4.8 KIẾP TÀI
Chức năng: Đối địch của tài. Nhật can vượng nói chung là hung thần.
Năng lực: Giúp thân, phù trợ quan sát, hóa xì hơi, đoạt cướp tài. Nhật nhược, có tỉ kiếp=Cát, hoá sì hơi quan sát, Nhờ Tỷ kiếp đoạt được tài-Không đói.
Đại biểu: Tay chân cấp dưới, bạn bè , đồng nghiệp, cùng phe phái, tranh lợi đoạt tài, khắc vợ khắc cha, v.v.. Nữ-Tình chị em, Nam-Tình anh em.
Tâm tính: Chắc chắn, cương nghị, mạo hiểm, dũng cảm, có chí tiến thủ, nhưng dễ cô độc, ít hoà nhập, thậm chí cô lập, đơn côi.
Đại biểu: Cho tay chân cấp dưới, bạn bè, v.v...Còn đại biểu cho hao tổn tài, bị đoạt tài, bị đoạt vợ, khắc cha, tranh giành quyền lợi, lang thang. Nữ-Tình anh em, nam-Chị em.
Tâm tính: Nhiệt thành, thẳng thắn, ý chí kiên nhẫn, phấn đấu bất khuất, nhưng dễ thiên về mù quáng, thiếu lý trí, thậm chí manh động, liều lĩnh.
Kiếp: Tài là mã, kiếp là khắc tài, gọi là đuổi thần mã, hoặc bại tài > gọi tắt là kiếp.
Kiếp nhiều-Nam: thì khắc vợ, cướp thê tài, vợ nhiều bệnh;
Kiếp nhiều-Nữ: Mất chồng, tranh chồng hoặc hao tổn tài, khó có của, anh em không hòa thuận, chuốc lấy sự phản bội, sự phỉ báng. Tính tình sống sượng, ngoan cố, không phân biệt phải trái, thường chuốc lấy sự căm ghét đối địch.
Can chi Tỷ kiếp: Khắc cha, hôn phối. Kiếp+Thiên tài cùng 1 trụ không có lợi cho Cha, tái hôn.
Hỷ tài bị Kiếp: Chủ về con cái phần nhiều ngỗ ngược hoặc con cái dễ gặp tai ách.
Vượng suy: Giống ngang vai.
Ở Năm: Là có anh em trai, người hám tài, coi nhẹ nghĩa khí, hôn nhân rễ thay đổi, có cấp dưới khác bụng.
Ở Tháng: Khó có của, ham cờ bạc, đầu cơ, tính tự cao, ham trang điểm bề ngoài hay bất bình hay mắng người.
Ở Ngày: Hôn nhân chậm, hôn nhân hay thay đổi hoặc tái hôn, nam đoạt thê tài.
Ở Giờ : Đường con cái khó khăn, thường hay bị thương quan, tổn hại con cái
KIẾP TÀI:
Kiếp tài và nhật chủ có thuộc tính âm dương tương phản, là khế hợp bổ sung. Trong quan hệ giao tiếp thường khôn khéo, mềm dẻo, vui vẻ giúp đỡ, nhân duyên tốt, trọng tình nghĩa, động tĩnh đều hợp, vì danh lợi không tiếc cả tính mạng bản
thân. Có thể quan tâm đến suy nghĩ và lập trường của người khác, hy vọng mọi người đều được hưởng niềm vui. Có tinh thần hợp tác và khả năng kêu gọi, năng lực ngoại giao tốt. “Ở nhà dựa vào cha mẹ, ra ngoài dựa vào bạn bè”, thích sỹ diện,
bạn bè nhiều, nhiệt tình nhưng không ngạo mạn, không khiến người khác khó chịu, do đó dễ thu hút người bên cạnh. Tuy nhiên, họ thường do dự không quyết đoán, nội tâm mâu thuẫn. Họ không thích đơn độc làm việc không có sự trợ giúp hỗ trợ
người khác. Cũng giống như thập thần Chính tài, Thiên tài, Kiếp tài đều dễ bị mê hoặc bởi tiền bạc, luôn tìm thấy niềm vui trong sự hưởng thụ. Kiếp tài không qua khỏi cửa ải của chữ “lợi”, muốn có được sự giúp đỡ của họ tốt nhất dùng lợi ích trao
đổi. Kiếp tài không có quan niệm quản lý tài chính tốt, khi hết tiền mới nhận ra tất vận cả những gì làm cho bạn bè đều không được ghi nhận, báo đáp. Nhưng họ không Cải chỉ “bị người cướp tiền tài” mà còn “cướp tiền tài của người”. Người trong tứ trụ có
vận Kiếp tài tình cảm thường gặp nhiều trắc trở, đầu tư không đúng chỗ mà cuối cùng thành trắng tay. Họ nên nhận thức được rằng: Có đầu óc đầu tư mới có thể làm giàu.
Nếu Tỷ kiên và Kiếp tài đồng thời xuất hiện thường mệnh chủ không thích biểu đạt ý nguyện trong tâm, không tin vào mình, thường thay đổi quyết định. Không nên mượn tiền của người khác, cũng không nên hợp tác, nếu không khó tránh bị lừa
gạt. Bề ngoài lạc quan nhưng nội tâm nghĩ không thông. Khi ý niệm mới xuất hiện dễ làm việc theo trực giác, cả đời bị tình cảm chi phối do đó thân tâm khó được yên ổn. Suy nghĩ không chuyên nhất, dễ phân tâm, thường nghĩ đến điều không tốt, dễ
cạnh tranh, tranh chấp tiền tài với bạn bè,
Độc lập tác chiến, có năng lực ngoại giao, giỏi tạo ra không khí trong những cuộc gặp gỡ, biết điều khiển cục thế, được sự yêu mến của người khác. Tâm tư nhanh nhạy, linh hoạt biến thông. Có khả năng ứng biến đặc biệt, đồng thời lại có năng lực
hành động, mưu sự tích cực, dũng cảm tiến về trước, mạo hiểm, ý chí hiên bất chấp sinh tử, cũng có tâm nghĩ cho người khác. Nhưng do tính cách mâu thuẫn nên thể hiện bên ngoài và nội tâm thường có xung đột, trong ngoài không đồng nhất. Do đó, khó kết giao bạn tốt.
THUỘC TÍNH CỦA KIẾP TÀI
1, Ưu điểm
Độc lập tác chiến, có năng lực ngoại giao, giỏi tạo ra không khí trong những cuộc gặp gỡ, biết điều khiển cục thể, được sự yêu mến của người khác. Tâm tư nhanh nhạy, lình hoạt biển thông. Có khả năng ứng biến đặc biệt, đồng thời lại có năng lực
hành động, mưu sự tích cực, dũng cảm tiến về trước, mạo hiểm, ý chí hiên bất chấp sinh tử, cũng có tâm nghĩ cho người khác. Nhưng do tính cách mâu thuẫn nên thể hiện bên ngoài và nội tâm thường có xung đột, trong ngoài không đồng nhất. Do đó, khó kết giao bạn tốt.
2. Nhược điểm
Nội tâm thường mâu thuẫn, tự xung đột, dẫn đến tính tình thất thường, khó để nằm bắt. Có khi làm lợi cho người khác, cũng có khi đố kỵ với thành tựu của họ, dã tàm quá lớn, nhiều tham vọng, không suy nghĩ thấu đáo mà vội vàng hành động.
dẫn đến thất bại. Có khi lại bất chấp tất cả, một minh chiến đấu dẫn đến kết cục không thể cứu vãn. Không giỏi quản lý tiền bạc, khảng khái với bạn bè. Do đó dễ vì anh em hoặc bạn bè mà thiếu sự quan tâm vợ (chồng). Đối với nữ giới bên ngoài
quan tâm chiều chuộng nhưng với vợ thì lạnh nhạt. Mệnh nam có Kiếp tài quá nặng dễ thất tình, bạn gái dễ có người tranh đoạt. Trước khi làm việc tốt nhất không nói trước, nếu không khó thành công, không có cảm giác an toàn đối với vợ. Mệnh nữ
có Kiếp tài quá nặng dễ làm vợ lẽ, thường gặp trắc trở trong tình cảm.
3. Tại niên trụ
Tuổi nhỏ tiêu nhiều tiền hoặc tiền tài cả đời bị cha mẹ, bề trên tiêu tán. Khi nhỏ trong nhà nhiều biến cố, dễ phát sinh mâu thuẫn với người khác giới. Giỏi kết bạn,
cha mẹ là nỗi day dứt lớn nhất trong lòng họ. Khi sinh ra là thời điểm gia đình túng quẫn nhất, từ nhỏ đã hiểu chuyện, biết thông cảm.
4. Tại nguyệt trụ
Coi trọng bạn bè, thứ đến mới đến vợ (chồng). Thường bị vợ (chồng) oán trách, dễ bị bạn bè chia rẽ tình cảm. Cuộc sống khi còn trẻ vất vả, vì bạn bè, anh chị em mà mất tiền tài. Dù vậy, không hề nhận được sự giúp đỡ khi mình gặp khó khăn. Có
tiền nhiều anh em, không có tiền chẳng có ai bên cạnh chia sẻ.
5. Tại nhật trụ:
Vợ (chồng) dễ phá bại tiền tài, thường có rắc rối về tình cảm.
6. Tại thời trụ:
Về già sinh bệnh, dù uống thuốc cũng không mang lại hiệu quả. Không thích sống cùng con cái. Sự nghiệp bị đối tác gây cản trở, con cái ngỗ nghịch phá tài cuối
đời tình hình tài chính không tốt, tiền cho vay không đòi được, càng già càng tự tì, phần lớn không sống cùng con.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT:
Tỷ Kiên - Kiếp Tài
Tỷ Kiếp vừa phải |
Tỷ Kiếp quá mạnh |
Tỷ Kiếp quá yếu |
Quan niệm sòng phẳng, nhận ân tình nhất định sẽ tìm cách báo đáp. |
Tâm tính có thể diễn biến thành " hà khắc, ít tình cảm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " không biết tiết chế" |
Thích cạnh tranh không muốn thua kém người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành " hay đố kỵ". |
Tâm tính có thể diễn biến thành" hời hợt". |
Kiến trì với kiến giải và năng lực của bản thân, không lung lay. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ngoan cố, không thay đổi" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" dịch chuyển bất định" |
Lòng tự tôn không chấp nhận sự phê bình hay công kích của người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cô lập, lạnh lùng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự ti" . |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP
Tỷ kiếp - Kiếp tài
Đặc điểm cơ bản |
Tỷ kiên là lực lượng hỗ trợ cùng tính chất, có thể phản ánh tính cách chính diện của nhật can. Tỉnh cách này thường biểu hiện ra bên ngoài hoặc trong lời nói và hành. động. Kiếp tài là lực lượng hỗ trợ khác tính chất, có thể phản ánh tính cách phản diện của nhật can. Tính cách này thường biểu hiện sâu kín trong thế giới nội tâm. |
Khuynh hướng ý thức |
Tỷ kiên hỗ trợ bình đẳng với nhật can, phản ánh trạng thái chủ động tham gia vào công việc bên ngoài của nhật can.
Kiếp tài có thể phản ánh trạng thái bị động tham gia công việc bên ngoài của nhật can.
|
Trạng thái cân bằng |
Tâm tính chung của Tỷ Kiếp là quan niệm bình đẳng nồng hậu, tính cạnh tranh mạnh mẽ, ý thức tự chủ rõ nét, lòng tự tôn mãnh liệt. Lực lượng của cả hai mạnh tương đương, tích cực tham gia công việc bên ngoài, cũng có thế giới nội tâm phong phú, không thiên vị, ít xảy ra hậu quả nghiêm trọng. |
So sánh 1 |
Tỷ kiên có thể phản ánh chức năng sinh lý. Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, thường coi trọng biểu hiện hành vi. Kiếp tài có thể phán ánh chức năng sinh lý. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên nhiều, thường coi trọng suy nghĩ, tư duy. |
So sánh 2 |
Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, thích mối quan hệ liên quan đến sự nghiệp của mình hoặc hành vi gần giống mình, có thể cùng hợp tác. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên, thích kết giao bạn bè có sự nghiệp không liên quan với mình nhưng có sự đồng cảm với cuộc sống riêng. |
So sánh 3 |
Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, phần lớn thường thể hiện qua hành động thực tế. Tỷ kiên mạnh dễ hòa đồng nhưng khó chia sẻ. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên, phần lớn thể hiện bằng tâm lý, suy nghĩ. Kiếp tài mạnh dễ trao đổi tâm tư nhưng không dễ hòa đồng. |
Xem đầy đủ kiến thức về Kiếp Tài: Xem tại đây
4.7 NGANG VAI
Chức năng: Đối địch của tài. Nhật vượng nói chung là hung thần.
Năng lực: Giúp thân, phù trợ quan sát, hóa xì hơi, đoạt cướp tài. Nhật nhược-Tỉ kiếp giúp Thân, xì hơi quan sát. Nhật nhược nhờ Tỷ Kiếp đoạt được Tài-Không đói.
Đại biểu: Tay chân cấp dưới, bạn bè, đồng nghiệp, cùng phe phái, tranh lợi đoạt tài, khắc vợ khắc cha, v.v.. Nữ-Tình chị em, Nam-Tình anh em.
Tâm tính: Chắc chắn, cương nghị, mạo hiểm, dũng cảm, có chí tiến thủ, nhưng dễ cô độc, ít hoà nhập, thậm chí cô lập, đơn côi.
Tâm tính: Nhiệt thành, thẳng thắn, ý chí kiên nhẫn, phấn đấu bất khuất, nhưng dễ thiên về mù quáng, thiếu lý trí, thậm chí manh động, liều lĩnh.
Nhiều ít: Nhiều, không có chế ngự = Tay chân, cấp dưới hoà thuận, hoặc kết hôn muộn, tính tình thô bạo, không hòa hợp với cộng đồng, cứng nhắc, cố chấp, khắc cha, khắc phối hôn, làm nhiều mà không gặp của, tính tình nhiều đố kỵ.
Vượng-Nhược: Thân nhược mừng gặp để trợ giúp thân. Tài quan nhiều nhờ ngang vai giúp cho Thân để khỏi mất của. Thân vượng, có ngang vai, mừng gặp được quan sát, thực thương, tài tinh để giảm bớt sự hao tán, xì hơi, không có quan tinh thì ít con cái.
Vượng: Anh chị em nhiều, hiếu thắng, không cúi đầu trước cấp trên, không lợi cho hôn nhân, cho cha.
Tử, mộ, tuyệt: Tuy có anh em nhưng sớm sống xa nhau.
Ở Năm: Có anh chị em hoặc là con nuôi, có hướng sống độc lập, nhà nghèo, vất vả từ bé.
Ở Tháng: Có anh chị em hoặc là con nuôi, có xu hướng sống độc lập, muốn nắm của cải hoặc có tính lí tài.
Ở Ngày: Hôn nhân dễ thay đổi, hôn nhân muộn hoặc tái hôn, khắc hôn phối, hay cãi cọ lắm lời. Gặp xung, không lợi cho vợ-chồng, không lợi cho đi xa, dễ chết nơi đất khách.
Ở Giờ: Là con nuôi, ít con cái .
TỶ KIÊN:
Có Ngũ hành tương đồng với mình, do đó lực lượng của nhật chủ tăng gấp đôi Mọi việc lấy mình làm trung tâm, yêu cầu quá cao đối với bản thân, ý chí mạnh mẽ tay trắng lập nghiệp. Lấn át, cao ngạo, tự phụ, không thích giao tiếp, thích một mình xông pha, phấn đấu để có được địa vị. Từ nhỏ họ đã so sánh với người khác về chiều cao, tướng mạo, so sánh với bạn nam, bạn nữ, so sánh điểm xuất phát Thích tìm đối thủ trong tập thể, dùng thực lực đánh bại đối thủ, đặc biệt nhạy cảm là với thắng thua. Từ nhỏ đã có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ. Trong bất kỳ hoàn
cảnh nào đều nghĩ cách đứng đầu “thắng thì tiếp tục duy trì, thua có thể sau này sẽ đuổi kịp bạn”. Nhưng nếu bại trận, họ dễ có tư tưởng chán chường tiêu cực. Dễ bị lôi kéo, bạn bè khắp thiên hạ nhưng tri kỉ không mấy người vì họ đặc biệt cẩn trọng đề phòng khi kết bạn. Không quan tâm cảm nhận của người khác, biết bản thân muốn gì, mục tiêu ở đâu, chuyên tâm vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích. Quang minh chính đại, công bằng cạnh tranh. Họ dũng cảm xông pha trên đường gặp nhiều đối thủ. Trong hoàn cảnh bị kẻ địch bao vây. Họ sẽ hiện ngang
chống trả hoặc giữ thế thủ, hòa hoãn. Trong môi trường an nhân, họ có thể là người mạnh nhất nhưng cũng dễ có tư tưởng hạn chế “ếch ngồi đáy giếng”.
Một hình xông pha, trên đường gặp nhiều đối thủ, Trong hoàn cảnh bị địch mạnh bao vây, họ sẽ hiện ngang chống trả hoặc giữ thế thủ hòa hoãn. Trong hoàn cảnh an nhàn, họ có thể là người mạnh nhất nhưng muốn thuyết phục kiểu người này cần phải có bản lĩnh lớn hơn họ.
THUỘC TÍNH CỦA TỶ KIÊN
1. Ưu điểm:
Có lòng tự tôn, tự tin mãnh mẽ, biết lượng sức minh, không tham lam, kiên trì, quyết đoán, không sợ hãi, độc lập tự chủ, ý chí kiên định. Có thể kiến tri đến cùng, không dễ củi đầu, nỗ lực vươn lên.
2. Khuyết điểm:
Nhật chủ vượng lại gặp Tỷ kiên quá vượng là kỵ thần mệnh chủ ngoan có bảo thủ, tự phụ, không dễ trao đổi, không nghĩ cho người khác, thiếu bao dung, không dễ tán thành. Bề ngoài nhu thuận mà nội tâm cương cường, không biết quan tâm, không dễ nhận được sự giúp đỡ từ bên ngoài. Bề ngoài khen ngợi người khác nhưng trong lòng không phục, không dễ được cấp trên đề bạt, cũng không tin tưởng người khác. Độc lập cô độc, tính toán cạnh tranh, dễ thất tình, hiếu thắng không chịu thua, giỏi giao tiếp, cá tính độc lập, không thích kết bạn.
3. Tại niên trụ:
Khi nhỏ tiêu nhiều tiền hoặc sau khi trưởng thành tiền tài tiêu tốn rất nhiều cho bề trên. Khi nhỏ ham chơi không thích đọc sách, thích kết bạn, có tiền cùng hưởng. Từ nhỏ thiếu quyết đoán, ngoan ngoãn hiểu chuyện, gánh vác trách nhiệm cùng gia đình.
4. Tại nguyệt trụ:
Coi trọng bạn bè, thứ đến mới đến vợ (chồng), người thân. Vì vậy thường bị vợ (chồng) oán trách, anh, chị em không giúp đỡ, phải dựa vào chính mình. Có tiền thì nhiều bạn bè anh em tối ngày, hết tiền thì một mình cô độc không ai hỏi han. Từ 16 - 32 tuổi gia đình khốn khó, sau khi kết hôn kinh tế kém. Không giỏi biểu đạt, tình cảm dễ bị lợi dụng, không lấy được người mình thích làm vợ (chồng).
5. Tại nhật trụ:
Vợ (chồng) coi trọng bạn bè, anh em, chị em hơn cả bản thân mình. Tỉnh cách của đối phương nhanh nhẹn mạnh mẽ, tư tưởng giống mình. Bản thân thường dựa vào người chín chắn, mạnh mẽ hơn mình.
6. Tại thời tru:
Khi già sinh nhiều bệnh tật, dù có thuốc thang cũng không chữa khỏi. Không thích sống cùng con cái, tiền tài tích lũy cả đời dễ bị tiêu tán. Không muốn dựa vào con cái, làm việc dễ thay đổi quyết định, đôi khi quá nuông chiều con cái,
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT:
Tỷ Kiên - Kiếp Tài
Tỷ Kiếp vừa phải |
Tỷ Kiếp quá mạnh |
Tỷ Kiếp quá yếu |
Quan niệm sòng phẳng, nhận ân tình nhất định sẽ tìm cách báo đáp. |
Tâm tính có thể diễn biến thành " hà khắc, ít tình cảm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " không biết tiết chế" |
Thích cạnh tranh không muốn thua kém người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành " hay đố kỵ". |
Tâm tính có thể diễn biến thành" hời hợt". |
Kiến trì với kiến giải và năng lực của bản thân, không lung lay. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ngoan cố, không thay đổi" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" dịch chuyển bất định" |
Lòng tự tôn không chấp nhận sự phê bình hay công kích của người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cô lập, lạnh lùng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự ti" . |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP
Tỷ kiếp - Kiếp tài
Đặc điểm cơ bản |
Tỷ kiên là lực lượng hỗ trợ cùng tính chất, có thể phản ánh tính cách chính diện của nhật can. Tỉnh cách này thường biểu hiện ra bên ngoài hoặc trong lời nói và hành. động. Kiếp tài là lực lượng hỗ trợ khác tính chất, có thể phản ánh tính cách phản diện của nhật can. Tính cách này thường biểu hiện sâu kín trong thế giới nội tâm. |
Khuynh hướng ý thức |
Tỷ kiên hỗ trợ bình đẳng với nhật can, phản ánh trạng thái chủ động tham gia vào công việc bên ngoài của nhật can.
Kiếp tài có thể phản ánh trạng thái bị động tham gia công việc bên ngoài của nhật can.
|
Trạng thái cân bằng |
Tâm tính chung của Tỷ Kiếp là quan niệm bình đẳng nồng hậu, tính cạnh tranh mạnh mẽ, ý thức tự chủ rõ nét, lòng tự tôn mãnh liệt. Lực lượng của cả hai mạnh tương đương, tích cực tham gia công việc bên ngoài, cũng có thế giới nội tâm phong phú, không thiên vị, ít xảy ra hậu quả nghiêm trọng. |
So sánh 1 |
Tỷ kiên có thể phản ánh chức năng sinh lý. Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, thường coi trọng biểu hiện hành vi. Kiếp tài có thể phán ánh chức năng sinh lý. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên nhiều, thường coi trọng suy nghĩ, tư duy. |
So sánh 2 |
Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, thích mối quan hệ liên quan đến sự nghiệp của mình hoặc hành vi gần giống mình, có thể cùng hợp tác. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên, thích kết giao bạn bè có sự nghiệp không liên quan với mình nhưng có sự đồng cảm với cuộc sống riêng. |
So sánh 3 |
Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, phần lớn thường thể hiện qua hành động thực tế. Tỷ kiên mạnh dễ hòa đồng nhưng khó chia sẻ. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên, phần lớn thể hiện bằng tâm lý, suy nghĩ. Kiếp tài mạnh dễ trao đổi tâm tư nhưng không dễ hòa đồng. |
Xem đầy đủ kiến thức về Tỷ Kiên: Xem tại đây
Tỷ Kiếp
Tỷ Kiếp có tính chất cạnh tranh, động lực, ý thức, hỗ trợ,
Kiếp là lực lượng “giống mình”, “tương đương mình”. Xét trên mối quan hệ xã hội, người có địa vị ngang bằng mình, độ tuổi tương đương, thân phận và điều kiện
tương đồng, chí hướng tương hợp hoặc ở các phương diện khác có quan hệ với mình giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi của Tỷ Kiếp. Do đó, người đại diện cho
Tỷ Kiếp là anh em, chị em, bạn bè, bạn học, đồng nghiệp, người đồng hành, đạo, đồng hương, đồng chí, đồng tộc, đồng bào. Tỷ kiên là lực lượng tương trợ cùng
tính chất với nhật can. Kiếp tài là lực lượng tương trợ khác tính chất với nhật can. Tỷ Kiếp tương đồng với mình, do đó có tính chất cạnh tranh, kích bác, không chịu
thua, hiếu thắng, kiên định. Nhiều toan tính đôi khi quá chú trọng ý kiến của người khác, dễ để tuột mất cơ hội tốt.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YẾU CỦA THẬP THẦN
Tỷ Kiên - Kiếp Tài
Tỷ Kiếp vừa phải |
Tỷ Kiếp quá mạnh |
Tỷ Kiếp quá yếu |
Quan niệm sòng phẳng, nhận ân tình nhất định sẽ tìm cách báo đáp. |
Tâm tính có thể diễn biến thành " hà khắc, ít tình cảm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " không biết tiết chế" |
Thích cạnh tranh không muốn thua kém người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành " hay đố kỵ". |
Tâm tính có thể diễn biến thành" hời hợt". |
Kiến trì với kiến giải và năng lực của bản thân, không lung lay. |
âm tính có thể diễn biến thành" ngoan cố, không thay đổi" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" dịch chuyển bất định" |
Lòng tự tôn không chấp nhận sự phê bình hay công kích của người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cô lập, lạnh lùng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự ti" . |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Tỷ kiếp - Kiếp tài
Đặc điểm cơ bản |
Tỷ kiên là lực lượng hỗ trợ cùng tính chất, có thể phản ánh tính cách chính diện của nhật can. Tỉnh cách này thường biểu hiện ra bên ngoài hoặc trong lời nói và hành. động. Kiếp tài là lực lượng hỗ trợ khác tính chất, có thể phản ánh tính cách phản diện của nhật can. Tính cách này thường biểu hiện sâu kín trong thế giới nội tâm.
|
Khuynh hướng ý thức |
Tỷ kiên hỗ trợ bình đẳng với nhật can, phản ánh trạng thái chủ động tham gia vào công việc bên ngoài của nhật can.
Kiếp tài có thể phản ánh trạng thái bị động tham gia công việc bên ngoài của nhật can.
|
Trạng thái cân bằng |
Tâm tính chung của Tỷ Kiếp là quan niệm bình đẳng nồng hậu, tính cạnh tranh mạnh mẽ, ý thức tự chủ rõ nét, lòng tự tôn mãnh liệt. Lực lượng của cả hai mạnh tương đương, tích cực tham gia công việc bên ngoài, cũng có thế giới nội tâm phong phú, không thiên vị, ít xảy ra hậu quả nghiêm trọng.
|
So sánh 1 |
Tỷ kiên có thể phản ánh chức năng sinh lý. Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, thường coi trọng biểu hiện hành vi. Kiếp tài có thể phán ánh chức năng sinh lý. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên nhiều, thường coi trọng suy nghĩ, tư duy. |
So sánh 2 |
Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, thích mối quan hệ liên quan đến sự nghiệp của mình hoặc hành vi gần giống mình, có thể cùng hợp tác. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên, thích kết giao bạn bè có sự nghiệp không liên quan với mình nhưng có sự đồng cảm với cuộc sống riêng.
|
So sánh 3 |
Tỷ kiên mạnh hơn Kiếp tài, phần lớn thường thể hiện qua hành động thực tế. Tỷ kiên mạnh dễ hòa đồng nhưng khó chia sẻ. Kiếp tài mạnh hơn Tỷ kiên, phần lớn thể hiện bằng tâm lý, suy nghĩ. Kiếp tài mạnh dễ trao đổi tâm tư nhưng không dễ hòa đồng. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 2 ): SINH TIẾT CỦA THẬP THẦN
Thực thương - Tỷ Kiếp
Phân tích |
Thực thương hóa tiết Tỷ kiếp, giống như con người từ thiên phú ban đầu phát triển thành tri thức và kỹ năng sống khác biệt với loài động vật thông thường. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh và tương đương, thiên về ý chí tiến thủ, tính tự tôn, quan niệm bình đẳng, ý thức tự chủ. Có đầy đủ cảm tính, tư tưởng, có khả năng tạo dựng mối quan hệ tốt và nắm bắt được cơ hội học tập. Cũng có thể vận dụng tri thức học tập bẩm sinh để hoàn thiện bản thân. Có nhân cách độc lập và hòa đồng. |
Trạng thái cực đoan |
Tỷ kiếp quá yếu, Thực thương quá mạnh. Khuyết điểm là không thể giữ bí mật lâu, suy nghĩ không thiết thực, lập trường dễ bị lung lay bởi hoàn cảnh bên ngoài. Muốn bay cao bay xa mà không thể tự lượng sức mình, nói nhiều làm ít, không thể làm việc chân tay vất vả. Khi gặp cơ hội thường không nắm bắt, suy nghĩ thay đổi, tự ti.
Tỷ kiếp quá mạnh, Thực thương quá yếu,. Khuyết điểm là thường đề cao bản thân, làm việc thường vì tình riêng, không tính đến hậu quả, thiếu tính thực tế, che dấu nội tâm, sinh lòng đố kỵ, ngoan cố, cô lập bản thân.
|
Trạng thái khác biệt |
Tỷ kiếp yếu, thực thương mạnh vận dụng chút thiên phú có thể tham gia nhiều hoạt động nhằm quảng bá hình ảnh bản thân.
Tỷ kiếp mạnh, Thực thương yếu, cần vận dụng nhiều thiên phú để đánh bóng mình hoặc tri thức kỹ năng chỉ có thể ứng dụng trên một phương diện.
|
Biện pháp hóa giải |
Tỷ kiên quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng ( tiết tú ) là dùng thương quan.
Kiếp tài quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng ( tiết tú ) là dùng Thực thần
Hai phương thức này đều có thể khống chế Tỷ kiếp cường vượng tích lũy quá lâu dẫn đến nhiều sự cố.
|
Tỷ kiếp - Ấn tinh
Phân tích |
Tỷ Kiếp hóa tiết Ấn tình giống như dùng danh tiếng, đạo đức nâng cao giá trị bản thân. Tỷ kiên có thể hóa tiết hết Chính ấn. Kiếp tài có thể hóa tiết hết Thiên ấn.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh tương đương, có tính kỷ luật, cảnh giác, phục tùng, tỉnh thần trách nhiệm, tuân thủ nguyên tắc. Có ý thức phục vụ, vinh dự, đồng lòng, tín nhiệm và quan niệm truyền thống thích hợp. Đồng thời có chí tiến thủ, tự tôn, ý thức tự chủ, quan niệm bình đẳng thích hợp, có lòng khoan dung và được lòng mọi người. Giỏi dùng danh tiếng, đạo đức để tôn vinh bản thân. Thiên tính theo đuổi luân lý xã hội và đạo đức cộng đồng được phát huy cao.
|
Trạng thái cực đoan |
Ấn tinh quá yếu, Tỷ Kiếp quá mạnh. Nội hàm của Ấn tinh bị Tỷ Kiếp phát huy hết. Khuyết điểm là dễ sa đà, hà khắc, thiếu tình cảm, đố kỵ, ngoan cố, cô lập, không tiếp thu ý kiến người khác, thích mới ghét cũ, tính toán chi li Ấn tinh quá mạnh, Tỷ Kiếp quá yếu. Nội hàm của Ấn tinh bị ứ tắc, khó phát huy hiệu quả. Khuyết điểm là quá tham cầu hư vinh, lười nhác dựa dẫm, cổ hủ, mềm lòng, tản mạn, không biết tiết chế, hay dịch chuyển, tự ti.
|
Trạng thái khác biệt |
Ấn tinh yếu, Tỷ Kiếp mạnh. Năng lượng nhỏ yếu của Ấn tinh chuyển hóa thành năng lượng lớn mạnh của Tỷ Kiếp, chỉ cần vận dụng chút danh tiếng có thể làm nhiều hoạt động từ thiện. Ấn tinh mạnh, Tỷ Kiếp yếu. Năng lượng lớn mạnh của Ấn tinh chuyển hóa thành năng lượng nhỏ yếu của Tỷ Kiếp, cần vận dụng nhiều danh tiếng để tham gia các hoạt động từ thiện.
|
Biện pháp hóa giải |
Chính ấn quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Tỷ kiên, Thiên ấn quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Kiếp tài. Hai phương thức này đều có thể khống chế Ấn tinh cường vượng, tích lũy quá lâu dẫn đến sự cố. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 3 ): KHẮC HAO CỦA THẬP THẦN
Tỷ kiếp - Tài tinh
Phân tích |
Tỷ Kiếp khắc Tài tình giống dùng tinh thần và sức lực để quản lý tiền tài, của cải. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh tương đương, có thể quản lý hợp lý tiền tài, của cải và điều tiết sự hưởng thụ, có lòng ham muốn chiếm hữu, xem trọng vật chất, đánh giá được giá trị của quan hệ. |
Trạng thái cực đoan |
Tỷ Kiếp quá mạnh, Tài tinh quá yếu. Tỷ Kiếp sẽ sinh ra lực phá hoại đối với Tài tinh. Thường vận dụng tiền tài vật chất và hưởng thụ thân tâm một cách chặt chẽ. Biết quản lý tài chính đơn thuần hoặc phân tách, vận dụng từng khoản tiền một cách hợp lý. Thường suy nghĩ “tích tiểu thành đại, cần kiệm làm giàu". Trong tuế vận thiếu Quan Sát để cân bằng sự cường vượng của Tỷ Kiếp, chủ về vì cái nhỏ mất cái lớn, bỏ lỡ tiền tài, gặp nhiều tổn thất.
Tỷ Kiếp quá yếu, Tài tinh quá mạnh. Tỷ Kiếp không thể cai quản Tài tinh. Thường ận dụng tiền tài và hưởng thụ tinh thần một cách thoải mái, biết quản lý tài chính phức tạp và đồng thời vận dụng nhiều khoản tiền mang tính tổng hợp. Thường suy nghĩ “t khó thành nhiều, tài mọn khó có thể thành công". Trong tuế vận thiếu Ấn tinh sinh phù Tỷ Kiếp, tiền tài hao tán, khó tích tụ. |
Trạng thái khác biệt |
Tỷ Kiếp yếu, Tài tinh mạnh. Quá tùy tiện chi tiêu vào một số việc không cần thiết, đầu tư tiền bạc thường vượt quá năng lực thực tế, dẫn đến mạo hiểm hoặc lãng phí. Tỷ Kiếp mạnh, Tài tinh yếu. Vì tiền bạc hoặc đầu tư ảnh hưởng tới tinh thần. |
Biện pháp hóa giải |
Chính tài quá vượng, phương thức khắc Tài lý tưởng là dùng Kiếp tài. Thiên tài quá vượng, phương thức khắc Tài lý tưởng là dùng Tỷ kiên. Hai phương thức này đều có thể khống chế Tài tinh cường vượng, phát huy tác dụng khá cao. |
Quan sát - Tỷ Kiếp
Phân tích |
Quan Sát khắc Tỷ Kiếp giống như dùng chức quyền, địa vị quy phạm hoặc chế ước lời nói và hành động của bản thân.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khi thế mạnh mà tương đương, quy phạm thích hợp với thân tâm và chế ước thích hợp với lời nói và hành động, có lòng tự tôn, cạnh tranh nghề nghiệp, ý thức tự chủ, quan niệm bình đẳng.
|
Trạng thái cực đoan |
Quan Sát quá mạnh, Tỷ Kiếp quá yếu. Quan Sát sinh ra lực phá hoại đối với Tỷ Kiếp, không thích tranh đấu, không thích liên quan đến cạnh tranh, không muốn biểu hiện chủ kiến của mình trong đoàn thể, cũng không dễ thích ứng quan hệ giao tiếp phức tạp trong thời gian dài. Cá tính ôn hòa, không quá tự tôn, nguyện chịu thiệt thời mà không muốn chuộc lợi. Hào sảng phóng khoáng, không chi ly. Trong đại vận, lưu niên thiếu Thực Thương cân bằng Quan Sát, chủ về người có lập trường lung lay, mềm yếu, sợ bị lừa gạt. Quan Sát quá yếu, Tỷ Kiếp quá mạnh. Quan Sát không thể quy phạm khống chế Tỷ Kiếp, chủ về người hiếu thắng, không dễ chịu thua cuộc, thích tham gia cạnh tranh mạnh, dễ biểu hiện chủ kiến riêng trong đoàn thể, dễ thích ứng quan hệ giao tiếp phức tạp trong thời gian dài. Lòng tự tôn mạnh, cá tính cương quyết, tuy hòa đồng nhưng không muốn để người khác quá chuộc lợi, ý thức so sánh mạnh mẽ, thích tính toán cho đi và nhận lại. Trong đại vận, lưu niên không có Tài tinh sinh phù Quan Sát, chủ về người ích kỷ tư lợi, ngoan cố. |
Trạng thái khắc biệt |
Quan Sát yếu, Tỷ Kiếp mạnh, quá quan trọng so sánh không cần thiết, hành động của cơ thể và tổn thất về tinh thần vượt quá năng lực thực tế, hình thành sự mạo hiểm và lãng phí thân tâm. Quan Sát mạnh, Tỷ Kiếp yếu, luôn luôn vì cạnh tranh thành bại nhỏ mà tiêu hao chức vị và quyền thế nhiều hơn người khác. |
Biện pháp hóa giải |
Tỷ kiên quá vượng, phương thức khắc Tỷ lý tưởng là dùng Thất sát Kiếp tài quá vượng, phương thức khắc Kiếp lý tưởng là dùng Chính quan. Hai phương thức này đều có thể khống chế được Tỷ Kiếp cường vượng, phát huy tác dụng khá cao. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 4 ): SỰ VIỆC, HÌNH TƯỢNG CỦA THẬP THẦN
Con đường thu hoạch lợi ích của Tỷ kiếp
Quan hệ lục thân |
Con đường thu hoạch lợi ích |
Ví dụ |
Quan sát khắc xuất Tỷ kiếp |
Dùng chức vị quyền thế để rèn luyện hoặc thỏa mãn |
Người có quyền hành thường đặt cho bản thân những mục tiêu để có thể đạt được, nhằm rèn luyện hoặc thỏa mãn ý chí bản thân
|
Ấn tinh sinh xuất Tỷ kiếp |
Dùng danh tiếng để rèn luyện hoặc thỏa mãn |
Dùng đạo đức luận thường tiết chế lời nói và hành động không thích đáng hoặc tham vọng vật chất quốc mức, như: Các giáo đồ dùng tín ngưỡng trung thành thanh tinh và thư thái thân tâm.
|
Tỷ kiếp sáng tỏ Tỷ kiếp |
Dùng thâm tâm vốn có để rèn luyện hoặc thỏa mãn |
Nhà vũ đạo hoặc vận động viên thường rèn luyện hết sức để thỏa mãn thân tâm, như: Luôn dùng công việc, lao động, tình ái, để đạt được rèn luyện, thỏa mãn về thân tâm.
|
Thực thương dẫn xuất Tỷ kiếp |
Dùng tri thức kỹ năng để rèn luyện hoặc thỏa mãn |
Dùng cầm kỳ, hưởng lạc về tinh thần, như: Người phụ nữ trong gia đình luôn theo đuổi nghệ thuật nấu ăn cắm hoa, nhà khoa học khai thác tri thức mới, cải tiến kỹ thuật mới, hưởng thụ niềm vui trong nghiên cứu, người vũ công nhảy múa đắm mình trong tiếng nhạc. |
Tài tinh dẫn xuất Tỷ KIẾP |
Dùng tiền bạc của cải để rèn luyện hoặc thỏa mãn |
Dùng tiền bạc để mua các trang thiết bị y tế hiện đại, phục vụ nhu cầu cuộc sống, như: Mọi người dùng tiền bạc để thỏa mãn ham muốn của miệng, mắt, tại mũi, xúc giác, tình dục |
I. DỰ ÐOÁN ANH CHỊ EM (1)
- Mệnh nam can ngày, can âm là anh em trai, can dương là chị em gái. Can ngày là dương, thì can dương là anh em trai, can âm là chị em gái.
- Mệnh nữ can ngày là âm, can âm là chị em gái, can dương là anh em trai, can ngày là dương : can dương là chị em gái, can âm là anh em trai.
- Lại còn có nam gặp ngang vai là anh em trai, kiếp tài là chị em gái : nữ gặp ngang vai là chị em gái, kiếp tài là anh em trai. Ngang vai nhiều là anh em nhiều, kiếp tài là chị em nhiều.
- Nay bàn về trong Tứ trụ có ngang vai, kiếp tài, lộc, kình dương .
- Tỉ kiếp gặp nhiều là anh chị em đông đúc.
- Tỉ kiếp nhiều mà sinh vượng là anh chị em nhiều, gặp suy là anh chị em ít. Tỉ kiếp đóng ở lộc hoặc gặp quý nhân là anh chị em giàu có đầy đủ ; tỉ kiếp gặp tướng tinh là anh chị em phú quý. Tỉ kiếp gặp thiên đức, nguyệt đức là anh chị em lương thiện, thật thà.
- Tỉ kiếp đóng ở trạch mã là anh chị em đi xa.
- Tỉ kiếp là dụng thần thì được sự giúp đỡ của anh em.
- Ngang vai gặp lộc là anh em có địa vị cao, gia đình hưng vượng.
- Tỉ kiếp đóng ở trường sinh là anh chị em khỏe mạnh, tuổi thọ cao.
- Thân vượng và có ấn là anh chị em nhiều.
- Trụ ngày yếu trụ, trụ tháng ấn vượng lan anh chị em nhiều
- Trụ ngày yếu, mà không có tỉ kiếp thì lấy ấn để tính số lượng anh em.
- Thân vượng tài yếu là anh chị em nhiều.
- Sát vượng ấn phục, ngang vai không có khí là em kính trọng anh , nhưng anh là người bất lực.
- Quan vương ấn nhược, tài tinh có khí là anh yêu em nhưng em bất lực.
- Trụ tháng gặp quan tinh là anh em quý trọng nhau.
- Tháng và ngày tương sinh cho nhau là anh em hoà thuận.
- Trụ tháng gặp trường sinh đế vượng là anh chị em rất đông.
- Ðối với sinh đôi, sinh vào ngày dương, giờ dương thì anh mạnh hơn em. Sinh ngày âm, giờ âm thì em mạnh hơn anh.
- Ðẻ sinh đôi, người mệnh dương sinh sau thì khó nuôi hoặc trước, người mệnh âm sinh trước thì khó nuôi hoặc chết trước.
- Thất sát mà vượng, tỉ kiếp nhiều thì anh em đông mà lại đồng tâm.
- Tuy sinh đôi nhưng người sinh giờ dương, ngày dương là anh mạnh hơn em, nếu sinh ngày âm, giờ âm thì em mới mạnh hơn anh được .
II. DỰ ÐOÁN ANH CHỊ EM (2)
- Trụ tháng có thương quan là anh em bị thương tổn.
- Trong Tứ trụ gặp quan sát nhiều là khắc anh chị em.
- Trong Tứ trụ gặp thìn tuất sửu mùi nhiều là anh em xa rời nhau, tình thân hờ hững.
- Trong Tứ trụ tài nhiều thì ấn bị chết, ngang vai nhiều thì anh em không thân nhau.
- Trụ năm gặp sát, trụ tháng gặp thương là anh em không hòa thuận.
- Mệnh gặp hoa cái là anh em ít.
- Lệnh tháng gặp xung là anh em mỗi người một phương.
- Quan nhược, thực, thương mạnh lại gặp tỷ kiếp là vì anh em mà liên luỵ.
- Tài nhược, tỉ kiếp vượng lại còn gặp ấn là anh em bất hòa.
- Lệnh tháng nắm quyền quan sát là tổn thất anh em nhiều. Trong Tứ trụ không có tỉ kiếp và ấn tinh là từ bé đã gặp vận tỉ kiếp, bản thân nhờ anh em họ hay bạn bè nuôi dưỡng lớn lên.
- Trụ ngày vượng, tỉ kiếp nhiều là anh em bất hoà hoặc gia đình chia lìa.
- Trong Tứ trụ có tỉ kiếp, kình dương là anh em bất hoà, thường hay cãi nhau.
- Tỉ kiếp bị xung khắc là anh em bất hoà hoặc nhiều bệnh tật.
- Tỉ kiếp xung khắc dụng thần là anh em gây liên luỵ cho mình.
- Tỉ kiếp rơi vào không vong là không có anh chị em.
- Tỉ kiếp làm kỵ thần là bị anh em làm hại.
- Tỉ kiếp đóng ở tang môn, điếu khách là khắc anh em.
- Tỉ kiếp đóng ở đào hoà là anh em phong lưu hiếu sắc.
- Tỉ kiếp nhiều lại không bị chế phục là cửa nhà ngầm bị tổn thương hoặc anh em vô tình với nhau.
- Nam gặp sát vượng tỉ kiếp là có anh , không có em trai ; thái quá, bất cập là cả anh và em đều không có.
4.10 THƯƠNG QUAN
Công năng: Thương gặp quan thì khắc, là hung thần, cần tuân thủ pháp luật nghiêm.
Năng lực: Áp chế Sát, Tổn thương Quan. Thân vượng, tài quan nhược > Xì hơi thân. Thân vượng-Tài nhược > Thần sinh tài. Thân nhược quan sát vượng thì thực thương đối địch với thất sát và làm tổn hại quan.
Đại biểu: Không lợi cho người nhà, cho chồng, bị mất chức, bỏ học, thôi học, mất quyền, mất ngôi, không trúng tuyển, không thi đỗ. Nữ - Tình con trai, Nam-Tình con gái.
Tâm tính: Thông minh, hoạt bát, tài hoa dồi dào, hiếu thắng, nhưng dễ tuỳ tiện, thiếu sự kiềm chế ràng buộc, thậm chí tự do vô chính phủ.
Thương Quan:
Khác với Thực thần, Thương quan không xem xét hay để tâm đến ý kiến của người khác. Họ thích phê phán, lời nói sắc sảo, không khách khí, thẳng thắn, không thích nói nhiều. Dễ nhận ra khuyết điểm và thiếu sót của người khác. Do đó trong mệnh của các nhà phê bình phần lớn có Thương quan. Hiếu thắng, tính công kích mạnh, lấn át, thích biểu hiện, khả năng biểu cảm phong phú, đa tài đa nghệ, lập dị, cá tính thoải mái, thích mới ghét cũ, mong muốn được tán đồng. Nếu nói Thực thần là người đứng trong cánh gà thì Thương quan chính là người đứng trước
sân khấu. Họ luôn muốn được thể hiện mình, hy vọng được chú ý, thích nổi trội, sợ người khác không biết sự tồn tại của mình. Họ rất nhanh trở thành tiêu điểm được chú ý. Tiếp thu nhanh, học một biết mười, phản xạ tốt, thích thử nghiệm
Thích biểu hiện, kiên trì quan điểm bản thân, thông minh, có tinh thần khai thác nghiên cứu, không thích bó buộc, thích tự do biến hóa. Địa vị cao hơn người khác thì hà khắc nghiêm túc. Địa vị thấp thường không tuân thủ nguyên tắc. Thực Thương là chỉ tài hoa phát tiết ra ngoài. Khi phát tiết, thường ngạo mạn tự kiêu, coi thường người khác. Thực thần chủ về trầm mặc, tinh thần chuyên nhất. Thương quan coi trọng phát huy, bác học giỏi giang nhưng không tập trung khi học.
3. Thuộc tính của Thương Quan
3.1 Ưu điểm
Đa tài đa nghệ, khả năng biểu đạt và lĩnh ngộ tốt, linh động nhanh nhạy, sáng kiến phong phủ, lý tưởng cao xa, sức sống dồi dào, coi trọng sự khẳng định của người khác với mình, có tham vọng vượt trội so với người khác. Năng lực học tập tốt phần lớn tướng mạo thanh tú, biểu cảm phong phú. Thích hợp theo nghiệp biểu diễn, mỹ thuật, ca hát, vũ đạo, quảng cáo, tin tức, người dẫn chương trình. Năng lực cảm thụ đối với nghệ thuật nhạy bén, cũng thích hợp ngành nghề tự do hoặc kỹ thuật đòi hỏi độ chính xác cao.
3.2 Nhược điểm
Hứng thủ rộng nhưng không tinh thâm, không biết lượng sức mình. Có thể ỷ vào tài năng mà kiêu ngạo, tự kiêu tự đại, tự làm theo ý mình, không thể tiếp nhận lời khuyên chân thành. Thích tự do coi thường pháp lệnh, không từ thủ đoạn để đạt được mục đích, có thể vì việc tư hại đến việc công, làm ảnh hưởng đến danh dự. Tử trụ có nhiều tài chủ về mệnh thì tham lam, thích xen vào việc người khác. Hiếu thắng, thích nổi trội, dùng tình cảm vào công việc, dễ cảm xúc hóa. Mệnh nam nên khắc chế tham vọng riêng, mệnh nữ nên tu tâm dưỡng tính. Thiên ấn, Thương quan cùng xuất hiện thường độc đoán, thiếu tự tin, không có định hướng rõ ràng, học nhiều không chuyên, dễ bị ảnh hưởng bởi sự vật bên ngoài. Mệnh nữ có Tỷ kiên, Thương quan quá nặng dễ đa sầu đa cảm.
3.3 Tại niên trụ
Không dễ trao đổi với người lớn, ít tình cảm với cha mẹ. Nhật chủ mạnh khi nhỏ bị thương, nhật chủ yếu khi nhỏ nhiều bệnh, gia đạo suy bại.
3.4 Tại nguyệt trụ
Thường không gần gũi với anh chị, tư tưởng kỳ dị, tính khí nóng vội, phản ứng nhanh nhạy, nhiều con, dễ đi đến cực đoan, không được trợ giúp của anh chị em, thường tự lập. Đường tình cảm của mệnh nữ không gặp thuận lợi.
3.5 Tại nhật trụ:
Quan hệ vợ chồng của mệnh nam dễ xảy ra nghi kỵ, trở ngại về tình cảm. Mối quan hệ vợ chồng của mệnh nữ không được thuận lợi, bản thân thường vất vả hơn chồng. Mệnh nam thường chuyên chủ vào công việc, không quan tâm tới vợ. Mệnh nữ thường coi thường chồng, dễ xảy ra biến động trong hôn nhân. Vợ chồng khó có thể đồng cảm.
3.6 Tại thời trụ
Nữ dễ sảy thai, nam không dễ có con. Nếu nhật can cường vượng, cuối đời không hòa hợp với con cái. Con cái thường làm nhiều điều trái ngược. Một khi có thanh danh sẽ ảnh hưởng xấu tới địa vị, gây tổn thương tới con cái. Về già chịu nhiều áp lực, sức khỏe suy kém.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YẾU CỦA THẬP THẦN
Thực thần - Thương quan
Thực thương vừa phải |
Thực thương quá mạnh |
Thực thương quá yếu |
Nhạy cảm, dễ có cảm hwunsg đặc biệt với sự vật có hứng thú |
Tâm tính có thể diễn biến thành " dùng tình cảm để xử lý vấn đề" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lạnh lùng, ít tình cảm" |
Tư duy rộng mở và sâu xa hơn người bình thường, có thể nghĩ ra mọi thứ người khác chưa từng nghĩ, tin điều con người không dám tin. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ảo tưởng hư vô" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " thiếu thực tế, tự khép mình" |
Ham muốn biểu hiện, muốn đem tri thức độc đáo hoặc kỹ năng thể hiện trước nhiều người. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ngạo mạn, tùy tiện" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ngu muội" |
Thích định hướng hoặc bản thân vào tình huống giả định đó. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" nhu mì" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ, thiếu hấp dẫn". |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Thực thần - Thương quan
Đặc điểm cơ bản |
Thực thần là lực lượng tiết khí cùng tính chất, là tiết khí vô tình. Lực tiết khí không hết, thường hấp thu kiến thức có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp, trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài. Thương quan là lực lượng tiết khí khác tính chất, là tiết khí có tinh. Lực tiết khí nhất định hết, thường hấp thu kiến thức có tính kích động, nhanh chóng, đại khái, nghĩa rộng, trạng thái động, nhiều biến hóa, cấp tốc, mới mẻ, ngắn.
|
Khuynh hướng ý thức |
Thực thần đều hiển thị khuynh hướng ý thức ôn hòa, chậm chạp, chi tiết. Thương quan thể hiện khuynh hướng ý thức kích động, nhanh chóng, đại khái.
|
Trạng thái cân bằng |
Lực lượng của cả hai mạnh và tương đương, động tĩnh vừa phải, có thể nhiều có thể ít, không những có tư tưởng bảo thủ mà còn có quan niệm mới, thường có thể duy trì phát huy ổn định cân bằng đối với học tập tri thức, kỹ năng.
|
So sánh 1 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về Khoa học xã hội, như: Ngữ văn, triết học, lịch sử, chính trị, pháp luật, kinh tế, quản trị doanh nghiệp. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về Khoa học tự nhiên, như: Vật lý, Hóa học, Y học, công trình, giao thông, cơ khí, nông nghiệp.
|
So sánh 2 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về sự tinh tế, nho nhã, như: Hội họa, âm nhạc, văn nghệ, cắm hoa, khâu vá, thiết kế, sách vở, bác sỹ nội khoa. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về kích động hoạt bát, như: Thể dục, vũ đạo, võ nghệ, ca hát, luật sư, bác sỹ ngoại khoa.
|
So sánh 3 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về thể hiện ý niệm tình thần. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về thể hiện hành vì thực tế, |
Xem đầy đủ kiến thức về Thương Quan : Xem tại đây
4.9 THỰC THẦN-Thọ Tinh:
Công năng: Thực gặp quan thì áp chế, thường là Cát thần. Thực thần+Sát = Chế Sát cho Thân yên ổn, không có tai hoạ = Cát.
Năng lực: Áp chế Sát, tổn thương quan. Thân vượng, tài quan nhược thì thương, thực xì hơi thân. Thân vượng, Tài nhược thì thương, thực sinh tài. Thân nhược quan sát vượng thì thực thương đối địch thất sát và tổn hại quan.
Đại biểu: Phúc thọ, người béo, về hưu, có lộc. Nữ-Tình cảm với con gái, Nam- Tình với con trai.
Tâm tính: Ôn hòa, rộng rãi, hiền lành, thân mật, dễ bề ngoài không thật bụng, thậm chí nhút nhát, giả tạo.
Tác dụng: Xì hơi thân, sinh, tài, áp chế quan sát. Thực đóng ở chính quan của trụ ngày= Phú quý.
Vượng-Suy: Can chi đều có > Phúc lộc dồi dào, làm việc công cộng, tự do. Không hợp công chức.
Mệnh nữ: Có-Hay khinh rẻ chồng. Thực nhiều dễ thương tổn con cái, khắc chồng.
Thực nhiều: Nghèo khó, thân thể yếu, nữ thì sa cơ, phong trần, cần Thiên ấn cứu giải. Thực nhiều, thiên quan ít = Không có con.
Thực và Sát cùng trụ: Người có dịp nắm quyền bính nhưng dễ bị vất vả, lao khổ, tai ách và ít con.
Can Thực-Chi Kiếp: Người phúc đức giàu có, khi gặp điều xấu vẫn có lợi.
Thực-Kiếp-T.Ấn: Thực có cả kiếp tài, thiên ấn đi kèm > Đoản thọ.
Vòng Trường sinh: Lâm trường sinh hoặc gặp cát thần thì phúc lộc nhiều, phần nhiều là người phúc lộc thọ toàn diện.
Tử, tuyệt, bệnh, bại: Phúc đức ít, bạc mệnh. Thực lâm mộ > Chết yểu.
Ở Năm: là được âm phúc tổ tiên, sự nghiệp phát triển, cuộc sống yên ổn, phúc lộc.
Ở Tháng: can tháng là thực, chi tháng là quan thì đó là người phát đạt, nếu là công chức thì càng tốt. Chi tháng là thực thần là người béo khoẻ, ôn hòa.
Ở Giờ: Cuối đời có phúc. Thực-Thiên ấn cùng trụ > Chủ về người cô đơn, phòng không.
Thực thần:
Dục vọng, ham muốn biểu hiện, nhu cầu tình dục cao. Biết tự thỏa mãn với những gì mình có, lạc quan, đam mê tìm hiểu, dễ nổi trội trong lĩnh vực âm nhạc, mỹ thuật, vũ đạo, nhiếp ảnh. Thích ăn, có đồ ăn dễ thương lượng. Làm việc không huênh hoang, không để ý khen ngợi của người khác, chỉ lặng lẽ hy vọng được tán đồng, không giả dối, không công kích, luôn muốn theo đuổi sự hoàn mỹ, không cho phép tác phẩm của mình có tỳ vết. Ưu điểm là lạc quan, tin tưởng nhưng do quá lạc quan dẫn đến thiếu chí tiến thủ và không cầu tiến. Họ thích tự mình làm, tự mình hưởng thụ. Thích hợp với công việc mang tính sáng tạo cá nhân và không thích hợp làm việc theo nhóm. Điều này bắt nguồn từ khí chất ưu nhã hiếu học, ở nam giới rõ nét hơn nữ giới.
2. Tính cách của Thực thần: Biệt thoa man với những gì mình có, lạc quan, tấm lòng rộng mở, cơ thể béo mập, hỷ nộ ai lạc dễ biểu hiện ra ngoài, không giữ được tâm sự trong lòng, thích đàm luận, cách nhìn đối với sự vật quá lạc quan. Khi Thực thần là dụng thần, hệ thống tiêu hóa tốt, mạnh khỏe, là người thông minh, đa tài đa nghệ, diện mạo tuấn tú. Nhật chủ yếu mà Thực thần mạnh chủ về cả đời yếu ớt nhiều bệnh, thiếu tâm tiến thủ, không muốn sáng nghiệp, say sưa với vẻ đẹp hình thức mà quên đi cuộc sống thực tế.
3. Thuộc tính thực thần
3.1 Ưu điểm
Nho nhã, thoải mái, thông tình đạt lý, khoan dung độ lượng, không tranh chấp không kiều ngạo, tình cảm phong phú, biết tự thỏa mãn với những gì mình có, Từ tưởng mới mẻ thoát tục, giỏi biểu đạt, coi trọng tình cảm. Biết điều hòa phát triển cân bằng tinh thần và vật chất, thích văn học nghệ thuật, có khả năng cảm thụ nhạy bén cả đời cơm áo no đủ.
Bảo thủ, ôn hậu, có lễ nghĩa, biểu đạt sinh động không khoa trương, thích cho đi mà không cần hồi đáp. Hoạt bát lanh lợi không trái ngược, mưu sự chuyên nhất. Nắm chắc một kỹ nghệ, trở thành chuyên gia có nền tảng sâu
3.2 Khuyết điểm
Lý tưởng quá cao dẫn đến xa rời hiện thực, không thích bó buộc, chìm đắm vào cảnh sắc thần tiên, coi nhẹ cuộc sống hiện thực, mất đi tinh thần tiến thủ. Dễ mệt mỏi, hoặc do suy ngẫm quá nhiều dẫn đến thần kinh suy nhược, ảo tưởng quá nhiều dẫn đến không thực tế.
Lý tưởng quá cao không thể thực hiện, có tài không gặp thời, có chí khó thành. Nhật chủ yếu, lĩnh vực gì cũng muốn học nhưng không chuyên nhất. Nhật chủ vượng thường vì tự phụ mà không dễ tiếp thu ý kiến của người khác.
3.3 Tại niên trụ
Khi nhỏ hoạt bát, biết suy nghĩ, tư duy tốt, tĩnh tâm. Thông minh, học tập tốt, khi nhỏ đã thích đọc sách, xuất thân tốt, thể lực yếu nhưng thông minh lanh lợi, hiểu lòng người. Công việc dù liên quan đến nghiệp văn hay chức võ đều có thể kiêm nhiệm.
3.4 Tại nguyệt trụ
Thích sáng tạo và tìm tòi để làm ra các đồ vật, bạn bè tài hoa, có thể kiếm tiền. Thích công việc liên quan đến lĩnh vực văn học hoặc phiên dịch, không thích dựa dẫm bề trên, muốn tự mình độc lập kiếm tiền,.
3.5 Tại nhật trụ
Thuộc tính
Vợ (chồng) tài hoa, lạc quan đôn hậu, giữa vợ chồng có quyền tự do riêng. Vợ (chồng) thân hình đầy đặn, phong lưu, chú trọng sinh hoạt tình dục. Bản thân hành sự chậm, khả năng lên kế hoạch tốt nhưng tính thực tiễn kém. Giỏi ăn nói, đời sống tình cảm trọng thực chất. Mệnh nữ gặp Thiên ấn khắc chế dễ khắc tổn con cái hoặc khi sinh không thuận lợi.
3.6 Tại thời trụ
Trường thọ, cuối đời vui vẻ. Mệnh nữ đề phòng khó khăn trong sinh nở. Mệnh nam chủ về lộc thọ, mệnh nữ chủ về con cái,
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YẾU CỦA THẬP THẦN
Thực thần - Thương quan
Thực thương vừa phải |
Thực thương quá mạnh |
Thực thương quá yếu |
Nhạy cảm, dễ có cảm hwunsg đặc biệt với sự vật có hứng thú |
Tâm tính có thể diễn biến thành " dùng tình cảm để xử lý vấn đề" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lạnh lùng, ít tình cảm" |
Tư duy rộng mở và sâu xa hơn người bình thường, có thể nghĩ ra mọi thứ người khác chưa từng nghĩ, tin điều con người không dám tin. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ảo tưởng hư vô" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " thiếu thực tế, tự khép mình" |
Ham muốn biểu hiện, muốn đem tri thức độc đáo hoặc kỹ năng thể hiện trước nhiều người. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ngạo mạn, tùy tiện" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ngu muội" |
Thích định hướng hoặc bản thân vào tình huống giả định đó. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" nhu mì" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ, thiếu hấp dẫn". |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Thực thần - Thương quan
Đặc điểm cơ bản |
Thực thần là lực lượng tiết khí cùng tính chất, là tiết khí vô tình. Lực tiết khí không hết, thường hấp thu kiến thức có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp, trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài. Thương quan là lực lượng tiết khí khác tính chất, là tiết khí có tinh. Lực tiết khí nhất định hết, thường hấp thu kiến thức có tính kích động, nhanh chóng, đại khái, nghĩa rộng, trạng thái động, nhiều biến hóa, cấp tốc, mới mẻ, ngắn. |
Khuynh hướng ý thức |
Thực thần đều hiển thị khuynh hướng ý thức ôn hòa, chậm chạp, chi tiết. Thương quan thể hiện khuynh hướng ý thức kích động, nhanh chóng, đại khái. |
Trạng thái cân bằng |
Lực lượng của cả hai mạnh và tương đương, động tĩnh vừa phải, có thể nhiều có thể ít, không những có tư tưởng bảo thủ mà còn có quan niệm mới, thường có thể duy trì phát huy ổn định cân bằng đối với học tập tri thức, kỹ năng. |
So sánh 1 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về Khoa học xã hội, như: Ngữ văn, triết học, lịch sử, chính trị, pháp luật, kinh tế, quản trị doanh nghiệp. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về Khoa học tự nhiên, như: Vật lý, Hóa học, Y học, công trình, giao thông, cơ khí, nông nghiệp. |
So sánh 2 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về sự tinh tế, nho nhã, như: Hội họa, âm nhạc, văn nghệ, cắm hoa, khâu vá, thiết kế, sách vở, bác sỹ nội khoa. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về kích động hoạt bát, như: Thể dục, vũ đạo, võ nghệ, ca hát, luật sư, bác sỹ ngoại khoa. |
So sánh 3 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về thể hiện ý niệm tình thần. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về thể hiện hành vì thực tế, |
Xem đầy đủ kiến thức về Thực Thần: Xem tại đây
Tử tinh - Thương Thực
Thực thương có tính chất biểu hiện, phát huy, lưu loát, trí tuệ sáng tạo hao tiết. Thực thương là lực lượng" được mình sinh trợ". Xét từ mối quan hệ xã hội, người được mình nuôi dưỡng giáo dục, ủng hộ giúp đỡ chăm sóc chỉ dẫn quan tâm bảo vệ, mình có " địa vị lớn hơn họ" hoặc ở phương diện khác có quan hệ với mình giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi của thực thương. Do đó người đại diện cho thực thương là con cái, cháu, hậu bối, học sinh, đồ đệ, thậm chí còn là người già trẻ nhỏ, người cô độc, cô quả. Thực thần là lực lượng tiết hao cùng tính chất với nhật can. Lực tiết hao lâu mà chậm. Thương quan là lực lượng tiết hao khác tính chất với nhật can, lực lượng tiết hao ngắn mà nhanh. Do đó, Thực thần đại diện cho người có ngôn từ hàm súc, thái độ ôn hòa, tốc độ tiếp thu kiến thức chậm nhưng khá kiên trì, nhẫn nại. Thương quan đại diện cho người có ngôn từ thiếu tính hàm súc, vội vàng tiếp thu nhanh nhưng thiếu nhẫn nại, kiên trì.
Tính chất của Thực thương là tiết và cấp. Họ yêu cầu cao, để nhiều tâm tư vào công việc, nỗ lực không ngừng nghỉ, bỏ nhiều công sức.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YÊU CỦA THẬP THẦN
Thực thần - Thương quan
Thực thương vừa phải |
Thực thương quá mạnh |
Thực thương quá yếu |
Nhạy cảm, dễ có cảm hwunsg đặc biệt với sự vật có hứng thú |
Tâm tính có thể diễn biến thành " dùng tình cảm để xử lý vấn đề" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lạnh lùng, ít tình cảm" |
Tư duy rộng mở và sâu xa hơn người bình thường, có thể nghĩ ra mọi thứ người khác chưa từng nghĩ, tin điều con người không dám tin. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ảo tưởng hư vô" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " thiếu thực tế, tự khép mình" |
Ham muốn biểu hiện, muốn đem tri thức độc đáo hoặc kỹ năng thể hiện trước nhiều người. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ngạo mạn, tùy tiện" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" ngu muội" |
Thích định hướng hoặc bản thân vào tình huống giả định đó. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" nhu mì" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ, thiếu hấp dẫn". |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Thực thần - Thương quan
Đặc điểm cơ bản |
Thực thần là lực lượng tiết khí cùng tính chất, là tiết khí vô tình. Lực tiết khí không hết, thường hấp thu kiến thức có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp, trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài. Thương quan là lực lượng tiết khí khác tính chất, là tiết khí có tinh. Lực tiết khí nhất định hết, thường hấp thu kiến thức có tính kích động, nhanh chóng, đại khái, nghĩa rộng, trạng thái động, nhiều biến hóa, cấp tốc, mới mẻ, ngắn. |
Khuynh hướng ý thức |
Thực thần đều hiển thị khuynh hướng ý thức ôn hòa, chậm chạp, chi tiết. Thương quan thể hiện khuynh hướng ý thức kích động, nhanh chóng, đại khái. |
Trạng thái cân bằng |
Lực lượng của cả hai mạnh và tương đương, động tĩnh vừa phải, có thể nhiều có thể ít, không những có tư tưởng bảo thủ mà còn có quan niệm mới, thường có thể duy trì phát huy ổn định cân bằng đối với học tập tri thức, kỹ năng. |
So sánh 1 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về Khoa học xã hội, như: Ngữ văn, triết học, lịch sử, chính trị, pháp luật, kinh tế, quản trị doanh nghiệp. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về Khoa học tự nhiên, như: Vật lý, Hóa học, Y học, công trình, giao thông, cơ khí, nông nghiệp. |
So sánh 2 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về sự tinh tế, nho nhã, như: Hội họa, âm nhạc, văn nghệ, cắm hoa, khâu vá, thiết kế, sách vở, bác sỹ nội khoa. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về kích động hoạt bát, như: Thể dục, vũ đạo, võ nghệ, ca hát, luật sư, bác sỹ ngoại khoa. |
So sánh 3 |
Thực thần mạnh hơn Thương quan, thiên về thể hiện ý niệm tình thần. Thương quan mạnh hơn Thực thần, thiên về thể hiện hành vì thực tế, |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 2 ): SINH TIẾT CỦA THẬP THẦN
Thực thương - Tỷ Kiếp
Phân tích |
Thực thương hóa tiết Tỷ kiếp, giống như con người từ thiên phú ban đầu phát triển thành tri thức và kỹ năng sống khác biệt với loài động vật thông thường. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh và tương đương, thiên về ý chí tiến thủ, tính tự tôn, quan niệm bình đẳng, ý thức tự chủ. Có đầy đủ cảm tính, tư tưởng, có khả năng tạo dựng mối quan hệ tốt và nắm bắt được cơ hội học tập. Cũng có thể vận dụng tri thức học tập bẩm sinh để hoàn thiện bản thân. Có nhân cách độc lập và hòa đồng. |
Trạng thái cực đoan |
Tỷ kiếp quá yếu, Thực thương quá mạnh. Khuyết điểm là không thể giữ bí mật lâu, suy nghĩ không thiết thực, lập trường dễ bị lung lay bởi hoàn cảnh bên ngoài. Muốn bay cao bay xa mà không thể tự lượng sức mình, nói nhiều làm ít, không thể làm việc chân tay vất vả. Khi gặp cơ hội thường không nắm bắt, suy nghĩ thay đổi, tự ti.
Tỷ kiếp quá mạnh, Thực thương quá yếu,. Khuyết điểm là thường đề cao bản thân, làm việc thường vì tình riêng, không tính đến hậu quả, thiếu tính thực tế, che dấu nội tâm, sinh lòng đố kỵ, ngoan cố, cô lập bản thân.
|
Trạng thái khác biệt |
Tỷ kiếp yếu, thực thương mạnh vận dụng chút thiên phú có thể tham gia nhiều hoạt động nhằm quảng bá hình ảnh bản thân.
Tỷ kiếp mạnh, Thực thương yếu, cần vận dụng nhiều thiên phú để đánh bóng mình hoặc tri thức kỹ năng chỉ có thể ứng dụng trên một phương diện.
|
Biện pháp hóa giải |
Tỷ kiên quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng ( tiết tú ) là dùng thương quan.
Kiếp tài quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng ( tiết tú ) là dùng Thực thần
Hai phương thức này đều có thể khống chế Tỷ kiếp cường vượng tích lũy quá lâu dẫn đến nhiều sự cố.
|
Tài tinh - Thực thương
Phân tích |
Tài tinh hóa tiết Thực Thương giống như dùng kiến thức kỹ năng tạo ra tiền bạc, của cải. Chính tài có thể toàn lực hóa Thực thần, Thiên tài có thể toàn lực hóa Thương quan.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh tương đương, có đầy đủ cảm tính, tư tưởng, có khả năng tạo dựng mối quan hệ tốt, nắm bắt được cơ hội học tập và năng lực mưu sinh, giỏi vận dụng kỹ năng kiếm tiền. Thiên tính học hỏi tri thức được phát huy cao. |
Trạng thái cực đoan |
Thực Thương quá yếu, Tài tinh quá mạnh. Nội hàm của Thực Thương bị Tài tinh phát huy hết. Khuyết điểm là thích nhàn rỗi, lười lao động, ngang ngược, chuyên quyền, không coi ai ra gì, coi thường ân nghĩa, lạnh lùng, ít tình cảm, tự thu mình, hồ đồ, cổ hủ. Thực Thương quá mạnh, Tài tinh quá yếu. Nội hàm của Thực Thương sẽ bị ứ tắc, khó phát huy. Khuyết điểm là làm việc thường thiên về tình cảm, ảo tưởng, tùy tiện, cao ngạo, yếu đuối, thậm chí cẩu thả, lơ là, coi thường của cải, tùy tiện qua loa. |
Trạng thái khác biệt |
Thực Thương yếu, Tài tinh mạnh. Năng lượng nhỏ yếu của Thực Thương chuyển hóa thành năng lượng lớn mạnh của Tài tinh, vận dụng một ít tri thức trên nhiều hoạt động, biết cách quản lý tài chính trên nhiều phương diện. Thực Thương mạnh, Tài tinh yếu. Năng lượng lớn mạnh của Thực Thương chuyển hóa thành năng lượng nhỏ yếu của Tài tinh, cần sử dụng nhiều tri thức kỹ năng hoặc chỉ có thể quản lý tài chính trên một phương diện nhất định. |
Biện pháp hóa giải |
Thực thần quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Chính tài. Thương quan quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Thiên tài. Hai phương thức này đều có thể ngăn ngừa Thực thần cường vượng tích lũy quá lâu dẫn đến nhiều sự cố. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 3 ): KHẮC HAO CỦA THẬP THẦN
Thực thương - Quan sát
Phân tích |
Thực Thương khắc Quan Sát, như dùng tri thức lý tính thao túng luật pháp, quyền hành.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thể mạnh mà tương đương, thích hợp thao túng chức vị quyền thế đồng thời có tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, cảnh giác.
|
Trạng thái cực đoan |
Thực Thương quả mạnh, Quan Sát quá yếu. Thực Thương sinh ra lực phá hoại đối Quan Sát, có thể xuất hiện những đặc điểm sau: Không thích chịu sự quản chế can dự quá đáng của người khác. Cũng không thích dùng chức quyền địa vị của mình cưỡng chế người khác, không thích áp lực công việc rắc rối, không dễ tiếp nhận phê bình kiểu thuyết giáo hoặc lời khuyên không thuận tai, có tính phản kháng khá cao với pháp luật và quy tắc không hợp lý. Trong tuế vận thiếu Ấn tinh để cân bằng Thực Thương cường vượng, chủ về người cậy vào tài năng của bản thân mà làm nhiều điều trái đạo lý.
Thực Thương quá yếu, Quan Sát quá vượng. Thực Thương sẽ không thể cai quản Quan Sát, có thể xuất hiện những đặc điểm sau: Dễ tiếp nhận sự chỉ huy và quản chế hoặc huấn luyện nghiêm khắc của kẻ mạnh. Thích dùng quyền lực địa vị của mình cưỡng chế người khác. Quen với cuộc sống theo quy luật hà khắc, dễ thích ứng với công việc có nhiều áp lực, vụn vặt, có tính chịu đựng khá cao với pháp luật và quy tắc không hợp lý. Trong tuế vận thiếu Tỷ Kiếp sinh phù Thực Thương suy yếu, chủ về người có tính cẩu thả lười nhác, hiếp yếu sợ mạnh.
|
Trạng thái khác biệt |
Thực Thương yếu, Quan Sát mạnh, có hành vi và nguyên tắc hạn chế, tự nhận trách nhiệm và quyền hạn vượt quá thực tế, tạo ra sự mạo hiểm. Thực Thương mạnh, Quan Sát yếu, thường nhận trách nhiệm và quyền hành ít hơn người khác, tạo ra sự sự tổn thất về trí tuệ.
|
Biện pháp hóa giải |
Chính quan quá vượng, phương thức khắc Quan lý tưởng là dùng Thương quan. Thất sát quá vượng, phương thức khắc sát lý tưởng là dùng Thực thần. Hai phương thức này đều có thể khống chế được Quan Sát cường vượng, phát huy tác dụng khá cao. |
Ấn tinh - Thực thương
Phân tích |
Ấn tình khắc Thực Thương giống như dùng đạo đức chế ước kỹ năng trí thức |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thể mạnh tương đương, có thể quy phạm tư tưởng thích hợp đồng thời chế ước tri thức kỹ năng học tập, thường có công đức, tư tưởng, tính dụ phát năng lực biểu hiện thích hợp. |
Trạng thái cực đoan |
Ấn tình quá mạnh, Thực Thương quá mạnh. Ấn tinh sinh ra lực phá hoại đối với Thực Thương, không thích biểu hiện tài hoa của mình trong đoàn thể, không thể tiễ đạt trọng điểm của kỹ năng tri thức trong thời gian ngắn, cũng không biết đem kỹ năng trí thức hoặc quyền mưu vận dụng hiệu quả vào ngôn ngữ văn tự không giải dùng động tác cơ thể biểu đạt nội tâm, không thích dùng tình cảm, lạnh lùng với hiện thực, thích giữ bí mật, riêng tư, dễ đơn điệu, thiếu thú vị. Trong đại vận, lưu niên không có Tài tỉnh cân bằng Ấn tinh, chủ về người có phản ứng chậm chạp, lạnh lũng khép kín. Ấn tinh quá yếu, Thực Thương quá mạnh. Ấn tinh không thể quy phạm Thực Thương. Nếu có cơ hội thể hiện tài hoa của mình trong đoàn thể, chỉ trong một thời gian ngắn có thể biểu đạt trọng điểm của tri thức kỹ năng. Biết dùng tri thức kỹ năng hoặc quyền mưu vận dụng vào ngôn ngữ văn tự, biết dùng động tác cơ thể biểu đạt thông tin của nội tâm. Đồng thời dễ dùng tình cảm để tác động sự vật xung quanh, dễ xa vào lãng mạn, lạm dụng tình cảm, phẩm chất trong sáng, không dễ giữ bí mật riêng trong thời gian dài, khó tránh khỏi nông nổi. Trong đại vận, lưu niên thiếu Quan Sát sinh phù Ấn tinh, chủ về cuồng vong tùy tiện, tình dục buông thả. |
Trạng thái khác biệt |
Ấn tinh yếu, Thực Thương mạnh luôn luôn theo đuổi tài nghệ không thiết thực, học tập tri thức vượt xa năng lực thực tế, tạo ra sự mạo hiểm và lãng phí trong tri thức kỹ năng. Ấn tinh mạnh, Thực Thương yếu luôn vì một ít kiến thức kỹ năng và khống chế tình dục mà dùng nhiều thanh danh và đạo đức hơn người khác. |
Biện pháp hóa giải |
Thực thần quá vượng, phương thức khắc Thực lý tưởng là dùng Thiên ấn. Thương quan quá vượng, phương thức khắc Thương lý tưởng là dùng Chính ấn. Hai phương thức này đều có thể khống chế được Thực Thương cường vượng, phát huy tác dụng khá cao. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 4 ): SỰ VIỆC, HÌNH TƯỢNG CỦA THẬP THẦN
Con đường thu hoạch lợi ích của Thương thực
Quan hệ lục thân |
Con đường thu hoạch lợi ích |
Ví dụ |
Ấn tinh khắc xuất Thực thương |
Từ chữ tín đạo đức mà thu được trí tuệ và năng lực |
Để theo đuổi cảnh giới chân, thiện, mỹ, bản thân không cùng phát mình, sáng tạo lý luận và phương pháp mới như Các lãnh đạo tập đoàn không ngừng nâng cao chất lượng và chữ tin của sản phẩm, luôn áp dụng trí thức mới cải thiện kỹ thuật sản xuất.
|
Tỷ kiếp sinh xuất Thực thương |
Từ tiềm lực thiên phú của bản thân mà thu được trí tuệ và năng lực |
Từ trực giác thiên phủ và tác dụng bản năng của ý thức tinh thần đạt được tất cả tri thức của thế giới tự nhiên, nhưChim biết bay, trời mưa, gỗ có thể đốt cháy. Từ đó, có thểphát minh ra nhiều kỹ năng sinh tồn cơ bản, như: Edisonphát minh ra máy quay đĩa, máy chiếu phim, máy ghi âm,bóng đèn
|
Thực thương sáng tỏ Thực thương |
Từ tri thức và kỹ năng đã có mà thu được trí tuệ và năng lực |
Sách vở luôn mở rộng thêm lĩnh vực tri thức và phạm vi Kỹ năng. Từ kinh nghiệm được tích lũy phong phú có thể tiếp tục mở rộng trí tuệ và thành thục tài nghề, như Tác giả dùng tri thức vốn có để sáng tác. |
Tài tinh dẫn xuất Thực thương |
Từ vận dụng tiền bạc của cải mà thu được trí tuệ và năng lực |
Dùng tiền bạc để có được trình độ khoa học kỹ thuật cao, như: Học sinh nộp học phí để được học tập các kỹ năng và kiến thức, doanh nghiệp chủ động đầu tư phát triển thiết bị sản xuất.
|
Quan sát dẫn xuất Thực thương |
Từ chức vụ hoặc quyền thế mà thu được trí tuệ và năng lực |
Do ở trong ngành lâu, người làm chính trị liên tục tăng thêm trí tuệ chính trị, có thể cải tiến quy trình quản lý hành chính, như: Người làm ở Sở kế hoạch hoặc Sở nông nghiệp thường được tăng cường kiến thức chuyên môn quản lý, doanh nghiệp hữu hạn chuyển thành cổ phần phải tăng thêm tri thức quản lý điều hành và quy trình sản xuất. |
ẤN TINH
Ấn tinh có tính chất che chở, bảo vệ, phù trì, bao dung, học tập, hấp thu. Ấn tinh là lực lượng “sinh và phù trợ cho bản thân mình”. Xét trên mối quan hệ xã hội, người hướng dẫn, giúp đỡ, chăm sóc, quan tâm, bảo vệ bản thân ta, có “địa vị lớn hơn bản thân ta” hoặc ở các phương diện khác có quan hệ với mình giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi của Ấn tinh. Do đó, người đại diện cho Ấn tinh là cha mẹ, chú bác, cô dì, giáo viên, bề trên, huấn luyện viên, tăng ni, cha đạo, hiền triết, thiện sỹ. Chính ấn là lực lượng sinh trợ nhưng khác tính chất với nhật can. Lực sinh trợ của nó là tận tâm, vô điều kiện. Thiên ấn là lực lượng sinh trợ có cùng tính chất với nhật can. Lực sinh trợ của nó hư vô, không thực hoặc thường có điều kiện. Do đó, Chính ấn đại diện cho người tận tâm giáo dục, có năng lực chỉ đạo, có thể giúp mình vô điều kiện. Thiên ấn đại diện cho người không tận tâm giáo dục hoặc
không có năng lực chỉ đạo, luôn giúp đỡ mình có điều kiện. Người có mệnh Ấn tinh không tách khỏi người mẹ hoặc bề trên là nữ giới, giống như trẻ con được mẹ cưng chiều, cơm mang tận miệng, không biết tự mặc áo quần.
Do đó, mệnh này có nhiều khí “quý nhân”. Từ nhỏ được cưng chiều sẽ hình thành thói quen lười nhác, làm việc đầu voi đuôi chuột, làm việc gì cũng cần có người khác thúc giục. Kiểu người này giống như nhân vật A Đẩu trong tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa, nhu nhược yếu mềm, giống như đứa trẻ không thể trưởng thành, thiếu thực tế, không có tinh thần trách nhiệm, không có khả năng sáng tạo, mất tính cạnh tranh, không theo đuổi vật chất, phù hợp với tôn giáo, dễ béo phì hơn người bình thường.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YẾU CỦA THẬP THẦN
Thiên Ấn - Chính Ấn
Ấn tinh vừa phải |
Ấn tinh quá mạnh |
Ấn tinh quá yếu |
Trọng hư vinh, thích xây dựng hình tượng, thích được khen ngợi |
Tâm tính có thể diễn biến thành " chỉ là hư vinh" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự cho là đúng" |
Tin tưởng giao trọng trách cho người khác, đồng thời cũng được ủy thác cho người khác |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lười nhác, dựa dẫm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành "quật cường"Tâm tính có thể diễn biến thành "quật cường" |
Quan niệm truyền thống, mong muốn duy trì đạo đức luân lý. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thích mới ghét cũ" |
Ý thức phục vụ mới mẻ, có sự đồng lòng, tự nguyện cống hiến hi sinh. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quá mềm lòng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tính toán chi li" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Chính Ấn - Thiên Ấn
Đặc điểm cơ bản |
Thiên ấn là lực lượng tương sinh cùng tính chất, là sinh vô tình. Lực sinh không hết, thiên về bảo vệ luận lý đạo đức có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài. Chinh ấn là lực lượng tương sinh khác tính chất, là sinh có tình, lực sinh hết, thiên về bảo vệ luân lý đạo đức có tính kích động, nhanh chóng, đại khái, nghĩa rộng, trạng thái động, nhiều biến hóa, cấp tốc, mới mẻ, ngắn. |
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Thiên ấn thể hiện qua các vấn đề luân lý, đạo đức có đặc điểm ôn hòa, nghĩa hẹp, bảo thủ. Khuynh hưởng ý thức của Chính ấn thể hiện Thức qua các vấn đề luân lý, đạo đức có đặc điểm vội vàng, nghĩa rộng, thoải mái, như Tôn giáo, làm việc thiện, tam cương ngũ thường, tu thân dưỡng tính.
|
Trạng thái cân bằng |
Lực lượng cả hai mạnh mà tương đương, có tín ngưỡng tôn giáo vừa phải, không mê tín, có quan niệm đạo đức luân lý thích hợp, không bảo thủ, có thể kính trọng người già người hiền, coi trọng danh dự, biết giữ gìn truyền thống đạo đức, biết thay đổi sự lạc hậu.
|
So sánh 1 |
Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, sử dụng nhiều phương thức trực tiếp, cụ thể như: Nhận nuôi trẻ mồ cuối, tổ chức biểu diễn công đức, làm việc tình nghĩa. Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, sử dụng nhiều phương thức gián tiếp, tượng trưng, như: Quyên góp, hiếu thuận cha mẹ, giáo dục thế hệ sau.
|
So sánh 2 |
Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, sử dụng phương thức thực tiễn từ ngoài vào trong. như: Không phụ người tốt với mình, tin tưởng người tin mình, giúp đỡ người giúp đỡ mình, yêu nước mới đến yêu nhà. Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, sử dụng phương thức thực tiễn từ trong ra ngoài, như: Tốt với mình sau đó tốt với người, tin mình mới tin người, giúp mình mới giúp người, yêu nhà mới đến yêu nước.
|
So sánh 3 |
Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, thường thể hiện bằng hành động cụ thể. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 2 ): SINH TIẾT CỦA THẬP THẦN
Quan sát - Ấn tinh
Phân tích |
Ấn tinh hóa tiết Quan sát, như dùng địa vị xã hội đạt được danh dự. Chính ấn có thể hóa tiết hết Thất sát. Thiên ấn có thể hóa tiết hết Chính quan. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh tương đương, có tính kỷ luật, cảnh giác, phục tùng, tinh thần trách nhiệm, tuân thủ nguyên tắc. Cũng có ý thức phục vụ, vinh dự, đồng lòng, tín nhiệm, tuân thủ nguyên tắc. Cũng có ý thức phục vụ, vinh dự, đồng lòng, tín nhiệm và quan niệm truyền thống thích hợp. Phần lớn nhiệt tình trong công việc, có lòng khoan dung, tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Thiên tính tự hoàn thiện bản thân và đạt được địa vị trong xã hội được phát huy một cách hiệu quả. |
Trạng thái cực đoan |
Quan sát quá yếu, Ấn tinh quá mạnh. Nội hàm của Quan sát bị Ấn tinh phát huy hết. Khuyết điểm là dễ sa vào hư vinh, lười nhác, ỷ lại, cổ hủ, mềm lòng, thậm chí tự do tùy tiện, bừa bãi đùn đẩy trách nhiệm, quá được nuông chiều. Quan sát quá vượng, Ấn tinh quá yếu. Nội hàm của quan sát bị ứ tắc, khó phát huy hiệu quả. Khuyết điểm là nhát gan, hay nghi ngờ, thiếu quyết đoán, lao lực, biến thái, cứng nhắc, tự cho mình là đúng, thích mới ghét cũ, tính toán chi li. |
Trạng thái khác biệt |
Quan Sát yếu, Ấn tinh mạnh. Năng lượng nhỏ yếu của Quan Sát chuyển hóa thành năng lượng lớn mạnh của Ấn tinh, vận dụng một ít chức vị, quyền hành trên nhiều hoạt động hoặc làm việc thiện, tích đức trên nhiều phương diện. Quan Sát mạnh, Ấn tinh yếu. Năng lượng lớn mạnh của Quan Sát chuyển hóa thành năng lượng nhỏ yếu của Ấn tinh, vận dụng nhiều chức vị, quyền hành trên một hoạt động hoặc chỉ có thể làm việc thiện, tích đức trên một phương diện.
|
Biện pháp hóa giải |
Chính quan quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Thiên ấn. Thất sát quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Chính ấn. Hai phương thức này đều có thể ngăn ngừa Quan Sát cường vượng, tích lũy quá lâu dẫn đến sự cố. |
Tủ kiếp - Ấn tinh
Phân tích |
Tỷ Kiếp hóa tiết Ấn tình giống như dùng danh tiếng, đạo đức nâng cao giá trị bảnthân.
Tỷ kiên có thể hóa tiết hết Chính ấn. Kiếp tài có thể hóa tiết hết Thiên ấn.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh tương đương, có tính kỷ luật, cảnh giác, phục tùng, tỉnh thần trách nhiệm, tuân thủ nguyên tắc. Có ý thức phục vụ, vinh dự, đồng lòng, tín nhiệm và quan niệm truyền thống thích hợp. Đồng thời có chí tiến thủ, tự tôn, ý thức tự chủ, quan niệm bình đẳng thích hợp, có lòng khoan dung và được lòng mọi người. Giỏi dùng danh tiếng, đạo đức để tôn vinh bản thân. Thiên tính theo đuổi luân lý xã hội và đạo đức cộng đồng được phát huy cao. |
Trạng thái cực đoan |
Ấn tinh quá yếu, Tỷ Kiếp quá mạnh. Nội hàm của Ấn tinh bị Tỷ Kiếp phát huy hết. Khuyết điểm là dễ sa đà, hà khắc, thiếu tình cảm, đố kỵ, ngoan cố, cô lập, không tiếp thu ý kiến người khác, thích mới ghét cũ, tính toán chi li Ấn tinh quá mạnh, Tỷ Kiếp quá yếu. Nội hàm của Ấn tinh bị ứ tắc, khó phát huy hiệu quả. Khuyết điểm là quá tham cầu hư vinh, lười nhác dựa dẫm, cổ hủ, mềm lòng, tản mạn, không biết tiết chế, hay dịch chuyển, tự ti. |
Trạng thái khác biệt |
Ấn tinh yếu, Tỷ Kiếp mạnh. Năng lượng nhỏ yếu của Ấn tinh chuyển hóa thành năng lượng lớn mạnh của Tỷ Kiếp, chỉ cần vận dụng chút danh tiếng có thể làm nhiều hoạt động từ thiện. Ấn tinh mạnh, Tỷ Kiếp yếu. Năng lượng lớn mạnh của Ấn tinh chuyển hóa thành năng lượng nhỏ yếu của Tỷ Kiếp, cần vận dụng nhiều danh tiếng để tham gia các hoạt động từ thiện. |
Biện pháp hóa giải |
Chính ấn quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Tỷ kiên, Thiên ấn quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Kiếp tài. Hai phương thức này đều có thể khống chế Ấn tinh cường vượng, tích lũy quá lâu dẫn đến sự cố. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 3 ): KHẮC HAO CỦA THẬP THẦN
Tài tinh - Ấn tinh
Phân tích |
Tài tình khắc Ấn tình, giống như dùng tiền tài vật chất thao túng đạo đức. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bèn có khi thế mạnh tương đương, có thể thao túng hành vi đạo đức, thường có cảm giác vình dự, lòng tin vững chắc, đồng tình, ý thức phục vụ, quan niệm truyền thống thích hợp. |
Trạng thái cực đoan |
Tài tình quá mạnh, Ấn tình quả yếu. Tài tinh sinh ra lực phá hoại đối với Ấn tinh, không thích chìm đắm vào các hoạt động tôn giáo hoặc hoạt động huyền bí, cũng không thích tuân theo luân lý đạo đức truyền thống, không quá tín nhiệm hoặc dựa vào người khác, không muốn theo đuổi hư danh không thiết thực, luôn ưu tiên xem xét lợi ích hiện thực. Không dễ nhiệt tình với công ích hoặc chân thành phục vụ người khác. Trong đại vận, lưu niên thiếu Tỷ Kiếp cân bằng thế lực cường vượng của Tài tình, chủ về người coi trọng tiền bạc hơn đạo đức, hành sự thường trái ngược với luân thường đạo lý. Tài tinh quá yếu, Ấn tinh quá mạnh. Tài tinh không thể quy phạm hay nắm bắt Ấn tình, dễ sa vào các hoạt động tôn giáo mang tính huyền bí, thích tận lực tuân theo luân lý đạo đức truyền thống, thường dễ tin theo hay dựa vào người khác, quá coi trọng vinh dự, thanh danh, nhiệt tình làm các công việc không thiết thực, quá thật thà mà dễ bị lừa gạt. Trong đại vận, lưu niên thiếu Thực Thương sinh phù Tài tinh suy yếu, chủ về người mê tín, lười nhác, không biết phân biệt thị phi. |
Trạng thái khác biệt |
Tài tình yếu, Ấn tinh mạnh, quá coi trọng thanh danh, hành vi phẩm đức vượt quá năng lực thực tế, hình thành mạo hiểm và lãng phí. Tài tinh mạnh, Ấn tinh yếu luôn vì thanh danh nhỏ mà tiêu phí nhiều tiền tài hơn người khác. |
Biện pháp hòa giải |
Chính ấn quá vượng, phương thức khắc Chính ấn lý tưởng là dùng Chính tài. Thiên ấn quá vượng, phương thức khắc Thiên ấn lý tưởng là dùng Thiên tài. Hai phương thức này đều có thể khống chế được Ấn tinh cường vượng, phát huy tác dụng khá cao.
|
Ấn tinh - Thực thương
Phân tích |
Ấn tình khắc Thực Thương giống như dùng đạo đức chế ước kỹ năng trí thức
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thể mạnh tương đương, có thể quy phạm tư tưởng thích hợp đồng thời chế ước tri thức kỹ năng học tập, thường có công đức, tư tưởng, tính dụ phát năng lực biểu hiện thích hợp.
|
Trạng thái cực đoan |
Ấn tình quá mạnh, Thực Thương quá mạnh. Ấn tinh sinh ra lực phá hoại đối với Thực Thương, không thích biểu hiện tài hoa của mình trong đoàn thể, không thể tiễ đạt trọng điểm của kỹ năng tri thức trong thời gian ngắn, cũng không biết đem kỹ năng trí thức hoặc quyền mưu vận dụng hiệu quả vào ngôn ngữ văn tự không giải dùng động tác cơ thể biểu đạt nội tâm, không thích dùng tình cảm, lạnh lùng với hiện thực, thích giữ bí mật, riêng tư, dễ đơn điệu, thiếu thú vị. Trong đại vận, lưu niên không có Tài tỉnh cân bằng Ấn tinh, chủ về người có phản ứng chậm chạp, lạnh lũng khép kín. Ấn tinh quá yếu, Thực Thương quá mạnh. Ấn tinh không thể quy phạm Thực Thương. Nếu có cơ hội thể hiện tài hoa của mình trong đoàn thể, chỉ trong một thời gian ngắn có thể biểu đạt trọng điểm của tri thức kỹ năng. Biết dùng tri thức kỹ năng hoặc quyền mưu vận dụng vào ngôn ngữ văn tự, biết dùng động tác cơ thể biểu đạt thông tin của nội tâm. Đồng thời dễ dùng tình cảm để tác động sự vật xung quanh, dễ xa vào lãng mạn, lạm dụng tình cảm, phẩm chất trong sáng, không dễ giữ bí mật riêng trong thời gian dài, khó tránh khỏi nông nổi. Trong đại vận, lưu niên thiếu Quan Sát sinh phù Ấn tinh, chủ về cuồng vong tùy tiện, tình dục buông thả.
|
Trạng thái khác biệt |
Ấn tinh yếu, Thực Thương mạnh luôn luôn theo đuổi tài nghệ không thiết thực, học tập tri thức vượt xa năng lực thực tế, tạo ra sự mạo hiểm và lãng phí trong tri thức kỹ năng. Ấn tinh mạnh, Thực Thương yếu luôn vì một ít kiến thức kỹ năng và khống chế tình dục mà dùng nhiều thanh danh và đạo đức hơn người khác.
|
Biện pháp hóa giải |
Thực thần quá vượng, phương thức khắc Thực lý tưởng là dùng Thiên ấn. Thương quan quá vượng, phương thức khắc Thương lý tưởng là dùng Chính ấn. Hai phương thức này đều có thể khống chế được Thực Thương cường vượng, phát huy tác dụng khá cao. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 4 ): SỰ VIỆC, HÌNH TƯỢNG CỦA THẬP THẦN
Con đường thu hoạch lợi ích của Ấn tinh
Quan hệ lục thân |
Con đường thu hoạch lợi ích |
Ví dụ |
Tài tinh khắc xuất Ấn tinh |
Dùng tiền bạc của cải xây dựng danh tiếng |
Dùng tiền bạc làm các công việc từ thiện, như: Cúng dường Tam bảo, trợ giúp gạo muối cho người dân gặp thiên tai, xây dựng công quỹ từ thiện xã hội.
|
Quan sát sinh xuất Ấn tinh |
Dùng chức vị hoặc quyền thế xây dựng danh tiếng |
Người lãnh đạo ban hành chính sách hợp với muôn dân, người chiến sỹ công an tiêu diệt trộm cướp, bảo vệ sự yên bình cho mọi người.
|
Ấn tinh sáng tỏ Ấn tinh |
Dùng đạo đức phẩm chất tăng cường danh tiếng |
Các tăng ni Phật giáo luôn dùng đạo đức và phẩm hạnh giáo hóa chúng sinh, hướng dẫn mọi người làm việc thiện nghĩa, lợi lạc quần sinh.
|
Tỷ kiếp dẫn xuất Ấn tinh |
Dùng sức lực hay năng lực xây dựng danh tiếng |
Tự mình tu sửa cầu đường, nhiệt tình tham gia từ thiện, công ích, phụ nữ trinh tiết, giữ gìn sự trong sạch, đàn ông khắc chế tham vọng nhục thể, tiết chế dâm niệm.
|
Thực thương dẫn xuất Ấn tinh |
Dùng tri thức hoặc kỹ thuật xây dựng danh tiếng |
Bề trên dạy bảo người dưới tuân thủ khuôn phép, ngôi sao điện ảnh biểu diễn vì mục đích từ thiện, nhà nghệ thuật bán đấu giá tác phẩm để giúp đỡ người cô quả. |
DỰ ÐOÁN VỀ CHA MẸ (1)
- Trụ năm gặp đất trường sinh đế vượng, không bị xung khắc, lại được lệnh tháng sinh là chủ về cha mẹ tinh nhanh, tháo vát, dung nhan đẹp, người khoẻ trường thọ.
- Can năm được lệnh tháng sinh là cha trường thọ, chi năm được lệnh tháng sinh là mẹ trường thọ. Can năm là dụng thần thì cha mẹ song toàn.
- Can và chi năm tương sinh cho nhau là cha mẹ hòa thuận; can sinh cho chi là cha yêu mẹ; chi sinh cho can là mẹ yêu cha. Can chi ngang hòa nhau là cha mẹ yêu nhau nhưng cũng không tránh đôi lúc cãi vã.
- Trụ năm hoặc trụ tháng gặp quý nhân là cha mẹ đẹp và nho nhã, thanh lịch. Trụ năm gặp sao trạch mã là ông cha hoặc cha mẹ đi buôn bán ở bên ngoài. Trụ năm gặp ấn hoặc tư quán học đường là cha mẹ hiền lành, ông bà hoặc cha mẹ theo nghề văn chương, mạch nhà thư thương.
- Trụ năm gặp chính ấn hoặc chính ấn gặp thiên đức, nguyệt đức là cha mẹ hiền lành, hay là điều thiện.
- Trụ năm gặp thực thần mà không có kiêu thần là cha mẹ người béo và khỏe, tính cách thành thực.
- Can năm lâm trường sinh hoặc chính ấn lâm trường sinh là cha mẹ có phúc và thọ.
- Trụ năm gặp quan tinh chính ấn thì cha mẹ làm quan cao sang.
- Can năm gặp quan tinh, chi năm gặp tướng tinh là cha mẹ phú quý, trung hậu. Trụ năm gặp tài, quan, ấn lại còn gặp sinh vượng là cha mẹ không giàu thì sang.
- Chi năm hoặc chính ấn gặp đào hoa là cha mẹ đẹp mà thông minh.
- Trụ năm, trụ tháng gặp tài, quan vượng là cha mẹ vinh hiển.
- Thiên tài quy lộc là cha cao sang tột bậc. Trụ ngày gặp tài, trụ giờ là kiếp thì đời cha vượng, đời con sa sút.
- Trong Tứ trụ thiên tài gặp vượng địa là cha trường thọ.
- Ấn gặp trường sinh thì mẹ hiền, trường thọ, nếu phùng sinh thì mẹ thông minh hiền quý.
- Phụ mẫu đều vượng lại gặp trường sinh, ở đất quý nhân, lộc mã thì chủ về cha mẹ phú quý lâu dài vinh hiển.
- Trụ năm sinh hợp với nhật nguyên thì được cha mẹ yêu. Nhật nguyên sinh trụ năm thì con hiếu kính cha mẹ.
- Can năm hoặc chi năm, can tháng hoặc chi tháng là hỉ thần, hoặc dụng thần là được hưởng phúc tổ tiên hoặc được cha mẹ nuông chiều.
- Chi ngày sinh cho chi năm là vợ có hiếu với cha mẹ chồng hoặc quan hệ mẹ chồng con dâu tốt.
- Trụ ngày yếu nhưng được ấn tinh sinh phù thì được cha mẹ thương yêu.
- Chính ấn đóng ở hoa cái là cha mẹ thông minh.
- Chính ấn gặp trạch mã thì cha mẹ lập nghiệp ở phương xa.
- can năm là dụng thần, nên cha mẹ song toàn.
- cả năm và tháng tài quan vượng, cha vinh hiển.
DỰ ÐOÁN VỀ CHA MẸ (2)
- . Cho nên, xưa có câu : " Có cha có mẹ là vàng là ngọc, không cha không mẹ như cỏ bên vệ đường". "Có vàng có ngọc cũng chưa bằng có cha mẹ tốt. " Còn có câu : "Chức cao, lộc nhiều, cha mẹ song toàn mới chính là phúc". Cho nên cha mẹ đối với con mà nói là quan trọng biết bao,
- Trụ năm có thương quan là không lợi cho cha, có tỷ kiếp, kình dương là khắc cha, khắc vợ.
- Trong Tứ trụ gặp tài nhiều tất sẽ khắc cha mẹ. Trẻ em gặp tài vượng là khắc cha mẹ.
- Ngày giáp ất gặp vận dần mão là chủ về kiếp tài, phá tài, khắc cha mẹ và gặp những việc phải tranh giành nhau.
- Nếu trong Tứ trụ đều có thìn tuất sửu mùi thì cốt nhục bị chia lìa, cha mẹ không song toàn.
- Ðề cương lệnh tháng bị xung khắc thì gây tổn thất cho cha mẹ và người thân, hoặc bị li dị.
- Ðề cương tháng khắc năm, cha mẹ cũng không song toàn.
- Ngang vai, kiếp tài có thì cha mẹ không thọ.
- Thiên tài đã tuần không lại còn gặp ấn vượng thì mồ côi cha từ bé.
- Nữ trong mệnh tài tinh nhiều thì khắc cả cha lẫn mẹ.
- Thiên tài gặp tuần không, vong là đất tử tuyệt tức mẹ mất sớm.
- Cha lâm kho địa hoặc nguồn tài bị kiếp ( cướp đoạt ) thì cha mẹ mất trước.
- Huynh đệ thân vượng thì cha mẹ bất lợi.
- Thiên tài bị khắc thì cha mẹ mất trước.
- Phụ mẫu một li một hợp nhất định là ấn tinh gặp tài.
- Gặp ngang vai thì cha không sống lâu. Thiên nguyên bị hình phạt thì cha mẹ không song toàn.
- Tài gặp tuần, không mà ấn vượng thì cha mẹ mất sớm. Trụ năm gặp thất sát, kình dương thì khắc cả cha lẫn mẹ.
- Trong Tứ trụ gặp kình dương là khắc cha.
- Sao phụ mẫu đóng ở tuần không hoặc ở đất bị hình, tử, tuyệt thì cha mẹ nghèo, khó, lại đoản thọ, hoặc chết nơi đất khách quê người, hoặc không hiền lành.
- Trong Tứ trụ cho can ngày mà gặp tài thì không hay vì sẽ khắc mẹ hoặc mẹ có bệnh.
- Ấn bị xung khắc là mẹ hiền nhưng mất sớm.
- Ấn thụ bị khắc là mẹ không chết thì cũng đi xa.
- Trong Tứ trụ tài nhiều làm tổn thương ấn thì tuổi trẻ đã khắc mẹ. Ấn bị thương nên mẹ mất sớm.
- Tuổi nhỏ đã mất mẹ chỉ vì trong Tứ trụ tài nhiều làm cho ấn bị chết.
- Trong Tứ trụ đều có kiêu thần, thực thần là tượng khắc mẹ. Trụ ngày, trụ giờ đều có thực thần là khắc mẹ, hoặc bản thân người ấy lúc chết không gặp con.
- Trong Tứ trụ tài ấn đều bị thương tổn là khắc mẹ, khắc vợ.
- Trụ ngày, trụ giờ đều phạm vong thần là khắc mẹ. Ấn tinh yếu quá lại đóng ở tuyệt địa là mẹ mất sớm.
- Chi ấn gặp cô thần, quả tú là chủ về cha mẹ cô độc, lục thân không có chỗ nương tựa.
- Trụ năm đóng ở chính quan lại bị thương quan xung khắc là chủ về cha mẹ hay ốm đau hoặc không thọ.
- Trụ năm đóng ở thất sát, kình dương là tính cha mẹ bạo ngược.
- Ấn gặp quan sát nhiều là cha mẹ yếu, kém.
- Trụ năm là dụng thần bị tuế vận thiên khắc, địa xung là có tang cha mẹ.
- Ðại vận xung khắc lệnh tháng ; lưu niên , tuế quan và trụ năm bị thiên xung địa khắc là không mất cha thì mất mẹ, hoặc mất cả hai.
- Thiên tài bị tuế vận thiên khắc, địa xung là đã đến lúc mất cha.
- Ấn thụ gặp tuế vận thiên xung, địa khắc là lúc mất mẹ.
- Ấn thụ phá dụng thần là cha mẹ vất vả,bản thân cũng vất vả.
- Ấn rơi vào tuần không, vong là mẹ bệnh tật nhiều.
- Thai tức bị khắc thì mồ côi cha mẹ từ bé.
- Chi ngày xung khắc chi năm thì mẹ không chết cũng đi xa.
- Can của năm sinh bị can của lưu niên khắc, chi của năm sinh nhập mộ chi của lưu niên là có khả năng cha mất.
- Trong Tứ trụ tài nhiều làm hại ấn là từ nhỏ đã bị mất mẹ, nếu không mất mẹ thì cũng là mẹ tái giá.
- Ấn bị phá nặng là mẹ chết trước.
- Chi năm bị tháng xung khắc là tượng mất mẹ, nếu có quan sát hỗn tạp vào là khắc cả cha lẫn mẹ.
- Trụ giờ xung khắc trụ năm là khắc cả cha lẫn mẹ.
- Trụ năm gặp thực thần, trụ tháng gặp kiêu thần thì nhất định khắc cha.
- Trụ giờ khắc trụ năm là lúc cha mẹ mất không gặp mình.
- Trong Tứ trụ đều có cả thiên và tài là mẹ sẽ lấy hai đời chồng. Trong Tứ trụ có hai ấn là cha có hai đời vợ.
- Trong Tứ trụ đều có chính ấn và thiên ấn thì nhất định là có mẹ kế.
- Lộc mã của trụ năm bị xung phá thì vì việc công mà chết xa nhà.
- Trụ năm, trụ tháng gặp sát là bị mình hại, tức ông và cha cùng mất.
- Trụ năm gặp chính quan, trụ tháng gặp thương quan là ông mạnh, cha yếu.
- Trong Tứ trụ quan vượng, ấn suy là cha mẹ anh em chia lìa, phân tán.
- 1. Trong Tứ trụ tỉ kiếp trùng trùng là khắc cha
- Thiên tài là cha, quý như châu báu, ngang vai, kiếp tài là anh chị em nhiều. Người nhiều, châu báu ít, anh giành tôi đoạt không ai nhường ai, cuối cùng vật quý nát vỡ. Ðó gọi là giành giật nhau châu báu hỏng, nên gọi là tỉ kiếp khắc cha.
- Trong Tứ trụ tỉ kiếp nhiều là khắc cha, ngang vai không vượng hoặc không có ngang vai nhưng vận hành đến gặp tỉ kiếp, mà tỉ kiếp không bị chế phục, thiên tài không được cứu trợ thì đều là dấu hiệu khắc cha.
- 2. TÀI NHIỀU LÀ KHẮC MẸ
- Trong Tứ trụ ấn là mẹ, tài tinh là kị thần của ấn tinh. Nên có câu : " Tài nhiều sẽ làm tổn thương ấn, tức là khắc mẹ".
- Ví dụ này chính ứng câu : " Tuổi bé mất mẹ chỉ vì tài nhiều khắc ấn".
- Ví dụ này chính ứng câu : " Tài vượng tổn thất thương ấn nên mẹ bị mất".
- 3. Ðề cương tháng khắc năm thì cha mẹ khó toàn
- 4. Những cái khác : Phụ gặp kho địa là cha mất trước
- Kho cũng gọi là mộ. Mộ tức là phần mộ. Nếu cha mẹ gặp phải, đương nhiên là cha mất trước.
- Ví dụ này chính ứng câu: "Kiêu thần đoạt thực thần là cha nhất định chết".
- 5. Hai mẹ
- Trong Tứ trụ có hai ấn là ứng với hai mẹ. Trong Tứ trụ có cả chính ấn và thiên ấn là chủ về việc cha có vợ cả và vợ kế hoặc vợ cả và vợ lẽ. Tiêu chí này rất linh nghiệm, nhưng phải phối hợp với tướng tay và tướng mặt để xác định. Trong Tứ trụ thiên tài là cha, còn chính tài có phải là bố dượng không? Thì vì trong nghiên cứu còn chưa tìm được kết quả cuối cùng nên chưa dám khẳng định.
I. DỰ ÐOÁN VỀ SẢN NGHIỆP ÔNG CHA (1)
- Trụ năm, trụ tháng có tài, quan, ấn là ba đời giàu sang.
- Trụ năm, trụ tháng có tài, thực là tổ nghiệp hưng thịnh.
- Trụ năm, có tài quan tương trợ lẫn nhau thì được hưởng hạnh phúc của ông cha.
- Quan gặp vượng địa thì ông cha vinh hiển.
- Quan, ấn của trụ năm, trụ tháng gặp vượng địa thì tổ nghiệp có gốc hùng hậu.
- Trụ năm làm dụng thần thì được hưởng tài sản tổ nghiệp để lại.
- Tài gặp vượng địa lại không bị phá hại thì nết nhà hưng thịnh.
- Ấn thụ không bị thương tổn, lại còn sinh cho thân thì nhà cửa sang quý.
- Trụ năm gặp chính lộc, chính ấn, chính tài mà không bị phá hại thì được tiếng thơm của tổ nghiệp để lại.
- Tài tàng, quan thấu thì nết nhà thịnh vượng.
- Tài mệnh có khí là được hưởng của ông cha để lại.
- Thân và tài đều là vượng là suốt đời vui thú với ruộng vườn cha ông để lại.
- Bỗng nhiên hiển đạt thành công nhất định là nhờ hình xung mà gặp quý thần.
- Can năm làm dụng thần là tốt, tức là được âm đức của cha ông để lại.
- Tài, thương, ấn trên trụ năm mà đắc địa hoặc gặp thiên ất quý nhân, hoặc thiên đức, nguyệt đức thì đời ông cha phú quý.
- Can năm đóng ở đế vượng lại gặp quan là tổ tiên phú quý.
- Tài vượng sinh quan là tuổi trẻ đã thành nghiệp.
- Ngày thông với lệnh tháng là nhờ tổ tiên mà yên ổn.
- Trụ năm, trụ tháng ở vượng địa nên gốc của tổ nghiệp hùng hậu.
ứng với câu : " Trên trụ năm, trụ tháng có tài, thực là tổ nghiệp ông cha hưng thịnh".
- Ví dụ này chính ứng với câu : " Tài gặp vượng địa thì nết nhà hưng thịnh" và câu : " Thân, tài đều vượng thì suốt đời vui thú ruộng vườn cha ông để lại".
DỰ ÐOÁN VỀ CHA MẸ (1)
- Trụ năm gặp đất trường sinh đế vượng, không bị xung khắc, lại được lệnh tháng sinh là chủ về cha mẹ tinh nhanh, tháo vát, dung nhan đẹp, người khoẻ trường thọ.
- Can năm được lệnh tháng sinh là cha trường thọ, chi năm được lệnh tháng sinh là mẹ trường thọ. Can năm là dụng thần thì cha mẹ song toàn.
- Can và chi năm tương sinh cho nhau là cha mẹ hòa thuận; can sinh cho chi là cha yêu mẹ; chi sinh cho can là mẹ yêu cha. Can chi ngang hòa nhau là cha mẹ yêu nhau nhưng cũng không tránh đôi lúc cãi vã.
- Trụ năm hoặc trụ tháng gặp quý nhân là cha mẹ đẹp và nho nhã, thanh lịch. Trụ năm gặp sao trạch mã là ông cha hoặc cha mẹ đi buôn bán ở bên ngoài. Trụ năm gặp ấn hoặc tư quán học đường là cha mẹ hiền lành, ông bà hoặc cha mẹ theo nghề văn chương, mạch nhà thư thương.
- Trụ năm gặp chính ấn hoặc chính ấn gặp thiên đức, nguyệt đức là cha mẹ hiền lành, hay là điều thiện.
- Trụ năm gặp thực thần mà không có kiêu thần là cha mẹ người béo và khỏe, tính cách thành thực.
- Can năm lâm trường sinh hoặc chính ấn lâm trường sinh là cha mẹ có phúc và thọ.
- Trụ năm gặp quan tinh chính ấn thì cha mẹ làm quan cao sang.
- Can năm gặp quan tinh, chi năm gặp tướng tinh là cha mẹ phú quý, trung hậu. Trụ năm gặp tài, quan, ấn lại còn gặp sinh vượng là cha mẹ không giàu thì sang.
- Chi năm hoặc chính ấn gặp đào hoa là cha mẹ đẹp mà thông minh.
- Trụ năm, trụ tháng gặp tài, quan vượng là cha mẹ vinh hiển.
- Thiên tài quy lộc là cha cao sang tột bậc. Trụ ngày gặp tài, trụ giờ là kiếp thì đời cha vượng, đời con sa sút.
- Trong Tứ trụ thiên tài gặp vượng địa là cha trường thọ.
- Ấn gặp trường sinh thì mẹ hiền, trường thọ, nếu phùng sinh thì mẹ thông minh hiền quý.
- Phụ mẫu đều vượng lại gặp trường sinh, ở đất quý nhân, lộc mã thì chủ về cha mẹ phú quý lâu dài vinh hiển.
- Trụ năm sinh hợp với nhật nguyên thì được cha mẹ yêu. Nhật nguyên sinh trụ năm thì con hiếu kính cha mẹ.
- Can năm hoặc chi năm, can tháng hoặc chi tháng là hỉ thần, hoặc dụng thần là được hưởng phúc tổ tiên hoặc được cha mẹ nuông chiều.
- Chi ngày sinh cho chi năm là vợ có hiếu với cha mẹ chồng hoặc quan hệ mẹ chồng con dâu tốt.
- Trụ ngày yếu nhưng được ấn tinh sinh phù thì được cha mẹ thương yêu.
- Chính ấn đóng ở hoa cái là cha mẹ thông minh.
- Chính ấn gặp trạch mã thì cha mẹ lập nghiệp ở phương xa.
- can năm là dụng thần, nên cha mẹ song toàn.
- cả năm và tháng tài quan vượng, cha vinh hiển.
DỰ ÐOÁN VỀ CHA MẸ (2)
- . Cho nên, xưa có câu : " Có cha có mẹ là vàng là ngọc, không cha không mẹ như cỏ bên vệ đường". "Có vàng có ngọc cũng chưa bằng có cha mẹ tốt. " Còn có câu : "Chức cao, lộc nhiều, cha mẹ song toàn mới chính là phúc". Cho nên cha mẹ đối với con mà nói là quan trọng biết bao,
- Trụ năm có thương quan là không lợi cho cha, có tỷ kiếp, kình dương là khắc cha, khắc vợ.
- Trong Tứ trụ gặp tài nhiều tất sẽ khắc cha mẹ. Trẻ em gặp tài vượng là khắc cha mẹ.
- Ngày giáp ất gặp vận dần mão là chủ về kiếp tài, phá tài, khắc cha mẹ và gặp những việc phải tranh giành nhau.
- Nếu trong Tứ trụ đều có thìn tuất sửu mùi thì cốt nhục bị chia lìa, cha mẹ không song toàn.
- Ðề cương lệnh tháng bị xung khắc thì gây tổn thất cho cha mẹ và người thân, hoặc bị li dị.
- Ðề cương tháng khắc năm, cha mẹ cũng không song toàn.
- Ngang vai, kiếp tài có thì cha mẹ không thọ.
- Thiên tài đã tuần không lại còn gặp ấn vượng thì mồ côi cha từ bé.
- Nữ trong mệnh tài tinh nhiều thì khắc cả cha lẫn mẹ.
- Thiên tài gặp tuần không, vong là đất tử tuyệt tức mẹ mất sớm.
- Cha lâm kho địa hoặc nguồn tài bị kiếp ( cướp đoạt ) thì cha mẹ mất trước.
- Huynh đệ thân vượng thì cha mẹ bất lợi.
- Thiên tài bị khắc thì cha mẹ mất trước.
- Phụ mẫu một li một hợp nhất định là ấn tinh gặp tài.
- Gặp ngang vai thì cha không sống lâu. Thiên nguyên bị hình phạt thì cha mẹ không song toàn.
- Tài gặp tuần, không mà ấn vượng thì cha mẹ mất sớm. Trụ năm gặp thất sát, kình dương thì khắc cả cha lẫn mẹ.
- Trong Tứ trụ gặp kình dương là khắc cha.
- Sao phụ mẫu đóng ở tuần không hoặc ở đất bị hình, tử, tuyệt thì cha mẹ nghèo, khó, lại đoản thọ, hoặc chết nơi đất khách quê người, hoặc không hiền lành.
- Trong Tứ trụ cho can ngày mà gặp tài thì không hay vì sẽ khắc mẹ hoặc mẹ có bệnh.
- Ấn bị xung khắc là mẹ hiền nhưng mất sớm.
- Ấn thụ bị khắc là mẹ không chết thì cũng đi xa.
- Trong Tứ trụ tài nhiều làm tổn thương ấn thì tuổi trẻ đã khắc mẹ. Ấn bị thương nên mẹ mất sớm.
- Tuổi nhỏ đã mất mẹ chỉ vì trong Tứ trụ tài nhiều làm cho ấn bị chết.
- Trong Tứ trụ đều có kiêu thần, thực thần là tượng khắc mẹ. Trụ ngày, trụ giờ đều có thực thần là khắc mẹ, hoặc bản thân người ấy lúc chết không gặp con.
- Trong Tứ trụ tài ấn đều bị thương tổn là khắc mẹ, khắc vợ.
- Trụ ngày, trụ giờ đều phạm vong thần là khắc mẹ. Ấn tinh yếu quá lại đóng ở tuyệt địa là mẹ mất sớm.
- Chi ấn gặp cô thần, quả tú là chủ về cha mẹ cô độc, lục thân không có chỗ nương tựa.
- Trụ năm đóng ở chính quan lại bị thương quan xung khắc là chủ về cha mẹ hay ốm đau hoặc không thọ.
- Trụ năm đóng ở thất sát, kình dương là tính cha mẹ bạo ngược.
- Ấn gặp quan sát nhiều là cha mẹ yếu, kém.
- Trụ năm là dụng thần bị tuế vận thiên khắc, địa xung là có tang cha mẹ.
- Ðại vận xung khắc lệnh tháng ; lưu niên , tuế quan và trụ năm bị thiên xung địa khắc là không mất cha thì mất mẹ, hoặc mất cả hai.
- Thiên tài bị tuế vận thiên khắc, địa xung là đã đến lúc mất cha.
- Ấn thụ gặp tuế vận thiên xung, địa khắc là lúc mất mẹ.
- Ấn thụ phá dụng thần là cha mẹ vất vả,bản thân cũng vất vả.
- Ấn rơi vào tuần không, vong là mẹ bệnh tật nhiều.
- Thai tức bị khắc thì mồ côi cha mẹ từ bé.
- Chi ngày xung khắc chi năm thì mẹ không chết cũng đi xa.
- Can của năm sinh bị can của lưu niên khắc, chi của năm sinh nhập mộ chi của lưu niên là có khả năng cha mất.
- Trong Tứ trụ tài nhiều làm hại ấn là từ nhỏ đã bị mất mẹ, nếu không mất mẹ thì cũng là mẹ tái giá.
- Ấn bị phá nặng là mẹ chết trước.
- Chi năm bị tháng xung khắc là tượng mất mẹ, nếu có quan sát hỗn tạp vào là khắc cả cha lẫn mẹ.
- Trụ giờ xung khắc trụ năm là khắc cả cha lẫn mẹ.
- Trụ năm gặp thực thần, trụ tháng gặp kiêu thần thì nhất định khắc cha.
- Trụ giờ khắc trụ năm là lúc cha mẹ mất không gặp mình.
- Trong Tứ trụ đều có cả thiên và tài là mẹ sẽ lấy hai đời chồng. Trong Tứ trụ có hai ấn là cha có hai đời vợ.
- Trong Tứ trụ đều có chính ấn và thiên ấn thì nhất định là có mẹ kế.
- Lộc mã của trụ năm bị xung phá thì vì việc công mà chết xa nhà.
- Trụ năm, trụ tháng gặp sát là bị mình hại, tức ông và cha cùng mất.
- Trụ năm gặp chính quan, trụ tháng gặp thương quan là ông mạnh, cha yếu.
- Trong Tứ trụ quan vượng, ấn suy là cha mẹ anh em chia lìa, phân tán.
- 1. Trong Tứ trụ tỉ kiếp trùng trùng là khắc cha
- Thiên tài là cha, quý như châu báu, ngang vai, kiếp tài là anh chị em nhiều. Người nhiều, châu báu ít, anh giành tôi đoạt không ai nhường ai, cuối cùng vật quý nát vỡ. Ðó gọi là giành giật nhau châu báu hỏng, nên gọi là tỉ kiếp khắc cha.
- Trong Tứ trụ tỉ kiếp nhiều là khắc cha, ngang vai không vượng hoặc không có ngang vai nhưng vận hành đến gặp tỉ kiếp, mà tỉ kiếp không bị chế phục, thiên tài không được cứu trợ thì đều là dấu hiệu khắc cha.
- 2. TÀI NHIỀU LÀ KHẮC MẸ
- Trong Tứ trụ ấn là mẹ, tài tinh là kị thần của ấn tinh. Nên có câu : " Tài nhiều sẽ làm tổn thương ấn, tức là khắc mẹ".
- Ví dụ này chính ứng câu : " Tuổi bé mất mẹ chỉ vì tài nhiều khắc ấn".
- Ví dụ này chính ứng câu : " Tài vượng tổn thất thương ấn nên mẹ bị mất".
- 3. Ðề cương tháng khắc năm thì cha mẹ khó toàn
- 4. Những cái khác : Phụ gặp kho địa là cha mất trước
- Kho cũng gọi là mộ. Mộ tức là phần mộ. Nếu cha mẹ gặp phải, đương nhiên là cha mất trước.
- Ví dụ này chính ứng câu: "Kiêu thần đoạt thực thần là cha nhất định chết".
- 5. Hai mẹ
- Trong Tứ trụ có hai ấn là ứng với hai mẹ. Trong Tứ trụ có cả chính ấn và thiên ấn là chủ về việc cha có vợ cả và vợ kế hoặc vợ cả và vợ lẽ. Tiêu chí này rất linh nghiệm, nhưng phải phối hợp với tướng tay và tướng mặt để xác định. Trong Tứ trụ thiên tài là cha, còn chính tài có phải là bố dượng không? Thì vì trong nghiên cứu còn chưa tìm được kết quả cuối cùng nên chưa dám khẳng định.
I. DỰ ÐOÁN VỀ SẢN NGHIỆP ÔNG CHA (1)
- Trụ năm, trụ tháng có tài, quan, ấn là ba đời giàu sang.
- Trụ năm, trụ tháng có tài, thực là tổ nghiệp hưng thịnh.
- Trụ năm, có tài quan tương trợ lẫn nhau thì được hưởng hạnh phúc của ông cha.
- Quan gặp vượng địa thì ông cha vinh hiển.
- Quan, ấn của trụ năm, trụ tháng gặp vượng địa thì tổ nghiệp có gốc hùng hậu.
- Trụ năm làm dụng thần thì được hưởng tài sản tổ nghiệp để lại.
- Tài gặp vượng địa lại không bị phá hại thì nết nhà hưng thịnh.
- Ấn thụ không bị thương tổn, lại còn sinh cho thân thì nhà cửa sang quý.
- Trụ năm gặp chính lộc, chính ấn, chính tài mà không bị phá hại thì được tiếng thơm của tổ nghiệp để lại.
- Tài tàng, quan thấu thì nết nhà thịnh vượng.
- Tài mệnh có khí là được hưởng của ông cha để lại.
- Thân và tài đều là vượng là suốt đời vui thú với ruộng vườn cha ông để lại.
- Bỗng nhiên hiển đạt thành công nhất định là nhờ hình xung mà gặp quý thần.
- Can năm làm dụng thần là tốt, tức là được âm đức của cha ông để lại.
- Tài, thương, ấn trên trụ năm mà đắc địa hoặc gặp thiên ất quý nhân, hoặc thiên đức, nguyệt đức thì đời ông cha phú quý.
- Can năm đóng ở đế vượng lại gặp quan là tổ tiên phú quý.
- Tài vượng sinh quan là tuổi trẻ đã thành nghiệp.
- Ngày thông với lệnh tháng là nhờ tổ tiên mà yên ổn.
- Trụ năm, trụ tháng ở vượng địa nên gốc của tổ nghiệp hùng hậu.
ứng với câu : " Trên trụ năm, trụ tháng có tài, thực là tổ nghiệp ông cha hưng thịnh".
- Ví dụ này chính ứng với câu : " Tài gặp vượng địa thì nết nhà hưng thịnh" và câu : " Thân, tài đều vượng thì suốt đời vui thú ruộng vườn cha ông để lại".
II . DỰ ÐOÁN VỀ SẢN NGHIỆP ÔNG CHA (2)
- Trong Tứ trụ ấn bị tổn thương là nhà cửa sa sút dần, rời xa quê hương. Nếu rơi vào đất tử tuyệt thì còn mất quan, mất chức.
- Lệnh tháng bị xung khắc thì bại sản tổ nghiệp.
- Năm tháng xung nhau thì khó giữ được tổ nghiệp.
- Bị kình dương, thất sát cướp đoạt tài hoá quỷ ( xấu) là nhà cửa sa sút, xa rời quê hương.
- Ấn tinh bị thương thì làm hỏng tổ nghiệp, lìa bỏ quê hương.
- Trụ giờ gây tổn thương cho ngày và tháng thì gia tài tự p.
- Năm, tháng, ngày hợp với quý nhân hoặc trạch mã, hoặc ấn thụ và không bị khắc hại, hình, xung thì tổ nghiệp phú quý vinh hoa.
- Trong Tứ trụ kho bị phá lại còn gặp xung phá thì nhà cửa sa sút dần.
- Thiên ấn gặp kình dương thì xa rời quê hương hoặc đi làm tăng đạo.
- Trên trụ năm gặp thất sát, kình dương , kiếp tài, kiêu thần thì cha ông nghèo đói.
- Trên trụ năm gặp tử, tuyệt, mộ địa hoặc bị hình, xung, khắc hại là ông cha phiêu bạt lênh đênh.
- Thiên quan mà có chế ngự thì không phải là hung, có cơm ăn áo mặc đầy đủ.
- Trong Tứ trụ gặp cả vong thần, thất sát là cha ông không để lại được gì.
- Nếu trụ ngày và trụ giờ có thìn, tuất tương xung nhau thì xa rời quê hương là tốt.
- Cách góc, tam hình là cốt nhục hình khắc nhau, phải rời bỏ quê hương.
- Tài tinh bị phá cũng là rời bỏ quê hương.
- Kiêu thần đóng ở trụ năm là rời bỏ quê hương.
- Trụ năm gặp kình dương là người phá tổ nghiệp.
- Lệnh tháng kiến lộc là khó giữ được tổ nghiệp
- Chi tháng giống chi năm là không có tổ nghiệp.
- Trụ ngày đi ngược với kiến lộc và trạch mã là phá tổ nghiệp, rời bỏ quê hương.
- Trụ năm làm thương tổn quan thì đời cha tốt, đời ông kém.
- Trụ ngày hưu tù, tài quan vượng là nhà chồng vượng, nhưng nhà vợ mất tổ nghiệp.
- Trên năm tháng không có tài quan, từ bé lại hành bại bận là phá nhà xa quê.
- Trụ ngày vượng nhưng không có chỗ dựa là rời quê đi xa, nếu không dời chỗ ở luôn thì sẽ chết xa quê hương.
- Hàm trì hợp với quan là nhà sa sút, người xa rời nhau.
- Thực thần gặp kiêu thần, gặp tài là nhà tan, người mất.
- Trong Tứ trụ gặp cả kiêu thần, thực thần thì người đó nghèo xơ xác.
- Ấn thụ bị thương tổn thì khó giữ được tài sản của ông chà.
- Trụ năm là kị thần thì ông cha nghèo đói rách nát.
- Trụ năm là thất sát, tỉ kiếp, thương quan là ông cha đói rách.
- Can năm đóng ở tử tuyệt, mộ hoặc bị hình, xung, khắc, là tổ tiên suy bại.
- Lộc bị phá là rời quê hương đi xa.
- Thân vượng không có chỗ dựa, lại gặp trụ năm xung lệnh tháng là lập nghiệp xa quê hương.
- Thân bị phá lại không có chỗ dựa, nếu không xa rời tổ nghiệp thì cũng là người phải đi xa.
- Thân, tài đều nhược thì khó mà giữ được gia nghiệp.
- Thổ khô, thủy cạn là người phá tổ nghiệp, rời xa quê hương.
- Mộc nặng, thổ nhẹ là người suốt đời phiêu bạt.
- Ngũ hành phản lại nhau là người tuy đang yên ổn nhưng cần đề phòng nguy cơ.
- Sát nhiều là tuy đang yên nhưng phải phòng xa sự nguy hại.
- Mã rơi vào không vong là lưu lạc khắp nơi.
- Ngày giờ mão dậu xung nhau là suốt đời dời chỗ ở.
- Âm dương xô lệch nhau là giao thiệp bạn bè ít.
- Năm tháng không có tài, quan, ngày giờ không có tài quan là tự mình phấn đấu làm nên cơ nghiệp.
- Trụ năm gặp trạch mã là ông cha đi buôn bán ở bên ngoài.
- Trụ tháng phá tài quan là ông cha nghèo không để gì lại gì, tay trắng dựng cơ đồ.
- Kiêu thần đóng ở ngôi tí là phá mộ tổ.
- Tứ trụ đều có kiêu, ấn là ông cha lênh đênh phiêu bạt.
- Tài tinh bị phá là lúc hết ruộng vườn, đi khỏi quê hương.
- Trụ năm có thất sát, tỉ kiếp là ông cha không có một tấc đất, xa rời quê hương.
- Trụ ngày xung khắc trụ năm là không dựa được cha ông.
- Tài phúc bị mất là khuynh gia bại sản.
- Trạch mã không hợp là rời bỏ quê hương.
- Ví dụ này can năm ở đất từ, tuyệt nên ứng với câu : " Tổ nghiệp suy bại".
- Ví dụ này chi tháng giống chi năm nên "không có tổ nghiệp".
- "trụ ngày, trụ giờ đều gặp tài, là tự mình thành gia nghiệp". Sau lúc đất nước mở cửa thì người ấy giàu vọt lên.
Quan sát
Quan Sát có tính chất quản lý, lãnh đạo, bó buộc, đề bạt, xử phạt, quyết sách. Quan Sát là lực lượng “khắc mình”. Xét trên mối quan hệ xã hội, người sai khiến, khích lệ, khuyên mình, kích thích, chi phối, bó buộc, áp bức, giáo huấn mình hoặc ở các phương diện khác có quan hệ với mình giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi của Quan Sát. Do đó, người đại diện cho Quan sát là tình nhân của chồng với mệnh nữ, quan viên chấp hành pháp luật, cảnh sát, cấp trên, ông chủ, ác ba giáo viên. Chính quan là lực lượng khắc chế khác tính chất với nhật chủ. Lực khắc ôn hòa, lưu tình mà ít biến hóa. Thất sát là lực lượng khắc chế cùng tính chất với nhật chủ lực khắc mãnh liệt, ít tình và nhiều biến hóa. Do đó, Chính quan đại diện người quan tâm, dạy bảo, không dễ lấn át mình. Thất sát đại diện cho người không quan tâm, không nói lý lẽ, dễ lấn át mình. Quan Sát là khắc mình, tính tự do thấp, có tính ức chế, khả năng tự bó buộc, dẫn đến không lạc quan, không thích nói cười, nghiêm túc, tự mình tạo áp lực cho
mình, có tinh thần trách nhiệm cao, tự mình khống chế và tự mình bó buộc là điểm nổi trội của họ. Một khi nói ra sẽ quyết tâm thực hiện, cũng giỏi quản lý người khác.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YẾU CỦA THẬP THẦN
Chính quan - Thất sát
Quan sát vừa phải |
Quan sát quá mạnh |
Quan sát quá yếu |
Tính kỷ luật và tính cảnh giác cao, thường bó buộc vừa phải tiết chế lời nói cũng như là hành động của mình và người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" nhát gan, đa nghi" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " tự do, tùy tiện" |
Tính phục tùng cao, đối với quy tắc hợp lý sẽ nghiêm chỉnh chấp hành. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thiếu quyết đoán" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự tiện, không câu nệ" |
Tính trách nhiệm cao, dễ thích ứng công việc có gánh nặng, áp lực |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cam chịu, hầu hạ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" chối bỏ trách nhiệm" |
Quan niệm lý tính mạnh mẽ, thường phát huy hiệu suất quản lý đặc thù đối với con người và công việc. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" biến thái, ngang ngược" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " nuông chiều, sinh hư" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Chính quan - Thất sát
Đặc điểm cơ bản |
Chính quan là lực lượng khắc khác tính chất, là khắc có tinh. Lực khắc không hết, thiền về khống chế, bỏ buộc bản thân và xây dựng địa vị có tính ôn hòa, chậm chạp, tỉ mỉ, trạng thái tĩnh, ổn định, lâu dài. Thất sát là lực lượng khắc cùng tính chất, là khắc vô tình. Lực khắc hết, thiên về khống chế, bó buộc bản thân và xây dựng địa vị có tính nhanh, lớn mạnh, cấp tiến, trạng thái động, biến đổi, cấp tốc, ngắn.
|
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Chính quan hiển thị pháp quy và quyền uy có đặc điểm nghĩa hẹp, lâu dài, nhẫn nại. Khuynh hưởng ý thức của Thất sát hiển thị pháp quy và quyền uy có đặc điểm nghĩa rộng, cấp tốc.
|
Trạng thái cân bằng |
Lực lượng cả hai mạnh tương đương, văn võ song toàn, nắm bắt linh hoạt, biết cách khích lệ bản thân, quản lý quần chúng, thường duy trì nguyên tắc cương nhu thích hợp với chức vị và quyền thế.
|
So sánh 1 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thiên về khả năng bó buộc bản thân chậm mà lâu, như: Hành vi điều chỉnh vừa phải, tuân thủ pháp lệnh, chọn mặt gửi vàng, thiết lập mục tiêu dài. Thất sát mạnh hơn Chính quan, thiên về khả năng bó buộc bản thân mãnh liệt mà ngắn, như: Kìm nén tham vọng, lao lực trắc trở, ra sức làm việc, thiết lập mục tiêu ngắn.
|
So sánh 2 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thiên về thuận theo ôn hòa với sự bó buộc bên ngoài như: Nghe theo thiện ý của người khác, tuân thủ mệnh lệnh hợp lý của cấp trên, quan tâm tới sự chỉ bảo của bề trên. Thất sát mạnh hơn Chính quan, thiên về cưỡng chế với sự bó buộc bên ngoài, như Trừng phạt nghiêm khắc của quan tòa, áp bức của ác bá, quy định của chính phủ.
|
So sánh 3 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Thất sát mạnh hơn Chính quan, thường thể hiện bằng hành động.
|
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 2 ): SINH TIẾT CỦA THẬP THẦN
Quan sát - Tài tinh
Phân tích |
Quan Sát hóa tiết Tài tình như dùng tiền để mua địa vị xã hội. Chính quan có thể hóa tiết hết Thiền tài. Thất sát có thể hóa tiết hết Chính tài. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thể mạnh tương đương, thường thiên về tham vọng chi phối, chiếm hữu, xem trọng vật chất, đánh giá đúng đắn về các mối quan hệ, tính tự giác cao phục tùng, trách nhiệm, tư duy lý tính xác đáng. Có khả năng mưu sinh, nhiệt tình với công việc, giỏi dùng tài chính để nắm bắt quyền thế, giành được địa vị. Thiên tính theo đuổi hưởng thụ vật chất được phát huy cao. |
Trạng thái cực đoan |
Tài tinh quá yếu, Quan Sát quá mạnh. Nội hàm của Tài tinh dường như không giữ được, bị Quan Sát hóa tiết hết. Khuyết điểm là thiếu quyết đoán, vất vả, tính cách bao ngược, thậm chí cẩu thả, lười nhác, lơ là, coi nhẹ của cải, tùy tiện. Tài tinh quá mạnh, Quan Sát quá yếu. Nội hàm của Tài tinh ứ tắc, khó phát huy. Khuyết điểm là thích an nhàn, lười lao động, ngang ngược, chuyên quyền, không tôn trọng người khác, coi thường ân nghĩa. Thậm chí tự do buông thả, tùy tiện, trốn tránh trách nhiệm, quen được nuông chiều. |
Trạng thái khác biệt |
Tài tinh yếu, Quan Sát mạnh. Năng lượng nhỏ yếu của Tài tinh chuyển hóa thành năng lượng lớn mạnh của Quan Sát, chỉ cần vận dụng một ít tiền bạc trên nhiều công việc hoặc có chức quyền trên nhiều phương diện. Tài tinh mạnh, Quan Sát yếu. Năng lượng lớn mạnh của Tài tinh chuyển hóa thành năng lượng nhỏ yếu của Quan Sát, cần vận dụng nhiều tiền bạc trên một vấn đề của cuộc sống hoặc nắm giữ chức quyền trên một phương diện. |
Biện pháp hóa giải |
Chính tài quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Thất sát. Thiên tài quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Chính quan, Hai phương thức này đều có thể khống chế Tài tinh cường vượng, tích lũy quá lâu dẫn đến sự cố. |
Ấn tinh - Quan sát
Phân tích |
Ấn tinh hóa tiết Quan sát, như dùng địa vị xã hội đạt được danh dự. Chính ấn có thể hóa tiết hết Thất sát. Thiên ấn có thể hóa tiết hết Chính quan. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh tương đương, có tính kỷ luật, cảnh giác, phục tùng, tinh thần trách nhiệm, tuân thủ nguyên tắc. Cũng có ý thức phục vụ, vinh dự, đồng lòng, tín nhiệm, tuân thủ nguyên tắc. Cũng có ý thức phục vụ, vinh dự, đồng lòng, tín nhiệm và quan niệm truyền thống thích hợp. Phần lớn nhiệt tình trong công việc, có lòng khoan dung, tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Thiên tính tự hoàn thiện bản thân và đạt được địa vị trong xã hội được phát huy một cách hiệu quả. |
Trạng thái cực đoan |
Quan sát quá yếu, Ấn tinh quá mạnh. Nội hàm của Quan sát bị Ấn tinh phát huy hết. Khuyết điểm là dễ sa vào hư vinh, lười nhác, ỷ lại, cổ hủ, mềm lòng, thậm chí tự do tùy tiện, bừa bãi đùn đẩy trách nhiệm, quá được nuông chiều. Quan sát quá vượng, Ấn tinh quá yếu. Nội hàm của quan sát bị ứ tắc, khó phát huy hiệu quả. Khuyết điểm là nhát gan, hay nghi ngờ, thiếu quyết đoán, lao lực, biến thái, cứng nhắc, tự cho mình là đúng, thích mới ghét cũ, tính toán chi li. |
Trạng thái khác biệt |
Quan Sát yếu, Ấn tinh mạnh. Năng lượng nhỏ yếu của Quan Sát chuyển hóa thành năng lượng lớn mạnh của Ấn tinh, vận dụng một ít chức vị, quyền hành trên nhiều hoạt động hoặc làm việc thiện, tích đức trên nhiều phương diện. Quan Sát mạnh, Ấn tinh yếu. Năng lượng lớn mạnh của Quan Sát chuyển hóa thành năng lượng nhỏ yếu của Ấn tinh, vận dụng nhiều chức vị, quyền hành trên một hoạt động hoặc chỉ có thể làm việc thiện, tích đức trên một phương diện. |
Biện pháp hóa giải |
Chính quan quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Thiên ấn. Thất sát quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Chính ấn. Hai phương thức này đều có thể ngăn ngừa Quan Sát cường vượng, tích lũy quá lâu dẫn đến sự cố. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 3 ): KHẮC HAO CỦA THẬP THẦN
Thực thương - Quan sát
Phân tích |
Thực Thương khắc Quan Sát, như dùng tri thức lý tính thao túng luật pháp, quyền hành. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thể mạnh mà tương đương, thích hợp thao túng chức vị quyền thế đồng thời có tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, cảnh giác. |
Trạng thái cực đoan |
Thực Thương quả mạnh, Quan Sát quá yếu. Thực Thương sinh ra lực phá hoại đối Quan Sát, có thể xuất hiện những đặc điểm sau: Không thích chịu sự quản chế can dự quá đáng của người khác. Cũng không thích dùng chức quyền địa vị của mình cưỡng chế người khác, không thích áp lực công việc rắc rối, không dễ tiếp nhận phê bình kiểu thuyết giáo hoặc lời khuyên không thuận tai, có tính phản kháng khá cao với pháp luật và quy tắc không hợp lý. Trong tuế vận thiếu Ấn tinh để cân bằng Thực Thương cường vượng, chủ về người cậy vào tài năng của bản thân mà làm nhiều điều trái đạo lý.
Thực Thương quá yếu, Quan Sát quá vượng. Thực Thương sẽ không thể cai quản Quan Sát, có thể xuất hiện những đặc điểm sau: Dễ tiếp nhận sự chỉ huy và quản chế hoặc huấn luyện nghiêm khắc của kẻ mạnh. Thích dùng quyền lực địa vị của mình cưỡng chế người khác. Quen với cuộc sống theo quy luật hà khắc, dễ thích ứng với công việc có nhiều áp lực, vụn vặt, có tính chịu đựng khá cao với pháp luật và quy tắc không hợp lý. Trong tuế vận thiếu Tỷ Kiếp sinh phù Thực Thương suy yếu, chủ về người có tính cẩu thả lười nhác, hiếp yếu sợ mạnh.
|
Trạng thái khác biệt |
Thực Thương yếu, Quan Sát mạnh, có hành vi và nguyên tắc hạn chế, tự nhận trách nhiệm và quyền hạn vượt quá thực tế, tạo ra sự mạo hiểm. Thực Thương mạnh, Quan Sát yếu, thường nhận trách nhiệm và quyền hành ít hơn người khác, tạo ra sự sự tổn thất về trí tuệ. |
Biện pháp hóa giải |
Chính quan quá vượng, phương thức khắc Quan lý tưởng là dùng Thương quan. Thất sát quá vượng, phương thức khắc sát lý tưởng là dùng Thực thần. Hai phương thức này đều có thể khống chế được Quan Sát cường vượng, phát huy tác dụng khá cao. |
Quan sát - Tỷ kiếp
Phân tích |
Quan Sát khắc Tỷ Kiếp giống như dùng chức quyền, địa vị quy phạm hoặc chế ước lời nói và hành động của bản thân.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khi thế mạnh mà tương đương, quy phạm thích hợp với thân tâm và chế ước thích hợp với lời nói và hành động, có lòng tự tôn, cạnh tranh nghề nghiệp, ý thức tự chủ, quan niệm bình đẳng.
|
Trạng thái cực đoan |
Quan Sát quá mạnh, Tỷ Kiếp quá yếu. Quan Sát sinh ra lực phá hoại đối với Tỷ Kiếp, không thích tranh đấu, không thích liên quan đến cạnh tranh, không muốn biểu hiện chủ kiến của mình trong đoàn thể, cũng không dễ thích ứng quan hệ giao tiếp phức tạp trong thời gian dài. Cá tính ôn hòa, không quá tự tôn, nguyện chịu thiệt thời mà không muốn chuộc lợi. Hào sảng phóng khoáng, không chi ly. Trong đại vận, lưu niên thiếu Thực Thương cân bằng Quan Sát, chủ về người có lập trường lung lay, mềm yếu, sợ bị lừa gạt. Quan Sát quá yếu, Tỷ Kiếp quá mạnh. Quan Sát không thể quy phạm khống chế Tỷ Kiếp, chủ về người hiếu thắng, không dễ chịu thua cuộc, thích tham gia cạnh tranh mạnh, dễ biểu hiện chủ kiến riêng trong đoàn thể, dễ thích ứng quan hệ giao tiếp phức tạp trong thời gian dài. Lòng tự tôn mạnh, cá tính cương quyết, tuy hòa đồng nhưng không muốn để người khác quá chuộc lợi, ý thức so sánh mạnh mẽ, thích tính toán cho đi và nhận lại. Trong đại vận, lưu niên không có Tài tinh sinh phù Quan Sát, chủ về người ích kỷ tư lợi, ngoan cố.
|
Trạng thái khác biệt |
Quan Sát yếu, Tỷ Kiếp mạnh, quá quan trọng so sánh không cần thiết, hành động của cơ thể và tổn thất về tinh thần vượt quá năng lực thực tế, hình thành sự mạo hiểm và lãng phí thân tâm. Quan Sát mạnh, Tỷ Kiếp yếu, luôn luôn vì cạnh tranh thành bại nhỏ mà tiêu hao chức vị và quyền thế nhiều hơn người khác.
|
Biện pháp hóa giải |
Tỷ kiên quá vượng, phương thức khắc Tỷ lý tưởng là dùng Thất sát Kiếp tài quá vượng, phương thức khắc Kiếp lý tưởng là dùng Chính quan. Hai phương thức này đều có thể khống chế được Tỷ Kiếp cường vượng, phát huy tác dụng khá cao. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 4 ): SỰ VIỆC, HÌNH TƯỢNG CỦA THẬP THẦN
Con đường thu hoạch lợi ích của Quan sát
Quan hệ lục thân |
Con đường thu hoạch lợi ích |
Ví dụ |
Thực thương khắc xuất Quan sát |
Dùng tri thức hoặc kỹ năng thu được quyền hành |
Đọc sách đỗ đạt, thì cử làm quan, dùng tái ng mưu cầu chức vị, nhờ tài năng bản thân mà được đ bạt, trong dụng.
|
Tài tinh sinh xuất Quan sát |
Dùng tiền tài hoặc của cải thu được quyền hành |
Quyên góp tiền tài để được để bật, lãnh đạo doanh nghiệp kinh doanh thành công, sỹ thần yêu nước tích tụ nhiều tiền của, danh gia vọng tộc địa phương có nhiều gia sản.
|
Quan sát sáng tỏ Quan sát |
Dùng quyền uy đã có khuếch trương quyền hành |
Từ chức vị nhỏ biết cách luồn lách mà được đề bất tới chức vị cao hơn, may mắn được làm chức cao hơn. được đề bạt đúng thời điểm,
|
Ấn tinh dẫn xuất Quan sát |
Dùng phẩm cách hoặc chữ tín thu được quyền hành |
Nhiều lãnh đạo tập đoàn công ty biết tạo ra thương hiệu cho bản thân và công ty của mình, đạt được thương hiệu lớn mạnh trên thị trường. Từ đó, địa vị xã hội của bản thân tăng lên, được nhiều người biết đến và ủng hộ.
|
Tỷ kiếp dẫn xuất Quan sát |
Dùng sức lực hoặc năng lực có thể thu được quyền hành |
Tướng sỹ ra trận chiến đấu anh dũng, được phong tặng anh hùng, đề bạt lên chức vị cao hơn. |
4.2 THIÊN TÀI -Nguồn của=Nghề Phụ-Cha-Vợ lẽ:
Công năng: Là vật dưỡng mệnh, người người cần có, nhưng không phải ai cũng có được, xưa nay đều như thế. Chính, thiên tài nói chung được xem là cát thần.
Năng lực: Sinh quan sát, xì thực thương, áp chế kiêu, hại chính ấn. Nhật vượng-quan sát nhược > Sinh quan sát. Nhật vượng-Tài nhược > Xì thực thương. Nhật vượng và kiêu vượng > Thiên tài chế áp kiêu. Nhật vượng và chính ấn vượng > Áp chế Thiên ấn.
Đại biểu: Của riêng, trúng thưởng, phát tài nhanh, đánh bạc, tình cảm với cha, Nam-Tình cảm với vợ lẽ.
Tâm tính: Khảng khái, trọng tình, thông minh, nhạy bén, lạc quan, phóng khoáng, dễ ba hoa, bề ngoài, thiếu kềm chế, rễ phù phiếm.
Vượng Suy: Thân , tài, quan vượng > Phú quý song toàn. Thân vượng có thiên tài, không có hình xung, tỉ kiếp > Bậc phú ông+ Sống lâu.
Thấu Can-Kị Tỷ Kiếp: Vì như thế vừa khắc cha + Tổn hại vợ.
Can chi đều có: Người xa quê, tay không lập nghiệp trở nên giàu có, tình duyên tốt đẹp.
Nữ thân nhược: Kị gặp tài vì phần nhiều gây niên luỵ, phiền phức cha đẻ.
Sinh-Vượng: Cha con hoặc thê thiếp hòa thuận, được của nhờ cha, nhờ vợ. Cha và vợ đều sống lâu, vinh hiển.
Mộc dục-Mộ-Tử tuyệt: Mộc dục - Háo sắc phong lưu; Mộ địa: là cha hoặc vợ chết sớm. Lâm tử, tuyệt, hình, xung: Cha hoặc vợ suy khốn, thậm chí gặp nạn.
Ở năm: Can có là người xa quê hương, đời lận đận. Can chi đều có- Trẻ đã làm con nuôi.
T.Tài-Kiếp địa: Năm có T.Tài, chi năm có Tỉ Kiếp > Cha rời xa quê hương, chết nơi đất khách.
Ở tháng: Can năm+ Tháng đều có > Người cha nắm quyền trong nhà hoặc mình từ bé là con nuôi.
Ở ngày-giờ: Trụ ngày, trụ giờ có thiên tài, không bị hình xung tỉ kiếp là người trung niên và cuối đời phát đạt.
Trước-Sau: Trụ tháng có, trụ giờ gặp Tỉ Kiếp > Trước giàu sau nghèo. Chi giờ có thiên tài là vợ lẽ cướp quyền vợ cả, hoặc chồng thiên lệch vợ lẽ.
1. Thiên tài
Thiên tài có sở thích đầu cơ, dám mạo hiểm trọng nghĩa khinh tài, khảng khái hào hiệp. Do đó có nhiều mối quan hệ tốt, có khả năng thích ứng với môi trường, không thích hợp yên ổn, công việc đơn điệu, thích được bôn ba như kinh doanh, buôn bán, khai thác thị trường. Thiên
tài cả đời có cơ duyên, đặc biệt về phương diện tiền tài hoặc phụ nữ, luôn có ly hợp được mất đầy kịch tính.
2. Thuộc tính của thiên tài
2.1 Ưu điểm
Khảng khái, mềm dẻo, thông minh chăm chỉ, hào phóng nghĩa hiệp, thích giúp người khác, phong lưu đa tình, làm việc nhanh chóng, lạc quan tiến thủ, linh hoạt, giỏi nắm bắt cơ hội kiếm tiền. Biết lập kế hoạch, biết lúc cần nắm lấy và khi nên buông tay, không quá lệ thuộc vào tiền tài. Trong cuộc đời gặp nhiều cơ hội tốt, thường có thu hoạch bất ngờ, đặc biệt trên phương diện tiền bạc và phụ nữ, luôn có ly hợp, được mất đầy kịch tính.
2.2 Nhược điểm:
Tình tình khẳng khái, không quá coi trọng tiền bạc, dẫn đến xa xỉ lãng phí, dễ thá hại gia nghiệp. Do thích vui chơi bên ngoài, tiêu xài phóng khoáng, cộng với thông minh khôn khéo nên dễ lấy lòng phụ nữ hoặc chìm đắm vào tửu sắc, không biết tiến chế, tình cảm không chung thủy, thích vui chơi, ảnh hưởng đến sự yên ổn của gia đình. Không lệ thuộc tiền bạc, chi tiêu nhiều, thành tích bấp bênh. Nếu là kỵ thần sẽ có hành vi lừa gạt. Tứ trụ không có Chính tài, Thiên tài thường không biết kiếm tiền lại keo kiệt, không yêu vợ. Mệnh nam có Thiên tài vượng không yêu vợ cả chỉ yêu vợ lẽ, hôn nhân không đẹp. Mệnh nữ có Tài vượng thích kiếm tiền và bất động sản.
2.3 Tại niên trụ
Có sản nghiệp tổ tiên, gia cảnh tốt, cả đời có đồ ăn ngon, đồ dùng tốt, không trao đổi nhiều với cha, không thích đọc sách. Khi nhỏ thích kinh doanh, muốn kiếm tiền, mải chơi. Cha là tấm gương phấn đấu của cả đời, tình cảm đối với cha khó nói hết bằng lời, hồi ức khi nhỏ là những ký ức vui.
2.4 Tại nguyệt trụ
Thích kiếm tiền nhưng không quá coi trọng tiền bạc, dễ kết thân người khác.
2.5 Tại nhật trụ
Vợ (chồng) có đặc điểm của Thiên tài, giỏi giang, giải quyết công việc nhanh, không quan trọng chi tiết nhỏ. Mệnh nam có khuynh hướng sủng ái vợ lẽ thương hại vợ cả. Năng lực của nữ tốt hơn chồng, kết hôn muộn có thể tránh được sự đổ vỡ trong gia đình.
2.6 Tại thời trụ
Về già giàu có, càng già càng muốn kiếm tiền. Nhật chủ mạnh dễ kiếm tiền hoặc có sự nghiệp lớn nhưng phải có bất động sản. Nếu không vì không coi trọng tiền tài mà tài đến nhanh đi cũng nhanh. Bản thân không nên tự quản lý tài chính.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YẾU CỦA THẬP THẦN
Thiên Ấn - Chính Ấn
Ấn tính vừa phải |
Ấn tính quá mạnh |
Ấn tính quán yếu |
Trọng hư vinh, thích xây dựng hình tượng, thích được khen ngợi |
Tâm tính có thể diễn biến thành" chỉ là hư vinh" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự cho là đúng" |
Tin tưởng giao trọng trách cho người khác, đồng thời cũng được ủy thác cho người khác |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lười nhác, dựa dẫm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quật cường" |
Quan niệm truyền thông, mong muốn duy trì đạo đức luân lý |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thích mới ghét cũ" |
Ý thức phục vụ mới mẻ, có sự đồng lòng, tự nguyện cống hiến hy sinh |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quá mềm lòng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tính toán chi li" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP (1): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Chính Tài - Thiên Tài
Đặc điểm cơ bản |
Chính tài là lực lượng bị khắc khác tính chất, là khắc có tình. Lực khắc không hết, thiên về quản lý công cụ sinh tài và theo đuổi cuộc sống hưởng thụ vật chất có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp, trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài Thiên tài là lực lượng bị khắc cùng tính chất, là khắc vô tình. Lực khắc nhất định l hết, thiên về quản lý đối với công cụ sinh tài và theo đuổi hưởng thụ vật chất có tính chất nhanh chóng, đại khái, trạng thái động, biến đổi, vội vàng, ngắn, |
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Chính tài thể hiện đặc điểm của sự vật có trạng thái tĩnh ổn định, bảo thủ. Khuynh hưởng ý thức của Thiên tài thể hiện đặc điểm của sự vật có trạng thái động, biến đổi, mới mẻ. |
Trạng thái cân bằng |
Hai lực lượng mạnh mà tương đương, thường coi trọng tình cảm và lý trí, lương tâm và lợi ích ngang nhau. Khi quản lý cấp dưới, luôn có ăn và uy. Khi theo đuổi tài phú, mức độ công kích và cổ thủ vừa phải, |
So sánh 1 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thiên về hòa bình chắc chắn, như: Nhân viên khôn khéo, cấp dưới hướng nội, máy móc y tế, bàn ghế làm việc, máy thu ngân và công cụ sinh tài khác có tính chất cố định. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thiên về rủi ro nhiều, như: Nhân viên nông nổi, cấp dưới hướng ngoại, máy móc sản xuất, xe cộ vận chuyển và công cụ sinh tài khác có tính chất không ổn định. |
So sánh 2 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thiên về an nhàn, như: Giao dịch đất đai, mua bán nhà cửa, kinh doanh ở phố, bách hóa, ngành nghề bán lẻ, ngành bảo hiểm, công việc phục vụ hướng nội trong công ty. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thiên về cơ động, như: Buôn bán, ô tô, ngành chế tạo, kiến trúc, công trình, công việc hướng ngoại của công ty. |
So sánh 3 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thường thể hiện bằng hành động cụ thể. |
Xem tổng hợp kiến thức về Thiên Tài: Xem tại đây
4.1 CHÍNH TÀI-Nguồn sống=Nghề LĐ-Vợ
Công năng: Dưỡng mệnh, người người cần có, nhưng không phải ai cũng có được.
Năng lực: Sinh quan sát, xì thực thương, áp chế kiêu, hại chính ấn. Nhật vượng-quan sát nhược > Sinh quan sát. Nhật vượng-Tài nhược > Xì thực thương. Nhật vượng và kiêu vượng > Thiên tài chế áp kiêu. Nhật vượng và chính ấn vượng > Hỏng chính ấn.
Đại biểu: Tài lộc, sản nghiệp, tài vận, tiền lương, tình cảm với vợ.
Tâm tính: Cần cù, tiết kiệm, chắc chắn, thật thà, dễ cẩu thả, thiếu tính tiến thủ, thậm chí nhu nhược, No có Tài năng. Tài ưa nhàn, lười, lại tham làm tiền, đa số không ham học.
Vượng-Suy: Tài làm mình hao tổn, là nguồn sống. Tài nhiều sợ thân nhược. Thân mạnh lại không có > Thân = Tài > tốt. Tài lâm phi địa=Nghèo.
Nhật+Tài vượng: Đại gia, + chính quan - Phú quý song toàn, Nam- Vợ hiền nội chợ. Nam có thực thần-Vợ giúp
Thân nhược-Tài vượng: > Nghèo, cầu cũng khó, nhà vợ nắm quyền, rễ gặp hoạ hoặc tai nạn.
Tài nhiều: Tình phá tài, còn khắc ấn không lợi cho mẹ. Nhiều+Tạp > học kém, dốt nát. Tài tàng= Phong phú, Lộ-Hào phóng, ít của. Tài có kho khi xung tất phát.
Tài-Kiếp: Cùng có- Dễ gặp tiểu nhân, Tài bị tổn thất.
Tài-Quan vượng: Chính tài gặp vượng quan, sát > Vợ lấn át chồng.
Tài-Năm: thân vượng là ông cha giàu có, nguyệt thấu quan tinh là xuất thân trong gia đình phú quý
Tài-Tháng: thân vượng là ông cha giàu có, nguyệt thấu quan tinh là xuất thân trong gia đình phú quý
Tài-Ngày: Là được vợ giúp thành giàu, gặp hình xung khắc hại thì vợ chồng bất hòa.
Tài-Giờ: Con cái giàu có, cuối đời hưởng Phúc.
Chính tài:
1. Chinh tài
Chính tài đại diện tiền bạc và thê thiếp đối với mệnh nam, chỉ đại diện là tiền bạc đối với mệnh nữ. Chính tài đại diện tiền bạc do vất vả mà có được, bất động sản, thu nhập ổn định, cũng đại diện có thói quen chăm lo gia đình, không thích thay đổi, bảo thủ, làm việc chắc chắn, khó có đột phá, thậm chí không thay đổi, khiến con người tránh xa. Nỗ lực phấn đấu, cần kiệm, bị ảnh hưởng của vợ (chồng) khá lớn. Họ không thiếu tiền không sợ không có tiền, vì thế dễ có tâm lý hưởng thụ. Khi đối mặt nguy cơ căng thẳng họ luôn biết cách để kiếm được lượng tiền đủ để vượt qua cửa ải khó khăn. Cũng có nhiều người từ nhỏ hưởng thụ cuộc sống đầy đủ, tạo thành thói quen thích tiêu tiền nhưng luôn phung phí tiền, tiêu tài xa xỉ không đúng lúc đúng chỗ.
2. Chính tài có đặc điểm thường suy nghĩ kỹ càng được mất, không dễ dàng tin người khác, bản tính thành thực nhưng thiếu khôn khéo. Kinh doanh buôn bán thường đề ra những nguyên tắc cứng nhắc, không biết kinh doanh, thiếu linh hoạt, không thích đầu cơ mạo hiểm. Biểu hiện ở phương diện tiền tài là tiết kiệm, tuy nhiều tiền nhưng không lãng phí. Trong cuộc sống gia đình, biết trân trọng vợ nhưng cũng chú trọng thực tế, có phương pháp sử dụng con người.
3. Thuộc tính của Chính tài:
3.1 Ưu điểm:
Tiết kiếm, trọng chữ tín, an phân, lượng sức mà làm, không tham làm không thích đầu cơ mạo hiểm. Cần củ lao động, thực hiện từng bước, trấn trong tiên bạc tích tiểu thành đại, Coi trọng cuộc sống gia đình, có trách nhiệm với vợ không lập. dị, không gây thị phi, không nổi trội, không xách mé, không tín tà ma ngoại đạo, coi trọng cuộc sống vật chất.
3.2 Khuyết điểm
Quá coi trọng vật chất dẫn đến thiếu thốn tinh thần, nhà giàu mà tâm nghèo thích chơi lười làm, chỉ ôm của cải, tính toán chí lí, vì nhỏ mất lớn, bạc tình bác nghĩa, quá cẩn thận, thiếu dũng khí. Sự nghiệp binh binh, giữa đường từ bỏ, đơn điệu, không giỏi biến thông, thiếu tinh thần trách nhiệm. Mệnh nam có 2 Chính tại có thể kết hôn 2 lần. Tứ trụ thiếu Tài không có tình cảm với vợ, dù có yêu cũng không thể hiện. Thiên can có Chính tài, Thiên tài mà Địa chỉ không có khổ, cả đời tiền tài đến rồi lại đi.
3.3 Tại niên trụ
Khi nhỏ không thích đọc sách, gia cảnh tốt, có sản nghiệp tổ tiên, cơ hội kiếm tiền nhiều, dễ được kế thừa tài sản tổ tiên. Trong nhà, mẹ quản kinh tế. Nhật chủ vương thì khi nhỏ gia cảnh tốt. Nhật chủ yếu thì gia đình thiếu thốn, thậm chí sau khi kết hôn cũng vậy.
3.4 Tại nguyệt trụ
Thích kiếm tiền và cũng dễ thu được tiền tài, dễ thỏa mãn, không thích đọc sách.
3.5 Tại nhật trụ
Mệnh nam có vợ hiền, dung mạo đẹp, có thể hỗ trợ cho vận của chồng. Người chồng của mệnh nữ có thuộc tính của Chính tài,.
3.6 Tại thời trụ
Về già thích du ngoạn sông núi, bản thân có tích lũy, con cái dễ kiếm tiền, thường ít gặp chuyện phiền não. Nhật chủ mạnh khi khi lớn tuổi có tiền, thích du chơi. Nhật
chủ yếu luôn vất vả lao lực vì tiền bạc.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT
Thiên Ấn - Chính Ấn
Ấn tính vừa phải |
Ấn tính quá mạnh |
Ấn tính quán yếu |
Trọng hư vinh, thích xây dựng hình tượng, thích được khen ngợi |
Tâm tính có thể diễn biến thành" chỉ là hư vinh" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự cho là đúng" |
Tin tưởng giao trọng trách cho người khác, đồng thời cũng được ủy thác cho người khác |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lười nhác, dựa dẫm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quật cường" |
Quan niệm truyền thông, mong muốn duy trì đạo đức luân lý |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thích mới ghét cũ" |
Ý thức phục vụ mới mẻ, có sự đồng lòng, tự nguyện cống hiến hy sinh |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quá mềm lòng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tính toán chi li" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP
Chính Tài - Thiên Tài
Đặc điểm cơ bản |
Chính tài là lực lượng bị khắc khác tính chất, là khắc có tình. Lực khắc không hết, thiên về quản lý công cụ sinh tài và theo đuổi cuộc sống hưởng thụ vật chất có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp, trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài Thiên tài là lực lượng bị khắc cùng tính chất, là khắc vô tình. Lực khắc nhất định l hết, thiên về quản lý đối với công cụ sinh tài và theo đuổi hưởng thụ vật chất có tính chất nhanh chóng, đại khái, trạng thái động, biến đổi, vội vàng, ngắn, |
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Chính tài thể hiện đặc điểm của sự vật có trạng thái tĩnh ổn định, bảo thủ. Khuynh hưởng ý thức của Thiên tài thể hiện đặc điểm của sự vật có trạng thái động, biến đổi, mới mẻ. |
Trạng thái cân bằng |
Hai lực lượng mạnh mà tương đương, thường coi trọng tình cảm và lý trí, lương tâm và lợi ích ngang nhau. Khi quản lý cấp dưới, luôn có ăn và uy. Khi theo đuổi tài phú, mức độ công kích và cổ thủ vừa phải, |
So sánh 1 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thiên về hòa bình chắc chắn, như: Nhân viên khôn khéo, cấp dưới hướng nội, máy móc y tế, bàn ghế làm việc, máy thu ngân và công cụ sinh tài khác có tính chất cố định. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thiên về rủi ro nhiều, như: Nhân viên nông nổi, cấp dưới hướng ngoại, máy móc sản xuất, xe cộ vận chuyển và công cụ sinh tài khác có tính chất không ổn định. |
So sánh 2 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thiên về an nhàn, như: Giao dịch đất đai, mua bán nhà cửa, kinh doanh ở phố, bách hóa, ngành nghề bán lẻ, ngành bảo hiểm, công việc phục vụ hướng nội trong công ty. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thiên về cơ động, như: Buôn bán, ô tô, ngành chế tạo, kiến trúc, công trình, công việc hướng ngoại của công ty. |
So sánh 3 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thường thể hiện bằng hành động cụ thể. |
Xem tổng hợp kiến thức về Chính Tài: Xem tại đây
+ Tài Tinh
230 - Quý Mão - Ất Sửu - Canh Thân - Đinh Sửu
Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi
Tạo này kim hàn tọa lộc, Ấn thụ nắm quyền, đủ để dụng hỏa địch hàn. Chỗ kỵ, can năm Quý thủy khắc Đinh là bệnh, hoàn toàn dựa vào can tháng Ất mộc thông căn, tiết thủy sinh hỏa, chỗ này hỉ thần là Tài tinh vậy. Càng hỉ Tài tinh gặp hợp, gọi là Tài đến theo ta, vợ hiền thục mà siêng năng, sinh 3 con, đều là dòng dõi nho học.
231 - Đinh Mùi - Ất Tị - Đinh Dậu - Quý Mão ( Xung đúng lúc)
Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi
Đinh hỏa sinh vào đầu mùa hạ, trong trụ có Kiêu Kiếp nắm quyền, một điểm Quý thủy, không đủ ức chế, hỉ nhất là nhật chủ tọa dưới Dậu kim, xung khử Mão mộc, sinh khởi Quý thủy. Xuất thân bần hàn, vận Quý nhập học, lại được tài sản cự vạn; vận Nhâm đăng khoa, vận Tân Sửu đắc tuyển tri huyện, làm quan Quận trưởng. Tạo này nếu không có Dậu kim, chẳng những không có tài, mà danh cũng không có vậy.
232 - Ất Hợi - Canh Thìn - Bính Thân - Nhâm Thìn
Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất
Bính hỏa sinh vào cuối mùa xuân, Ấn thụ thông căn sinh vượng, nhật chủ tọa Tài, can giờ lại thấu Nhâm thủy, tất lấy Ất mộc làm dụng thần. Cũng ngại, Ất Canh hợp hóa kim, sinh Sát phá Ấn, nên vợ không hiền, đố kỵ hung dữ dị thường, tắt đường không con. Tài làm hại. Đáng sợ quá! (Trích Thiên Tủy, 113)
Tài tinh có tính chất khống chế, chiếm hữu, điều khiển, mê đắm, cố chấp. Tài tỉnh là cái bị minh khắc và quản chế. Xét trên mối quan hệ xã hội, người bị mình
thao túng chi phối, lấn át, tuyển dụng, quản lý giáo huấn, chịu bó buộc của mình, phụ thuộc vào của cải của mình hoặc ở các phương diện khác có quan hệ với mình giống như tính chất trên đều thuộc phạm vi của Tài tỉnh. Dựa vào đặc tính đó,
Tài tính đại diện cho thê thiếp, tình nhân của mệnh nam, nhân viên, cấp dưới, người hầu, người làm thuê, thuộc hạ, kỹ nữ, nô lệ. Chính tài là lực lượng trộm khí, khác tính chất với nhật can. Lực trộm khí là lưu tình mà ít biến hóa. Thiên tài là
lực lượng trộm khí, có cùng tính chất với nhật can. Lực trộm khí mạnh mẽ, ít tình và nhiều biến hóa. Do đó, Chính tài có thể không làm mình phí tâm sức hoặchành sự cẩn trọng hoặc bình thường dễ trao đổi với mình. Thiên tài thường làm
mình phí tâm sức hoặc làm việc thường thay đổi, khó lường trước hoặc bình thường không dễ trao đổi với mình. Do Tài tỉnh chính là cái bị mình cai quản, nên lo lắng và phiền não của người mệnh Tài tinh khá ít, vui vẻ nhiều. Tuy gặp việc
đột ngột, cảm xúc cũng không chán nản quá lâu. Nếu cần giải quyết công việc gì đều biết cách sử dụng đồng tiền để tháo gỡ. Nếu được sự hỗ trợ về tiền bạc thường dễ tiến hành mọi công việc. Khi sự việc được giải quyết, tinh thần đương nhiên không còn phiền não.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YÊU CỦA THẬP THẦN
Thiên Ấn - Chính Ấn
Ấn tính vừa phải |
Ấn tính quá mạnh |
Ấn tính quán yếu |
Trọng hư vinh, thích xây dựng hình tượng, thích được khen ngợi |
Tâm tính có thể diễn biến thành" chỉ là hư vinh" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự cho là đúng" |
Tin tưởng giao trọng trách cho người khác, đồng thời cũng được ủy thác cho người khác |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lười nhác, dựa dẫm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quật cường" |
Quan niệm truyền thông, mong muốn duy trì đạo đức luân lý |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thích mới ghét cũ" |
Ý thức phục vụ mới mẻ, có sự đồng lòng, tự nguyện cống hiến hy sinh |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quá mềm lòng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tính toán chi li" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Chính Tài - Thiên Tài
Đặc điểm cơ bản |
Chính tài là lực lượng bị khắc khác tính chất, là khắc có tình. Lực khắc không hết, thiên về quản lý công cụ sinh tài và theo đuổi cuộc sống hưởng thụ vật chất có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp, trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài Thiên tài là lực lượng bị khắc cùng tính chất, là khắc vô tình. Lực khắc nhất định l hết, thiên về quản lý đối với công cụ sinh tài và theo đuổi hưởng thụ vật chất có tính chất nhanh chóng, đại khái, trạng thái động, biến đổi, vội vàng, ngắn, |
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Chính tài thể hiện đặc điểm của sự vật có trạng thái tĩnh ổn định, bảo thủ. Khuynh hưởng ý thức của Thiên tài thể hiện đặc điểm của sự vật có trạng thái động, biến đổi, mới mẻ. |
Trạng thái cân bằng |
Hai lực lượng mạnh mà tương đương, thường coi trọng tình cảm và lý trí, lương tâm và lợi ích ngang nhau. Khi quản lý cấp dưới, luôn có ăn và uy. Khi theo đuổi tài phú, mức độ công kích và cổ thủ vừa phải, |
So sánh 1 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thiên về hòa bình chắc chắn, như: Nhân viên khôn khéo, cấp dưới hướng nội, máy móc y tế, bàn ghế làm việc, máy thu ngân và công cụ sinh tài khác có tính chất cố định. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thiên về rủi ro nhiều, như: Nhân viên nông nổi, cấp dưới hướng ngoại, máy móc sản xuất, xe cộ vận chuyển và công cụ sinh tài khác có tính chất không ổn định. |
So sánh 2 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thiên về an nhàn, như: Giao dịch đất đai, mua bán nhà cửa, kinh doanh ở phố, bách hóa, ngành nghề bán lẻ, ngành bảo hiểm, công việc phục vụ hướng nội trong công ty. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thiên về cơ động, như: Buôn bán, ô tô, ngành chế tạo, kiến trúc, công trình, công việc hướng ngoại của công ty. |
So sánh 3 |
Chính tài mạnh hơn Thiên tài, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Thiên tài mạnh hơn Chính tài, thường thể hiện bằng hành động cụ thể. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 2 ): SINH TIẾT CỦA THẬP THẦN
Tài tinh - Thực thương
Phân tích |
Tài tinh hóa tiết Thực Thương giống như dùng kiến thức kỹ năng tạo ra tiền bạc, của cải. Chính tài có thể toàn lực hóa Thực thần, Thiên tài có thể toàn lực hóa Thương quan. |
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh tương đương, có đầy đủ cảm tính, tư tưởng, có khả năng tạo dựng mối quan hệ tốt, nắm bắt được cơ hội học tập và năng lực mưu sinh, giỏi vận dụng kỹ năng kiếm tiền. Thiên tính học hỏi tri thức được phát huy cao. |
Trạng thái cực đoan |
Thực Thương quá yếu, Tài tinh quá mạnh. Nội hàm của Thực Thương bị Tài tinh phát huy hết. Khuyết điểm là thích nhàn rỗi, lười lao động, ngang ngược, chuyên quyền, không coi ai ra gì, coi thường ân nghĩa, lạnh lùng, ít tình cảm, tự thu mình, hồ đồ, cổ hủ. Thực Thương quá mạnh, Tài tinh quá yếu. Nội hàm của Thực Thương sẽ bị ứ tắc, khó phát huy. Khuyết điểm là làm việc thường thiên về tình cảm, ảo tưởng, tùy tiện, cao ngạo, yếu đuối, thậm chí cẩu thả, lơ là, coi thường của cải, tùy tiện qua loa. |
Trạng thái khác biệt |
Thực Thương yếu, Tài tinh mạnh. Năng lượng nhỏ yếu của Thực Thương chuyển hóa thành năng lượng lớn mạnh của Tài tinh, vận dụng một ít tri thức trên nhiều hoạt động, biết cách quản lý tài chính trên nhiều phương diện. Thực Thương mạnh, Tài tinh yếu. Năng lượng lớn mạnh của Thực Thương chuyển hóa thành năng lượng nhỏ yếu của Tài tinh, cần sử dụng nhiều tri thức kỹ năng hoặc chỉ có thể quản lý tài chính trên một phương diện nhất định. |
Trạng thái hóa giải |
Thực thần quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Chính tài. Thương quan quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Thiên tài. Hai phương thức này đều có thể ngăn ngừa Thực thần cường vượng tích lũy quá lâu dẫn đến nhiều sự cố. |
Quan sát - Tài tinh
Phân tích |
Quan Sát hóa tiết Tài tình như dùng tiền để mua địa vị xã hội. Chính quan có thể hóa tiết hết Thiền tài. Thất sát có thể hóa tiết hết Chính tài.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thể mạnh tương đương, thường thiên về tham vọng chi phối, chiếm hữu, xem trọng vật chất, đánh giá đúng đắn về các mối quan hệ, tính tự giác cao phục tùng, trách nhiệm, tư duy lý tính xác đáng. Có khả năng mưu sinh, nhiệt tình với công việc, giỏi dùng tài chính để nắm bắt quyền thế, giành được địa vị. Thiên tính theo đuổi hưởng thụ vật chất được phát huy cao.
|
Trạng thái cực đoan |
Tài tinh quá yếu, Quan Sát quá mạnh. Nội hàm của Tài tinh dường như không giữ được, bị Quan Sát hóa tiết hết. Khuyết điểm là thiếu quyết đoán, vất vả, tính cách bao ngược, thậm chí cẩu thả, lười nhác, lơ là, coi nhẹ của cải, tùy tiện. Tài tinh quá mạnh, Quan Sát quá yếu. Nội hàm của Tài tinh ứ tắc, khó phát huy. Khuyết điểm là thích an nhàn, lười lao động, ngang ngược, chuyên quyền, không tôn trọng người khác, coi thường ân nghĩa. Thậm chí tự do buông thả, tùy tiện, trốn tránh trách nhiệm, quen được nuông chiều.
|
Trạng thái khác biệt |
Tài tinh yếu, Quan Sát mạnh. Năng lượng nhỏ yếu của Tài tinh chuyển hóa thành năng lượng lớn mạnh của Quan Sát, chỉ cần vận dụng một ít tiền bạc trên nhiều công việc hoặc có chức quyền trên nhiều phương diện. Tài tinh mạnh, Quan Sát yếu. Năng lượng lớn mạnh của Tài tinh chuyển hóa thành năng lượng nhỏ yếu của Quan Sát, cần vận dụng nhiều tiền bạc trên một vấn đề của cuộc sống hoặc nắm giữ chức quyền trên một phương diện.
|
Biện pháp hóa giải |
Chính tài quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Thất sát. Thiên tài quá vượng, phương thức hao tiết lý tưởng là dùng Chính quan, Hai phương thức này đều có thể khống chế Tài tinh cường vượng, tích lũy quá lâu dẫn đến sự cố. |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 3 ): KHẮC HAO CỦA THẬP THẦN
Tỷ kiếp - Tài tinh
Phân tích |
Tỷ Kiếp khắc Tài tình giống dùng tinh thần và sức lực để quản lý tiền tài, của cải.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bên có khí thế mạnh tương đương, có thể quản lý hợp lý tiền tài, của cải và điều tiết sự hưởng thụ, có lòng ham muốn chiếm hữu, xem trọng vật chất, đánh giá được giá trị của quan hệ.
|
Trạng thái cực đoan |
Tỷ Kiếp quá mạnh, Tài tinh quá yếu. Tỷ Kiếp sẽ sinh ra lực phá hoại đối với Tài tinh. Thường vận dụng tiền tài vật chất và hưởng thụ thân tâm một cách chặt chẽ. Biết quản lý tài chính đơn thuần hoặc phân tách, vận dụng từng khoản tiền một cách hợp lý. Thường suy nghĩ “tích tiểu thành đại, cần kiệm làm giàu". Trong tuế vận thiếu Quan Sát để cân bằng sự cường vượng của Tỷ Kiếp, chủ về vì cái nhỏ mất cái lớn, bỏ lỡ tiền tài, gặp nhiều tổn thất.
Tỷ Kiếp quá yếu, Tài tinh quá mạnh. Tỷ Kiếp không thể cai quản Tài tinh. Thường ận dụng tiền tài và hưởng thụ tinh thần một cách thoải mái, biết quản lý tài chính phức tạp và đồng thời vận dụng nhiều khoản tiền mang tính tổng hợp. Thường suy nghĩ “t khó thành nhiều, tài mọn khó có thể thành công". Trong tuế vận thiếu Ấn tinh sinh phù Tỷ Kiếp, tiền tài hao tán, khó tích tụ.
|
Trạng thái khác biệt |
Tỷ Kiếp yếu, Tài tinh mạnh. Quá tùy tiện chi tiêu vào một số việc không cần thiết, đầu tư tiền bạc thường vượt quá năng lực thực tế, dẫn đến mạo hiểm hoặc lãng phí. Tỷ Kiếp mạnh, Tài tinh yếu. Vì tiền bạc hoặc đầu tư ảnh hưởng tới tinh thần.
|
Biện pháp hóa giải |
Chính tài quá vượng, phương thức khắc Tài lý tưởng là dùng Kiếp tài. Thiên tài quá vượng, phương thức khắc Tài lý tưởng là dùng Tỷ kiên. Hai phương thức này đều có thể khống chế Tài tinh cường vượng, phát huy tác dụng khá cao. |
Tài tinh - Ấn tinh
Phân tích |
Tài tình khắc Ấn tình, giống như dùng tiền tài vật chất thao túng đạo đức.
|
Trạng thái cân bằng |
Hai bèn có khi thế mạnh tương đương, có thể thao túng hành vi đạo đức, thường có cảm giác vình dự, lòng tin vững chắc, đồng tình, ý thức phục vụ, quan niệm truyền thống thích hợp.
|
Trạng thái cực đoan |
Tài tình quá mạnh, Ấn tình quả yếu. Tài tinh sinh ra lực phá hoại đối với Ấn tinh, không thích chìm đắm vào các hoạt động tôn giáo hoặc hoạt động huyền bí, cũng không thích tuân theo luân lý đạo đức truyền thống, không quá tín nhiệm hoặc dựa vào người khác, không muốn theo đuổi hư danh không thiết thực, luôn ưu tiên xem xét lợi ích hiện thực. Không dễ nhiệt tình với công ích hoặc chân thành phục vụ người khác. Trong đại vận, lưu niên thiếu Tỷ Kiếp cân bằng thế lực cường vượng của Tài tình, chủ về người coi trọng tiền bạc hơn đạo đức, hành sự thường trái ngược với luân thường đạo lý. Tài tinh quá yếu, Ấn tinh quá mạnh. Tài tinh không thể quy phạm hay nắm bắt Ấn tình, dễ sa vào các hoạt động tôn giáo mang tính huyền bí, thích tận lực tuân theo luân lý đạo đức truyền thống, thường dễ tin theo hay dựa vào người khác, quá coi trọng vinh dự, thanh danh, nhiệt tình làm các công việc không thiết thực, quá thật thà mà dễ bị lừa gạt. Trong đại vận, lưu niên thiếu Thực Thương sinh phù Tài tinh suy yếu, chủ về người mê tín, lười nhác, không biết phân biệt thị phi.
|
Trạng thái khác biệt |
Tài tình yếu, Ấn tinh mạnh, quá coi trọng thanh danh, hành vi phẩm đức vượt quá năng lực thực tế, hình thành mạo hiểm và lãng phí. Tài tinh mạnh, Ấn tinh yếu luôn vì thanh danh nhỏ mà tiêu phí nhiều tiền tài hơn người khác.
|
Biện pháp hóa giải |
Chính ấn quá vượng, phương thức khắc Chính ấn lý tưởng là dùng Chính tài. Thiên ấn quá vượng, phương thức khắc Thiên ấn lý tưởng là dùng Thiên tài. Hai phương thức này đều có thể khống chế được Ấn tinh cường vượng, phát huy tác dụng khá cao.
|
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 4 ): SỰ VIỆC, HÌNH TƯỢNG CỦA THẬP THẦN
Con đường thu hoạch lợi ích của Tài tinh
Quan hệ lục thân |
Con đường thu hoạch lợi ích |
Ví dụ |
Tỷ kiếp khắc xuất Tài tinh |
Dùng thể lực để được tài Lợi |
Nông dân canh tác đợi ngày thu hoạch, công nhân lao động kiếm kế sinh nhai, vận động viên dựa vào thể lực duy trì thành tích.
|
Thực thương xuất Tài tinh |
Dùng tri thức hoặc kỹ thuật được tài Lợi |
Giáo viên truyền thụ kiến thức, tác giả viết sách, nhân viên kỹ thuật làm thủ công, thiết kế, điều phối...
|
Tài tinh sáng tỏ Tài tinh |
Dùng tài sản vốn có đạt được tài Lợi |
Dựa vào tài sản tích lũy tiếp tục mua bất động sản, buôn bán thu lợi hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp.
|
Quan sát dẫn xuất Tài tinh |
Dùng chức vị hoặc quyền thế đạt được tài Lợi |
Công nhân viên chức dựa vào quyền hành của cơ chế để nhận thầu hưởng lợi hoặc tạo ra cơ chế phục vụ lợi ích của một nhóm người có quyền hành.
|
Ấn tinh dẫn xuất Tài tinh |
Dùng danh dự hoặc nhân cách đạt được tài Lợi |
Thương gia dùng sản phẩm chất lượng tốt thu được niềm tin của khách hàng. Nâng cao thương hiệu của công ty cũng như nhân cách tốt đẹp của người quản lý và nhân viên để mở rộng thị trường. |
I. DỰ ÐOÁN TÀI VẬN (1)
- Tứ trụ có tài thì cái ăn, cái mặc không thiếu.
- Tài nên tàng ẩn, tàng thì phong phú hùng hậu.
- Tài có kho, phát tài thì có thể giữ được.
- Tài lộ rõ là người hào phóng khảng khái.
- Tài là thê tinh, có tài thì có vợ, ngược lại thì khó khăn.
- Tài là nguyên thần của quan tinh, không có của thì khó mà quyền quý.
- Thân vượng, tài vượng là phúc, nếu thêm quan tinh thì càng tuyệt diệu.
- Tài nhiều, thân nhược cần có ấn thụ để hỗ trợ thân.
- Thân vượng, tài nhiều là tiền của vừa ý.
- Mệnh nam có đủ thìn, tuất, sửu, mùi là bậc giàu sang phú quý.
- Trong trụ tài nhiều, thân vượng là suốt đời phú quý.
- Trụ giờ có thiên tài, các cung khác kị không nên có, như thế mới quý.
- Cung tị đóng ở ngày quý là tài quan trọn vẹn.
- Trong trụ tài, quan có kho là đầy nhà châu báu.
- Trong trụ thiên tài nhập tạp khí là người phát tài rất lớn.
- Tài gặp trường sinh là ruộng vạn mẫu.
- Trong trụ gặp đất hợp tài là cơ nghiệp bền vững.
- Quan nhập mộ, tài nhập mộ, sau khi xung khai sẽ phát tài.
- Tài tinh nhập mộ khi được xung phá thì tiền của đầy kho.
- Tứ trụ thuần tài, thân vượng thì người vừa sang, vừa giàu có.
- Lệnh tháng kiến lộc vận lại gặp tài quan thì tự nhiên phất lên giàu có.
- Nếu trụ giờ gặp lộc mà không có trạch mã thì người này chỉ giàu không sang.
- Tài làm dụng thần là người giàu có.
- Thân vượng, tài nhược, nếu được thực thương sinh tài thì mới giàu.
- Trụ giờ có mã tinh, không bị xung phá là lấy được vợ đẹp, được của từ bên ngoài đến, sinh con vinh hiển, tài sản hùng hậu. Ðó không phải là của cha mẹ để lại, mà là được từ bên ngoài đưa đến, nên cần kiệm, không nên tiêu phí.
- Tài tinh ở ngôi chính nắm quyền, trụ ngày mạnh là người danh lợi song toàn, nếu gặp được ấn thụ là được hổ trợ mạnh mẽ, châu báu đầy nhà, phúc bền lâu.
- Tài nhiều lại dựa vào ấn thụ để hộ thân là người có vợ hiền, con đẹp, cuối đời hạnh phúc.
- Tài kho ở vượng địa là suốt đời của cải hùng hậu.
- Thân nhược, tài nhiều khi hành đến vận tỉ kiếp thì mới phát tài.
- Người tuổi mậu lấy thủy làm tài, thân ty thìn đóng ở kho, khi mệnh nhập quý cách mới giàu. Nếu không gặp cách thì sự giàu sang vừa phải.
- Có tài gặp sát, người tuổi dần, ngọ, tuất gặp tân sửu, người tị, dậu, sửu gặp ất mùi, người thân, tý, thìn gặp bính tuất; người hợi, mão, mùi gặp mậu thìn, như thế gọi là thê tài tụ hội. Người gặp như thế sẽ giàu, nhưng phải đề phòng vợ làm hại.
- Ấn thụ thông suốt, gặp phát tài thì phát, gặp quan thì vinh hiển.
- Tài, quan làm mộ kho nếu không xung thì không phát.
- Tài kho gặp tam hợp, tất phát tài mạnh mẽ.
- Thìn, tuất, sửu, mùi gặp hình xung không ai không giàu.
- Thương quan, thương hết để có thể sinh ra tài, khi tài vượng sẽ sinh quan.
- Thương quan gặp kiếp thì sẽ gặp của.
- Thương quan sinh tài thì sẽ tự nhiên giàu có.
- Thiên tài là thiên lộc, là của tự nhiên không lao động mà có, là được hưởng phúc sẵn có.
- Thực thần gặp tài, nhưng tài nhiều thì không sang mà chỉ là trọc phú.
- Thực thần có cát thần phù giúp thì giàu có tiếng.
- Trong trụ tài, quan tự vượng là mệnh phú ông.
- Can ngày, can tháng, chi ngày, chi giờ đồng thời xung tài của cung đối diện thì phát tài.
- Trong trụ tài kho không bị thương tổn thì của cải nhiều.
- Thương quan của ngày, giờ bị tổn thương hết thì sẽ phát tài một cách bất nghĩa.
- Tài đóng ở trụ ngày là tài ở đất vượng, là tượng người vừa được vợ vừa được của; nếu tài không ở đất tử, mộ là người được của phía nhà vợ.
- Tài tinh chỉ có một ngôi mà được thời là nhà phú quý, người tính nóng, hai ngôi thì tính khí nóng nửa phần; ba, bốn ngôi thì hao thân suy bại.
- Thân vượng có thể thành gia lập nghiệp: thân suy không thắng tài là người vất vả.
- Trong trụ đủ cả tài, quan, ấn là người không sang thì giàu.
- Tài tàng ẩn ở trong quan kho, là sự quý báu hiếm thấy.
- Trong trụ có tài, quan cùng với ấn thụ là người vàng bạc nhiều.
- Quan hưu tù, ấn vượng là được nhiều tiền của.
- Trong Tứ trụ thương quan sinh ra tài thì nguồn của dồi dào.
- Trụ ngày, trụ giờ đều gặp thiên đức, nguyệt đức lại gặp tài quan thì đó là nhà phú hào.
- Bản thân khắc trạch mã là phát của ở nước ngoài.
- Thân nhược, tài nhiều lại còn gặp tỉ kiếp lạm dụng thần thì tiền bạc đầy lưng.
- Tài quan đều có và lộ rõ thì rất vinh hiển.
- Thiên tài gặp quan kiêm thực thần thì chắc chắn vinh hoa.
- Tài nhiều lại lộ rõ thì thành bại thất thường.
- Tài nhiều gặp tỉ kiếp trợ giúp là nhà giàu thịnh vượng.
- Tài gặp đất phùng sinh tiền của vạn kho.
- Thương quan bị thương tổn khi hết thương tổn, trở lại sinh tài thì châu báu tự nhiên mà đến.
- Trong mệnh có cả lộc mã và quý nhân là người có phúc được của.
- Mã chạy vào đất tài là phát tài nhanh như mãnh hổ.
- Chính tài là của ít, thiên tài là của nhiều. Thiên tài làm dụng thần là người phú quý.
- Thân mạnh, tài vượng thì có lợi cho thanh danh, trước tài sau ấn thì chuyển thành người có phúc.
- Trong Tứ trụ kiêu thần mừng nhất gặp tài tinh, khi thân vượng gặp được là phát phúc, thân nhược gặp phải là tai hoạ.
- Nhâm quý gặp thân, tí, thìn cục là phúc nhiều, tài nhiều.
- Thực thần gặp ấn là tiền của ngày một nhiều.
- Thất sát có chế ngự là người đại quý.
- Trụ tháng gặp ấn thụ là người giàu sang, vinh hiển.
- Trụ ngày vượng, tài tinh yếu lấy thực thương xì hơi trụ ngày để sinh tài.
- Mệnh nữ tài quan tàng kho, nếu bị hình xung mất thì không giàu được .
- Tài của địa chi phục ám sinh thì nhờ đó dần dần giàu có.
- Tài đóng ở nhật nguyên, hành đến vận tài thì sẽ phát.
- Trong trụ vốn có tài tinh thì nên hành đến quan vận; vốn có quan tinh thì nên hành đến tài vận, hành tài vận sẽ sinh quan, hành quan vận sẽ phát tài.
- Trụ nhật xung kình dương gặp thất sát khi hành đến tài vận sẽ giàu có.
- Trong trụ tài quan đều vượng, khi hành đến tài vận thì sẽ giàu.
- Trước tỉ, sau tài là trước nghèo sau giàu.
- Trụ giờ gặp tài kho, hành đến tài vận là cuối đời phát giàu.
- Trong trụ năm, tháng, quan ấn tải đều có là tổ tiên phú quý ba đời.
- Quan tinh là lộc, tài tinh là mã, hành đến tài vận thì sẽ giàu.
- Tài quan yếu, trụ ngày vượng thì nên hành đến vận tài quan là tốt nhất.
- Tài mừng gặp sát, mười người có đến chín người phú quý.
- Ấn nhiều hành đến tài vận sẽ phát phúc.
- Năm, tháng, giờ đều sinh trợ cho ngày, như thế là ấn thụ sinh của, hành đến vận quan ấn thì sẽ giàu.
- Ấn sợ gặp tài, trong trụ có tỉ kiếp gặp tài là tốt.
- PHÁT T ÀI
- "Tài đóng ở nhật nguyên hành đến vận tài thì phát."
- Tứ trụ này ứng với câu : " Tài tinh có kho thì phát tài có chỗ chứa", "tài tinh nhập mộ là giàu có nghìn vàng, tài kho gặp đất tam hợp tất phát vạn kim".
- " Tài nhiều lại được tỉ kiếp trợ giúp là nhà thịnh vượng, người giàu có". Và "tài ở vượng địa thì suốt đời của cải hùng hậu".
- " Vốn có tài tinh hành đến tài vận thì đại phát".
- Tứ trụ này ứng với câu: thương quan thực thần mừng được sinh tài, thì phú quý do trời sắp đặt", "tài gặp trường sinh là ruộng vườn vạn mẫu.".
- Tứ trụ này ứng với câu: "Tài kho bị xung khai, người nào gặp như thế đều phát tài", "Trong trụ có tài, hành đến đất tài là đại phát".
II. DỰ ÐOÁN TÀI VẬN (2)
- Thân nhược tài nhiều thì gặp tài là mang hoạ.
- Trụ ngày giáp ất, mà hành vận dần mão thì kiếp tài phá tài.
- Quan vượng, thân nhược, hành đến quan vận thì hại vô cùng, phá tài là chắc chắn.
- Kiếp tài, kình dương thì nhất thiết kiêng kị gặp tuế vận, vì như thế sẽ phá tài, bại nghiệp, vì tài cạnh tranh nhau nên phải rời bỏ quê hương, thất nghiệp.
- Trên trụ giờ có thiên tài thì sợ anh em, hành đến vận kiếp tài thì sẽ bị phá tài và tranh tài.
- Tài nhiều, thân nhược là nhà cửa nhiều, nhưng của cải ít.
- Thiên tài sợ hành vận tỷ kiếp, vì gặp vận đó sẽ phá tài, bại tài.
- Tuế quan bị khắc là bại tài, phá tài.
- Thân vượng, ấn vượng là tiền hao tán không tụ, chẳng thà rằng trữ của, bất động sản còn hơn.
- Kiếp tài không nên gặp vượng địa, gặp hao tài.
- Tài nên tàng ẩn, không nên để lộ, lộ thì dễ bị tranh giành.
- Thương quan có tài khi hành đến đất quan, sát, gặp đất suy, tài tuyệt thì sẽ mất tài, mất lộc.
- Thực thần gặp kiêu là tài vật hao tán.
- Tài quan gặp tài quan là vì tham ô mà bãi chức.
- Trong trụ kiêu ấn gặp đất tài lại không có tỉ kiếp thì tai hoạ vô cùng.
- Trụ ngày yếu không thắng nổi tài thì vì của cải mà bị tai hoạ.
- Kiêu thần mừng nhất gặp tài tinh, thân vượng gặp được là phúc, thân nhược gặp phải là hoạ.
- Thân vượng hành đến vận tỷ kiếp thì phá tài bại nghiệp.
- Trong trụ kiếp nhiều lại hành vận kiếp thì nên án binh bất động.
- Tỉ, kiếp nhiều lại gặp tỉ kiếp là phá tài, ra cửa quan.
- Thân vượng, tỉ kiếp nhiều lại không có tài thì khi gặp tài là tai hoạ ập đến.
- Tài tinh nhập mộ thì vợ tính nhỏ nhen, quý của hơn người .
- Trong trụ có tỉ kiếp , có tài tranh tài, khi không có tài là lúc hoạ đến ; anh em tranh của, vợ chồng tranh giành nhau.
- Tài rơi vào không vong tất sẽ nghèo.
- Tứ trụ không có tài để giữ cho mình khi ra ngoài cầu tài cần phải cẩn thận.
- Tài tinh gặp kình dương thì mất của, mất người .
- Hành đến vận kình dương thì của cải hao tán, khắc vợ, nát nhà.
- Trong trụ có thập ác đại bại thì vàng đầy kho cũng thành đất bụi.
- " Tài tinh sợ nhất hành vận tỷ kiếp".
- : "Thân nhược không thắng tài thì vì của mà sinh nạn."
- " tỉ kiếp trùng trùng lại gặp tỉ kiếp là phá tài và ra cửa quan."
- "Tứ trụ kiếp nhiều hành vận tỉ kiếp thì nên giữ mình an phận".
- " Thực gặp kiêu thì tài vật hao tán", " Thương quan gặp quan là tai hoạ liên miên".
- " ấn kiêu gặp tài địa, không tỷ kiếp thì tai hoạ vô cùng."
- " Trong mệnh không có tài thì không nên làm gắng".
. DỰ ÐOÁN HÔN NHÂN (1)
1. MỆNH NAM
- Kiếp tài của nam là vợ, chi ngày là sao vợ ; tháng là cung hôn nhân, ngày là cung phối hôn.
- Kiếp tài đóng ở ngày, chủ về vợ nội trợ tốt, hoặc nhờ vợ mà phát tài.
- Tài tinh đóng ở ngày lại là tướng tinh thì nhất định vợ là con nhà phú quý.
- Chính ấn, thiên ấn đóng ở ngày là vợ hiền và thông minh.
- Ấn địa đóng ở ngày là vợ béo, còn mình gầy nhỏ.
- Quý nhân đóng ở ngày là vợ hiền lành, đẹp, có danh tiếng.
- Chính tài, thiên tài đóng ở ngày lại không bị khắc phá là nhờ vợ mà được của.
- Can ngày vượng, chính tài, thiên tài cũng vượng là người giàu và nhiều vợ.
- Chi ngày là tí ngọ mão dậu thì vợ đẹp, là dần thân tị hợi thì vợ đôn hậu, là thìn tuất sửu mùi thì vợ bình thường.
- Ngày gặp lộc thần, giờ gặp quy thần thì vợ được quốc phong.
- Mệnh nam lấy vượng làm phúc, suy là hại.
- Quý nhân và lộc đều có ở trụ giờ là người rể vinh hiển, làm rạng rỡ tổ tông.
- Thiên tài đều vượng mà được ngôi là vợ lẽ át vợ cả ; chính tài vượng là vợ cả không dung thứ vợ lẽ.
- Tài mệnh có khí là vợ cả, vợ lẽ hoà thuận nhau và được nhờ vợ.
- Mã nhập cung thê là được người vợ đảm đang.
- Lộc nhập cung thê là được ăn lộc của vợ.
- Ngày giờ đều có lộc mã là vợ hiền, con quý.
- Vận nam hợp với tài là vợ sớm.
- Ðại vận, lưu niên tam hợp tài là có tin mừng về cưới hỏi.
- Nam gặp tài nhiều và thân nhược là chồng hay nghe lời vợ.
- Hàm trì lâm nhật là nhờ vợ mà giàu.
- Trong chi tàng phục tài là thiên vị vợ lẽ.
- Sao vợ rõ là vợ chồng hỗ trợ nhau.
- Tài tinh được ngôi là nhờ vợ mà giàu.
- Tài vượng thân cường là phú quý mà nhiều vợ.
- Trong Tứ trụ tài làm dụng thần thì vợ hiền đẹp, nội trợ giỏi.
- Trụ ngày có mã tinh mà không bị xung phá là lấy được vợ đẹp.
- Trong Tứ trụ có thiên tài là yêu vợ lẽ hơn vợ cả.
- Thê tài gặp vượng, trên trụ năm lại gặp quý nhân lộc mã là vợ lấy được chồng chức cao.
- Trong Tứ trụ có quý nhân lộc mã là vợ hiền nội trợ tốt.
- Tài rõ thân vượng là vợ đẹp.
- Nam gặp tài nhiều, thân yếu, là rời quê hương lấy vợ đẹp.
- Thực thần nếu gặp ấn thì tiền tài ngày càng nhiều.
- Thương quan bị chế khắc thì vợ là người có nghĩa khí.
- Thương quan trùm lên ấn thì trước là tì thiếp sau thành vợ.
- Tỉ kiếp vượng lại có thực thương sinh tài thì gặp vợ hiền.
- Tài tinh đóng ở trường sinh không bị xung khắc là vợ thọ.
- Trụ ngày đóng ở chính quan thì vợ đoan trang, hiền dịu.
2. MỆNH NỮ
- Chính quan hoặc thất sát là chồng, chi ngày là sao chồng.
- Xem mệnh nữ trước hết phải xem sao chồng để xác định chồng sang hay nghèo hèn, chồng sang vợ mới sang.
- Sao chồng đóng ở ngày làm dụng thần, chủ về chồng đại quý, vợ chồng hòa thuận.
- Trụ ngày có quý nhân trạch mã thì lấy được chồng thông minh, hiền đẹp.
- Tài đắc địa thì lợi chồng, thực thần đắc địa thì lợi cho con. Lợi cho chồng thì suốt đời được hưởng phúc, lợi cho con thì về sau mới hạnh phúc.
- Sao chồng minh vượng, sao con trường sinh thì có ích cho chồng con.
- Mệnh nữ có một quan hay một sát rõ là tốt. Có cả quan và sát là kém. Mệnh nữ không có sát, có một quý là vợ lấn át chồng.
- Quan gặp tài là chồng thì vinh hoa nhưng khắc con.
- Mệnh nữ không có sát nhưng lại có thiên đức, nguyệt đức và tài quan đắc địa thì được cả hai nước phong sắc.
- Quan cùng với đào hoa nhất định là có chồng tốt làm trong triều đình.
- Mệnh nữ lấy nhu làm phúc, lấy cương làm hại, lấy trong làm kỳ diệu, lấy đục làm thấp hèn.
- Tài nhập tài thì chồng sang nhưng khắc con.
- Thương quan không gặp quan là người phụ nữ trinh tiết.
- Quan rõ là chồng vinh hoa, vàng bạc đầy nhà.
- Tài mệnh có khí thì sống mão với chồng đến già.
- Sự phú quý hay bần tiện của mệnh nữ toàn dựa vào chồng con.
- Mệnh nữ nếu gặp phu tinh vượng thịnh thì con tuấn tú, thông minh, chồng vinh hiển.
- Mệnh nữ phạm thương thì sẽ khắc sự hôn nhân, vận nhập tài thì tốt.
- Chuyên lộc thực thần tất sẽ được vua phong hiệu.
- Ngôi chồng bị tạp khí thì rất cần người vợ tốt.
- Thương quan đoạt phu tinh, hoặc hoá sát thì có lợi cho chồng về mặt của cải.
- Nếu cô loan nhập phu tinh thì tất nhiều con cái.
- Can chi dương mà vượng là người thay chồng trong kinh doanh.
- Tài vượng sinh quan, thực thần lại không bị thương là chồng vinh hiển, con phú quý.
- Quan, thực, lộc vượng lại được ấn thụ trợ giúp là hậu vận mở rộng.
- Nếu ấn thụ không bị tài làm tổn thương, còn gặp thiên đức, nguyệt đức trên trụ ngày thì người phụ nữ đó được hưởng của cải của cha mẹ, chủ động tìm được chồng, sinh con hiền quý, phúc đức ngày càng tăng, người đôn hậu, gặp điều xấu cũng dễ vượt qua, hay được khen thưởng.
- Người thiên quan có sự kiềm chế là không dâm loạn, tuy lấn quyền chồng nhưng là để xây dựng gia đình thịnh vượng.
- Mệnh nữ sinh vào tý, ngọ, mão, dậu thì lấy chồng tý, ngọ, mão dậu là tốt.
- Năm là bố chồng, thai là mẹ chồng, tháng là chị em dâu, ngày là chồng và mình, giờ là con cái.
- Gặp vong kiếp và kình dương, hay thiên ấn gặp lộc mã thì sắc đẹp hơn người .
- Người lục hợp là chủ về tính hiền đức. Dung mạo đẹp đẽ.
- Nữ có quý nhân trạch mã, phần nhiều sinh con hiền, hiếu thảo, thai sản dễ dàng.
- Người tài vượng sinh quan cách rất hiếm gặp : người gặp cả tài và quan là vô cùng kì diệu, người đó chồng vinh hiển, còn quý nhờ tài vượng, trinh khiết hiền lương ngũ phúc đều có cả.
- Người trong Tứ trụ có tài lại còn hành tài vận là chủ về nhà chồng giàu, con phú quý.
- Người có quan vượng lại tại cũng vượng là lấy được chồng hiền chồng tót. Người thất sát gặp trường sinh là lấy chồng phú quý.
- Người có đủ tài quan ấn thụ là lấy chồng thịnh vượng.
- Thực thần thái quá lại không gặp phu tinh là người vợ trinh khiết.
- Thiên đức, nguyệt đức gặp ấn là người làm vợ cho quan chức cao sang, được hai nước phong tặng.
- Quan sát không hỗn tạp lẫn nhau, lại còn có ấn phù là chồng sẽ đăng khóa.
- Ấn vượng quan yếu là chồng tự tìm đến mình.
- Thương quan bị thương tổn nặng, hoặc không có quan nhưng có tài là đi làm vợ lec.
- Sát gặp mộ là lấy được chồng sang trọng.
- Sát mạnh quan yếu là sẽ li hôn, tái giá lấy được chồng tốt.
- Tài tinh có khí lại gặp quan là lợi chồng tột bậc.
- Quan mạnh thương yếu là giúp chồng xây dưng cơ đồ.
- Quan, sát vượng làm dụng thần là chủ về chồng phú quý.
- Quan, sát yếu, có tài sinh quan là giúp đỡ chồng được nhiều.
- Quan, sat đóng ở trường sinh, không bị xung khắc là chồng trường thọ.
- Người cô loan nhật phạm, chưa có con, khi gặp được quan tinh thì sẽ sinh được đứa con kỳ diệu.
- Người bính hoả bị chế ngự thì nhan sắc đẹp như ngọ : giáp bị kim khắc thì đẹp như hoa.
3. XEM CHUNG VỢ CHỒNG
- Nhật đóng ở đào hoa là vợ chồng đều đẹp, phong lưu, tài nghệ.
- Thương quan bị thương tổn nặng, có hợp là lấy vợ, lấy chồng không cần cưới.
- Thất sát bị chế ngự lại được tam tài là cao sang tột bực.
- Thực thần đơn độc là cuộc sống yêu hòa, có con, thọ.
- Trụ ngày tương sinh cho nhau là vợ chồng đằm thắm, can sinh chi là chồng yêu vợ, chi sinh can là vợ yêu chông.
- Ðông kim đóng ở cục là vợ chồng đều có ý chí, tiếng thơm bay xa.
- Hợp quý tài là nhà đầy châu báu. Tỉ trước tài là nghèo trước giàu sau.
- Thiên đức, nguyệt đức không bị những cái khắc làm nhiễu loạn thì người đó áo gấm mũ vàng.
- Vợ chồng trụ năm tương sinh hoặc thiên hợp địa hợp thì bách niên giai lão.
- Thực thần sinh vượng muốn có con phải cầu tự.
- Nạp âm trên khắc dưới là có phúc, dưới khắc trên thì không nên.
- Nhật đóng ở trường sinh thì lấy được vợ đẹp.
- Nhật nguyên bính tí là nam lấy vợ đẹp, nữ gặp chồng đẹp .
- Nam nhật nguyên mậu ngọ là được các cô thích, nữ nhật nguyên mậu ngọ là được các bạn trai ưa.
- Nhật đóng ở tài kho là giàu.
- Bảy ngôi trong Tứ trụ đều được tương sinh là vợ chồng bách niên giai lão.
- Tài vượng sinh quan là vợ chồng quấn quít với nhau, chồng xướng vợ tuỳ.
I. DỰ ÐOÁN HÔN NHÂN (2)
1. MỆNH NAM KHÔNG LỢI CHO VỢ
- Trong Tứ trụ có kình dương gặp tuế vận là của cải hoa tán, khắc vợ, hại con. Trong cục có tài nhiều thì khắc vợ nặng, không có tài thì khắc nhẹ hơn.
- Người trong Tứ trụ không có kình dương, hành vận đến lúc gặp kình dương thì hao tài và khắc vợ con
- Người thân suy, tài vượng là phá tài và làm tổn haị vợ.
- Nam gặp mộ tuyệt là vợ có bệnh hoặc tính nết không hiền lành, hoặc vợ đến tuổi cao vẫn còn tái giá.
- Tài gặp đào hoa, mộc dục thì vợ dễ bị người khác lôi cuốn.
- Trong Tứ trụ có kiếp tài, kình dương là khắc cha, làm tổn thương vợ, hoa tán của cải.
- Thân vượng nhưng không có chỗ dựa là tổn thương vợ.
- Nếu gặp thìn, tuất, sửu mùi nhiều là khắc vợ.
- Tài, quan đều rơi vào tuần không, vong là tuổi trung niên mất con, khắc vợ, phải đi nơi khác kiếm ăn.
- Thê gặp thê là có 2 lần hôn nhân.
- Sao thê mất lệnh là ly hôn giữa chừng.
- Tứ trụ không có tài là người đi theo tăng đạo, khó có vợ, có con.
- Trụ ngày không có tài là xa lìa vợ.
- Hoả mạnh, thổ khô thì thân cô đơn, vợ khỏe thì mình ốm.
- Thân đóng ở ngang vai ( anh em) để thành cục là mấy lần làm chủ rể.
- Cung thê hợp thành cục để khắc mình là vợ nhưng khó giữ được vợ.
- Cung thê bị hỉ thần xung thì tuy vợ đẹp nhưng khó bách niên giai lão.
- Lệnh tháng, tài đóng ở tuyệt địa thì vợ nội trợ kém.
- Gặp cả kình dương và kiếp tài thì phải lấy vợ lần nữa.
- Trụ ngày, trụ giờ đều gặp thìn tuất tương xung là vừa có vợ lẽ, vừa nằm không.
- Kình dương đóng ở trụ ngày thì vợkhông hiền và hao tài.
- Tài yếu mà gặp kiếp là ba vợ mà vẫn vất vả.
- Trụ ngày đóng ở thực thần lại còn gặp kiêu vợ là vợ thấp, người gầy ốm.
- Trụ ngày phạm hoa cái là khắc vợ.
- Vong thần, thất sát là con, hình phạt là vợ.
- Trong Tứ trụ giáp ất bính đinh liền nhau là không có lợi cho vợ.
- Tài yếu, thân vượng, tỉ kiếp nhiều là khắc vợ liên miên.
- Tài phục dưới chi là vợ lẽ hoặc tì thiếp.
- Thiên tài trên trụ giờ gặp tỉ kiếp là vừa phá tổ nghiệp vừa làm tổn thương vợ.
- Tài tinh đã bị tỉ kiếp, tuế vận lại còn gặp tỉ kiếp thì năm đó nếu không bị tổn thương tài, phá tài cũng sẽ bị kiện tụng.
- Thất sát, kình dương trên trụ ngày, trụ giờ gặp kiêu thần là giữa đường gặp tổn thất .
- Tài ở tử tuyệt mộ địa thì suốt đời phiêu bạt.
- Trạch mã đóng ở trụ ngày là vợ nhiều bệnh hoặc lười biếng.
- Trụ năm, trụ ngày cùng ngôi thì lấy vợ cùng tuổi mới đỡ bị khắc.
- Trụ ngày rơi vào hình địa là vợ nhiều bệnh.
- Trụ ngày đóng ở mộc dục thì vợ đẹp nhưng khó tránh khỏi cãi vã.
- Tài, ấn đều bị thương tổn là người khắc vợ, hại mẹ.
- Trong Tứ trụ tài đóng ở cung khác là lấy nghĩa nữ làm vợ.
- Trong Tứ trụ thương, kiêu đều có là con yếu, vợ ngu.
- Tài tuyệt ở cung tù là muộn vợ, muộn con.
- Tài thịnh lại gặp nhiều tỉ kiếp thì đề phòng cướp vợ em.
- Trụ ngày gặp thất sát là chủ về vợ hung bạo, sát chồng.
- Can ngày vượng, chi ngày là kình dương thì khắc vợ hoặc vì vợ mà phá sản.
- Can ngày yếu, tài tinh nhiều là vợ không tuân phục chồng.
- Ngang vai hợp với chính tài là vợ đoan trang nghiêm túc.
- Tài tinh gặp tỉ kiếp lại không được cứu trợ thì đề phòng vợ gặp tai ương mà chết.
- Chi ngày là thất sát, thiên ấn là vợ cả, vợ lẽ bất hòa.
- Tỉ kiếp, nguyệt kiến vượng là tuổi trẻ đã chết vợ.
- Tỉ kiếp, kình dương gặp hình, thương là chết trong chốn trần ai.
- Tứ trụ gặp cả suy và tử là đến già vẫn sống cô đơn.
2. XEM NAM NỮ HỢP NHAU
- Can chi của ngày giống nhau là hao tổn tài, không lợi cho vợ chồng.
- Chi ngày gặp hình hoặc bị xung khắc là nam không lợi cho vợ, nữ không lợi cho chồng.
- Trụ ngày bị thương quan là vợ chồng không hòa thuận nhau, mình hay bị đối phương chửi.
- Nam gặp thương quan là có kết hôn hai lần, nữ gặp thương quan là có tái giá.
- Ngày lệch âm, dương là không có lợi cho hôn nhân, nam nữ gặp phải như thế tất sẽ phải tái hôn. Ví dụ : bính tí, kỉ sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thìn, quý tị, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi.
- Nam gặp tỉ kiếp tất sẽ tranh vợ, nữ gặp tỉ kiếp sẽ tranh chồng.
- Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ nội trợ tốt nhưng không hòa thuận.
- Trong người thuần dương thì nam mất vợ, thuần âm thì nữ mất chồng.
- Ngày giờ đối xung nhau thì vợ chồng bất hòa và không lợi cho con.
- Nam gặp kình dương thì vợ chồng bất hòa và không lợi cho con. Nam gặp kình dương là lấy vợ hai lần, nữ gặp kình dương tất sẽ tái giá.
- Cung thê bị khắc là không lấy chồng sớm, cung phu có khắc thì lấy vợ muộn.
- Nếu mã phục ở dưới ngang vai ( anh em) thì vợ chồng lấy nhau không giá thú.
- Thất sát đóng ở trụ ngày thì vợ chồng bất hòa, không chia tay nhau sẽ gặp điều xấu.
- Trụ năm của vợ hoặc chồng gặp thiên khắc, địa xung thì dễ có nỗi buồn sinh tử biệt ly.
- Nhật phá, nguyệt xung thì không lợi cho ly hôn.
- Nam hoặc nữ gặp ngang vai nhiều thì hôn nhân muộn, nhưng nếu thân ở vượng địa thì lại là tảo hôn.
- Quan sát hỗn tạp, thương quan nhiều, nếu nam gặp phải là người ham mê tửu sắc, nữ gặp phải là người theo trai.
- Chính tài, thiên tài nhiều là người háo sắc, chơi bời, vợ chồng bất hoà.
- Nam ấn nhiều thì khắc vợ, nữ ấn nhiều thì dâm loạn.
- Trong Tứ trụ có phu tinh, thê tinh hợp nhau là cuối cùng có sự ly biệt.
- Giáp thìn, giáp tuất, nam gặp phải hai ngày đó là khắc vợ, nữ gặp hai ngày đó là khắc chồng.
- Nam hợp là chủ về tốt, nữ hợp là chủ về dâm.
- Gặp phải vận thương quan là nam khắc vợ, nữ khắc chồng gặp phải tuế quân bị khắc phải đề phòng vợ chồng đều bị tổn thương.
- Cô loan nhập mệnh là chồng khóc vợ, hoặc vợ khắc chồng.
- Nếu tháng sinh gặp hàm trì thì vợ chồng đều có ngoại tình.
4. VỢ MẤT
- Tứ trụ này, thương quan, tỉ kiếp vượng, chắc chắn là khắc vợ. Trong Tứ trụ lại không có tài nên là mệnh của người đi tu, khó có vợ con.
- Tứ trụ này tỉ kiếp trùng trùng, can chi của nhật nguyên lại khắc nhau. Năm Nhâm quý là năm ngang vai kiếp tài. Năm nhâm dần (1962) đúng là tỉ kiếp gặp đất trường sinh nên chắc chắn vợ chết.
- Chính ứng với câu: "nam gặp kình dương thì khắc vợi" và "vận hành kình dương thì tài vận hao tán và khắc vợ". Năm 67 tuổi đúng là năm đại vận kình dương , lại gặp kình dương xung khắc Tuế quan nên chắc chắn là mất vợ.
II. DỰ ÐOÁN HÔN NHÂN ( 3)
1. Mệnh nữ không lợi cho chồng con.
- Nữ gặp thương quan là tượng khắc chồng tái giá, nếu gặp hợp nhiều thì đó là người đàn bà ti tiện, hoặc dâm ô, hoặc trộm cắp.
- Ất canh tương hợp là người đàn bà tuy dung mạo đẹp nhưng khắc chồng , hình phạt con.
- Nữ gặp quan sát hỗn tạp là người khắc chồng tái giá.
- Thương quan gặp quan thì không những khắc chồng mà thân còn vất vả, nếu không làm hại chồng thì cũng là người bệnh hoạn, người ít phúc đức, cuộc sống không yên ổn.
- Thiên can thấu quan sát , địa chi không có quan sát lại còn gặp đất tử tuyệt, đó là người làm suy kiệt chồng, cuối cùng đi làm vợ lẽ.
- Nữ tài phải ít, nếu tài nhiều thì dâm loạn.
- Tài và quan cả hai đều có thì khi hành vận gặp cả quan lẫn kiếp tài sẽ khắc chồng, qua vận mới nên lấy chồng
(hoặc nên lấy chồng muộn).
- Thương quan trùng trùng tất sẽ khắc chồng và tính cách ngang bướng.
- Nữ mà quan tinh nhiều thì làm hại chồng.
- Nữ mà thực quan ít thì chồng suy, con vượng.
- Nữ vận hành đến đất tỉ kiếp thì làm trở ngại chồng, khắc cha.
- Quan tuyệt hưu tù thì cô quả, đơn đọc.
- Nữ có kình dương là khắc chồng, chắc chắn sẽ tái giá.
- Nữ Tứ trụ gặp thương nếu lấy chồng gần thì sẽ khắc chồng, gặp xung, kiêu, ấn nếu không ly dị thì dễ chết.
- Nữ chỉ có 1 quan tinh là tốt, nhiều quan tinh là tượng tái giá lấy chồng nhiều lần.
- Kiêu, ấn trùng trùng là người vợ dễ tử biệt sinh ly.
- Trong Tứ trụ không có quan tinh, không làm vợ lẽ thì cũng là vợ kế.
- Tài quan nhập mộ là người không là hại con thì cũng khắc chồng.
- Tài quan lâm tử tuyệt là người phụ nữ cô quả đói nghèo.
- Tài quan đều rơi vào tuần không vong là gây hại cho chồng, phải bỏ đi phương xa.
- Trong Tứ trụ có cả kiêu thực cùng với thương quan là hại con, khắc chồng.
- Mậu sinh vào ngày quý là quan, tuổi trẻ đã lấy chồng già. Trong Tứ trụ nếu gặp cả hợi, dậu thì không lấy chồng là tốt nhất.
- Nữ không có tài, quan, thực ấn thì người đó cuộc sống không vất vả cũng là làm nghề ca kĩ.
- Mệnh nữ trong Tứ trụ đinh gặp nhâm nhiều đó là người dâm loạn.
- Phu tinh vượng, tử tinh suy, tất khắc con ; tử tinh vượng. Phu tinh suy, tất làm hại chồng.
- Trong Tứ trụ chỉ một phu tinh, hai tài tinh thì gọi là người tranh chồng ; nếu chính tài vượng, thiên tài suy thì mình làm vợ cả, người kia làm vợ lẽ, ngược lại là mình làm vợ lẽ.
- Phu tinh không vượng lại còn bị khắc chế là người lấy chồng muộn, hoặc lấy chồng bất minh, lén lút.
- Tham tài, làm hỏng ấn là người phụ nữ bất lương ( tài nhiều, ất ít).
- Tài tinh nhiều là khắc chồng : thân ở vượng địa là giàu mà khắc chồng con.
- Tứ trụ có quý nhân còn gặp trạch mã là người đẹp, phong lưu, khéo.
- Người hợp quý nhiều thì người đẹp, đa tình nhưng thấp hèn.
- Ðào hoa mờ, mộc dục rõ không là người đi tu cũng là người ở chùa.
- Tí, ngọ, mão, dậu đều có là người ham mê tửu sắc, hoang dâm. Dần , thân, tị, hợi đều có là người phụ nữ thông minh.
- Ấn tin nhiều là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.
- Mệnh nữ nhiều là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.
- Mệnh nữ có quan tinh khi hành đến quan vận thì sẽ khắc chồng.
- Trong Tứ trụ kim thanh, thủy lạnh là người khó lấy chồng.
- Thổ táo, hỏa mạnh thì phòng không lạnh lẽo.
- Quan nhiều, ấn nhiều là người cô đơn.
- Tài suy, ấn tuyệt là lấy chồng sớm ( tảo hôn).
- Tứ trụ gặp tam hình, gặp quan quỷ là khắc con hại chồng.
- Thủy tụ vượng là người con gái lẳng lơ.
- Lục hợp cùng với tam hình là người hại chồng, làm bại gia nghiệp.
- Phá tài, phá ấn là người khó lấy chồng.
- Xung quan hợp thực ( thần ) thì hình phạt chồng, sống nương tựa vào con.
- Quan tinh được lệnh mà gặp thương là người làm ni cô.
- Trụ ngày là kình dương là gặp sát là người không làm vợ lẽ thì cũng đi tu.
- Chỗ ngang vai trong lục thân mà lộ ra chị em tất có chuyện tranh chồng.
- Trong Tứ trụ toàn tỉ kiếp, quan địa thì chắc chắn có chuyện tranh chồng.
- Phu tinh vượng, quan tinh được lệnh, kiêu thần mạnh thì hại con.
- Năm và ngày tương xung thì không nên sinh đẻ.
- Mệnh đào hoa là người phụ nữ rất dâm.
- Thân vượng, quan tinh hung thì người đó không đi tu cũng làm nghề ca kĩ.
- Thực thần gặp kiêu thần nhiều, can của năm sinh là thương quan, giờ là kình dương , hình xung khắc hại, lưu niên và các vận xung hợp kiêu thần, kình dương thì nhất đinh sinh đẻ khó khăn, trắc trở.
- Phạm tam hình lục hợp, vong thần kiếp sát, cô thần quả tú là người khắc chồng, khắc con.
- Nữ gặp quan đế vượng là người còn trinh nguyên.
- Quan tinh gặp tuần không vong, ngày sinh vô khí là người không có chồng, nếu có thì cũng luôn luôn sợ chết chồng.
- Kim thần gặp giáp là người khắc chồng.
- Người trong Tứ trụ có thân tí thìn gặp nhâm quý là người không tiết hạnh.
- Người đào hoa gặp kiếp sát là người cô độc, dâm ô, phá hại gia nghiệp, trẻ thì làm nghề linh tinh, già thì cô đơn nghèo khổ.
- Hàm trì và đại hao cùng cung với nhau là người độc ác, gian dâm.
- Người gặp mão dậu nhiều là người hay sẩy thai, khắc con. Hay đau nhức về bệnh máu.
- Phu tinh đắc địa là người nhiều con.
- Nhất đóng ở thương quan là người hay chửi chồng. Người như thế nên lấy chồng già làm mẹ kế hay vợ lẽ.
- Trong Tứ trụ tân là quan tinh, có sửu là phu ( chồng ) kho nếu gặp nhiều tân là người đã chết chồng.
- Nữ gặp tí ngọ mão dậu là người theo trai làm vợ .
- Nữ ngày giờ sinh gặp khôi canh là hại chồng khắc con.
- Nữ mệnh thủy gặp thổ nhiều là người sống cô đơn.
- Cung phu có khắc là lấy vợ muộn, cung thê có khắc là lấy chồng muộn.
- Nữ phạm thương quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.
- Nữ phạm thượng quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.
- Nữ phạm thương, thiên, ấn thì không lợi cho chồng con.
- Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ không kính chồng. Cướp quyền chồng.
- Quan tuyệt, hưu tù là người cô đơn quả tú.
2. LY HÔN
- " Kiêu ấn trùng trùng là người phụ nữ tử biệt sinh ly".
- Ly hôn năm 1972 là vì đại vận nhâm dần, lưu niên là nhâm tí, tiểu vận là ngang vai, thân gặp đế vượng tất khắc chồng, lại kình dương trung lặp với tuế quân. "kình dương gặp tuế quân là đột nhiên hoạ đến". Nếu không ly hôn thì nhất định gặp hoạ.
- Ly hôn năm nhâm tí 1972 là vì : đại vận đinh sửu ngang vai khắc chồng, lưu niên nhâm tí chính là hai sửu hợp với 2 tý, tức là chồng hợp với người khác. Năm 1978 lại ky hôn vì đại vận mậu dần là đất thương quan, lưu niên mậu ngọ là chỗ thương quan, " thương quan vượng địa là người khắc chồng".
- câu : " Tỉ kiếp trùng trùng là chồng không còn tình nghĩa với mình".
- . Ðúng là " tỉ kiếp trùng trùng là kết hôn 2 lần".
3. MẤT CHỒNG
- Chết năm 1970 là vì đúng với câu : "Kiêu ấn trùng lặp là người phụ nữ có tử biệt sinh li".
- âu " Nữ có quan tinh lại gặp quan vận, tất sẽ khắc chồng".
- Chông mất năm kỉ dậu ( 1969 ) là vì : kiêu, ấn, đều vượng lại gặp tuế vận, lại còn gặp kiêu thần. Ðiều đó ứng với câu " Tứ trụ không có quan tinh không làm vợ lẽ thì cũng làm mẹ kế".
IV. BẢNG CHỌN NĂM PHỐI HÔN TỐT NHẤT CỦA NAM NỮ
- Trong vấn đề hôn nhân, qua thời gian dài quan sát và nghiên cứu tôi phát hiện thấy tuy chết do hôn nhân hoặc ly hôn có rất nhiều nguyên nhân, nhưng không hoàn toàn là do mệnh năm tương khắc tương hình nhau, hoặc các cầm tinh con vật tương hại nhau mà mệnh năm tương sinh , cầm tinh tương hợp cũng vẫn có sự khắc vợ khắc chồng. Nam nữ phạm khắc chiếm tỷ lệ lớn nhất là do hung thần ác sát trong Tứ trụ và can chi trụ năm của vợ chồng phạm thiên khắc, địa xung là chính.
- Vì sao trụ năm của hai vợ chồng tương sinh tương hợp thì không sợ khắc hoặc xung khắc đối kháng. Ðó là vì trụ năm là cơ bản, là rễ của hai cây đã tương sinh tương hợp thì tất nhiên gốc rế của cây ổn định vững chắc, không dễ chia ly, không sợ khắc hại. Ngược lại, nếu trụ năm của vợ chồng phạm thiên khắc địa xung thì cho dù mệnh năm tương sinh , trong Tứ trụ sát tinh tuy ít nhưng vì rễ cây đã bị tổn thất, tất nhiên là rễ khô, cây chết, dẫn đến bi kịch hôn nhân.
- Ðể nói rõ trụ năm tương sinh , thiên hợp địa hợp thì không sợ khắc hại, dưới đây xin đơn cử mấy ví dụ làm chứng.
- Trên kia đã nói đến trụ năm của năm sinh hai vợ chồng phạm thiên khắc địa xung tức là gốc bị thương tổn thì cho dù mệnh năm của vợ chồng tương sinh, nếu trong Tứ trụ không có cát tinh cứu trợ, cũng không tìm được cách hóa giải thì khi mệnh nam qua tuổi 54, người nhẹ thì ly hôn hoặc vì bị bệnh mà tàn phế, người nặng thì sẽ chết.
- Khi mệnh nam nữ ở tuổi chẵn 54 đều là cửa ải của sự sinh tử. Ðiều đó chủ yếu là trụ năm của năm sinh ở thời điểm 54 tuổi cùng với lưu niên phạm thiên khắc địa xung, làm hại thái tuế của năm đó. Ðặc biệt là mệnh nam nếu trụ năm phạm thiên khắc địa xung với vợ thì năm 54 tuổi rất khó vượt qua. Năm 54 tuổi lại cũng đúng là năm bản mệnh của vợ cho nên về phía nữ phần nhiều là năm dễ bị chồng chết.
- Có những cặp vợ chồng trụ năm phạm thiên khắc địa xung, chồng lúc 54 tuổi tuy không chết nhưng vì bệnh tật hoặc tai nạn mà tàn phế, nhưng đến năm 60 tuổi vừa đúng phạm thiên khắc địa xung với lưu niên khắc hại thái tuế. Do đó chồng mất.
- Ðối với những cặp vợ chồng trụ năm không phạm thiên khắc địa xung thì khi nam nữ đến tuổi 54, nếu Tứ trụ của mình tổ hợp tốt, bản thân mình không bị bệnh hoặc không bị tai hoạthì người thân trong nhà tất nhiên sẽ gặp cản trở khó khăn hoặc gặp những việc không thuận. Nếu tổ hợp Tứ trụ của mình không tốt thì nhất định mình sẽ bị bệnh hoặc gặp trắc trở nào đó.
- Do đó có thể thấy trụ năm của vợ chồng phạm thiên khắc địa xung, khi đến tuổi 54 nếu giữa hai vợ chồng không bị chết hoặc ly dị thì sẽ gặp những điều xấu khác . Do đó khi trụ năm sinh phạm thiên địa xung với lưu niên thì nhất đinh sẽ gặp tai hoạ nào đó, hoặc việc trắc trở.
Những pháp đối là (Xem: Tooltip):
– Năm pháp đối của loài vô tình ở ngoại cảnh: Trời đối với đất, mặt nhật đối với mặt nguyệt, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối với lửa. Ấy là năm pháp đối.
Diễn bày về pháp tướng thì có mười hai đối: Tiếng nói đối với pháp, có đối với không, có sắc chất đối không sắc chất, có tướng đối với không tướng, hữu lậu đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tịnh, trong đối với đục, phàm đối với thánh, tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ. Ấy là mười hai pháp đối.
Tánh mình (tự tánh) khi khởi dụng sanh ra mười chín pháp đối: Dài đối với ngắn, tà đối với chánh, si đối với huệ, ngu đối với trí, loạn đối với định, từ đối với độc, giới đối với phi, ngay đối với vạy, thật đối với dối, hiểm đối với bình, phiền não đối với Bồ-đề, thường đối với không thường, bi đối với hại, vui đối với giận, bố thí đối với bỏn sẻn, tới đối với lui, sanh đối với diệt, pháp thân đối với sắc thân, hóa thân đối với báo thân. Ấy là mười chín pháp đối.
Ba mươi sáu pháp đối ấy, nếu hiểu mà dùng, thì nói suốt tất cả kinh pháp, ra vào đều lìa cả hai bên. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)
+ Các Nguyên lý gốc:
I. Nguyên Lý Cơ Bản I. Có một Nguyên Lý Bất Biến Vô Biên; một Thực Tại Tuyệt Đối đi trước tất cả Hiện Hữu biểu lộ theo điều kiện. Nó vượt ngoài phạm vi và tầm với của bất kỳ tư duy hay sự diễn đạt nào của con người.
Vũ Trụ biểu hiện được chứa đựng bên trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một biểu tượng có hạn định của Thực Tại Tuyệt Đối đó.
Trong toàn thể Vũ Trụ được biểu hiện này, có ba phương diện phải được nhận thức (3)
1. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 1, vô ngã và không biểu lộ, có trước của cái được Biểu Hiện.
2. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 2, Tinh thần-Vật chất, Sự sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 3, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Phổ quát..
+ Kiến thức về vũ trụ gốc Tam phân – năng lượng gốc vũ trụ là chính. Từ năng lượng này, vô số Thái dương hệ hình thành, mỗi thái dương hệ có một sự sống biểu lộ, chúng ta thường gọi là Đấng Thái Dương Thượng Đế . (QU1. Ma Kết)
II- Nguyên Lý Cơ Bản II. Có một nguyên lý cơ bản được gọi là Định Luật Tuần Hoàn.
1. Định Luật Tuần Hoàn này chi phối tất cả các biểu hiện, dù đó là biểu hiện của một Thái Dương Thượng Đế thông qua trung gian một thái dương hệ [Trang 6], hay là biểu hiện của con người thông qua trung gian một hình thể. Tương tự, Định luật này cũng điều khiển tất cả các vương quốc trong tự nhiên.
2. Ba Định Luật Vũ Trụ được kết nối với Định luật này (6)
3. Có bảy Định Luật hệ thống, thống trị sự biểu hiện của Đấng Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. (6)
4. Mỗi định luật trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ (6)
5. Mỗi luật có hiệu lực tuần hoàn (6)
Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cõi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ yên nghỉ của nó
6. Mỗi sự sống biểu hiện có ba chu kỳ vĩ đại của nó (6-7)
Sinh ra - Sống - Chết.
Xuất hiện - Phát triển - Biến mất.
Giáng hạ tiến hoá - Tiến hóa - Qui nguyên
Bất động - hoạt động - chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại - Sự sống sinh động - Sự sống nhịp nhàng.
7. Kiến thức của các chu kỳ liên quan đến kiến thức về con số, âm thanh và màu sắc (7)
8. Kiến thức toàn bộ của các chu kỳ chỉ được biết đến khi đã là một người tinh thông lão luyện hoàn thiện (7)
Tri thức trọn vẹn của bí ẩn của các chu kỳ chỉ được sở hữu bởi Chân sư hoàn thiện.
III- Nguyên Lý Cơ Bản III. Tất cả các linh hồn đều giống với Đại Hồn
1. Thượng Đế của thái dương hệ là Đại Vũ Trụ. Con người là Tiểu Vũ Trụ. (7)
2. Linh hồn là 1 phương diện của mọi dạng thức đời sống, từ một Thượng Đế (Logos) cho đến một nguyên tử. (7)
3. Mối quan hệ giữa những linh hồn và Đại Hồn là nền tảng của Tình Huynh Đệ (7)
Mối quan hệ giữa tất cả các linh hồn và Đại Hồn cấu thành nên nền tảng niềm tin khoa học của Tình Huynh Đệ. Tình Huynh Đệ là một sự thật trong tự nhiên, không phải là một lý tưởng. (Nguồn: Luận về Lửa Càn Khôn)
+ Các Nguyên lý gốc:
I. Nguyên Lý Cơ Bản I. Có một Nguyên Lý Bất Biến Vô Biên; một Thực Tại Tuyệt Đối đi trước tất cả Hiện Hữu biểu lộ theo điều kiện. Nó vượt ngoài phạm vi và tầm với của bất kỳ tư duy hay sự diễn đạt nào của con người.
Vũ Trụ biểu hiện được chứa đựng bên trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một biểu tượng có hạn định của Thực Tại Tuyệt Đối đó.
Trong toàn thể Vũ Trụ được biểu hiện này, có ba phương diện phải được nhận thức (3)
1. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 1, vô ngã và không biểu lộ, có trước của cái được Biểu Hiện.
2. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 2, Tinh thần-Vật chất, Sự sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 3, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Phổ quát..
+ Kiến thức về vũ trụ gốc Tam phân – năng lượng gốc vũ trụ là chính. Từ năng lượng này, vô số Thái dương hệ hình thành, mỗi thái dương hệ có một sự sống biểu lộ, chúng ta thường gọi là Đấng Thái Dương Thượng Đế . (QU1. Ma Kết)
+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)
+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)
+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)
+ Lửa trong Đại thiên địa: Lửa có bản chất chính yếu là tam phân, nhưng khi biểu lộ, nó có thể được xem như biểu hiện ngũ phân, và có thể được định nghĩa như sau:
- Lửa do ma sát, hay lửa sinh động nội tại. Các lửa này làm sinh động và đem sinh khí cho Thái Dương Hệ biểu lộ bên ngoài. Chúng là toàn thể hỏa xà của Thượng Đế khi hoạt động đầy đủ trong Thái Dương Hệ.
- Lửa Thái Dương hay lửa trí tuệ vũ trụ. Đây là phần của cõi trí vũ trụ được dùng làm sinh động thể trí của Thượng Đế. Lửa này có thể được xem như là toàn thể tia lửa của trí tuệ (mind), các lửa của các hạ trí (mental bodies) và nguyên khí linh hoạt của các đơn vị tiến hóa của nhân loại trong ba cõi thấp.
- Lửa điện, hay Ngọn Lửa Thiêng của Thượng Đế. Ngọn lửa này là dấu hiệu phân biệt của Thượng Đế (Logos) của chúng ta và chính nó giúp phân biệt Ngài với các vị Thượng Đế khác, đó là đặc điểm nổi bật của Ngài và là dấu hiệu vị trí của Ngài trong cơ tiến hóa của vũ trụ. (LVLCK, 37–38)
+ Lửa vũ trụ là nền tảng của cuộc tiến hóa của chúng ta. Lửa của cõi trí kiểm soát và ngự trị nội tại và có khả năng tinh luyện cùng những hiệu quả thanh lọc để tiến hóa. Khi hợp nhất Nội hỏa cõi trí và lửa các hạ thể với lửa thiêng Tam nguyên Tinh thần => Một vị Chân sư, do nhờ sự hợp tác của Hỏa đức Tinh quân (Các hiện tượng tâm lý địa cầu đều ở dưới quyền Ngài kiểm soát) và các vị thần cao cấp ở cõi trí, họ làm việc với vị Chúa tể của cõi này, và vị Đại Thiên vương, Chúa tể của cảnh giới thứ hai. Tương tự: Nội hỏa ở tâm địa cầu sẽ hòa hợp với lửa thiêng của mặt trời ở cuối đại chu kỳ này => Thái dương hệ sẽ đạt mức thánh hóa (TTHM, Thư: 27/8/20))
+ Định đề (Postulate): Quyển “Luận về Huyền linh thuật” được căn cứ vào 4 định đề căn bản mà kẻ nghiên cứu phải chấp nhận vì nó cung cấp một giả thuyết đáng nghiên cứu và thử nghiệm, thứ tự quan trọng là:
1. Trong vũ trụ biểu lộ của chúng ta có tồn tại sự biểu hiện của một Năng lượng hay Sự sống vốn là nguyên nhân chịu trách nhiệm cho vô số hình hài sắc tướng và một huyền giai rộng lớn các thực thể có khả năng cảm thụ tạo thành toàn thể những gì hiện tồn. Định đề này thường được gọi là Vật–Hoạt–Thuyết, mặc dù thuật ngữ này chỉ làm cho rối trí.
2. Định đề này xuất phát từ định đề thứ nhất và được phát biểu như sau: Sự sống Duy Nhất, biểu lộ qua vật chất, tạo ra một yếu tố thứ ba đó là ý thức. Ý thức này, vốn dĩ là kết quả của sự hợp nhất của hai cực tinh thần và vật chất, là linh hồn của vạn vật; nó thấm nhuần mọi chất liệu hay năng lượng biểu lộ ra bên ngoài; nó nằm dưới mọi hình hài, dù cho đó là hình hài của đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là một nguyên tử, hay là hình hài của con người, một hành tinh hay một Thượng Đế. Đây là Tự Định Thuyết.
3. Được phát biểu như sau: Mục tiêu mà theo đó sự sống chiếm ngự hình hài và mục tiêu của thực thể biểu lộ là việc khai mở ý thức hay là sự thiên khải của linh hồn. Định đề này có thể được gọi là Thuyết Tiến Hóa Ánh sáng.
4. Mọi sự sống đều biểu hiện theo chu kỳ. Đây là Thuyết Tái Sinh hay Thuyết Luân Hồi, minh chứng của định luật chu kỳ. Đó là các đại chân lý ẩn tàng tạo thành nền tảng của Minh triết Muôn đời - Sự hiện tồn của sự sống và việc phát triển của ý thức qua việc chiếm hữu hình hài theo chu kỳ.(LVHLT, 8–10)
+ Nguồn gốc vũ trụ - Các đấng vũ trụ - Thượng đế biểu hiện:
Nhưng chúng ta là ai, xuất phát từ đâu? Câu trả lời của Minh Triết Thiêng Liêng là tất cả chúng ta đều xuất phát từ Sự Sống Duy Nhất Đại đồng (One Universal Life). Chúng ta là một phần bất khả phân của Sự Sống Duy Nhất đó, là Tia lửa của Ngọn Lửa Thiêng hay điểm Linh Quang, Chân thần, chảy ra xuyên qua các Đấng Vũ trụ (Universla Beings), xuyên qua các Đấng nhỏ hơn như các chòm sao, đến hành tinh của chúng ta, cuối cùng đến con người chúng ta trên trái đất này.
Các đấng Vĩ đại này, mà cơ thể của các Ngài là vũ trụ hay các chòm sao, phân thành 7 dạng biểu lộ, thể hiện 7 lọai năng lượng hay là 7 Cung (7 Rays).
Khi Thượng đế khai sinh một vũ trụ mới, từ Ngài phóng ra bảy phát xạ (emanations). Cổ thư hay dùng từ “thở ra” (breathe out) để mô tả tiến trình này. Sự Sống Duy Nhất thở ra hay phân hóa thành bảy luồng năng lượng được biết đến như là Bảy Cung.
Bảy Cung cung ứng toàn bộ môi trường thể hiện cho Thượng đế Biểu hiện, và bản thân chúng là các phẩm tính như Bác Ái, Sùng Tín, Mỹ Lệ. Mỗi cung có cung bậc, âm thanh, màu sắc, và rung động riêng của nó. Ta có thể thấy chúng trong màu sắc của cầu vồng, bảy note của âm giai. Ta còn thấy các ví dụ khác về số bảy như 7 ngày trong tuần, 7 tội lỗi chết người, Bảy Kỳ quan của thế giới, 7 Luân xa hay 7 tuyến …(Nguồn: Cấu tạo con người 1)
+ Các Đấng Thiêng Liêng:
– Ah–hi tức là Thiên Trí (Universal mind) – Ah–hi, các Đấng Kiến Tạo vĩ đại (greater Builders), các Ngài là các Tinh Quân thi hành ý chí của Thái Dương Thượng Đế, các Ngài sử dụng phần lớn hai cõi để giao tiếp với nhau và với các đoàn thể của các Ngài: Một là cõi thứ hai, nơi mà các Ngài giao tiếp bằng phương tiện tinh thần mà hiện nay con người không thể hiểu được. Hai là cõi trí, nơi mà các Ngài giao tiếp với tất cả các sự sống thứ yếu bằng loại viễn cảm thuộc thể trí. (LVLCK, 815)
– Ah–hi: các Đấng Thiêng liêng (Celestial Beings). (GLBN I, III)
I- Cung "Nguyên Thuỷ/ Cung Gốc Vũ Trụ" là Cung và là phân thân trực tiếp của Tứ Linh Diệu. (Giáo Lý Bí Nhiệm I, 115, 116)
+ Tứ Linh Diệu Của Đại Vũ Trụ là:
1. Nhất Nguyên: Cha - Mahadeva - Thượng Đế Ngôi Một - Ý chí Tinh thần
2. Nhị nguyên: Con - Vishnu - Thượng Đế Ngôi Hai - Bác ái Minh triết
3. Tam Nguyên: Mẹ - Brahma - Thượng Đế Ngôi Ba - Trí tuệ Hoạt động
* Tứ Linh diệu: Biểu lộ hợp nhất của cả ba - Đại vũ trụ (TCF/ LVLVT, 118)
+ Tứ Linh Diệu Của Đại Thiên Địa là: Nhất Nguyên (Unity)
a/ Cha … Mahadeva … Thượng Đế Ngôi Một … Ý chí–Tinh thần (1st Logos) Nhị Nguyên (Duality)
b/ Con … Vishnu … … Thượng Đế Ngôi Hai ….. Bác ái–Minh triết (2nd Logos) Tam nguyên (Trinity)
c/ Mẹ … Brahma … Thượng Đế Ngôi Ba ……. Hoạt động–Trí tuệ (3rd Logos) Tứ Linh Diệu
* Biểu lộ kết hợp (united manifestation) của bộ ba (the three) – Đại Thiên Địa (Macrocosm) (TCF/ LVLCK, 41)
+ Tứ Linh Diệu: Đến lượt mình, con người trở thành một “Tứ Linh Diệu” – Tinh thần và bộ ba biểu lộ (spirit and the three of manifestation). (LVHLT, 75)
+ Tứ linh diệu (Tetraktys): Bộ Ba, được chiếu rọi bởi ánh sáng của Đấng Duy nhất là ba Ngôi của Tam hạ thể (lower Triad), tức thể hạ trí, thể cảm dục và thể xác. Ba thể này cùng với Đấng Soi sáng (Illuminator) tạo thành “Bốn” được nói đến và như thế hiển nhiên trở thành Tứ linh diệu của tiểu thiên địa. (LVLCK, 1000)
II- Tứ nguyên biểu lộ và 7 Đấng Kiến Tạo xuất phát từ Mẹ . (GLBN, 402)
a/ 7 Đấng Kiến Tạo là Trí Tinh Quân, các con sinh ra từ Trí của Brahma, Ngôi Ba. (GLBN III, 540)
b/ Các Ngài biểu lộ để phát triển Ngôi Hai. (GLBN I, 108)
c/ Phương pháp của các Ngài là biểu lộ ra ngoại cảnh.
3. Năng lượng được khơi hoạt lại phóng vào không gian.
a/ Chúng là sự tổng hợp còn ẩn giấu (GLBN I, 362)
b/ Chúng là toàn thể mọi biểu lộ (GLBN I, 470)
c/ Chúng là tiền vũ trụ (GLBN I, 152, 470)
+ Vũ trụ biểu hiện:
-Vật chất biểu hiện: Các Thiên hà và Thái dương hệ cho đến sông núi cây cỏ
-Tinh thần biểu hiện: Các Chúng sinh vũ trụ từ Thánh hiền cho đến các Siêu vi trùng
+ Hư Không Linh Minh - Ngôi Một: Cội Nguồn của Vạn Hữu (Vô Ngã, Vô hiện, có trước vũ trụ biểu lộ):
- Hư không mê mờ tối tăm mù mịt
- Tánh giác bản nguyên vốn "Diệu Giác Minh Thanh Tịnh bao Trùm khắp Hư không biến pháp giới"
* Cả hai hợp lại gọi là Hư không Linh minh - Ngôi gốc vũ trụ - Thượng đế gốc vũ trụ
Ngôi Một phân thân hình thành ngôi Hai => Ngôi Hai sinh ra ngôi Ba tạo ra ngôi III
+ Ngôi Hai (xuất phát từ Ngôi 1): Biểu lộ ra 2 trạng thái là Sự sống và Sắc tướng, Lưỡng nguyên nguyên thủy, tạo thành 2 cực của Thiên Nhiên, mạng lưới vũ trụ được tạo ra giữa 2 cực đó:
Sự sống – Sắc Tướng,
Tinh thần – Vật chất,
Dương – Âm,
Chủ động – Thụ động,
Phụ – Mẫu của các thế giới.
- Ngôi Ba (xuất phát từ Ngôi 2) Toàn Linh Trí, trong đó có tồn tại mọi nghi hình kiểu mẫu, cội nguồn của vạn vật, nguồn mạch của mọi năng lượng tạo hình, kho tàng lưu trữ mọi nguyên hình. (MTNX,45–46)
+ Hư Không thì tối tăm mù mịt.
+ Tánh Giác / Chân Tâm bản nguyên Vũ trụ thì sáng suốt nhiệm mầu
=> Hợp cả hai lại thành Đấng Duy Nhất Vô hiện - Có trước vũ trụ biểu lộ. Chính Ngài Phân Thân 2 lần thành ba thành phần bản nguyên vũ trụ
1- Chính Ngài là Đấng Duy Nhất - Chưa phân thân
+ Đấng Duy Nhất Ngài Phân thân lần 1 - Tạo ra Thượng Đế Ngôi I
+ Thượng Đế Ngôi I theo gương Đấng Duy Nhất Phân thân tạo ra Thượng Đế Ngôi II
+ Thượng Đế Ngôi II theo gương Thượng Đế Ngôi I Phân thân tạo ra Thượng Đế Ngôi III
2- Ba Đấng Thượng Đế Gốc Vũ trụ này tiếp tục Phân thân làm vũ trụ biểu hiện vô lượng vô biến Thái dương hệ
+ Tứ nguyên bản nguyên vũ trụ|Tam nguyên bản nguyên - Ba ngôi I + II + III hợp thành
* Nguồi cội của vạn sự biểu hiện vũ trụ đều tương ứng các ngôi và sự phân thân của các ngài
Xem giải thích về Tam giác Tam nguyên: Ba ngôi sinh ra vạn Ba cung và bảy cung
+ Kinh dịch nói: Có Trời Đất, rồi có vạn vật; Có vạn vật rồi có Nam Nữ; Có Nam Nữ rồi có Vợ Chồng; Có vợ chồng rồi có Cha Con; Có cha con rồi có Vua Tôi; Có vua tôi rồi có Trên Dưới => Sinh ra Lễ nghi.
- Ngôi Hai (xuất phát từ Ngôi 1): Biểu lộ ra 2 trạng thái là Sự sống và Sắc tướng, Lưỡng nguyên nguyên thủy ===> Tạo thành 2 cực của Thiên Nhiên, mạng lưới vũ trụ được tạo ra giữa 2 cực đó:
Sự sống – Sắc Tướng,
Tinh thần – Vật chất,
Dương – Âm,
Chủ động – Thụ động,
Phụ – Mẫu của các thế giới.
4.6 THIÊN ẤN
Công năng: Nguồn Khí, là hung thần. Thiên gặp thực > Cướp đoạt.
Năng lực: Sinh thân, xì quan sác, áp chế thương. Nhật yếu, quan sát mạnh > ấn tinh làm xì hơi quan sát và sinh thân/ chống lại thương, thực.
Đại biểu: Quyền uy nghề nghiệp, Nghệ thuật, diễn suất, y học, luật sư, kỹ thuật, nghề tự do, những thành tích trong dịch vụ. Tình dì ghẻ.
Tâm tính: Tinh thông tay nghề, phản ứng nhanh nhạy, nhiều tài nghệ, nhưng dễ cô độc, thiếu tính người, thậm chí ích kỷ, ghẻ lạnh.
Vượng-Suy: Sinh Thân. Gặp Thực= Mệnh lao dịch vất vả. Nhiều mà không được giải > Người phuc bạc, bất hạnh, tật bệnh hoặc con cái khó khăn, cần Thiên tài cứu.
Ấn-Thiên tài đều hiện: Là người có nhiều nghề.
Thân vượng: Lại có Kiêu và Tài quan tất phú quý. Thiên ấn + Quan sát tạp= Thắng lợi + Thất bại.
Vòng Trường sinh: Lâm Trường sinh > ít gắn bó với mẹ đẻ. Mộc dục > Nhiều nghề, Tiền- Mẹ kế sài. Quan đái, vượng > ít gắn bó với mẹ đẻ, có thành đạt nghề phụ.
Suy, bệnh, tử, tuyệt: Bôn tẩu 4 phương kiếm sống, ít gắn bó với cha mẹ. Mộ > Đầu voi đuôi chuột. Thai > Người mới ra đời thì đã xa mẹ.
Ở Năm: Kỵ > Phá bại tổ nghiệp, làm mất thanh danh gia đình, không có gia giáo.
Ở Tháng: Thích hợp nghề: y học, nghệ thuật, diễn xuất, nghề tự do, nghề dịch vụ. Cùng Thiên Nguyệt Đức = Mệnh tốt, tính ôn hoà.
Ở Ngày: Là kỵ > Nam, Nữ Khó lấy được Vợ, chồng tốt.
Ở Giờ: Kị > Không lợi cho con cái vì khó thành tài, khó nuôi dậy
THIÊN ẤN
- Thiên Ấn đại diện tất cả bề trên là nữ giới có thể chăm sóc bản thân mình, người phụ nữ có thể thay thế mẹ, ví dụ mẹ kế, dì. Người lớn lên dưới sự chăm sóc của mẹ kế luôn luôn trưởng thành, dễ hình thành lòng nghi kỵ trong các mối quan hệ. Trong mắt họ không nhìn thấy cái tốt, cái thân thiện của người khác, luôn nghi ngờ sự quan tâm của người khác, dễ cảm thấy mình bị thiệt thòi, dẫn đến vô tình vô nghĩa. Điểm này vừa dúng tương phản với Chính Ấn. Chính Ấn ngây thơ, lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Thiên Ấn ngược lại, luôn nghi ngờ và có phần bi quan trước tương lai.
- Thiên Ấn còn gọi là Kiêu thần, Đảo thực. Tính tình cô lập, không tình nguyện cồng hiế, bàng quang trước thời cuộc, nghiêm túc khiến người khác khố hiểu, tạo cảm giác khó tiếp cận, thường không hòa hợp với người khác. Tài năng thiên về sáng tạo, khả năng học tập và năng lực lĩnh ngộ tốt, mẫn cảm đối với sự vật, giỏi làm điều tra, tình báo, chiêm sát. Thích hợp phát triển theo các lĩnh vực như tôn giáo, thuật số kỳ bí, kỹ nghệ đặc thù...Mệnh nữ có nhiều Thiên ấn không có duyên với con cái.
Họ thường có tâm lý bất an, cô lập, thích suy nghĩ theo hướng ngược lại hoặc khai khác lạ so với mọi người. Biết nhìn nhận và đánh giá chính xác, có khả năng nhìn sắc mặt để hành sự, phản ứng nhanh nhạy, năng lực học tập tốt, không theo quy tắc thông thường mà thường có \ kiến giải riêng. Thích hoạt động mang tính kích vận | thích, mới mẻ, hay thay đổi, dùng sự tinh quái khôn khéo để lấy lòng mọi người. Dùng logic khác với nhiều người để có được sự chú ý. Mục đích là không để người khác hiểu suy nghĩ của họ. Nhạy cảm, có thể thấu hiểu tâm tình người khác. Đây không nhất định là việc tốt vì thiên phú này sẽ khiến họ không coi trọng người khác, tự cho mình là đúng, cô độc, từ đó phá hoại quan hệ giao tiếp. Họ dường như bất chấp tất cả, như hóa thân của chính nghĩa. Họ vừa chính vừa tà, người cùng chiến tuyến cho rằng họ có bản lĩnh, không quan tâm lời đàm tiếu của người khác, nhưng người không cùng chiến tuyến sẽ cảm thấy họ khẩu Phật tâm xà, không giống ai, không theo luân thường đạo lý.
- Thuộc tính của Thiên Ấn3.1 Ưu điểm: Cảm giác nhạy bén, giỏi ứng biến, năng lực lĩnh ngộ tốt, khả năng quan sát tinh tế. giá cao, có thể giữ bí mật, hỉ nộ ai lạc không biểu hiện ra ngoài. Có thể khiến người khác giới tin tưởng phải có kế hoạch, sáng tạo, có kiến giải độc đáo ở phương diện thiết kế, tư tưởng cao siêu có phần quái dị.3.2 Khuyết điểm: diện thiết kế, tư tưởng cao siêu tố
Hướng nội đa nghi, thích cô lập, không thích xã giao, thường có tâm chán ghét thế tục. Tuy có ý chỉ phấn đấu nhưng không đủ nhẫn nại, một dạ hai lòng dẫn đến chẳng làm nền việc gì. Tư tưởng độc đáo, lập dị, thích dùng phương thức nhanh, không thể
làm từng bước, thích đi tắt đón đầu. Thiên ấn quá nhiều thì tâm ích kỷ, quá đề cao bản thân, cô lập. Thiên ấn và Thương quan cùng xuất hiện là không tốt. Mệnh có 2 Thiên ấn thường cổ hủ, hiếu thắng, thích đoạt quyền. Có 3 Thiên ấn trở lên thì sức khỏe không tốt.
Chính ấn và Thiên ấn hỗn tạp thường chủ về mệnh chủ quan, tâm tính bất định, một dạ hai lòng. Nhật chủ yếu thường thích xen vào chuyện người khác, phản ứng nhanh, không dễ tán đồng suy nghĩ của người khác, lạnh lùng. Thích nói mà không nghe người khác nói, thích xen ngang. Mệnh nữ Thiên ấn nhiều lại ở thời trụ chủ hiếm muộn đường con cái, cuối đời cô lập. Tứ trụ không có Chính ấn, Thiên ấn chủ về không có chủ kiến, không có cảm giác an toàn.3.3 Tại niên trụ: Cha có khả năng ngoại tình cao, mẹ bị thương hại. Khi nhỏ khó nuôi, được nhận làm con nuôi. Khi sinh phần lớn cha không ở bên cạnh, mẹ muôn sự bất lợi.3.4 Tại nguyệt trụ: Thích làm điều ngược lại. Khi nhật chủ yếu, vì lời nói dễ nghe mà phá sản, bị người thân cận nhất hãm hại.3.5 Tại nhật trụ: Có khuynh hướng kết hôn muộn. Nhật chủ mạnh thì hôn nhân nhiều trâc trở, kỳ vọng đối với vợ( chồng ) quá cao. Sau khi kết hôn phụ thuộc hoàn toàn vào đối phương. Mệnh nữ sau kết hôn dễ nảy sinh mẫu thuân xmej chồng nàng dâu, nhà do mẹ chồng quản lý.3.6 Tại thời trụ: Kiếm tiền vất vả, nhật chủ mạnh thì phạm tiểu nhân, thích yên tĩnh, dễ phiền lòng, càng về già càng cố chấp.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT; MẠNH YẾU CỦA THẬP THẦN
Thiên Ấn - Chính Ấn
Ấn tinh vừa phải |
Ấn tinh quá mạnh |
Ấn tinh quá yếu |
Trọng hư vinh, thích xây dựng hình tượng, thích được khen ngợi |
Tâm tính có thể diễn biến thành " chỉ là hư vinh" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự cho là đúng" |
Tin tưởng giao trọng trách cho người khác, đồng thời cũng được ủy thác cho người khác |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lười nhác, dựa dẫm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành "quật cường"
|
Quan niệm truyền thống, mong muốn duy trì đạo đức luân lý. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thích mới ghét cũ" |
Ý thức phục vụ mới mẻ, có sự đồng lòng, tự nguyện cống hiến hi sinh. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quá mềm lòng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tính toán chi li" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Chính Ấn - Thiên Ấn
Đặc điểm cơ bản |
Thiên ấn là lực lượng tương sinh cùng tính chất, là sinh vô tình. Lực sinh không hết, thiên về bảo vệ luận lý đạo đức có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài. Chinh ấn là lực lượng tương sinh khác tính chất, là sinh có tình, lực sinh hết, thiên về bảo vệ luân lý đạo đức có tính kích động, nhanh chóng, đại khái, nghĩa rộng, trạng thái động, nhiều biến hóa, cấp tốc, mới mẻ, ngắn.
|
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Thiên ấn thể hiện qua các vấn đề luân lý, đạo đức có đặc điểm ôn hòa, nghĩa hẹp, bảo thủ. Khuynh hưởng ý thức của Chính ấn thể hiện Thức qua các vấn đề luân lý, đạo đức có đặc điểm vội vàng, nghĩa rộng, thoải mái, như Tôn giáo, làm việc thiện, tam cương ngũ thường, tu thân dưỡng tính. . |
Trạng thái cân bằng |
Lực lượng cả hai mạnh mà tương đương, có tín ngưỡng tôn giáo vừa phải, không mê tín, có quan niệm đạo đức luân lý thích hợp, không bảo thủ, có thể kính trọng người già người hiền, coi trọng danh dự, biết giữ gìn truyền thống đạo đức, biết thay đổi sự lạc hậu.
|
So sánh 1 |
Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, sử dụng nhiều phương thức trực tiếp, cụ thể như: Nhận nuôi trẻ mồ cuối, tổ chức biểu diễn công đức, làm việc tình nghĩa. Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, sử dụng nhiều phương thức gián tiếp, tượng trưng, như: Quyên góp, hiếu thuận cha mẹ, giáo dục thế hệ sau.
|
So sánh 2 |
Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, sử dụng phương thức thực tiễn từ ngoài vào trong. như: Không phụ người tốt với mình, tin tưởng người tin mình, giúp đỡ người giúp đỡ mình, yêu nước mới đến yêu nhà. Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, sử dụng phương thức thực tiễn từ trong ra ngoài, như: Tốt với mình sau đó tốt với người, tin mình mới tin người, giúp mình mới giúp người, yêu nhà mới đến yêu nước.
|
So sánh 3 |
Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, thường thể hiện bằng hành động cụ thể. |
Xem đầy đủ kiến thức về Thiên Ấn: Xem tại đây
4.5 CHÍNH ẤN:
Công năng: Nguồn khí, như cha mẹ sinh ra tôi, Cát thần
Năng lực: Sinh thần, xì quan sát, khắc thương. Nhật yếu, quan sát mạnh thì ấn xì hơi quan sát-Sinh thân. Ấn yếu, Thực thương mạnh > Chống lại thương, thực.
Đại biểu: Chức vụ, Con dấu, sự nghiệp, quyền lợi, danh dự, địa vị, phúc thọ và tình mẹ, Học thuật "học hành, nghề nghiệp).
Tâm tính: Thông minh, nhân từ, không tham danh lợi, chịu đựng. Nhưng ít tiến thủ, thậm chí chậm chạp, trì trệ.
Vượng-Suy: Thân yếu, quan sát vượng mừng gặp được chính ấn trợ Thân.
Thân+Ấn vượng: Vượng, ấn nhiều, không bị chế > Mệnh cô hàn hình khắc. Ấn quá vượng là người biển lận, ít con cái, có gặp Tài tinh mới có con.
Vòng Trường sinh: Trường sinh > Mẹ đoan chính, nhân từ, trường thọ; Mộc dục > Chỉ Nghề nghiệp nhiều biến đổi; Quan đái > Xuất thân ở gia đình danh tiếng, cuộc đời hiển đạt. Lâm quan > Đứng đầu một vùng. Suy > Bình thường, gia phong nề nếp. Bệnh, tử, mộ, tuyệt > Tình mẹ đạm bạc, gia đình tầm thường.
Ở Năm: Hỷ ấn > Gia đình phú quý, tiền đồ học hành tốt.
Ở Tháng: Nhân từ, hiền hậu, thông minh, khỏe mạnh, ít bệnh, an toàn. Có Thiên-Chính quan có thể sinh ấn = Phúc hậu.
Xung-Khắc: No Thiên tài > Ấn không bị khắc, đường khoa cử tốt. Chi tháng ấn xung ngày > Gia đình cha mẹ sa cơ, suy bại.
Ở Ngày: lấy được vợ ( hoặc chồng ) nhân hậu, hôn hậu, trong mệnh có hỉ ấn là người được vợ ( hoặc chồng ) trợ giúp đắc lực.
Ở Giờ: Là hỉ ấn, chủ về con cái nhân từ, thông minh, hiếu thảo, cuối đời hưởng Phúc
CHÍNH ẤN
1.
Chính ấn đại diện cho người mẹ và tất cả bề trên là nữ giới. Do Chính ấn là sinh trợ cho bản thân mình nên người có mệnh Chính ấn giống như đứa trẻ lười nhác, thường hay ngủ. Kiểu người này có khả năng khơi gợi tình mẫu tử của người khác mà không biết tự giác chăm sóc bản thân và mọi người. Trong cuộc sống, họ thường được sự trợ giúp, chuyển hung thành cát. Do người mẹ thường có tâm từ bi, là nội hàm tính cách của Chính ấn, nên tận sâu trong nội tâm của kiểu người này thường có ước muốn “thế giới hòa bình, mọi người đều vui vẻ, khỏe mạnh”.
Họ sẽ dùng sự lương thiện hài hoà làm xuất phát điểm để đối đãi với người và sự vật khác, hiểu nguyên tắc “dùng đức cảm hóa”, tự mình làm gương để người khác noi theo mà không phải dùng biện pháp lấn át hay áp đặt. Họ biết cảm thông, an ủi, chăm chú lắng nghe và thấu hiểu tâm tư người khác. Do đó, mọi người luôn muốn tâm sự và giãi bày những khó khăn, khúc mắc trong lòng với họ. Họ có khí chất và tư tưởng mạnh mẽ, có văn hoá, da trắng, tướng mạo hiền hậu. Tuy nhiên suy nghĩ có phần cố chấp, kiên trì theo ý kiến của mình mà không để tâm đến quan điểm của người khác. Do khó trao đổi, quá cứng nhắc nên dễ làm ảnh hưởng đến quan hệ giao tiếp. Chính ấn cũng đại diện cho quyền lực, giống như sau khi đóng dấu mới được tính có hiệu lực.
2. Tính cách của chính ấn
Tính cách của Chính ấn: Trọng tình cảm, thích đọc sách, trung hậu thật thà, thiếu cảm xúc, khả năng linh hoạt và dung hòa. Biết điểm dừng, có tu dưỡng, không tham danh lợi, không thích thay đổi, thiếu ý chí tiến thủ, luôn khép mình, nghĩ cho người khác, không tranh quyền đoạt lợi, có thể mang đến an toàn và phúc khí. Ý thức tự bảo vệ mạnh, không dám đấu tranh với thế lực hung ác, tích cực đối với những việc từ thiện. Mệnh có quá nhiều Chính ấn thường thiếu tinh thần độc lập.
3. Thuộc tính của Chính Ấn
3.1 Ưu điểm
Khí chất ưu nhã, trí tuệ thông minh, khoan dung lương thiện, không thù hận, cái trọng học vấn, phẩm đức và tinh thần. Tự tránh xa tiểu nhân, biết yêu thương khích lệ, thân thiết, trọng tình người có tín ngưỡng tôn giáo, dễ được thanh danh, dễ nắm
quyền quý, thường được quý nhân đề bạt, có thể hưởng phúc khí.
3.2 Khuyết điểm
Tự coi mình là thanh cao mà coi nhẹ tiền bạc, thật thà không giỏi kinh doanh, đã xa rời hiện thực, không thiết thực. Thiếu năng lực ứng biến, không giỏi quan sát lời nói, biểu hiện, dễ bị ảnh hưởng bởi xung quanh nhưng lại thích sỹ diện mà che đi khuyết điểm của mình, đánh bóng minh thậm chí là gian trá. Mệnh nam có Chính tài khắc Thiên ấn sẽ có mâu thuẫn giữa mẹ và vợ. Người có nhật chủ yếu, Ấn mạnh khi nhỏ được cha mẹ yêu chiều, tổ tiên để lại đức cho con cháu. Nhật chủ mạnh, Ấn nhiều cả đời nhiều áp lực, khó loại bỏ được phiền muộn. Chính ấn và Thiên ấn hỗn tạp chủ về tâm tính bất định, thiếu quyết đoán, dễ tin người.
3.3 Tại niên trụ
Mệnh nữ Ấn nhiều dễ gặp khó khăn trong sinh nở, có sản nghiệp tổ tiên nhưng không đáng giá, hiếu thuận với cha mẹ.
3.4 Tại nguyệt trụ
Thường tiếp xúc với những người hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo. Cả đời nhiều quý nhân.
3.5 Tại nhật trụ
Vợ (chồng) có phẩm cách khí chất tốt, là người coi trọng đạo nghĩa, cẩn trọng thành thật, hiểu rõ đạo lý, phát triển về sự nghiệp văn chương. Hy vọng được sự chăm sóc của vợ (chồng).
3.6 Tại thời trụ
Cuối đời muốn xuất gia học đạo, dễ tiếp xúc với môi trường tôn giáo, quy y hoặc ăn chay. Thích yên tĩnh.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT: MẠNH YẾU CỦA THẬP THẦN
Thiên Ấn - Chính Ấn
Ấn tinh vừa phải |
Ấn tinh quá mạnh |
Ấn tinh quá yếu |
Trọng hư vinh, thích xây dựng hình tượng, thích được khen ngợi |
Tâm tính có thể diễn biến thành " chỉ là hư vinh" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự cho là đúng" |
Tin tưởng giao trọng trách cho người khác, đồng thời cũng được ủy thác cho người khác |
Tâm tính có thể diễn biến thành" lười nhác, dựa dẫm" |
Tâm tính có thể diễn biến thành "quật cường" |
Quan niệm truyền thống, mong muốn duy trì đạo đức luân lý. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cổ hủ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thích mới ghét cũ" |
Ý thức phục vụ mới mẻ, có sự đồng lòng, tự nguyện cống hiến hi sinh. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" quá mềm lòng" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tính toán chi li" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP ( 1 ): TƯƠNG TRỢ CỦA THẬP THẦN
Chính Ấn - Thiên Ấn
Đặc điểm cơ bản |
Thiên ấn là lực lượng tương sinh cùng tính chất, là sinh vô tình. Lực sinh không hết, thiên về bảo vệ luận lý đạo đức có tính ôn hòa, chậm chạp, chi tiết, nghĩa hẹp trạng thái tĩnh, ổn định, bảo thủ, lâu dài. Chinh ấn là lực lượng tương sinh khác tính chất, là sinh có tình, lực sinh hết, thiên về bảo vệ luân lý đạo đức có tính kích động, nhanh chóng, đại khái, nghĩa rộng, trạng thái động, nhiều biến hóa, cấp tốc, mới mẻ, ngắn.
|
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Thiên ấn thể hiện qua các vấn đề luân lý, đạo đức có đặc điểm ôn hòa, nghĩa hẹp, bảo thủ. Khuynh hưởng ý thức của Chính ấn thể hiện Thức qua các vấn đề luân lý, đạo đức có đặc điểm vội vàng, nghĩa rộng, thoải mái, như
|
Trạng thái cân bằng |
Tôn giáo, làm việc thiện, tam cương ngũ thường, tu thân dưỡng tính. Lực lượng cả hai mạnh mà tương đương, có tín ngưỡng tôn giáo vừa phải, không mê tín, có quan niệm đạo đức luân lý thích hợp, không bảo thủ, có thể kính trọng người già người hiền, coi trọng danh dự, biết giữ gìn truyền thống đạo đức, biết thay đổi sự lạc hậu.
|
So sánh 1 |
Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, sử dụng nhiều phương thức trực tiếp, cụ thể như: Nhận nuôi trẻ mồ cuối, tổ chức biểu diễn công đức, làm việc tình nghĩa. Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, sử dụng nhiều phương thức gián tiếp, tượng trưng, như: Quyên góp, hiếu thuận cha mẹ, giáo dục thế hệ sau.
|
So sánh 2 |
Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, sử dụng phương thức thực tiễn từ ngoài vào trong. như: Không phụ người tốt với mình, tin tưởng người tin mình, giúp đỡ người giúp đỡ mình, yêu nước mới đến yêu nhà. Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, sử dụng phương thức thực tiễn từ trong ra ngoài, như: Tốt với mình sau đó tốt với người, tin mình mới tin người, giúp mình mới giúp người, yêu nhà mới đến yêu nước.
|
So sánh 3 |
Thiên ấn mạnh hơn Chính ấn, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Chính ấn mạnh hơn Thiên ấn, thường thể hiện bằng hành động cụ thể. |
Xem đầy đủ kiến thức về Chính Ấn: Xem tại đây
4.4 THIÊN QUAN
Công năng: Chuyên tấn công Nhật can. Nếu vô lễ thì bị khắc chế nên nhật can bị tổn thương, nếu có khắc chế gọi là thiên quan, không có là thất sát-Hung thần.
Năng lực: Làm tổn hao tài, sinh ấn, công phá thân, khắc chế kiếp. Nhật mạnh-Tài yếu thì làm hao tài. Nhật mạnh-Ấn yếu thì sinh ấn. Ấn yếu, tài mạnh thì công phá thân. Kiếp yếu thì khắc chế kiếp.
Đại biểu: Chức về quân cảnh hoặc nghề tư pháp, thi cử, bầu cử. Nữ giới là tình cảm với chồng, con cái. Nam đại biểu tình cảm với con cái.
Tâm tính: Hào hiệp, năng động, có chí tiến thủ, uy nghiêm, nhanh nhẹn. Nhưng dễ bị kích động, thậm chí trở thành người ngang ngược, truỵ lạc.
Có chế-Không tạp: Thân-Sát tương đương, có Chế=Tốt > Chủ về túc trí đa mưu, có quyền uy, nổi tiếng, nhưng không nên nhiều, nhiều không quý, thấp hèn.
Thân-Sát: Thân vượng-Sát nhược-Tài vượng=Mệnh tốt, ngược lại thân nhược, sát vượng, gặp tài tinh thì nghèo đói và nhiều tai ách, không gặp tai nạn thì chết yểu, hoặc cơ thể, tay chân có tàn tật rễ hoạ sát thân, Tính cách nhu nhược, không có năng lực, vừa kém cỏi ít nói, lại rễ manh.
Hỗn tạp: Dễ phạm tai hoạ lao tù hoặc kiện tụng, nghịch nhiều thuận ít, mọi việc khó thành, kẻ tiểu nhân > Cần hợp mất một để giảm bớt điều xấu.
Sát-Ấn tương sinh: Sát vượng cần Ấn Kiêu hóa giải Thân nhược > Công danh hiển đạt, sự nghiệp phát triển, văn võ song toàn, quyền uy nổi tiếng.
Có sát-Không ấn: Là có lực mà không oai phong, trung hậu đa tình, ít vui, nếu nhiều quá thì nhu nhược, không có năng lực, kém cỏi ít nói, lại rễ manh động. Nhiều + Tài tinh không gặp tai nạn thì chết yểu, hoặc cơ thể, tay chân có tàn tật.
1-Sát-Năm: Kị-Xuất thân gia đình nghèo đói. Có chế-Võ chức nổi tiéng.
2-Sat-Tháng: Can năm và can giờ có thực thần, thương quan để chế ngự thì mệnh đó quý
3-Sát-Ngày: Phần nhiều lấy được vợ/ Chồng cương nghị, quật cường, tiết tháo. Không chế ngự-No hòa thuận, gặp xung thì phần nhiều gặp tai họa hoặc bệnh tật. Có chế-Có sự hóa giải.
4-Sát-Giờ: Là hỷ+Có chế+Can giờ và Thân vượng, có tài tinh, ấn tinh, không bị xung, đó là mệnh đại phú quý, phần nhiều là Tướng biên cương, hoặc uy danh nổi tiếng khắp xa gần. Kị-Con không hiền thảo. Có chế thì sinh con phú quý.
THẤT SÁT
Đại diện tai nạn, áp lực, họa đổ máu, tiểu nhân, tố tụng, thị phi, can đảm. Thất sát và Ấn tỉnh luôn ở thế ngược nhau. Họ không được yêu quý và kỳ vọng, khi trưởng thành gặp nhiều trắc trở khiến cha mẹ lo lắng, thường kết giao với bạn xấu
Nhưng nếu bước ra ngoài, họ sẽ thể hiện ưu điểm nổi trội. Họ can đảm, có tình có nghĩa, tràn trề ý tưởng và sức đột phá, có năng lực hành động và tính sáng tạo, một khi đã quyết định nhất quyết không từ bỏ. Họ có thể là bậc anh hùng bôn ba khắp
nơi hoặc làm nên sự nghiệp lớn, có thể thành đại tướng quân, mở rộng lãnh thổ một đời kiêu hùng, danh vang khắp nơi. Khả năng ngoại giao, giao tiếp tốt, quan hệ giao tiếp linh hoạt. Bất chấp nguy hiểm, hành hiệp trượng nghĩa, khinh ghét cái
ác, thần thái uy phong. Tuy nhiên cá tính nóng nảy, được sự tán đồng của người xung quanh nhưng không biết tận dụng cơ hội. Khi không nghĩ thông được điểm này, họ sẽ trở nên quá nghiêm túc, tính khí thất thường, thiếu thân thiện. Do đó, họ ít được quý nhân và bạn bè giúp đỡ.
Chính quan dùng phương pháp ôn hòa, thu phục lòng người. Thất sát lấy cạnh tranh làm thủ đoạn, bá đạo, nhanh nhạy, tham vọng quyền lực, độc đoán chuyên quyền. Nếu chế hóa vừa phải tất có uy quyền, có thể phát huy tài năng. Do đó, từ
xưa đến nay người nắm quyền thường trong tử trụ có Thất sát. Nếu chế hóa không hợp lý, mệnh chủ chưa suy nghĩ thấu đáo đã vội vàng hành động, khó tránh khỏi hung họa.
THUỘC TÍNH CỦA THẤT SÁT
1..Ưu điểm
Uy nghiêm có quyền, có chí tiến thủ, dũng cảm quyết đoán, giúp đỡ kẻ yếu, chống lại kẻ mạnh. Hành hiệp trượng nghĩa, chính trực không giả dối, có khả năng phần đoán trực giác, dũng cảm vượt qua nghịch cảnh, sáng tạo cơ hội mới. Giỏi lên kế
hoạch, sách lược, có quyền uy lãnh đạo, được sự kính nể của cấp dưới và con cái.
2.. Nhược điẻm
Dùng cạnh tranh làm thủ đoạn, chuyên chế bá đạo, tính khí hung hãn, cá tính cương cường, quá kích động, khiến người khác khó tiếp cận, thậm chí thù địch. Có thù
tất báo nhưng sẽ chọn thời cơ. Thường vì bất mãn hiện thực mà muốn đột phá sáng tạo, dẫn đến sóng gió, có khi gặp khó khăn, cô độc nghèo khổ, không nhận được giúp đỡ. Tình bạn nhiễu năm vì nhất
thời kích động mà mất đi, một minh đơn độc phấn đấu là vất vả.
Mệnh nữ có Quan Sát hỗn tạp thường có nhân duyên tốt, nhu cầu tình dục cao. tâm báo thù mạnh. Ở Thiên can thường tự thân vận động, ở Địa chi giỏi lên kế hoạch sách lược. Thích âm thầm làm việc mà không thích biểu lộ hay tâm sự với người khác.
Mệnh nữ có nhật chủ vượng mang Thất sát thường có uy quyền, có sức hút với mọi người, dám yêu dám hận. Nếu nhật chủ yếu dễ gặp sự cố bất ngờ, tai họa liên quan đến máu, làm việc không tích cực. Tứ trụ không có Quan Sát, lời nói không thể hiện
được uy quyền.
3. Tại niên trụ
Mệnh nữ muôn sự bất lợi, khi nhỏ sức khỏe không tốt, không nghe lời, khó dưỡng dục. Phương thức quản giáo của gia đình chủ yếu là đánh mắng, roi vọt. Nhật chủ yếu thì trên người có sẹo, dễ gặp tai nạn.
4. Tại nguyệt trụ:
Nhật chủ yếu thì sức khỏe không tốt. Nhật chủ vượng chủ về mệnh có thanh danh, từng bước tiến lên. Tuy nhiên khi thành đạt thường có tâm lý tiêu xài hoang phí.
5. Tại nhật trụ
Nhật chủ yếu thì vợ (chồng)nóng nảy. Trường hợp nhật chủ mạnh thì tốt hơn. Gặp chi hợp không biểu hiện rõ, gặp chi xung tương đối rõ. Vợ (chồng) giỏi giang, hào phóng, giỏi ngoại giao. Trách nhiệm và áp lực nặng nề, thân thể nhiều bệnh.
6. Tại thời trụ
Sự nghiệp gặp nhiều trắc trở, về già đặc biệt chú trọng vẻ bề ngoài. Trong công việc thường gặp chuyện phiền não, nhiều áp lực. Con cái hiếu động không dễ dạy bảo, thường gây thị phi. Mệnh nữ đến tuổi trung niên vẫn có người theo đuổi. Cả đời khó có thể từ bỏ danh vọng.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT
Chính quan - Thất sát
Quan sát vừa phải |
Quan sát quá mạnh |
Quan sát quá yếu |
Tính kỷ luật và tính cảnh giác cao, thường bó buộc vừa phải tiết chế lời nói cũng như là hành động của mình và người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" nhát gan, đa nghi" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " tự do, tùy tiện" |
Tính phục tùng cao, đối với quy tắc hợp lý sẽ nghiêm chỉnh chấp hành. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thiếu quyết đoán" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự tiện, không câu nệ" |
Tính trách nhiệm cao, dễ thích ứng công việc có gánh nặng, áp lực |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cam chịu, hầu hạ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" chối bỏ trách nhiệm" |
Quan niệm lý tính mạnh mẽ, thường phát huy hiệu suất quản lý đặc thù đối với con người và công việc. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" biến thái, ngang ngược" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " nuông chiều, sinh hư" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP
Chính quan - Thất sát
Đặc điểm cơ bản |
Chính quan là lực lượng khắc khác tính chất, là khắc có tinh. Lực khắc không hết, thiền về khống chế, bỏ buộc bản thân và xây dựng địa vị có tính ôn hòa, chậm chạp, tỉ mỉ, trạng thái tĩnh, ổn định, lâu dài. Thất sát là lực lượng khắc cùng tính chất, là khắc vô tình. Lực khắc hết, thiên về khống chế, bó buộc bản thân và xây dựng địa vị có tính nhanh, lớn mạnh, cấp tiến, trạng thái động, biến đổi, cấp tốc, ngắn. |
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Chính quan hiển thị pháp quy và quyền uy có đặc điểm nghĩa hẹp, lâu dài, nhẫn nại. Khuynh hưởng ý thức của Thất sát hiển thị pháp quy và quyền uy có đặc điểm nghĩa rộng, cấp tốc.
|
Trạng thái cân bằng |
Lực lượng cả hai mạnh tương đương, văn võ song toàn, nắm bắt linh hoạt, biết cách khích lệ bản thân, quản lý quần chúng, thường duy trì nguyên tắc cương nhu thích hợp với chức vị và quyền thế.
|
So sánh1 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thiên về khả năng bó buộc bản thân chậm mà lâu, như: Hành vi điều chỉnh vừa phải, tuân thủ pháp lệnh, chọn mặt gửi vàng, thiết lập mục tiêu dài. Thất sát mạnh hơn Chính quan, thiên về khả năng bó buộc bản thân mãnh liệt mà ngắn, như: Kìm nén tham vọng, lao lực trắc trở, ra sức làm việc, thiết lập mục tiêu ngắn.
|
So sánh 2 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thiên về thuận theo ôn hòa với sự bó buộc bên ngoài như: Nghe theo thiện ý của người khác, tuân thủ mệnh lệnh hợp lý của cấp trên, quan tâm tới sự chỉ bảo của bề trên. Thất sát mạnh hơn Chính quan, thiên về cưỡng chế với sự bó buộc bên ngoài, như Trừng phạt nghiêm khắc của quan tòa, áp bức của ác bá, quy định của chính phủ.
|
So sánh 3 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Thất sát mạnh hơn Chính quan, thường thể hiện bằng hành động.
|
Xem đầy đủ kiến thức về Thất Sát: Xem tại đây
4.3 CHÍNH QUAN
Công năng: Khắc chế Nhật can, trái dấu. Quản những điều tốt, có sự ràng buộc, là cát thần, bảo vệ tài, sinh ấn, áp chế thân, khắc chế kiếp.
Đại biểu: Chức quan, chức vụ, thi cử , bầu cử, học vị, danh dự, địa vị. Phụ nữ đại biểu cho tình cảm với chồng và đường con cái. Nam giới đại biểu cho đường tình cảm với vợ.
Tâm tính: Chính trực, quang minh chính đại, trách nhiệm, đoan trang, nghiêm túc, tuân theo quy tắc > Dễ bảo thủ cứng nhắc, thậm chí không kiên nghị nếu bị Khắc quá mức.
Danh phận: Quan là lộc nên thân có công danh, thành đạt
Thân cường và Tài nhược-Ấn-Kiếp: Tài nhược Tốt nhất có CQ bảo vệ tài, áp chế Thân. Ấn nhược thì C.quan sẽ sinh ấn. Thân vượng, Kiếp nhiều thì C.quan sẽ khắc chế kiếp.
Chính quan-Thiên can: Không có Sát là thanh cao tinh tuý, Thân vương thì tốt. Nhiều là sự khắc chế nặng= Nhu nhược, không có năng lực, là bị sát > Sống vất vả, tiền đồ, học tập chắc trở. Nếu không có ấn kiêu hoá giải hoặc được cứu trợ thì càng có hại. CQ sợ nhất gặp thương quan, là họa bất ngờ trăm đường ập đến.
Quan vượng-Công chức: Lệnh tháng= Trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng, lại không bị hình xung không phá thì cấp quan sẽ cao, thích hợp cho những người công chức.
Quan suy -Công chức: Lệnh ở suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt thì rất kém, gặp tháng thai dưỡng thì còn đỡ hơn. Công chức không nên gặp như thế.
1-Quan-Năm: Được nhờ âm đức tổ tiên, tuổi nhỏ có chí, học hành tốt-Tiên thiên tốt. Nhưng nếu Vận không tốt thì học tập, thi cử bị trắc trở. Can chi là CQ, không bị hợp/ Gặp kỵ > Xuất thân trong một gia đình quan chức hoặc có địa vị trong vùng. Bản thân có công danh địa vị.
2-Quan-Tháng: Gặp là người con út, được nuông chiều, cuộc đời không khó nhọc. Là người chính trực, có tinh thần trách nhiệm với người khác, trọng chữ tín nghĩa, học hành công danh có thành tích. Trụ tháng có cung phụ mẫu là người có anh chị em và anh chị em đó có công danh phúc lộc.
3-Quan-Ngày: Chủ về thông minh, mưu lược, ứng biến. Thân vượng gặp được tài vận thì phát đại phúc. Là hỷ Quan: Nam-Vợ đoan trang hiền hậu, nội trợ giỏi. Nữ-Chồng phú quý.
4-Quan-Giờ: Can-Trai, Chi-Gái, có chủ về con hiếu thảo, cuối đời hưởng phúc. Hỉ quan=Thân và quan tương đương về Khí.
Chính quan
Chính quan đại diện quản thúc và giáo dục chính thống, tất cả người và việc bó buộc, giáo dục mình theo hướng tốt đều coi là Chính quan, như giáo viên, quan lớn, cha, bề trên. Trong tứ trụ có Chính quan là người quang minh lỗi lạc, chính phái cương trực, có tinh thần trách nhiệm. Người có Chính quan thiên vượng có khả năng tự rèn luyện tốt, có quan niệm truyền thống, làm việc có quy tắc tuần tự.
1. Ưu điểm:
Phẩm hạnh đoan chính, quang minh lỗi lạc, chính trực bảo thủ, tâm địa lương thiện, trọng đạo lý, tuân thủ pháp tắc, có tinh thần trách nhiệm cao, trọng chữ tín, an phận thủ thường, không tham lam, coi trọng quy phạm kỷ luật, khách quan lý tính, có mắt nhìn người, có năng lực quản lý, coi trọng đời sống tinh thần, vui vẻ phục vụ quần chúng, nghiêm khắc với mình, được tín nhiệm và tôn kính.
2. Khuyết điểm:
Cứng nhắc theo tuần tự, quy tắc mà thiếu linh hoạt. Quá cẩn thận, không biết đột phá, thiếu quyết đoán, do dự dẫn đến mất thời cơ.
Mệnh nữ có nhật chủ yếu mà Quan Sát hỗn tạp thường cả đời tình cảm nhiều trắc trở, vì tình cảm mà chịu bó buộc. Nhật chủ mạnh thì biết vận dụng, giúp vận chồng, biết vận dụng đào hoa vào quan hệ giao tiếp.
3. Tại niên trụ
Gia đình gia giáo, khi nhỏ chăm chỉ học hành, vận thi cử tốt, thường làm cán bộ lớp. Mệnh nữ có con trai. Mệnh nữ có Chính quan ở niên, nguyệt trụ thường tỷ lệ kết hôn sớm cao mà sớm trưởng thành, yêu chồng, thích sỹ diện, tuy chồng không tốt cũng không phàn nàn, thậm chí không thích người khác nói xấu về chồng.
4. Tại nguyệt trụ
Có danh tiếng, nhật chủ vượng thì vận học hành và vận thi cử tốt, kết giao với bạn tốt Lời nói được khẳng định, thanh danh địa vị tốt. Nhật chủ yếu thường chỉ muốn tìm công việc có tiếng tăm. Mệnh nữ thường vì nam giới mà mệt mỏi, sầu muộn.
5. Tại nhật trụ
Phản ứng nhanh nhạy, quá đoan trang. Chồng dễ làm nhân viên công giáo hoặc chủ quản. Tính cách thẳng thắn, không lòe loẹt, phương thức sống đơn điệu. Vợ chồng coi trọng cảm nhận tinh thần.
6. Tại thời trụ
Nhật chủ vượng, khi tuổi cao thanh danh địa vị tốt, con cái đều có thành tựu. Nhật chủ yếu thì áp lực lớn, thường phiền muộn vì con cái.
TÍNH CÁCH ĐƠN NHẤT
Chính quan - Thất sát
Quan sát vừa phải |
Quan sát quá mạnh |
Quan sát quá yếu |
Tính kỷ luật và tính cảnh giác cao, thường bó buộc vừa phải tiết chế lời nói cũng như là hành động của mình và người khác. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" nhát gan, đa nghi" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " tự do, tùy tiện" |
Tính phục tùng cao, đối với quy tắc hợp lý sẽ nghiêm chỉnh chấp hành. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" thiếu quyết đoán" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" tự tiện, không câu nệ" |
Tính trách nhiệm cao, dễ thích ứng công việc có gánh nặng, áp lực |
Tâm tính có thể diễn biến thành" cam chịu, hầu hạ" |
Tâm tính có thể diễn biến thành" chối bỏ trách nhiệm" |
Quan niệm lý tính mạnh mẽ, thường phát huy hiệu suất quản lý đặc thù đối với con người và công việc. |
Tâm tính có thể diễn biến thành" biến thái, ngang ngược" |
Tâm tính có thể diễn biến thành " nuông chiều, sinh hư" |
TÍNH CÁCH TỔNG HỢP
Chính quan - Thất sát
Đặc điểm cơ bản |
Chính quan là lực lượng khắc khác tính chất, là khắc có tinh. Lực khắc không hết, thiền về khống chế, bỏ buộc bản thân và xây dựng địa vị có tính ôn hòa, chậm chạp, tỉ mỉ, trạng thái tĩnh, ổn định, lâu dài. Thất sát là lực lượng khắc cùng tính chất, là khắc vô tình. Lực khắc hết, thiên về khống chế, bó buộc bản thân và xây dựng địa vị có tính nhanh, lớn mạnh, cấp tiến, trạng thái động, biến đổi, cấp tốc, ngắn. |
Khuynh hướng ý thức |
Khuynh hưởng ý thức của Chính quan hiển thị pháp quy và quyền uy có đặc điểm nghĩa hẹp, lâu dài, nhẫn nại. Khuynh hưởng ý thức của Thất sát hiển thị pháp quy và quyền uy có đặc điểm nghĩa rộng, cấp tốc.
|
Trạng thái cân bằng |
Lực lượng cả hai mạnh tương đương, văn võ song toàn, nắm bắt linh hoạt, biết cách khích lệ bản thân, quản lý quần chúng, thường duy trì nguyên tắc cương nhu thích hợp với chức vị và quyền thế.
|
So sánh 1 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thiên về khả năng bó buộc bản thân chậm mà lâu, như: Hành vi điều chỉnh vừa phải, tuân thủ pháp lệnh, chọn mặt gửi vàng, thiết lập mục tiêu dài.
Thất sát mạnh hơn Chính quan, thiên về khả năng bó buộc bản thân mãnh liệt mà ngắn, như: Kìm nén tham vọng, lao lực trắc trở, ra sức làm việc, thiết lập mục tiêu ngắn.
|
So sánh 2 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thiên về thuận theo ôn hòa với sự bó buộc bên ngoài như: Nghe theo thiện ý của người khác, tuân thủ mệnh lệnh hợp lý của cấp trên, quan tâm tới sự chỉ bảo của bề trên. Thất sát mạnh hơn Chính quan, thiên về cưỡng chế với sự bó buộc bên ngoài, như Trừng phạt nghiêm khắc của quan tòa, áp bức của ác bá, quy định của chính phủ.
|
So sánh 3 |
Chính quan mạnh hơn Thất sát, thường thể hiện bằng suy nghĩ. Thất sát mạnh hơn Chính quan, thường thể hiện bằng hành động.
|
Xem đầy đủ kiến thức về Chính Quan: Xem tại đây
GIÁP
- Nhân từ, thích lãnh đạo mà không muốn bị sai khiến. Thích công việc có tính phục. Lương thiện, mềm lòng, dễ bị lợi dụng, thích cạnh tranh công khai mà không năng động, không thích tùy tiện thay đổi, nỗ lực cố gắng mà không cam tâm khuất thích âm thầm đấu tranh, dễ mệt mỏi, cần chú ý vấn đề gan, mật. Giống như cây đại thụ sinh trưởng hưởng lên, tán lá rộng bao trùm che bóng mát cho con người. Nhìn tưởng phức tạp thực ra thuần phác, đứng thẳng không lung lay, không chịu khuất phục, dễ ngạo mạn. Có thể gánh trách nhiệm, biết cách chăm sóc người khác, thích mềm dẻo không thích cứng nhắc. Chú ý bệnh ở mật, đầu.
- Tính cách tích cực
Học tập tiến bộ, quyết đoán, chính trực, làm việc có đầu có cuối, có thể giúp đỡ và cảm thông cho người khác, có trách nhiệm.
3. Tính cách tiêu cực
Khoogn biết thỏa hiệp, thiếu tính nhanh nhạy, quá chủ quan. Đôi khi can thiệp quá sâu vào chuyện người khác, dễ sụp đổ khi đi quá giới hạn.
ẤT
1. Thích làm lãnh đạo, giỏi tham mưu, lắm mưu lược, trầm tĩnh mà biết thuận theo thời thế, cương nhu hài hòa. Thích âm thầm thực hiện kế hoạch mà không muốn công khai với mọi người, không thích nổi tiếng, thích hợp làm đạo diễn, lập kế hoạch, thiết kế, trợ lý, quân sư. Ôn hòa, khiêm nhường, biết tích lũy đợi thời cơ. Dễ mệt mỏi, đau mỏi cổ, cần chú ý vùng đầu, gan, mật, dạ dày. Dẻo dai, khả năng thích ứng tốt, dù khó khăn cũng kiên cường chống chọi, thích dựa vào người khác, tình nguyện cùng phối hợp. Từng bước chắc chắn, cần chú ý ngón tay, tỳ vị. Chú ý bệnh ở gan, cổ.
2. Tính cách tích cực:
Nhu thuận ôn hòa, có năng lực biểu đạt phong phú, phản ứng nhanh nhạy, có tính hài hòa, không kiên trì với ý kiến bản thân. Giỏi quản lý tiền tài, khả năng tiết chế cảm xúc tốt cương nhu hài hòa.
3. Tính cách tiêu cực
Biết thuận theo thời thế, linh hoạy ứng biến, thực tế, có tâm cơ. Dễ mất đi tự tin, nhút nhát, ỷ lại, cũng dễ bị dụ dỗ hoặc bị lừa gạt, dễ một lòng hai dạ, mềm lòng, không có chủ kiến.
BINH
1. Nhiệt tình, thích chăm sóc người khác. Cá tính tích cực, thích quyền thế, háo sắc, háo danh, hiếu khách. Nội tâm phong phú mà không giỏi biểu đạt, bạn bè khắp thiên hạ, tri âm chỉ vài người. Không chú ý chi tiết nhỏ, hay lơ đãng. Là người trung thực nhưng thường hời hợt, dễ nổi nóng cũng nhanh trấn tĩnh, dễ thu hút sự chú ý, thích hợp biểu diễn trên sân khấu. Tuy nhiên sau khi tiếp nhận vấn đề thường không biết phân tích cho đúng, thích náo nhiệt mà không biết kết thúc như thế nào cho thỏa đáng. Lửa có ánh sáng nhưng không có thực chất, chỉ để lại cảm giác cho mọi người. Chú ý bệnh ở ruột non, bả vai.
2. Tính cách tích cực
Thoải mái, thăng thắn, khẳng khái, không tính toán, thân thiết, khả năng lý giải tốt. Tinh lực dồi dào, làm việc tích cực, dễ được mọi người yêu quý.
3. Tính cách tiêu cực
Dễ kích động, tính tình bất định, vui buồn thất thường, hay thay đổi.
ĐINH
- Lễ phép, biết lễ nghĩa, kính trọng bề trên, quan tâm người khác, nhiệt tình với công tác từ thiện. Bên ngoài bình thản nhưng nội tâm nóng vội, giác quan thứ 6 nhạy bén, trực giác tốt. Có thể thấu tỏ tâm tình người khác nhưng lại không hiểu chính mình. Tình cảm phong phú nhưng không giỏi biểu đạt, hay đố kỵ, buồn chán. Đốt cháy mình thắp sáng cho người, dễ nhìn thấy thị phi bên ngoài, không muốn liên lụy thị phi nhưng lại dễ bị cuốn vào thị phi. Cảm giác nhạy bén, trí nhớ tốt hơn Bính Hỏa. Bính Hỏa là ký ức kiểu trọng điểm, Đinh Hỏa là ký ức kiểu chi tiết. Giống một ngọn đèn thắp sáng, là tượng trưng cho ánh sáng, dễ đau lòng cũng dễ lơ là. Dễ bị người thân hãm hại. Chú ý bệnh ở tim và bệnh về đường máu.
2. Tính cách tích cực
Ôn hòa, có lễ nghĩa, nhiệt tình, suy nghĩ thấu đáo, làm việc cẩn thận, có thể cống hiến hy sinh bản thân, không dễ biểu cảm tình cảm.
3. Tính cách tiêu cực
Dễ mềm lòng, mọi việc do dự không quyết đoán dễ nghi ngờ.
MẬU
- Cổ chấp với ý kiến bản thân, muốn người khác thuận theo ý mình, ngoài nhu trong cường, trầm tĩnh, dễ chìm đắm vào sắc tình, Biết chăm sóc người khác, từ bi, khả năng thích ứng nhanh và biết chấp nhận nghịch cảnh, nỗ lực cố gắng lại thường không được người khác coi trọng. Chí lớn không gặp thời, trọng chữ tín, bảo thủ không chịu thay đổi mà khá khép mình, bên ngoài trầm tĩnh mà nội tâm nóng vội. Như đất trên núi cao không dễ khai thác, thích sự vật cũ, không thích di chuyển, trọng chữ tín. Chú ý bệnh ở dạ dày.
2. Tính cách tích cực
Cẩn trọng, cương trực, lạc quan, không thích lòa loẹt. Làm việc hợp tình, có kế hoạch hợp lý, trọng tình cảm, thích giúp đỡ người khác.
3. Tính cách tiêu cực
Tùy tiện ngoan cố, lấy mình làm trung tâm, thiếu tính dugn hòa, không lãng mạn, thích nịnh bợ, trọng hư danh không chủ động.
KỶ
- Cố chấp với ý kiến của mình, trọng nghĩa khí, giỏi giao tiếp, thân thiết với mọi người. Bề ngoài ôn hòa nhưng nội tâm nhiều toan tính. Có tính bao dung nhưng chí lớn không gặp thời, giữ chữ tín, cương nhu hài hòa. Tuy cố chấp nhưng sau khi xác định phương hướng đúng đắn có thể thành tài. Giao tiếp rộng, vì có tính cách thân thiện dễ gần nên giao tiếp không bị hạn chế. Trung thành nên có thể duy trì quan hệ lâu dài. Đôi khi có cảm giác thiếu an toàn, cần học cách trấn an bản thân. Chú ý bệnh ở lá lách, vùng bụng.
2. Tính cách tiêu cực
Tiếp thu nhanh, có nhiều tài năng, có thể hiểu sâu vấn đề. Cương nhu hài hòa, không cố chấp, thích học tập.
3. Tính cách tiêu cực
Nội tâm phức tạp mâu thuẫn, tâm tư không dễ tập trung, dễ sai lầm. Có khuynh hướng tiêu cực thỏa hiệp, dễ bị lợi dụng.
CANH
1.
Coi trọng nghĩa khí, thị phi phân rõ, quả quyết, không sợ khó khăn, cường quyền, thẳng thắn không thích vòng vo. Thích đi thẳng vào vấn đề, thích mềm dẻo mà không thích cứng nhắc, không chú ý chi tiết nhỏ, ánh mắt nhạy bén, nhanh nhạy, có khí phách, thích đấu tranh. Bề ngoài mạnh mẽ, nội tâm tinh tế. Luôn thu mình mà không có tâm cơ. Thường tay trắng lập nghiệp, đi thẳng vào vấn đề, da đắc tội với người khác, thích thân mật. Tứ trụ có nhiều Thổ khó thể hiện tài năng có Hỏa sẽ tăng thêm độ mềm mại, có thể co có thể duỗi. Chú ý bệnh ở ruột già và vùng rốn.
2. Tính cách tích cực
Kiên cường không chịu thua, tích cực quyết đoán theo chính nghĩa, không giả dối, có khả năng biểu đạt, giỏi biện luận.
3. Tính cách tiêu cực
Thẳng tính kích động, dễ vì xung đột mà đắc tội với người khác, thích biểu hiện, không cần thận.
TÂN
1
Không cầu hư vinh, khả năng nhẫn nại tốt, hành sự tuần tự, nỗ lực theo đuổi mục tiêu, trọng nghĩa khí. Thường chú ý chi tiết nhỏ, ánh mắt nhạy bén, cảm giác nhanh nhạy, văn nhã, nhu hòa, có quý khí, khả năng ăn nói tốt. Tay trắng lập nghiệp, cả đời lao tâm vì tiền tài, dù cuộc sống đầy đủ vẫn không thấy thỏa mãn. Vì có bệnh về thần kinh nên chất lượng giấc ngủ kém. Khác với thuộc tính của Canh Kim, Tân Kim giống như kim cương, có uy lực, một khi phát huy tính chất sẽ khiến người khác khó chịu. Thích luận đoán đúng sai, nên nghĩ kỹ mới làm. Chú ý bệnh ở phổi và vùng ngực.
2. Tính cách tích cực
Nhạy cảm tinh tế, biết đồng cảm, thích sáng tạo, quan hệ giao tiếp tốt, thiện ác phân minh, có suy nghĩ độc đáo.
3. Tính cách tiêu cực
Trọng hư vinh, cương nhu hài hòa, có tính mềm dẻo, chú ý bề ngoài, dễ tham lam mà mất đi lý trí. Ý chí kém dễ lùi bước khi gặp khó khăn.
NHÂM
1
Có tài trí, coi trọng trách nhiệm, giao tiếp rộng, nhân duyên tốt, phản ứng nhanh nhạy, khéo léo, không dễ đắc tội người khác. Giỏi tính toán, bề ngoài bình tĩnh nhu hòa, mạnh bạo tinh tế, thích thay đổi, dễ kích động. Làm việc biến hóa linh hoạt, khả năng thích ứng và tính dẻo dai tốt. Chỉ tin mình, không dễ tin người khác. Biết thuận theo thời thế, không dễ tiếp thu ý kiến của người khác. Dã tâm lớn, cơ hội thành công cao. Không thích bị bó buộc, tính khí nóng nảy nhưng cũng nhanh trấn tĩnh. Chú ý bệnh ở bàng quang, bắp chân.
2. Tính cách tích cực
Tự do, nhàn nhã, lạc quan, có dũng khí, thông minh, duệ trí. Có thể đối diện khó khăn mà không lùi bước, mà không lùi bước, văn võ song toàn, có năng lực lãnh đạo.
3. Tính cách tiêu cực
Tuy khéo léo nhưng tùy tiện, lười nhác hay dựa dâm xvaof người khác, không kiên trì theo đuổi mục tiêu đến cùng. Có khuynh hướng lụy tình.
QUÝ
1
Bề ngoài bình tĩnh, nội tâm nồng nhiệt, giỏi ứng biến, có tầm nhìn xa, hướng nội, bảo thủ, tiết kiệm, thích sạch sẽ, đa sầu đa cảm, thích ảo tưởng, như khe suối nhỏ quanh co uốn lượn, lãng mạn phong tình. Cảm giác cân bằng kém, dễ mất thăng bằng. Thích sạch sẽ, ngược lại dễ sinh bệnh. Thích đọc tin tức, dễ phiền não, chú ý từ việc lớn đến việc nhỏ. Chú ý bệnh ở thận, bàn chân.
2. Tính cách tích cực
Coi trọng quy tắc và đạo đức, thích sạch sẽ, hướng nội, nỗ lực phấn đấu và nhẫn nại. Nội tâm chân thật, ôn hòa tinh tế, bình tĩnh.
3. Tính cách tiêu cực
Khá cau nệ, dễ ảo tưởng, không thiết thực, dễ bi quan, đa sầu, đa cảm.
Tổng quan: Thiên Sơn Độn
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Độn-Quân tử phòng thân, thuận theo thời cuộc, Lùi cũng là tiến: Nhượng bộ là thông minh. Nên an phận thu thường, không nên tham gia vào các việc cho dù có lợi trước mắt mà cần ẩn mình đi. Các việc nhỏ, khi tiến hành cũng cần hết sức thận trọng, không chủ quan.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: những điều kiện thuận lợi ngày càng giảm dần,nên tránh khỏi đầu việc mới, giữ việc cũ thì hơn.
● Hy vọng: có trở ngại, khó thực hiện.
● Tài lộc: chưa có, có sự hao tổn.
● Sự nghiệp: chưa gặp thời.
● Nhậm chức: khó như ý, vì có người ngăn trở.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: đơn phương, một phía, không thành.
● Hôn nhân: khó thành lương duyên.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: bất lợi.
● Pháp lý: thua kiện, cố dàn hòa.
● Sự việc: sơm giải quyết thì tốt.
● Bệnh tật: nguy, người già khó qua.
● Thi cử: không đạt.
● Mất của: khó tìm.
● Người ra đi: đi xa nguy hiểm.
+ Theo Kinh Dịch word (Tr473):
.Quẻ: Thiên Sơn Độn - Kiền trên ; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Quẻ Độn, Tự quái nói rằng; Hằng nghĩa là lâu, các vật không thể ở lâu nơi chốn của nó, cho nên tiếp đến quẻ Độn [1-Độn nghĩa là trốn, là tránh đi]. Độn tức là lui. Ôi, lâu thì phải đi, đó là cái lẽ “chờ nhau”. Vì vậy quẻ Độn mới nối quẻ Hằng. Độn là lui, là tránh, nghĩa là bỏ chỗ này đi chỗ kia. Nó là quẻ dưới trời có núi, trời là vật ở trên, tính Dương tiến lên; núi là vật cao vót, hình tuy cao vót mà thể thì là vật đậu, có Tượng lấn lên, mà bị đậu lại không tiến lên, trời bèn tiến lên mà bỏ nó. Dưới lấn lên mà trên bỏ đi, ấy là xa nhau, cho nên là nghĩa lánh đi. Hai hào Âm sinh ở phía dưới, là khí Âm đương lớn sắp thịnh, khí Dương phải tiêu mà lui, kẻ tiểu nhân thịnh dần, đấng quân tử lui mà tránh nó, cho nên là trốn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Độn hanh, tiểu lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ độn hanh, nhỏ lợi trinh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Độn là lúc Âm lớn Dương tiêu, đấng quân tử trốn nấp. Đấng quân tử lui nấp, là để làm cho đạo của mình thẳng ra. Đạo không bị khuất thì là hanh, cho nên quẻ Độn có nghĩa hanh. Trong việc, cũng có khi vì sự trốn lánh mà hanh thông, dẫu là lúc đạo kẻ tiểu nhân đương lớn, đấng quân tử biết cơ lui tránh vẫn phải, nhưng mà việc đời có lúc không giống nhau, phải tùy theo thời thế, không cần phải ắt như nhau. Âm mềm đương lớn mà nó chưa đến thịnh lắm, đấng quân tử cũng có cách từ từ ra sức, tuy không thể trinh lớn mà còn lợi cho sự trinh nhỏ vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Độn là lui tránh, nó là quẻ hai khí Âm lớn dần, khí Dương nên lui tránh, cho nên là trốn, tức là quẻ thuộc về tháng sáu. Dương tuy nên lánh, nhưng hào Chín Năm ở vào chính vị, phía dưới có hào Sáu Hai ứng với, giống như còn có thể làm việc. Có điều hai khí Âm lớn dần ở dưới, thì thế của mình không thể không lánh, cho nên lời Chiêm của nó là: Đấng quân tử lánh được thì thân mình dù lui, đạo mình vẫn hanh, kẻ tiểu nhân thì lợi về sự giữ đường chính đính, không thể lấy cớ lớn dần mà lấn bách khí Dương. Chữ “nhỏ” là chỉ về bọn Âm nhu tiểu nhân. Lời Chiêm quẻ này với hai hào Đầu và Hai của quẻ Bĩ giống nhau.
Lời bàn của Tiên Nho. - Có người hỏi rằng: chữ ⼩利貞 (tiểu lợi trinh) trong quẻ Độn, sách Bản nghĩa bảo là kẻ tiểu nhân, xét trong Kinh Dịch, chữ ⼩(tiểu) chưa có khi nào dùng làm kẻ tiểu nhân, ví như ⼩ 利 有 攸 往 (tiểu lợi hữu du vãng) ⼩ 貞 吉 (tiểu trinh cát) đều nghĩa là nhỏ, như chữ ⼩ (tiểu) trong tiếng ⼤⼩ (đại tiểu). Chưa rõ nghĩa ấy ra sao? Chu Hy đáp rằng: Lời kinh vẫn không có lệ đó [2-Lệ dùng chữ ⼩ (tiểu) chỉ kẻ tiểu nhân] nhưng lấy Thoán truyện mà suy, thì là chỉ về kẻ tiểu nhân, nay hãy theo lời kinh mà giữ nghĩa truyện.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Độn hanh, Độn nhi hanh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Độn hanh, là lánh đi mà hanh vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong lúc đạo kẻ tiểu nhân, đương lớn lên, đấng
quân tử lui tránh, tức là đạo mình được hanh, đấng quân tử tránh nấp, là để cho Đạo thẳng duỗi. Đây là nói về cách ở thì Độn, từ chữ “cứng đương ngôi mà ứng” trở xuống, thì bàn về lẽ “thì và tài quẻ còn có thể làm việc”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cương đương vị nhi ứng, dữ thì hành dã.
Dịch nghĩa. - Cứng đương ngôi mà ứng, cũng thì đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dù là thì trốn, đấng quân tử ở lúc đó cũng chưa có nghĩa ắt phải trốn, hào Năm lấy đức Dương cứng, ở ngôi trung chính, phía dưới lại có hào Sáu Hai lấy đức trung chính ứng nhau với nó, dẫu lúc khí Âm Dương lớn, như tài quẻ này, cũng còn có thể tùy thời nghe ngóng, nếu mà có thể ra sức, thì phải đem lòng chí thành phủ trì cho đạo, không nhất định là cứ phải lánh nấp không làm, cho nên nói là “cùng thì đi vậy”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng một hào Chín Năm thích nghĩa chữ “hanh”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tiểu lợi trinh, tẩm nhi trưởng dã.
Dịch nghĩa. - Nhỏ lợi trinh, dần dần mà lớn vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Từ đây trở xuống, lấy hai hào Âm thích chữ “tiểu lợi trinh”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Độn chi thì nghĩa đại hỷ tai!
Dịch nghĩa. - Thì nghĩa của quẻ Độn lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong lúc khí Âm đương lớn, không thể trinh lớn mà còn lợi về trinh nhỏ, là vì khí Âm 1ớn lên, ắt phải dần dà chưa thể thịnh ngay, đấng quân tử còn có thể làm chính đạo mình bằng cách nho nhỏ. Gọi là “nhỏ lợi trinh” tức là phù trì cho nó, đừng để nó phải đến mất. Quẻ Độn là lúc đầu của khí Âm, đấng quân tử biết cơ từ khi nhỏ nhặt, cho nên phải răn cho sâu, mà ý của thánh nhân, thì chưa muốn cho vội thôi, cho nên mới có những lời dạy bảo như hai câu “cùng thì đi” và “nhỏ lợi trinh”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Khí Âm đương lớn dần, ở vào cảnh đó cùng khó, cho nên thì nghĩa của nó càng lớn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thiên hạ hữu sơn, Độn; quân tử dĩ viễn tiểu nhân, bất ác nhi nghiêm.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới trời có núi, là quẻ Độn, đấng quân tử coi đó mà xa kẻ tiểu nhân, không ác mà nghiêm.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dưới trời có núi, núi ở dưới nổi lên mà đậu, trời ở trên tiến lên mà lánh, ấy là cái tượng trốn lánh, đấng quân tử coi tượng đó mà lánh xa kẻ tiểu nhân. Cách xa kẻ tiểu nhân, nếu dùng tướng gắt, vẻ dữ, chỉ để làm cho nó oán, chỉ cần trang trọng uy nghiêm, khiến cho nó bỉết kinh sợ, tự nhiên phải xa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thể trời không cùng, núi cao có hạn, là Tượng “lánh”. Nghiêm là sự thường trong việc tự nhủ của đấng quân tử, mà kẻ tiểu nhân không dám gần.
Tổng quan: Thủy Địa Tỷ
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Vận chuyển tốt, có quý nhân: Thân cận, thân thiết được giúp đỡ. gần gũi tiếp xúc với người mình quan tâm thì tốt và xây dựng tình thân dài lâu. Nên giúp người khó khăn. Kị dương dương đắc ý > hậu quả khôn cùng. Nếu có địa vị xã hội, cần chính trực, luôn xét mình thì không sai lầm.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: Thuận lợi
● Hy vọng: thành đạt như ý
● Tài lộc: hanh thông, nên bàn bạc với người thân nhất (vợ)
● Sự nghiệp: dựa vào người khác thành công. Tự ý mình hỏng việc
● Nhậm chức: Nhờ bề trên có địa vị tốt
● Nghề nghiệp: Đổi nghề sẽ tốt hơn
● Tình yêu: quan hệ tới lúc cầu hôn
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên, bỏ qua dư luận
● Đợi người: đến sớm
● Đi xa: đi chơi thì tốt
● Pháp lý:nên hòa giải sẽ tốt
● Bệnh tật: Thuyên giảm
● Thi cử: kết quả tốt
● Mất của: không dễ tìm
● Người ra đi: đến nhà bạn thân.
Quẻ: Thủy Địa Tỷ - Khảm trên; Khôn dưới
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tỵ, Tự quái nói rằng: Nhiều người ắt phải liền nhau, cho nên tiếp đến quẻ Tỵ, Tỵ là gần vào, giúp vào, loài người ắt phải gần nhau giúp nhau, rồi sau mới yên, cho nên đã có nhiều người, thì phải liền nhau, liền nhau là để đóng quân. Quẻ này trên Khảm, dưới Khôn, nói về hai thể, thì là nước ở trên đất; các vật liền khít với nhau không có ngăn cách, không gì bằng nước ở trên đất, cho nên mới là quẻ Tỵ. Lại nữa, các hào đều thuộc về Âm, riêng có hào Năm là Dương cương, ở ngôi vua, chúng đều thân phụ, mà kẻ trên cũng thân với người dưới, cho nên mới là quẻ Tỵ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tỵ cát, nguyên phệ nguyên, vĩnh, trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung.
Dịch nghĩa. - Liền nhau tốt, truy nguyên việc bói, đầu cả, lâu dài, chính bền, không lỗi! Chẳng yên mới lại, sau trễ trượng phu, hung!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Liền nhau là tốt, người ta gần liền với nhau, tức là đạo tốt. Có người gần liền với nhau, thì phải có cách để mà gần liền với nhau. Nếu không phải cách, thì có hối lận, cho nên cần phải suy nguyên bói tính, kẻ nào có thể gần được thì gần. Phệ là bói tính đắn đo, không phải là dùng cỏ thi mai rùa. Cái người mình gần nếu được có những đức tính đầu cả, lâu dài, chính bền, thì không có lỗi. Đầu cả có đạo quân trưởng, dài lâu là có thể thường lâu, trinh là chính đạo. Người trên gần với kẻ dưới, ắt có ba đức tính ấy: kẻ dưới gần với người trên, cũng phải có ba đức tính ấy thì không có lỗi. Người ta đến khi không thể giữ sự yên ổn của mình, mới đến cầu thân, được kẻ gần liền thì mới giữ được yên ổn. Trong lúc không yên, chỉ nên kíp kíp để tìm người gần liền, nếu đứng một mình, và tự cậy mình, chỉ cầu thân không nóng, mà chậm lại sau, thì tuy là đấng trượng phu cũng hung, huông chi kẻ nhu nhược. Những thứ sinh trong trời đất, không thứ gì không liền nhau mà có thể tự tồn, tuy rất cương cường, chưa có kẻ nào đứng một mình được. Đạo quẻ Tỵ do ở hai chí liền nhau, nếu không liền nhau, thì là quẻ Khuê. Ông vua vỗ về kẻ dưới; kẻ dưới thân bám người trên; họ hàng, bè bạn, làng xóm đều vậy. Cho nên, trong khi kẻ trên người dưới hợp chí để theo nhau, nếu không có ý tìm nhau, thì phải lìa nhau mà hung. Đại để tình người tìm nhau thì hợp, găng nhau thì lìa, găng nhau nghĩa là kẻ nọ chờ kẻ kia, chẳng ai chịu làm trước. Người ta thân nhau đành vẫn có cách, nhưng mà cái chí muốn gần liền nhau thì không thể hoãn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tỵ là gần nhau liền nhau, hào Chín Năm lấy tư cách Dương cương ở giữa quẻ trên mà được chỗ chính, năm hào Ảm ở trên và dưới đều gần lại mà theo đó là cái tượng một người vỗ về muôn nước, bốn bề trông lên một người, cho nên kẻ bói được quẻ này thì sẽ được người thân bám vào mình, nhưng phải bói lại để tự xét định, hễ mà có đức cả lành, dài lâu, chính bền, thì mới có thể để cho người ta theo về mà không có lỗi. Còn kẻ chưa gần mà có sự không yên, cũng đương sắp sửa theo về, nếu lại chầy chậm mà đến sau, thì kẻ này giao kết đã chặt, kẻ kia đi lại đã muộn, mà được sự hung. Những kẻ muốn gần với người, cũng nên lấy đó mà coi ngược lại.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tỵ cát dã; tỵ phụ dã, hạ thuận tòng dã; nguyên phệ nguyên vĩnh trinh, vô cữu, dĩ cương trung dã; bất ninh phương lai, thượng hạ ứng dã; hậu phu hung, kỳ đạo cùng dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tỵ là tốt, tỵ là giáp lại, kẻ dưới thuận theo vậy; truy nguyên việc bói, đầu cả, lâu dài, chính bền, không lỗi, vì cứng giữa vậy, không yên mới lại, trên dưới ứng nhau vậy: sau trượng phu, hung, vì đạo cùng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tỵ là tốt, nghĩa là gần nhau thì tốt, các vật gần liền với nhau tức là đạo tốt. Tỵ là giáp lại, tức là thích nghĩa chữ tỵ, tỵ là gần nhau, giáp lại với nhau. Kẻ dưới thuận theo, là giải quẻ này sở dĩ gọi là quẻ Tỵ. Hào Năm lấy đức Dương cương ở ngôi tôn, các hào dưới thuận theo mà gần giáp với, vì vậy mới là quẻ Tỵ. Suy nguyên cái đạo bói quyết, hễ được đầu cả, lâu dài, chính bền thì sau mới không có lỗi. Gọi là đầu cả, lâu dài, chính bền, tức như hào Năm. Hào ấy lấy đức Dương cương, ở chỗ trung chính, tức là kẻ hết sự khôn khéo trong cách liền nhau. Là Dương cương, ở ngôi tôn, là đức ông vua, tức là đầu cả; ở giữa được chỗ chính đính, tức là có thể dài lâu, chính bền. Lời quẻ vốn nói rộng về cách liền lại với nhau, lời Thoán nói nguyên, vĩnh, trinh là vì hào Chín Năm lấy đức Dương cương ở chỗ trung chính. Người ta sinh ra, không thể giữ được yên ổn, mới đến mà cầu để bám vào; kẻ dân không thể tự giữ được mình, cho nên phải nâng đội ông vua để cầu sự yên; ông vua không thể đứng một mình, cho nên phải giữ dân để làm cho yên. Không yên mà lại gần liền với nhau, tức là trên dưới ứng nhau. Nói về thánh nhân là bậc chí công, thì vẫn chí thành cầu cho thiên hạ liền lại để yên dân; nói về hậu vương là người có lòng riêng tây, thì không cầu kẻ dân phụ vào với mình, thì sự nguy vong sẽ đến nơi. Cho nên chí của kẻ trên người dưới, ắt phải ứng nhau; nói về quẻ, thì các hào Âm ở trên và dưới liền lại với hào Năm, hào Năm liền lại với dân chúng, tức trên dưới ứng nhau. Đông người phải liền lại với nhau thì mới được thoả sự sống. Trong khoảng trời đất, chưa có thứ gì không gần liền nhau mà được thoả thuê, nếu chí theo nhau không nóng mà trễ lại sau, thì không thể thành liền nhau, dù là trượng phu cũng hung, ấy là không có chỗ nào gần liền, nên phải khốn khuất rồi đến hung cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ba chữ “tỵ cát dã” là chữ thừa. Đoạn đầu dùng thể quẻ thích nghĩa tên quẻ; các đoạn dưới cũng lấy thể quẻ để thích lời quẻ; cương trung chỉ về hào Năm, trên dưới chỉ về năm hào Âm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Địa thượng hữu thuỷ, Tỵ tiền vương dĩ kiến vạn quốc, thân chư hầu.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên đất có nước, là quê Tỵ, đấng Tiên vương coi đó mà dựng muôn nước, thân chư hầu.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Loài vật gần liền với nhau mà không ngăn cách, không gì bằng nước ở trên đất, cho nên mới là quẻ Tỵ, đấng Tiên vương coi tượng liền nhau đó để dựng muôn nước, gần gũi với chư hầu. Dựng muôn nước là để liền nhau với dân; gần gũi vỗ về chư hầu là để liền nhau với thiên hạ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trên đất có nước, nước liền với đất, không để có chỗ khe cách; dựng muôn nước gần chư hầu, cũng là Tiên vương làm cho liền với thiên hạ mà không có chỗ khe cách, ý lời Thoán lấy về nghĩa người đến liền lại với nhau, đây lấy về nghĩa mình đi liền lại với người.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Thủy Thiên Nhu
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Nghỉ ngơi dưỡng sức, tự nhiên thành công: Nắm bắt sự việc chưa đủ rõ, Tiền đồ tươi sáng nhưng trước mắt có nguy hiểm, cần kiên định chờ thời cơ, tiến lên tuần tự sẽ thành công. Trung thực, thành thật và kiên nhẫn. Không chờ đợi sự giúp đỡ của người khác. Cần chờ thời cơ không nóng vội.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: mọi việc thuận lợi, sẽ như ý
● Hy vọng: không nóng vội sẽ thành công
● Tài lộc: an tâm chờ đợi sẽ tới
● Sự nghiệp: chưa có thời cơ, phải đợi chờ
● Nhậm chức: chờ đợi sẽ có địa vị tốt
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề
● Tình yêu: tiến triển nhanh, bình tĩnh tránh đổ vỡ
● Hôn nhân: chờ đợi sẽ thành
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: chờ lúc thuận lợi
● Pháp lý: nhẫn lại sẽ thắng kiện
● Bệnh tật: sẽ thuyên giảm sau một thời gian
● Thi cử: kết quả tốt
● Mất của: không dễ tìm
● Người ra đi: chưa thể về ngay
Quẻ: Thủy Thiên Nhu - Khảm trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Quẻ Nhu, Tự quái nói rằng: Mông tức là đội, là vật còn non, vật non thì tất phải nuôi, cho nên tiếp đến quẻ Nhu. Nhu tức là việc ăn uống. Vật còn non nớt, phải đợi nuôi nấng mới lớn mà cái cần dùng trong sự nuôi nấng các vật thì là sự ăn uống, cho nên nói rằng quẻ Nhu là việc ăn uống. Mây [1-Chỉ về Khảm] bay lên trời [2-Chỉ về Kiền] có tượng hun bốc nhuần ướt, ăn uống là để nhuần ích cho các loài vật, cho nên quẻ Nhu - là việc ăn uống - sở dĩ nối dưới quẻ Mông. Đại ý quẻ này có nghĩa chờ đợi. Cái tính Kiền mạnh nhất định phải tiến, vậy mà nó lại ở dưới quẻ Khảm là tượng chỗ hiểm, chỗ hiểm làm ngăn trở nó, cho nên cần phải chờ đợi rồi sau mới tiến.
LỜI KINH
Dịch âm. - Nhu, hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. - Quẻ Nhu, có đức tin, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt! Lợi sang sông lớn.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Nhu là chờ đợi. Nói về hai thể, thì Kiền cứng mạnh cần tiến lên, mà gặp chỗ hiểm, chưa thể tiến được, cho nên là nghĩa chờ đợi. Nói về tài quẻ, thì hào Năm ở ngôi vua, là chủ sự chờ đợi, có đức cứng mạnh, trung chính, mà sự thành tín đầy đặc bên trong, tức là bên trong đầy đặc có đức tín; có đức tín thì sáng láng mà có thể hanh thông, được trinh chính và tốt. Dùng những cái đó mà chờ đợi, thì gì mà không qua: dù hiểm cũng không khó, cho nên mới lợi về việc sang sông lớn. Đại phàm trinh cát, có khi là đã chính lại tốt, có khi là có chính mới tốt, cần phải phân biệt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nhu nghĩa là đợi. Quẻ Kiền gặp quẻ Khảm, Kiền mạnh Khảm hiểm, sức mạnh gặp chỗ hiểm mà không vội tiến cho mắc vào chỗ hiểm đó, ấy là cái nghĩa chờ đợi. Phu là đức tin ở trong. Quẻ này hào Chín Năm là thể Khảm bên trong đã đầy đặc, lại có những tính Dương cương, trung chính mà ở ngôi tôn, tức là cái tượng “có đức tin được ngôi chính”. Nước Khảm ở phía trước, Kiền mạnh kề tới, ấy là cái tượng “sắp sang sông lớn mà chưa tiến lên một cách khinh thường”. Cho nên, kẻ xem, nếu là có sự chờ đợi mà tự mình sẵn có đức tin thì sẽ sáng láng hanh thông; nếu lại được chính thì tốt mà lợi về việc sang sông lớn. Chính bền thì không cái gì không tốt, mà sự sang sông lại càng quý ở chờ đợi. Đó là không vì lòng muốn mau chóng mà phạm vào chỗ hiểm nạn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Nhu, tu dã; hiểm tại tiền dã; cương kiện nhi bất hãm, kỳ nghĩa bất khôn cùng hỹ.
Dịch nghĩa. - Lời thoán nói rằng: Nhu tức là đợi, chỗ hiểm ở trước vậy. Cứng mạnh mà không bị hãm, nghĩa là nó không khốn cùng rồi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Nghĩa của quẻ Nhu là đợi, vì có chỗ hiểm ở phía trước, chưa thể vội tiến, nên phải chờ đợi rồi sau mới đi. Là hạng cứng mạnh như Kiền mà biết chờ đợi, không dám khinh thường mà động, cho nên không bị hãm vào chỗ hiểm, cái nghĩa của nó không đến khốn cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy, - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Nhu hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, vị hồ thiên vị, dĩ chính trung dã; lợi thiệp đại xuyên, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Nhu có đức tin, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt, là vì ở vào ngôi trời, để chính giữa vậy. Lợi về sự sang sông lớn, đi thì có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hào Năm cứng đặc, ở giữa, là tượng đức tin, mà lại được cái nó vẫn chờ đợi, cũng là nghĩa có đức tin. Vì là Kiền cương, rất thành, cho nên đức nó sáng tỏ mà có thể hanh thông, được trinh chính mà tốt. Sở dĩ có thể như thế, là vì nó ở ngôi trời mà được chính giữa. Đã có đức tin là lại trinh chính, tuy qua chỗ hiểm mặc lòng, hễ đi thì có công, đó là điều chí thiện trong đạo Nhu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể và hai tượng của quẻ để thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm: - Tượng viết: Vân thướng ư thiên, Nhu, quân tử dĩ ẩm thực yến lạc.
Dịch nghĩa. - Lời tượng nói rằng: mây lên trời, là quẻ Nhu, đấng quân tử coi đó mà ăn uống yên vụi.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Hơi mây hun nấu mà bốc lên trời, phải đợi Âm Dương hòa hợp mới thành mưa; mây đương lên trời, thì chưa thành mưa, cho nên là nghĩa chờ đợi. Khí của Âm Dương cảm nhau mà chưa thành mưa, cũng như đấng quân tử còn nuôi tài đức chưa thi thố ra việc làm. Đấng quân tử coi tượng mây đương lên trời đợi để làm mưa, mà mang bọc đạo đức ở yên đợi thời, ăn uống để nuôi khí thể, yên vui để hòa tâm chí. Đó là “Ở cách bình dị để chờ số mệnh”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Mây lên trời, không còn làm gì nữa, chỉ đợi Âm Dương hòa hợp tự nhiên sẽ mưa. Việc còn phải chờ, thì cũng đừng chờ làm gì nữa, chỉ hãy ăn uống yên vui, đợi nó đến mà thôi. Nếu lại làm một sự gì, thì không phải là chờ đợi nữa.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Trạch Thiên Quải
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Quải-Quyết đoán, hung hiểm, cần ứng biến linh hoạt, trí tuệ, tránh do dự. Vận nguy hiểm khắp nơi. Cẩn thận tranh tai họa. phải nêu vấn đề rõ ràng, công khai trước cơ quan có thẩm quyền, song không dùng vũ lực và nêu cao phẩm chất đạo đức của bản thân mình thì có lợi. Khi sử phạt cần công bố công khai tội, làm gương.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hết sức thận trọng trong hành động, chỉ một sai lầm nhỏ sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm.
● Hy vọng: khó thành.
● Tài lộc: không có.
● Sự nghiệp: khó thành.
● Nhậm chức: không như ý, không hay.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề bình thường.
● Tình yêu: chia tay vì đôi bên không hợp.
● Hôn nhân: không như ý, có thành cũng bất hạnh.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: không nên.
● Pháp lý: thất bại.
● Sự việc: chậm, một thời gian sau mới giải quyết.
● Bệnh tật: nặng, nhất là bệnh lâu.
● Thi cử: khó đạt kết quả.
● Mất của: khó tìm.
● Người ra đi: người nhà ra đi không biết ở đâu.
Quẻ: Trạch Thiên Quải - Đoái trên ; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tự Quái nói rằng: Ích mà chẳng thôi, ắt quyết, cho nên tiếp đến quẻ Quải, Quải nghĩa là quyết [1-Chữ “quải” nghĩa là quyết, chữ quyết lại có nghĩa là vỡ lở, vì vậy họ Trình mới giải bằng lối dây cà dây muốn như vậy] ích đến cùng cực, ắt phải quyết liệt rồi sau mới thôi, lý không ích mãi mà chẳng thôi, thôi tức là quyết, vì vậy quẻ Quải mới nối quẻ Ích. Nó là quẻ Đoái trên Kiền dưới, lấy hai thể mà nói, thì chầm là chỗ nước tụ mà lên ở chốn rất cao, có tượng vỡ lở [2-Chữ “quải” nghĩa là quyết, chữ quyết lại có nghĩa là vỡ lở, vì vậy họ Trình mới giải bằng lối dây cà dây muốn như vậy], lấy hào mà nói, thì năm hào Dương ở dưới, lớn lên sắp cùng cực, một Âm ở trên, tiêu đi sắp hết, các hào Dương tiến lên, quyết trừ một hào Âm, vì vậy mới là quyết. Quải là nghĩa cương quyết, mọi hào Dương tiến lên mà trừ một hào Âm, đó là lúc đạo đấng quân tử lớn lên, kẻ tiểu nhân tiêu suy vậy hầu hết vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quyết, dương vu vương đình, phu hiệu [3-Theo Chu Hy, thì trong quẻ Quải này, chỉ có chữ (號) ở lời quẻ đọc là hiệu, nghĩa là gọi, còn các chữ (號) ở các hào, đều đọc là hào, nghĩa là kêu] hữu lệ. Cáo tự ấp, bất lợi tức nhưng, lợi hữu dù vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Quải, giơ chưng sân vua, tin gọi, có nguy. Bảo từ làng, chẳng lợi tới quân, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lúc kẻ tiểu nhân đương thịnh, đạo đấng quân tử chưa thắng, có thể nào hiển nhiên dùng chính đạo mà quyết trừ nó, cho nên phải kín đáo đợi thời, dần dần tính cách làm tiêu nó đi. Nay đảng tiểu nhân đang suy, quân tử đương thịnh, nên làm rõ rệt ở công triều, khiến cho người ta biết rõ sự thiện ác, cho nên nói rằng “giơ chưng sân vua”. Phu là Điều tin ở trong lòng, tức là cái ý thành thực, hiệu là lời sai nhiều người, đạo đấng quân tử lớn thịnh, mà không giảm sự răn ngừa, cho nên dùng sự chí thành để sai mọi người, khiến họ biết rằng còn có sự nguy, ắt phái có lòng răn sợ, thì không có gì…Đấng quân tử trị kẻ tiểu nhân, vì nó bất thiện, ắt lấy đạo thiện của mình mà đổi được nó, cho nên đấng thánh nhân trừ kẻ làm loạn ắt trước sửa mình, tức như vua Thuấn sửa đức văn vậy [4-Kinh Thư nói rằng: Vua Thuấn đánh rợ Miêu không được, bèn rút quân về, thôi vũ dùng văn, rối múa cái can cái vũ (hai thứ binh khí) ở hai thềm, bảy tuần mà rợ Miêu quy phục]. Ấp là làng riêng, “bảo từ làng” nghĩa là trị mình. Đem sự thịnh vượng của các hào Dương, mà quyết trừ một hào Âm, sức vẫn có thừa, nhưng không nên dùng cách cương quyết thái quá, thái quá thì nó sẽ đến làm giặc như hào Chín Trên quẻ Mông. Nhung là việc cường vũ của nhà binh, chẳng lợi tới quân tức là chẳng lợi về mặt chuộng sự tráng vũ, “tức” là tới, “tới quân” nghĩa là chuộng võ vậy. Lợi có thửa đi, nghĩa là khi Dương tuy thịnh, nhưng chưa tới ngôi Trên, khí Âm tuy suy, nhưng còn chưa đi hết, đó là tiểu nhân hãy còn, đạo của quân tử chưa thật đến nơi, cho nên, nên tiến mà đi chẳng chuộng cương vũ, mà đạo càng tiến, ấy là sự quyết rất khéo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Quải nghĩa là quyết [5-Chữ 决 (quyết có nghĩa là tháo, như khơi nước tháo nước], tức là khí Dương khơi tháo khí Âm, nó là quẻ về tháng ba. Lấy năm hào Dương trừ một hào Âm, chẳng qua khơi tháo nó đi mà thôi. Nhưng khi khơi tháo nó đi, ắt phải nêu rõ tội nó, mà hết lòng thành thực để hò gọi quân mình hợp sức với mình, và cũng còn phải lo sợ, không thể yên ổn phóng tứ, lại nên trị trước chỗ riêng tây mà không thể chuyên chuộng oai vũ, thì lợi có thửa đi. Hết thảy đều là lời răn người ta.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Có người bảo rằng: Quẻ Quải, thánh nhân với lúc Âm tiêu Dương lớn, cũng răn sợ như thế, cái ý cảnh giới người ta sâu lắm. Đáp rằng: Không thể nói thế. Nguyên là không có lúc nào mà không răn giữ lo sợ, chẳng phải đến khi đó mới răn sợ đâu. Nói rằng thiên hạ đã bình trị, có thể yên lòng phóng chí, hễ hơi có chút phóng tứ, liền đẻ ra không thiếu cái gì.
Hồ Vân Phong nói rằng: Quẻ Quải lấy năm hào Dương trừ một hào Âm, cũng là việc dễ dàng, thế mà lời Thoán (tức lời quẻ) làm ra nhiều lời lo sợ răn dỗ, là vì: ắt phải giơ chưng sân vua, khiến tội tiểu nhân được rõ, lấy lòng chí thành hò gọi mọi người, khiến bọn quân tử hợp lại, không thể vì tiểu nhân đã suy liền phóng tứ, thì phải có lo lắng đó, không thể vì quân tử đương thịnh mà chuộng uy vũ, thì có cách tự trị đó, ắt phải như thế mới có lợi có thửa đi. Quẻ Phục lợi về sự đi, là đi mà làm quẻ Kiền. Đấng thánh nhân đặt lời Thoán quẻ Phục, chỉ nói bằng giọng bình thường, đặt lời Thoán quẻ Quải, thì nói bằng giọng lo sợ. Bởi vì thế Âm tuy suy, nó lan ra hoặc có thể sinh sôi, nó cùng quá hoặc lại thành kẻ chống chọi. Đấng quân tử không lúc nào mà không răn sợ, mà lúc tiểu nhân đã suy, lại càng không thể quên sự răn sợ.
Đấng thánh nhân lo cho bọn quân tử thật cùng tột vậy.
LỞI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Quải quyết dã, cương quyết nhu dã, kiện nhi duyệt, quyết nhi hòa.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quải là quyết vậy, cứng quyết mềm vậy, mạnh mà đẹp lòng quyết mà hòa.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ và thích đức quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Dương vu vương đình, nhu thừa ngũ cương dã.
Dịch nghĩa. - Giơ chưng sân vua, hào mềm cưỡi năm hào cứng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phần mềm tuy đã tiêu nhưng nó ở trên năm hào ứng, còn là cái Tượng cưỡi lấn. Âm mà cưỡi Dương, trái lẽ thái thậm, đấng quân tử thế đủ trừ nó, thì nên nêu rõ tội nó ở sân lớn phong trào nhà vua, khiến cho mọi người biết rõ sự thiện ác.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phu hiệu hữu lệ, kỳ nguy nãi quang dã.
Dịch nghĩa. - Tin gọi, có nguy, thửa nguy bèn sáng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hết lòng thành tín để sai mọi người, mà biết có sự lo sợ, thì đạo quân tử mới khỏi lo mà được sáng lớn.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cáo tự ấp, bết lợi tức nhung, sở thượng nãi cùng dã.
Dịch nghĩa. - Bảo tự làng, chẳng lợi tới quân, thửa chuộng bèn cùng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nên trước trị mình, chẳng nên chuyên chuộng sự cương vũ, tới quân thì cái mình chuộng bèn đến cùng cực. Trong thí quyết, cái thửa chuộng là nói về sự cương vũ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi hữu du vãng, cương trưởng nãi chung dã.
Dịch nghĩa. - Lợi có thửa đi, cứng lớn [6-Tức là khí Dương lớn lên] bèn trọn vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dương cứng tuy đã thịnh lớn, nhưng còn chưa chót, vì còn có một hào Âm, còn phải quả quyết trừ đi, thì đạo quân tử mới được thuần nhất mà không có kẻ hại mình, thế là sự chót của cuộc cứng lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích lời quẻ. Hào mềm cưỡi năm hào cứng là lấy thế quẻ mà nói, ý bảo lấy một kẻ tiểu nhân ở trên các đấng quân tử, là tội của nó. “Cứng lớn bèn chót”, nghĩa là biến một lần nữa, thì thành quẻ thuần Kiền.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch thượng ư thiên, Quải, quân tử dĩ thí, lộc cập hạ, cư đức tắc ky.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chằm lên chưng trời, là quẻ Quải. Đấng quân tử coi đó mà ra lộc tới dưới, ở đức phép ky [7-Dịch theo ý Trình Di].
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chằm là chỗ nước tụ mà lên trên trời là chốn rất cao, cho nên là Tượng sự khỏi. Đấng quân tử coi tượng chằm khỏi ở trên mà chảy xuống dưới để ra lộc tới dưới, nghĩa là ban ơn lộc của mình cho kẻ dưới vậy: coi Tượng vỡ lở của nó, thì để ở đức phép ky. Ở đức nghĩa là ở yên với đức của mình, phép là ước, ky là ngừa, tức là ước dựng ra ngừa ngăn, có ngừa ngăn thì không vỡ tan. Chữ 則 忌 (tẳc ky). Vương Bật đổi làm 明 忌 (minh kỵ - tỏ sự kiêng) cũng thông. Không nói chằm ở trên trời mà nói chằm lên chưng trời, là vì “lên chưng trời” thì có ý không nên mà có thể vỡ lở, “ở trên trời” thì là lời nói có vẻ yên ổn vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chằm lên chưng trời là thế vỡ lở, ra lộc tới dưới là ý vỡ lở, mây chữ 居德則忌 (cư đức tắc ky) chưa rõ ý nghĩa ra sao.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trương Trung Khê nói rằng: Mây lên chưng trời là quẻ Nhu, thì ơn chẳng tới dưới, chằm lên chưng trời là quẻ Quải, thì cái mà trời để làm ơn cho muôn vật đã bị khỏi rồi. Đấng quân tử coi tượng chằm khỏi ở trời mà rút xuống dưới, để ra ban ơn lộc cho kẻ dưới. Cư 居 nghĩa là đậu, nếu tự ngừng đậu cái đức của mình mà ơn không ban xuống thì không hợp nghĩa khỏi tháo, cho nên phải kiêng.
Lý Long Sơn nói rằng: Trong câu “cư đức tắc ky”, chữ “cư” nghĩa là chưa lại mà không chảy đi, cũng như chữ 居 (cư) trong câu 奇货可居 (kỳ hóa khả cư - của lạ đáng chứa) ở Liệt truyện vậy.
Hạng Bình Âm nói rằng: Chữ 居 (cư) chua nghĩa là chứa, nhưng chữ 化居 (hóa cư) trong Kinh Thư, chữ 居 業 (cư nghiệp) trong Kinh Dịch, đều thế cả. Người đời Hán hãy còn nói tiếng cư tích (ở chứa).
Hồ Vân Phong nói rằng: Câu “cư đức tắc kỵ”. Trình truyện giải tắc là ước, kỵ là ngừa, cho là ước dựng ngừa ngăn, thì trái với ý vỡ lở. Vương Bật đổi là 明則 (minh tắc) cũng sai. Các nhà cho là “ngừng đậu đức mình thì kiêng” thì là trái lại ý trên, mà ở Đại tượng không có lệ nói trái lại, sách Bản nghĩa chừa lại chỗ đó là phải.
Xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Lôi Thiên Đại Tráng-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Đại tráng-Lấy trí để thắng. Quân tử lớn manh, Thanh danh lừng lẫy thi nghiêm túc thuần chính , rễ chuyển thành suy, chuyện Nhỏ rễ thành, lớn khó thành. Chỉ mạnh mẽ, có lực. khi đã đạt được danh, lợi thì càn ẩn nhẫn, khiêm nhường, giữ điều chính thì mới có lợi. Lúc thắng lợi phải nghĩ ngay lúc mình suy vi thì mới toại nguyện.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang phát triển, song vì đó mà mở rộng quy mô thì sẽ thất bại.
● Hy vọng: đạt sở nguyện.
● Tài lộc: hữu danh vô thực.
● Nhậm chức: không như ý vì nôn nóng.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: không thành.
● Hôn nhân: không có kết quả.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: không nên.
● Pháp lý: bất lợi.
● Sự việc: nên giải quyết sớm để lâu rắc rối.
● Bệnh tật: nặng dần lên.
● Thi cử: thất bại không ngờ.
● Mất của: chưa tìm thấy.
● Người ra đi: đi xa.
Quẻ: Lôi Thiên Đại Tráng - Chấn trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Đại Tráng, Tự quái nói rằng: Trốn là lui thôi, vật không thể trốn đều cùng chót, cho nên tiếp đến quẻ Đại Tráng [1-Chữ Đại tráng nghĩa lớn mạnh]. Độn là nghĩa bỏ đi, tráng, là nghĩa tiến mạnh, quẻ Độn là khí Âm lớn lên mà khí Dương phải trốn, quẻ Đại tráng thì là khí Dương mạnh thịnh. Suy ắt có thịnh, sự tiêu đi và sự sinh ra phải chờ nhau, cho nên đã trốn thì ắt phải mạnh, vì vậy quẻ Đại tráng mới nối quẻ Độn. Nó là quẻ Chấn trên Kiền dưới, Kiền cứng mà Chấn động, lấy đức cứng mà động là nghĩa lớn mạnh. Dương cứng là lớn tức là khí Dương lớn lên quá bậc giữa rồi. Lớn là mạnh thịnh. Lại, oai dữ như sấm mà ở trên trời, cũng là nghĩa lớn mạnh.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đại tráng lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Đại tráng lợi về sự chính.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái đạo lớn mạnh lợi về trinh chính. Lớn mạnh mà không đúng với chính đạo, tức là sự hành vi của kẻ hung tợn, không phải đạo đấng quân tử.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lớn chỉ về Dương, bốn hào Dương thịnh lớn, cho nên là lớn mạnh, tức là quẻ về tháng hai. Dương mạnh thì kẻ xem tốt lành hanh thông, không cần phải nói, có điều lợi ở chính bền mà thôi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Đại tráng, đại giả tráng dã, cương dĩ động, cố tráng.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ tráng, là lớn thì mạnh vậy. Dùng đức cứng mà động, cho nên lớn mạnh.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sở dĩ gọi là quẻ Đại tráng, nghĩa là lớn thì mạnh vậy. Âm là nhỏ, Dương là lớn, khí Dương lớn lên và thịnh vượng, thế là cái lớn thì mạnh. Dưới cứng mà trên động, lấy thể Kiền là vật rất cứng mà động, cho nên là lớn mạnh, là cái lớn thì mạnh, là sự mạnh to lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ. Nói về thể quẻ thì khí Dương lớn lên, đã quá bậc giữa, tức là cái lớn thì mạnh. Nói về đức quẻ, thì Kiền cứng, Chấn động, cho nên là mạnh.
LỜI KINH
Dịch âm. - Đại tráng lợi trinh, đại giả chính dã, chính đại nhi thiên địa chi tình khả kiến hỹ.
Dịch nghĩa. - Lớn mạnh lợi về sự chính, là cái lớn thì chính vậy; chính lớn mà tình trời đất có thể thấy được.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái lớn đã mạnh, thì lợi về sự trinh chính. Chính mà lớn, tức là Đạo đó. Cùng cực cái lẽ chính lớn thì tình của trời đất có thể thấy được. Đạo của trời đất thường lâu không thôi, là cái rất lớn rất chính. Cái lẽ “chính lớn” kẻ học phải im lặng ghi lấy và hiểu ở trong lòng, mới được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa chữ lợi trinh mà nói: cho cùng cực ra.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi tại thiên thượng. Đại tráng, quân tử dĩ phi lễ vật lý.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sấm ở trên trời, là quẻ Đại tráng. Đấng quân tử coi đó mà không phải lễ chớ xéo vào.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm động ở trên trời, là lớn mà mạnh, đấng quân tử coi Tượng lớn mạnh đó mà thực hành sự mạnh của mình. Cái lớn mạnh của đấng quân tử, không gì bằng nén lòng riêng mình, trở lại điều lễ. Người xưa nói rằng: “Mình thắng được mình gọi là mạnh”; sách Trung Dung nói những sự “hòa mà không trôi”, “đứng giữa mà không tựa” đều nói là “mạnh thay mạnh”. Nhảy vào nước sôi, lửa nóng, xéo lên lưỡi gươm sắc, bọn vũ phu hung tợn có thể làm được. Đến như nén lòng riêng mình, trở lại điều lễ, phi đấng quân tử cả mạnh thì không làm nổi, cho nên nói rằng: “Đấng quân tử coi đó mà không có lễ đừng xéo vào”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Mình thắng được mình là mạnh
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Địa Thiên Thái-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Cát tường như ý nhất trong 64 quẻ"Qua bĩ cực đến thái lai". Tai ương, họa hoạn đã qua, muôn việc thuận lợi. cần khiêm nhường. Biết bỏ cáo nhỏ để đạt cái lớn hơn. Nếu sống đại lượng, biết tha thứ, không chấp nhặt thì người gây khó khăn cho mình giảm dần, việc làm của mình thuận lợi. có mất mát nhỏ nhưng được việc lớn.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: tương đối thuận lợi, song sẽ khó khăn, cần có kế hoạch ứng phó.
● Hy vọng: như ý. Cuối cùng có thể thất bại vì chủ quan.
● Sự nghiệp: thành công. Song mau chóng suy vi
● Nhậm chức: có chức nghiệp tốt, sau dễ thất bại, cần đề phòng
● Nghề nghiệp: chuyển nghề được
● Tình yêu: đôi bên gần gũi, dễ tuỳ tiền
● Hôn nhân: Thành nhân duyên tốt
● Đợi người: đang đến
● Đi xa: chuyến đi vui vẻ tốt đẹp
● Sự việc: Tiếp xúc bàn bạc sẽ xong
● Bệnh tật: thuyên giảm dần
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: tìm được
● Người ra đi: sẽ trở về
Quẻ: Địa Thiên Thái - Khôn trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Thái, Tự quái nói rằng: Xéo mà hanh thái mới yên, cho nên tiếp đến quẻ Thái. Xéo được nơi chốn thì thư thái, thư thái thì yên ổn, vì vậy quẻ Thái mới nối quẻ Lý. Nó là quẻ Khôn Âm ở trên. Kiền Dương ở dưới, khí của trời đất Âm Dương giao nhau mà dung hòa, thì muôn vật sinh thành, cho nên mới là thông thái.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thái, tiểu văng, đại lai, cát hanh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Thái, nhỏ đi, lớn lại, lành tốt hanh thông.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nhỏ là Âm lớn là Dương, “đi” là đi ra ngoài, “lại” là ở bên trong, khí Âm hạ xuống, khí Dương bốc lên, tức là giao nhau. Âm Dương lợi xướng thì muôn vật được sống thỏa, ấy là trời đất thông thái. Nói về việc người, thì lớn là đấng quân thượng, nhỏ là kẻ thần hạ, ông vua suy lòng thành thật để dùng kẻ dưới, bề tôi hết lòng thành thật để thờ vua, chí của kẻ trên người dưới thông nhau, ấy là cuộc thái của triều đình; Dương là quân tử, Âm là tiểu nhân, quân tử lại ở bên trong, tiểu nhân đi ở bên ngoài, quân tử được ngôi, tiểu nhân ở dưới, ấy là cuộc thái của thiên hạ. Đó là đạo của cuộc thái, tốt mà lại hanh. Không nói “nguyên cát” mà nói “cát hanh” là vì thời có khi lên khi xuống, trị có cuộc lớn cuộc nhỏ, tuy là hanh thái, củng không thể nói nhất khái. Nói “cát hanh” thì bao bọc được cả.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thái là hanh thông, nó là quẻ trời đất giao nhau mà hai khí thông nhau, cho nên là thái, quẻ tháng giêng đó. Nhỏ là Âm, lớn là Dương, ý nói Khôn đi ở ngoài, Kiền đến ở trong, lại tự quẻ Qui muội mà lại, thì là hào Sáu đi ở ngôi Tư, hào Chín lại ở ngôi Ba. Kẻ xem có đức cương Dương thì tốt mà hanh thông.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Thái tiểu vãng, đại lai, cát hanh, tức thị thiên địa giao nhi vạn vật thông dã; thượng hạ giao nhi kỳ chí đồng dã. Nội Dương nhi ngoại Âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân, quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu dã.
Dịch nghĩa.- Lời Thoán nói rằng: Quẻ Thái, nhỏ đi lớn lại, tốt và hanh thông, trời đất giao nhau mà muôn vật hanh thông vậy; trên dưới giao nhau mà trí giống nhau vậy. Trong Dương mà ngoài Âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài tiểu nhân, đạo quân tử lớn lên, đạo tiểu nhân tiêu đi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nhỏ đi lớn lại, tức là Âm đi mà Dương lại, thì là khí của trời đất Âm Dương giao nhau mà muôn vật được thỏa sự thông thái của nó; ở người ta thì tình trên dưới giao nhau mà chí ý giống nhau. Dương lại ở trong, Âm đi ở ngoài là Dương tiến mà Âm lui; Kiền mạnh ở trong, Khôn thuận ở ngoài là trong mạnh và ngoài thuận, tức là đạo của đấng quân tử, quân tử ở trong, tiểu nhân ở ngoài là đạo quân tử lớn lên, đạo tiểu nhân tiêu đi, vì vậy mới là Thái.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Thiên địa giao. Thái; hậu dĩ tài thành thiên địa chỉ đạo, phụ tường thiên địa chi nghi, dĩ tả hữu dân.
Dịch nghĩa.- Lời Tượng nói rằng: Trời đất giao nhau là quẻ Thái, ông vua coi mà sửa nên đạo của trời đất, giúp tập sự nên phải của trời đất, để đỡ đần dân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di.- Trời đất giao nhau mà Âm Dương hòa nhau, thì muôn vật tươi tốt thỏa thuê, vì vậy mới thái. Đấng nhân quân nên thể theo cái tượng trời đất thông thái để sửa nên đạo của trời đất; giúp tập sự nên phải của trời đất, để đỡ đần cho kẻ sinh dân. “Tài” là thể theo cái đạo giao thái của trời đất mà sửa chế đi cho thành cái phép thi thố công việc.“Giúp lập sự nên phải của trời đất”, là trời đất thông thái thì muôn vật tươi tốt thỏa thuê, đấng Nhân quân thể theo chỗ đó mà làm phép tắc, khiến cho kẻ dân dùng thời của trời, nhân lợi của đất, giúp đỡ công việc hỏa dục, cho thành cái lợi thịnh tốt, ví như khí mùa xuân phát sinh muôn vật, thì làm ra phép gìeo trồng khí mùa thu kết chắc muôn vật, thì làm ra phép thu liễm, đó là giúp lập sự đáng nên của trời đất để đỡ dần phụ trợ cho dân. Dân sống, ắt nhờ đấng quân thượng làm rạ phép tắc, để đạy bảo dắt dìu giúp đỡ cho họ, mới được thỏa sự sinh dưỡng. Thế là đỡ đần cho họ.
Bản nghĩa của Chu Hy.- “Tài thành” là để nén bớt chỗ thái quá, “phụ tướng” là để bù đắp chỗ bất cập.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Địa Trạch Lâm
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Lâm-Đạo của đế vương. Đích thân Giám sát thiên hạ, Lãnh đạo ân huệ+uy nghiêm: đường lối đúng đắn đã tới lúc có điều kiện thuận lợi. Kị kiêu căng, tự đại. Cũng không nên quá khắt khe với người.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận : đang vận tốt. Chủ quan hỏng việc
● Hy vọng: sắp tới lúc thực hiện, hãy nỗ lực tới cùng
● Tài lộc: gần được như ý
● Sự nghiệp: thành công, càng về cuối càng phát triển
● Nhậm chức: sẽ như ý sau một thời gian
● Nghề nghiệp: hiện chưa phải lúc, phải chờ ít lâu
● Tình yêu: có khả năng tiến triển tốt đẹp, nếu thành tâm
● Hôn nhân: thành lương duyên sau một thời gian dài
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: vui vẻ, tới đích
● Pháp lý: được kiện
● Sự việc: sau một thời gian mới giải quyết xong, không nóng vội
● Bệnh tật: kéo dài, nhưng sẽ đỡ dần
● Thi cử: phải nỗ lực lớn mới có kết quả
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: có đi có về bình thường
Quẻ: Địa Trạch Lâm - Khôn trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lâm, Tự quái nói rằng: Có việc mà sau mới có thể lớn, cho nên tiếp đến quẻ Lâm, lâm tức là lớn. Cổ là việc, có việc thì có thể lớn, cho nên tiếp đến quẻ Lâm [1-臨 (lâm) nghĩa là tới, tức là tiến sát tới nơi]. Hàn Phương Bá nói: “Cái nghiệp có thể làm lớn, đo việc mà ra”. Hai khí dương lớn mà sắp thịnh đại, cho nên là lâm. Nó là quẻ trên chằm có đất, đất ở trên chằm là bờ, giáp nhau với nước, tới gần với nước, cho nên là lâm. Các vật ở gần trời, gần sát tới nhau, không gì bằng đất và nước, cho nên trên đất có nước là quẻ Tỵ, trên chằm có nước là quẻ Lâm. Lâm là tới dân, tới việc, những cái thửa tới đều là lâm. Ở quẻ thì lấy về nghĩa “tự trên tới dưới”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lâm nguyên hanh lợi trinh, chí vu bát nguyệt hữu hung.
Dịch nghĩa. - Quẻ Lâm, cả, hanh, lợi, trinh, đến chưng tám tháng, có hung.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là nói về cái tài của quẻ. Đạo tới như tài quẻ này, thì có thể cả hanh mà chính. Hai khí Dương đương lớn lên ở dưới, là lúc Dương đạo sắp thịnh, thánh nhân răn sẵn mà rằng: “Khí đương tuy đương thịnh, đến tám tháng thì nó tiêu đi, ấy là có hung”. Đại để thánh nhân dăn dổ, ắt là tự lúc đương thịnh mà lo rằng suy, thì mới có thể ngăn ngừa sự quá đầy mà mưu tính cuộc lâu dài. Nếu để đã suy mới răn, thì không kịp nữa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lâm là tiến lên mà lấn sát đến một vật gì. Hai khí Dương đương lớn, dần dần lấn bức khí Âm, cho nên là Lâm, tức là quẻ về tháng chạp. Lại, nó là quẻ dưới thì Đoái vui, trên thì Khôn thuận, hào Chín Hai lấy đức cứng ở ngôi giữa, trên thì ứng với hào Sáu Năm, cho nên kẻ xem cả hanh mà lợi về đường chính đính. Nhưng đến tám tháng thì nên có sự hung. Tám tháng chỉ về từ quẻ Phục, tháng một khí Âm, đến quẻ Độn tháng hai khí Âm, là lúc khí Âm lớn lên, khí Dương trốn đi. Hoặc có người nói: Bát nguyệt chỉ về tháng thứ tám trong lịch nhà Hạ, về quẻ là Quan, cũng là phản đối với quẻ Lâm. Lại nhân kẻ xem mà răn bảo họ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Lâm, cương tẩm nhi trưởng, duyệt nhi thuận, cương trung nhi ứng, đại hanh dĩ chính, thiên chi đạo dã. Chí vu bát nguyệt hữu hung, tiêu bất cửu dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Lâm, đức cứng dần dần lớn lên, đẹp lòng mà thuận, cứng giữa mà ứng, cả hanh và chính, đạo của trời vậy. Đến chưng tám tháng có hung, sự tiêu đi không lâu vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tám là dần dần; hai khí Dương đương lớn ở dưới mà dần dần tiến lên. Dưới Đoái trên Khôn, tức là hòa đẹp mà thuận. Cứng được đạo giữa mà có ứng giúp, cho nên có thể cả hanh mà được chính đính, hợp với đạo trời. Cứng chính, mà hòa thuận, đó là đạo trời. Cái công hóa dục sở dĩ không tắt là vì cứng chính hòa thuận mà thôi. Dùng cách đó mà tới người tới việc, tới thiên hạ, thì không cái gì không cả hanh mà được chính đính. Hai khí Dương mới sinh, là lúc khí Dương đương lớn dần dần, thánh nhân răn sẵn mà rằng: “Khí Dương tuy là đương lớn, nhưng đến tám tháng thì nó tiêu đi mà hung”. Tám tháng chỉ về tám tháng khí Dương sinh ra, khí Dương bắt đầu sinh tự quẻ Phục, từ quẻ Phục đến quẻ Độn, tất cả tám tháng, tức là tự tháng kiến tý [2-Tức tháng mười một âm lịch] đến tháng kiến vị [3-Tức tháng sáu âm lịch], hai khí Âm lớn lên mà khí Dương tiêu đi, cho nên nói rằng: “Tiêu đi không lâu”. Nói về hai khí Âm Dương, thì sự tiêu lớn như lần vòng tròn, không thể thay đổi. Nói về nhân sự, thì Dương là quân tử. Âm là tiểu nhân, đương khi đạo của quân tử lớn lên, thánh nhân răn sẵn, khiến cho người ta biết rõ cái lẽ “quá cực thì hung”, mà lo lắng ngăn ngừa, thường thường không đến đầy quá, thì không đến nỗi bị hung.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu dùng thể quẻ để thích tên quẻ. Câu thứ hai dùng đức quẻ, thể quẻ để nói cái hay của quẻ. Đương lúc đức cứng lớn lên, lại có được cái hay ấy, cho nên lời chiêm của nó như câu thứ ba. Câu thứ tư ý nói vận trời như thế, nhưng đấng quân tứ nên biết răn sợ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch thượng hữu địa, Lâm, quân tử dĩ giáo tư vô cùng, dung bảo dân vô cương.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên chằm có đất là quẻ Lâm, đấng quân tử coi đó mà tứ dậy không cùng, dong giữ dân không bờ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên chằm có đất, tức là bờ chằm, chỗ khoảng nước vậy. Các vật tới cùng ngậm chứa với nhau không gì bằng nước có đất, cho nên trên chằm có đất là quẻ Lâm. Đấng quân tử coi Tượng thân tới thì tứ dậy không cùng. Nghĩa là thân tới với dân, thì có ý tứ dạy dẫn cho họ. Không cùng tức là không hề chán nản; coi Tượng ngậm chứa thì có lòng dong giữ cho dân; không bờ tức là không có bờ ngăn. Ngậm chứa có ý rộng lớn, cho nên là nghĩa không cùng không bờ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đất tới với chằm là trên tới dưới. Hai điều đó đều là việc bậc trên tới với bậc dưới. “Dậy không cùng” là quẻ Đoái, “chứa không bờ” là quẻ Khôn.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Địa Lôi Phục-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Phục- Qua bĩ cực này sẽ đến thái lai. Thời kỳ quá độ, bỏ cũ thay mới, xuất phát lại, vạn vật đổi mới, tiên đồ rộng mở. Phòng ngự là phản công. Cần nghị lực và nhẫn lại. báo có sự thuận lợi, tiến triển, tự do hành động không bị phiền phức, có bạn bè hướng tới mình, ít bị sai lầm.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: bắt đầu tốt dần nhưng chậm, phải kiên nhẫn, đừng làm tình thế xấu đi
● Hy vọng: có, nhưng phải tốn thời gian mới có
● Tài lộc: có nhưng phải chờ đợi
● Sự nghiệp: khó khăn vất vả bớt dần, kết quả có khá lên
● Nhậm chức: cần kiên nhẫn sẽ có chức vị tốt
● Nghề nghiệp: thay đổi hay không thay đổi như nhau
● Tình yêu : diến biến tự nhiên có thể thành công
● Hôn nhân: gặp trở ngại kiên nhẫn có thể thành
● Đợi người: sẽ tới nhưng muộn
● Đi xa: được, giữa chừng có thể quay về
● Pháp lý: kéo dài, cuối cùng giành phần thắng
● Sự việc: cần giải quyết từ từ
● Bệnh tật : dây dưa, tái phát
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: có thể tìm lại
● Người ra đi: có đi có về sớm
Quẻ: Địa Lôi Phục - Khôn trên; Chấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Phục, Tự quái nói rằng: Vật không trọn hết, sự đẽo đã cùng ở trên, thì quay xuống dưới, cho nên tiếp quẻ Phục [1-Chữ 後 (Phục) nghĩa là trở lại]. Vật không có lẽ đẽo hết, cho nên sự đẽo cùng cực thì phải trở lại, Âm cực thì Dương sinh, Dương bị đẽo cùng cực ở trên mà quay xuống dưới, vì vậy quẻ Phục mới nối quẻ Bác. Nó là quẻ một hào Dương sinh ở dưới năm hào Âm, đó là Âm cực mà Dương trở lại. Trong một năm, Âm thịnh đã cực, ngày Đông chí thì một khí Dươmg lại sinh ra ở trong đất, cho nên là quẻ Phục. Dương là đạo đấng quân tử, khí Dương tiêu cực mà lại trở lại, tức là đạo đấng quân tử tiêu đến cùng cực mà lại lớn lẻn, cho nên là nghĩa “trở lại đường thiện”-
LỜI KINH
Dịch âm. - Phục hanh xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu.
Dịch nghĩa. - Quẻ Phục hanh, ra vào không tật, bạn đến không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phục hanh nghĩa là đã trở lại thì hanh thông. Khi Dương đã sinh ở dưới, dần dần hanh thịnh mà sinh nuôi muôn vật; đạo đấng quân tử đã trở lại thì dần dần hanh thông, tưới tắm cho thiên hạ, cho nên quẻ Phục có lẽ hanh thịnh. - Ra vào không tật: Ra vào chỉ về sinh lớn, lại sinh ở trong là vào; lớn tiến ở ngoài là ra, nói “ra” trước, là nói cho thuận mà thôi, khí Dương sinh ra, không phải là tự bên ngoài. Đến ở bên trong gọi là vào. Vật mới sinh khí nó rất nhỏ, cho nên phần nhiều hay gian truân, Dương mới sinh khí nó rất nhỏ, cho nên phần nhiều hay bị gẫy. Khí Dương mùa xuân phát ra khí Âm lạnh bẻ gẫy, cứ coi cây cỏ về lúc sớm tối có thể thây rõ. “Ra vào không tật” nghĩa là cái khí Dương nhỏ sinh rồi lớn, không có cái gì hại nó. Đã không có cái gì hại nó mà loại của nó dần dần tiến đến thì là sắp sửa hanh thịnh, cho nên không lỗi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phản phúc kỳ đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Lật đi lật lại thửa đạo, bảy ngày lại trở lại, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ý nói cái đạo tiêu, lớn, lật đi, lặt lại, đắp đổi mà đến, khi Dương tiêu đi, đến bảy ngày mà lại trở lại. Quẻ Cấu là Dương mới tiêu, bảy lần biến mà thạnh quẻ Phục, cho nên nói rằng bảy ngày, nghĩa là bảy lần đổi. Quẻ Lâm nói rằng: “Tám thống có hung^, nghĩa là từ lúc Dương lớn đến lúc Âm lớn trải tám tháng vậy. Dương tiến thì Âm lui, đạo đấng quân tử lớn lên thì đạo kẻ tiểu nhân tiêu đi, cho nên lợi có thửa đi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Phục là Dương lại sinh ở dưới, đẽo hết thì là quẻ thuần Khôn, tức quẻ thuộc về tháng mười, mà khi Dương đã sinh ở dưới, chứa lại hơn tháng, rồi sau cái thể một phần khí Dương mới thành mà lại trở lại, cho nên tháng mười một, về quẻ là Phục, vì rằng khi đã đi lại trở lại, cho nên cái đạo hanh thông. Lại, trong Chấn ngoài Khôn, có Tượng “Dương động ở dưới mà theo đường thuận đi lên, cho nên lời chiêm của nó là ”mình ra vào đã được không tật, thì bè loại đi đến cũng không được lỗi”. Lại, vì tháng năm quẻ Cấn, một phần Âm mới sinh, đến đây là bảy hào, mà một phần Dương lại trở lại, đó là sự tự nhiên trong cuộc vận hành của trời. Nhưng lời Chiêm của nó là “lật đi lật lại thửa đạo, đến bảy ngày nên được trở lại”. Lại, vì đức cứng đang lớn lên, cho nên lời Chiêm của nó là “lợi có thửa đi”. Lật đi lật lại có thửa đạo, đến bảy ngày mới được trở lại”. Lại, vì đức cứng đang lớn lên, cho nên lời Chiêm của nó là “lợi có thửa đi”. “Lật đi lật lại thửa đạo” là ý “đi mà lại lại, lại mà lại đi”. Bảy ngày là kỳ trở lại của sự xem.
LỜI KINH
Dịch âm. - Táohn viết: Phục hanh, cương phản, động nhi dĩ thuận hành, thị dĩ xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Phục hanh là cứng trở lại; động mà thấy sự thuận đi lên; cho nên ra vào không tật, bạn đến không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phục hanh nghĩa là đức cứng trở lại mà hanh, Dương cứng tiêu đã cùng cực mà lại trở lại, đã trở lại thì dần dần thịnh mà hanh thông. “Động mà lấy sự thuận đi lên, cho nên ra vào không tật, bạn đến không lỗi” là nói về tài của quẻ, tức là nói cái cớ tại sao mà thế. Dưới động mà trên thuận, đó là “động mà lấy sự thuận đi lên”, Dương cứng trở lại mà động bằng cách xuôi thuận, cho nên được ra vào không tật, bạn đến mà không lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy đức quẻ mà nói.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phản phúc kỳ đạo, thất nhật lai phục, thiên hành dã.
Dịch nghĩa. - Lật đi lật lại thửa đạo, bảy ngày lại trở lại, vận trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Âm Dương tiêu sinh, vận trời thế đó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi hữu du vàng, cương trưởng dã.
Dịch nghĩa. - Lợi có thửa đi, cứng lớn vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ mà nói. Đã sinh ra thì phải dần dần lớn lên.
LỜI KINH
Dịch âm. - Phục kỳ hiến thiên địa, tạo hóa chi tâm hồ.
Dịch nghĩa. - Quẻ Phục thửa thấy lòng của trời đất tạo hóa chăng?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cái đạo của nó trở đi trở lại, đắp đổi tiêu đi, đắp đổi sinh ra, bảy ngày mà lại trở lại là cuộc vận hành của trời như thế. Tiêu, lớn nhân nhau, đó là lẽ của trời đất. Đạo của đấng quân tử, Dương cương lớn được, cho nên lợi có thửa đi. Một phần Dương trở lại ở dưới, đó là lòng của trời đất, Tiên nho đều cho là tĩnh thì thấy lòng trời đất, nhưng không biết rằng đầu mối sự động, tức là lòng của trời đất đó. Không phải là kẻ hiểu đạo, thì biết sao được lẽ ấy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dưới những phần Âm chồng chất, một phần Dương lại sinh ra, lòng sinh vật của trời đất đã hầu tắt đứt, đến đó lại thấy; ở người ta thì là tĩnh cực mà động; ác cực mà thiện, cái lòng sẵn có của mình hầu tắt mà lại hiện ra. Trình Tử bàn về lẽ đó kỹ rồi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi tại địa trung, Phục, Tiên vương dĩ chí, nhật bế quan, thương lữ bất hành, hậu bất tỉnh phương.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sấm ở trong đất, là quẻ Phục, đấng Tiên vương coi đó mà ngày chí đóng cửa ải, kẻ thương lữ [2-Thương là người buôn bán, lữ là kẻ đi đường] không đi, các vua không xét các phương.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm là Âm Dương xát nhau mà thành tiếng, đương lúc khí Dương còn nhỏ, chưa thể phát ra. Sấm ở trong đất là lúc khí Dương mới trở lại. Khi Dương mới sinh ở dưới mà còn rất nhỏ, yên lặng mà sau mới lớn được. Đấng Tiên vương thuận theo dạo trời, khi ngày “chí”, khí Dương mới sinh, yên lặng mà nuôi nó, cho nên đóng cửa ải lại, khiến kẻ thương lữ không được đi, ông vua không coi xét bốn phương, đó là xem tượng quẻ Phục mà thuận theo đạo trời vậy. Ở thân một người cùng vậy, nên yên lặng để nuôi khí Dương.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đó là yên lặng để nuôi khí Dương. Thiên Nguyệt lệnh, tháng ấy phải trai giới che mình, để đợi sự định đoạt của khí Âm khí Dương.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Khôn Vi Địa-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Khôn-Thuận tự nhiên, thích ứng thay đổi: Vận thăng giáng bất định, lấy nhu khắc cương, tĩnh chế động vận may tự sẽ đến. nên đi theo người khác thì được, mình khửi xướng thì sai lầm. Đi về Tây Nam có bạn, về phía Đông Bắc thì mất bạn. Không nên lộ mình và nôn nóng, cần chờ thời cơ.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: Nóng vội sẽ hỏng cả khí vận bản thân. Nên lắng nghe ý kiến người trên và cùng hành động với số đông.● Hy vọng:Không thể thành công vì mê muội, hãy hạ thấp mục tiêu sẽ thành.
● Tài lộc: Chưa đến, phải thay đổi sách lược.
● Sự nghiệp: chưa có thời cơ, có thể chung vốn với mọi người.
● Nhậm chức: chưa như ý, cần có sự giúp đỡ từ phía trên.
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề.
● Tình yêu: Nữ có thể thành công, nam tốn nhiều thời gian.
● Hôn nhân: Cần thời gian tìm hiểu mới thành.
● Đợi người: Không đến
● Đi xa: nên bỏ ý định.
● Pháp lý: bất lợi, nên hoà giải.
● Sự việc: nên uỷ quyền cho người khác giải quyết.
● Bệnh tật: bệnh nặng.
● Thi cử: kết quả không như ý muốn.
Xem chi tiết: tại đây
Quẻ: Phong Sơn Tiệm – Tốn trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tiệm. Tự quái nói rằng: các vật không thể đậu mãi, cho nên tiếp đến quẻ Tiệm [1*Chữ 漸 (tiệm) nghĩa là dần dần]. Tiệm là tiến lên, đậu ắt có tiến, đó là lẽ co duỗi, tiêu sinh [2-Tức là tiêu đi, sinh ra]. Cái của sự đậu sinh ra, cũng là sự tiến, cái phản lại sự đậu, cũng là sự tiến vì vậy quẻ Tiệm mới nối quẻ Cấn. Tiến bằng thứ tự là dần dần, ngày nay người ta bảo tiến thong thả là tiến dần dần, vì không vượt qua thứ tự mới thong thả. Nó là quẻ trên Tốn dưới Cấn, trên núi có cây, cây cao nhân núi, sự cao của nó có chỗ nhân theo. Sự cao của nó có nhân thwo,, tứ là sự tiến của nó có thứ tự. Vì vậy mới là quẻ Tiệm.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tiêm, nữ qui, cát, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tiệm, con gái về, tốt, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tìa quẻ gồm nghĩa chữ “tiệm” mà nói. Kiền Khôn viến đi là Tốn, Cấn, Tốn, Cấn chồng lại là quẻ Tiệm. Nói về thể quẻ Tiệm, thì hai hào giao nhau, bởi sự giao nhau của hai hào ấy mà sau cin trai con gái đều được chính ngôi; hai hào đầu và hào chót tuy không đáng ngôi, nhưng cũng Dương trên Âm dưới, tôn ty chính đáng con trai con gái bên nào được chính đạo của bên ấy, như thế cũng là được ngôi, rõ ràng đối nhau với quẻ Qui muội. Con gái về nhà chồng, có thể chính đính như thế thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tiệm là tiến lên dần dần. Nó là quẻ đậu ở dưới mà nhún ở trên, tức là nghĩa không tiến gấp vội, có Tượng con gái về nhà chồng. Lại, tức hào Hai đến hào Năm, ngôi đều được chính, cho nẻn lời Chiêm của nó là con gái về nhà chồng thì tốt, và lại răn rằng: lợi về chính bền.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: Tiệm chi tiến dã, nữ qui cát dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tiệm là tiến vậy, con gái về nhà chồng tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Theo nghĩa quẻ Tiệm mà tiến, tức là sự tốt của con gái về nhà chồng, nghĩa là chính đáng mà đi dần dần vậy. Con gái về nhà chồng là chỉ nói về việc lớn hơn thôi, các sự tiến khác cũng thế cả.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ 之 (chi) ngờ thừa, hoặc chữ 漸 (tiệm).
LỜI KINH
Dịch âm.- Tiến đắc vị, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Tiến được ngôi, đi có công vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong thì dần tiến mà Âm Dương đều được ngôi, tức là tiến mà có công.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tiến dĩ chính, khả dĩ chính bang dã.
Dịch nghĩa. - Tiến bằng cách chính đáng, có thể chính nước vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lấy đạo chính đáng mà tiến lên, có thể làm cho chính đính nước nhà đến cả thiên hạ. Phàm tiến về việc, tiến về đức, tiền về ngôi, cái gì cũng nên dùng cách chính đáng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy sự biến đổi của quẻ mà thích hai chữ “lợi trinh”. Bởi vì quẻ này, một phần do quẻ Hoán lại, thì hào Chín tiến lên ngôi
Ba, một phần do quẻ Lữ lại, thì hào Chín tiến lên ngôi Năm, đều là được ngôi đáng.
LỜI KINH
Dịch âm.- Kỳ vị, cương đắc trung dã.
Dịch nghĩa. - Thửa ngôi, cứng được giữa vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chữ “ngôi” này chỉ về hào Năm lấy chất Dương cứng trung chính được ngôi tôn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thế quẻ mà nói và chỉ về hào Chín Năm.
LỜI KINH
Dịch âm.- Chỉ nhi tốn, động bất cùng dã.
Dịch nghĩa. - Đậu mà nhún, động chẳng cũng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong ngừng đậu ngoài nhún thuận, đậu là Tượng yên tĩnh, nhún là nghĩa hòa thuận. Người ta tiến lên, nếu theo sự động của lòng dục, thì sẽ nóng nảy mà không thể dần dần, cho nên có sự khốn cùng. Ở nghĩa quẻ Tiệm, trong đậu im mà ngoài nhún thuận, cho nên sự tiến động của nó không bị khốn cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đậy lấy đức quẻ nói về nghĩa dần tiến.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Sơn thượng hữu mộc, Tiệm, quân tử dĩ cư hiền đức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên núi có cây là quẻ Tiệm, đấng quân tử coi đó mà chứa đức hiền, làm hay thói tục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên núi có cây, sự cao của nó có chỗ nhân theo, đó là nghĩa dần dần. Đấng quân tử coi Tượng “dần dần” mà chứa đức hiền thiện, làm tốt cho phong tục. Người ta tiến về hiền đức ắt, phải tập dần mới được, không thể vượt qua chừng độ mà tới ngay. Ở mình còn thế, thì dạy bảo người, nếu không dùng cách dần dần sao được? Dời thói dổi lễ, không thể là việc một sớm một tối có thể làm xong, cho nên làm hay phong tục cũng phải dần dần.
Xem đầy đủ chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Phong Trạch Trung Phu
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Trung phu-Thành tín, cảm hóa vạn vật. Thành tâm đối đãi mọi người. Vận thuận lợi quyết định bằng giao tiếp. bằng lòng chí thành nên đã vượt qua được sự khó khăn, cảm hóa được mọi người.
- Tốn-Nhập, Bắp đùi, là cây, là gió, là trưởng nữ, là giây thẳng, là thợ, là trắng, là dài, cao, là tiến thoái, là không kết quả, là thối. Nếu là người ít tóc, là trán rộng, là mắt long trắng nhiều, buôn bán phát đạt. Cuối cùng là táo (tức nóng, gấp).
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang an ổn. Đề phòng sự mất yên ổn vì quan hệ nam nữ
● Hy vọng: Phải gắng sức mời như ý
● Tài lộc: có khoản tiền nhỏ
● Sự nghiệp: sẽ thành công nếu kiên trì, thành thực
● Nhậm chức: có địa vị tốt
● Nghề nghiệp: bất lợi khi chuyển nghề
● Tình yêu: đôi bên chân thành, gắn bó
● Hôn nhân: có thể thành lương duyên
● Đợi người: đang tới
● Đi xa: thuận lợi, trở về bình an
● Pháp lý: hòa giải sẽ tốt
● Sự việc: thể hiện sự thiện chí sẽ giải quyết xong
● Bệnh tật: thuyên giảm nhanh
● Thi cử: kết quả tốt
● Mất của: tìm được
● Người ra đi: biết được chỗ người ra đi
Quẻ: Phong Trạch Trung Phù - Tốn trên; Đoài dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Trung Phu, Tự quái nói rằng: Dè dặt mà tin đó, cho nên tiếp đến quẻ Trung Phu [1-Chữ 中 孚 (trung phu) nghĩa là giữa tin hay trong tin]. Dè dặt là làm ra tiết chế, khiến cho không đến quá vượt, có tin mới thực hành được. Người trên biết tin mà giữ, kẻ dưới biết tin mà theo, tức là dè dặt mà tin, vì vậy quẻ Trung Phu mới nối quẻ tiết. Nó là quẻ trên Chằm là gió, gió đi trên chằm, mà cảm với trong nước, là Tượng “Trong tin”. Cảm nghĩa là cảm mà động. Trong ngoài đều đặc mà giữa rỗng, là Tượng “giữa tin”. Lại hai hào Năm và Hai đề là chất Dương, giữa đặc, cũng là nghĩa tin. Ở hai thể thì giữa đặc, ở cả quẻ thì giữa rỗng; giữa rỗng là gốc sự tin, giữa đặc là chất sự tin.
LỜI KINH
Dịch âm. – Trung phu, đôn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.
Dịch nghĩa. – Quẻ Trung phu: Cá lợn tốt, lợi sang sông lớn, lợi về chính bền.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Lợn nóng nảy, cá lờ mờ, là giống khó cảm trong loài vật. Sự tin có thể cảm đến cá lớn, thì không đâu không tới, vì vậy mới tốt. Lòng trung tín có thể xéo lên nước sôi lửa bong huống chi sang sông, cái đạo giữ đức tin, cốt ở kiên chính, cho nên lợi về chính bền.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Phu là tin. Nó là quẻ hai hào Âm ở trong, bốn hào Dương ở ngoài, mà hai hào Dương Hai và năm đều được chỗ giữa. Nói về quẻ giữa rỗng, nói về hai thể thì giữa đặc, đều là Trượng phu tín. Lại cây ở trên Chằm, ngoài đặc trong rỗng đều là Tượng thuyền lái. Rất tin có thể cảm được cá lợn, có thể qua chỗ hiểm nạn, mà không thể làm cho sự chính bền lớn ra cho nên kẻ xem hễ có thể đem đến sự cảm ứng của loài lớn cá thì tốt mà lợi về sang sông lớn, lại ắt lợi về chính bền.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thoán viết: Trung phu, nhu tại nội nhi cương đắc trung. Duyệt nhi tốn, phu nãi hóa bang dã; đôn ngư cát, cập đồn ngư dã; lợi thiệp đại xuyên, thừa mộc châu hư dã; trung phu dĩ lợi trinh nãi ứng hồ thiên dã.
Dịch nghĩa. – Lời thoán nói rằng: Quẻ Trung Phu, mềm ở trong mà cứng được giữa, đẹp lòng mà nhún, tin bèn hóa nước vậy: Lợn cá tốt, tin kịp lợi cá vậy; lơi sang sông lớn, cưỡi cây thuyền không vậy; giữ tin đề lợi về chính bền, bèn ứng với trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Hai hào mêm ở trong, giữ rông là Tượng thành thực; hai hào cứng được chỗ giữa của hai thể trên duwois, giữa đặc là Tượng đức tin, vì vậy quẻ này mới là quẻ Trung phu. Trên nhún dưới đẹp lòng, tức là người trên đem lòng chí thành mà nhún thuận với kẻ duwois có đức tin để đẹp lòng theo với người trên, như thế thì sự tin mới có thể hóa được bang quốc. Sự tin có thể tới loài lợn cá, tức là là tin tột bậc, vì vậy mới tốt. Dụng sự trung tín mà vượt chốn hiểm nạn thì, cái lợi đó như thể cưỡi cậy vượt ra mà dùng thuyền không vậy. Thuyền không thì không lo chìm đắm, quẻ này rồng giữa là Tượng thuyền không. Giữa tin mà chính bền, thì ứng với trời, đạo trời chỉ có chính bền mà thôi.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Trạch thượng hữu phong, Trung phu, quân tử di nghị ngục hoãn tử.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Trên chằm có gió là quẻ Trung phu. Đâng quan tử coi đó mà bàn việc ngục, hoãn tội chết.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trên chằm có gio, cảm ở trong chằm. Thể nước trông không, cho nên gió mới vào được; lòng người trống không, cho nên các việc mới cảm được. Gió động ở trong chằm cùng như đức tin cảm ở trong lòng, cho nên là Tượng “trung tín – giữa tin”. Đấng quân tử coi tượng đó để bàn việc ngục và hoãn tội chết. Đâng quân tử với sự bàn ngục, chỉ biết lòng thành thực mà thôi; với việc quyết đoán tội chết, cực kỳ thương xót mà thôi, cho nên thành ý thường cần được thư hoãn, thư hoãn là rộng rãi vậy. Với việc thiên hạ không việc gì không hết lòng thành thật của mình, bàn viejc ngục, hoãn tội chết là việc lớn nhất trong các việc đó.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Gió cảm nước nhận, là Tượng “giữa tin”, bàn việc ngục, hoãn tội chết, là ý “giữa tin”.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Thiên Trạch Lý
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Trắc trở, không nguy, có cảm giác sợ hãi, cần dũng cảm, kiên cường mới chiến thắng. Vận rơi vào tình trạng rất hợp lẽ cho mình, nên lấy sự nhu thuận mà ứng phó. Hiện đang có sự ủng hộ của người khác. Không bồng bột ứng xử để người có quyền lực với mình ghét bỏ. Nên hòa mình vào giúp đỡ người xung quanh thì kết quả tốt đến với mình.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: gặp nguy. Hết sức thận trọng. nên dựa vào người trên, cần chu đáo
● Hy vọng: chưa thực hiện được vì chưa nỗ lực lớn
● Tài lộc: không như ý
● Sự nghiệp: gian khó mà không xong
● Nhậm chức: khó như ý, phải chờ thời.
● Nghề nghiệp: chưa thích hợp chuyên nghề, cuối cùng xong
● Tình yêu: đôi bên chưa chín muồi
● Hôn nhân: tưởng thuận lợi, song khó thành
● Đợi người: chờ lâu, đến
● Đi xa: nên bỏ ý định vì sẽ gặp bất trắc
● Pháp lý: cố tránh để khỏi thất bại
● Bệnh tật: nhiều khó khăn khó giải quyết
● Thi cử: nguy, có biến chứng
● Mất của: bị vật khác che lấp
● Người ra đi: hiện chưa về
Quẻ: Thiên Trạch Lý - Kiền trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lý [1-Chữ 履(lý) nghĩa là giày lên, xéo lên]. Tự Quái nới rằng: Người ta chứa họp rồi mới có lẽ, cho nên tiếp đến quẻ Lý. Ôi, người ta họp lại, thì có lớn nhỏ, cao thấp, tốt xấu khác nhau, đó là người ta chứa họp, rồi mới có lễ, vì vậy quẻ Lý mới nối quẻ Tiểu súc. Lý tức là lễ, lễ là cái cái mà người ta xéo lên [2-Chữ “xéo lên” này nghĩa là theo đó mà đi, không phải có ý đầy đọa như chữ “xéo lên” mà ta vẫn nói]. Nó là quẻ trời nên chằm dưới, trời mà ở trên, chằm mà ở dưới, đó là phận trên dưới, là nghĩa tôn ty, lẽ phải như thế. Lễ là gốc của đạo làm người và là con đường người ta thường thường xéo lên, cho nên mới là quẻ Lý. Lý nghĩa là giầy, là bị giầy…Là kẻ mềm yếu mà giầy lên kẻ cứng mạnh cho nên là Lý. Không nói cứng giầy lên mềm mà nói mềm giầy lên cứng, là vì kẻ cứng cưỡi lên kẻ mềm tức là lẽ thường, không đáng nói. Cho nên trong Kinh Dịch chỉ nói kẻ mềm cưỡi kẻ cứng, không nói kẻ cứng cưỡi kẻ mềm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lý hổ vĩ, bất chất nhân, hanh!
Dịch nghĩa. - Xéo đuôi cọp, không cắn người, hanh!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Lý là đường người ta vẫn xéo, trời ở trên mà chằm ở dưới, lấy kẻ mềm bị gìầy xéo với kẻ cứng, trên dưới đều đúng nghĩa, là việc rất thuận, lẽ rất đáng, người ta cứ thế mà đi, tuy xéo vào chỗ nguy hiểm cũng không hại gì, cho nên xéo lên đuôi cọp mà không bị cắn, vì vậy mớihanh được.
Bản nghĩa của Chu Hy.- Đoái cũng là tên quẻ ba vạch, một vạch Âm hiện ở trên hai vạch Dương, cho nên đức nó là đẹp lòng, Tượng nó là chằm. “Lý” nghĩa là cố chỗ noi theo mà lên, Đoái mà gặp Kiền tức là hòa thuận đẹp lòng để theo sau kẻ cứng mạnh, có Tượng “xéo lên đuôi cọp mà không bị cắn”, cho nên quẻ Lý nó là Lý mà Chiêm thì thế. Người ta có thể như thế thì tuy ở chỗ hiểm nghèo cũng không hại gì.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Lý, nhu lý cương dã; duyệt nhi ứng hồ Kiền, thị dĩ lý hổ vĩ, bất chất nhân, hanh. Cương trung chính, lý đế vị bất khứu, quang minh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Lý là mềm xéo theo cứng. Đẹp lòng mà ứng với trời, thế cho nên xéo đuôi cọp, không cắn người, hanh. Dương cương trung chính, xéo ngôi vua mà không mỏi mệt, sáng láng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đoái là Âm mềm, xéo tựa Kiền là Dương cứng, đó là mềm xéo theo cứng. Đoái lấy đức đẹp lòng xuôi thuận ứng với Kiền là Dương cương mà xéo tựa nó, ấy là dưới thuận với trên, Âm vâng theo Dương, chính là lý chí trong thiên hạ. Xéo mà như thế, rất thuận rất đáng, tuy xéo đuôi cọp cũng không bị đau hại. Cứ thế xéo đi, sự hanh thông có thể biết chắc. Hào Chín Năm lấy đi đức Dương Cương trung chính, cao xéo ngôi vua mà không mệt mỏi, ấy sự rất khéo trong cách “xéo”, tức là kẻ sáng láng vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy.- Câu đầu dùng hai thể thích nghĩa tên quẻ, câu giữa dùng đức quẻ thích lời Thoán [3-Chỉ về lời Thoán của Văn Vương, tức câu 履虎尾,不唾⼈亨(lý hổ vĩ bất chất nhân, hanh)] câu cuối lại lấy thể quẻ nói rõ cho ra, có ý chỉ về hào Chín Năm.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Thượng thiên hạ trạch, Lý, quân tử dĩ biện thượng hạ, định dân chí.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên trời dưới chằm, là quẻ Lý, đấng quân vương coi đó mà phân biệt trên dưới, định chí dân.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trời ở trên, chằm ở dưới, tức là chính lý trong thiên hạ. Sự xéo đi của người ta cũng nên như thế, nên mới lấy tượng của nó mà làm quẻ Lý. Đấng quân tử theo Tượng quẻ Lý mà phân biệt phận của trên dưới, để định chí dân của mình.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Hỏa Trạch Khuê
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Khuê-Bất hòa quan điểm, lập trường sinh tranh chấp. Cần An phận thủ thường, cố tìm điểm chung, khéo léo dẫn dắt. Trên dưới không thông nhau, mọi việc bế tắc. Nếu làm việc nhỏ thì được.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: do phán đoán và tính sai lầm mà gặp khó khăn. Không nên tranh chấp, hãy thoát ra sự mâu thuẫn.
● Hy vọng: khó thành hiện thực.
● Tài lộc: không có.
● Sự nghiệp: có sai lầm dẫn đến thất bại.
● Nhậm chức: khó được như ý.
● Nghề nghiệp: giữ việc cũ thì hơn.
● Tình yêu: hai bên không hợp nhau.
● Hôn nhân: khó thành, không phải lương duyên.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: giữa đường gặp trở ngại.
● Pháp lý: nên hoà giải vì có cơ thất bại.
● Sự việc: cần tính toán kỹ.
● Bệnh tật: thay đổi phương án điều trị sẽ khỏi.
● Thi cử: kết quả xe với dự kiến.
● Người ra đi: không rõ mục đích.
Quẻ: Hỏa Trạch Khuê - Ly trên; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khuê. Tự quái nói rằng: Đạo nhà cùng ắt phải trái, cho nên tiếp đến quẻ Khuê [1-Chữ 睽(Khuê) nghĩa là trái lìa nhau]. Khuê nghĩa là trái, đạo nhà cùng thì sai trái lìa tan, lý ắt phải thế, cho nên sau quẻ Gia nhân tiếp đến quẻ Khuê. Nó là quẻ trên Ly dưới Đoái, lửa Ly bốc lên chằm Đoái thấm xuống, là nghĩa hai thể trái lìa nhau vậy. Lại, con gái giữa và út tuy là cùng ở mà chỗ về khác nhau, ấy là chí không cùng đi với nhau, cũng là nghĩa trái lìa.
LỜI KINH
Dịch âm. - Khuê, tiểu sự cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Khuê, việc nhỏ tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khuê là thì sai trái lìa tan, chẳng phải đạo tốt. Vì tài quẻ này, tuy ở thì “lìa” mà việc nhỏ thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Khuê là trái khác. Là quẻ trên lửa dưới chằm, tính trái khác nhau; con gái giữa, con gái út, chí không cùng về với nhau, cho nên là lìa. Nhưng lấy đức quẻ mà nói, thì trong đẹp lòng mà ngoài sáng sủa; lấy sự biến đổi của quẻ mà nói, thì: ở quẻ Ly lại, là hào mềm tiến lên ở ngôi Ba; ở quẻ Trung phu lại, là hào mềm tiến lên ở ngôi Năm, ở quẻ Gia nhân lại, thì gồm cả hai kiểu đó; lấy thể quẻ mà nói, thì, hào Sáu Năm được chỗ giữa mà phía dưới ứng vớí hào Chín Hai là hào cứng, cho nên lời Chiêm của nó không thể làm việc lớn, mà việc nhỏ còn có cách tốt.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết; Khuê, hỏa động nhi thượng, trạch động nhi hạ, nhị nữ đồng cư, kỳ chí bất đồng hành.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Khuê, lửa động mà lên, chằm động mà xuống, hai gái cùng ở, mà chí họ không cùng đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Lời Thoán trước thích nghĩa chữ “khuê”, thứ nói tài quẻ, chót nói về cách hợp lại sự lìa tan mà ngợi khen công dụng về thì đại của nó lớn lao. Tính lửa động mà lên, tính chằm động mà xuống, tính của hai vật trái khác hẳn nhau, cho nên là lìa, hai gái giữa út, tuy là cùng ở, mà chí họ không cùng đi, cũng là nghĩa lìa. Con gái, lúc nhỏ còn ở chung, lúc lớn, ai về nhà chồng nấy, thế là chí họ khác nhau. Nói “lìa” là gốc chung nhau, nếu gốc không chung nhau thì không phải là lìa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy tượng quẻ thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Duyệt nhi lệ hồ minh, nhu tiến nhi thượng hành, đắc trung, nhi ứng hồ cương, thị dĩ tiểu sự cát.
Dịch nghĩa. - Đẹp lòng mà bám vào sáng, mềm tiến mà đi lên, được giữa mà ứng với cứng, vì vậy việc nhỏ tốt.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tài quẻ như thế, cho nên việc nhỏ tốt. Đoái là đẹp lòng, Ly là bám vào, lại là sáng, cho nên mới là đẹp lòng phụ bám vào chỗ sáng. Hễ quẻ Ly ở trên, lời Thoán muốn cho thấy rõ chất mềm ở ngôi tôn, thì nói “mềm tiến mà đi lên”, tức như quẻ Tấn quẻ Đinh đó. Đương thời trái lìa, hào Sáu Năm lấy chất mềm ở ngôi tôn, có cái hay về sự đẹp lòng thuận bám chỗ sáng, lại được trung đạo mà ứng với kẻ cứng, tuy không thể làm hợp sự lìa của thiên hạ, làm nên việc lớn trong thiên hạ, nhưng cũng có thể làm được việc nhỏ. Thế là việc nhỏ thì tốt. Hào Năm lấy chất sáng mà ứng với kẻ cứng, sao lại không thể đem lại được sự tốt lớn? Đáp rằng: Hào Năm là hạng Âm mềm, tuy có ứng với hào Hai, mà trong thì “lìa” cái cách chung cùng với nhau chưa được sâu bền, cho nên hào Hai ắt phải “gặp chúa ở ngõ”, hào Năm “cắn da”, thì không có lỗi. Trong thiên hạ lìa tan ắt phải vua tôi đều là Dương cương trung chính, thật lòng hiệp sức, thì mới có thể hợp được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy đức quẻ, sự biến đổi của quẻ, và thể quẻ mà thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa khuê nhi kỳ sự đồng dã, nam nữ khuê nhi kỳ chí thông dã, vạn vật khuê nhỉ kỳ sự loại dã. Khuê chi thì dụng đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Trời đất lìa nhau mà thửa việc cùng nhau, trai gái lìa nhau mà thửa chi thông nhau vậy, muôn vật lìa nhau mà thửa việc giống nhau vậy. Thời dụng của quẻ Khuê lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Suy chỗ đồng nhau của vật lý để tỏ thời dụng của quẻ Khuê, đó là cái đạo thánh nhân làm hợp sự lìa. Thấy đồng nhau là đồng nhau, đó là trí thức của bọn thế tục, thánh nhân thì biết rõ chỗ vốn đồng nhau của vật lý, vì vậy mới có thể thông đồng thiên hạ, hòa hợp muôn loài. Lấy trời đất muôn vật mà nói cho rõ, thì: trời cao đất thấp, thể nó lìa nhau, nhưng Dương xuống Âm lên, hòa hợp nhau mà làm nên việc hóa dục thì vẫn đồng nhau, sinh vật khác nhau muôn vẻ lìa nhau, nhưng được sự hòa hợp của trời đất, bấm thục khí của Âm Dương thì vẫn giống nhau. Vật tuy khác mà lý vốn giống nhau. Cho nên lớn như thiên hạ, nhiều như các sinh vật, lìa tan muôn ngả đấng thánh nhân có thể làm cho đồng nhau. Ở thì quẻ Khuê, hợp sự, dùng của quẻ Khuê, việc đó rất lớn, cho nên nói rằng “lớn vậy thay”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cực cái lý của nó, mà người khen thêm.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Thượng hỏa, hạ trạch, Khuê, quân tử dĩ đồng nhi dị.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên lửa, dưới chằm, là quẻ Khuê. Đấng quân tử coi đó để cùng mà khác.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên lửa dưới chằm, tính của hai vật trái khác nhau, vì vậy mới là tượng lìa cách. Đấng quân tử coi Tượng lìa khác nhau đó, mà trong chỗ đại đồng, biết cái nên khác nhau. Ôi, thánh hiền ở đời, về sự thường của “lẽ người”, chẳng cái gì mà chẳng đại đồng với thế tục, nhưng chỗ đồng nhau đó, có khi lại riêng khác họ. Nghĩa là về sự “cẩu đạo thường của trời cho” thì đồng nhau, mà về sự lỗi lầm của thế tục thì khác nhau. Không thể đại đồng, tức là kẻ thế tục quen làm xằng, cốt ở đồng nhau mà biết khác nhau thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hai quẻ hợp thể mà tính không giống nhau.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Sơn Trạch Tổn
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tổn-Hung trước, Cát sau. Kiên trì không nản, công thành danh toại. Tượng trưng cho tổn thất, phá hỏng, phải biết tuỳ thời, giảm cương nếu cương, giảm nhu nếu như, nếu vơi quá phải làm cho bớt vơi đi, nếu sáng quá hãy giảm sáng đi… nghĩa là hãy quay về với cái dung dị, với cái quân bình thì mọi việc mới ổn. nên biết mất, biết hy sinh, biết chịu thiệt thì mới thành công.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang suy vi, tổn thất nhưng sắp chuyển sang vận tốt. Có nền tảng cho phát triển trong tương lai.
● Hy vọng: không nóng vội, chờ ít lâu sau sẽ được như ý.
● Tài lộc: hiện chưa có, nếu an tâm chờ đợi sẽ như ý.
● Sự nghiệp : chưa gặp thời cơ
● Nhậm chức: dần dần sẽ có địa vị cao.
● Nghề nghiệp: chưa thể chuyển nghề, nên làm việc cũ.
● Tình yêu: không thành.
● Hôn nhân: khó thành.
● Đợi người : đến muộn.
● Đi xa : bình thường.
● Pháp lý: nên hoà giải vì bất lợi.
● Bệnh tật: lâu khỏi.
● Thi cử: kết quả không như ý.
● Mất của: không tìm được.
● Người ra đi: không lợi.
Quẻ: Sơn Trạch Tổn - Cấn trên ; Đoái dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tổn. Tự Quái nói rằng: Giải nghĩa là hoãn, hoãn thì có mất, cho nên tiếp đến quẻ Tổn [1-Chữ 损 (tổn): Nghĩa là bớt đi, là hao tổn, trái với chữ 益 (ích)]. Hoãn thì ắt có cái bị mất, mất thì là tổn, vì vậy quẻ Tổn mới nối quẻ Giải. Nó là quẻ Cấn trên Đoái dưới, thể núi cao, thể chằm sâu, dưới sâu thì trên càng cao, là nghĩa ích trên tổn dưới. Lại, chằm ở dưới núi, khí nó thông lên, nhuần tới cây cỏ trăm vật, đó là tổn dưới mà ích trên. Lại, dưới là quẻ Đoái chủ sự đẹp lòng, ba hào đều ứng lên trên, đó là chỉ thích phụng thửa người trên, cũng là nghĩa tổn dưới ích trên. Lại, quê Đoái ở dưới mà thành quẻ Đoái, là do ở hào Sáu Ba biến đi, quẻ Cấn ở trên mà thành quẻ Cấn, là do ở hào Chín Trên biến đi hào Ba vốn cứng mà hóa mềm, hào Trên vốn mềm mà hóa cứng, cũng là nghĩa tổn dưới ích trên. Bớt của trên mà thêm cho dưới là quẻ Ích, lấy của dưới mà thêm cho trên là quẻ Tổn. Kẻ ở trên người ta thi ân tới kẻ dưới là ích, lấy của kẻ dưới để thêm cho mình là tổn. Ví như đầy lũy, lấy bớt trên để đắp đầy nền gốc, thì trên dưới yên chắc, há chẳng phải ích? Lấy ở dưới để làm cho trên cao thêm, thì sẽ nguy đồ tức thì, há chẳng phải là tổn. Cho nên quẻ Tổn là nghĩa tổn dưới ích trên, quẻ Ích thì trái hẳn thế
LỜI KINH
Dịch âm. - Tổn hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh, lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Tổn, có tin, cả tốt, không lỗi, khá trinh, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tổn là giảm bớt, phàm việc nén bớt sự thái quá, để tới nghĩa lý, đều là đạo “bớt” vậy. Đạo “bớt” ắt có thành tín, nghĩa là chí thành thuận lý vậy. Bớt mà thuận lý thì cả thiện mà tốt. Cái đã bớt mà không quá sai, thì có thể chính bền, thường làm mà lợi có thửa đi vậy. Sự bớt của người ta hoặc thái quá hoặc bất cập, hoặc bất thường, đều không hợp chính lý, không phải có tin, thì không tốt mà có lỗi, không phải cái đạo có thể chính bền, thì không nên làm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tổn là giảm bớt. Nó là quẻ bớt vạch Dương trên của quẻ dưới, thêm vào vạch Âm trên của quẻ trên, lấy bớt sự sâu của chằm Đoái, thêm vào sự cao của núi Cấn, tổn dưới ích trên, tổn trong ích ngoài, là Tượng đẽo gọt cửa dân để cung phụng vua, vì vậy mới là quẻ Tổn. Bớt cái đáng bớt mà có tin tín, thì Chiêm của nó sẽ ứng với bốn điều dưới (tức là cả tốt, không lỗi có thể chính bền, lợi có thửa đi).
LỜI KINH
Dịch âm. - Hạt chi dụng? Nhị quĩ khả dụng hưởng.
Dịch nghĩa. - Chưng dùng gì? Hai quĩ [2-Coi lời chua quẻ khảm] khá dùng hưởng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Tổn là bớt Cái thái quá mà tới mực vừa phải, bớt cái nổi nênh, ngành ngọn mà tới chỗ rễ gốc đầy đặc vậy. Đấng thánh lấy nhân lấy sự “thà kiệm” làm gốc của lẽ, cho nên vì sự “bớt” mà phát minh cái nghĩa của nó. Lấy sự cúng tế mà nói, cái lễ cúng tế, nghi văn rất phiền phức, nhưng phải lấy sự thành kính làm gốc. Lắm nghi tiết nhiều đồ vật là để đưa sức lòng thành kính đố. Nếu sự trang sức quá sự thành kinh, thì là giả dếỉ.
Bởi sự trang sức là để cho còn sự thành kính, cho nên nói rằng: “Chưng dùng gì? Hai quĩ, khá dùng hưởng”. Tần tiện đến hai quĩ, mà có thể dùng để cúng tế, ý nói cốt ở lòng thành mà thôi. Lòng thành tức là cái gốc. Tai hại của thiên hạ, không cái gì không do ở ngọn lớn quá: nóc cao tường trạm, gốc ở cửa nhà, ao rượu rừng thịt, gốc ở ăn uống, dâm bạo tàn nhẫn gốc ở hình phạt, cũng binh độc võ, gốc ở đánh dẹp, phàm lòng ham muốn cúa người ta mà đến thái quá, đều gốc ở sự phụng dưỡng, rồi ngành ngọn của nố xa đi, thì thành tai hại. Đấng tiên vương hạn chế cái gốc, ấy là lẽ trời, người sau trôi theo cái ngọn, ấy là lòng ham muốn của người. Nghĩa quẻ Tổn là bớt lòng ham muốn của người để khôi phục lẽ trời mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ý nói nên bớt đi, dù rất bạc cũng không hại gì.
Lời bàn của Tiên Nho. - Từ Tiến Trai nói rằng: “Chưng dùng gì” là lời hỏi “Hai quĩ, khá dùng thưởng”, là lời đáp. Kẻ dưới cung phụng người trên, đều gọi là “hưởng”, không phải “hưởng” là cúng tế.
Hồ Vân Phong nói rằng: Người trên có khi vì bất đắc dĩ mà lấy bớt của kẻ dưới, không phải để cung phụng cho mình. “Chưng dùng gì? Hai quĩ, khá dùng hưởng”, chữ “hưởng” làm lời dạy, là vì trong thì “tổn”, sự hưởng tự còn không quá đáng, thì cái để cung phụng cho mình có thể biết được. Đời xưa lễ cúng bày đồ cúng, quĩ là thịnh soạn, bốn quĩ là trung bình hai quĩ là giản. Thì quẻ Khảm, chỉ dùng một quĩ, một chén, thì là giản nữa.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Tổn, tổn hạ ích thượng, kỳ đạo thượng hành.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: quẻ Tổn, bớt dưới thêm trên, thửa đạo đi lên.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Tổn sở dĩ là tổn, vì nó tổn ở dưới mà ích lên trên. Lấy của dưới để thêm cho trên, cho nên nối rằng thửa đạo đi lên. Ôi, bớt của trên mà thêm cho dưới thì là quẻ Ích, bớt của dưới mà thêm cho trên thì là quẻ Tổn, lấy bớt nền gốc để đắp cho cao, há gọi là ích được chăng?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể quẻ thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tổn nhi hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Tổn mà có tin, cả tốt, không lỗi, có thể chính bến, lợi có thửa đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Ý nói tổn mà dùng sự chí thành, thì được bốn điều từ chữ “cả tốt” trở xuống, đó là sự rất phải trong đạo tổn vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Hạt chi dụng? Nhị quĩ, khả dụng hưởng, nhị quĩ ưng hữu thì, tổn cương ích nhu, hữu thì.
Dịch nghĩa. - Chưng dùng gì? Hai quĩ, khá dùng hưởng. Hai quĩ nên có thì, bớt cứng thêm mềm có thì.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là đức Phu Tử thích riêng câu “Chưng dùng gì? Hai quĩ, khá dùng hưởng”. Lời quẻ chỉ nói vắn tắt là nên bỏ bớt sự phù hoa mà rằng “Dùng làm gì đâu? Hai quĩ có thể cứng rồi” ấy là dầy gốc mà bớt ngọn vậy. Đức Phu Tử sợ rằng người sau không hiểu, bèn cho là nên bỏ hết sự văn sức, cho nên nói cho rõ ra. Có gốc ắt có ngọn, có thực ắt có văn, muôn việc thiên hạ, không việc gì không thể. Không có gốc thì không đứng được, không có văn thì không thực hành được: cha con chủ về ân, ắt phải có đạo nghiêm thuận, vua tôi chủ về kinh, ắt phải có phép thừa tiếp lễ nhượng chứa ở trong, phải chờ dáng dấp mới thi hành được, tôn ty có thứ tự, nhưng không có văn vẻ của đồ vật thì không phân biệt, văn với thực vẫn phải chở nhau, không thể thiếu thứ nào. Tới khi lễ văn hơn lên, ngành ngọn trôi đi, xá gốc, mất thực, ấy là thời đáng bớt, cho nên nói rằng: “Dùng làm gì đâu? Hai quĩ đủ để dâng lòng thành rổi”. Ý nói nên chăm vào sự thực mà giảm bớt sự phù sức vậy. Đức Phu Tử sợ rằng người ta câu nệ về lời nói ấy, cho nên lại nói rõ rằng: “Dùng cách chất phác như có hai quĩ nên có từng thời, không phải lúc đáng dùng mà dùng thì không thể được”. Nghĩa là sự văn sức chưa thái quá mà đã bớt đi, và bớt đi mà đến thái quá, thì là không phải. Bớt cứng thêm mềm có thì là sao? Cứng là thái quá, mềm là không đủ, sự thêm bớt đều là bớt của cái cứng thêm cho cái mềm, ắt phải thuận thời mà làm, thời không đáng thêm bớt mà thêm bớt thì là không phải.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tổn ích doanh hư, dữ thì giai hành.
Dịch nghĩa. - Bớt thêm đầy rỗng, cùng thì đều đi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Hoặc bớt, hoặc thêm, hoặc đầy, hoặc rộng, chỉ là tùy thời mà thôi, thái quá thì bớt đi, không đủ thì thêm vào, vơi thì làm cho đầy, đặc thì làm cho rỗng, thế là cùng thì đều đi.
Bản nghĩa của Chu Hy. Đây thích lời quẻ. Thời là lúc nên bớt đi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn hạ hữa trạch, Tổn, quân tử dĩ trừng phẫn, chất dục.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới núi có chằm, là quẻ Tổn đấng quân tử coi đó mà răn sự giận, lấp lòng dục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Dưới núi có chằm, khí nó thông lên, và thấm lên, và đào chỗ thấp để làm cho tăng bề cao, đều là Tượng “bớt của kẻ dưới”. Đấng quân tử xem Tượng “sự bớt” đó mà tự mình bớt đi. Trong đạo sửa mình, cái nên bớt chỉ là sự tức giận và lòng tham muốn, cho nên mình phải lấy đức mà răn sự giận, lấp hết ý muốn của mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đấng quân tử sửa mình, cái nên giảm bớt, không gì quan hệ bằng mấy điều này.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Sơn Thiên Đại Súc
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Đại súc-Chờ thời, bảo toàn lực lượng, tuân tự tiệm tiến sẽ, tiến lùi theo thời thế sẽ phát triển lớn. cho thấy làm những việc chính đáng thì rất tốt, được hưởng tài lộc từ xã hội làm các việc lớn cho xã hội thì rất tốt cho bản thân.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Càn-Mạnh, Đầu, là trời, là tròn, là vua, là cha, là ngọc, là vàng, là lạnh, là băng, là đại xích, là ngựa tốt, là ngựa già, là gầy, là ngựa đốm, là quả cây”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: vượt qua được khó khăn, vận thế tốt dần song mọi việc làm phải thận trọng.
● Hy vọng: phải chờ đợi mới như ý.
● Tài lộc: sắp tới có nhiều nguồn, thu nhập cao.
● Sự nghiệp: ban đầu khó khăn, sau dần dần thuận lợi, cuối cùng có thành công.
● Nhậm chức: phải chờ đợi một thời gian mới có địa vị như ý.
● Nghề nghiệp: an phận nghề hiện tại, chờ ít lâu sau chuyển thì mới tốt.
● Tình yêu: đến nhanh, nhưng cuối cùng không thành.
● Hôn nhân: có thể đến hôn nhân nhưng tốn thời gian. Đề phòng giữa chừng đoạn tuyệt.
● Đợi người: có đến nhưng muộn.
● Đi xa: vui vẻ.
● Pháp lý: tốn nhiều thời gian thì được kiện, hòa giải là tốt nhất.
● Sự việc: không nóng vội mới giải quyết xong.
● Bệnh tật: tình trạng kéo dài, lúc nặng lúc nhẹ.
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: tìm ở bên dưới vật khác sẽ thấy.
● Người ra đi: chưa có hướng và mục đích.
Quẻ: Sơn Thiên Đại Súc – Cấn trên; Kiền dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Đại Súc, Tự quái nói rằng: Có không càn rồi sau mới có thể chứa, cho nên tiếp đến quẻ Đại Súc [1-Đại Súc nghĩa là chứa lớn]. Không càn thì tức là có thực chất, cho nên có thể chứa họp. Vì vậy, quẻ Đại Súc mới nối với quẻ Vô Vọng. Nó là quẻ Cấn trên Kiền dưới, trời mà ở vào trong núi, là Tượng cái chứa rất lớn. Súc là chứa ngăn, lại là chưa họp, ngăn thì phải họp, lấy Tượng trời ở trong núi thì là chứa họp; lấy nghĩa Cấn mà ngăn Kiền thì là chứa ngăn. Ngăn rồi mới chứa, cho nên ngăn là nghĩa chứa.
LỜI KINH
Dịch âm. – Đại Súc lợi trinh bất gia thực, cát, lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. – Quẻ Đại Súc lợi về sự chính, chẳng ăn ở nhà, tốt lợi sang sông lớn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Chẳng gì lớn bằng trời, mà lại ở vào trong núi, Cấn ở trên mà ngăn Kiền ở dưới, đều là Tượng chứa đựng rất lớn. Ở người ta thì là đạo đức học thuật đầy chứa ở trong, tức là cái chứa lớn lắm. Phàm sự chứa họp, đều chuyên nói về cái lớn hơn. Sự chứa đựng, nên được chính đạo, cho nên nói là lợi về sự chính. Ôi những dị đoan, thiên học [2-Dị đoan nghĩa là mối khác. Tiếng của nhà Nho thì những học phái ngoài phái mình. Thiên học là học chuyên về một phương diện như Hình danh học, Âm Dương học v.v…], họ chứa rất nhiều, mà sự bất chính vẫn có. Đã có đạo đức đầy chứa ở trong, nên ở ngôi trên, để hưởng lộc trời, thi thố với thiên hạ, thì chẳng những là tốt một mình, mà lại tốt cả thiên hạ. Nếu phải ở vào hoàn cảnh cùng mà ăn ở nhà, thì là đạo gặp lúc bĩ, cho nên, chẳng ăn ở nhà thì tốt. Cái chứa đã lớn, nên đem thi thố với đời, giúp sự gian hiểm của thiên hạ, ấy là sự dùng của cái chứa lớn, cho nên lợi sang sông lớn. Đây chỉ theo nghĩa dưới lớn mà nói, lời Thoán lại lấy tài đức của quẻ mà nói. Các hào thì chỉ có nghĩa chứa ngăn. Bởi vì Kinh Dịch chủ về thể đạo tùy nghi [3-Trong tiếng thể đạo, chữ thể là động từ (verbe), nghĩa là thể theo. Thế đạo tức uốn nắn, đo đắn cho đúng với đạo, như thể lấy đạo làm hình thể vậy. Nêu thể nào làm theo thể ấy, tức là tùy nghi], chỉ lấy những điều rõ và gần hơn.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Lớn tức là Dương, lấy Cấn chứa Kiền, lại là sự chứa to lớn. Lại nữa, trong là thể Kiền cứng mạnh, ngoài là thể Cấn dày đặc sáng sủa, cho nên có thể mỗi ngày mỗi làm cho đức của mình mới ra, mà thành sự chứa to lớn. Nói về sự biến hóa của quẻ, thì quẻ này do ở quẻ Nhu đi lại, hào Chín bởi tự hào Năm đi lên. Nói về thể quẻ, thì hào Sáu Năm tôn mà chuộng nó. Nói về đức quẻ, thì nó ngăn được sự mạnh. Bấy nhiêu điều đó, không phải là bậc cả chính thì không làm nổi. Cho nên lời Chiêm của nó là lợi về đường chính, không ăn ở nhà thì tốt. Lại, hào Sáu Năm dưới ứng với Kiền là ứng vớí trời, cho nên lời Chiêm của nó lại là lợi sang sông lớn. Chẳng ăn ở nhà nghĩa là ăn lộc ở triều, không ăn ở nhà.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thoán viết: Đại Súc cương kiện, đốc thực, huy quang, nhật tân kỳ đức.
Dịch nghĩa. – Lời Thoán nói rằng: Quẻ Đại Súc cứng mạnh, dầy đặc, sáng sủa ngày ngày làm mới đức nó.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Đây nói về tài đức của quẻ. Thể Kiền cứng mạnh, thể Cấn dầy đặc, tài của người ta cứng mạnh dầy đặc, thì cái chứa của họ dầy đặc mà có ánh sáng, chứa mãi không thôi, thì đức của họ một ngày một mới.
Bản nghĩa của Chu Hy. Đây lấy đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. – Cương thượng nhi thượng hiền, năng chỉ kiện, đại chính dã.
Dịch nghĩa. – Cứng lên mà chuộng trời, hiền, ngăn được sự mạnh, cả chính vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Cứng lên là Dương ở trên. Dương cứng ở trên ngôi tôn là nghĩa chuộng người hiền; sự đậu ở trên sự mạnh là nghĩa ngăn được sự mạnh. Ngăn đậu sự mạnh, không phải là bậc cả chính thì làm không nổi. Lấy đức Dương cương ở trên và tôn chuộng người hiền đức, ngăn được sức rất mạnh, đều là đạo cả chính.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây dùng sự biến hóa của quẻ và thể thích lời quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. – Bất gia thực, cát, dưỡng hiền dã.
Dịch nghĩa. – Chẳng ăn ở nhà, tốt, là nuôi người hiền vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây cũng láy tượng chuộng người hiền.
LỜI KINH
Dịch âm. – Lợi thiệp đại xuyên, ứng hồ thiên dã.
Dịch nghĩa. – Lợi về sự sang sông lớn, là ứng với trời vậy.
GIẢI NGHỈA
Truyện của Trình Di. – Người có chứa lớn, nên phải đem cái chứa ra để giúp thiên hạ, cho nên không ăn ở nhà thì tốt, nghĩa là ở ngôi tôn, hưởng lộc trời vậy. Đó là nhà nước nuôi người hiền, người hiền được thi hành cái đạo của mình. Lợi sang sông lớn, nghĩa là những người có chứa đựng lớn nên giúp cho thiên hạ vượt qua sự gian hiểm. Lời Thoán lại phát minh tài quẻ mà rằng “Sở dĩ sang được sông lớn là vì nó ứng với trời”, hào Sáu Năm phía dưới ứng với hào giữa của quẻ Kiền, ấy là ông vua chứa lớn theo trời mà làm việc. Việc làm đã ứng với trời, thì không có sự gian hiểm nào mà không thể vượt qua, huống chi việc khác.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây cũng lấy thể quẻ mà nói.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Thiên tại sơn trung, Đại Súc, quân tử dĩ đa chí tiền ngôn vãng hạnh, dĩ súc kỳ đức.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Trời ở trong núi, là quẻ Đại Súc, đấng quân tử coi đó mà ghi nhiều lời trước, nết xưa, để nuôi đức mình.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trời là vật rất lớn mà ở trong núi, đó là Tượng “thửa chứa rất lớn” đấng quân tử coi Tượng đó mà làm cho lớn cái chứa đựng của mình. Sự chứa đựng của người ta bởi học mà lớn, cốt ở nghe nhiều lời nói và việc làm của các thánh hiền đời xưa, khảo nghiệm để xem sự dùng của họ, xét lời họ để tìm bụng họ, ghi cho được những cái ấy để nuôi nên cái đức của mình, đó là nghĩa “đại súc”.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Trời ở trong núi, chẳng cứ thật có việc đó, chỉ lấy cái tượng mà nói đó thôi.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Sơn Hoả Bí-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Bí-Mở đường khi vận đến, dựa vào thực lực để bức phá. Vận thế tốt, cân Hình tương và nhân cách đi đôi, sự việc sẽ có hanh thông, thuận lợi nhưng không lâu và nhiều. Do vậy, muốn có sự thuận lợi đòi hỏi bản thân phải thể hiện khả năng thực lực, chứ không phải ban những biện pháp ngoại giao, làm đẹp lòng người khác.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện trong tình trạng có khó khăn, không toại ý. Muốn thoát ra được phải hành động đúng theo thân phận hiện tại để vượt qua, sau đó qua được thì tiến lên.
● Hy vọng: có hy vọng, nhưng còn xa, hiện không nên hy vọng nhiều
● Tài lộc: có, nhưng chưa đến ngay
● Sự nghiệp: ban đầu có, đề phòng sự sa sút về sau và lúc hữu danh vô thực
● Nhậm chức: chưa hoàn toàn như ý
● Nghề nghiệp: giữ nguyên việc cũ, nghề cũ thì tốt
● Tình yêu : đôi bên không ưa nhau
● Hôn nhân: khó hợp, không nên tin người ngoài
● Đợi người: sắp tới
● Đi xa: có tốn kém nhưng đạt mục đích
● Pháp lý: nên hoà giải thì tốt, nếu cố tranh chấp sẽ thất bại
● Sự việc: khó xong vì chưa đồng lòng
● Bệnh tật: có nhẹ, nhưng đề phòng trầm trọng
● Thi cử: đạt mức bình thường
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: không mục đích ra đi, sau trở về
Quẻ: Sơn Hỏa Bí - Cấn trên; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Bí, Tự quái nói rằng: “Hạp” nghĩa là hợp, các vật không thể hợp lại bằng cách cầu thả, cho nên tiếp đến quẻ Bi. Bí là trang sức, các vật hợp nhau, ắt có văn vẻ, văn vẻ tức là trang sức. Ví như người ta tụ họp thì có dáng dấp lên xuống, các vật tụ họp thì có thứ tự hàng dãy, đó là họp nhau ắt có văn vẻ. Vì vậy, quẻ Bí mới nối quẻ Phệ hạp. Nó là quẻ dưới núi có lửa, núi là cây cỏ trăm vật tụ họp, dưới núi có lửa chiếu lên, cỏ cây phẩm loại đều được chùm trong ánh sáng màu vẻ của nó, đó là cái tượng phần sức, cho nên mới là quẻ Bí.
LỜI KINH
Dịch âm. - Bí hanh, lợi tiểu hửu du vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Bí hanh, hơi lợi có thửa đi,
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Các vật có trang sức mới có thể hanh thông, cho nên nói rằng: “Không gốc không đứng, không có văn vẻ thì không làm được, có sự thực mà thêm văn sức, thì có thể hanh. Cái đạo văn sức, có thể thêm phần sáng sủa văn vẻ, chữ nên lợi về sự tiến lên.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bí là trang sức. Trong quẻ này, một phần tự quẻ
Tổn lại, là chất mềm tự hào Ba, lại mà văn sức cho hào Hai, chất cứng tự hào
Hai lên mà văn sức cho hào Ba; một phần tự quẻ Ký tế lại, là chất mềm tự hào Trên lại mà văn sức cho hào Năm, chất cứng tự hào Năm lên mà văn sức cho hào Trên. Lại, trong Ly ngoài Cấn, có tượng văn vẻ sáng sủa, ai được phận nấy, cho nên là Bí. Kẻ xem vì nó mềm đến văn sức cho cứng, Dương được Âm giúp, ma có quẻ Ly sáng tỏ ở trong, cho nên là hanh; vì nó cứng lên văn sức cho mềm, mà có quẻ Cán dừng đỗ ở ngoài, cho nên hơi lợi về có sự đi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Bí hanh.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Bí hanh.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chứ 亨(hanh) ngờ là chữ thừa.
LỜI KINH
Dịch nghĩa. - Nhu lai nhi văn cương, cố hanh; phân cương thượng nhi văn nhu, cố tiểu lợi hữu du vãng, thiên văn dã.
Dịch âm. - Mềm lại mà văn sức cho cứng, cho nên hanh; chia cứng lên mà văn sức cho mềm, cho nên hơi lợi có thửa đi, văn vẻ của trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng sự biến đổi của quẻ để thích lời quẻ.
Cứng mềm giao nhau là tượng tự nhiên, cho nên gọi là “văn vẻ của trời’ Tiên nho nói rằng: trên chữ 天 ⽂ (thiên văn) nên có bốn chữ 柔 交 錄 (cương nhu giao thác: cứng mềm xen lẫn), lý hoặc như thế.
LỜI KINH
Dịch nghĩa. - Văn minh dĩ chỉ, nhân văn dã.
Dịch âm. - Văp vẻ sáng sủa để đỗ, văn vẻ của người vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Quẻ này là tượng trang sức rõ ràng, vì hai thể trên, dưới, cứng, mềm, cùng làm văn sức cho nhau. Thể dưới vốn là quẻ Kiền có chất mềm đến văn sức ở giữa mà thành quẻ Ly. Thể Trên vốn là quẻ Khôn, có chất cứng đến văn sức ở trên mà thành quẻ Cấn, mới là “dưới núi có lửa”, đỗ trong văn vẻ sáng sủa mà thành rỡ ràng. Việc thiên hạ không trang sức thì không làm được, cho nên rỡ ràng thì có thể hanh thông. “Mềm lại văn sức cho cứng, cho nên hanh”, nghĩa là mềm đến văn sức cho cứng mà thành cái tượng văn vẻ sáng sủa. Văn vẻ sáng sủa sở dĩ thành quẻ Bí. Đạo quẻ Bí có thể đến hanh thông, thực bởi trang sức mà có thể hanh thông. “Chia cứng lên mà văn sức cho mềm, cho nên hơi lợi có thửa đi”, nghĩa là chia hào giữa của quẻ Kiền đi văn sức cho hào trên của quẻ Cấn vậy. Các việc bởi văn sức mà thêm thịnh, bởi văn sức mà có thể thực hành, cho nên hơi lợi có thửa đi. Ôi, đi mà lợi được là vì có gổc, Cái đạo bí sức không phải thêm được sự thực, chỉ thêm văn vẻ cho nó mà thôi. Các việc bởi văn sức mà thêm tỏ rõ thịnh vượng, cho nên là “hơi lợi có thửa đi”. Hanh là hanh thông, đi làm tiến thêm. Hai quẻ biến đổi, cùng làm nên cái nghĩa bí sức, thế mà lời Thoán lại chia trên dưới, mỗi quẻ chủ về một việc, là vì quẻ ly sáng sủa có thể đem lại sự hanh, mà nó văn sức cho hào mềm, thì lại có thể tiến lên một ít. Hai câu “Thiên văn dã, văn minh dĩ chỉ, nhân văn dã” là lời tiếp theo đoạn trên, ý nói: Âm Dương cứng mềm giao nhau, tức là văn vẻ của trời; đỗ trong văn vẻ sáng sủa, tức là văn vẻ của người. “Chỉ” là ở trong văn vẻ sáng sủa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn này lại lấy đức quẻ mà nói. “Chỉ” là ai được phận nấy.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quan hồ thiên văn, dĩ sát thì biến.
Dịch nghĩa. - Xem chưng văn vẻ của trời, để xét sự biến của các mùa.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Văn vẻ của trời tức là mặt trời mặt trăng ngôi sao sắp bày, rét nắng Âm Dương thay đổi. Xem cuộc vận hành của nó, để xét sự dời đổi của bốn mùa.
LỜI KINH
Dịch âm. - Quan hồ nhân văn, dĩ hóa thành thiên hạ.
Dịch nghĩa. - Xem chưng văn vẻ của người, để hóa nên thiên hạ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Văn vẻ của người tức là thứ bậc của đạo người. Xem văn vẻ của người để giáo hóa thiên hạ, thiên hạ thành được lễ tục, đó là đạo dùng quẻ Bí của đấng thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đoạn này cực nói về sự lớn lao của đạo quẻ Bí.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn hạ hữu hỏa, Bí, quân tử dĩ minh thứ chính, vô cảm chiết ngục.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới núi có lửa là quẻ Bí, đấng quản tử coi đó mà tỏ mọi chính, không quả cảm về việc đoán ngục.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Núi là chỗ sinh tụ của cỏ cây trăm vật, lửa ở dưới nó mà chiếu lên, mọi loài đều bị chùm trong ánh sáng, đó tức là tượng bí sức. Đấng quân tử coi tượng dưới núi có lửa sáng soi, để sửa rõ mọi chinh, gây nên cuộc trị văn vẻ sáng sủa, mà không quả cảm về việc đoán ngục. Đoán ngục là việc cần phải cẩn thận của kẻ làm vua, há khá cậy về sự sáng của mình mà tự dụng một cách khinh suất? Đây là chỗ dụng tâm của thánh nhân: răn người sâu lắm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dưới núi có lửa, ánh sáng không tới chỗ xa. “Tỏ mọi chính” là việc còn nhỏ, “Đoán ngục” là việc đã lớn. Trong quẻ Ly sáng sủa mà ngoài quẻ Cấn ngưng đậu, cho nên lấy tượng như thế.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Thuần Cấn-LX
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Cấn-Dừng, vận đình trệ, cố thủ là tốt. Bình tĩnh là trí tuệ. Cần bình tĩnh mà xét đoán sự việc hoặc trước khi hành động mới không phạm sai lầm. Việc muốn thành chỉ khi biết tiến đúng lúc, giữ được thành quả mình khi biết dừng đúng lúc, hãy đồng thuận với người, làm tròn bổn phận của mình thì mọi cái đều thành công.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang tạm thời đình đốn, gặp gian nạn. Kiên nhẫn chịu đựng sẽ sang vận tốt.
● Hy vọng: không như ý, hãy thay đổi mục đích
● Tài lộc: không có
● Sự nghiệp: chưa đến thời cơ
● Nhậm chức: khó có chức vị tốt
● Nghề nghiệp: không chuyển nghề được
● Tình yêu: đôi bên không hợp ý
● Hôn nhân: không duyeenn phận với nhau
● Đợi người: không tới
● Đi xa: bất lợi
● Pháp lý: dây dưa, tốn kém
● Sự việc: hãy dừng lại, chờ thời cơ
● Bệnh tật: lâu khỏi
● Thi cử: khó đạt kết quả cao
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người ra đi không biết đi đâu
TỔNG QUAN: Thuần Cấn
Cấn-Dừng, vận đình trệ, cố thủ là tốt. Bình tĩnh là trí tuệ. Cần bình tĩnh mà xét đoán sự việc hoặc trước khi hành động mới không phạm sai lầm. Việc muốn thành chỉ khi biết tiến đúng lúc, giữ được thành quả mình khi biết dừng đúng lúc, hãy đồng thuận với người, làm tròn bổn phận của mình thì mọi cái đều thành công.
- Cấn-Ngừng; Tay, là núi, là đường tắt, là hòn đá nhỏ, là môn khuyết (cửa thiếu), là loại quả dưa, là người gác cửa, là ngón tay, là chó, là chuột, là thuộc loại mỏ đen. Khi là cây là nhiều mắt cứng”.
- T.Long-thuần, nhân từ, tiến tài, động- vui/// B.Hổ-huyết- C.bạo, tang ma,H. hăng, vô mưu. Hào Kim-B.Hổ ngậm dao /// C.Tước- lừa đảo, thị phi, kiện tụng, văn thư, tài ăn nói, khắc Thế-thị phi, sinh D.thần có tin /// H.Vũ-Tr.cướp, dâm, tư tình /// C.Trần- âm thần, điền sản, c.trình, ngục tù, chất phác, chuyện lạ, rắc rối. khắc H.Vũ, hợp bắt cướp /// Đằng Xà-kinh sợ, No C.thuỷ & chữ tín. hương hoả. Gặp Mộc K.vong, hung; Bị N.thần xung,rễ hunG
hại.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang tạm thời đình đốn, gặp gian nạn. Kiên nhẫn chịu đựng sẽ sang vận tốt.
● Hy vọng: không như ý, hãy thay đổi mục đích
● Tài lộc: không có
● Sự nghiệp: chưa đến thời cơ
● Nhậm chức: khó có chức vị tốt
● Nghề nghiệp: không chuyển nghề được
● Tình yêu: đôi bên không hợp ý
● Hôn nhân: không duyeenn phận với nhau
● Đợi người: không tới
● Đi xa: bất lợi
● Pháp lý: dây dưa, tốn kém
● Sự việc: hãy dừng lại, chờ thời cơ
● Bệnh tật: lâu khỏi
● Thi cử: khó đạt kết quả cao
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người ra đi không biết đi đâu
Quẻ: Thuần Cấn - Cấn trên; Cấn dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Cấn, Tự quái nói rằng: Chấn là động, các vật không thể động mãi, ngăn nó cho nên tiếp đến quẻ Cấn [1-Chử ⾉ (cấn) có nghĩa là “ngăn, là đậu”]. Cấn nghĩa là ngăn, động với tĩnh phải nhân nhau, động thì có tĩnh, tĩnh thì có động, các vật không lẽ động luôn, vì vậy quẻ Cấn mới nối quẻ Chấn. Cấn là đậu, không nói đậu mà nói cấn, là vì Cấn là Tượng núi, có ý yên nặng rắn đặc, nghĩa chữ “đậu” không thể hết được. Kiền Khôn giao nhau, ba lần mà thành quẻ Cấn, một khí Dương ở trên hai khí Âm, Dương là vật động mà tiến lên, đã đến bậc trên thì phải đậu lại. Âm là im lặng, trên đậu mà dưới im lặng, cho nên là Cấn. Thế thì với nghĩa “chứa đậu” khác nhau thế nào? Đáp rằng: Chứa đậu là nghĩa ngăn chế mà chứa lại, lấy sức mà làm cho đậu; cấn đậu là nghĩa yên ổn mà đậu, tức là đậu vào nơi chốn của nó.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, thành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Đậu thửa lưng, chẳng được thửa mình, đi thửa sân, chẳng thấy thửa người, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Người ta sở dĩ không yên đậu [2-Đậu là dừng lại, đứng lại, đỗ lại] được là vì bị động
về sự ham muốn. Sự ham muốn có kéo ở đằng trước, mà cần nó đậu thì không thể được, cho nên đạo đậu, nên đậu cái lưng. Những cái trông thấy đều ở đằng trước, mà lưng thì trái ngược lại, ấy là nó không trông thấy. Đậu vào chỗ không trông thấy, thì không có sự ham muốn làm loạn lòng mình, sự đậu mới yên. “Chẳng được thửa mình” tức là chẳng thấy mình mình, nghĩa là quên mình đi vậy. Không có mình nữa, thì là đậu rồi… “Đi thửa sân chẳng thấy thửa người” là sao? Sân thềm là chỗ rẩt gần, ở đằng lưng tuy chỗ rất gần cũng không thấy, nghĩa là không giao tiếp với vật ngoài nữa. Vật ngoài không tiếp xúc, sự ham muốn bên trong không sinh ra; như thế mà đậu, mới đúng đạo “đậu”, với thì đậu là không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cấn là đậu. Một Dương đậu trên hai Âm, Dương tự dưới lên, đến chỗ nhất thì đậu. Tượng nó là núi, lấy về dáng “đất Khôn cao lên”, cũng là ý “đậu chỗ cùng tột mà không tiến nữa”. Lời Chiêm của nó thì là “ắt phải đậu ở đằng lưng mà không có mình, đi ở sân mà không thấy người, mới là không lỗi”. Bởi vì thân thể là vật hay động, chỉ có cái lưng là đậu, đậu ở lưng thì là đậu chỗ đáng đậu, đậu chỗ đáng đậu thì sẽ không theo thân thể mà động, ấy là không có mình nữa. Như thế thì tuy đi ở sân thềm là chỗ có người mà cũng không trông thấy người. Bởi vì “đậu thửa lưng mà chẳng thấy được mình” là đậu mà đậu. “Đi thửa sâu mà chẳng thấy thửa người” là đi mà đậu. Động tĩnh đều đậu vào nơi chốn mà lưng thì chủ về tĩnh, vì vậy mới được không lỗi.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Cấn chỉ dã. Thì chỉ tắc chỉ, thì hành các hành. Động tĩnh bất thất kỳ thì, kỳ đạo quang minh.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Cấn là đậu vậy. Lúc đáng đậu thì đậu, lúc đáng đi thì đi. Động tĩnh không lỗi thửa thì, thửa đạo sáng tỏ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cấn là đậu, Đạo “đậu” chỉ cốt ở thời Đi đậu, động tĩnh không theo thời là càn. Chẳng lỗi thời thì là thuận lẽ mà hợp nghĩa. Ở việc là lẽ, khu xử với việc là nghĩa. Động tĩnh hợp lẽ và nghĩa là không lỗi thời, ấy là đạo mình sáng tỏ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích nghĩa tên quẻ. Nghĩa Cấn là đậu, nhưng đi hay đậu đều phải có thời, cho nên lúc đáng đậu mà đậu là đậu, lúc đáng đi mà đi cũng là đậu. Thể Cấn dầy đặc, cho nên có nghĩa sáng tỏ. Quẻ Đại xúc vè thể Cấn cũng nói sáng láng.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cấn kỳ chỉ, chỉ kỳ sở dã.
Dịch nghĩa. - Đậu thửa đậu, là đậu thửa chốn vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - “Đậu thửa đậu” nghĩa là bị ngăn đậu lại mà đậu vậy. Bị ngăn đậu lại mà là tại đậu được nơi chốn. Đậu mà không đúng nơi chốn thi không có lẽ đậu được.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thượng hạ địch ứng, bất tương dữ dã.
Dịch nghĩa. - Trên dưới chọi ứng, chẳng cùng nhau vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ mà nói. Hai thể trên dưới, lấy sự chọi nhau mà ấn với nhau, thì không có nghĩa cùng với nhau, Âm Dương ứng nhau thì tình thông nhau mà cùng với nhau, đằng này vì sự chọi nhau, cho nên không cùng với nhau. Không cùng với nhau thì là trái nhau.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thị dĩ bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình bất kiến kỳ nhân, vồ cữu dã.
Dịch nghĩa. - Vì vậy chẳng được thửa mình, đi thửa sân chẳng thấy thửa người, không lỗi vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trinh Di. - Trái nhau cho nên chẳng thấy thửa mình, chẳng thấy thửa người nên mới đậu được, đậu được thì không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích lời quẻ, đổi chữ 背 (bối) làm chữ ⽌ (chỉ) [3-Tức là chữ 趾(chỉ) trong câu ⾉ 其 趾(Cấn kỳ chỉ) ở đoạn trên], để tỏ lưng tức là đậu. Lưng là chốn đậu. Lấy thể quẻ mà nói: quẻ trong quẻ ngoài. Âm Dương chọi ứng với nhau mà không cùng nhau. Không cùng nhau thì trong chẳng thấy mình, ngoài chẳng thấy mình, và không có lỗi. Họ Triều nói rằng: “Câu ⾉ 其 ⽌ cấn kỳ chỉ”, chữ ⽌ (chỉ) nên theo lời quẻ [4-Tức là câu ⾉ 其 背 (Cấn kỳ bối)] đổi làm chữ (bối).
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Kiêm sơn Cấn, quân tử dĩ tư bất xuất kỳ vị.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Gồm núi là quẻ Cấn. Đấng quân tử coi đó mà nghĩ chẳng việc thửa ngôi.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên dưới đều là núi, cho nên nói là gồm núi. Cái này nhập với cái kia là “gồm” tức là trùng điệp vậy. Trùng điệp là tượng của Cấn. Đấng quân tử coi tượng Cấn đậu mà nghĩ chỗ đậu không vượt ra ngoài ngôi mình. Ngôi tức là phận mình ở. Muôn việc đều có nơi chốn, hễ đúng nơi chốn thì là đậu yên. Hoặc thái quá, hoặc bất cập, đều là vượt ra ngoài ngôi.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Địa Thủy Sư
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
- Nghệ thuật lãnh đạo. Thuận theo thời thế, nỗ lực tiến thủ có thể thành công, cần tướng tài và tài dùng người: Vận nhiều trở ngại, thường phát sinh sự cố, căng thẳng, đau đầu. Cần kỷ luật, việc làm chính đáng, bền chí nhưng có người chỉ huy có kinh nghiệm thì mới tốt, không sai lầm. Làm trái/ thủ đoạn sẽ mang họa.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: đang ở thời kỳ khó khăn nguy hiểm, nhẫn nại chờ thời cơ
● Hy vọng: hiện chưa thành, chờ đợi sẽ có
● Tài lộc: chờ lâu mới có
● Sự nghiệp: nỗ lực sau mới thành. Dễ bỏ cuộc giữa chừng
● Nghề nghiệp: nên tham khải ý kiến người khác hãy chuyển nghề
● Tình yêu: kiên nhẫn chờ đợi, nữ có tình địch
● Hôn nhân: khó hành, có kết hợp thì sau sẽ không hay
● Đợi người: đến muộn
● Đi xa: nên đi ngắn hạn và đi gần
● Pháp lý: có rắc rối, nên hòa giải
● Sự việc: tranh chấp, khó giải quyết, thận trọng trông hành động
● Bệnh tật: có thuyên giảm, song dễ tái phát
● Thi cử: nếu thủ khoa sẽ hỏng mặc dù có khả năng
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: tạm thời chưa đi.
Quẻ: Địa Thủy Sư - Khôn trên; Khảm dướỉ
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Quẻ Sư, Tự quái nói rằng: đã kiện ắt có đông người nổi lên, cho nên tiếp đến quẻ Sư [1-Chữ Sư (chữ hán) có nghĩa là quân gia, là đông người, hay quần chúng]. Sư lữ dấy lên, bởi tại có sự tranh giành, cho nên quẻ Sư mới nối quẻ Tụng. Nó là quẻ Khôn trên, Khảm dưới. Nói về hai thể, thì trong đất có nước, tức là cái tượng đông người tụ họp. Nói về nghĩa của hai quẻ, thì trong hiểm [2-Chỉ về quẻ khảm], ngoài thuận [3-Chỉ về quẻ khôn] đi đường hiểm bằng cách xuôi thuận, đó là nghĩa trẩy quân; nói về các hào, thì một hào Dương làm chủ các hào Âm, tức là cái tượng tóm cả đông người. Quẻ Tỵ một hào Dương làm chủ các hào Âm mà ở trên, là tượng ông vua; quẻ Sư một hào Dương làm chủ các hào Âm mà ở dưới, là tượng tướng súy,
LỜI KINH
Dịch âm. - Sư Trinh, trượng nhân cát, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Quân chính, bậc trượng nhân tốt, không lỗi.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Cái đạo quân gia, lấy sự đính chính làm gốc. Dấy quân động chúng, để làm độc hại thiên hạ, mà không dùng cách chính đính thì dân không theo, chẳng qua cưỡng bách mà xua họ đi mà thôi. Cho nên quân gia phải lấy chính đính làm chủ. Hành động tuy chính đính, những kẻ làm tướng phải là bậc trương nhân mới tốt mà không có lỗi. Bởi vì, có khi tốt mà có lỗi, có khi không lỗi mà không tốt. Tốt và không lỗi, mới là tận thiện. Trượng nhân là tên gọi bậc tôn nghiêm, đem quân coi chúng, nếu không phải kẻ mà mọi người tôn tín sợ phục, thì sao cho được lòng người vâng theo?… Gọi là trượng nhân, bất tất phải người vốn vẫn ở ngôi cao quí, hễ mà tài mưu đức nghiệp đủ khiến mọi người sợ phục thì nhằm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Sư là quần chúng. Quẻ này dưới Khảm trên Khôn, Khảm hiểm mà Khôn thuận, Khảm là nước mà Khôn là đất, đời xưa ngụ hình ở nông, núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu cái không thể lường trong chỗ rất tĩnh. Lại nữa, trong quẻ chỉ hào Chín Hai là một hào Dương ở giữa quẻ dưới, là Tượng làm tướng; trên dưới năm hào Âm đều phải thuận mà theo, là Tượng làm quân. Hào Chín Hai lấy tư cách Dựơng cương ở dưới làm việc, hào Sáu Năm là hạng mềm yếu ở trên mà dùng người, tức là cái Tượng ông vua sai tướng ra quân, cho nên quẻ này gọi tên là Sư. Trượng nhân là tiếng để gọi bậc trưởng lão, cái đạo dùng quân lợi về được chính đính, mà phải dùng người lão thành, mới được tốt mà không có lỗi. Đó là răn kẻ xem cũng phải như thế
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Sư chúng dã, trinh chính dã, năng dĩ chúng chính, dĩ chúng chính, khả dĩ vương hỷ.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Sư là nhiều người, trinh là chính, khiến được nhiều người chính đính, thì có thể làm nên nghiệp vương.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Khiến mọi người chính đính thì có thể trị thiên hạ. Được lòng người phục theo mà về với mình, đạo “vương” có thế mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ thích nghĩa hai chữ sư trinh. Dĩ 以 nghĩa là sai khiến được người, một hào Dương ở giữa quẻ dưới mà năm hào Âm đều bị sai khiến vậy. Có thể khiến cho mọi người đều phải chính đính, thì là quân của đấng vương giả.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cương trung nhi ứng, hành hiểm nhi thuận, dĩ thử độc thiên hạ nhi dân tòng chi, cát, hựu hà cữu hỹ?
Dịch nghĩa. - Cứng giữa mà có chính ứng, đi chỗ hiểm mà xuôi thuận, dùng cái đó để làm độc hại thiên hạ mà dân theo, tốt! Còn lỗi gì nữa?
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Đây là nói về hào Hai. Hào ấy là kẻ cứng, ở ngôi giữa mà được đạo trung, có ông vua ở hào Sáu Năm làm chính ứng, tin dùng một cách chuyên nhất, dù đi đường hiểm mà cứ lấy sự xuôi thuận hành động, đó là nghĩa binh, tức lấy quân của đấng vương giả. Trên thuận dưới hiểm là đi chỗ hiểm mà thuận. Sư lữ nổi lên, không khỏi hại của, hại người, độc hại thiên hạ, vậy mà lòng dân vẫn theo mình, là vì mình chỉ theo nghĩa hành động. Đời xưa, đánh bên Đông thì bên Tây oán [4-Oán vì chậm đến đánh xứ mình] ấy là lòng dân theo về. Như thế, cho nên tốt mà không lỗi. Tốt là ắt được, không lỗi là hợp với nghĩa, thì còn lỗi gì?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lại lấy thể quẻ thích nghĩa câu “trượng nhân cát, vô cữu”. Cương trung chỉ hào Chín Hai ứng là hào Sáu Năm ứng nhau với nó. Hành hiểm là đi vào đường hiểm nghèo. Thuận là thuận lòng người. Bấy nhiêu điều đó phi người có đức lão thành, thì không làm nổi. Độc nghĩa là hại, sư lữ dấy lên, không khỏi làm hại thiên hạ, nhưng vì có tài đức ấy, cho nên dân mới vui lòng mà theo.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Địa trung hữu thủy, Sư, quân tử dĩ dung dân súc chúng.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong đất có nước, là quẻ sư, đấng quân tử coi đó là dung dân, nuôi quân.
GIẢI NGHĨA
Bản nghĩa của Trình Di. - Trong đất có nước, nước tụ trong đất, là tượng đông người tụ họp, cho nên mới là quẻ Sư. Đấng quân tử coi tượng trong đất có nước đó, để dung giữ dân của mình, nuôi họp quân của mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nước không thể ngoài đất, quân không thể ngoài dân, cho nên hễ nuôi được dân, thì có thể nuôi được quân.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Địa Hỏa Minh Di
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Minh dị-Mọi việc không như ý, cẩn thận hành sự. Hiền tài đức độ sáng suốt bị tổn thương, sự chính trực, ngay chính, tài năng này không để làm gì cả. Khi có tài và có năng lực lúc này cần ẩn đi thì có lợi, nếu phô trương sẽ gặp nguy.
- Khôn-Thuận, Bụng, là đất, là mẹ, là vải, là nồi là tính biển lận, là đều nhau, là con trâu mẹ, là đại hưng, là văn, là đông, là tay nắm, những cái khác có nghĩa là đen”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: tình thế khó khăn, mọi việc bị ngăn trở, song tình trạng này kéo dài không lâu, chịu đựng giữ gìn thì có vận tốt.
● Hy vọng: khó thành, không nản lòng sẽ như ý.
● Sự nghiệp: không thành.
● Nhậm chức: hiện tại chưa như ý.
● Nghề nghiệp: nếu chuyển nghề, bất lợi.
● Tình yêu: đôi bên không thật lòng.
● Hôn nhân: khó thành lương duyên.
● Đợi người: không thể đến sớm.
● Đi xa: dừng lại giữ chừng.
● Pháp lý: thua kiện.
● Sự việc: tốn nhiều thời gian mới song.
● Bệnh tật: nguy hiểm.
● Thi cử: không đạt.
● Mất của: chưa tìm ra, bị lẫn ở đâu đó.
● Người ra đi: nguy hiểm.
Quẻ: Địa Hỏa Minh Di - Khôn trên; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Minh di, Tự quái nói rằng: Tấn nghĩa là tiến, tiến ắt bị đau, cho nên tiếp đến quẻ Minh di. Di nghĩa là đau, cả tiến không thôi, ắt có bị đau là lẽ tự nhiên, vì vậy quẻ Minh di mới nối quẻ Tấn. Nó là quẻ Khôn trên Ly dưới tức là sự sáng vào trong đất. Phản lại quẻ Tấn thành quẻ Minh di, cho nên nghĩa nó với quẻ Tấn đều trái lại nhau. Tấn là quẻ sáng thịnh, ông vua sáng sủa ở trên là lúc mọi người hiền cùng tiến; Minh di là quẻ tối tăm, ông vua tối tăm ở trên là lúc kẻ sáng bị đau. Mặt trời vào trong đất, tức là sự sáng bị thương mà tối tăm, cho nên gọi là Minh di.
LỜI KINH
Dịch âm. - Minh di lợi gian trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Minh di lợi về khó nhọc trinh chính.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đấng quân tử gặp thời Minh di, lợi ở biết khó nhọc mà không lỗi đạo trinh chính. Ở thời tối tăm khó khăn mà có thể không mất sự trinh chính của mình, vì vậy mới là quân tử sáng láng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Di nghĩa là đau. Là quẻ dưới Ly trên Khôn, mặt trời vào trong đất, tức là cái Tượng sáng mà bị đau, cho nên gọi là Minh di. Lại, hào Sáu Trên quẻ này là chủ sự tối mà hào Sáu Năm gần nó, cho nên kẻ xem lợi về khó nhọc để giữ sự chính mà tự che sự sáng của mình.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Minh nhập địa trung, Minh di.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Sáng vào trong đất, là quẻ Minh di.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây dùng tượng quẻ để thích tên quẻ.
LỜI KINH
Dịch âm. - Nội văn minh nhi ngoại nhu thuận, dĩ mông đại nạn, Văn vương dĩ chi.
Dịch nghĩa. - Trong văn vẻ sáng láng mà ngoài mềm thuận để đội nạn lớn, vua Văn dùng cách đó.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sáng vào trong đất tức là tự sáng bị diệt, cho nên là sáng đau. Quẻ trong nhà Ly, Ly là Tượng văn vẻ sáng láng; quẻ ngoài là Khôn, Khôn là Tượng mềm thuận; đó là bên trong có đức văn vẻ sáng láng, bên ngoài lại biết mềm thuận xưa kia vua Văn như thế, cho nên nói rằng vua Văn dùng cách đó. Đương lúc vua Trụ tối tăm, tức là thì sáng đau, mà vua Văn trong có đức văn vẻ sáng láng, ngoài mềm thuận để thờ vua Trụ, đội phạm nạn lớn [1-Văn Vương bị vua Trụ giam ở ngục Dũ lý] mà bên trong không mất cái đức thành sáng của mình, bên ngoài đủ để tránh xa tai vạ, đó là đạo Văn Vương đã dùng, cho nên nói rằng vua Văn dùng cách đó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa quẻ. “Đội nạn lớn” chỉ về gặp loạn vua Trụ mà bị giam.
LỜI KINH
Dịch âm. - Lợi gian trinh, hối kỳ minh dã; nội nạn nhi năng chính kỳ chí, Cả tử dĩ chi.
Dịch nghĩa. - Lợi về khó nhọc trinh chính, là làm cho tối thửa sự sáng vậy; trong nạn mà hay chính thửa chí, ông Cơ tử dùng cách đó.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trong thì sáng đau, lợi về xử cách khó khăn mà không mất sự trinh chính của mình, nghĩa là biết che giấu sự sáng của mình. Không làm cho tối sự sáng của mình, thì bị vạ lo, không giữ được sự chính đính của mình thì không phải là người hiền minh, ông Cơ Tử [2-Ông Cơ Tử là anh ruột vua Trụ; thấy vua Trụ càn dỡ, không thể can được, ông ấy giả rồ đi làm đứa ở, sau về với nhà Chu] đương thời vua Trụ, thân với nước ấy, bên trong sát gần nạn của vua ấy, cho nên nói rằng “Trong nạn”. Nhưng ông Cơ Tử biết giấu kín sự sáng của mình và tự giữ lấy chí chính đáng, đó là cái đạo ông Cơ Tử vẫn dùng, cho nên nói rằng “Ông Cơ Tử dùng cách đó”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lây nghĩa một hào Sáu Năm để thích lời quẻ. “Trong nạn”, nghĩa là họ gần vua Trụ về ở trong nước vua ấy như hào Sáu Năm gắn hào Sáu Trên.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Minh nhập địa trung, Minh di, quân tử dĩ ly chúng, dụng hối nhi minh.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sáng vào trong đất là quẻ Minh di. Đấng quân tử coi đó để trị dân chúng, dùng tối mà sáng.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sự sáng là để mà soi, đấng quân tử không đâu không soi, nhưng quá dùng sự sáng, thì hại về đường xét nét, xét nét quá thì hết việc mà không có độ lượng bao dung cho nên đấng quân tử coi Tượng “Sáng vào trong đất”,mà về cách trị người không soi, xét cùng cực mà dùng sự tối, rồi mới có thể dong người hào chúng. Người ta thân với mình mà đâu yên đó, thế là dùng sự tối cốt để cho sáng. Nếu tự dùng sự sáng của mình, không gì không xét, thì tự mình không thắng được sự giận ghét mà không có đức khoan hậu bao dung, lòng người xa lìa ngờ vực không yên, thế là lỗi đạo trị người, chỉ để thành ra không sáng mà thôi.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Lôi Hỏa Phong
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Phong-Bội thu lớn, vận đang phát, sự nghiệp thành công, lên đỉnh sẽ xuống, đề phòng gặp họa. Nếu hành động thì đạt kết quả lớn. Hành động chính trực thì mọi việc sẽ thành công.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: có điều kiện thuận lợi, mọi việc xuôi thuận không chủ quan
● Hy vọng: được như ý nếu ước muốn vừa sức
● Tài lộc: đầy đủ
● Sự nghiệp: phát triển mạnh
● Nhậm chức: không như ý, thất vọng
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề
● Tình yêu: sẻ chia tay nhau
● Hôn nhân: thành lương duyên, nhưng gặp nhiều điều tiếng
● Đợi người: đang tới
● Đi xa: có chuyến đi vui vẻ
● Pháp lý: ban đầu có lợi cho mình, sau ngược lại
● Sự việc: có thể giải quyết êm đẹp
● Bệnh tật: thuyên giảm
● Thi cử: đạt kết quả tốt
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: có tin về người đi xa
Quẻ: Lôi Hỏa Phong - Chấn trên; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Phong, Tự quái nói rằng: Được chỗ về ắt lớn, cho nên tiếp quẻ Phong [1-Chữ 豐 (Phong) có nghĩa là thịnh, là giàu, là lớn lao]. Loài vật về họp, ắt thành sự lớn, cho nên sau quẻ Qui muội, tiếp đến quẻ Phong. Phong là nghĩa thịnh lớn. Nó là quẻ Chấn trên Ly dưới. Chấn là động, Ly là sáng, lấy sự sáng mà động, động mà sáng được, đều là cách làm đến cuộc thịnh. Sáng đủ để soi, động đủ để hanh, rồi mới đem đến được cuộc thịnh lớn.
LỜI KINH
Dịch âm.- Phong hanh, vương cách chi, vật ưu nghi nhật trung.
Dịch nghĩa. - Quẻ Phong hanh thông, vua đến đấy, chớ lo, nên mặt trời giữa.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phong là thịnh lớn, nghĩa nó vẫn hanh thông. Làm cho tột bậc sang lớn ở gầm trời, chỉ đấng vương giả có thể được thế. Đến là tột bậc vậy. Cao đến như ngôi trời, giàu đến như bốn bể, nhiều đến như các loài, lớn đến như đạo vương, làm cho cùng tột đạo thịnh, chỉ có đấng vương giả. Trong thời thịnh, nhân dân đông nhiều, các vật thịnh vương, trị chúng há dễ? Việc đó vẫn đáng lo lắng, phải nên như mặt trời giữa trưa, sáng rõ soi rộng, không đâu không tới, rồi mới không lo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Phong là lớn, lấy sức sáng mà động, tức là cái thế
thịnh lớn, cho nên lời Chiêm của nó có đạo hanh thông. Nhưng đấng Vương giả tới bậc đó, thịnh cực sẽ suy, có cách đáng lo, thánh nhơn cho rằng lo suông vô ích, hễ biết giữ thường, chẳng đến quá thịnh thì được, cho nên răn rằng: “Chớ lo, nên mặt trời giữa”.
LỜI KINH
Dịch âm.- Thoán viết: Phong đại dã, minh dĩ động; cố phong; vương cách chi, thượng đại dã; vật ưu, nghi nhật trung, chiếu thiên hạ dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: thịnh là lớn vậy; sáng và đông cho nên thịnh; vua đến đó, chuộng lớn vậy; chớ lo, nên mặt trời giữa, soi gầm trời vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Phong là nghĩa thịnh lớn. Ly sáng mà Chấn động, sáng và động giúp nhau mà thành thịnh lớn. Kẻ làm vua có đất rộng đến bốn bể, dân nhiều hàng triệu, tức là cùng tột sự lớn ở gầm trời, cho nên cái đạo thịnh lớn, chỉ có kẻ làm vua đem đến được. Cái của họ có đã lớn; thì đạo trị những cái ấy, giữ những cái ấy cũng phải lớn. Cho nên điều của kẻ làm vua vẫn chuộng, là điều rất lớn. Cái của họ có đã rộng, cái của họ trị đã nhiều, thì nên lo rằng không thể tới khắp, phải sáng rõ như mặt trời giữa trưa, soi khắp gầm trời, không đâu không tới, thì mới khỏi lo.
LỜI KINH
Dịch âm.- Nhật trung tắc trắc, nguyết doanh tắc thực; thiên dịa doanh hư dữ thì tiêu tức, nhi huống ư nhân hồ? Nhi huống ư quỷ thần hồ?
Dịch nghĩa. - Mặt trời giữa thì dé, mặt trăng đầy thì khuyết trời đất đầy rỗng, cũng thì cùng tiêu sinh, mà phương chi với người? Phương chi với quỷ thần?
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Trên đã nói sự tột bậc của cuộc phong, thịnh đây lại tỏ rằng: Khó giữ được nó thường thường như thế để răng người ta mà rằng: Mặt trời giữa là thịnh cực rồi thì phải dé tối; mặt trăng đầy tròn thì phải vơi thiếu, sự đầy rỗng của trời đất, còn theo thời mà tiêu sinh, huống chi người và quỷ thần? Tiêu sinh nghĩa là tiến lui, vận của trời, cũng phải theo thời mà tiến lui. Quỷ thần là dấu của tạo hóa, với sự thịnh suy của muôn vật, có thể thấy sự tiêu sinh của quỷ thần.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lại phát minh cái ý ở ngoài lời quẻ nói là không thể quá mực giữa vậy.
LỜI KINH
Dịch âm.- Tượng viết: Lôi điện giai chí, Phong, quân tử dĩ triết ngục trí hình.
Dịch nghĩa. - Sấm chớp đều đến là quẻ Phong. Đấng quân tử coi mà bẻ ngục đến hình.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Sấm chớp đều đến, tức là sự sáng và sự động cùng đi; hai thể hợp nhau, cho nên nói là “đều đến”. Sự sáng và sự động giúp nhau thành ra tượng thịnh, Ly là sáng, tức là Tượng soi xét; Chấn là động, tức là Tượng oai đoán. Bẻ ngục [2-Tức là xét án] phải soi cho đến tình thật, chỉ có sáng suốt mới có thể tin. Đến hình [3-Tức là ghép vào tội] là ra oai với kẻ gian tà, phải quyết đoán mới được.
Cho nên đấng quân tử coi Tượng sấm chớp sáng động để mà bẻ ngục đến hình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Là lấy về Tượng “oai và sự sáng cùng đi với nhau”.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Trạch Hỏa Cách
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Cách- Cải cách, đổi mới. Nguy cơ là cơ hội, dũng cảm sáng tạo xoay chuyển tình thế. phải chứng minh khả năng của bản thân mình và phải qua thời gian thử thách thì mới lấy được lòng tin của mọi người, việc mình mới thành.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: phải thay đổi phương pháp và ý định thì mới đạt mục đích. Không đi quá khả năng của mình thì việc mơi yên.
● Hy vọng: chưa thấy, xem lại mục tiêu của mình.
● Tài lộc: có, nhưng phải thay đổi phương pháp hành động.
● Sự nghiệp: chưa thành vì chưa có mục tiêu hành động.
● Nhậm chức: phải chuyển đến nơi khác mới có chức vị.
● Nghề nghiệp: chuyển nghề có lợi.
● Tình yêu: có thể tiến tới.
● Hôn nhân: phải tìm đối tượng khác.
● Đợi người: không đến.
● Đi xa: có thể đi xa.
● Pháp lý: thay luật sư, có thể thắng.
● Sự việc: hành động tích cực mới thành.
● Bệnh tật: bệnh có biến chứng hoặc đột phát.
● Thi cử: ngược với mong đợi.
● Mất của: khó tìm.
● Người ra đi: người ra đi luôn thay đổi địa chỉ.
Quẻ: Trạch Hỏa Cách - Đoái trên ; Ly dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Quẻ Cách Tự quái nói rằng: Đào giếng không thể không đổi, cho nên tiếp đến quẻ Cách [1-Chữ (cách) nghĩa là cải cách, thay cũ đổi mới]. Giếng là một vật chứa mãi thì dơ hỏng, đổi đi thì trong sạch, không thể không đổi, cho nên ở sau quẻ Tỉnh, tiếp đến quẻ Cách. Nó là quẻ Đoái trên Ly dưới, tức là trong chằm có lửa. Cách là biến đổi, nước lửa là giống làm tắt lẫn nhau, nước diệt lửa, lửa làm cạn nước, ấy là biến đổi cho nhau. Tính lửa bốc lên, tính nước chảy xuống, nếu có trái nhau mà đi, thì đi quẻ Khuê mà thôi. Nay lửa ở dưới mà nước ở trên, ấy là nói tới với nhau, khắc chế nhau, làm tắt dứt nhau, vì vậy là cách. Lại, hai con gái cùng ở, mà chỗ về khác nhau, chí không giống nhau, tức là không tương đắc với nhau, cho nên là Cách.
LỜI KINH
Dịch âm. - Cách, dĩ nhật nãi phu, nguyên hanh lợi trinh, hối vong.
Dịch nghĩa. - Quẻ Cách, hết ngày bèn tin, cả hanh lợi trinh, ăn năn mất.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Cách là đổi cái cũ, đổi cái cũ thì người ta chưa chịu tin ngay, cho nên phải đợi hết ngày, lòng người mới tin theo “Cả hanh lợi trinh, ăn năn mất” là sao? Có hỏng nát mới phải thay đổi, mà thay đổi là để làm cho hanh thông, cho nên, đổi đi mà có thể cả hanh, đổi đi mà lợi về chính đạo, thì có lâu dài mà được cái nghĩa “bỏ cũ”, không phải ăn năn về sự biến động, thế là “ăn năn mất”. Đổi thay mà không ích lắm, còn đáng ăn năn, huống chi đổi thay mà lại có hại. Vì vậy, cố nhân mới coi việc cải cách là việc quan trọng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cách là biến đổi, chằm Đoái ở trên, lửa Ly ở dưới, lửa cháy thì nước cạn, nước vỡ thì lửa tắt. Hai gái nhỡ và nhỏ hợp làm một quẻ, mà gái nhỏ ở trên, gái nhỡ ở dưới, chí không tương đắc với nhau, cho nên quẻ nó là Cách. Lúc mới biến cách người ta chưa tin, cho nên mới đợi hết ngày mới tin. Lại vì bên trong mà đức văn vẻ sáng sủa, bên ngoài có vẻ hào vui đẹp lòng, cho nên lời Chiêm của nó là hễ có thay đổi thì đều cả hanh, mà được chính đạo, những sự thay đổi xứng đáng mà sự ăn năn về cái thay đổi đó đều mất. Nếu có gì bất chính, thì việc thay đổi không được ai tin, không thể hanh thông, lại có ăn năn nữa.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Trịnh Đông Hương giải nghĩa quẻ Cách, cho là hỏa lò. Giải vậy cũng hay. Hào Đầu là đáy lò, hào Hai là mặt lò, hào Ba, hào Tư, hào Năm là chỗ lưng lò, hào Trên là miệng lò. Trong quẻ, muốn xem đến nơi đến chốn, cần phải xem gồm cả Tượng, có điều Tượng đã thất truyền mất rồi. Trịnh Đông Hương là người chuyên lấy về Tượng, như bảo quẻ Đỉnh là cái vạc, quẻ Cách là cái lò, quẻ Tiểu quá là con chim bay, cũng đủ nghĩa lý, ngoài ra còn nhiều chỗ hay, nhưng cũng có chỗ bịa tạc.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Cách, thủy hỏa tương tức, nhị nữ đồng cư, kỳ chí bất tương đắc, viết Cách.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Cách, nước lửa làm tắt lẫn nhau, hai con gái cùng ở, mà bụng dạ không hợp nhau, gọi rằng Cách.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Chằm và lửa làm tắt dứt nhau, lại hai con gái bụng dạ không hợp nhau, cho nên là Cách. Chữ “tức” nghĩa là thôi tắt, lại là sinh đẻ, loài vật phải có thôi tắt rồi mới sinh đẻ. Chữ “tương tức” trong quẻ Cách thì là thôi tắt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy tượng quẻ thích nghĩa tên quẻ đại lược cũng giống quẻ Khuê, nhưng trái nhau là quẻ Khuê, mà làm tắt nhau thì là quẻ Cách. Tức là dứt tắt, lại là nghĩa sinh đẻ, có đứt mà sau mới sinh đẻ được.
LỜI KINH
Dịch âm. - Dĩ nhật nãi phu, cách nhi tín chi.
Dịch nghĩa. - Hết ngày bèn tin, đổi mà tin đó.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Việc mới thay đổi, nhân dân đâu đã tin ngay? Ắt phải hết ngày rồi họ mới tin. Kẻ ở trên, trong khi cải cách, cần phải tuyên cáo rành rọt, nhắc lại mệnh lệnh, cho đến hết ngày, khiến người ta tin. Lòng người không tin, khó mà bắt họ làm gương, không thể thành công. Chính lệnh của tiên vương, có khi lúc đầu lòng người còn ngờ, nhưng chẳng bao lâu rồi họ ắt tin. Dân không tin mà nên được cuộc thiên trị, thì chưa từng có.
LỜI KINH
Dịch âm. - Văn minh dĩ duyệt đại hanh dĩ chính, cách nhi đảng, kỳ hối nãi vong
Dịch nghĩa. - Văn vẻ sáng sủa và đẹp lòng, cả hanh và chính, đổi mà xứng đáng, sự ăn năn ấy mới mất.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây lấy tài quẻ mà nói về đạo thay đổi. Ly là văn vẻ sáng sủa, Đoái là đẹp lòng, văn vẻ sáng sủa thì không lẽ gì không nết, không việc gì không xét, đẹp lòng thì người hòa thuận, thay đổi mà soi xét được sự lý, hòa thuận được lòng người thì có thể đem đến sự cả hanh mà được trinh chính, nếu thế thì việc biến cách được xứng đáng, cho nên sự ăn năn phải mất. Việc trong thiên hạ, thay đổi không phải đạo, thì sẽ lại đến tệ hại, cho nên việc thay đổi có thể phải ăn năn, chỉ có thay đổi rất xứng đáng, thì sự ăn năn mới cũ đều mất.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thiên địa cách nhi tứ thì thành, Thang Vũ cách mệnh, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân, Cách chi thì đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Trời đất đổi mà bốn mùa nên; vua Thang vua Vũ đổi mệnh thuận với trời mà ứng với người, thì của quẻ Cách lớn vậy thay!
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Đây là suy rộng đạo đổi, cùng cực cho đến trời đất biến đổi, bốn mùa đầu chót vậy. Trời đất Âm Dương dời dịch thay đổi mà thành bốn mùa, muôn vật nhờ đó mà đẻ ra, lớn lên, thành hình, chót đời, vật nào được sự thích nghi của vật ấy, đó là “đổi mà bốn mùa thành”. Thì vận đã hết, ắt nó thay đổi cho mới ra đấng vương giả dấy lên, chịu mệnh ở trời, cho nên đổi đời gọi là “đổi mệnh”. Vua Thang vua Vũ làm nên nghiệp vua, trên thì thuận với mệnh trời, dưới thì ứng lòng người, đó là “thuận với trời mà ứng với người”. Đạo trời biến cải, cuộc dời lần dời, ấy là việc lớn trong sự thay đổi, cho nên khen rằng “thì của quẻ Cách lớn vậy thay”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Tượng viết: Trạch trung hữu hỏa, cách, quân tử dĩ trị lịch minh thì.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong chằm có lửa, là quẻ Cách. Đấng quân tử coi đó mà trị lịch rõ mùa.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. - Nước lửa làm tắt lẫn nhau là quẻ Cách. Cách là thay đổi, đấng quân tử coi Tượng thay đổi, suy xét sự dời dịch của mặt trời mặt trăng ngôi sao, vì sao, để làm lịch số, tỏ rõ thứ tự của bốn mùa. Ôi, trong đạo biến đổi, việc rất lớn, lẽ rất rõ, dấu rất rệt, chẳng gì bằng bốn mùa, xem bốn mùa mà thay đổi theo đó, thì sẽ hợp thứ tự với trời đất vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bốn mùa là cuộc thay đổi lớn.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Thủy Hỏa Ký Tế
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Ký tế- Thịnh biến suy. Sự việc cũ đã thành- Hiện cát, rễ Hung, quẻ 6 hào, cương nhu đều đủ, quá hoàn chỉnh. Rất cần xác định mục tiêu mới. Giảm bớt tham vọng. công việc phải hoàn thành đến cùng mới đạt kết quả mong muốn. Cần đề phòng lúc đầu thuận lợi, nhưng kết cục lại nhiều rắc rối.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Ly-Đẹp, Mắt, là lửa, là ngày, là điện, là trung nữ, là mũ của lính ngày xưa, là binh khí. Khi là người bụng to, là quẻ càn (ở đây: “quẻ càn là quẻ có ý khô). Là ba ba, là cua, ngọc trai, là rùa. Khi cây là cây cành khô”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: mọi việc thuận lợi. Nếu sau đó có xu hướng sa sút thì nên dùng lại
● Hy vọng: nếu ước vọng sẽ thành hiện thực
● Tài lộc: tạm đủ
● Sự nghiệp: hiện tại tốt, sau đó có thể suy vi
● Nhậm chức: khó xong
● Nghề nghiệp: nếu chuyển nghề, lúc đầu bình thường sau đó tốt
● Tình yêu: sau một thời gian gắn bó, sau lại chia tay
● Hôn nhân: bình thường
● Đợi người: chưa đến
● Đi xa: nên thay đổi thời gian đi
● Pháp lý: tốt nhất là hòa giải
● Sự việc: có thể giải quyết xong
● Bệnh tật: chậm thuyên giảm
● Thi cử: bình thường
● Mất của: khó tìm
● Người ra đi: người ra đi chưa biết ở đâu
Quẻ: Thủy Hỏa Ký Tế - Khảm trên; Ly Dưới
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Quẻ Ký Tế, Tự quái nói rằng: Có qua vật ắt phải sang, cho nên tiếp đến quẻ Tế [1-Chữ 既濟 (ký tế) nghĩa là sang sông, đã nên việc, hay đã xong việc]. Qua được với vật, ắt có thể sang, cho nên sau quẻ Tiểu Quá đến quẻ Ký Tế. Nó là quẻ nước ở trên lửa, nước lửa giao nhau, thì thành công dụng. Vật nào xứng đang sự dùng của vật ấy, cho nên là đã sang, tức là cái thì muốn việc thiên hạn đã nên vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. – Ký Tế hanh, tiểu lợi trinh, sơ cát, chung loạn.
Dịch nghĩa. – Quẻ ký tế hanh, nhỏ lợi về chính bền, đầu tốt, chót loạn.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trong thì đã sang, cái lớn đã hanh thông rồi, cái nhỏ còn chưa hanh thông. Tuy là trong thì đã sang, không thẻ không có cái nhỏ chưa hanh thông. Chữ “nhỏ” ở duwois, lời nói lên thế. Nếu nói”nhỏ hanh” thì sự hanh thông nho. Lợi về chính bền là vì ở thì sang, lợi ở gìn giữ bằng cách chinh bền. Đầu tốt là lúc đương sang, chót loạn là tại sang đà dùng cực thì phải trái lại.
Bản nghĩa của Chu Hy. – Đã sang là việc đã nên. Nó là quẻ nước lửa giao nhau, thứ nào được dùng của thứ ấy. Ngôi của sau hào đều được chính đinh, cho nên đã sang. Chữ “hanh nhỏ” nên đổi ra làm “nhỏ hanh”. Đại đẻ quẻ này và lời Chiêm của sau hào đều có ý răn dỗ, thì nên thế vậy.
LỜI KINH
Dịch âm. – Thoán viết:Ký tế hanh, tiểu giả hanh dã.
Dịch nghĩa. – Lời Thoán nói rằng: Quẻ Ký tế hanh, cái nhỏ hanh vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Dưới chữ 濟 (tế) ngờ sót chữ ⼩ (tiểu).
LỜI KINH
Dịch âm. – Lợi trinh, cương nhu chính nhi vị đáng dã.
Dịch nghĩa. – Lợi về chính bền, cứng mềm chính mà ngôi đáng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Trong thì đã sang, cái lớn chỉn đã hanh thông rồi, chỉ có cái nhỏ chưa hanh thông. Thì đã hanh thông, chỉn nên chính bền mà giữ. Tài quẻ cứng mềm cứng đáng với ngôi của nó đang ngôi là sự thường, đó tức là nghĩa chính bên, lời về nết chinh, như thế, Âm Dương đều được chính ngôi, cho nên mới là đã sang.
LỜI KINH
Dịch âm. – Sơ cát, nhu đắc trung dã; chung chỉ tắc loạn, kỳ đạo cùng dã.
Dịch nghĩa. – Đầu tốt, mềm được giữa vậy; chót đậu thì loạn, thửa đạo cùng vậy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Hào Hai là chất mềm thuận, văn vẻ, sáng lang mà được chỗ giữa, cho nên mới làm nên công “đã sang”. Hào hai ở thể duwois, là lúc đầu cuộc “đương sang” mà lại khéo xư, cho nên mới tốt. Việc trong thiên hạ, không tiến thì lùi, không có cái lẽ nhất định. Đến chót cuộc sang, chẳng tiên mà đâu, tức là sự đậu bất thường, suy loạn đến rồi, vì là đạo nó đã cùng cực rồi. Tài hào Chín Năm, không phải không hai, chỉ vì thời cực, đạo cùng, lẽ ắt phải biến.
LỜI KINH
Dịch âm. – Tượng viết: Thủy tại hỏa thượng, Ký tế, quan tử dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi.
Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Nước ở trên lửa là quẻ Ký tế, đáng quan tử coi đó để nghĩ sự lo mà ngừa sẵn đấy.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di. – Nước lừa đã giao nhua, thứ nào được dùng của thứ ấy, tức là đã sang. Gặp thì “đã sang”. Chỉ sợ vạ hại sinh ra, cho nên nghĩ cách ngừa sẵn đi, khiên cho không đến phải lo. Từ xưa thiên hạ yên rồi mà lại đến phải vạ loạn, đều tại không biết lo nghĩ mà ngừa sẵn cả.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Thuỷ Lôi Truân
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
-Vạn sự khởi đầu nan, có cầu vồng sau mưa: Chỉ sự gian nan điển hình do mọi việc bắt đầu, nhiều trắc trở. Muốn thành công phải ngay chính, đừng tiến vội. Khi hành động cần có người tốt giúp đỡ sẽ thành đạt. bên cạnh cơ hội, có hiểm nguy, tiến hành từng bước, cần chọn bạn cùng thực hiện, chấp nhận sự giúp đỡ của người khác. Cần ý trí kiên cường mới lên sự nghiệp.
- Chấn-Động, Chân, là sấm, là rồng, là huyền hoàng, là bố thí, là đường lớn, là dài, là quyết đoán, là tre non, là lau sậy. Nếu là ngựa kêu là giỏi, là ngựa có chân trái sau màu trắng, là ngựa bước nhanh, là ngựa có đám trắng ở trán. Còn nữa là ngũ cốc, là củ. Cuối cùng là mạnh, là tươi thơm”.
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: hiện đang ở thời kỳ khó khăn nhất. Nhẫn nại chờ thời thì tốt. Nên nhờ phía trên giúp.
● Hy vọng: khó đạt
● Tài lộc: khó có
● Sự nghiệp: hiện còn khó khăn, có thể sau này thành công. Đề phòng bỏ cuộc giữa chừng.
● Nhậm chức: chưa như ý.
● Nghề nghiệp: nên làm nghề cũ, không nên đổi nghề.
● Tình yêu: không như ý.
● Hôn nhân: tranh chấp lâu dài
● Đợi người: không tới.
● Đi xa: gặp rắc rối, không nên đi.
● Pháp lý: khó hoà giải.
● Sự việc: nôn nóng thì sự việc phức tạp thêm.
● Bệnh tật : ốm nặng.
● Thi cử: chưa đủ thực lực.
● Mất của: ở ngay trong nhà, tìm ra.
● Người ra đi: muốn đi nơi khắc, khó như ý.
Quẻ: Thủy Lôi Truân - Khảm trên; Chấn dưới
Truyện của Trình Di - Quẻ Truân, Tự quái nói rằng: Có trời đất, rồi sau muôn vật mới sinh. Đầy trong trời đất, chỉ có muôn vật, cho nên tiếp đến quẻ Truân; truân là đầy, truân là muôn vật mới sinh. Muôn vật mới sinh, uất kết chưa thông, cho nên thành ra đầy tắc ở trong trời đất; đến khi nó đã vọt tốt, thì ý đầy tắc mất rồi. Trời đất sinh ra muôn vật, quẻ truân là tượng các vật mới sinh, cho nên nối sau hai quẻ Kiền Khôn. Nói về hai tượng, thì mây [1-Tức là Khảm], sấm [2-Tức là Chấn] nổi lên, ấy là Âm Dương mới giao; nói về hai thể thì Chấn mới giao ở dưới, Khảm mới giao ở giữa, Âm Dương giao nhau mới thành mây sấm. Âm Dương mới giao mây sấm ứng nhau mà chứa thành mưa, cho nên là truân; nếu đã thành mưa thì là giải rồi. Lại động [3-Chỉ về Chấn] ở trong hiểm [4-Chỉ về Khảm] cũng là nghĩa truân, Âm Dương không giao nhau là Bỉ, Âm Dương mới giao nhau mà chưa xướng là Truân, về thì vận, thì nó là lúc thiên hạ gian truân, chưa được hanh thái.
LỜI KINH
Dịch âm. - Truân nguyên hanh lợi trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.
Dịch nghĩa. - Truân đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền, chớ dùng có thửa đi, lợi về dựng tước hầu.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Quẻ Truân có cách cả hanh, mà ở vào đó thì lợi ở chính bền. Không chính bền lấy gì để qua lúc truân? Lúc truân chưa thể có thửa đi. Thiên hạ đương truân, há rằng sức một người nào có thể làm cho qua được? Ắt phải rộng nhờ về sức giúp đỡ, cho nên lợi về việc dựng nước hầu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chấn, Khảm đều là tên quẻ ba vạch. Quẻ Chấn một hào Dương động ở dưới hai hào Âm, cho nên, tính nó là động, tượng nó là sấm. Quẻ Khảm, một hào Dương hãm ở giữa hai hào Âm, cho nên tính nó là hãm, là hiểm, tượng nó là mây, là phương Nam, là nước. Truân là tên quẻ sáu vạch, nghĩa nó là khó, tức là cái ý vật mới mọc mà chưa thông đạt,cho nên chữ 屯 (truân) do ở chữ ⼬中 (thảo) mà ra, giống như mầm có dùi đất mới mọc mà chưa duỗi thẳng. Quẻ này là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm, cho nên tên nó là Truân, Chấn động ở dưới, Khảm hãm ở trên, còn động được chăng? Trong chỗ hiểm mà còn động được, tuy có thể hanh thông, mà ở chỗ hiểm, thì nên giữ đường ngay thẳng, chưa thể vội tiến, cho nên bói được quẻ này, thì lời chiêm là cả hanh và lợi về đường ngay thẳng, mà chưa nên vội có thửa đi. Lại: hào Chín Năm Dương ở dưới Âm mà là chủ sự làm quẻ, đó là cái nghĩa hiền nhân chịu nhường người ta mà được lòng dân có thể làm vua. Cho nên hễ bói về việc dựng vua, gặp quẻ này thì tốt.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Hỏi rằng: Quẻ Truân lợi về sự dựng nước hầu. Lời chiêm ấy với câu “lợi về sự thấy người lớn” ở quẻ Kiền có đồng lệ không? Đáp rằng: Có. Đó cũng là chỉ đại khái như thế. Nếu mà tự bói việc làm vua, thì dựng tước hầu là mình, nếu bói việc lập vua, thì dựng tước hầu là chỉ về vua. Chỗ đó lại xem rõ cái duyên mình gặp thế nào. Kinh Dịch không phải là thứ văn tự trói chặt. Cho nên nói rằng: “Không thể dùng làm điển yếu”.
LỜI KINH
Dịch âm. - Thoán viết: Truân, cương nhu thủy giao nhi nạn sinh, động hồ hiểm trung, đại hanh trinh, lôi vũ chi động mãn doanh. Thiên tạo thảo muội, nghi kiến hầu nhi bất ninh.
Dịch nghĩa. - Quẻ truân, cứng mềm mới giao nhau mà nạn sinh, động ở trong chỗ hiểm, cả hanh trinh, sấm mưa động đến đầy rẫy. Vận trời bối rối, mờ tối, nên dựng tước hầu, mả chớ cho là yên.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Nói về hai tượng mây sấm, thì là mềm cứng mới giao nhau. Nói về hai thể Chấn Khảm thì là động ở trong chỗ hiểm. Cứng mềm mới giao nhau mà chưa thông xưởng thì phải gian truân, cho nên nói là “nạn sinh”. Lại “động trong chỗ hiểm”, cũng là nghĩa gian truân. Cái mà gọi là “cả hanh và trinh” tức là sấm mưa động đến đầy dẫy. Âm Dương mới giao nhau thì còn gian truân chưa thể thông xướng, tới khi tràn hòa lan khắp thì thành sấm mưa đầy dẫy trong khoảng trời đất, sinh vật mới được thỏa thê, đó là Truân có cách cả hanh. Sở dĩ có thể cả hanh là do ở trinh. Nếu không chính bền, thì sao ra khỏi cảnh Truân? Người ta ở vào cảnh Truân có cách làm cho cả hanh cũng là do ở chính bền. Thiên tạo chỉ về thì vận, thảo là rối loạn,không có trật tự, là mờ tối không sáng, gặp thì vận đó, nên gây dựng kẻ giúp đỡ, thì có thể qua được cảnh Truân. Tuy dựng tước hầu để giúp cho mình, nhưng mà cũng nên siêng năng lo sợ, không dám ở yên, đó là lời răn sâu sa của thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu dùng hai thể để thích nghĩa tên quẻ, mới giao là Chấn, nạn sinh là Khảm. Câu thứ hai dùng đức của hai thể để thích lời quẻ: động là việc của thể Chấn, hiểm là đất của thể Khảm. Từ đó trở xuống, thích về nguyên hanh lợi trinh, bèn dùng ý gốc của Văn Vương. Câu “sấm mưa” dùng tượng hai thể để thích lời quẻ. Sấm là tượng của Chấn, mưa là tượng của Khảm. Thiên Tạo như nói thiên vận, thảo muội tức là rối loạn tối tăm. Âm Dương giao nhau mà sấm mưa nổi lên, những cảnh tạp loại, tối tăm đầy dẫy trong hai khoảng (trời đất). Thiên hạ chưa định, danh phận chưa rõ, nên lập vua để thống trị, chưa thể vội cho là lúc yên ổn. Chỗ này không dùng nghĩa của hào Chín Đầu, là vì sự dùng nghĩa có nhiều mối, đây cũng là dùng về một mối của nó.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Sấm mưa động đến đầy dẫy, cũng là cái ý uất tắc, “Vận trời rối loạn mờ tối nên dựng nước hầu mà chẳng cho là yên” là do Khổng Tứ phát minh riêng ra một lẽ. Ý nói: Đương lúc rối ren đó, không thể không có ông vua, cho nên phải lập vua, rút lại vẫn không thể cho dựng ra tước hầu là xong, phải tự lấy làm không yên mới được. Bởi vì mới động mà gặp chỗ hiểm thánh nhân thấy cỏ tượng ấy nên mới nhân đó mà đặt lời răn.
LỜI KINH
Dịch âm, - Tượng viết: Vân lôi Truân, quân tử dĩ kinh luân.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Mây sấm là quẻ Truân, đấng quân tử coi đó mà sửa sang thiên hạ.
GIẢI NGHĨA
Truyện của Trình Di - Quẻ Khảm không nói là mưa mà nói là mây vì mây tức là mưa mà chưa thành; chưa từng mưa cho nên là truân. Đấng quân tử coi tượng quẻ Truân, sửa sang việc thiên hạ để qua lúc truân nan.
Bản nghĩa của Chu Hy, - Quẻ Khảm không nói nước mà nói mây, là ý chưa được hanh thông. Kinh luân là công việc làm tơ, kinh là kéo, luân là gỡ. Cái đời truân nàn là lúc quân tử có thể làm việc.
Lời bàn của Tiên Nho. - Ngô Lâm Xuyên nói rằng: “Quân tử trị đời như làm tơ. Muốn gỡ sự rối bời, cũng như lúc truân muốn giải sự uất kết. Kinh là tóm các mục nó làm một mà sau chia ra, giống như tiếng sấm do một mà chia: luân là gỡ các mối nó làm hai mà sau hợp lại, giống như tiếng sấm tự hai mà hợp lại.
+ Mời xem chi tiết: TẠI ĐÂY
Tổng quan: Thủy Trạch Tiết-LH
(Lời Thoán của Văn Vương và Khổng Tử. Đọc đã biết được quá nửa Cát Hung)
Tiết- Nghệ thuật tiết chế, điều chỉnh. Chừng mực là nguồn hạnh phúc. Lượng sức được viên mãn. mọi hành động đều phải vừa mức thì mới đạt kết quả
- Khảm-Chìm vào; Tai, là nước, là mương rãnh, là ẩn phục, là nắn day, là xe cộ. Khi là người là thêm lo, là bệnh tim, là đau tai, là quẻ huyết, là đỏ. Nếu là ngựa là sống lưng đẹp, là nóng long, là có chân mỏng, là nước chảy trên mặt đất. Khi là xe là xe ngựa, là thông suốt, là tháng, là ăn cướp. Khi là cây là lõi gỗ cứng.
- Đoài-Vui vẻ; Miệng, là trạch, là thiếu nữ, là người làm bói toán, làm thuốc, là cãi vạ, là gãy nát, là rung cây cho quả rơi xuống. Khi là đất thì là đất khô cứng. Là thiếp, là dê”.
GIẢI ĐOÁN:
● Thế vận: có nhiều việc thuận lợi. Đề phòng chủ quan nóng vội và quá tự tin mà hỏng việc
● Hy vọng: nôn nống kỳ vọng thì khó như ý
● Tài lộc: có nhưng sau một thời gian nữa
● Sự nghiệp: sau một thời gian mới phát triển mạnh
● Nhậm chức: hiện chưa như ý, sau có chức vị cao
● Nghề nghiệp: không nên chuyển nghề