã. Xuất sinh Thân=lợi việc công

+ Chu tước: Phương Nam chùm sao Chu Tước có 7 sao: Tỉnh, Qủy, Liễu, Tinh, Dực, Trương, Chẩn (Nhị thập bát tú)

Lục thần - Thiện ác khác nhau, chỉ là thần phụ trợ. Để đoán cát hung, chủ yếu căn cứ sinh khắc trong ngũ hành/ Lục thân, Dụng thần. Cát thần gặp hào xấu, vẫn không tránh được hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại đến cát lợi => Có thể tham khảo lục thần, để đoán định về tính tình hoặc tính chất của sự vật.
Bạch Hổ thuộc Kim, được gọi là huyết thần, thần cường bạo, chủ về tang ma, háo thắng, hung hăng, hữu dũng vô mưu, nếu động mà gặp cát thần cũng không hại đến điều cát. Nếu gặp hào Kim, gọi là Bạch Hổ ngậm dao (Bạch Hổ hàm đao). Bạch Hổ ở hào Kim chủ về tổn thương nhân khẩu, nếu thân được Hoả sinh thì không đáng ngại.
6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.
- Bạch Hổ-Kim: là huyết thần-thần cường bạo, chủ về tang ma, háo thắng, hung hăng, hữu dũng vô mưu.
Động: Chủ hình phạt, kiện tụng, bệnh tật.Trì thế động=hại trong gia đình.Gặp cát thần=không hại đến cát. Gặp hào Kim= Bạch Hổ ngậm đao > tổn thương nhân khẩu, nếu thân được Hoả sinh thì không sao.
+ Bạch hổ: Phương Tây chùm sao Bạch Hổ có 7 sao: Khuê, Vị, Lâu, Mão, Tất, Chủy, Sâm. (Theo Nhị thập bát tú)

+ Lục Thú - Thiện ác khác nhau, chỉ là thần phụ trợ mà thôi. Để đoán cát hung, chủ yếu căn cứ sinh khắc trong ngũ hành/ Lục thân, Dụng thần. Cát thần gặp hào xấu, vẫn không tránh được hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại đến cát lợi => Có thể tham khảo lục thần, để đoán định về tính tình hoặc tính chất của sự vật.
Thanh Long thuộc Mộc, được coi là cát thần, tính tình thuần hậu, nhân từ, bổ trợ cho Dụng thần vượng tướng, tiến tài tiến lộc. Thanh Long động chủ về có chuyện vui, nhưng nếu gặp hào xấu cũng khó tránh được hung hại.
6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.
- Thanh Long-Mộc: là cát thần, thuần hậu, nhân từ, bổ trợ cho Dụng thần vượng tướng- tiến tài tiến lộc.
Động: Vui mừng khánh trúc. Lâm H.Dụng phúc lớn. Lâm quẻ tốt, H.Tử động > biến Quỷ vẫn là tốt; Lâm H.xấu/Kị thần/ Cừu thần= khó tránh được hung hại=Họa tửu sắc.

+ Thanh Long: Phương Đông chùm sao Thanh Long có 7 sao: Giác, Đê, Cang, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. (Theo Nhị thập bát tú)

Sao Giác: Bình an, phú quý suốt đời

Ý nghĩa của sao: long thủ (đầu rồng)

Trong 12 cung của các ngôi sao, sao Giác 2 phần thuộc vào cung Xử Nữ, 2 phần thuộc vào cung Thiên Bình, tức là chòm Xử Nữ thuộc vào trong chòm Thiên thể tinh.

Vào cuối xuân đầu hè sau khi mặt trời lặn ở phía Nam sẽ xuất hiện sao Giác lấp lánh hào quan màu trắng bạc, thời xưa Nhật Bản gọi là "sao Chân châu", Trung Quốc gọi là "sao Đồ", hình dạng giống như tơ lụa, nó đứng đầu trong 7 ngôi sao ở phương Đông. 46 ngôi sao bao gồm 7 ngôi sao ở phương Đông, 300 ngôi sao còn lại tổ hợp thành hình dạng giống như rồng xanh, sao Giác đứng đầu trong chòm Thanh Long, chủ mùa xuân, thuộc vào sừng của chòm Thanh Long.

BẢN MỆNH: SAO HÒA THIỆN

Sao Giác là sao hòa thiện, có Phật duyên, Phật căn. Chính vì vậy người phúc dày mới có sao này, tuy có thất bại, bệnh tật nhưng gặp họa tất có cách hóa giải và đột phá. Người thuộc vào sao này tài giỏi về mặt chính trị, có năng lực quyết định sách lược, có tài nghệ, sở trường, tính cách mạnh mẽ, có chí khí, nhớ lâu, hiểu biết rộng. Đồng thời cũng chú trọng bề ngoài, coi trọng cách ăn vận, trang điểm cao quý, thích tích phúc làm điều thiện, có sở trường về quản lý, tài vụ, thích uống thuốc.

Sao Bích: Là bức tường thành khiến người khác cảm thấy an tâm

Ý NGHĨA CỦA NGÔI SAO

Trong 12 cung, sao Bích nằm trọn trong cung Song Ngư, thuộc chòm Song Ngư. Chòm Song Ngư xuất hiện vào lúc hoàng hôn của hạ tuần tháng 11, tại chòm sao chính giữa bầu trời phương Nam. Ngôi sao này và sao Thất cùng thể hiện ý xây dựng nhà cửa đế trú đông.

BẢN MỆNH: SAO AN TRỤ

Sao Bích là sao an trụ, người thuộc sao này có chức quyền cao, thích làm việc thiện, vào chùa niệm kinh, học kinh điển. Tính tình mạnh mẽ tuy nhiên quan hệ giao tiếp kém, xử lý công việc cẩn thận, suy xét kỹ lưỡng, quản lý các việc về tiền bạc, hôn nhân...đều tốt.

VẬN MỆNH CUỘC ĐỜI: NỖ LỰC HẾT MÌNH

Người thuộc sao Bích nếu thành công từ sớm sẽ hoàn toàn dựa vào sự nỗ lực của bản thân, quan hệ giao tiếp kém, nhưng không thể tách rời quần chúng. Có thể hứng thú với công việc kinh doanh, nỗ lực phấn đấu, không có lý tưởng quá cáo nhưng lại có thành quả. Nữ thuộc sao này nếu coi gia đình là chủ thì chắc chắn sẽ hạnh phúc.

 

Sao Thất: quyết đoán, độc lập trong suy nghĩ

VẬN MỆNH

Vận mệnh tốt, có thực lực. Lúc trẻ vất vả, sau trung niên bắt đầu có danh vọng, vãn niên vận hanh thông. Vì thiếu tu dưỡng nên sa chân vào con đường sai lầm, không được kết quả như mong muốn.

TÍNH CÁCH

Sao Thất thuộc vào sao hung ác, tính cách mạnh mẽ, luôn coi bản thân mình là trung tâm, không quan tâm đến tình cảm của người khác, tính cách xốc nổi nóng nảy, giải quyết vấn đề rất quyết đoán, hay tranh đấu, có dã tâm.

SỰ NGHIỆP

Người thuộc sao Thất độc lập trong suy nghĩ, phù hợp kinh doanh buôn bán, ngoài ra còn thích hợp làm luật sư, giáo viên.

TÀI VẬN

Tài vận tốt, thích xã giao, tiêu xài phung phí, cũng vì giao tiếp xã giao này mà đem lại tiền của, thích cuộc sống giàu sang phú quý.

TÌNH YÊU HÔN NHÂN

Nên kết hôn sớm, chỉ cần không quá tham lam thì có thể có được hôn nhân mỹ mãn, thành công trong sự nghiệp. Nam giới có khuynh hướng đồng tính.

VẬN THẾ CUỘC ĐỜI CỦA NGƯỜI THUỘC SAO THẤT
Bản mệnh Tính cách mạnh mẽ, tùy tiện, nóng nảy hấp tấp, thích cạnh tranh
Vận mệnh cuộc đời Vận thế thiếu niên cực khổ, từ trung niên dần dần có danh vọng, cuối đời thông thuận.
Tính cách Thích giao tiếp, thích nổi trội, hoài bão lớn, coi mình là trung tâm, xử lý công việc thiếu suy nghĩ. Là người chân thực, thẳng thắn tuy nhiên dễ bị lầm đường do theo đuổi quyền lực.
Sự nghiệp Có tinh thần độc lập, thích hợp với các công việc độc lập như buôn bán, ngoài ra còn có thể phát huy tài ăn nói để đảm nhiệm các công việc như giáo viên, du lịch, ẩm thực, phục vụ...
Tài vận Tài vận tốt, vì thích giao tiếp mà phung phí tiền của, nhưng cũng vì giao tiếp mà có tài vận lớn. Thích hưởng thụ cuộc sống thượng lưu, thu thập đồ quý báu, nhưng cũng có người xa hoa ở bên ngoài mà thực chất cuộc sống lại khó khăn.
Tình yêu hôn nhân Kết hôn sớm, gia đình con cái đều tốt đẹp. Chỉ cần dục vọng không quá lớn thì hôn nhân sẽ mỹ mãn, sự nghiệp thành công.
Sức khỏe Từ nhỏ đã có sức khỏe tuy nhiên phải chú ý các bệnh về gam và xuất huyết não, bao tinh hoàn và tử cung...

 

 

Sao Nguy: Kiên trì, có khả năng quan sát, phán đoán

VẬN MỆNH

Khi còn trẻ vận mệnh không ổn định, sau trung niên tài năng mới được biết đến, tự mình gây dựng sự nghiệp, có niềm tin kiên định, chuyên tâm vào công việc, vãn niên có thể yên ổn hanh thông/

TÍNH CÁCH

Coi trọng tình cảm, tính cách hiền lành, cởi mở phóng khoáng, có khả năng giải quyết tốt công việc, có thể kiên trì chịu đựng gian khổ, không thích gò bó, khuyết điểm là xốc nổi hấp tấp, không giỏi ngoại giao, có lòng phản bội.

SỰ NGHIỆP

Có khả năng quan sát, phán đoán, thích hợp làm những công việc có tính cách sáng tạo và những công việc phục vụ xã hội quần chúng, không phù hợp hoạt động trong lĩnh vực chính trị.

TÌNH YÊU HÔN NHÂN

Là người có lòng thương yêu rộng khắp, trong tình cảm thiếu đi sự chân thành, có sức hấp dẫn, nên kết hôn sớm. Sau khi kết hôn vẫn thường tìm hoa hỏi liễu, do tính cách phóng khoáng, không biết kiềm chế bản thân nên thường hôn nhân không hạnh phúc.

 

Sao Hư: Như mây mù trên núi, trải qua khó khăn để có được hạnh phúc

Sức khỏe: khỏe mạnh, ăn uống đơn giản

Người thuộc sao Hư, từ nhỏ đã có sức khỏe, quen với cuộc sống cô đơn không người nương tựa, ăn uống đơn giản. Để giữ được vóc dáng đẹp đẽ, sẽ không ăn uống quá nhiều và những thực phẩm có quá nhiều dinh dưỡng. Phải chú ý đến bệnh gan và xuất huyết não hay các bệnh về bao tinh hoàn và tử cung. Cả nam và nữ đều không nên chìm trong tửu sắc.

VẬN MỆNH

Khi còn trẻ vận không tốt, không thân thiết với người thân, sau trung niên vận mệnh tốt, thu nhập ổn định. Chủ trương đề cao "tự ngã", lòng tự tôn cao, gặp nghịch cảnh có khả năng đột phá khỏi hoàn cảnh khốn cùng, chuyển sang hoàn cảnh tốt.

 TÍNH CÁCH

Người thuộc sao Hư giải quyết công việc rất cẩn thận nhưng thường nhân duyên không tốt, phải lưu ý thay đổi tính cách nông nổi của bản thân. Những người thuộc sao này thường khá mê tín, thường cầu xin thần linh che chở, thích tìm hiểu về tâm linh.

SỰ NGHIỆP

Sao Hư là sao thông minh, sáng suốt, nhanh nhạy, có khả năng đề ra quyết sách, thích hợp làm cố vấn chuyên nghiệp, nhưng không nên tự mình xây dựng sự nghiệp.

TÀI VẬN

Có mệnh phú quý, tiền của nhiều. Tài vận tốt, giỏi vận dụng tiền bạc của người khác để trở lên giàu có.

TÌNH YÊU HÔN NHÂN

Coi trọng tình cảm hơn lý trí, hay dùng tình cảm để giải quyết công việc. Đối tượng để kết hôn hoặc xem mặt thường do người thân, bạn bè giới thiệu. Khong giỏi ngoại giao, hay làm người khác hiểu lầm. Nam giới thường hay tán tỉnh phụ nữ, háo sắc, cuộc sống vợ chồng không hòa hợp.

 

Sao Nữ: Cần cù chịu khó, luôn biết vươn lên

Ý nghĩa của ngôi sao: ngôi sao thứ hai trong chòm sao Huyền Vũ

Trong 12 cung, sao Nữ còn được gọi là Tu Nữ, nằm trọn trong cung Ma Kết, đây là sao Ngưu Lang, hay gọi là sao Alpha Aquilae (đại bàng bay) của chòm sao Thiên Ưng (Aquila).

Vào đêm ngày 7 tháng 7 âm lịch, sao Ngưu Lang hợp thành một đôi với sao Chức Nữ ở chòm sao Thiên Cầm, vào ngày này, trên bầu trời sẽ phát ra một vầng sáng. Trong thuật chiêm tinh Nhị thập thất tú của Ấn Độ không có sao Ngưu Lang, nhưng trong chiêm tinh của Trung Quốc, tính thêm sao Ngưu Lang thành Nhị thấp bát tú.

Sao Đẩu: sáng tạo, lòng tự tôn cao

Ý nghĩa của sao: đầu Huyền Vũ

Trong 12 cung, sao Đẩu là sao An Trú, 1 phần thuộc vào cung Nhân Mã, 3 phần thuộc vào cung Ma Kết, ngôi sao này thuộc vào chòm Xạ Thủ, nằm ở nửa phần phía Đông của chòm Xạ Thủ, sáu ngôi sao tạo thành hàng cũng giống Bắc đẩu thất tinh, người Trung Quốc cũng gọi "Nhị thập bát tú" là "Nam đẩu lục tinh" và lấy làm tên gọi của chòm sao này. Vào lúc hoàng hôn đầu tháng 9, ở gần đường chân trời về phía Nam có thể quan sát thấy chòm Xạ Thủ, bên dưới ngôi sao thứ hai thuộc chòm "Nam đẩu lục tinh" xuất hiện rất nhiều chòm saoo và tinh vân, hình dáng giống như chũ "nhân" (Y) lộn ngược, giống như nhân Mã đang giương cung.

 

Sao Chẩn: Kẻ bảo thủ

Ý nghĩa của sao: con quạ

Trong 12 cung, sao Chẩn hoàn toàn thuộc vào cung Xử Nữ. Sao này là chòm Ô Nha (con quạ).

Vào tháng 5, sao này xuất hiện ở phương Nam, nằm ở vị trí giữa trên đường thẳng của chòm Trường Sà, trông giống với hình con quạ. Ở phía dưới bên phải của chủ tinh sao Giác thuộc chòm Xử Nữ, 4 ngôi sao hình giống chiếc màn tứ giác không đều là ngôi sao này. Trong thần thoại Hy Lạp, con quạ vốn là sứ giả của thần Zeus, có đôi cánh trắng, có năng lực lý giải ngôn ngữ. Babylon coi sao Chẩn là phong tinh (sao gió), còn gọi là "Thiên quân", tức là một ngôi sao trong 7 ngôi thuộc chòm Chu Tước.

Sao Dực: Vượt qua gian khổ để thành công.

Ý nghĩa của sao: đuôi chu tước

Trong 12 cung, sao Dực 1 phần thuộc vào cung Sư Tử, ba phần thuộc vào cung Xử Nữ, nên ngôi sao này thuộc vào chòm Cự Giải.

Sao Dực xuất hiện vào tháng 5 ở phía dưới chòm Sư Tử và Xử Nữ trên bầu trời về phía Nam, là chòm sao phát sáng rực rỡ ở trên lưng chòm Trường Xà. Có 8 sao thuộc tầng thứ tư ở phía dưới ánh sáng yếu của ngôi sao, hình dáng tỏa ra giống như cái cốc, sao Dực thuộc vào phần đuôi củ chòm Chu Tước ở phương Nam.

 

Sao Trương: kẻ thất thường

Ý nghĩa của sao: cánh chim

Trong các ngôi sao trong 12 cung, sao Trương thuộc vào cung Sư Tử. Trong các chòm thiên thể sao Trương thuộc vào chòm Sư Tử, là Tây nhĩ thản (Xi Ertan) của sao Tây tháp (Thera).

Tây nhĩ thản (Xi Ertan) tiếng Ả rập có nghĩa là "tây căn tiểu cốt" (gốc rễ của xương nhỏ phương Tây) từ đó suy ra, giống với ý nghĩa là lưng của chòm Sư Tử. Vị trí của sao Trương hướng từ lưng của chòm Sư Tử đến Hằng tinh gần chòm Hải Xà, so với sao Lôi cổ lỗ tư (Lei gulusi) của chòm Sư Tử ba ngôi sao thuộc Hằng tinh còn tối hơn. Ngôi sao này xuất hiện ở trên đường Hoàng đạo vào hoàng hôn của mùa xuân, nằm ở giữa chòm Cự Giải và chòm Xử Nữ và là ngôi sao thứ năm trong chòm Chu Tước ở phương Nam.

Sao Liễu: Cực đoan, quá khích

Ý nghĩa của sao: bụng rắn

Trong 12 cung sao Liễu thuộc vào cung Cự Giải, thuộc chòm Hải Xà, có ánh sáng xung quanh khá mờ, những ngôi sao này phần lớn phát ánh sáng màu đỏ, không những xuất hiện ở bên phải chòm Hải Xà mà còn từ bên dưới chòm Cự Giải uốn lượn nhấp nhô, kéo dài đến chòm Sư Tử, đến phía Nam của chòm Xử Nữ, thẳng đến gần chòm Thiên Bình. Sao Liễu xuất hiện vào lúc hoàng hôn tháng 4, tháng 5 trên bầu trời về phía Nam, nên vị trí của ngôi sao này là bụng rắn, tức là ngôi sao thứ nhất thuộc chòm Sư Tử, phía dưới của nó rủ xuống, giống như lá liễu, phương Nam giống như Chu tước đang bay lên. Vì kết giao với sao Tửu Kỳ nên những người thuộc ngôi sao này có sở thích uống rượu.

Sao Quỷ: Từng trải, kiên cường chính trực

Ý nghĩa của sao: tứ quỷ tích tụ

Trong 12 cung, sao Quỷ thuộc vào cung Cự Giải, chòm Cự Giải. Vào hoàng hôn hạ tuần tháng 3 trên bầu trời về phía Nam có thể quan sát thấy ngôi sao này, không đặc biệt sáng. Bốn ngôi sao ở trung ương có hình dạng giống như bốn cái sừng, có khá nhiều các ngôi sao nhỏ phân bố xung quanh, hiện nay được gọi là chòm sao tổ ong, nó nổi danh giống như sao Mão, giống như hình dạng của Tứ quỷ tích tụ rất nhiều tơ lụa, là ngôi sao thứ hai trong 7 chòm sao ở phương Nam.

 

 

 

 

Sao Tỉnh: Con ngựa bất kham đầy mâu thuẫn

Ý nghĩa của sao: mái nhà

Trong 12 cung, sai Tỉnh 3 phần thuộc vào cung Song Tử, 1 phần thuộc vào cung Cự Giải. Vì thế ngôi sao này thuộc vào chòm Song Tử.

Vào hoàng hôn thượng tuần của tháng 3, hai ngôi sao Đẩu thuộc chòm Song Tử sáng rực trên bầu trời ở phía Nam, chòm sao được sắp xếp thành hai hàng, nhìn giống như một đôi, trong thuật chiêm tinh của người phương Tây xem hai ngôi sao này là hai anh em, mà trong thuật chiêm tinh tú diệu (mặt trăng, mặt trời và các vì sao) cho rắng đó là cung Phu Thê, tức là một đôi nam nữ, Nhật Bản gọi đó là "sao Phu Thê". Hình tượng là 2 ngôi sao, hình dạng giống như mái nhà. Làm chủ 7 ngôi sao ở phương Nam, hình giống như Chu Tước (Chim sẻ đỏ). Những ngôi sao này bao gồm cả sao Lão nhân (thọ tinh) ở Nam cực.

 

Sao Sâm: Nhanh nhạy, có tài năng, biết giữ chữ tín

Ý nghĩa của sao: tấm biển chu sa

Trong 12 cung, sao Sâm thuộc vào cung Song Tử, chòm Liệp Hộ, hình dáng giống như tấm biển chu sa, người Ấn Độ coi ngôi sao này là trung tâm. Sao Sâm cùng với sao Hỏa chiếu ánh sáng rực rỡ, có rất nhiều truyền thuyết sự tích về hai ngôi sao này, vì nó là lão tướng quân trong các ngôi sao Bạch Hổ ở phương Tây.

Sao Chủy: Khéo ăn nói, giỏi hùng biện

Ý nghĩa của sao: tài hùng biện

Trong 12 cung sao Chủy hai phần thuộc cung Kim Ngưu, hai phần thuộc cung Song Tử. Sao này thuộc chòm Liệp Hộ.

Xuất hiện tại chòm sao Liệp Hộ chính giữa bầu trời phía Nam vào lúc hoàng hôn hạ tuần tháng 1, là vương giả trong chòm sao mùa đông. Là sao nắm giữ tài hùng biện trong chòm sao Bạch Hổ phía Tây.

Sao Tất: Kiên trì ước mộng

Ý nghĩa của ngôi sao

Trong 12 cung, sao Tất nằm trọn trong cung Kim Ngưu, chòm Kim Ngưu.

Chòm sao xuất hiện trên bầu trời phương Đông vào tháng 12, hoặc trên bầu trời phương Nam vào lúc hoàng hôn hạ tuần tháng 1. Ngôi sao này tương đương với ngôi sao ở mắt bên trái của chòm Kim Ngưu, phát ra ánh sáng đỏ, bằng mắt thường không thể phân biệt được.

 

Sao Mão: Người quân tử có khí tiết bậc nhất

Ý nghĩa của ngôi sao: sao bảo hộ hoàng thành

Trong 12 cung, sao Mão có một phần thuộc cung Dương Cưu ba phần thuộc Kim Ngưu, cung Kim Ngưu, ngôi sao này tương đương với "lương trụ" trong dải sao Mão của chòm sao Kim Ngưu.

Ngôi sao phát sáng ở gần chòm Kim Ngưu chính là dải sao Mã, có thể nhìn thấy rất rõ 6 ngôi sao này bằng mắt thường, được ví như "mưa sao". Có rất nhiều truyền thuyết có liên quan đến sao này, là ngôi sao sáng nhất trong quần thể sao Bạch Hổ. Các đế vương thời cổ đại đều phải quan sát sao này, vì cho rằng đây là ngôi sao bảo hộ hoàng thành.

Sao Vị: Mạnh mẽ, hoài bão lớn

Ý nghĩa của ngôi sao: nhà kho

Trong 12 cung, sao Vị thuộc cung Dương Cưu, là chòm sao hình tam giác trong các chòm sao.

Ngôi sao này nằm ở phương Nam của chòm Tiên Nữ và là một chòm sao nhỏ ở giữa chòm Anh Tiên, do ba ngôi sao cấu thành hình tam giác, có thể nhìn thấy rất rõ, thuộc quần thể sao Bạch Hổ ở phương Tây.

Sao Lâu: Kiên định, nhẫn nại

Ý nghĩa của ngôi sao: Bạch Dương

Trong 12 cung, sao Lâu là sao cấp tốc, thuộc cung Dương Cưu, chòm Bạch Dương.

Đây là chòm sao xuất hiện trên bầu trời phương Đông vào tháng 10, di chuyển chậm, vào tháng 12 lại xuất hiện ở phương Nam. Trung Quốc gọi Bạch Dương là "sao Lâu" trong 28 ngôi sao, có hình dạng giống như cái cuốc 3 cạnh, là chòm sao thứ hai trong quần thể sao Bạch Hổ phương Tây.

Sao Khuê: Sứ giả hạnh phúc cho những người bận rộn

Ý nghĩa của ngôi sao: sao Thiên Thỉ

Trong 12 cung, sao Khuê là sao hòa thiện nằm trọn trong cung Song Ngư, thuộc chòm sao Tiên Nữ.

Chòm Tiên Nữ xuất hiện trên bầu trời vào trung tuần tháng 11, có tinh vân với hình như xoáy nước, tinh vân này cách trái đất khoảng 2.300.000 năm ánh sáng, nhìn tổng thể nó giống như hình con cá, vì thế ở Ấn Độ gọi đó là cung Song Ngư, ở Trung Quốc gọi là "sao Khuê". Đây là ngôi sao cao nhất trong hơn 700 ngôi sao của 54 chòm sao của Bạch Hổ ở phương Tây, còn được gọi là "Phong Thỉ", "Thiên Thỉ", là phần đuôi của quần thể sao Bạch Hổ.

Sao Cơ: Ngang ngược nhưng rất có quy tắc

Ý nghĩa của sao: Long Vĩ

Trong 12 cung, sao Cơ thuộc vào cung Nhân Mã, vì thế nó thuộc vào chòm Xạ Thủ.

Sao Cơ vào hoàng hôn thượng tuần tháng 9 xuất hiện ở gần đường chân trời về phía Nam, vị trí ở vào khoảng giao giữa đường Hoàng đạo và Ngân hà. Chòm sao bao gồm rất nhiều ngôi sao và tinh vân, hình dáng giống như mũi tên đang giương lên, gần giống ngôi sao này giương cung ngắm trúng tâm chòm Hổ Cáp, hình dáng như con trâu 4 chân và phần đuôi của sao Vĩ thuộc vào Thanh Long.

Sao Vĩ: Dũng mãnh hiếu thắng

Ý nghĩa của sao: long vĩ (đuôi rồng)

Trong 12 chòm sao, sao Vĩ thuộc vào cung Nhân Mã, ngôi sao này thuộc vào chòm Hổ Cáp.

Ngôi sao này vào hoàng hôn trung tuần đến hạ tuần tháng 7 xuất hiện ở gần đường chân trời về phía Nam, vì ngôi sao này nằm trọn trong chòm Hổ Cáp, vị trí bên trái của nó gần chòm Xạ Thủ (Nhân Mã), cho nên nó thuộc vào cung Nhân Mã, hình dáng của nó giống như đuôi sử tử, nằm ở phần đuôi trong 7 chòm sao Thanh Long nên có tên gọi như vậy, lại còn có tên gọi là "Cửu giang".

 

Sao Tâm: Siêng năng, giàu nghị lực

Ý nghĩa của sao: long yêu (lưng rồng)

Trong 12 chòm sao, sao Tâm thuộc vào chòm Hổ Cáp, ngôi sao này là An tháp thụy tư (Antharas) của sao A nhĩ phát (Anpha) thuộc chòm Hổ Cáp. Nằm ở vị trí lưng, vai trong 7 ngôi sao thuộc chòm Thanh Long ở phương Đông, sao Tâm có vị trí rất quan trọng. An tháp thụy tư (Antharas) trong ngôn ngữ Hy Lạp có nghĩa là "chống đối sao Hỏa", bởi vì ngôi sao này phát ra sắc đỏ rực rỡ giống như sao Hoả, vì thế nên có tên như vậy.

Chòm sao Hổ Cáp vào hoàng hôn hạ tuần tháng 7 ở bên phải dải Ngân hà đường chân trời phía Nam, xuất hiện ngôi sao có hình chữ "S" trong chữ La Mã, trong ngôi sao thứ nhất là sao Phòng, ngôi sao thứ hai như cây kim, ở đuôi lấp lánh ánh sáng gọi là sao Vĩ, đây là ngôi sao sáng nhất, hình dạng giống như bậc thang.

Sao Phòng: Cởi mở, hào sảng nhưng nên biết khiêm nhường.

Ý nghĩa của sao: long phúc (bụng rồng)

Trong 12 cung, sao Phòng thuộc vào nhóm Hổ Cáp, là ngôi sao nằm ở vị trí quan trọng.

Ngôi sao này vào lúc hoàng hôn hạ tuần tháng 7 sẽ nằm ngang trên dải Ngân hà về phía Nam, vì là ngôi sao thứ ba gần với nhánh của chòm Hổ Cáp ở phía Nam, tinh tượng sáng đẹp như tơ, dài như gấm lụa, như chuỗi hạt châu. Vị trí của sao Phòng thuộc vào phần bụng của Thanh Long, còn gọi là "Mã Tổ", "Thiên Tứ", thời cổ vào mùa xuân phải tế tự sao Phòng.

 

 

Sao Đê: Hiền lành bình dị nhưng có tài mưu lược

Ý nghĩa của sao: long hung (ngực rồng)

Trong 12 cung, sao Đê 3 phần thuộc vào cung Thiên Bình, 1 phần thuộc vào cung Hổ Cáp, vì thế sao Đê thuộc vào chòm Thiên Bình.

Ngôi sao này vào thượng tuần tháng 7 xuất hiện ở vị trí trung ương của chòm sao Thiên Bình trên bầu trời về phía Nam, đây là ngôi sao thứ ba, tinh tượng là sừng hoặc sừng trâu, phiên âm là thần Đà La (Indra) - tên một vị thần chủ về mưa gió sấm sét của Ấn Độ giáo, xuất xứ là sừng trâu, mũ trụ, thần chiến tranh. Sao Đê còn gọi là Thiên căn, chính là phần ngực của 7 chòm sao Thanh Long ở phía Đông.

 

Sao Cang: Thẳng thắn nhưng thiếu chủ động

Ý nghĩa của sao: long cảnh (cổ rồng)

Trong 12 cung, sao Cang thuộc vào cung Thiên Bình nên ngôi sao này thuộc chòm Thiên Bình, hoặc gọi là chòm Bắc Miện.

Ngôi sao này vào lúc hoàng hôn của đầu mùa hè xuất hiện ở vị trí của chòm sao Thiên Bình về phía Nam, bên phải là chòm Xử Nữ, bên trái là chòm Ma Kết. Sao Cang là ngôi sao thứ tư nằm ở giữa, là một trong 7 ngôi sao nằm ở phương Đông, ở vị trí cổ trong chòm sao Thanh Long.

Sao Tinh: Hiền lành, thông minh nhưng cố chấp

Ý nghĩa của sao: đầu Chu Tước

Trong 12 cung, sao Tinh thuộc vào cung Sư Tử. Trên bầu trời vào hoàng hôn tháng 4, có thể nhìn thấy các chòm sao Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Xử Nữ xếp thành chữ "nhất" (-) hướng từ phải sang trái. Tù sao Gia mã (Gamma) ở phía dưới so có hình móc câu của 7 ngôi sao Bắc đẩu thuộc chòm Đại Hùng rủ xuống dưới tạo thành một đường thẳng. Hình dáng của chòm sao này giống như móc câu, được gọi là một phần "Đại phủ của Sư Tử", Nhật Bản gọi là "sao Quế Đồng", hình dáng giống như đầu rắn, nằm ở vị trí đầu Chu Tước về phương Nam.

Chòm Huyền Vũ phương Bắc gồm bảy ngôi sao

Chòm Chu Tước phương nam gồm bảy ngôi sao

Chòm Bạch Hổ phương Tây gồm bảy ngôi sao

Chòm Thanh Long phương đông gồm bảy ngôi sao

Cách Khúc Trực

Cách Viêm Thượng

Hung Thần Vận C

Hung Thần Vận B

Hung Thần Vận A

Cát Thần Vận C

Cát Thần Vận B

Cát Thần Vận A

Thiên Địa MVN 3

Thiên Địa MVN 2

Thiên Địa MVN 1

Tam Hình MVN 3

Tam Hình MVN 2

Tam Hình MVN 1

Tam Hình MV 3

Tam Hình MV 2

Tam Hình MV 1

Tam Hội MVN 3

Tam Hội MVN 2

Tam Hội MVN 1

Tam Hội MV 3

Tam Hội MV 2

Tam Hội MV 1

Tam Hợp MVN 3

Tam Hợp MVN 2

Tam Hợp MVN 1

Tam Hợp MV 3

Tam Hợp MV 2

Tam Hợp MV 1

Chi Hợp MVN 3

Chi Hợp MVN 2

Chi Hợp MVN 1

Chi Hợp MV 3

Chi Hợp MV 2

Chi Hợp MV 1

Can Sinh MVN 3

Can Sinh MVN 2

Can Sinh MVN 1

Can Sinh MV 3

Can Sinh MV 2

Can Sinh MV 1

Can Khắc MVN 3

Can Khắc MVN 2

Can Khắc MVN 1

Can Khắc MV 3

Can Khắc MV 2

Can Khắc MV 1

Can Hợp MVN 3

Can Hợp MVN 2

Can Hợp MVN

Can Hợp MV 3

Can Hợp MV 2

Can Hợp MV 1

Giáp và Mậu: 2 Khắc 1. Mệnh

Giáp và Mậu: 2 khắc 1. Mệnh

Giáp và Mậu: 1 khắc 1. Mệnh

Là Mộc - Ấn Kiêu

Là Thủy - Ấn Kiêu

Là Kim - Ấn Kiêu

Là Thổ - Ấn Kiêu

Là Hỏa - Ấn Kiêu

Hỷ Là Mộc - Ấn Kiêu

Kị Thần: Mộc - Ấn Kiêu

Kị Thần: Mộc - Quan Quỷ

Kị Thần: Mộc - Thê Tài

Kị Thần: Mộc - Thực Thương

Kị Thần: Mộc - Huynh Đệ

Dụng Thần Mờ Yếu - Đa dụng thần

Dụng = Hỷ Thần

Hỷ Là Mộc - Thực Thương

Hỷ Là Mộc - Quan Quỷ

Hỷ Là Mộc - Thê Tài

Là Thủy - Thực Thương

Là Thủy - Thê Tài

Là Thủy - Quan Quỷ

Là Thổ - Quan Quỷ

Là Thổ - Thê Tài

Là Thổ - Thực Thương

Là Hỏa - Quan Quỷ

Là Hỏa - Thê Tài

Là Hỏa - Thực Thương

Can tàng Hợi là Nhâm - Giáp

Can tàng Tuất là Mậu - Tân - Đinh

Can tàng Dậu là Tân

Can tàng Thân là Canh - Nhâm

Can tàng Mùi là Kỷ - Đinh - Ất

Can tàng Ngọ là Đinh

Can tàng tị là Bính - Canh

Can Tàng Thìn là Mậu - Giáp - Nhâm

Can tàng Mão là Ất

Can tàng Dần là Giáp - Bính - Mậu

Can Tàng Kỷ - Tân

Trạng thái Lâm Quan

Trạng thái Quan đới

Trạng thái Mộc dục

Trạng thái trường sinh.

Trạng thái dưỡng

Trạng thái Thai

Trạng thái Tuyệt

Trạng thái nhập mộ

Trạng thái Tử

Bệnh

Trạng thái Suy

Đế vượng

Can năm là Qúy Thủy

Can năm là Nhâm Thủy

Can năm là Tân Kim

Can năm là Canh Kim

Can năm là Kỷ Thổ

Can năm là Mậu Thổ

Can năm là Đinh Hỏa

Can năm là Bính Hỏa

Can năm là Ất Mộc

Can năm là Giáp

Mùa Đông - Tháng Sửu

Mùa Đông - Tháng Tý

Mùa Đông - Hợi

Mùa Thu - Tháng Tuất

Mùa Thu - Tháng Dậu

Mùa Thu - Tháng Thân

Mùa Hạ - Tháng Mùi

Mùa Hạ - Tháng Ngọ

Mùa Hạ - Tháng Tị

Mùa Xuân - Thìn

Mùa Xuân - Mão

Mùa Xuân - Dần

Chi trụ Giờ - Mười Thần

Can Giờ

Mùa - Tháng sinh

Mười Thần Trụ Tháng

Tóm lược về Nhâm Tuất

Nhâm tuất, Quý hợi: Đại hải thủy
Thủy trong ngũ hành tại tuất là giai đoạn đã thành thục, tại hợi cũng là giai đoạn thành thục. Do đó thủy ở đây thế lực hùng hậu, đồng thời ngũ hành của hợi thuộc thủy đại biểu ý nghĩa của sông đổ ra biển, cho nên gọi nó là nước biển lớn.
Biển cả mênh mông thế vô cùng tận không có gì có thể so sánh được. Nó là nơi quy tụ của các con sông, cho nên các loại nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn...gặp nước biển lớn đều tốt. Nhâm thìn trong nước sông dài phối hợp với nước biển lớn gọi “ Rồng quay về biển” mệnh này phú quý một đời không ai so nổi.
Trong hỏa nó thích lửa trên trời vì mặt trời mọc ở biển Đông. Trong kim nó thích kim đáy biển, trong mộc nó thích gỗ cây dâu, gỗ cây dương liễu, trong thổ nó thích đất dịch chuyển và đất bên đường. Ngoài ra tất cả đều không chịu nổi nước biển lớn gặp nhau tất sẽ lớn, như nước biển lớn gặp lửa sấm sét tạo thành thế nước sung hãn, phong ba bão táp, mệnh người như vậy một đời lao khổ. Cho nên cần phải có thế núi hùng hậu để trấn giữ biển. (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Tân Dậu

Canh thân, Tân dậu : Thạch Lựu mộc
Thân đại biểu cho tháng 7, dậu đại biểu cho tháng 8. Khi này cây cối đã bắt đầu tàn lụi, chỉ có cây thạch lựu là kết trái mà gọi là canh thân tân dậu là gỗ cây lựu. Thứ cây này vào mùa thu kết trái cho nên tính mộc cứng rắn, với thủy mộc thổ kim qua lại có thể hòa hợp thành tốt. Duy chỉ có nước biển lớn thế thủy ào ạt gặp nó sẽ bần cùng bệnh tật. Có thể gặp lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò cũng tốt, nhưng hỏa ấy sẽ dự báo điềm xấu. Gỗ thạch lựu thường bao hàm mệnh quý như sinh tháng 5 là ngày trụ hoặc giờ trụ lại có mang một hỏa thì gọi “ Thạch lựu phun lửa”. Gỗ gặp cây dương liễu gọi “ Hoa hồng liễu xanh” (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Canh Thân

Canh thân, Tân dậu : Thạch Lựu mộc
Thân đại biểu cho tháng 7, dậu đại biểu cho tháng 8. Khi này cây cối đã bắt đầu tàn lụi, chỉ có cây thạch lựu là kết trái mà gọi là canh thân tân dậu là gỗ cây lựu. Thứ cây này vào mùa thu kết trái cho nên tính mộc cứng rắn, với thủy mộc thổ kim qua lại có thể hòa hợp thành tốt. Duy chỉ có nước biển lớn thế thủy ào ạt gặp nó sẽ bần cùng bệnh tật. Có thể gặp lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò cũng tốt, nhưng hỏa ấy sẽ dự báo điềm xấu. Gỗ thạch lựu thường bao hàm mệnh quý như sinh tháng 5 là ngày trụ hoặc giờ trụ lại có mang một hỏa thì gọi “ Thạch lựu phun lửa”. Gỗ gặp cây dương liễu gọi “ Hoa hồng liễu xanh” (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Kỷ Mùi

Mậu ngọ, Kỷ mùi: Thiên thượng hỏa
Ngọ là giai đoạn cực thịnh vượng của hỏa trong ngũ hành, mà mùi, kỷ là nơi mộc sinh trưởng khiến cho thế hỏa càng vượng. Hỏa mạnh bốc cao mà gọi lửa trên trời, lửa trên trời là mặt trời nên thích gặp mộc, thủy, kim để điều hòa phối hợp biến hóa khiến cho thủy tưới mộc tươi tốt, mộc giúp hỏa bốc cháy. Nó thích lửa ngọn đèn ngoài ra với các hỏa khác đều tương khắc. Nó lại thích gặp thổ, nếu có kim mộc thì hình thành một mệnh cực quý. Lửa trên trời nếu đơn độc với thủy thì dễ hình thành thủy hỏa tương khắc (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Mậu Ngọ

Mậu ngọ, Kỷ mùi: Thiên thượng hỏa
Ngọ là giai đoạn cực thịnh vượng của hỏa trong ngũ hành, mà mùi, kỷ là nơi mộc sinh trưởng khiến cho thế hỏa càng vượng. Hỏa mạnh bốc cao mà gọi lửa trên trời, lửa trên trời là mặt trời nên thích gặp mộc, thủy, kim để điều hòa phối hợp biến hóa khiến cho thủy tưới mộc tươi tốt, mộc giúp hỏa bốc cháy. Nó thích lửa ngọn đèn ngoài ra với các hỏa khác đều tương khắc. Nó lại thích gặp thổ, nếu có kim mộc thì hình thành một mệnh cực quý. Lửa trên trời nếu đơn độc với thủy thì dễ hình thành thủy hỏa tương khắc (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Đinh Tị

Bính thìn, Đinh tị: Sa trung thổ
Thổ trong ngũ hành mộ ở thin, tuyệt ở tỵ. Bính đinh ngũ hành thuộc hỏa trưởng thành tại thìn, hiển thân tại tỵ. Thổ này ở thế mộ tuyệt nhưng hỏa lại vượng khiến cho nó có thể làm lại mới tât cả. Nó giống như những đốm tro khi đốt bay lên rồi rơi xuống thành thổ, cho nên gọi là cát trong đất. Cát trong đất có kim là quý, lại cần nước trong mà lọc kim ra, cho nên gặp nước gặp kim là quý. Nó thích gặp lửa trên trời có ánh thái dương bãi cát chạy dài cảnh mới đẹp. Nó lại thích gỗ cây dâu cây dương liễu, vì hai loại gỗ này cát mới có thể trồng nó, ngoài ra gặp các loại mộc, khác đều không tốt (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Bính Thìn

Bính thìn, Đinh tị: Sa trung thổ
Thổ trong ngũ hành mộ ở thin, tuyệt ở tỵ. Bính đinh ngũ hành thuộc hỏa trưởng thành tại thìn, hiển thân tại tỵ. Thổ này ở thế mộ tuyệt nhưng hỏa lại vượng khiến cho nó có thể làm lại mới tât cả. Nó giống như những đốm tro khi đốt bay lên rồi rơi xuống thành thổ, cho nên gọi là cát trong đất. Cát trong đất có kim là quý, lại cần nước trong mà lọc kim ra, cho nên gặp nước gặp kim là quý. Nó thích gặp lửa trên trời có ánh thái dương bãi cát chạy dài cảnh mới đẹp. Nó lại thích gỗ cây dâu cây dương liễu, vì hai loại gỗ này cát mới có thể trồng nó, ngoài ra gặp các loại mộc, khác đều không tốt (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Ất Mão

Giáp dần, Ất mão: Đại khê thủy
Dần mão thuộc phương Đông, dần là nơi gió đông thịnh vượng. Mão ở chính Đông, nếu nước hướng chảy chính Đông thì tha hồ thỏa thích trên đường tụ hội thành dòng chảy ra sông mà gọi là nước suối lớn. Nước suối lớn cần chảy về biển mà điều quan trọng là chảy lien tục không dứt. Do đó nước suối lớn nên gặp kim sinh thủy giúp. Nếu gặp các loại thổ khác và phải sinh mộc đều không hay. Chỉ có Nhâm tý, Quý sửu là núi, lại gặp nước, trong sách gọi “ Nước chảy quanh núi” mới là cục mệnh quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Giáp Dần

Giáp dần, Ất mão: Đại khê thủy
Dần mão thuộc phương Đông, dần là nơi gió đông thịnh vượng. Mão ở chính Đông, nếu nước hướng chảy chính Đông thì tha hồ thỏa thích trên đường tụ hội thành dòng chảy ra sông mà gọi là nước suối lớn. Nước suối lớn cần chảy về biển mà điều quan trọng là chảy lien tục không dứt. Do đó nước suối lớn nên gặp kim sinh thủy giúp. Nếu gặp các loại thổ khác và phải sinh mộc đều không hay. Chỉ có Nhâm tý, Quý sửu là núi, lại gặp nước, trong sách gọi “ Nước chảy quanh núi” mới là cục mệnh quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Quý Sửu

Nhâm tý, Quý sửu: Tang thạch mộc
Ngũ hành tý thuộc thủy, ngũ hành sửu thuộc thổ sinh kim. Thủy có thể làm cho mộc sinh trưởng tươi tốt nhưng kim lập tức có thể chặt nó. Nó giống như cây dây vừa mới sinh trưởng đã bị người ta chặt, cho nên gọi nó là gỗ cây dâu. Quá trình sinh trưởng của cây dâu nếu gặp cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch nơi sinh nó thì rất tốt. Gặp nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ giúp bỏ nó tươi tốt. Nếu gặp Canh dần Tân mão gỗ cây tùng bách, đây gọi là mạnh yếu giúp nhau, gặp gỗ cây liễu người ta gọi “ Dâu liễu thành rừng” là cảnh an cư lập nghiệp. Gặp gỗ rừng lớn giống như nhánh sông gặp dòng sông là rất tốt. Chỉ có gặp gỗ đồng bằng, gỗ cây lựu sẽ bị tàn phá chèn ép là xấu (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Nhâm Tý

Nhâm tý, Quý sửu: Tang thạch mộc
Ngũ hành tý thuộc thủy, ngũ hành sửu thuộc thổ sinh kim. Thủy có thể làm cho mộc sinh trưởng tươi tốt nhưng kim lập tức có thể chặt nó. Nó giống như cây dây vừa mới sinh trưởng đã bị người ta chặt, cho nên gọi nó là gỗ cây dâu. Quá trình sinh trưởng của cây dâu nếu gặp cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch nơi sinh nó thì rất tốt. Gặp nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ giúp bỏ nó tươi tốt. Nếu gặp Canh dần Tân mão gỗ cây tùng bách, đây gọi là mạnh yếu giúp nhau, gặp gỗ cây liễu người ta gọi “ Dâu liễu thành rừng” là cảnh an cư lập nghiệp. Gặp gỗ rừng lớn giống như nhánh sông gặp dòng sông là rất tốt. Chỉ có gặp gỗ đồng bằng, gỗ cây lựu sẽ bị tàn phá chèn ép là xấu (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Tân Hợi

Canh tuất, Tân hợi: Thoa xuyến kim
Ngũ hành kim suy yếu tại tuất, bệnh tại hợi. kim đã suy yếu lại bệnh, cho nên rất mềm yếu mà gọi kim là trang sức. Kim trang sức là vàng bạc liệu có phú quý không? Không nhất định như vậy. Vạn vật cái quý nhất là được bản tính tự nhiên. Cho nên kim trang sức là vật để đeo trang sức đương nhiên đã bị làm tổn thương. Kim trang sức sợ gặp hỏa, thích gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài là tốt. Nhưng sợ gặp nước biển lớn ví như đá rơi đáy biển. Ngoài ra nó còn thích cát trong đất bởi vì thổ có thể sinh kim (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Canh Tuất

Canh tuất, Tân hợi: Thoa xuyến kim
Ngũ hành kim suy yếu tại tuất, bệnh tại hợi. kim đã suy yếu lại bệnh, cho nên rất mềm yếu mà gọi kim là trang sức. Kim trang sức là vàng bạc liệu có phú quý không? Không nhất định như vậy. Vạn vật cái quý nhất là được bản tính tự nhiên. Cho nên kim trang sức là vật để đeo trang sức đương nhiên đã bị làm tổn thương. Kim trang sức sợ gặp hỏa, thích gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài là tốt. Nhưng sợ gặp nước biển lớn ví như đá rơi đáy biển. Ngoài ra nó còn thích cát trong đất bởi vì thổ có thể sinh kim (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Kỷ Dậu

Mậu thân, Kỷ dậu: Đại dịch thổ
Than là quẻ khôn, quẻ khôn trong bát quái ý nghĩa là đất. Dậu là quẻ Đoài, quẻ Đoài ý nghĩa trong bát quái là đầm ao. Mậu kỷ trong ngũ hành thuộc thổ, nó ở trên mặt đất ao hồ giống như bụi bay trong không khí. Cho nên gọi nó là đất dịch chuyển.
Nguyên khí dần dần hồi phục, vạn vật sinh mệnh thu lại đều giống như đất dịch chuyển quay về với mặt đất. Đất dịch chuyển thuộc mệnh cách tương đối cao quý, nó đại biểu cho khuynh hướng quay về với bản tính. Đất chuyển dịch thích nước tương đối thanh tĩnh như nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Nó cũng thích kim thanh tú như kim trang sức, kim loại trắng. Có một số can chi khí vượng thế mạnh nó gặp phải bị vùi chon như nước biển lớn, lửa trên núi, lử dưới núi, lửa ngọn đèn…Gặp phải lửa sấm sét đành phải dùng thủy hóa giải. Nhưng vật cực tất phản mệnh, cách khắc này ngược lại thành quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Mậu Thân

Mậu thân, Kỷ dậu: Đại dịch thổ
Than là quẻ khôn, quẻ khôn trong bát quái ý nghĩa là đất. Dậu là quẻ Đoài, quẻ Đoài ý nghĩa trong bát quái là đầm ao. Mậu kỷ trong ngũ hành thuộc thổ, nó ở trên mặt đất ao hồ giống như bụi bay trong không khí. Cho nên gọi nó là đất dịch chuyển.
Nguyên khí dần dần hồi phục, vạn vật sinh mệnh thu lại đều giống như đất dịch chuyển quay về với mặt đất. Đất dịch chuyển thuộc mệnh cách tương đối cao quý, nó đại biểu cho khuynh hướng quay về với bản tính. Đất chuyển dịch thích nước tương đối thanh tĩnh như nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Nó cũng thích kim thanh tú như kim trang sức, kim loại trắng. Có một số can chi khí vượng thế mạnh nó gặp phải bị vùi chon như nước biển lớn, lửa trên núi, lử dưới núi, lửa ngọn đèn…Gặp phải lửa sấm sét đành phải dùng thủy hóa giải. Nhưng vật cực tất phản mệnh, cách khắc này ngược lại thành quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Đinh Mùi

Bính ngọ, Đinh mùi : Thiên hà thủy
Bính đinh thuộc hỏa, ngọ là nơi ngũ hành hỏa vượng nhưng nạp âm gọi thủy. Thủy từ trong hỏa sinh ra cho nên xem như nước trên trời. Nguyên khí lên cao khí thế sung túc hóa thành mây mù rơi xuống thành mưa. Nó có công lao thúc đẩy sự sinh trưởng vạn vật.
Nước trên trời vốn ở trên cao, cho nên kim mộc thủy hỏa thổ ở dưới đất không thể khắc chế được. Duy chỉ có canh tý tân mùi là đất trên tường là tương xung với nó (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Bính Ngọ

Bính ngọ, Đinh mùi : Thiên hà thủy
Bính đinh thuộc hỏa, ngọ là nơi ngũ hành hỏa vượng nhưng nạp âm gọi thủy. Thủy từ trong hỏa sinh ra cho nên xem như nước trên trời. Nguyên khí lên cao khí thế sung túc hóa thành mây mù rơi xuống thành mưa. Nó có công lao thúc đẩy sự sinh trưởng vạn vật.
Nước trên trời vốn ở trên cao, cho nên kim mộc thủy hỏa thổ ở dưới đất không thể khắc chế được. Duy chỉ có canh tý tân mùi là đất trên tường là tương xung với nó (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Ất Tị

Giáp thìn, Ất tỵ: Phú đăng hỏa
Thìn là trời đã sáng, tỵ là sắp đến buổi trưa. Mặt trời tỏa sáng thiên hạ không cần phải đốt đèn chiếu sáng, cho nên bị xem là lửa ngọn đèn, ánh sáng của đèn lung linh, cây đèn chiếu sáng đến những nơi mặt trời mặt trăng không thể chiếu sáng tới được.
Lửa ngọn đèn chính là lửa chiếu sáng ban đêm, nó không tách khỏi được với gỗ và dầu. Dầu trong ngũ hành thuộc thủy chi nên ngọn đèn gặp mộc gặp thủy là tốt. Đêm chủ âm do đó lửa ngọn kỵ mặt trời. Lửa ngọn đèn có hai loại mệnh quý, một là “ Che đèn thêm dầu” chỉ lửa ngọn đèn gặp nước dưới giếng nước dưới khe, nước sông dài. Và một loại “ Dưới đèn múa kiếm” chỉ lửa ngọn đèn gặp kiếm phùng kim. Ngoài ra lửa ngọn đèn còn sợ gặp thổ trong ngũ hành chỉ trừ Bính tuất đinh hợi. Đất mái nhà. Nó cũng thích hỏa nhưng trừ lửa sấm sét là lửa rồng thần tất phải có gió thổi làm tắt lửa đèn (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Giáp Thìn

Giáp thìn, Ất tỵ: Phú đăng hỏa
Thìn là trời đã sáng, tỵ là sắp đến buổi trưa. Mặt trời tỏa sáng thiên hạ không cần phải đốt đèn chiếu sáng, cho nên bị xem là lửa ngọn đèn, ánh sáng của đèn lung linh, cây đèn chiếu sáng đến những nơi mặt trời mặt trăng không thể chiếu sáng tới được.
Lửa ngọn đèn chính là lửa chiếu sáng ban đêm, nó không tách khỏi được với gỗ và dầu. Dầu trong ngũ hành thuộc thủy chi nên ngọn đèn gặp mộc gặp thủy là tốt. Đêm chủ âm do đó lửa ngọn kỵ mặt trời. Lửa ngọn đèn có hai loại mệnh quý, một là “ Che đèn thêm dầu” chỉ lửa ngọn đèn gặp nước dưới giếng nước dưới khe, nước sông dài. Và một loại “ Dưới đèn múa kiếm” chỉ lửa ngọn đèn gặp kiếm phùng kim. Ngoài ra lửa ngọn đèn còn sợ gặp thổ trong ngũ hành chỉ trừ Bính tuất đinh hợi. Đất mái nhà. Nó cũng thích hỏa nhưng trừ lửa sấm sét là lửa rồng thần tất phải có gió thổi làm tắt lửa đèn (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Quý Mão

Nhâm dần, Quý mão: Kim bạc kim
Dần mão ngũ hành thuộc mộc, là nơi mộc vượng. Mộc vượng thì kim bị gầy yếu. Kim trong ngũ hành tuyệt ở dần, thai ở mão. Tóm lại Kim ở đây mềm yếu không có lực cho nên gọi là kim loại trang sức.
Mọi người dùng kim bạc kim làm đồ trang sức, người xưa dùng nó để phủ chữ trong các đền chùa và các đồ khí cụ khác, ánh sáng của nó đẹp đẽ tôn quý nguồn gốc của nó là do kim gia công mà thành. Kim bạc kim gặp đất trên thành, đất trên tường mới có cơ hội phát triển. Trong sách nói mệnh kim gặp mậu dần, đất trên thành gọi là “ Viên ngọc núi Côn Sơn”. Quý mão trong kim bạc kim gặp kỷ mão gọi “ Thổ ngọc đông thăng” đều là mệnh quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Nhâm Dần

Nhâm dần, Quý mão: Kim bạc kim
Dần mão ngũ hành thuộc mộc, là nơi mộc vượng. Mộc vượng thì kim bị gầy yếu. Kim trong ngũ hành tuyệt ở dần, thai ở mão. Tóm lại Kim ở đây mềm yếu không có lực cho nên gọi là kim loại trang sức.
Mọi người dùng kim bạc kim làm đồ trang sức, người xưa dùng nó để phủ chữ trong các đền chùa và các đồ khí cụ khác, ánh sáng của nó đẹp đẽ tôn quý nguồn gốc của nó là do kim gia công mà thành. Kim bạc kim gặp đất trên thành, đất trên tường mới có cơ hội phát triển. Trong sách nói mệnh kim gặp mậu dần, đất trên thành gọi là “ Viên ngọc núi Côn Sơn”. Quý mão trong kim bạc kim gặp kỷ mão gọi “ Thổ ngọc đông thăng” đều là mệnh quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Tân Sửu

Canh tý, Tân sửu: Bích thượng thổ
Sửu là chính vị của thổ trong ngũ hành. Nhưng tý là nơi thủy trong ngũ hành thịnh vượng. Thổ gặp phải thủy tràn lan mà biến thành bùn, cho nên chỉ có thể đắp đập mà gọi là đất trên tường. Đất trên tường dùng để làm nhà, đầu tiên phải dựa vào xà cột cho nên gặp mộc sẽ tốt, gặp hỏa thì xấu, gặp thủy cũng là mệnh hay nhưng trừ gặp nước biển lớn. Còn với kim thì chỉ thích kim bạc kim (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Canh Tý

Canh tý, Tân sửu: Bích thượng thổ
Sửu là chính vị của thổ trong ngũ hành. Nhưng tý là nơi thủy trong ngũ hành thịnh vượng. Thổ gặp phải thủy tràn lan mà biến thành bùn, cho nên chỉ có thể đắp đập mà gọi là đất trên tường. Đất trên tường dùng để làm nhà, đầu tiên phải dựa vào xà cột cho nên gặp mộc sẽ tốt, gặp hỏa thì xấu, gặp thủy cũng là mệnh hay nhưng trừ gặp nước biển lớn. Còn với kim thì chỉ thích kim bạc kim (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Kỷ Hợi

Mậu tuất, Kỷ hợi: Bình địa mộc
Ý nghĩa của mậu là đồng bằng, hợi là nơi sinh ra mộc. Cây sinh ở đồng bằng thì không thể là một quần thể lớn rộng mà chỉ là từng đám cây nhỏ, cho nên gọi nó là cây đồng bằng. Cây đồng bằng thích mưa nhưng không thích sương giá băng tuyết, nó cũng không thích nhiều đất mà cũng không thích rộng rãi, thường bị người chặt phá vì thế nên sợ kim, nếu gặp kim là bất lợi. Nó thích thủy thổ và mộc. Ngoài ra có một loại mệnh quý gọi “ Hàn cốc hồi xuân” tức là người sinh ở mùa đông, trong mệnh lại gặp dần mão. Hai chi này đều thuộc mộc nên gọi là sinh trưởng của cây trong mùa đông cũng là một loại mện quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Mậu Tuất

Mậu tuất, Kỷ hợi: Bình địa mộc
Ý nghĩa của mậu là đồng bằng, hợi là nơi sinh ra mộc. Cây sinh ở đồng bằng thì không thể là một quần thể lớn rộng mà chỉ là từng đám cây nhỏ, cho nên gọi nó là cây đồng bằng. Cây đồng bằng thích mưa nhưng không thích sương giá băng tuyết, nó cũng không thích nhiều đất mà cũng không thích rộng rãi, thường bị người chặt phá vì thế nên sợ kim, nếu gặp kim là bất lợi. Nó thích thủy thổ và mộc. Ngoài ra có một loại mệnh quý gọi “ Hàn cốc hồi xuân” tức là người sinh ở mùa đông, trong mệnh lại gặp dần mão. Hai chi này đều thuộc mộc nên gọi là sinh trưởng của cây trong mùa đông cũng là một loại mện quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Đinh Dậu

Bính thân, Đinh dậu: Sơn hạ hỏa
Thân là cửa mở xuống dưới đất, dậu là nơi về cửa thái dương. Một ngày đến chỗ đó là dần dần tối đi như mặt trời xuống núi. Cho nên, gọi là lửa dưới núi. Lửa dưới núi thực tế là chỉ mặt trời lúc buổ tối, mặt trời đã xuống núi thì tự nhiên gặp thổ gặp mộc là tốt. Nó là ánh sáng mặt trời vào đêm không thích gặp lửa sấm sét, lửa mặt trời và lửa đèn (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Bính Thân

Bính thân, Đinh dậu: Sơn hạ hỏa
Thân là cửa mở xuống dưới đất, dậu là nơi về cửa thái dương. Một ngày đến chỗ đó là dần dần tối đi như mặt trời xuống núi. Cho nên, gọi là lửa dưới núi. Lửa dưới núi thực tế là chỉ mặt trời lúc buổ tối, mặt trời đã xuống núi thì tự nhiên gặp thổ gặp mộc là tốt. Nó là ánh sáng mặt trời vào đêm không thích gặp lửa sấm sét, lửa mặt trời và lửa đèn (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Ất Mùi

Giáp ngọ, Ất mùi: Sa trung kim
Ngọ là nơi đế vượng của hỏa trong ngũ hành. Hỏa vượng thì kim suy. Mùi là nơi có hỏa vượng suy yếu trong ngũ hành. Hỏa suy yếu kim mới có thể từng bước trưởng thành. Hỏa vừa suy, kim mới có hình, cho nên lực không thể lớn mạnh mà gọi là kim trong cát. Kim trong cát là kim mới bắt đầu hình thành chưa thể dùng được cho nên cần có hỏa để luyện. Nhưng hỏa quá vượng, mà hỏa vượng thì kim bại đồng thời cần phải có mộc lại khắc chế kim, khiến kim không thể tùy tiện mà thịnh suy. Đồng thời phải lấy hỏa trên núi, hỏa dưới núi, hỏa ngọn đèn tính ôn hòa lại luyện nó. Trong số mệnh cho rằng đây là mệnh cục của thiếu niên vinh hoa phú quý. Sa trung kim cần có thủy tĩnh, sơ nếu nước sông dài và nước biển lớn ngược lại đem vùi cát đi. Cho nên cần phối hợp với nước khe núi, nước trong suối và nước trên trời mới tốt. Kim trong cát cũng sợ gặp đất ven đường, cát trong đất và đất vó ngựa, vì sẽ bị nó chôn vùi (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Giáp Ngọ

Giáp ngọ, Ất mùi: Sa trung kim
Ngọ là nơi đế vượng của hỏa trong ngũ hành. Hỏa vượng thì kim suy. Mùi là nơi có hỏa vượng suy yếu trong ngũ hành. Hỏa suy yếu kim mới có thể từng bước trưởng thành. Hỏa vừa suy, kim mới có hình, cho nên lực không thể lớn mạnh mà gọi là kim trong cát. Kim trong cát là kim mới bắt đầu hình thành chưa thể dùng được cho nên cần có hỏa để luyện. Nhưng hỏa quá vượng, mà hỏa vượng thì kim bại đồng thời cần phải có mộc lại khắc chế kim, khiến kim không thể tùy tiện mà thịnh suy. Đồng thời phải lấy hỏa trên núi, hỏa dưới núi, hỏa ngọn đèn tính ôn hòa lại luyện nó. Trong số mệnh cho rằng đây là mệnh cục của thiếu niên vinh hoa phú quý. Sa trung kim cần có thủy tĩnh, sơ nếu nước sông dài và nước biển lớn ngược lại đem vùi cát đi. Cho nên cần phối hợp với nước khe núi, nước trong suối và nước trên trời mới tốt. Kim trong cát cũng sợ gặp đất ven đường, cát trong đất và đất vó ngựa, vì sẽ bị nó chôn vùi (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Quý Tị

Nhâm thìn, Quý tỵ : Trường lưu thủy
Thìn trong ngũ hành là nơi tích trữ nước, tỵ trong ngũ hành là nơi sinh kim. Trong ngũ hành kim sợ thủy, kim trong tỵ có hàm chất thủy, bởi vì nơi tích trữ thủy gặp kim sinh thủy, cho nên nguồn thủy liên tục không ngừng mà gọi là nước sông dài. Nước sông dài ở Đông nam lấy yên tĩnh làm quý.
Nước sông dài thế có cuồn cuộn không dừng, kim có thể sinh thủy cho nên nước sông dài gặp kim là tốt. Nó sợ gặp thủy bởi thủy nhiều quá dễ gây úng lụt, đồng thời thổ thủy tương khắc gặp bính tuất đinh hợi canh tý tân sửu thổ thì khó tránh được tai họa, cần phải có kim sinh thủy ở lại ứng cứu. Ngoài ra, thủy hỏa cũng tương khắc nhưng cũng không tuyệt đối hẳn như thế. Nước sông dài gặp giáp thìn, ất hợi tuy giáp thìn và ất hợi có phân là lửa ngọn đèn và lửa trên núi. Nhưng thìn là rồng, rồng lại gặp thủy ý là rồng về biển mệnh,cách ngược lại là cực tốt (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Nhâm Thìn

Nhâm thìn, Quý tỵ : Trường lưu thủy
Thìn trong ngũ hành là nơi tích trữ nước, tỵ trong ngũ hành là nơi sinh kim. Trong ngũ hành kim sợ thủy, kim trong tỵ có hàm chất thủy, bởi vì nơi tích trữ thủy gặp kim sinh thủy, cho nên nguồn thủy liên tục không ngừng mà gọi là nước sông dài. Nước sông dài ở Đông nam lấy yên tĩnh làm quý.
Nước sông dài thế có cuồn cuộn không dừng, kim có thể sinh thủy cho nên nước sông dài gặp kim là tốt. Nó sợ gặp thủy bởi thủy nhiều quá dễ gây úng lụt, đồng thời thổ thủy tương khắc gặp bính tuất đinh hợi canh tý tân sửu thổ thì khó tránh được tai họa, cần phải có kim sinh thủy ở lại ứng cứu. Ngoài ra, thủy hỏa cũng tương khắc nhưng cũng không tuyệt đối hẳn như thế. Nước sông dài gặp giáp thìn, ất hợi tuy giáp thìn và ất hợi có phân là lửa ngọn đèn và lửa trên núi. Nhưng thìn là rồng, rồng lại gặp thủy ý là rồng về biển mệnh,cách ngược lại là cực tốt (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Tân Mão

Canh dần, Tân mão: Tùng bách mộc
Mộc trong ngũ hành trưởng thành ở dần, thịnh vượng ở mão. Mộc thế sinh thịnh vượng không phải loại yếu đuối, cho nên gọi nó là gỗ cây tùng, tích huyết hứng sương che nắng mặt trời, gió thổi qua vi vu như nhạc cụ cành là dao động như lá cờ bay.
Cây tùng là loại cây có sức sống mãnh liệt, cho nên trong hỏa chỉ có Bính dần, đinh mão là lửa trong lò, trong thủy chỉ có Nhâm tuất, quý hợi đại hải thủy mới có thể hại được nó, ngoài ra tất cả đều vô hại. Tùng bách mộc sợ gặp đại lâm mộc, dương liễu mộc, tuy cùng là mộc nhưng chất không giống tùng bách mà sinh lòng đố kỵ. Tùng bách thích gặp kim, gặp nó là đại quý. Ngoài ra còn có một loại mệnh cách gọi là “ Thượng tùng đông tú” tức là ba trụ tháng ngày giờ thuộc đông tức ( Nhâm quý hợi tý thuộc đông). Mệnh cách này là mệnh phú quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Canh Dần

Canh dần, Tân mão: Tùng bách mộc
Mộc trong ngũ hành trưởng thành ở dần, thịnh vượng ở mão. Mộc thế sinh thịnh vượng không phải loại yếu đuối, cho nên gọi nó là gỗ cây tùng, tích huyết hứng sương che nắng mặt trời, gió thổi qua vi vu như nhạc cụ cành là dao động như lá cờ bay.
Cây tùng là loại cây có sức sống mãnh liệt, cho nên trong hỏa chỉ có Bính dần, đinh mão là lửa trong lò, trong thủy chỉ có Nhâm tuất, quý hợi đại hải thủy mới có thể hại được nó, ngoài ra tất cả đều vô hại. Tùng bách mộc sợ gặp đại lâm mộc, dương liễu mộc, tuy cùng là mộc nhưng chất không giống tùng bách mà sinh lòng đố kỵ. Tùng bách thích gặp kim, gặp nó là đại quý. Ngoài ra còn có một loại mệnh cách gọi là “ Thượng tùng đông tú” tức là ba trụ tháng ngày giờ thuộc đông tức ( Nhâm quý hợi tý thuộc đông). Mệnh cách này là mệnh phú quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Kỷ Sửu

Mậu tý, Kỷ sửu : Bích lôi hỏa
Ngũ hành sửu thuộc thổ, ngũ hành tý thuộc thủy, thủy ở chính vị mà với nạp âm gọi hỏa. Đây là hỏa trong thủy, là thuộc tính rồng thần, cho nên ví nó như lửa sấm sét. Lửa sấm, sét thế như điện chớp biến ảo vô cùng. Bản chất thủy hỏa vốn chẳng bao dung nhau mà nay thủy hỏa hợp nhất, sách xưa cho là một loại rồng thần. Rồng thần khi đến không thể không có gió mưa sấm chớp, do đó Bích lôi hỏa với thủy thổ mộc gặp nhau hoặc tốt hoặc không có hại. Cái kỵ tức là hỏa, bởi vì hai hỏa gặp nhau tính khô nên xấu (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Mậu Tý

Mậu tý, Kỷ sửu : Bích lôi hỏa
Ngũ hành sửu thuộc thổ, ngũ hành tý thuộc thủy, thủy ở chính vị mà với nạp âm gọi hỏa. Đây là hỏa trong thủy, là thuộc tính rồng thần, cho nên ví nó như lửa sấm sét. Lửa sấm, sét thế như điện chớp biến ảo vô cùng. Bản chất thủy hỏa vốn chẳng bao dung nhau mà nay thủy hỏa hợp nhất, sách xưa cho là một loại rồng thần. Rồng thần khi đến không thể không có gió mưa sấm chớp, do đó Bích lôi hỏa với thủy thổ mộc gặp nhau hoặc tốt hoặc không có hại. Cái kỵ tức là hỏa, bởi vì hai hỏa gặp nhau tính khô nên xấu (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Đinh Hợi

Bính tuất, Đinh hợi: Ốc thượng thổ
Bính đinh ngũ hành thuộc hỏa, tuất hợi như cánh cửa trời. Hỏa đang cháy lại ở trên cao vậy thì thổ tự nhiên không ở bên dưới, cho nên gọi là đất trên mái nhà. Ở đây giải thích không được đúng lắm vì đất trên mái nhà thực tế chỉ là gạch ngói. Tuất hợi như thổ một thủy hòa lại thành bùn, lấy hỏa nung mới thành gạch ngói xây nhà lợp phòng. Đất trên mái nhà đã là gạch ngói, nó là đồ để lợp nhà đương nhiên cần mộc là giá đỡ, sau mới cần kim để trang điểm. Phòng ốc kim huy hoàng là tượng trưng cho đại cát đại quý. Cho nên gặp kim lưỡi gươm, kim trang sức đều là mệnh phú quý. Nhà cửa sợ gặp hỏa hoạn cho nên ốc thượng thổ cũng sợ hỏa. Nhưng thiên thượng hỏa lại rất tốt vì thiên thượng hỏa tượng trưng cho ánh nắng mặt trời (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Bính Tuất

Bính tuất, Đinh hợi: Ốc thượng thổ
Bính đinh ngũ hành thuộc hỏa, tuất hợi như cánh cửa trời. Hỏa đang cháy lại ở trên cao vậy thì thổ tự nhiên không ở bên dưới, cho nên gọi là đất trên mái nhà. Ở đây giải thích không được đúng lắm vì đất trên mái nhà thực tế chỉ là gạch ngói. Tuất hợi như thổ một thủy hòa lại thành bùn, lấy hỏa nung mới thành gạch ngói xây nhà lợp phòng. Đất trên mái nhà đã là gạch ngói, nó là đồ để lợp nhà đương nhiên cần mộc là giá đỡ, sau mới cần kim để trang điểm. Phòng ốc kim huy hoàng là tượng trưng cho đại cát đại quý. Cho nên gặp kim lưỡi gươm, kim trang sức đều là mệnh phú quý. Nhà cửa sợ gặp hỏa hoạn cho nên ốc thượng thổ cũng sợ hỏa. Nhưng thiên thượng hỏa lại rất tốt vì thiên thượng hỏa tượng trưng cho ánh nắng mặt trời (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Ất Dậu

Giáp thân, Ất dậu: Tuyền trung thủy
Kim kiến lộc ở thân, vượng ở dậu. Kim sau khi sinh thịnh vượng đến cực điểm thì dựa vào hỏa để sinh thủy, nhưng thủy khi mới sinh thì ít ỏi, thế lại không vượng cho nên gọi là nước trong suối. Từ nguồn gốc của nó mà nói, có kim thì nguồn thủy không bao giờ dừng. Lấy giáp ngọ ất mùi sa trung kim, canh tuất tân hợi thoa xuyến kim là tốt, gặp thủy gặp mộc cũng tốt. Nếu như trong tứ trụ năm tháng ngày giờ thì năm và giờ trụ đều có thủy, ngày tháng hai trụ đều có mộc như vậy gọi là mệnh đại phú đại quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Giáp Thân

Giáp thân, Ất dậu: Tuyền trung thủy
Kim kiến lộc ở thân, vượng ở dậu. Kim sau khi sinh thịnh vượng đến cực điểm thì dựa vào hỏa để sinh thủy, nhưng thủy khi mới sinh thì ít ỏi, thế lại không vượng cho nên gọi là nước trong suối. Từ nguồn gốc của nó mà nói, có kim thì nguồn thủy không bao giờ dừng. Lấy giáp ngọ ất mùi sa trung kim, canh tuất tân hợi thoa xuyến kim là tốt, gặp thủy gặp mộc cũng tốt. Nếu như trong tứ trụ năm tháng ngày giờ thì năm và giờ trụ đều có thủy, ngày tháng hai trụ đều có mộc như vậy gọi là mệnh đại phú đại quý (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Quý Mùi

Nhân ngọ, Quý mùi : Dương liễu mộc
Mộc tử ở Ngọ mộ tàng ở mùi. Mộc đã tử vong tàng mộ, chỉ có thể mượn thiên can Nhâm quý thủy trong ngũ hành để cứu sống nó. Nhưng rốt cục sức sống mộc vẫn yếu đuối cho nên gọi là gỗ cây liễu. Nó giống như tằm nhả vạn mối dây tơ. Cây dương liễu chỉ thích hợp với Bính tuất đinh hợi thổ, nhưng lại thích thủy, trừ đại hải thủy ra thì đều tốt. Bản tính dương liễu tính mộc yếu đuối gặp hỏa thì dễ chết yểu, đồng thời nếu gặp Canh thìn tân dậu Thạch Lựu mộc sẽ bị cây thạch lựu thịnh vượng áp chế, khiến cho dương liễu mộc một đời bần tiện (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Nhâm Ngọ

Nhân ngọ, Quý mùi : Dương liễu mộc
Mộc tử ở Ngọ mộ tàng ở mùi. Mộc đã tử vong tàng mộ, chỉ có thể mượn thiên can Nhâm quý thủy trong ngũ hành để cứu sống nó. Nhưng rốt cục sức sống mộc vẫn yếu đuối cho nên gọi là gỗ cây liễu. Nó giống như tằm nhả vạn mối dây tơ. Cây dương liễu chỉ thích hợp với Bính tuất đinh hợi thổ, nhưng lại thích thủy, trừ đại hải thủy ra thì đều tốt. Bản tính dương liễu tính mộc yếu đuối gặp hỏa thì dễ chết yểu, đồng thời nếu gặp Canh thìn tân dậu Thạch Lựu mộc sẽ bị cây thạch lựu thịnh vượng áp chế, khiến cho dương liễu mộc một đời bần tiện (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Tân Tị

Canh thìn, Tân tỵ: Bạch lạp kim
Kim hình thành trong đất mà sau lại ở cùng với hỏa. Tuy hình thái của kim đã bước đầu hình thành nhưng chưa cứng rắn. Cho nên gọi là kim giá đèn. Khi này khí của kim vừa mới phát triển, giao hòa với tinh hoa của mặt trời mặt trăng mà ngưng kết khí của âm dương. Tính chất mới hình thành của kim giá đèn thích thủy như canh thìn tân tỵ gặp ất tỵ trong số mệnh gọi là “ Phong mãnh hổ cách” thi cử học tập có đường đi tốt đẹp. Lại như gặp thủy thì thích gặp ở ất dậu, quý tỵ. Trong số mệnh cho là mệnh quý. Nhưng bởi vì Bạch lạp kim tính yếu cho nên sợ mộc khắc nó trừ khi nó gặp được hỏa yếu cần phải có mộc lại trợ giúp (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Canh Thìn

Canh thìn, Tân tỵ: Bạch lạp kim
Kim hình thành trong đất mà sau lại ở cùng với hỏa. Tuy hình thái của kim đã bước đầu hình thành nhưng chưa cứng rắn. Cho nên gọi là kim giá đèn. Khi này khí của kim vừa mới phát triển, giao hòa với tinh hoa của mặt trời mặt trăng mà ngưng kết khí của âm dương. Tính chất mới hình thành của kim giá đèn thích thủy như canh thìn tân tỵ gặp ất tỵ trong số mệnh gọi là “ Phong mãnh hổ cách” thi cử học tập có đường đi tốt đẹp. Lại như gặp thủy thì thích gặp ở ất dậu, quý tỵ. Trong số mệnh cho là mệnh quý. Nhưng bởi vì Bạch lạp kim tính yếu cho nên sợ mộc khắc nó trừ khi nó gặp được hỏa yếu cần phải có mộc lại trợ giúp (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Kỷ Mão

Mậu dần, Kỷ mão: Thành đầu thổ
Thiên can mậu kỷ ngũ hành thuộc thổ, dần mão ngũ hành thuộc mộc, giống như tích thổ thành núi, phảng phất như đắp đất thành tường cho nên gọi là đất trên thành.
Kinh đô của hoàng đế cư trú dùng đất đắp thành, lấy gạch xây thành như hình rồng cuốn chạy dài nghìn dặm, mãnh hổ tọa thế trấn bốn phương. Mệnh này gặp nước gặp núi là hiển quy. Trong thành gặp núi gặp nước là núi giả, nước tù không phải là quý. Nên kỵ nhâm tuất quý hợi Đại hải thủy mậu tý kỷ sửu Bích lôi hỏa, Tích lịch hỏa (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Mậu Dần

Mậu dần, Kỷ mão: Thành đầu thổ
Thiên can mậu kỷ ngũ hành thuộc thổ, dần mão ngũ hành thuộc mộc, giống như tích thổ thành núi, phảng phất như đắp đất thành tường cho nên gọi là đất trên thành.
Kinh đô của hoàng đế cư trú dùng đất đắp thành, lấy gạch xây thành như hình rồng cuốn chạy dài nghìn dặm, mãnh hổ tọa thế trấn bốn phương. Mệnh này gặp nước gặp núi là hiển quy. Trong thành gặp núi gặp nước là núi giả, nước tù không phải là quý. Nên kỵ nhâm tuất quý hợi Đại hải thủy mậu tý kỷ sửu Bích lôi hỏa, Tích lịch hỏa (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Đinh Sửu

Bính tý, Đinh sửu: Giản hạ thủy
Thủy ở trong ngũ hành vượng ở tý suy ở sửu. Thủy trong Bính tý đinh sửu thịnh vượng nhưng lại suy yếu. Cho nên không thể thành nước ở sông mà gọi là nước ở khe suối, khi mới thì lăn tăn gợn sóng, tiếp sau là đó hợp thành dòng chảy xiết va vào đá mà tung tóe như hạt tuyết. Cuối cùng hợp với các nhánh thành dòng lớn chảy về hạ lưu. Nước khe núi là nước trong thanh mảnh. Theo như trong sách là thủy được kim thích hợp gặp cát và kim lưỡi kiếm ( giáp ngọ ất mùi sa trung kim, nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm). Nhưng không gặp được mệnh của thổ và hỏa. Thủy hỏa chẳng dung nạp nhau, thổ lại làm cho nước suối đục. Tốt nhất là gặp (giáp dần ất mão đại khê thủy) tương hợp tượng trưng cho suối nhỏ hợp thành sông càng chảy càng dài không phải lo nghĩ (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Bính Tý

Bính tý, Đinh sửu: Giản hạ thủy
Thủy ở trong ngũ hành vượng ở tý suy ở sửu. Thủy trong Bính tý đinh sửu thịnh vượng nhưng lại suy yếu. Cho nên không thể thành nước ở sông mà gọi là nước ở khe suối, khi mới thì lăn tăn gợn sóng, tiếp sau là đó hợp thành dòng chảy xiết va vào đá mà tung tóe như hạt tuyết. Cuối cùng hợp với các nhánh thành dòng lớn chảy về hạ lưu. Nước khe núi là nước trong thanh mảnh. Theo như trong sách là thủy được kim thích hợp gặp cát và kim lưỡi kiếm ( giáp ngọ ất mùi sa trung kim, nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm). Nhưng không gặp được mệnh của thổ và hỏa. Thủy hỏa chẳng dung nạp nhau, thổ lại làm cho nước suối đục. Tốt nhất là gặp (giáp dần ất mão đại khê thủy) tương hợp tượng trưng cho suối nhỏ hợp thành sông càng chảy càng dài không phải lo nghĩ (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Ất Hợi

Giáp tuất, Ất hợi: Sơn đầu hỏa
Tuất hợi là cửa trời (giáp ất thuộc mộc) đốt lửa soi sáng cửa trời, ánh lửa nhất định chiếu đến cực cao. Cho nên đem nó gọi là lửa trên núi. Nắng chiều tà mặt trời gác núi tỏa sáng lung linh, do đó hỏa trên núi có thể phản ánh được ráng trời.
Sơn đầu hỏa có thể thông với trời nên mệnh này quý và hiển vinh. Nhưng cần núi có mộc, có hỏa không thì ánh lửa khó chiếu đến cửa trời. Ngoài ra lửa ở núi lại sợ thủy, nếu gặp đại hải thủy (nhâm tuất quý hợi) tương khắc thì hung thần tới nơi (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Giáp Tuất

Giáp tuất, Ất hợi: Sơn đầu hỏa
Tuất hợi là cửa trời (giáp ất thuộc mộc) đốt lửa soi sáng cửa trời, ánh lửa nhất định chiếu đến cực cao. Cho nên đem nó gọi là lửa trên núi. Nắng chiều tà mặt trời gác núi tỏa sáng lung linh, do đó hỏa trên núi có thể phản ánh được ráng trời.
Sơn đầu hỏa có thể thông với trời nên mệnh này quý và hiển vinh. Nhưng cần núi có mộc, có hỏa không thì ánh lửa khó chiếu đến cửa trời. Ngoài ra lửa ở núi lại sợ thủy, nếu gặp đại hải thủy (nhâm tuất quý hợi) tương khắc thì hung thần tới nơi (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Quý Dậu

Nhâm thân, Quý dậu: Kiếm phong kim
Ngũ hành của thân dậu là kim, đồng thời kim trong quá trình sinh trưởng vị trí lâm quan ở thân, đế vượng ở dậu. Kim sinh ra nếu thịnh vượng thì rất cương cứng, sự vật cương cứng không thể vượt qua được lưỡi kiếm, nên gọi là kiếm phong kim (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Nhâm Thân

Nhâm thân, Quý dậu: Kiếm phong kim
Ngũ hành của thân dậu là kim, đồng thời kim trong quá trình sinh trưởng vị trí lâm quan ở thân, đế vượng ở dậu. Kim sinh ra nếu thịnh vượng thì rất cương cứng, sự vật cương cứng không thể vượt qua được lưỡi kiếm, nên gọi là kiếm phong kim (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Tân Mùi

Canh ngọ, Tân mùi: Lộ bàng thổ
Mùi ngũ hành là thổ sinh mộc, khiến cho ngọ ngũ hành là hỏa được thành ra hỏa vượng. Kết quả là thổ ngược lại bị chịu trở ngại. Thổ là nơi sinh vật (mộc), mộc lại sinh hỏa, hỏa phản lại đốt thổ. Cho nên thổ bị chịu hại lấy bản thân giống như đất bụi ven đường mà gọi là Lộ bàng thổ. Lộ bàng thổ nếu được thủy tưới có thể về với thổ mà sinh vạn vật. Nếu được kim giúp thì xây dựng cung điện phú quý một thời (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Canh Ngọ

Canh ngọ, Tân mùi: Lộ bàng thổ
Mùi ngũ hành là thổ sinh mộc, khiến cho ngọ ngũ hành là hỏa được thành ra hỏa vượng. Kết quả là thổ ngược lại bị chịu trở ngại. Thổ là nơi sinh vật (mộc), mộc lại sinh hỏa, hỏa phản lại đốt thổ. Cho nên thổ bị chịu hại lấy bản thân giống như đất bụi ven đường mà gọi là Lộ bàng thổ. Lộ bàng thổ nếu được thủy tưới có thể về với thổ mà sinh vạn vật. Nếu được kim giúp thì xây dựng cung điện phú quý một thời (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Kỷ Tị

Mậu thìn, Kỷ tỵ: Đại lâm mộc
Thìn đại biểu cho đất đai hoang dã, tỵ đứng ngôi thứ 6 trong địa chi. Mộc ở ngôi thứ 6 có lợi sinh cành lá xum xuê. Cây to xum xuê sinh ở nơi đất đai hoang dã mà gọi là Đại Lâm mộc (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Mậu Thìn

Mậu thìn, Kỷ tỵ: Đại lâm mộc
Thìn đại biểu cho đất đai hoang dã, tỵ đứng ngôi thứ 6 trong địa chi. Mộc ở ngôi thứ 6 có lợi sinh cành lá xum xuê. Cây to xum xuê sinh ở nơi đất đai hoang dã mà gọi là Đại Lâm mộc (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

Tóm lược về Đinh Mão

Bính dần, Đinh mão: Lò trung hỏa
Dần ở địa chi là ngôi thứ 3, Mão ở địa chi là ngôi thứ 4, (bính, đinh trong ngũ hành thuộc hỏa) hỏa đã đạt đến vị trí chính lại được dần mão thuộc mộc. Trong ngũ hành trợ giúp. Khi này trời đất phảng phất như lửa trong lò mới sinh, vạn vật vừa mới bắt đầu sinh trưởng mà gọi là Lô Trung hỏa trời đất như lò lửa, âm dương như than củi (Nguồn: Can Chi Thông Luận)

+ 187. Bỏ thân rồi, sẽ trụ vào thừa giữa (Duyên Giác)

+ 186. Bỏ thân rồi, sẽ trụ vào thừa dưới (Thanh Văn)

185. Bỏ thân rồi, liền được thấy đức Phật

+ 184. Bỏ thân rồi, sinh Tịnh độ của Phật

+ 183. Bỏ thân rồi, sinh lên trời Đâu Suất

+ 182. Bỏ thân rồi, sẽ được gặp Thánh Tăng

+ 181. Bỏ thân rồi, được xuất gia tu học

+ 180. Bỏ thân rồi, sẽ nghe Pháp rất sâu

+ 179. Bỏ thân rồi, sẽ làm vua cõi trời

+ 178. Bỏ thân rồi, sẽ sinh lên cõi trời

+ 177. Bỏ thân rồi, làm vua trong loài người

+ 176. Bỏ thân rồi, sẽ sinh vào nhân đạo

+ 175. Bỏ thân rồi, sẽ làm A tu la

+ 174. Bỏ thân rồi, sẽ đọa làm ngã qủy

+ 173. Bỏ thân rồi, sẽ đọa làm súc sinh

+ 172. Bỏ thân này rồi, sẽ vào địa ngục

+ 171. Từng được nghe Pháp rất sâu mà đến

+ 170. Từng gần cúng dường Hiền Thánh mà đến

+ 169. Đã từng gặp Phật cúng dường mà đến

+ 168. Từ trong hàng ngũ xuất gia mà đến

+ 167. Từ trong những người tại gia mà đến

+ 166. Từ trong loài trời mà tái sinh đến

+ 165. Từ trong nhân loại mà đến

+ 164. Từ trong con đường A tu la mà đến

+ 163. Từ trong con đường ngã qủy mà đến

+ 162. Từ trong con đường súc sinh mà đến

+ 161. Đó là trong đường địa ngục mà đến

160. Thấy bệnh đang mắc, là mạng sắp chết

+ 159. Thuốc đem cho uống, chẳng được hiệu lực

+ 158. Cách được trị liệu, là chữa trị sai

+ 157. Thầy được tìm đến, chẳng thể trị liệu

+ 156. Thấy bệnh đang mắc, được trừ lành hẳn

+ 155. Thuốc đang được uống, sẽ được hiệu lực

+ 154. Thấy bệnh được chữa, là trị đúng pháp

+ 153. Thấy bệnh đang mắc, đến thầy khám mới trị nổi

+ 152. Thấy bệnh đang mắc, tự động sẽ lành

+ 151. Thấy bệnh đang mắc, phải khổ lâu dài

+ 150. Thấy bệnh đang mắc, tinh tấn là lành

+ 149. Thấy bệnh đang mắc, khó thể trị liệu

+ 148. Thấy bệnh đang mắc, có thể trị liệu

+ 147. Thấy bệnh đang mắc, hợp với phi nhân

+ 146. Thấy bệnh đang mắc, chẳng phải người phá

+ 145. Thấy bệnh đang mắc, rất chẳng nên điều trị

+ 144. Thấy nạn đang bị, biết mạng sắp chết

+ 143. Thấy nạn đang bị, tinh tấn sẽ thoát

+ 142. Thấy nạn đang bị, chịu nhiều suy não

+ 141. Thấy nạn đang bị, lâu mới được thoát

+ 140. Thấy nạn đang bị, nhưng mau được thoát

+ 139. Thấy chướng loạn đó, nhứt tâm là trừ

+ 138. Thấy chướng loạn đó, mà chẳng lìa khỏi

+ 137. Thấy chướng nạn đó, lần lần được lìa

+ 136. Thấy chướng loạn đó, nhưng mau được lìa

+ 135. Giấc mộng được thấy, là một lợi lành

+ 134. Giấc mộng được thấy, tinh tấn thì an

+ 133. Giấc mộng được thấy, có sự tổn hại

132. Giấc mộng được thấy, không gây tổn hại

+ 131. Xem ra quái lạ, tinh tấn thì an

+ 130. Xem ra quái lạ, có sự tổn hại

+ 129. Xem ra quái lạ, nhưng không tổn hại

+ 128. Là nơi nhàn tịnh, không có ác nạn

+ 127. Tụ lạc đang ở, mọi người chẳng yên

+ 126. Nơi đang được ở, có sự chướng ngại

+ 125. Nơi đang được ở, mọi người an ổn

+ 124. Xem chỗ dạo qua, chẳng thoát khỏi nạn

+ 123. Xem chỗ dạo qua, được khỏi các nạn

+ 122. Vua tu thiện, nước được xây dựng lại

+ 121. Vua làm ác, nước sắp bị phá hoại

+ 120. Vua tu đức, tai nạn loạn ly diệt

+ 119. Vua vô đạo, nên nước tai hại lớn

+ 118. Vua dân tốt, nên nước được giàu vui

+ 117. Vua dân ác, nên nhiều bệnh ôn dịch

+ 116. Vua dân ác, nên đói kém nổi lên

+ 115. Con đường dạo qua, có bị não hại

+ 114. Con đường dạo qua, không bị não hại

+ 113. Nơi vừa mới đến, tự được lợi ích

+ 112. Nơi vừa mới đến, có thể khai hóa

+ 111. Nơi vừa mới đến, khó thể khai hóa

+ 110. Nơi vừa mới đến, là lưới của ma

+ 109. Nơi vừa mới đến, là có ách nạn

+ 108. Nơi vừa mới đến, được sự an vui

+ 107. Xem nơi đang ở, chẳng được bình an

+ 106. Xem nơi đang ở, được dừng ở yên

+ 105. Xem những việc đã qua, có chướng ngại

+ 104. Xem những việc đã qua, không chướng ngại

+ 103. Cầu khỏi bệnh hoạn, sẽ được trừ lành

+ 102. Cầu lìa ách nạn, được thoát ách nạn

+ 101. Xem vật bị mất, tự trở về lại

+ 100. Xem vật bị mất, chẳng tìm lại được

+ 99. Xem vật bị mất, sẽ tìm lại được

+ 98. Có cầu những gì, nhưng sẽ chịu khổ

+ 97. Có cầu những gì, sẽ được lợi lành

+ 96. Có những mong cầu, nhưng bị tổn thất

+ 95. Có cầu những gì, chẳng được nhanh chóng

+ 94. Có cầu những gì, liền được nhanh chóng

+ 93. Có cầu những gì, đều được như ý

+ 92. Có cầu những gì, ít được kết quả

+ 91. Có cầu những gì, thảy đều chẳng được

+ 90. Có cầu những gì, thảy đều sẽ được

+ 89. Tìm của nuôi thân, ít được kết quả

+ 88. Tìm những của cải, sẽ được như ý

+ 87. Cầu những món cúng, sẽ được kết quả

+ 86. Cầu làm Phật sự, sẽ được kết quả

+ 85. Người đang được xem, chẳng còn hòa hợp

+ 84. Xem lại chỗ bị nghi, là chẳng thật

+ 83. Xem chỗ bị nghi, chính là đúng thật

+ 82. Những gì mong tìm thấy, chẳng như ý

+ 81. Những gì cầu nghe, sẽ được lợi lành

+ 80. Những gì mình đang tìm, được gặp lại

+ 79. Người mình trông gặp, sẽ được gặp họ

+ 78. Người đang được xem, đã không còn thân

+ 77. Người đang được xem, hiện chẳng an lành

+ 76. Người đang được xem, được sự an lành

+ 75. Người được hẹn trước, ở lại không đến

+ 74. Người được hẹn trước, chắc chắn sẽ đến

+ 73. Người được mời gọi, họ sẽ chẳng đến

+ 72. Quán Pháp ly dục, ý chẳng tập trung

+ 71. Quán Pháp ly dục, ý được tập trung

+ 70. Người mình kính mến, sẽ được gần họ

+ 69. Người bị chê ghét, được rời khỏi họ

+ 68. Người được mời gọi, sẽ được nhóm đến

+ 67. Người mình nghĩ đến, chẳng được gặp lại

+ 66. Người mình nghĩ đến, sẽ được gặp gỡ

+ 65. Tâm của người được xem thì hoan hỷ

+ 64. Cầu sự hòa hợp, được như ý muốn

+ 63. Mong người không giận, sẽ được hoan hỷ

+ 62. Người được xem, tâm họ mang hờn giận

+ 61. Xem lại những gì lo lự, được hòa hợp

+ 60. Tìm bạn đồng học, được như ý muốn

+ 59. Tìm thê thiếp như ý

+ 58. Cầu con trai con gái, được như ý

+ 57. Tìm cha mẹ, được như ý muốn

+ 188. Bỏ thân rồi, sẽ chứng được đạo quả

+ 189. Bỏ thân rồi, liền được bậc Thượng thừa

+ 56. Tìm đệ tử, được như ý

+ 55. Tìm thầy, tìm bạn, được như ý muốn

+ 54. Xem chỗ học vấn, ít đạt kết quả

+ 53. Xem chỗ học vấn, đạt được nhiều chỗ

+ 52. Cầu tiên đạo thế gian, sẽ được kết quả

+ 51. Cầu sống lâu sẽ được thêm tuổi thọ

+ 50. Cầu địa vị quan sẽ được kết quả

+ 49. Cầu giàu của cải, sẽ được sung thạnh

+ 48. Xem việc được làm, chẳng được thành tựu

+ 47. Xem những việc đã làm đều thành tựu

+ 46. Hãy xem việc làm đều là ma sự

+ 45. Cầu những quyển Kinh sẽ được đọc tụng

+ 44. Mong cầu nghe Pháp sẽ được chỉ dạy

+ 43. Cầu xuất gia thì sẽ được ra đi

+ 42. Quả gì mong cầu, hiện tại chưa được

+ 41. Xem chỗ được học, không sự tiến thú

+ 40. Xem chỗ được học, là phương tiện nhỏ

+ 39. Xem chỗ được học, khéo tăng trưởng lên

+ 38. Xem chỗ được học, chẳng phải đời trước tu tập

+ 37. Xem chỗ được học, là đã tu tập đời trước

+ 36. Xem chỗ được học, chẳng phải thích nghi

+ 35. Xem chỗ được học, là điều thích nghi

+ 34. Xem chỗ được học, không bị chướng ngại

+ 33. Nên tập đường lối thiền định trước đó

+ 32. Nên trước tập quán đường lối sáng suốt

+ 31. Biết chỗ huyền diệu, chẳng phải sức người

+ 30. Nói giỏi điều gì, là trí tà biện bác

+ 29. Có kết quả gì, là do tà thần giúp giữ

+ 28. Có chứng ngộ gì đều chẳng phải chính

+ 27. Những gì thấy nghe, chẳng phải tướng lành

+ 26. Có học những gì đều là sai lầm

+ 25. Có sở chứng gì đều là chân thật

+ 24. Những gì thấy nghe, đều là tướng lành

+ 23. Những hạnh được tu chẳng bị sai lầm

+ 22. Những gì đọc tụng là bị lầm lộn

+ 21. Những gì đọc tụng là không lầm lộn

+ 20. Nghĩa được tu quán là bị lầm lộn

+ 19. Nghĩa được tu quán là không sai lầm

+ 18. Người đang được xem không có thật đức

+ 17. Người đang được xem có đức thật sự

+ 16. Tùy nghe những gì đều sai Chính Pháp

+ 15. Người được chiêm sát chính là bạn ác

+ 14. Tùy nghe những gì đều đúng Chính Pháp

+ 13. Người được chiêm sát chính là bạn lành

+ 12. Cầu Thanh Văn thừa nhưng đức tin chưa vững

+ 11. Cầu Duyên Giác thừa nhưng đức tin chưa vững

+ 10. Cầu Thượng thừa nhưng đức tin chưa trụ

+ 9. Giới nào từng thọ, được đầy đủ giới

+ 8. Giới nào muốn thọ, là được Diệu giới

+ 7. Tu thiền thế gian, được sự thành tựu

+ 5. Cầu sức thần thông, được sự thành tựu

+ 4. Cầu Thanh Văn thừa, được bất thoái chuyển

+ 3. Cầu Duyên Giác thừa, được không thoái chuyển

+ 2. Cầu quả được chứng, hiện tại sẽ chứng

+ 1. Cầu Thượng thừa sẽ được bất thoái chuyển

+ 6. Tu bốn phạm hạnh (27) được sự thành tựu

Dụng Là Phục Thần bị Phi Thần khắc

Dụng Là Phục Thần bị Phi Thần Hợp chặt

Dụng Là Phục Thần được Phi Thần tương sinh

Dụng Thần Là Phục Thần

Dụng thần hiện duy nhất một lần trong Quẻ nhưng là Hào Động

Dụng Thần Đặc Biệt Khác

Tóm lược:

4H: các doanh nghiệp gia đình, nhà ở và bất động sản, mỏ, làm việc ở nhà, các ngành công nghiệp trong nước.

6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.

 

- Phi xà hay Đằng Xà - Thổ: là kinh thần, chủ về kinh sợ, không chung thuỷ, không có chữ tín, chủ về hương hoả trong gia đình. Gặp Mộc là không vong, không cát lợi; Bị nhật xung, khó thoát hung hại.

Động: Bị Quỷ khắc=Lo lắng triền miên, toàn việc quái dị/ không rõ ràng.

Lục thần - Thiện ác khác nhau, chỉ là thần phụ trợ. Để đoán cát hung, chủ yếu căn cứ sinh khắc trong ngũ hành/ Lục thân, Dụng thần. Cát thần gặp hào xấu, vẫn không tránh được hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại đến cát lợi => Có thể tham khảo lục thần, để đoán định về tính tình hoặc tính chất của sự vật.

Câu Trần thuộc Thổ, được gọi là âm thần, chủ về điền sản, công trình, ngục tù, tính tình chất phác, chủ về gặp chuyện lạ vậy, rắc rối. Câu Trần khắc Huyền Vũ, nên hợp với việc truy bắt trộm cướp.

6- LỤC THÚ-Ý NGHĨA: Cát thần gặp hào xấu, vẫn hung hại; Hung thần gặp hào tốt, cũng không tổn hại.

 

- Câu Trần-Thổ: là âm thần, chủ về điền sản, công trình, ngục tù, phù thũng, tính tình chất phác, chủ về gặp chuyện lạ vậy, rắc rối. Câu Trần khắc Huyền Vũ, nên hợp với việc truy bắt trộm cướp.

Động: lo về điền thổ. Sinh Dụng=Cát tình duyên. Tĩnh= không mê muội

Tóm lược:

12H: các nghề nghiệp “ở hậu trường”. Các tổ chức lớn như nhà tù, bệnh viện, làm việc với những người bị thiệt thòi. Các trung tâm “Ẩn dật” tinh thần, sức khỏe và phúc lợi. Các loài vật lớn. Công tác phụng sự đại đồng.

Tóm lược:

11H: các văn phòng hữu nghị, các tổ chức xã hội và nhân đạo, các nỗ lực tập thể, chính trị, nhà tổ chức xã hội, các hoạt động câu lạc bộ, làm việc với bạn bè.

 

Tóm lược:

10H: các nghề nghiệp mà ở đó người ta có được sự công nhận và địa vị – hay tai tiếng. Chính phủ, các nhà quản lý, nhà quản trị, nhà tổ chức, người sử dụng lao động, nhân vật có thẩm quyền, quan tòa, giám đốc điều hành. Tự làm chủ.

Tóm lược:

9H: các nghề nghiệp liên quan đến nước ngoài hay du lịch, nhập khẩu / xuất khẩu, nhập cư. Ngoài ra, ở những vị trí học tập cao hơn, tôn giáo và triết học, giảng dạy. Quảng cáo, các linh ảnh, các giấc mơ. Tòa án – luật pháp và các vụ kiện.

Tóm lược:

7H: các quan hệ với đối tác, công việc có lợi thế như tư vấn, bác sĩ-bệnh nhân, cốvấn, các ngành kinh doanh về kết hôn / ly dị, các bác sĩ, luật sư.

Tóm lược:

8H: tài sản chung, các vốn đầu tư, các doanh nghiệp, các nghề giải quyết tiền bạc của người khác, nợ, phá sản, di chúc, di sản, thuế, cái chết, tình dục, nhà huyền bí, người hoạt động trong lĩnh vực siêu hình, bác sĩ phẫu thuật.

Tóm lược:

6H: các đồng nghiệp, điều kiện xung quanh nơi làm việc và các kỹ năng làm việc, các lĩnh vực sức khỏe, tất cả các ngành công nghiệp dịch vụ thông tin liên lạc khiêm tốn cần thiết để giữ cho bánh xe xã hội hoạt động trơn tru, làm việc với vật nuôi và động vật nhỏ.

Tóm lược:

5H: làm việc với trẻ em, người tổ chức xã hội, văn phòng của những người yêu nhau (lover’s bureau), các hoạt động vui chơi và giải trí, cờ bạc, đầu cơ, các cuộc thi, thể thao, sử dụng tính sáng tạo, nhà hát.

Tóm lược:

3H: các nghề nghiệp về truyền thông, liên quan tới các tài liệu, hợp đồng, kiểm tra, báo cáo, vận chuyển, các hành trình ngắn, giảng dạy.

Tóm lược:

2H: khả năng kiếm tiền, nghiệp vụ ngân hàng, liên quan tới các vật có giá trị, tài sản, thương mại, đầu tư, lòng tự trọng, các sản phẩm nghệ thuật và mỹ thuật, các doanh nghiệp.

Tóm lược:

1H: các nghề nghiệp mà nơi xuất hiện, thái độ, cách trình bày rất quan trọng.

Mars

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

Tóm lược

+ Chòm Song Ngư:

+ Chòm Bảo Bình:

+ Chòm Ma Kết:

+ Chòm Nhân Mã:

+ Chòm Hổ Cáp:

+ Chòm Thiên Bình:

+ Chòm Xử Nữ:

+ Chòm Sư Tử:

+ Chòm Song Tử:

+ Chòm Cự Giải:

+ Chòm Kim Ngưu:

+ Chòm Bạch Dương: 

Tóm lược

Đại biểu: Con Rắn

Đại biểu: Con Chuột

Jupiter - Pluto

Uranus - Jupiter

Saturn - Saturn

Jupiter - The Earth

Mars - Mars

Venus - Uranus

Mercury - The Moon

The Sun - The Sun

The Moon - Neptune

Mercury - Venus

Venus - Vulcan

Mars - Mercury

Không

Lửa - Hỏa

Với Ngũ hành: Thổ.

Với Tứ đại: Là Đất

Dụng Thần Là Kim

Dụng Thần Là Thổ

Dụng thần là Hòa

Dụng Thần Là Thủy

Dụng Là Hào Động Trong Nhiều Hào Dụng

+ Quẻ Không có Hào động

Theo Chuyên Mục: Danh mục các câu hỏi dự đoán Vận Mệnh

Theo phân đoạn thời gian: Thường xét tối đa 8 vận.

Vận 0: Là tuổi từ lúc sinh chưa bước vào đại vận. Tối đa không quá 10 tuổi trước khi vào Đại vận. Ví dụ 3 tuổi vào đại vận; 5 tuổi vào đại vận ...

Các vận tiếp theo: Từ vận I đến vận 8, mỗi vận 10 tuổi. Khởi đầu vận bắt đầu từ năm cuối của tuổi chưa bước vào đại vận.

Quẻ có 06 Hào động

Quẻ có 05 Hào động

Quẻ có 04 Hào động

Quẻ có 03 Hào động

Quẻ có 02 Hào động

Quẻ có 01 Hào Động: " Thần hé lộ thiên cơ ở chỗ động, ta trước nay không hề nói đến khái niệm tán. Chính vì Tỵ Hỏa hóa tuần không, nên trước mắt vẫn chưa thấy ứng nghiệm, đợi đến ngày Giáp Dần xuất không nên trước mắt vẫn chưa thấy ứng nghiệm, đợi đến ngày Giáp Dần xuất không sẽ đắc tài. Hào Tài Dần Mộc sinh ra Quan, Quan sẽ sinh Thế." Nguồn: Xem về cầu danh, cầu tài(TSBD-65)

Sự thành hay bại, đều căn cứ vào Dụng thần; Ứng nghiệm nhanh hay chậm phải xem Dụng thần độc phát hay độc tĩnh. Sách xưa có nói: “Quẻ độc phát thì rõ ràng, quẻ nhiều hào phát động thì khó đoán”. Xuất hiện hào độc phát, thì thông tin của quẻ xem cũng rõ ràng, dễ đoán định cát hung.

Tử Tôn độc phát: Tử Tôn là vị thần giải toả ưu phiền, cướp đoạt quan tước, nếu là phát động, là tránh được rắc rối. Nếu là vượng tướng, thì có lợi cho việc cầu tài, nếu xuất hiện cần xem ở hào biến. Hào Tử Tôn còn chủ về cửu lưu, trung quý, y dược, gia cầm tằm tang. Hào Tử Tôn phát động, cũng cần phải xem phát ở cung nào, để xác định cửu lưu, ví dụ như cung Càn là hoà thượng, cung Chấn là đạo sĩ, cung Đoài là ni cô, Tốn là đạo cô, Khảm là y dược, Ly là tiểu sĩ, Cấn là pháp thuật, Khôn là thầy cúng.

Huynh Đệ độc phát: Huynh Đệ là vị phần cướp đoạt tiền tài, kỵ nhất là ẩn phục (phục dưới hào thế), nếu phát động, chủ về những việc giả trá không thực, hung chẳng phải hung, cát chẳng phải cát. Nếu là vượng tướng, chủ về điều tiếng thị phi, lo lắng buồn phiền, bại tài phá sản. Nếu phát động, cần xem hào biến, nếu biến ra Quan Quỷ, chủ về điềm hung.

Phụ Mẫu độc phát: Phụ Mẫu là thần chủ về gian nan vất vả. Nếu xem cầu danh, bổ khuyết, cầu văn thư, thủ tục, mà được vượng tướng phát động, việc cầu sẽ được. Nếu là hào hưu tù, thì sự việc khó thành. Nếu là xem về thăng quan tiến chức, thì sẽ được đi vào ngày hào văn thư nhập mộ tuyệt. Nếu xem về bản thân, hoặc xem cha ngày nào trở về, thì nên khởi hành vào ngày hào Thế nhập mộ tuyệt. Chỉ xem về con cháu, mà hào Phụ Mẫu phát động là đại kỵ.

Quan Quỷ độc phát: Quan Quỷ là quan lại, nếu xem cầu danh mà được hào Quan Quỷ vượng tướng, Nguyên thần hưu tù, là chủ về lập thân thanh cao. Nếu gặp Quan Quỷ hưu tù, sẽ chủ về kiện tụng, trộm cắp, quỷ quái. Nếu xem về cầu tài, gặp hào Quan Quỷ phát động, là điềm có chuyện hào tài.

Thê Tài độc phát: Hào Thê Tài phát động chủ về khắc cha, cũng có thể sinh ra Quan Quỷ. Nhưng hào Tài nên vượng, không nên gặp tuần không; Nên tĩnh, không nên động. Duy chỉ khi xem về tiêu thụ hang hoá, mới nên gặp hào Tài phát động. Nếu xem về hôn nhân, mà hào Tài động là chủ về khắc bố mẹ chồng. Xem về kiện tụng, chủ về khắc văn thư.

Lợn

Chó

Khỉ

Ngựa

Rồng

Mèo

Hổ

Trâu

Khắc ta là Quan Quỷ, đây là thần chủ về nghi hoặc, đại để là hung nhiều cát ít. Quan Quỷ kỵ gặp Tử Tôn Phúc dức, chủ về lấn ướt Thê Tài, nếu động sẽ khắc thương Hunh Đệ mà sinh vượng trợ giúp Phụ Mẫu. Tuy là hung, nhưng trong quẻ không thể không có. Nên tĩnh, không nên động.

2- Hào Quan Quỹ: Chiếm công danh, quan phủ, việc quan, lôi đình (sấm động), quỷ thần, xác chết, vợ chiếm cho chồng đều lấy hào Quan Quỷ làm Dụng Thần. Chiếm yêu nghiệt, loạn thần, đạo tặc, tà xí, những điều nghi kỵ lo âu, những lo sợ, tai họa, cũng đều lấy hào Quan Quỷ làm Dụng Thần. Vật loại cũng nhiều, nói tắc lại là những món câu thúc, khắc chế, thân ta đều thuộc hào Quan Quỷ. Hào Quan Quỷ là hào khắc Huynh Đệ, là Kỵ Thần của Huynh Đệ.

Quan Quỷ: Chủ về nghi hoặc, hung nhiều cát ít. Lên tĩnh. Động sẽ sinh hoạ, bệnh tật cho ta. Nếu trì thế mà bị khắc là khắc đi quỷ bên mình= tốt với Hào Thế vượng.

Quan Quỷ: Là Kỵ Thần-Khắc tinh của Huynh Đệ. Những sự việc khắc chế, trói buộc ta đều thuộc Quan Quỷ

Xem nhân sự: công danh, cầu quan, quan phủ, trưởng quan, việc quan, vợ xem cho chồng, nữ đoán hôn nhân Xem các việc: yêu nghét, loạn thần, trộm cướp, tôn giáo, nghi ngờ, bệnh tật, đạo tặc, tà xí, nghi kỵ lo âu, lo sợ, sấm động, quỷ thần, xác chết, tai họa ....câu thúc, khắc chế thân ta đều thuộc hào Quan Quỷ.

Trì Thế: Hoạn nạn-Sức khỏe, C.việc khó yên. Không bệnh thì gặp tai nạn-Thường mất tiền của. Nếu nhập Mộ càng khó khăn. Gặp Xung=có cứu > nguy hiểm cũng qua. Riêng cầu Quan/ Danh mong được Trì thế.

Bị khắc: Giảm nhiều hoặc biến hung thành cát tùy theo mức bị khắc.

 

Bị ta khắc là Thê Tài

4- Hào Thê Tài: Chiếm cho Thê Tài, tôi tớ, tay sai, phàm những người của ta sai khiến, đều lấy hào Tài làm Dụng Thần. Chiếm hóa Tài, châu báu, vàng bạc, kho vựa, tiền lương, nhất thiết các món để dùng, nào là tài vật, nào là thập vật, Máy tính, điện thoại, khí minh (trời nắng sáng), đều lấy hào Tài làm Dụng Thần. Hào Thê Tài là hào khắc hào Phụ Mẫu, là Kỵ Thần của Phụ Mẫu. Thê Tài: Những vật dụng thiết yếu cho ta đều lấy hào Tài làm Dụng Thần. Đa phần gặp được là cát lợi.

Thê tài: Là Kỵ Thần của Phụ Mẫu - Văn thư.

Xem Nhân sự: Chiếm cho Thê Tài, tôi tớ, tay sai, phàm những người của ta sai khiến (Nữ), (Trang 90), ....hoặc Xem các việc: Chiếm: hóa Tài, châu báu, vàng bạc, kho vựa, tiền lương, nhất thiết các món để dùng. Tài vật, của cải, châu báu, vàng bạc, kho tàng, tiền bạc, lương thực, khí minh (trời nắng sáng)... đều lấy hào Tài làm Dụng Thần.

Trì thế: Của cải phần thịnh. nếu được Tử động thì càng thịnh vượng. Động biến Huynh > Mọi việc đều xấu.

Ta sinh ra là Tử Tôn

5- Hào Tử Tôn: Chiếm cho con cháu, con cái, con rễ, con dâu, môn đồ, phàm theo hàng với con cháu của ta, đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần. Chiếm cho trung thần, Tướng tài, Thầy thuốc, Thuốc thang, sư sãi tăng đạo, đạo sỹ, binh tốt, trăng sao, đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần. Chiếm lục súc (chó mèo heo gà nuôi trong nhà), cầm thú, cũng lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần. Tử Tôn là Thần phúc đức-Phúc Thần, là thần chế ngự ma Quỷ, là Thần giải trừ ưu phiền. Chủ về bãi quan, tước chức. Tử Tôn: Là phúc Thần-Vui vẻ. Mọi việc đều tốt, trừ cầu quan/ danh/ nữ đoán hôn nhân=Không thuận

Tử tôn: Kị thần khắc quan, tước chức, chế Quỷ, giải phiền rầu, ưu nghi,

Xem Nhân sự: Xem về con cái, con rễ, con dâu, cháu nội, ngoại,

Xem các việc: Thầy thuốc, Tăng đạo, Thầy tướng, trung thần, lương tướng, thuật sĩ, phước đức, y sĩ, y dược, tăng đạo, binh sỹ, môn đồ, tướng tài, Thày thuốc, thuốc thang, tăng đạo, sư sãi, đạo sĩ, binh lính ...

Trăng sao, gia cầm, gia xúc, chim chóc, trăng sao.Thú nuôi... đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần.

Trì Thế: an lành, tai họa chỉ thoảng qua. Không lợi cầu quan, cầu danh

Bị khắc: Giảm phúc, buồn phiền

Tương đồng với ta là Huynh Đệ, không thể đem phúc đến cho ta, cũng không khiến ta gặp phải đại họa, đây là vị thần chủ về phá tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Kỵ gặp Quan Quỷ phát động mà bị chế ngự, ưa gặp Phụ Mẫu hưng vượng để được dựa dẫm. Nếu động sẽ khắc thương Thê Tài, mà hỗ trợ cho Tử Tôn.

3- Hào Huynh Đệ: Chiếm anh em, chị em ruột, cùng là những bà con trong họ, như con cô dì chú bác, anh em rễ, anh em bạn, trời gió, đều lấy hào Huynh Đệ làm Dụng Thần. Anh em là người ngang hàng, đồng loại. Người kia đắc chí thì người nọ xâm lăng, thấy Tài thì đoạt. Cho nên chiếm Tài vật, lấy hào này làm thần cướp của, cướp tài; chiếm mưu sự, lấy nó làm thần cách trở; chiếm vợ hầu, tôi tớ, lấy nó làm thần hình thương khắc hại. Chiếm cho anh rễ, em rễ, lấy Thế hào làm Dụng Thần mỗi khi tôi (tức Thánh Dã Hạc) đều thấy nghiệm. Chiếm cho anh em chú bác và cô cậu, lấy hào huynh đệ làm Dụng Thần thì không nghiệm, rồi phải lấy Ứng hào làm Dụng Thần.

Chủ về: Là thần phá tài, khắc hại, ngăn trở, đình trệ. Chủ cướp đoạt, tranh giành Tiền của, hình thương vợ, hầu, tôi, tớ, tay sai.

Huynh: Kị thần, khắc tinh Thê tài. Là anh em ruột thịt, ngang tuổi

Người: Không thể đem phúc đến cho ta, cũng không khiến ta gặp đại hoạ. Ưa được sinh, kị bị Quỷ khắc hại. tranh lợi đoạt tài.

Xem Nhân sự:

Xem các việc: Xem Tài vât - Cướp tài; Xem mưu sự- thần cản trở; Xem thê thiết, tôi tớ nô bộc - hình thương khắc hại.

Trì thế: Thần kiếp Tài, mất của, tổn thương Vợ. Nặng phá sản. Phòng khắc Vợ/ mất của

1- Hào Phụ Mẫu: Chiếm cho cha mẹ, ông bà của ta, cha mẹ của chú bác, của cô dì, phàm lớn hơn cha mẹ ta, hay là bằng như chú bác cô dì, cùng là Thầy, cha mẹ vợ, cha mẹ của vú nuôi bái nhận, tam phụ bát mẫu. Hoặc tôi tớ hay người làm chiếm cho chủ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần.
Chiếm về trời đất, trời mưa, thành ao, tường rào, nhà cửa, ghe xe, áo quần, khí cụ (đao, kiếm...), bô vải, tạp hóa, cùng là tấu chương, văn thư, văn chương, thi cữ, thư quán, văn khế, giấy tờ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Vật loại rất nhiều, tại người thông biến. Nói tóm lại, các vật loại có tính cách tỷ hộ hay tỷ trợ thân ta, tức là nuôi nấng, che chỡ, đỡ đần cho ta đều thuộc hào Phụ Mẫu.
Phụ Mẫu là hào khắc Tử Tôn, là Kỵ Thần của Tử Tôn.

Phụ Mẫu: Là Thần gian khổ

Trì thế: Thần gian khổ, bận rộn, bôn ba. Hôn nhân khó khăn. Con hiếm muộn.

Bị khắc: Quẻ có Tài động khắc Thế=Vợ dữ, đoản thọ. Nếu có Quan cùng động thì lợi về văn khoa thi cử.

Xem Nhân sự:

Xem các việc:

Nhật Sinh Hào Ứng Là Kị, Cừu Thần

Nhật Sinh Hào Biến Hỷ Dụng Thần

Nhật Khắc Hào Kị thần

Nhật Khắc hào Dụng

Nhật Khắc Hào Dụng Thần Trì Thế

Nhật Khắc hào Động là Kị Thần

Nhật Khắc hào Động là Hỷ Thần

Nhật Khắc Hào Biến là Kị Thần

Nhật Khắc Hào Biến là Hỷ Thần

Nhật thần khắc Hào Dụng bị Không vong

Nhật xung Hào Tĩnh là Hỷ Thần

Nhật xung Hào Tĩnh là Kị Thần

Nhật xung Hào động Là Hỷ Thần

Nhật xung Hào động Là Kị Thần

Nhật Xung Hào Biến Là Hỷ Thần

Nhật Xung Hào Biến Là Kị Thần

Nhật Thần Xung Hào Thế

Nhật xung Hào Dụng Thần

Nhật Xung Hào Dụng Thần Trì Thế

Nhật Thần hợp Hào Kị Thần

Nhật Thần hợp Hào Thế

Nhật Thần hợp Hào Biến

Nhật thần Hợp Hào Động

Nhật Hợp Hào Dụng Thần

Phàm quẻ thể khắc quẻ dụng thì tốt
Quẻ dụng khắc quẻ thể là sự việc xấu.
Quẻ thể sinh quẻ dụng là có sự hao tổn
Quẻ dụng sinh quẻ thể là có điều mừng, có lợi.
Quẻ thể và dụng ngang hoà thì mọi việc đều thuận lợi.
Quẻ thể được sinh càng nhiều thì càng tốt, khắc nhiều thì càng hại.
Quẻ dụng cát biến thành hung là ban đầu tốt, sau xấu.
Quẻ dụng hung biến thành cát là trước xấu sau tốt(gặp hung hoá cát.)
Bị khắc chỗ này, nhưng chỗ kia được sinh là trong khắc có sinh.
Quẻ dụng mạnh thì quẻ thể tất suy, quẻ thể mạnh thì dụng tất suy:

- Càn sinh thể: Chủ có lợi về việc công, công danh, lợi của nhờ việc quan/ thắng lý / được của quý/ bạn tặng quà/ tin mừng lên chức.
- Quẻ càn khắc thể: Chủ nỗi lo công việc/ nhà cửa/ mất của cải/ tổn thất tiền bạc/ ngũ cốc/bị xúc phạm/phạm tội với người trên.
- Quẻ khôn sinh quẻ thể: Chủ tin mừng/ được của về ruộng đất/lợi nhờ người thân/ nhờ âm nhân/thóc gạo, vải vóc do có người tặng.
- Quẻ khôn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng, hao tổn vì ruộng đất/ bị tiểu nhân hại/ bị âm nhân gây hại/ mất vải vóc, thóc gạo.
- Quẻ chấn sinh quẻ thể: Chủ lợi nhuận/ được của từ sơn lâm/ phương đông/ tin mừng trong việc di chuyển/ lợi giao dịch về đồ gỗ.
- Quẻ chấn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng vu vơ, thường vì quá lo sợ/ bản thân không thể yên tĩnh/ tai nạn nhà cửa/ bị những người làm nghề sơn lâm xâm phạm/ bị mất các thứ của về sơn lâm.
- Quẻ tốn sinh quẻ thể: Chủ lợi ích từ sơn lâm, nhờ việc sơn lâm mà được của, lợi từ phía đông nam/ lợi nhờ hàng thảo mộc.
- Quẻ tốn khắc quẻ thể: Bị người trong tên có chữ thảo, mộc làm hại, hoặc lo lắng vì những việc sơn lâm hoặc bị người ở phía nam làm lo lắng, phải cấm kỵ những điều hại vì vợ hoặc những tai ách vì trẻ con, hoặc người xấu đưa đến.
- Quẻ khảm sinh quẻ thể: Chủ tin mừng từ phương bắc/ được của từ phương bắc/ người ở gần nước tặng quà/ được lợi, được tặng với mặt hàng: cá, muối, rượu hoặc văn thư.
- Quẻ khảm khắc quẻ thế: Là có việc lo về việc âm, bị trộm cuớp, làm mất long người ở gần sông biển, bị thiệt hại ở quán rượu, tai ách do người từ phương bắc đến.
- Quẻ ly sinh quẻ thể: Chủ lợi từ phương nam, có tin mừng về việc văn thư, được lợi nhờ các lò nung, lò luyện, được của nhờ có người tên họ có chữ hoả.
- Quẻ ly khắc quẻ thể: Chủ nỗi lo về văn thư, vì người từ phương nam, hoặc vì người trong tên họ có chữ hoả làm hại,
- Quẻ cấn sinh thể: Chủ được của ở đông bắc, có tin mừng/được của về ruộng vườn, nương rẫy, sơn điền. của cải yên ổn, mọi việc có thuỷ chung.
- Quẻ cấn khắc quẻ thể: Chủ việc không thuận, trắc trở, bị mất mát ruộng vườn, nương rẫy, bị người họ có chữ Thổ xâm phạm, phải đề phòng tai hoạ đối với người đông bắc, lo lắng phần mộ không yên ổn.
- Quẻ đoài sinh quẻ thể: Chủ được của từ tây, có tin mừng/ nguồn lợi nhờ các hàng thực phẩm, nhờ người tên họ có chữ kim, có niềm vui giữa chủ và khách, giữa bạn bè.
- Quẻ đoài khắc thể: Bất lợi phương tây, dễ bị tranh cãi chia rẽ, Bất lợi từ người trong tên có chữ kim lừa gạt, gặp tai hoạ đổ nát, vì ăn uống mà sinh lo.

Đoán thời tiết No phân thể-dụng mà xem toàn quẻ, đoán theo ngũ hành: Ly - trời sáng, Khảm-mưa, Khôn-u ám, Cấn-Mây u ám, Càn-thanh minh. Chấn - sấm to, Tốn-gió mạnh, Cấn-mưa lâu tất sẽ tạnh, Đoài nhiều không mưa cũng âm u. Hạ Ly nhiều thiếu khảm thì hạn nặng; Đông khảm nhiều lẫn Ly-mưa tuyết liên miên. Chấn có tốn bên trái thì gió xen nhau, mưa lâu được quẻ cấn thì sẽ tạnh; cấn-mây, tốn-gió, gặp cả hai thì mây gió ùn ùn, mù mịt.

II. DỰ ĐOÁN THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM CỦA QUẺ
Nắm vững: (1) Ngũ hành quẻ chủ sinh/ khắc thể; (2) Quẻ thể sinh/thể khắc; (3) Số của tượng quẻ.
1. Căn cứ ngũ hành của quẻ sinh quẻ thể hay khắc quẻ thể để dự đoán thời gian ứng nghiệm
a) Quẻ thể được sinh- tốt. Là Dụng sinh/ quẻ biến tốt-có cứu. Xác định rõ quẻ nào sinh thể, đến khi Ngũ hành sinh quẻ sinh thể vượng/Cung quẻ-ứng nghiệm.
b) Quẻ thể bị khắc-không tốt. Là Dụng khắc/ biến xấu/ có khắc No sinh, No cứu. Ứng nghiệm quẻ khắc vượng.
c) Căn cứ ngũ hành quẻ thể: về nguyên lý cũng giống như ở trên,
3. Căn cứ số của tượng quẻ để xác định thời gian ứng nghiệm
a) Lấy số Thể+Dụng+Hào động- Định thời gian.
b) Lấy số của ba quẻ: Số quẻ đơn trong các Quẻ chủ, quẻ hỗ, quẻ biến để xác định
4. Căn cứ vào động, tĩnh của số quẻ để đoán thời gian ứng nghiệm
a) Nếu người đến đoán quẻ đi lại-ứng nhanh: Cát Hung đều chia đôi tổng số quẻ.
b) Người đến đoán đứng yên-nửa nhanh nửa chậm: ¾ thời gian tổng số quẻ.
c) Người đến đoán việc nằm-chậm: x 2 tổng số quẻ.
d) Ứng Cát hung nhanh, chậm: nếu động, đi lại, cười nói - cát ứng nhanh/ động nhưng vẻ đau khổ, bứt rứt Hung cũng nhanh. Nói chung là phức tạp, cần điêu luyện

Phàm quẻ thể khắc quẻ dụng thì tốt
Quẻ dụng khắc quẻ thể là sự việc xấu.
Quẻ thể sinh quẻ dụng là có sự hao tổn
Quẻ dụng sinh quẻ thể là có điều mừng, có lợi.
Quẻ thể và dụng ngang hoà thì mọi việc đều thuận lợi.
Quẻ thể được sinh càng nhiều thì càng tốt, khắc nhiều thì càng hại.
Quẻ dụng cát biến thành hung là ban đầu tốt, sau xấu.
Quẻ dụng hung biến thành cát là trước xấu sau tốt(gặp hung hoá cát.)
Bị khắc chỗ này, nhưng chỗ kia được sinh là trong khắc có sinh.
Quẻ dụng mạnh thì quẻ thể tất suy, quẻ thể mạnh thì dụng tất suy:

- Càn sinh thể: Chủ có lợi về việc công, công danh, lợi của nhờ việc quan/ thắng lý / được của quý/ bạn tặng quà/ tin mừng lên chức.
- Quẻ càn khắc thể: Chủ nỗi lo công việc/ nhà cửa/ mất của cải/ tổn thất tiền bạc/ ngũ cốc/bị xúc phạm/phạm tội với người trên.
- Quẻ khôn sinh quẻ thể: Chủ tin mừng/ được của về ruộng đất/lợi nhờ người thân/ nhờ âm nhân/thóc gạo, vải vóc do có người tặng.
- Quẻ khôn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng, hao tổn vì ruộng đất/ bị tiểu nhân hại/ bị âm nhân gây hại/ mất vải vóc, thóc gạo.
- Quẻ chấn sinh quẻ thể: Chủ lợi nhuận/ được của từ sơn lâm/ phương đông/ tin mừng trong việc di chuyển/ lợi giao dịch về đồ gỗ.
- Quẻ chấn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng vu vơ, thường vì quá lo sợ/ bản thân không thể yên tĩnh/ tai nạn nhà cửa/ bị những người làm nghề sơn lâm xâm phạm/ bị mất các thứ của về sơn lâm.
- Quẻ tốn sinh quẻ thể: Chủ lợi ích từ sơn lâm, nhờ việc sơn lâm mà được của, lợi từ phía đông nam/ lợi nhờ hàng thảo mộc.
- Quẻ tốn khắc quẻ thể: Bị người trong tên có chữ thảo, mộc làm hại, hoặc lo lắng vì những việc sơn lâm hoặc bị người ở phía nam làm lo lắng, phải cấm kỵ những điều hại vì vợ hoặc những tai ách vì trẻ con, hoặc người xấu đưa đến.
- Quẻ khảm sinh quẻ thể: Chủ tin mừng từ phương bắc/ được của từ phương bắc/ người ở gần nước tặng quà/ được lợi, được tặng với mặt hàng: cá, muối, rượu hoặc văn thư.
- Quẻ khảm khắc quẻ thế: Là có việc lo về việc âm, bị trộm cuớp, làm mất long người ở gần sông biển, bị thiệt hại ở quán rượu, tai ách do người từ phương bắc đến.
- Quẻ ly sinh quẻ thể: Chủ lợi từ phương nam, có tin mừng về việc văn thư, được lợi nhờ các lò nung, lò luyện, được của nhờ có người tên họ có chữ hoả.
- Quẻ ly khắc quẻ thể: Chủ nỗi lo về văn thư, vì người từ phương nam, hoặc vì người trong tên họ có chữ hoả làm hại,
- Quẻ cấn sinh thể: Chủ được của ở đông bắc, có tin mừng/được của về ruộng vườn, nương rẫy, sơn điền. của cải yên ổn, mọi việc có thuỷ chung.
- Quẻ cấn khắc quẻ thể: Chủ việc không thuận, trắc trở, bị mất mát ruộng vườn, nương rẫy, bị người họ có chữ Thổ xâm phạm, phải đề phòng tai hoạ đối với người đông bắc, lo lắng phần mộ không yên ổn.
- Quẻ đoài sinh quẻ thể: Chủ được của từ tây, có tin mừng/ nguồn lợi nhờ các hàng thực phẩm, nhờ người tên họ có chữ kim, có niềm vui giữa chủ và khách, giữa bạn bè.
- Quẻ đoài khắc thể: Bất lợi phương tây, dễ bị tranh cãi chia rẽ, Bất lợi từ người trong tên có chữ kim lừa gạt, gặp tai hoạ đổ nát, vì ăn uống mà sinh lo.

Đoán thời tiết No phân thể-dụng mà xem toàn quẻ, đoán theo ngũ hành: Ly - trời sáng, Khảm-mưa, Khôn-u ám, Cấn-Mây u ám, Càn-thanh minh. Chấn - sấm to, Tốn-gió mạnh, Cấn-mưa lâu tất sẽ tạnh, Đoài nhiều không mưa cũng âm u. Hạ Ly nhiều thiếu khảm thì hạn nặng; Đông khảm nhiều lẫn Ly-mưa tuyết liên miên. Chấn có tốn bên trái thì gió xen nhau, mưa lâu được quẻ cấn thì sẽ tạnh; cấn-mây, tốn-gió, gặp cả hai thì mây gió ùn ùn, mù mịt.

II. DỰ ĐOÁN THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM CỦA QUẺ
Nắm vững: (1) Ngũ hành quẻ chủ sinh/ khắc thể; (2) Quẻ thể sinh/thể khắc; (3) Số của tượng quẻ.
1. Căn cứ ngũ hành của quẻ sinh quẻ thể hay khắc quẻ thể để dự đoán thời gian ứng nghiệm
a) Quẻ thể được sinh- tốt. Là Dụng sinh/ quẻ biến tốt-có cứu. Xác định rõ quẻ nào sinh thể, đến khi Ngũ hành sinh quẻ sinh thể vượng/Cung quẻ-ứng nghiệm.
b) Quẻ thể bị khắc-không tốt. Là Dụng khắc/ biến xấu/ có khắc No sinh, No cứu. Ứng nghiệm quẻ khắc vượng.
c) Căn cứ ngũ hành quẻ thể: về nguyên lý cũng giống như ở trên,
3. Căn cứ số của tượng quẻ để xác định thời gian ứng nghiệm
a) Lấy số Thể+Dụng+Hào động- Định thời gian.
b) Lấy số của ba quẻ: Số quẻ đơn trong các Quẻ chủ, quẻ hỗ, quẻ biến để xác định
4. Căn cứ vào động, tĩnh của số quẻ để đoán thời gian ứng nghiệm
a) Nếu người đến đoán quẻ đi lại-ứng nhanh: Cát Hung đều chia đôi tổng số quẻ.
b) Người đến đoán đứng yên-nửa nhanh nửa chậm: ¾ thời gian tổng số quẻ.
c) Người đến đoán việc nằm-chậm: x 2 tổng số quẻ.
d) Ứng Cát hung nhanh, chậm: nếu động, đi lại, cười nói - cát ứng nhanh/ động nhưng vẻ đau khổ, bứt rứt Hung cũng nhanh. Nói chung là phức tạp, cần điêu luyện

Phàm quẻ thể khắc quẻ dụng thì tốt
Quẻ dụng khắc quẻ thể là sự việc xấu.
Quẻ thể sinh quẻ dụng là có sự hao tổn
Quẻ dụng sinh quẻ thể là có điều mừng, có lợi.
Quẻ thể và dụng ngang hoà thì mọi việc đều thuận lợi.
Quẻ thể được sinh càng nhiều thì càng tốt, khắc nhiều thì càng hại.
Quẻ dụng cát biến thành hung là ban đầu tốt, sau xấu.
Quẻ dụng hung biến thành cát là trước xấu sau tốt(gặp hung hoá cát.)
Bị khắc chỗ này, nhưng chỗ kia được sinh là trong khắc có sinh.
Quẻ dụng mạnh thì quẻ thể tất suy, quẻ thể mạnh thì dụng tất suy:

- Càn sinh thể: Chủ có lợi về việc công, công danh, lợi của nhờ việc quan/ thắng lý / được của quý/ bạn tặng quà/ tin mừng lên chức.
- Quẻ càn khắc thể: Chủ nỗi lo công việc/ nhà cửa/ mất của cải/ tổn thất tiền bạc/ ngũ cốc/bị xúc phạm/phạm tội với người trên.
- Quẻ khôn sinh quẻ thể: Chủ tin mừng/ được của về ruộng đất/lợi nhờ người thân/ nhờ âm nhân/thóc gạo, vải vóc do có người tặng.
- Quẻ khôn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng, hao tổn vì ruộng đất/ bị tiểu nhân hại/ bị âm nhân gây hại/ mất vải vóc, thóc gạo.
- Quẻ chấn sinh quẻ thể: Chủ lợi nhuận/ được của từ sơn lâm/ phương đông/ tin mừng trong việc di chuyển/ lợi giao dịch về đồ gỗ.
- Quẻ chấn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng vu vơ, thường vì quá lo sợ/ bản thân không thể yên tĩnh/ tai nạn nhà cửa/ bị những người làm nghề sơn lâm xâm phạm/ bị mất các thứ của về sơn lâm.
- Quẻ tốn sinh quẻ thể: Chủ lợi ích từ sơn lâm, nhờ việc sơn lâm mà được của, lợi từ phía đông nam/ lợi nhờ hàng thảo mộc.
- Quẻ tốn khắc quẻ thể: Bị người trong tên có chữ thảo, mộc làm hại, hoặc lo lắng vì những việc sơn lâm hoặc bị người ở phía nam làm lo lắng, phải cấm kỵ những điều hại vì vợ hoặc những tai ách vì trẻ con, hoặc người xấu đưa đến.
- Quẻ khảm sinh quẻ thể: Chủ tin mừng từ phương bắc/ được của từ phương bắc/ người ở gần nước tặng quà/ được lợi, được tặng với mặt hàng: cá, muối, rượu hoặc văn thư.
- Quẻ khảm khắc quẻ thế: Là có việc lo về việc âm, bị trộm cuớp, làm mất long người ở gần sông biển, bị thiệt hại ở quán rượu, tai ách do người từ phương bắc đến.
- Quẻ ly sinh quẻ thể: Chủ lợi từ phương nam, có tin mừng về việc văn thư, được lợi nhờ các lò nung, lò luyện, được của nhờ có người tên họ có chữ hoả.
- Quẻ ly khắc quẻ thể: Chủ nỗi lo về văn thư, vì người từ phương nam, hoặc vì người trong tên họ có chữ hoả làm hại,
- Quẻ cấn sinh thể: Chủ được của ở đông bắc, có tin mừng/được của về ruộng vườn, nương rẫy, sơn điền. của cải yên ổn, mọi việc có thuỷ chung.
- Quẻ cấn khắc quẻ thể: Chủ việc không thuận, trắc trở, bị mất mát ruộng vườn, nương rẫy, bị người họ có chữ Thổ xâm phạm, phải đề phòng tai hoạ đối với người đông bắc, lo lắng phần mộ không yên ổn.
- Quẻ đoài sinh quẻ thể: Chủ được của từ tây, có tin mừng/ nguồn lợi nhờ các hàng thực phẩm, nhờ người tên họ có chữ kim, có niềm vui giữa chủ và khách, giữa bạn bè.
- Quẻ đoài khắc thể: Bất lợi phương tây, dễ bị tranh cãi chia rẽ, Bất lợi từ người trong tên có chữ kim lừa gạt, gặp tai hoạ đổ nát, vì ăn uống mà sinh lo.

Đoán thời tiết No phân thể-dụng mà xem toàn quẻ, đoán theo ngũ hành: Ly - trời sáng, Khảm-mưa, Khôn-u ám, Cấn-Mây u ám, Càn-thanh minh. Chấn - sấm to, Tốn-gió mạnh, Cấn-mưa lâu tất sẽ tạnh, Đoài nhiều không mưa cũng âm u. Hạ Ly nhiều thiếu khảm thì hạn nặng; Đông khảm nhiều lẫn Ly-mưa tuyết liên miên. Chấn có tốn bên trái thì gió xen nhau, mưa lâu được quẻ cấn thì sẽ tạnh; cấn-mây, tốn-gió, gặp cả hai thì mây gió ùn ùn, mù mịt.

II. DỰ ĐOÁN THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM CỦA QUẺ
Nắm vững: (1) Ngũ hành quẻ chủ sinh/ khắc thể; (2) Quẻ thể sinh/thể khắc; (3) Số của tượng quẻ.
1. Căn cứ ngũ hành của quẻ sinh quẻ thể hay khắc quẻ thể để dự đoán thời gian ứng nghiệm
a) Quẻ thể được sinh- tốt. Là Dụng sinh/ quẻ biến tốt-có cứu. Xác định rõ quẻ nào sinh thể, đến khi Ngũ hành sinh quẻ sinh thể vượng/Cung quẻ-ứng nghiệm.
b) Quẻ thể bị khắc-không tốt. Là Dụng khắc/ biến xấu/ có khắc No sinh, No cứu. Ứng nghiệm quẻ khắc vượng.
c) Căn cứ ngũ hành quẻ thể: về nguyên lý cũng giống như ở trên,
3. Căn cứ số của tượng quẻ để xác định thời gian ứng nghiệm
a) Lấy số Thể+Dụng+Hào động- Định thời gian.
b) Lấy số của ba quẻ: Số quẻ đơn trong các Quẻ chủ, quẻ hỗ, quẻ biến để xác định
4. Căn cứ vào động, tĩnh của số quẻ để đoán thời gian ứng nghiệm
a) Nếu người đến đoán quẻ đi lại-ứng nhanh: Cát Hung đều chia đôi tổng số quẻ.
b) Người đến đoán đứng yên-nửa nhanh nửa chậm: ¾ thời gian tổng số quẻ.
c) Người đến đoán việc nằm-chậm: x 2 tổng số quẻ.
d) Ứng Cát hung nhanh, chậm: nếu động, đi lại, cười nói - cát ứng nhanh/ động nhưng vẻ đau khổ, bứt rứt Hung cũng nhanh. Nói chung là phức tạp, cần điêu luyện

Phàm quẻ thể khắc quẻ dụng thì tốt
Quẻ dụng khắc quẻ thể là sự việc xấu.
Quẻ thể sinh quẻ dụng là có sự hao tổn
Quẻ dụng sinh quẻ thể là có điều mừng, có lợi.
Quẻ thể và dụng ngang hoà thì mọi việc đều thuận lợi.
Quẻ thể được sinh càng nhiều thì càng tốt, khắc nhiều thì càng hại.
Quẻ dụng cát biến thành hung là ban đầu tốt, sau xấu.
Quẻ dụng hung biến thành cát là trước xấu sau tốt(gặp hung hoá cát.)
Bị khắc chỗ này, nhưng chỗ kia được sinh là trong khắc có sinh.
Quẻ dụng mạnh thì quẻ thể tất suy, quẻ thể mạnh thì dụng tất suy:

- Càn sinh thể: Chủ có lợi về việc công, công danh, lợi của nhờ việc quan/ thắng lý / được của quý/ bạn tặng quà/ tin mừng lên chức.
- Quẻ càn khắc thể: Chủ nỗi lo công việc/ nhà cửa/ mất của cải/ tổn thất tiền bạc/ ngũ cốc/bị xúc phạm/phạm tội với người trên.
- Quẻ khôn sinh quẻ thể: Chủ tin mừng/ được của về ruộng đất/lợi nhờ người thân/ nhờ âm nhân/thóc gạo, vải vóc do có người tặng.
- Quẻ khôn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng, hao tổn vì ruộng đất/ bị tiểu nhân hại/ bị âm nhân gây hại/ mất vải vóc, thóc gạo.
- Quẻ chấn sinh quẻ thể: Chủ lợi nhuận/ được của từ sơn lâm/ phương đông/ tin mừng trong việc di chuyển/ lợi giao dịch về đồ gỗ.
- Quẻ chấn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng vu vơ, thường vì quá lo sợ/ bản thân không thể yên tĩnh/ tai nạn nhà cửa/ bị những người làm nghề sơn lâm xâm phạm/ bị mất các thứ của về sơn lâm.
- Quẻ tốn sinh quẻ thể: Chủ lợi ích từ sơn lâm, nhờ việc sơn lâm mà được của, lợi từ phía đông nam/ lợi nhờ hàng thảo mộc.
- Quẻ tốn khắc quẻ thể: Bị người trong tên có chữ thảo, mộc làm hại, hoặc lo lắng vì những việc sơn lâm hoặc bị người ở phía nam làm lo lắng, phải cấm kỵ những điều hại vì vợ hoặc những tai ách vì trẻ con, hoặc người xấu đưa đến.
- Quẻ khảm sinh quẻ thể: Chủ tin mừng từ phương bắc/ được của từ phương bắc/ người ở gần nước tặng quà/ được lợi, được tặng với mặt hàng: cá, muối, rượu hoặc văn thư.
- Quẻ khảm khắc quẻ thế: Là có việc lo về việc âm, bị trộm cuớp, làm mất long người ở gần sông biển, bị thiệt hại ở quán rượu, tai ách do người từ phương bắc đến.
- Quẻ ly sinh quẻ thể: Chủ lợi từ phương nam, có tin mừng về việc văn thư, được lợi nhờ các lò nung, lò luyện, được của nhờ có người tên họ có chữ hoả.
- Quẻ ly khắc quẻ thể: Chủ nỗi lo về văn thư, vì người từ phương nam, hoặc vì người trong tên họ có chữ hoả làm hại,
- Quẻ cấn sinh thể: Chủ được của ở đông bắc, có tin mừng/được của về ruộng vườn, nương rẫy, sơn điền. của cải yên ổn, mọi việc có thuỷ chung.
- Quẻ cấn khắc quẻ thể: Chủ việc không thuận, trắc trở, bị mất mát ruộng vườn, nương rẫy, bị người họ có chữ Thổ xâm phạm, phải đề phòng tai hoạ đối với người đông bắc, lo lắng phần mộ không yên ổn.
- Quẻ đoài sinh quẻ thể: Chủ được của từ tây, có tin mừng/ nguồn lợi nhờ các hàng thực phẩm, nhờ người tên họ có chữ kim, có niềm vui giữa chủ và khách, giữa bạn bè.
- Quẻ đoài khắc thể: Bất lợi phương tây, dễ bị tranh cãi chia rẽ, Bất lợi từ người trong tên có chữ kim lừa gạt, gặp tai hoạ đổ nát, vì ăn uống mà sinh lo.

Đoán thời tiết No phân thể-dụng mà xem toàn quẻ, đoán theo ngũ hành: Ly - trời sáng, Khảm-mưa, Khôn-u ám, Cấn-Mây u ám, Càn-thanh minh. Chấn - sấm to, Tốn-gió mạnh, Cấn-mưa lâu tất sẽ tạnh, Đoài nhiều không mưa cũng âm u. Hạ Ly nhiều thiếu khảm thì hạn nặng; Đông khảm nhiều lẫn Ly-mưa tuyết liên miên. Chấn có tốn bên trái thì gió xen nhau, mưa lâu được quẻ cấn thì sẽ tạnh; cấn-mây, tốn-gió, gặp cả hai thì mây gió ùn ùn, mù mịt.

II. DỰ ĐOÁN THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM CỦA QUẺ
Nắm vững: (1) Ngũ hành quẻ chủ sinh/ khắc thể; (2) Quẻ thể sinh/thể khắc; (3) Số của tượng quẻ.
1. Căn cứ ngũ hành của quẻ sinh quẻ thể hay khắc quẻ thể để dự đoán thời gian ứng nghiệm
a) Quẻ thể được sinh- tốt. Là Dụng sinh/ quẻ biến tốt-có cứu. Xác định rõ quẻ nào sinh thể, đến khi Ngũ hành sinh quẻ sinh thể vượng/Cung quẻ-ứng nghiệm.
b) Quẻ thể bị khắc-không tốt. Là Dụng khắc/ biến xấu/ có khắc No sinh, No cứu. Ứng nghiệm quẻ khắc vượng.
c) Căn cứ ngũ hành quẻ thể: về nguyên lý cũng giống như ở trên,
3. Căn cứ số của tượng quẻ để xác định thời gian ứng nghiệm
a) Lấy số Thể+Dụng+Hào động- Định thời gian.
b) Lấy số của ba quẻ: Số quẻ đơn trong các Quẻ chủ, quẻ hỗ, quẻ biến để xác định
4. Căn cứ vào động, tĩnh của số quẻ để đoán thời gian ứng nghiệm
a) Nếu người đến đoán quẻ đi lại-ứng nhanh: Cát Hung đều chia đôi tổng số quẻ.
b) Người đến đoán đứng yên-nửa nhanh nửa chậm: ¾ thời gian tổng số quẻ.
c) Người đến đoán việc nằm-chậm: x 2 tổng số quẻ.
d) Ứng Cát hung nhanh, chậm: nếu động, đi lại, cười nói - cát ứng nhanh/ động nhưng vẻ đau khổ, bứt rứt Hung cũng nhanh. Nói chung là phức tạp, cần điêu luyện

Phàm quẻ thể khắc quẻ dụng thì tốt
Quẻ dụng khắc quẻ thể là sự việc xấu.
Quẻ thể sinh quẻ dụng là có sự hao tổn
Quẻ dụng sinh quẻ thể là có điều mừng, có lợi.
Quẻ thể và dụng ngang hoà thì mọi việc đều thuận lợi.
Quẻ thể được sinh càng nhiều thì càng tốt, khắc nhiều thì càng hại.
Quẻ dụng cát biến thành hung là ban đầu tốt, sau xấu.
Quẻ dụng hung biến thành cát là trước xấu sau tốt(gặp hung hoá cát.)
Bị khắc chỗ này, nhưng chỗ kia được sinh là trong khắc có sinh.
Quẻ dụng mạnh thì quẻ thể tất suy, quẻ thể mạnh thì dụng tất suy:

- Càn sinh thể: Chủ có lợi về việc công, công danh, lợi của nhờ việc quan/ thắng lý / được của quý/ bạn tặng quà/ tin mừng lên chức.
- Quẻ càn khắc thể: Chủ nỗi lo công việc/ nhà cửa/ mất của cải/ tổn thất tiền bạc/ ngũ cốc/bị xúc phạm/phạm tội với người trên.
- Quẻ khôn sinh quẻ thể: Chủ tin mừng/ được của về ruộng đất/lợi nhờ người thân/ nhờ âm nhân/thóc gạo, vải vóc do có người tặng.
- Quẻ khôn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng, hao tổn vì ruộng đất/ bị tiểu nhân hại/ bị âm nhân gây hại/ mất vải vóc, thóc gạo.
- Quẻ chấn sinh quẻ thể: Chủ lợi nhuận/ được của từ sơn lâm/ phương đông/ tin mừng trong việc di chuyển/ lợi giao dịch về đồ gỗ.
- Quẻ chấn khắc quẻ thể: Chủ lo lắng vu vơ, thường vì quá lo sợ/ bản thân không thể yên tĩnh/ tai nạn nhà cửa/ bị những người làm nghề sơn lâm xâm phạm/ bị mất các thứ của về sơn lâm.
- Quẻ tốn sinh quẻ thể: Chủ lợi ích từ sơn lâm, nhờ việc sơn lâm mà được của, lợi từ phía đông nam/ lợi nhờ hàng thảo mộc.
- Quẻ tốn khắc quẻ thể: Bị người trong tên có chữ thảo, mộc làm hại, hoặc lo lắng vì những việc sơn lâm hoặc bị người ở phía nam làm lo lắng, phải cấm kỵ những điều hại vì vợ hoặc những tai ách vì trẻ con, hoặc người xấu đưa đến.
- Quẻ khảm sinh quẻ thể: Chủ tin mừng từ phương bắc/ được của từ phương bắc/ người ở gần nước tặng quà/ được lợi, được tặng với mặt hàng: cá, muối, rượu hoặc văn thư.
- Quẻ khảm khắc quẻ thế: Là có việc lo về việc âm, bị trộm cuớp, làm mất long người ở gần sông biển, bị thiệt hại ở quán rượu, tai ách do người từ phương bắc đến.
- Quẻ ly sinh quẻ thể: Chủ lợi từ phương nam, có tin mừng về việc văn thư, được lợi nhờ các lò nung, lò luyện, được của nhờ có người tên họ có chữ hoả.
- Quẻ ly khắc quẻ thể: Chủ nỗi lo về văn thư, vì người từ phương nam, hoặc vì người trong tên họ có chữ hoả làm hại,
- Quẻ cấn sinh thể: Chủ được của ở đông bắc, có tin mừng/được của về ruộng vườn, nương rẫy, sơn điền. của cải yên ổn, mọi việc có thuỷ chung.
- Quẻ cấn khắc quẻ thể: Chủ việc không thuận, trắc trở, bị mất mát ruộng vườn, nương rẫy, bị người họ có chữ Thổ xâm phạm, phải đề phòng tai hoạ đối với người đông bắc, lo lắng phần mộ không yên ổn.
- Quẻ đoài sinh quẻ thể: Chủ được của từ tây, có tin mừng/ nguồn lợi nhờ các hàng thực phẩm, nhờ người tên họ có chữ kim, có niềm vui giữa chủ và khách, giữa bạn bè.
- Quẻ đoài khắc thể: Bất lợi phương tây, dễ bị tranh cãi chia rẽ, Bất lợi từ người trong tên có chữ kim lừa gạt, gặp tai hoạ đổ nát, vì ăn uống mà sinh lo.

Đoán thời tiết No phân thể-dụng mà xem toàn quẻ, đoán theo ngũ hành: Ly - trời sáng, Khảm-mưa, Khôn-u ám, Cấn-Mây u ám, Càn-thanh minh. Chấn - sấm to, Tốn-gió mạnh, Cấn-mưa lâu tất sẽ tạnh, Đoài nhiều không mưa cũng âm u. Hạ Ly nhiều thiếu khảm thì hạn nặng; Đông khảm nhiều lẫn Ly-mưa tuyết liên miên. Chấn có tốn bên trái thì gió xen nhau, mưa lâu được quẻ cấn thì sẽ tạnh; cấn-mây, tốn-gió, gặp cả hai thì mây gió ùn ùn, mù mịt.

II. DỰ ĐOÁN THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM CỦA QUẺ
Nắm vững: (1) Ngũ hành quẻ chủ sinh/ khắc thể; (2) Quẻ thể sinh/thể khắc; (3) Số của tượng quẻ.
1. Căn cứ ngũ hành của quẻ sinh quẻ thể hay khắc quẻ thể để dự đoán thời gian ứng nghiệm
a) Quẻ thể được sinh- tốt. Là Dụng sinh/ quẻ biến tốt-có cứu. Xác định rõ quẻ nào sinh thể, đến khi Ngũ hành sinh quẻ sinh thể vượng/Cung quẻ-ứng nghiệm.
b) Quẻ thể bị khắc-không tốt. Là Dụng khắc/ biến xấu/ có khắc No sinh, No cứu. Ứng nghiệm quẻ khắc vượng.
c) Căn cứ ngũ hành quẻ thể: về nguyên lý cũng giống như ở trên,
3. Căn cứ số của tượng quẻ để xác định thời gian ứng nghiệm
a) Lấy số Thể+Dụng+Hào động- Định thời gian.
b) Lấy số của ba quẻ: Số quẻ đơn trong các Quẻ chủ, quẻ hỗ, quẻ biến để xác định
4. Căn cứ vào động, tĩnh của số quẻ để đoán thời gian ứng nghiệm
a) Nếu người đến đoán quẻ đi lại-ứng nhanh: Cát Hung đều chia đôi tổng số quẻ.
b) Người đến đoán đứng yên-nửa nhanh nửa chậm: ¾ thời gian tổng số quẻ.
c) Người đến đoán việc nằm-chậm: x 2 tổng số quẻ.
d) Ứng Cát hung nhanh, chậm: nếu động, đi lại, cười nói - cát ứng nhanh/ động nhưng vẻ đau khổ, bứt rứt Hung cũng nhanh. Nói chung là phức tạp, cần điêu luyện

Hào Thế Ám Động Do bị Hào Động Vượng Xung

Hào Thế Động Biến Tiến

Hào Thế Động Biến Thoái

Hào Biến Hồi Đầu Hợp Hào Động

Hào Biến Hồi Đầu Sinh Hào Động

Hào Biến Hồi Đầu Khắc Hào Động

Hào Phản ngâm là hào biến thành hào tương xung, như Tý với Ngọ, Sửu với Mùi, Dần với Thân, Mão với Dậu, Thìn với Tuất, Tỵ với Hợi.

Hào Thế động biến Tam hợp

Hào Thế động biến Mộ Hào biến

Hào Thế động biến Mộ Hào vượng động

Hào Thế động biến Mộ ở Nhật, Nguyệt

Thế ám động do Nhật Xung - Nguyệt phá

Hào Thế tĩnh, không bị ám động

Dụng Thần tĩnh Không Vong

Dụng Thần động Không Vong

Dụng động Không Vong biến Không vong

Dụng Thần Trì Thế tĩnh Không Vong

Dụng Thần Trì Thế động Không Vong

Dụng Trì Thế động K.Vong biến K.Vong

Hỷ Thần tĩnh Không Vong

Hỷ Thần động Không Vong

Hỷ Thần động K.Vong biến K.Vong

Hỷ Thần Trì Thế tĩnh Không Vong

Hỷ Thần Trì Thế động Không Vong

Hỷ Thần Trì Thế động K.Vong biến K.Vong

Kị Thần tĩnh Không Vong

Kị Thần động Không Vong

Kị Thần động K.Vong biến K.Vong

Hỷ Thần Trì Thế tĩnh Không Vong

Kị Thần Trì Thế động Không Vong

Kị Thần trì Thế động K.Vong biến K.Vong

Không vong khác

Thế Ứng đều Không, Ta người chẳng thực

Hào Thế Tĩnh - Không Vong

Hào Thế Động - Không Vong

Thế Động - Không Vong - Biến Không Vong

Hào Ứng Tĩnh - Không Vong

Hào Ứng Động - Không Vong

Hào Ứng Động - Không Vong - Biến K.Vong

Nhật sinh Dụng Thần

Nhật sinh Hào Thế Là Hỷ Thần

Nhật Sinh Hào Ứng Là Hỷ Thần

Nhật Sinh Hào Thế Là Kị Thần

Bạch Hổ Là Hào Thế

Bạch Hổ Là Hào Thế

Huyền Vũ Là Hào Thế

Huyền Vũ Là Hào Ứng

Dụng Thần tĩnh nhưng yếu, bị khắc không có lực.

Dụng Thần Động Biến Tiến Sinh Vượng

Dụng động biến thoái

Dụng Thần Động Biến Hồi Đầu Khắc

Dụng động biến hồi đầu Hợp

Hào Phản ngâm là hào biến thành hào tương xung, như Tý với Ngọ, Sửu với Mùi, Dần với Thân, Mão với Dậu, Thìn với Tuất, Tỵ với Hợi.

Dụng động biến Mộ

Dụng động biến Mộ ở Hào biến Quan Quỷ

Dụng động biến Tam Hợp

Dụng Trì Thế động biến tiến

Dụng Trì Thế động biến thoái

Dụng Trì Thế động biến hồi đầu khắc

Dụng Trì Thế động biến hồi đầu Hợp

Dụng Trì Thế động biến hồi đầu Xung

Dụng Trì Thế động biến Mộ

Dụng trì Thế động biến Mộ ở Hào biến Quỷ

Dụng Trì Thế động biến Tam hợp

Dụng động biến khác

Dụng Thần ám động

Dụng Thần Tĩnh - Vượng

Dụng Thần Ám Động Biến Cát

Dụng Thần Ám Động - Hào tương ứng ở Quẻ Biến Hung (Hồi đầu khắc/ Không hồi sinh/ Bị Xung tán/ Bị Hợp chặt lkhoong sinh được)

Hào động biến ra hào có ngũ hành hồi đầu sinh, bất kể vượng suy hay dụng kị đều phải xét

Chọn Hào Không bị Xung Khắc

Chọn Hào Là Nhật/ Nguyệt

Chọn Hào gần Hào Động Sinh

TRong nhiều Dụng, chọn Dụng động hay ám động được hồi đầu sinh

Chọn Hào Sinh Nhiều Khắc Ít

Hào Thế Là Quan Quỷ không nói đến động hay ám động (Xem ở Hào Thế Động tĩnh)

Hào Thế Là Phụ Mẫu

Hào Thế là Phụ Mẫu ......

Cả Hào Thế ......

Hào Thế Là Huynh Đệ

Hào Thế là Huynh Đệ ......

Hào Thế ......hkhjgk

Hào Thế Là Tử Tôn

Hào Thế là Tử Tôn ......

Hào Thế ......

Hào Thế Là Thê Tài

Hào Thế là Thê Tài ......

Hào Thế ........

Hào Thế Là Quan Quỷ ......

Hào Thế Là Quan Quỷ ......

+ Hào Dụng - Hỷ - Kị nếu là Tuần không, không bị xung khắc hợp thì cũng có thể ứng nghiệm vào ngày điền thực

+ Hào Dụng - Hỷ - Kị nếu là Tuần không, lại bị xung khắc thì sẽ ứng nghiệm vào ngày điền thực vì sẽ bị thật khắc

+ Dụng Tuần không - Là Cát/ Khí vượng hay là Hung/ Khí suy tuyệt => Chờ ngày Xung không => Điền thực sẽ ứng nghiệm Cát hay hung

Ví dụ: xem bệnh cho chồng (CD TVH-184)

I. DỤNG THẦN: Là thể sự việc, chủ tượng, nguyên thần là gốc rễ. Rất nên trì thế. Kị thần cần suy .., bị khắc.

1- Hào Phụ Mẫu: Chiếm cho cha mẹ, ông bà của ta, cha mẹ của chú bác, của cô dì, phàm lớn hơn cha mẹ ta, hay là bằng như chú bác cô dì, cùng là Thầy, cha mẹ vợ, cha mẹ của vú nuôi bái nhận, tam phụ bát mẫu. Hoặc tôi tớ hay người làm chiếm cho chủ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần.

Chiếm về trời đất, trời mưa, thành ao, tường rào, nhà cửa, ghe xe, áo quần, khí cụ (đao, kiếm...), bô vải, tạp hóa, cùng là tấu chương, văn thư, văn chương, thi cữ, thư quán, văn khế, giấy tờ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Vật loại rất nhiều, tại người thông biến. Nói tóm lại, các vật loại có tính cách tỷ hộ hay tỷ trợ thân ta, tức là nuôi nấng, che chỡ, đỡ đần cho ta đều thuộc hào Phụ Mẫu.
Phụ Mẫu là hào khắc Tử Tôn, là Kỵ Thần của Tử Tôn.

Phụ Mẫu: Là Thần gian khổ

Trì thế: Thần gian khổ, bận rộn, bôn ba. Hôn nhân khó khăn. Con hiếm muộn.

Bị khắc: Quẻ có Tài động khắc Thế=Vợ dữ, đoản thọ. Nếu có Quan cùng động thì lợi về văn khoa thi cử.

Xem Nhân sự:

Xem các việc:

Là Phụ Mẫu Kiêm Nhật-Nguyệt

I. DỤNG THẦN: Là thể sự việc, chủ tượng, nguyên thần là gốc rễ. Rất nên trì thế. Kị thần cần suy .., bị khắc.

1- Hào Phụ Mẫu: Chiếm cho cha mẹ, ông bà của ta, cha mẹ của chú bác, của cô dì, phàm lớn hơn cha mẹ ta, hay là bằng như chú bác cô dì, cùng là Thầy, cha mẹ vợ, cha mẹ của vú nuôi bái nhận, tam phụ bát mẫu. Hoặc tôi tớ hay người làm chiếm cho chủ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần.

Chiếm về trời đất, trời mưa, thành ao, tường rào, nhà cửa, ghe xe, áo quần, khí cụ (đao, kiếm...), bô vải, tạp hóa, cùng là tấu chương, văn thư, văn chương, thi cữ, thư quán, văn khế, giấy tờ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Vật loại rất nhiều, tại người thông biến. Nói tóm lại, các vật loại có tính cách tỷ hộ hay tỷ trợ thân ta, tức là nuôi nấng, che chỡ, đỡ đần cho ta đều thuộc hào Phụ Mẫu.
Phụ Mẫu là hào khắc Tử Tôn, là Kỵ Thần của Tử Tôn.

Phụ Mẫu: Là Thần gian khổ

Trì thế: Thần gian khổ, bận rộn, bôn ba. Hôn nhân khó khăn. Con hiếm muộn.

Bị khắc: Quẻ có Tài động khắc Thế=Vợ dữ, đoản thọ. Nếu có Quan cùng động thì lợi về văn khoa thi cử.

Xem Nhân sự:

Xem các việc:

Là Phụ Mẫu Trì Thế

I. DỤNG THẦN: Là thể sự việc, chủ tượng, nguyên thần là gốc rễ. Rất nên trì thế. Kị thần cần suy .., bị khắc.

1- Hào Phụ Mẫu: Chiếm cho cha mẹ, ông bà của ta, cha mẹ của chú bác, của cô dì, phàm lớn hơn cha mẹ ta, hay là bằng như chú bác cô dì, cùng là Thầy, cha mẹ vợ, cha mẹ của vú nuôi bái nhận, tam phụ bát mẫu. Hoặc tôi tớ hay người làm chiếm cho chủ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần.

Chiếm về trời đất, trời mưa, thành ao, tường rào, nhà cửa, ghe xe, áo quần, khí cụ (đao, kiếm...), bô vải, tạp hóa, cùng là tấu chương, văn thư, văn chương, thi cữ, thư quán, văn khế, giấy tờ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Vật loại rất nhiều, tại người thông biến. Nói tóm lại, các vật loại có tính cách tỷ hộ hay tỷ trợ thân ta, tức là nuôi nấng, che chỡ, đỡ đần cho ta đều thuộc hào Phụ Mẫu.
Phụ Mẫu là hào khắc Tử Tôn, là Kỵ Thần của Tử Tôn.

Phụ Mẫu: Là Thần gian khổ

Trì thế: Thần gian khổ, bận rộn, bôn ba. Hôn nhân khó khăn. Con hiếm muộn.

Bị khắc: Quẻ có Tài động khắc Thế=Vợ dữ, đoản thọ. Nếu có Quan cùng động thì lợi về văn khoa thi cử.

Xem Nhân sự:

Xem các việc:

Là Huynh Đệ

Là Huynh Đệ Kiêm Nhật-Nguyệt

Là Huynh Đệ Trì Thế

Là Tử Tôn

Là Tử Tôn Kiêm Nhật-Nguyệt

Là Tử Tôn Trì Thế

Dụng Là Thê Tài:

+ Xem về tiền tài thì cần Tài vượng, xem về tuổi thọ, cần chú trọng đến hào Thế. Chưa từng thấy hào Tài, hào Phúc không vượng, chỉ có mình hào Thế vượng tướng mà đoán là tượng giàu có sống thọ. Nếu theo đó, thì chẳng lẽ tất cả những người sống thọ trên đời này đều giàu có cả hay sao?(TSBD-Trang đầu)

Trang đầu - VII
XEM VỀ CHỨNG KHOÁN
NGÀY KỶ SỬU THÁNG TÝ,
ĐƯỢC QUẺ QUY MUỘI BIẾN ĐOÀI

Lời bàn của Dã Hạc lão nhân:
Tài gặp vượng, suy, hộ, tuyệt, ắt cũng có ngày được lệnh;
Thê gặp không, phá, phục, không, ắt phải có lúc phục hồi.
Nếu hào Tài quá vượng, sẽ đắc lợi vào tháng nhập mộ;
Hào Tài hưu tù, sẽ chấn hưng tại thời điểm sinh vượng;
Hào Tài nhập mộ, cần đợi lúc xung khai;
Hào Tài gặp tuyệt, cần đợi lúc sinh vượng;
Hào Tài gặp nguyệt phá, cần đợi khi điền thực;
Hào Tài bị khắc, đợi đến thời điểm xung mất hào khắc;
Hào Tài phục, đợi đến khi xuất hiện sẽ được giá;
Hào Tài bị hợp mất, cũng phải đợi đến lúc xung khai.

PHÂN TÍCH:

Hào Tài Mão Mộc được nguyệt kiến Tý Thủy tương sinh, là Tài có gốc rễ.

Cổ phiếu trước mắt chưa được giá, vì bị Thân Kim động khắc chế, cần đợi đến tháng Dần xung mất Thân Kim, giá sẽ tăng. Quả nhiên sau đến tháng Dần giá tăng mạnh. Như vậy, nếu hào Tài bị  khắc, cần phải đợi đến tháng xung mất hào khắc.

Là Thê Tài Kiêm Nhật-Nguyệt

Là Thê Tài Trì Thế

Là Quan Quỷ

Là Quan Quỷ Kiêm Nhật-Nguyệt

Là Quan Quỷ Trì Thế

Dụng Thần Là Thanh Long

Dụng Thần Là Thanh Long - Động

Dụng Là Câu Trần

Dụng Là Phi Xà

Dụng Là Bạch Hổ

Dụng Là Huyền Vũ

Thanh Long Là Kị Thần

Chu Tước Là Kị Thần

Câu Trần Là Kị

Phi Xà Là Kị Thần

Bạch Hổ Là Kị Thần

Huyền Vũ Là Kị Thần

Hào Thế Là Thanh Long

Hào ứng là Thanh Long

Chu Tước Là Hào Thế

Chu Tước Là Hào Ứng

Câu Trần Là Hào Thế

Câu Trần Là Hào Ứng

Phi Xà Là Hào Thế

Phi Xà Là Hào Ứng

Hào Bị Nhật/ Nguyệt Xung Khắc Phá Không Được Sinh

Hào Bị Nhật/ Nguyệt Xung Khắc Phá Lại Được Sinh

Hào tương hình

Hào tương hình

Hào tương hình: Dần - Tị - Thân

Hào tương hình: Mùi - Sửu - Tuất

Tham Hợp Quên Sinh

Hào Tham Hợp Quên Hình

Sinh ít, Xung Khắc nhiều Lên Là Kị

Sinh ít, Xung Khắc nhiều Lên Là Đại Kị

Dụng nhập Mộ ở Hào biến

Dụng nhập Mộ ở Hào biến là Quan Quỷ

Dụng nhập Mộ ở Hào động

Dụng nhập Mộ ở Hào động là Quan Quỷ

Dụng nhập Mộ ở Nhật thần

Dụng nhập Mộ ở Nguyệt kiến

Dụng nhập Mộ khác

Tam Hợp Ở Quẻ Nội

Tam Hợp Ở Quẻ Ngoại

Nhật Với Hào Quẻ Tam Hợp

Nguyệt Với Hào Quẻ Tam Hợp

Trang đầu - IV: XEM ĐẤT (AN TÁNG)
NGÀY MẬU NGỌ THÁNG DẦN,
ĐƯỢC QUẺ DI BIẾN VÔ VỌNG

Lời bàn của Dã Hạc lão nhân:
Phép xem xưa, có phép coi hào nhị là huyệt, hoặc coi quẻ nội là huyệt, hoặc coi Đằng Xà là huyệt, ta thử nhiều lần không thấy ứng nghiệm. Chỉ thấy lấy hào Thế làm huyệt là ứng nghiệm. Hào Thế cần vượng tướng, hoặc lâm nhật, nguyệt, hoặc được nhật, nguyệt, hào động sinh phù, thì đó là cát địa. Con cháu là hậu duệ tế bái, nên được Tử Tôn trì Thế là tốt, hoặc được hào khác vượng tướng, đều là tượng con cháu thịnh vượng.

PHÂN TÍCH:
Hào Thế Tuất Thổ, do xem vào mùa xuân nên hưu tù (mùa xuân Thổ tử), lại động hóa thành Tử Tôn Ngọ Hỏa. quay đầu sinh Thế (Hỏa sinh Thổ). Cát
Ngày, tháng và hào Thế hợp thành Tam hợp (Dần Ngọ Tuất hợp thành Hỏa cục). Cát
Thanh Long tại hào Thủy (Tý Thủy) tạo thành thế Thanh Long hý thủy, Thủy hóa Thân Kim là hóa trường sinh (Thủy trường sinh ở Thân), nguồn nước dồi dào. Cát
Thân Kim gặp nguyệt phá (Dần Thân tương xung), Tuất Thổ khắc Tý Thủy (ngũ hành xung khắc), lại bị nhật thần xung tán (Tý Ngọ tương xung), xuân hạ có nước, đến thu đông sẽ khô. Hung
LỞI BÌNH:
Do ngày, tháng và Tử Tôn hợp thành Tam hợp, nên người chết được yên, người sống được an lạc, con cháu phát đạt, nên không phải lo lắng. Sau quả nhiên an táng ở mộ đấy. Năm Thìn chôn cất, năm Dậu cháu trai đỗ á khoa. Đến năm Tý, cháu trai thứ lại đỗ thi hương.

Quẻ thông thường

Xung là tán, thường không tốt

Biến hợp thường tốt lành

Xung là tán; Dụng thần có vượng tướng, nếu có tốt cũng giảm tốt nhiều, lại chẳng được bền lâu là điều chắc chắn

Chủ về trên dưới bất hòa, người thân trở mặt, mang lòng gian sảo, việc cực khó thành. Nếu Dụng thần vượng tướng cũng chỉ tốt tạm thời (nếu có), còn nếu thêm Dụng thần bị khắc > Đại hung
Thương xem về việc kiện tụng gặp được thì tốt, nhưng cũng cần xem Dụng thần và việc lớn nhỏ. Tuy nhiên, cũng vẫn xem là tiêu tán ít nhiều hoặc hoàn toàn

Với các dạng hợp, nếu Dụng thần vượng sẽ tốt, duy chỉ có trường hợp quẻ Lục xung biến thành Lục hợp là không cần xem Dụng thần cũng xem có thể đoán là tốt; Tượng trước bĩ (Nếu tốt thì giảm Cát tường), sau Thái (TSBD-97).

Xem về hôn nhân, trước là cách trở, sau lại nên duyên. Xem về vợ chồng, trước là chia lìa, sau lại hoà hảo. Xem về công danh, trước gian nan, sau được vinh hiển. Xem về mưu kế, trước khó khăn, sau sẽ dễ dàng. Xem về vận mệnh, trước khốn khó sau được hưởng thụ. Xem về phong thuỷ, sẽ tìm được đất tốt. Xem về gia trạch, trước nghèo khổ sau phát đạt. Từng có người vợ bị cướp bắt, sau vẫn được đoàn tụ. Có người ruộng vườn bán hết, sau vẫn được lấy về.

Hợp thường là tốt, trừ việc kiện tụng thị phi

Trước thân sau sơ; Hợp sau tan ....
Chỉ xem về kiện tụng, trộm cướp, kết thúc, đoạn tuyệt thì tốt

Các hào trong quẻ được Lục hợp đã là điềm tốt. Nhưng hào động mà lại biến ra quẻ Lục hợp, được gọi là thuỷ chung tương hợp.

Xem về phong thuỷ, sẽ hiển đạt trăm năm; Xem về gia trạch, sẽ vững nghiệp muôn đời; Xem về hôn nhân, sẽ chung sống đến bạc đầu; Xem về bạn làm ăn, tất cả đều trung thành tận tuỵ; Xem về công danh, đường mây rộng mở; Xem về tiền tài, chất ngất bằng non; Xem về an hem, sẽ đời đời chung sống; Xem về học tập, sẽ thành tựu liên tiếp; Xem về tu luyện, sẽ thành công nhanh chóng; Nếu được thêm Dụng thần vượng khí, lại gặp nguyệt kiến, nhật thần, là đã tốt lại càng thêm tốt.

Duy chỉ có xem về kiện tụng là bất lợi, chủ về thù oán khó giải. Hoặc xem về chuyện ngờ vực, quái đản, sẽ không được toại nguyện; Xem về thai ngén, gặp quẻ này sẽ được an lành. Xem về sinh sản, gặp quẻ này sẽ khó sinh; Lại nếu như Dụng thần bị khắc, càng là điểm hung hại.

Ta và người tâm đầu ý hợp

Hai bên Tâm đầu ý hợp, bền lâu

Hai bên không có duyên. Không lên gượng ép, nếu có tương tác thì mình bị thiệt hại nhiều hơn

Đa phần là tốt đẹp

Tùy việc, nếu xem việc bình thường thì tốt đẹp, trừ xem về việc oán kết, tù tội cần hóa giải thì xấu

Ta và người đồng thời vừa vừa khắc, vừa hợp, cần cảnh giác, lên chịu thiệt

Thần hé lộ Thiên cơ ở Hào động

Xem về việc tốt thì là đại họa

Sinh Ít Khắc Nhiều - Xấu nhiều Tốt Ít

Sinh ít, Xung Khắc nhiều Lên Là Kị

Nhật Nguyệt khắc phá, Nguyên thần có lực cũng khó sinh(TSBD-67)

Quẻ gốc không có Hào Dụng thần, Quẻ biến dù có nhiều Hào Dụng cũng không thể sinh cho Hào Quẻ gốc cũng. Hung vẫn là Hung (TSBD-465)

Nguyệt sinh Hào Thế

Nguyệt sinh Dụng Thần

Nguyệt sinh Kị Thần

Nguyệt sinh Cừu Thần

Nguyệt sinh Hỷ Thần

Nguyệt sinh Hào Biến

Nguyệt Khắc Hào Thế

Nguyệt Khắc Hào Dụng

Nguyệt Khắc Hào Dụng Thần Trì Thế

Nguyệt Khắc Hào Động Là Kị Thần

Nguyệt Khắc Hào Động Là Hỷ Thần

Nguyệt Khắc Hào Biến

Nguyệt Xung Hào Thế

Nguyệt Xung Hào Dụng Thần

Nguyệt Xung Hào Dụng Thần Trì Thế

Nguyệt Xung Hào Tĩnh Là Hỷ Thần

Nguyệt Xung Hào Tĩnh Là Kị Thần

Nguyệt Xung Hào động

Nguyệt Xung Hào Biến

Nguyệt Hợp Hào Dụng Thần

Nguyệt Hợp Hào Biến

Nguyệt Hợp Hào Thế

Nguyệt Hợp Hào Kị Thần

Hào Biến Hồi Đầu Sinh Hào Động

Hào Tĩnh Vượng Khắc Hào Dụng

Hào Dụng vượng khắc hào Thế

Hào Tĩnh Vượng Khắc Hào Thế

Hào Ám Động Khắc Hào Dụng

Hào Ám Động Khắc Hào Thế

Hào Động Khắc Hào Dụng

Hào Động Khắc Hào Thế

Hào Động Khắc Hào Dụng Trì Thế

Hào Vượng Xung Hào

Hào Vượng Xung Hào Dụng Thần

Hào Vượng Xung Hào Thế

Hào Động Hào Biến Tương Xung

Gọi là hóa phù - Nghĩa là được người khác phù trợ;
Tất cả mọi việc xem đều ưa gặp được Lục hợp, Tam hợp, gặp được thì mọi sự đều được lâu dài, có thủy có chung; Thế nhưng xem việc tốt mới lên gặp Hợp, việc xấu không lên, vì sẽ chuốc lấy tai họa;(TSBD, 97)
Điều kiện: Dụng thần phải có Khí mới tốt, nếu thất hãm cũng là vô ích

Tất cả mọi việc xem đều ưa gặp được Lục hợp, Tam hợp, gặp được thì mọi sự đều được lâu dài, có thủy có chung; Thế nhưng xem việc tốt mới lên gặp Hợp, việc xấu không lên, vì sẽ chuốc lấy tai họa (TSBD, 97)
Điều kiện: Dụng thần phải có Khí mới tốt, nếu thất hãm cũng là vô ích
+ ĐK Hợp: Các trường hợp trong hợp khắc (Tý hợp sửu ...) thì chỉ xem là Hợp nếu bên khắc chế không được trợ giúp hoặc còn bị khắc chế bớt đi. Ngược lại thì chỉ coi là khắc, không xem là Hợp.

Tất cả mọi việc xem đều ưa gặp được Lục hợp, Tam hợp, gặp được thì mọi sự đều được lâu dài, có thủy có chung; Thế nhưng xem việc tốt mới lên gặp Hợp, việc xấu không lên, vì sẽ chuốc lấy tai họa;(TSBD, 97)
Điều kiện: Dụng thần phải có Khí mới tốt, nếu thất hãm cũng là vô ích

Hào tĩnh gặp hợp là Hợp khởi, hợp với Nhật, Nguyệt, Hào động sẽ được phát khởi, cho dù hưu tù cũng trở lên vượng tướng;
Hào động gặp hợp là hợp Bạn; Hào động hợp Nhật, Nguyệt, Hào động sẽ bị ràng buộc, lên không thể Động được nữa
Hào động nếu hợp với Hào động, tức có người khác đến tương hợp với ta, sẽ trợ giúp ta;
Tất cả mọi việc xem đều ưa gặp được Lục hợp, Tam hợp, gặp được thì mọi sự đều được lâu dài, có thủy có chung; Thế nhưng xem việc tốt mới lên gặp Hợp, việc xấu không lên, vì sẽ chuốc lấy tai họa;(TSBD, 97)
Trong Quẻ có 2 Hào cùng động mới xem là Hợp; Một Hào động và một Hào tĩnh thì không xem là Hợp
Điều kiện: Dụng thần phải có Khí mới tốt, nếu thất hãm cũng là vô ích

1- Trong 01 quẻ có 2 Hào động và 01 Hào ám động hoặc có 03 Hào động đều coi là hợp cục thành;
2- Trong 01 quẻ có 2 Hào động (Hoặc 01 động, 01 ám động) và 01 Hào tĩnh, cần chờ đến ngày, tháng bổ xung (Điền thực, Xung động, gặp hợp) Hào không động thì mới là thời điểm hợp cục thành
3- Quẻ nội: Hào 1 và 3 động, lại hợp với Hào biến > Tạo thành hợp cục
4- Quẻ ngoại: Hào 4 và 6 động, lại hợp với Hào biến > Tạo thành hợp cục
* Trong tam hợp cục: 01 Hào gặp không, phá phải đợi đến ngày, tháng điền thực mới thành cục; Nếu nhập Mộ cần chờ Xung khai
* Nhật thần, Nguyệt kiến nếu được một thứ trong cục > Cục vượng, Cát càng thêm Cát tường như ý;
* Hào Thế phải ở trong cục mới tốt, nếu Hào Thế ở ngoài cục, thì cần cục tương sinh Hào Thế thì mới tốt được;
* Lưu ý xem tình trạng mình - Người: Quẻ nội là mình, quẻ ngoại là khách, nếu Ngoại hợp cục mà sinh Nội thì tốt, Khắc nội thì hung hiểm

Tất cả mọi việc xem đều ưa gặp được Lục hợp, Tam hợp, gặp được thì mọi sự đều được lâu dài, có thủy có chung; Thế nhưng xem việc tốt mới lên gặp Hợp, việc xấu không lên, vì sẽ chuốc lấy tai họa;(TSBD, 97)

Hào Hợp Hào

+ Dậu Kim phát động, tuy là hưu tù, chứ động cũng khắc được Mão Mộc vượng tướng, Mão Mộc đương lệnh, có thể khắc Sửu Thổ, Mùi Thổ. Nay Mộc đã bị Kim Thương cũng khó mà khắc Thổ. Kỳ dư cứ vậy mà suy. Tịnh cũng như người ngồi, người nằm; động cũng như đi, như chạy (Nguồn TSBD-76)

Hào Vượng Động Biến Hồi Đầu Khác Cũng Phải Suy

Hào động bị Nhật Nguyệt Xung vẫn sinh khắc xung hợp